Phạm Thị Hoài's Blog, page 3
January 17, 2022
Trần Dần – Ghi 1954-1960
Ghi chú cho lần tái bản năm 2022

Từ lần xuất bản đầu tiên và duy nhất năm 2001, cuốn sách đã tuyệt bản này là nguồn tư liệu vô giá về một giai đoạn dày đặc biến động của lịch sử Việt Nam thế kỷ 20. Đọc lại những ghi chép của nhà thơ Trần Dần (1926-1997) về thời kì Cải cách Ruộng đất và Nhân văn-Giai phẩm, tôi vẫn kinh ngạc bởi sự thành thực tận cùng, thành thực đến tàn nhẫn khắc nghiệt, của ông với chính bản thân mình. Cuộc vật lộn của ông với thời đại không phải chỉ là một bi kịch từ vị thế nạn nhân mà đa tầng, đa diện hơn nhiều: Ông cũng là một tác nhân và trước hết là một chứng nhân lỗi lạc, với một khả năng quan sát, phân tích, ghi nhận, diễn đạt hiếm có và một lí tưởng sục sôi cháy bỏng với nghệ thuật văn chương.
Ghi 1954-1960 của Trần Dần được tái bản đúng dịp tưởng niệm 25 năm ngày ông qua đời. Tôi đã biên tập và hiệu đính bản in năm 2001, bổ sung một số chú thích và chỉnh sửa một số chi tiết căn cứ trên những hiểu biết ngày càng được mở rộng trong thời gian qua, hi vọng có thể chính thức thay thế những phiên bản trôi nổi không rõ nguồn gốc trên mạng.
Tôi tin rằng Trần Dần rất vui lòng thấy cuốn sách này trở thành sở hữu chung của cộng đồng độc giả tiếng Việt mà ông đã góp phần gây dựng bằng tài năng và số phận khác thường của mình.
Trần Dần- Ghi 1954-1960, bản PDF (517 trang, 3,75 MB) có thể tải miễn phí tại đây:
http://www.procontra.asia/wp-content/uploads/2022/01/Tran-Dan_Ghi-1954-1960_Ban-2022.pdf
hoặc trên Tủ sách Trẻ: https://tusachtre.com/
Berlin, 17/1/2022
Phạm Thị Hoài
December 3, 2021
Còn lại cuối ngày
Phạm Thị Hoài
Bạn bè và trang phục hóa ra không khác xa. Chúng ta thường đứng trước những tủ kệ xếp chật tình bạn để cuối cùng thấy mình không có gì để mặc. Để lao vào sắm tiếp giày dép, quần áo, khăn, túi, mũ, vớ và những phụ kiện linh tinh khác. Thứ nào cũng thiết yếu, trong cả những ngày bó gối ngồi nhà vì dịch bệnh, đi đổ rác là một sự kiện xứng đáng tô son mặc đầm. Thứ nào cũng kiến tạo diện mạo, bồi bổ dung nhan, dẫn lối trong một thế gian lầm lạc. Nếu cần một chỗ dựa, vịn khăn lụa mà đứng dậy những phút ngã lòng cũng không phù phiếm hơn nương vào một tình bạn ảo.
Bạn trên phây. Thời thơ ngây, tôi kết bạn trong một tích tắc. Tậu trang phục cũng trong một nút bấm để sờ đến chúng cùng lắm một lần trong đời. Rõ ràng tôi không cần 5000 chiếc váy để hạnh phúc. 500 cũng quá sức chịu đựng, có thể gây rối loạn nhân cách, dạng ái kỷ, dạng ám ảnh cưỡng chế, thậm chí dạng BPD. Có ngày tôi thử vài ba kiểu khổ sở rồi lại cởi bỏ để chọn đúng một trong vài thứ đã mặc đi mặc lại vừa ý. Có hôm tôi phát hiện mấy bộ cất kĩ cho những dịp đặc biệt chẳng bao giờ xảy ra, như những tình bạn phòng xa, dự trữ cho tình huống nào đó. Những tình bạn xếp xó. Những tình bạn người ta có, mình cũng phải có. Những tình bạn bỏ thì thương, nương thì tội. Những tình bạn khoác một lần là rách. Những tình bạn xỏ vào để thêm chút chiều cao dù chịu bao đau đớn. Những tình bạn choáng lộn ở kẻ khác, ta ướm vào trông như hề. Những tình bạn may đo, rất vừa một lúc để lúc sau đã xộc xệch. Những tình bạn như một bộ đồng phục, một điều ước trung lập an toàn. Những tình bạn khan hiếm và những tình bạn ế. Những tình bạn dè sẻn và những tình bạn hoang phí. Những tình bạn bị thanh lí ồ ạt như núi hàng thời trang đem đốt, nhà sản xuất phải giữ giá. Thị trường tình bạn cũng điên rồ và khắc nghiệt như thị trường thời trang.
Tôi luôn xót tình bạn hơn tình yêu. Tình yêu đã hiếm, tình bạn còn hiếm hơn. Tình yêu phi vụ lợi chỉ có trong tiểu thuyết, tình bạn phi vụ lợi ít ra cũng tồn tại trong nhóm có thu nhập tương đương. Tình bạn có thể lau những giọt nước mắt của ái tình và thậm chí thành ái tình, nhưng chiều ngược lại không bao giờ thành và những cuộc hôn nhân tan tành thường vì thiếu tình bạn chứ không phải vì không đủ tình ái. Tình bạn là một tình yêu trừ bớt đòi hỏi và cộng thêm lí trí. Tình yêu mua bằng tiền vẫn có chút giá trị, ít nhất cho một phía, tình bạn thì không. Tình yêu có thể đâm sau lưng nhưng tình bạn nếu đâm thì đâm thẳng từ trước mặt. Tình yêu có thể cần những chất bón khủng khiếp như ghen tuông, hạ nhục, khinh bỉ mà chỉ một giọt nhỏ là đủ làm tình bạn tiêu tan. Khoảng cách giữa bạn tình thường quá hẹp để đủ chỗ cho tình cảm len chân, giữa bằng hữu thì một đại dương không phải là quá lớn. Tình bạn rộng lượng, tình yêu chỉ tha thứ. Tình bạn cũng ghi sổ nhưng tình yêu thì tính nợ. Hai kẻ thù cùng săn một con mồi rất có thể làm bạn, hai tình nhân rất có thể thành những con mồi rồi thành kẻ thù.
Kết bạn với một người viết là chịu rủi ro lớn. Di sản của hai anh em nhà Goncourt, ngoài giải văn học lâu đời và danh giá nhất của Pháp do viện hàn lâm cùng tên trao tặng, là 7.000 trang nhật ký với trên dưới 5.000 nhân vật cùng thời, trong đó không ít là những bạn bè văn nghệ sĩ nổi tiếng: Từ người bạn thân nhất, Alphonse Daudet, với thói trụy lạc (“sống để dâm dật”) đến người bạn khá thân, Gustave Flaubert (“Thực ra cậu ta có chút gì đó tỉnh lẻ và khoe mẽ. Trí tuệ cũng thô và nhờn như cơ thể. Vô cảm trước những thứ tinh tế. Chỉ nhạy cảm với những trò làm màu. Nói chuyện chẳng có ý tưởng gì hay ho, nghĩ ra điều gì thì trình bày ầm ĩ trịnh trọng. Vụng về khủng khiếp, ì ạch trong mọi chuyện, lúc đùa cũng thế, lúc cường điệu cũng thế, lúc nhại ai cũng thế. Tính cách vui vẻ kiểu trâu bò hoàn toàn vô duyên.”), qua những nhà thơ quen sơ (“Thần tượng của giới trẻ bây giờ là ai? Baudelaire, Villiers de l’Isle-Adam, Verlaine – cả ba rõ ràng là có tài: một tay phóng túng bạo dâm, một gã nghiện rượu, một kẻ sát nhân đồng tính.”) hay một nữ sĩ lớp trước danh tiếng (“Cái sự mồm mép rỗng tuếch tên gọi George Sand này, vớ vẩn, thuần túy không là gì cả, duyên chẳng có trí tuệ cũng không.”). Trong vai những whistleblower của thế kỷ 19, họ ghi chép như bị quỷ ám, lưu giữ không kiêng nể, bật mí không chùn tay để cuối ngày còn lại chẳng ai dám hay muốn ngồi chung bàn họ nữa. Văn nghệ là bạn bè hội hè và văn nghệ là cô đơn. Không có gì bầy đàn mà đứng một mình và đứng bên lề xã hội hơn.
Tôi cũng từng hội hè. Cũng từng đề huề anh em văn nghệ một nhà, vặn hai chữ “mua vui” của cụ Nguyễn cho vừa những nhu cầu của tình huống. Cho đến lúc có phây-búc. Phây thị phi và gió tanh mưa máu. Phây xây bong bóng và mở cống xả. Phây sến sẩm, sặc sụa và sục sôi. Phây câu view và cầu like. Phây kết nối để chia rẽ và càng chia rẽ càng kiếm lời. Phây giải phóng để chiếm đóng thị trường ngôn luận. Phây mỗi ngày sống một cuộc xuống đường để phây hữu mỗi ngày một chết chìm trong đời ảo. Phây hút cạn và khạc nhổ giọt chất xám cần thiết cuối cùng để người ta đọc và hiểu nhiều hơn 1000 ký tự. Phây cho tất cả một cơ hội tham dự để phân rã xã hội thành từng búi lẻ loi bối rối. Phây xóa bỏ mọi biên giới để dựng những pháo đài cách âm. Phây mở đường cho đại đồng để nhân loại thả nổi những bản năng ghê răng nhất. Phây bênh vực sự thật để lan tỏa fake news. Phây minh bạch để đi đêm với những quyền lực hắc ám. Phây khai sáng để thao túng dư luận. Phây chặn những vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng để cộng đồng ngày càng tu luyện kỹ năng chỉ điểm. Phây chống gian lận để chúng ta ngang nhiên bán chác quảng cáo lừa đảo. Phây bảo mật cá nhân để chúng ta tự nguyện phơi bày mọi xó xỉnh riêng tư và đánh mất ý thức cuối cùng về ứng xử nơi công cộng. Phây mở rộng tầm với để thu hẹp tầm nhìn. Phây tương tác để khai thác nguồn tài nguyên khổng lồ là sự điên rồ của lòng ham hố và hỉ nộ sân si ái ố. Phây quảng bá tình yêu để thù hận nở rộ. Và thuật số của phây về tình bạn khiến tình bạn chỉ còn là một nút bấm, nhẹ khôn kham, dễ khôn cùng, vô nghĩa khôn kể.
Bi kịch của trên một trăm triệu người sử dụng tiếng Việt là không có nền tảng nào khả dĩ thay thế. Những người từng bị phây rút phép thông công chẳng những không bất bình ly khai mà chỉ mong ngày được “soi xét”, được “khôi phục”, được “cởi trói”, và trong khi nín nhịn chờ đợi thì lập thêm vài tài khoản mới để không phút nào phải xa phây. Ừ thì nó bê bối, nó độc hại, nó lợi nhuận bỉ ổi, nó kiểm duyệt, nhưng chiếc mề-đay nào chẳng có hai mặt và muốn thế nào nó cũng cung cấp một không gian độc lập tương đối và phương tiện kết nối trong một môi trường toàn trị. Muốn thế nào nó cũng hơn truyền thông quốc doanh. Điều này ứng với một hiện tượng văn chương: Joseph Brodsky không thực sự là nhà thơ của đám đông, nhưng một ẩn dụ rút từ bài “Gửi một người bạn ở Roma” của ông lại được truyền tụng rộng rãi ở nước Nga hậu cộng sản: với ông thì đứa ăn cắp vẫn dễ chịu hơn thằng hút máu. Người ta cũng bực bội khổ sở trước những ngón móc túi kiểu tư bản ở đó, một chủ nghĩa tư bản đến muộn nên vội vàng như chẳng kịp và bất chấp mọi giá trị; song thà như vậy còn hơn bị hút sạch xương tủy kiểu cộng sản như đã biết. Vậy thì để đồng tiền đè bẹp còn hơn bị kìm kẹp bởi hệ tư tưởng. Phây cũng bịt mồm nhưng không chặn ngõ nhà bạn. Phây treo tài khoản nhưng không tống bạn vào tù. Thà liếm gót đại tư bản Hoa Kỳ xịn còn hơn bó thân về với tiểu triều đình Đông Lào rởm.
Song hai mặt của tấm mề-đay phây ngày càng hòa làm một, quyền lực của siêu cường quốc tế với hai tỉ rưỡi thần dân này ngày càng vượt mọi tầm kiểm soát và xu hướng toàn trị của nó ngày càng rõ rệt. Đứa ăn cắp và thằng hút máu, độc tài thị trường và độc tài tư tưởng đang trở thành đồng minh. Ngày chúng ta một cổ hai tròng đã gần lắm. Và tình bạn, bạn trên phây, ở một thời đại dần hết thơ ngây để bước nhanh vào vòng u ám cũng không có gì xán lạn. Hai năm vừa rồi tôi đã chia tay nhiều người bạn. Phần lớn lặng lẽ, không đau thương, các bên thậm chí chẳng nhận ra mất mát. Có lẽ tôi không cần xót tình bạn hơn tình yêu: Một tình bạn có thể kết thúc là một tình bạn chưa bao giờ bắt đầu, còn tình yêu nhiều khi bắt đầu để kết thúc.
Vậy thì, xin tạm biệt
Bạn trên phây
Thời thơ ngây
Cuối ngày còn lại.
(Tuần báo Trẻ, 2/12/2021)
November 12, 2021
Trang, Ken, Vị
Phạm Thị Hoài
Tôi chưa được xem phim Vị của Lê Bảo, nhưng biết nó kể về một người đàn ông Nigeria bỏ lại đứa con trai nhỏ ở quê hương đến Việt Nam mưu sinh. Sự nghiệp cầu thủ xuất khẩu đứt ngang; anh sống cùng bốn người phụ nữ Việt trung niên và một con heo trong xóm nghèo Sài Gòn; sáu động vật hoang sơ cộng sinh, chung chạ và xa lạ trong một địa đàng ổ chuột trần truồng và trần trụi.
Một câu chuyện như thế chưa từng được kể. Người nước ngoài ở Việt Nam được kể khi làm doanh nhân, làm chồng người mẫu và hoa hậu; xoàng hơn cũng phải biết hát nhạc Trịnh, viết những bài dí dỏm hay ấm áp tình người bằng tiếng Việt chuẩn không cần chỉnh trên báo quốc doanh; Tây mang trái tim ta, Tây làm gương đi nhặt rác, Tây săn áo dài, Tây phải lòng Hà Nội, Tây nghiện nước mắm, Tây mê hầu đồng, mê phố cổ, mê cả tranh cổ động agitprop, và tất nhiên Tây sám hối Mỹ Lai, Tây hàn gắn vết thương, Tây phản tỉnh. Toàn Tây da trắng. Tây cơ nhỡ đi bán chuối chiên hay cầm bảng xin tiền cũng da trắng: Cộng đồng không dậy sóng rủ lòng với da đen. Da đen, với người Việt là nhọ, hôi, lười, lừa và ma túy, cả cái của quý huyền thoại cũng chỉ dành cho các mẹ hết đát khát tình. Và da đen ở Việt Nam là Nigeria.
Nhà văn Nigeria tôi đọc trước hết không phải là Wole Soyinka, người Châu Phi đầu tiên nhận Giải Nobel Văn chương mà chúng ta năm nào cũng hỏi đúng một câu bao giờ mình đến lượt. Mà là Ken Saro-Wiwa, tác giả cuốn tiểu thuyết phản chiến phi thường Sozaboy: A Novel in Rotten English, cương quyết viết bằng thứ tiếng Anh rởm, lởm khởm, tiếng Anh rác, một pha trộn giữa tiếng Anh pidgin thô sơ và tiếng Anh bồi gập ghềnh của dân bản xứ ít học hành, để thỉnh thoảng xen vào chút tiếng Anh chuẩn mực như một đối chiếu kín đáo[1]. Lựa chọn táo bạo đó mê hoặc tôi từ dòng đầu tiên. Với vốn liếng tiếng Anh cũng rotten của mình, tôi ròng rã đánh vật với bản gốc và bản dịch tiếng Đức để kinh ngạc về chưa đầy hai trăm trang, hạnh phúc vì tài năng, can đảm và sự nhất quán trọn vẹn của một đồng nghiệp. Một cuốn sách khó nuốt, sinh ra để trượt mọi giải thưởng và để là một kiệt tác. Một cách kể không thể chân xác hơn về một hiện thực lụn bại, đổ gãy, bạo liệt, nát bét, tha hóa, mông muội và khắc khoải hy vọng, là Nigeria những năm 80 và cả hiện nay. Hay Việt Nam. Hay cả Việt Nam và Nigeria cộng hưởng, như ở Vị. Ngôn ngữ không phải là công cụ tiếp cận, ngôn ngữ là bản thân hiện thực. Ngôn ngữ không phải là hình thức, ngôn ngữ chính là và thuần túy là nội dung.
Ngoài dầu mỏ và cầu thủ bóng đá, tài nguyên đáng kể nhất của Nigeria là các nhà văn. Ken Saro-Wiwa dễ dàng giành một chỗ đứng ở đẳng cấp quốc tế cùng những cây viết danh tiếng của đất nước ông: Chinua Achebe, Ben Okri, Chimamanda Ngozi Adichie, Teju Cole… Song hai mươi năm viết văn, làm báo, làm phim và xuất bản với ông chỉ là một chặng đường cần thiết trong một hành trình lớn: cuộc đấu tranh cho quyền sống của bộ tộc ông, cộng đồng Ogoni, trước một trong những thảm họa hủy diệt môi trường khủng khiếp nhất lịch sử nhân loại. Trong vòng bốn thập niên, vùng đất màu mỡ của người Ogoni ở châu thổ sông Niger, diện tích trên dưới 1.000 km2, tức không bằng một phần ba thành phố Hà Nội ngày nay, bị khoan nát để cung cấp cho tập đoàn dầu khí đa quốc gia Shell 80% sản lượng dầu mỏ của cả lãnh thổ Nigeria và nhận về một môi trường ô nhiễm gấp ba lần ở Vịnh Mexico năm 2010 sau sự cố tràn dầu thế kỷ. Ngoài những giếng dầu, toàn bộ không gian sinh tồn còn lại bị phá hủy. Tham nhũng và bạo lực hoành hành. Nội chiến triền miên. Người Ogoni chỉ còn là những tồn tại mong manh, làm phiền cho lợi nhuận khổng lồ của liên minh giữa tài phiệt ngoại quốc và quân phiệt trong nước. Nhà văn Ken Saro-Wiwa trở thành nhà hoạt động, người sáng lập và lãnh đạo phong trào bảo vệ môi trường vì quyền sống của đồng bào ông. Lần cuối ông bị bắt là tháng Năm 1994 và hơn một năm sau bị khép án tử.
Trước đây tôi thường lấy câu mở đầu bất hủ của Anna Karenina vận vào các quốc gia: Hạnh phúc thì mọi đất nước đều giống nhau, bất hạnh thì mỗi nơi một kiểu. Song thực ra nhiều quốc gia hội đủ những yếu tố để rập cùng một khuôn bất hạnh. Màu da là thứ duy nhất phân biệt sự bất hạnh Việt với sự bất hạnh Nigeria. Trong hàng trăm nhà hoạt động bị bắt và kết án tù nhiều năm qua ở Việt Nam, những người từng tham gia hoạt động bảo vệ môi trường chiếm tỉ lệ lớn. Trong những hành vi cấu thành tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” mà Phạm Đoan Trang bị quy kết theo cáo trạng ngày 30/8/2021 có việc “làm ra, tàng trữ, lưu hành “một tài liệu bằng tiếng Anh, “Báo cáo về thảm họa môi trường biển ở Việt Nam năm 2016“, thảm họa Formosa mà chúng ta đã dần quên, như đã quên Bauxite Tây Nguyên ồn ào một thuở. Trang cũng dễ dàng giành một chỗ đứng ở đẳng cấp cao nhất của các nhà báo ở Việt Nam. Song người phụ nữ tài năng ấy đã dành cây bút của mình cho một hành trình lớn hơn, như đồng nghiệp Ken Saro-Wiwa, cũng ở một quốc gia mà tài nguyên thiên nhiên là một lời nguyền thay vì là một ân huệ.
Nói lời sau cùng trước tòa, Ken Saro-Wiwa phát biểu:
Thưa quý tòa,
Tất cả chúng ta đều đứng trước lịch sử. Tôi là một con người của hòa bình và ý tưởng. Kinh hoàng trước sự đói nghèo nhục nhã của những người dân sống trên mảnh đất trù phú này, đau đớn vì họ bị chính trị gạt ra ngoài lề và bóp nghẹt về kinh tế, phẫn nộ vì đất đai của họ, tức di sản tối hậu của tổ tiên bị tàn phá, mong muốn bênh vực quyền sống và quyền được có cuộc sống tử tế của họ và quyết tâm mang lại cho toàn bộ đất nước này một hệ thống công bằng và dân chủ, bảo vệ mọi người dân và mọi nhóm sắc tộc, cho tất cả chúng ta cơ hội xứng đáng để đến với văn minh nhân loại, tôi đã cống hiến tài nguyên trí tuệ và vật chất, cống hiến chính cuộc đời mình cho một sự nghiệp mà tôi tuyệt đối tin tưởng và khiến tôi không chùn lòng trước mọi cưỡng bức và đe dọa. Tôi hoàn toàn không nghi ngờ thành quả cuối cùng của sự nghiệp ấy, bất kể những thử thách và gian nan mà tôi và những người cùng chí hướng có thể gặp phải trên hành trình của chúng tôi. Cả nhà tù lẫn cái chết đều không thể ngăn cản chiến thắng cuối cùng của chúng tôi.
Mười ngày sau, ông và tám nhà hoạt động cùng chí hướng bị treo cổ.
Phong trào do Ken Saro-Wiwa khởi xướng dẫu sao đã đánh động được công luận quốc tế. Sau ông, thêm một nhà hoạt động môi trường và nhân quyền Nigeria, cũng một nhà văn, ông Nnimmo Bassey, được trao Giải Right Livelihood (Giải Nobel Hòa bình Thay thế). Đầu năm nay, một tòa án Hà Lan buộc chi nhánh Nigeria của tập đoàn Shell phải trả 95 triệu Euro bồi thường cho nông dân vùng châu thổ sông Niger sau 13 năm khiếu kiện. Vài tuần sau, Tòa án Tối cao Vương quốc Anh ra một quyết định quan trọng khác: cho phép một tòa án tại London thụ lý đơn kiện Shell của 40.000 người Nigeria. Và quan trọng hơn cả: Nigeria đã chuyển sang thể chế dân chủ năm 1999. Tuy còn rất khiêm tốn nhưng về những phương diện căn bản như đa nguyên và tự do báo chí, đất nước của những người da đen nhọ, hôi, lười, lừa và ma túy như chúng ta quan niệm đã bỏ xa Việt Nam. Nếu ở Nigeria hiện nay, Trang chắc chắn không ngồi tù, Vị hiển nhiên không bị cấm.
Song chiến thắng cuối cùng còn xa lắm. Như người Việt, người Nigeria cũng chưa thôi vất vưởng lưu lạc, chết ngạt trong container đông lạnh nơi đất khách hay sống mòn trong một địa đàng ổ chuột trần truồng và trần trụi ở xứ người.
(Tuần báo Trẻ ngày 11.11.2021)
[1] Sau đây là một ví dụ, qua tường thuật của nhân vật kể chuyện, chàng thanh niên Mene: “The man with fine shirt stood up. And begin to talk in English. Fine fine English. Big big words. Grammar. Fantastic. Overwhelming. Generally. In particular and in general. Haba, God no go vex. But he did not stop there. The big grammar continued. ‘Odious. Destruction. Fighting’. I understand that one. “Henceforth. General mobilisation. All citizens. Ablebodied. Join the military. His Excellency. Powers conferred on us. Volunteers. Conscription”. Big big words. Long long grammar. ‘Ten heads. Vandals. Enemy’. Everybody was silent. Everywhere was silent like burial ground. Then they begin to interpret all that long grammar plus big big words in Kana. In short what the man is saying is that all those who can fight will join army. My heart begin to cut. Plenty. Join army? For what? So I am now a soza. No. No. I cannot be soza. Soza for what? Ehn? I begin to shout. No. No. The man with fine shirt was looking at me. The policeman was coming to me: Is he coming to take me to be soza? The policeman was coming. My heart was cutting, beating like drum. Tam tum. Tam tum tum. Then I see that it is not just one policeman but many sozas. Plenty of them with gun pointing at me. My heart was beating. Tam tum, tam tum tum. I don’t want to be soza. So as I see them coming with their gun, I jumped out of that church and started to run. Then I heard Chief Birabee and the others shouting “Hold am! hold am!” They were shouting from every side. Then the sozas started running after me. Pursuing me. I ran and ran like a dog. Still the sozas pursued me, pointing their gun.”
September 23, 2021
Tôi sẽ bầu cho Đảng
Phạm Thị Hoài
Cuộc bầu cử lầnnày ở Đức gắn với sự kết thúc của một kỷ nguyên: Kỷ nguyên Merkel.Mười sáu năm, thế giới chỉ ra khỏi khủng hoảng này để bước thẳng vàokhủng hoảng khác, nhưng nước Đức dường như vẫn khá ổn, thất nghiệpít, nghỉ phép nhiều, phúc lợi xã hội cao, nợ công thấp, khắp nơiđều phẳng phiu ngăn nắp – trừ thủ đô Berlin vì lý do nguyên tắc quyếtchăm sóc một sự nhếch nhác gồ ghề nhất định. Trong cuộc sát hạchsiêu hình do một con virus vô hình chủ khảo hai năm nay, Đức cũng lấy đượcmột chứng chỉ không đến nỗi tệ. Y tế vững chãi, an sinh tương đối chutoàn, kinh tế còn nội lực khá thâm hậu, hệ đề kháng toàn diện củaxã hội còn hoạt động hữu hiệu, chưa kể thành công kỳ diệu với vắc-xincủa BioNTech. Tuy cũng lúng túng, cũng mắc sai lầm, cũng từng lâm vàonhững tình thế không xứng đáng với tầm vóc và trình độ của mìnhnhưng Đức thời Covid chỉ vấp phải những khổ ải ít nhiều xa xỉ sovới phần lớn các nước khác.
Song kỷ nguyênnào rồi cũng vào hồi kết. Cả những người hài lòng với Mutti,Mẹ Merkel, cũng lờ mờ nhận ra rằng có thể gói thuê bao “Ổnđịnh, thịnh vượng, nhân văn” mang dấu ấn hình thoi bốn nhiệm kỳ củabà lại chính là một chướng ngại đáng kể để quốc gia này bứt phávào một tương lai đầy thách thức mà duy trì nguyên trạng, dù là mộtnguyên trạng khá ổn, không thể là giải pháp. Status quo là phảnnghĩa của cải cách. Có lẽ hơn ai hết, chính bà Thủ tướng nổi tiếngvề lý trí tỉnh táo đã nhận ra giới hạn của bản thân và hai nămtrước, ít khoa trương như thường lệ, giản dị tuyên bố sẽ rời khỏichính trường, khiến cuộc bầu cử lần này bỗng bất đắc dĩ giàu kịchtính hơn khả năng tiêu hóa thông thường của người Đức cho phép.
Tôi mến mộbà, trước hết vì bà là người ít chia động từ ở thể giả định nhấttrong các nhà lãnh đạo ở Đức. Mark Twain tính ra rằng người có khiếungoại ngữ chỉ cần 30 tiếng đồng hồ để học tiếng Anh (trừ phát âmvà chính tả), 30 ngày để học tiếng Pháp, nhưng 30 năm để học tiếngĐức. Tôi xin phép bổ sung là trong 30 năm ấy thì 29 năm đã mất đứt đểhọc thể giả định (Konjunktiv), trong đó 15 năm cho thể giả địnhI và 14 năm cho thể giả định II. Phỏng theo Phạm Quỳnh, thể giả địnhcòn thì tiếng Đức còn, tiếng Đức còn thì nước Đức còn. Tránh đượcthể giả định mà không đẩy nước Đức đến bờ diệt vong là một nghệthuật đáng nể. Một nghệ thuật khác của bà cũng chinh phục tôi vôđiều kiện: bà định hình đầu tóc áo xống của mình trong một nốtnhạc để không bao giờ còn phải bận tâm vào đó nữa. Ngoại hình củaphụ nữ chưa bao giờ hết là đề tài đàm tiếu, chỉ trừ ở thánh địacủa Taliban. Nữ quyền có chăng chỉ phun một lớp bụi giảm đau cho siêulợi nhuận của ngành thời trang đỡ nhức nhối. Phong cách Merkel, vớimái tóc úp xuống như chiếc mũ bảo hiểm an toàn mà thân thiện, vớinhững bộ jacket chỉ khác nhau ở màu sắc và số khuy cài, là kếttinh của sự tối giản thông minh cho một người đàn bà trong một môitrường mà những con đực alpha trước sau vẫn chen chân khuynhloát.
Nhưng mười sáunăm là quá đủ. Tôi đã vui vẻ chia tay kỷ nguyên Merkel, dù không thấyhồi tiếp theo trên sân khấu chính trị Đức có gì hấp dẫn. Mọi nhânvật đang muốn sắm vai chính ở đó đều là những diễn viên hạng nhì. Hayhạng ba, như ông Laschet, ứng viên thủ tướng của liên minh bảo thủ cánhhữu CDU/CSU, có thể là một chủ quán rượu bình dân xuất sắc, vỗ vaingười này, bẹo má người kia, nháy mắt, vén môi, thậm chí lắc hôngnếu cần, thường trực nụ cười mời thêm một ly, luôn thủ sẵn trên lưỡimột mẩu tiếu lâm đã cống hiến ngàn lần cho cùng một cử tọa, mộttuyên ngôn chẳng chết ai trừ quán rượu bên cạnh, và vừa buột miệngđã lè lưỡi, không phải để xin lỗi mà chỉ vì không dám tin vào sựtáo tợn của chính mình: chú nhóc chạy bàn đã thế chân ông chủ quánrượu.
Trước bức híhọa không thể tin nổi ấy, ứng viên của phía kia, đảng cấp tiến cánhtả SPD, ông Scholz, trông như một thiên tài, nhất là khi nghệ thuậthùng biện của ông là kiệm lời, nhường cơ hội nói hớ cho các đốithủ chính trị. Nếu lý tưởng của chính khách Đức là vô vị thì ônglà chính khách lý tưởng nhất. Như món cá lát tẩm bột đông lạnh Fischstäbchenmà người Đức ưa dùng. Ông lại biết gói sự vô vị ấy như một nội dungvô giá vào một hình thức bình thản dễ chịu đượm màu lão luyệnchính trường của một Phó Thủ tướng Đức đương nhiệm. Song năng khiếu chủyếu, khiến ông vượt qua mọi đối thủ trong trận chiến tranh cử, làtừng bước hóa thân thành Merkel tập 5 hay Angela đệ nhị. Bắt đầu bằnghai bàn tay chụm hình thoi, như Angela Merkel. Một hứa hẹn không cónhững cải cách sâu rộng. Ưu tiên bảo toàn nguyên trạng. Không làm aiđau. Không ai phải sợ chỉ riêng mình chịu thiệt.
Góc thứ batrong tam giác quyền lực đang xô đẩy chuyển động, tôi không rõ là gócnhọn hay góc bẹt. Ứng viên của Đảng Xanh, bà Annalena Baerbock, trongmột khoảnh khắc màu nhiệm đã kéo đảng này vọt lên dẫn đầu, bỏ lạiđằng sau cả hai đảng lớn truyền thống trước khi lại tụt xuống bởi mộtchuỗi tai tiếng như đạo vài đoạn văn, tô hồng vài nét tiểu sử hayquên khai một khoản thu nhập be bé. Toàn chuyện “nhỏ như conthỏ” so với những cái xác bốc mùi mà đa số các chính kháchđều giấu ở đâu đó trong tầng hầm nhà mình, nhưng lại nhanh chóng càoxước lớp da thường được bôi kem đạo đức organic của Đảng Xanh. Songthiện cảm rất giới hạn của tôi cho nhân vật này có lẽ ăn sâu hơn. Tôichán phè những ông bà lãnh đạo, lĩnh vực nào cũng vậy, chỉ khácnhau cái mác hay màu sắc, tọa độ, còn lại đều là những khuôn hình khépkín hãnh tiến giống hệt nhau, đều thuộc lòng những nội dung bờ la bờlô, đều luyện kỹ những phép tu từ hứa hẹn phần thắng, đều đã quađủ khóa tiếp thị các giá trị đóng gói trong những bao bì ngày càngtrương phồng. Tôi không tin vào một cử động nào trên gương mặt ngườiphụ nữ 40 tuổi, trẻ trung hoạt bát, diện những đôi giày bắt mắt, cógiọng nói hơi chói và điệu cười hơi máy móc ấy.
Nhưng không aiphải quá lo cho công chúng Đức, dù kịch cọt trên sân khấu chính trịhiện không mấy ngoạn mục. Liên minh cánh hữu có thắng thì nhữngthành tựu dân chủ xã hội vẫn còn nguyên. Liên minh cánh tả có lênthì kinh tế cũng không đổ cái rụp và người giàu không phải khóc xinngười nghèo rủ lòng thương xót. Đảng Xanh chưa lên ngôi thì đa số dânchúng, nhất là giới trẻ, vẫn ngày càng chín muồi cho một nền chínhtrị xanh. Bóng ma cộng sản vẫn nằm im trong câu mở đầu bản Tuyênngôn của Marx và Engels, dù đảng cực tả Die Linke có bước vào nộicác. Và nước Đức còn xa mới là một quả bom dân túy, dù đảng cựchữu AfD sẽ lại chiếm một số ghế quốc hội. Chính trị Đức 52 nămnghiêng về chân phải, 20 năm nghiêng về chân trái, nhưng trọng lượngchính thực ra dồn vào trung điểm thăng bằng.
Vậy nên tôi kêcao gối rồi cuối tuần tới sẽ đi bầu cho một trong 47 đảng tham giatranh cử: Die Partei, đảng Đảng.Người sáng lập và chủ tịch Đảng nguyên là tổng biên tập tạp chítrào phúng lừng danh Titanic, người anh emĐức của tạp chí Pháp Charlie Hebdo. Sứ mệnh cao quý của Đảnglà cười vào mặt chính trị bằng vũ khí nhọn hoắt của châm biếm,giễu tuốt, chọc tuốt, báng bổ tuốt, giơ tuốt ngón tay thối, chẳngkiêng nể bất kỳ ai bất kỳ điều gì kể cả chính mình. Chương trình hành động của Đảng năm nay là trục xuất các chính khách tham nhũng về Azerbaijan; giới hạn đón nhận người tị nạn ở mức không cao hơn biểnĐịa Trung Hải đón nhận; hoãn chiến tranh với Nga và Trung Quốc vìnguồn lực thời dịch bệnh có hạn, tạm thời chỉ khạc đạn vàoErdogan, Bolsonaro, Orban và Sebastian Kurz; cấm photoshop để dânchúng khỏi chết sốc khi chẳng may chứng kiến bộ mặt thật của cácchính khách ngoài đời… Chủ tịch Đảng, ông Martin Sonneborn, hiện lànghị sĩ nhiệm kỳ thứ hai tại Nghị viện châu Âu. Một Đảng viên đanglà nghị sĩ Quốc hội Đức. Hàng chục Đảng viên khác đang là dân biểutại các địa phương. Số phiếu bầu cho Đảng từ lần tranh cử đầu tiênnăm 2003 đã tăng từ một vạn lên nửa triệu, dự tính năm nay sẽ lên nămtrăm triệu. Hiện Đảng có 52.000 Đảng viên, xu hướng tăng nhanh hơn mức đồngEuro mất giá.
Đức thường bị coi là dân tộc hiếu thắng. Đảng cũng thế, Đảng luôn đúng. Đức thường bị coi là dân tộc không biết đùa. Đảng không đùa. Đảng nghiêm túc sửa lưng chính trị. Hoặc phơi lưng, bất đắc dĩ đành gãi lưng, nhưng quyết không kỳ lưng chính trị. Tôi sẽ bầu cho Đảng.
(Tuần báo Trẻ 23/9/2021)
July 24, 2021
Lưu Hiểu Ba – Khác biệt giữa nhân và phi nhân
PhạmThị Hoài lược dịch
TrướcSự kiện Thiên An Môn, Lưu Hiểu Ba là một học giả trẻ, vừa nhận bằng tiến sĩ tạiĐại học Sư phạm Bắc Kinh, nổi tiếng làtự tin, đầy tinh thần phê phán, thẳng thắn và khônghiếm khi cực đoan, được mệnh danh là một “hắc mã” trên vănđàn Trung Quốc và được nhiều cơ quan nghiên cứu ở nước ngoài chàođón. Cuộc phỏngvấn với tạp chí Khai Phóng ngày 27.11.1988, khiông vừa thỉnh giảng tại Na Uy trở về và ghé qua Hong Kong vài ngàyđể sau đó sang Mỹ theo lời mời của Đại học Hawaii, đã trở thànhnguồn tham khảo và trích dẫn quan trọng cho cả giới nghiên cứu về LưuHiểu Ba lẫn phía lên án và kết án ông. Sau đây là tóm lược từ mộtsố câu trả lời của ông.
________________
Về hệ thống giáo dục ở Trung Quốc
Tôi không nhìn vào mảnh bằng mà nhìn vào con người cụthể, vì học vị không nói lên điều gì; 95% người tốt nghiệp đại học,97% thạc sĩ và 98-99% tiến sĩ là đồ bỏ. Nhưng điều tôi quan tâm khôngphải là chuyện học vị, mà là hệ thống giáo dục ở Trung Quốc, cảtrong quá khứ lẫn hiện tại. Kỹ năng và quy trình biến con ngườithành nô lệ của hệ thống đó đã đạt tới đỉnh cao và thuần thụcnhất thế giới. Bản thân tôi từ tiểu học lên đến đại học như bị épchặt vào một thanh nẹp, lớn lên như một thân cây, tuy có dài ra thật nhưngcành lá bị tuốt sạch.
Về giới nghiên cứu Trung Quốc ở nước ngoài
Quỹ nghiên cứu thuộc Đại học Oslo đã mời 5 vị khách TrungQuốc thỉnh giảng, lần lượt là tôi, nhà thơ Bắc Đảo, đạo diễn TrầnKhải Ca, nhà văn Vạn Chi và nghệ sĩ Mễ Khâu. Tôi thấy 98% giới Hánhọc ở Bắc Âu cũng là đồ bỏ, chất lượng nghiên cứu cực kỳ kém,nhiều người nịnh bợ Bắc Kinh và tâng bốc những thần tượng được TrungQuốc đề cao. Quan hệ của họ với Bắc Kinh rất thực dụng, họ khôngphải là những học giả thực sự. Tôi chỉ coi trọng Pierre Ryckmans(Simon Leys) ở Úc và John K. Fairbank ở Mỹ, đó là những người thựcsự quan tâm tới các vấn đề Trung Quốc mà vẫn giữ được khoảng cáchvà sự tỉnh táo với chính quyền. Nhiều nhà Hán học ở Đức, ThụyĐiển và Bắc Âu không hiểu cả văn hóa của chính họ lẫn văn hóa TrungQuốc. Cả trình độ tiếng Trung lẫn năng lực của các giáo sư Khoa ĐôngÁ ở Đại học Oslo đều lệch lạc. Tôi đã bảo họ rằng các vị ở đây nghiêncứu văn học Trung Quốc đương đại cũng ở mức như chúng tôi ở TrungQuốc nghiên cứu văn học Việt Nam hay văn học Triều Tiên mà thôi, và họkhông vui vì tôi là người Trung Quốc đầu tiên được họ mời mà lạiphát ngôn thiếu lịch sự như vậy.
Về nền văn minh Trung Hoa nhân tranh cãi xung quanh bộ phimtruyền hình Hà Thương
Theo tôi, đối kháng chỉ có thể hình thành giữa hai thứtương đồng về sức mạnh nhưng bất đồng về phương hướng, trong khi nềnvăn minh Trung Hoa đã lỗi thời, không có gì để đối đầu với phương Tây,cho nên quan niệm về đối kháng với phương Tây chỉ cho thấy lòng tựphụ thâm căn cố đế của dân tộc Trung Quốc. Điều cần thiết bây giờ làthừa nhận sự lạc hậu và thất bại của mình, học lại từ đầu vàchân thành học hỏi người khác. Nhưng ý thức tiềm ẩn trong cả bộ phimHà Thương là đề xuất việc Tây phương hóa Trung Quốc, song trongtương lai lại muốn Trung Quốc Hán hóa thế giới. Quan niệm của ngườiTrung Quốc là khi phương Tây mạnh thì Trung Quốc làm nô lệ, và đếnlượt mình, khi mạnh lên thì Trung Quốc sẽ muốn đè đầu phương Tây làmnô lệ, theo phương châm học sức mạnh của bọn man di để chế ngự bọn mandi. Trung Quốc chửi kẻ khác là đế quốc, nhưng chính mình mới thựclà đế quốc nhất. Người Trung Quốc có thể thừa nhận rằng về vậtchất thì mình lạc hậu, máy móc không bằng người, quần áo không bằngngười, nhưng về tinh thần thì chẳng thua kém ai hết, còn đạo đức thìđứng đầu thế giới luôn. Tôi cũng không thích lời bình và giọng điệutrong phim này, vì đó là ngôn ngữ cứu thế, sở trường của Mao TrạchĐông, thứ ngôn ngữ đã ảnh hưởng mạnh đến lý luận và tiểu thuyếtTrung Quốc đương đại.
Về trí thức Trung Quốc
Tính hai mặt ở trí thức Trung Quốc rất mạnh, vì họcthuật cũng có giá trị thực dụng, trở thành học giả là có thể gặthái nhiều lợi ích thiết thực. Kẻ sĩ có được chỗ đứng trong xã hộibằng hai cách. Cách thứ nhất là nhập thế, trở thành thành viên củabộ máy quan liêu và hưởng thụ những lợi ích thực tế. Cách thứ hailà danh hậu đắc lợi, kiếm danh trước để thu lời sau. Chư Cát Lượngbày trò “tam cố mao lư” với kẻ cầm quyền để lưu danh tiếng,ẩn là để hiện, thoái là để tiến, xuất thế là để nhập thế. Tôituyệt đối không tin rằng sự lạc hậu của Trung Quốc là do một số vịhôn quân nào đó gây nên, mà trước hết do tất cả mọi người, vì hệthống do con người tạo ra. Mọi tấn bi kịch Trung Quốc đều do chínhngười Trung Quốc tự biên, tự diễn, tự dàn dựng và tự hân hoan thưởngthức. Vì vậy đừng đổ lỗi cho ai khác. Trí thức không nên đóng vainạn nhân, một mình Mao Trạch Đông thì không thể làm nên cả cuộc Cáchmạng Văn hóa. Người Trung Quốc rất thiếu sáng tạo. Phương Tây có nhữngtriết gia duy nghiệm, triết gia tư biện, triết gia tôn giáo, triết giaphi lý và học giả luận lý kiệt xuất. Trung Quốc chẳng có gì ngoàimột đống hổ lốn lừa chẳng ra lừa, ngựa chẳng ra ngựa.
Về Khổng tử và phương Tây
Khổng tử tầm thường, Mạnh tử trí tuệ hơn, chỉ có Trangtử là thiên tài. Từ quan điểm triết học, Khổng tử chẳng là gì cả,Khổng giáo là một học thuyết nhập thế, lấy phục vụ chính trị làmmục đích. Nhà Hán đã biến nó thành công cụ thống trị và lẽ ra sinhmệnh của nó phải kết thúc ở nhà Hán, nhưng thật kỳ quái, bao nhiêunăm rồi mà nó vẫn tồn tại. Nhưng đối diện với thế giới hiện đạithì nó thực sự đã chết. Một số người ở phương Tây thích Khổng tử.Không có gì lạ cả, vì đó là một xã hội đa nguyên. Nhưng trong mộtxã hội nhất nguyên thì cả những thứ tốt đẹp nhất cũng thành vôdụng. Nếu Trung Quốc là một chính thể đa nguyên, ai muốn tin vào Marx,vào đạo Cơ-đốc hay vào Khổng tử xin cứ việc, tôi chẳng có gì phảnđối. Nhưng ở Trung Quốc hiện nay, tin vào Marx là đồng nghĩa với tinvào một hình thái tư tưởng độc tài, vì chủ nghĩa Marx ở Trung Quốclà công cụ của giai cấp thống trị; nó là một cái gậy, không cóchút ý nghĩa lý luận nào.
Có những người đem thành tựu kinh tế của bốn con rồngchâu Á để chứng minh giá trị của Nho giáo. Thật vớ vẩn và thậm chívong ân bội nghĩa! Đài Loan, Hàn quốc và Singapore đều được Hoa Kỳ hỗtrợ, Nhật Bản cũng vậy. Không có sự ràng buộc về nhân quyền theo quanđiểm của Mỹ thì có lẽ những nước đó chẳng có gì hết. Sự xấu xícủa phương Đông là ở đó, phương Đông đang đứng trước vấn đề giảiphóng con người. Trung Quốc là một cỗ máy chính trị, Nhật Bản làmột cỗ máy kinh tế, trong đó mỗi cá nhân chỉ là một con ốc vít.Các vấn đề nhân quyền ở Đài Loan và Nhật Bản vẫn chưa được giảiquyết. Hương Cảng đã giải quyết các vấn đề nhân quyền ở cấp độ củaphương Tây hiện đại, nhưng chưa giải quyết các vấn đề của tự do ởcấp độ hiện đại.
Không có gì phải bàn cãi, hiện đại hóa là chân lý tốicao, nó bao hàm: sở hữu tư nhân, chính trị dân chủ, tự do ngôn luậnvà thượng tôn pháp luật. Tây phương hóa triệt để là nhân bản hóa vàhiện đại hóa. Lựa chọn Tây phương hóa là để sống một cuộc sống củacon người. Khác biệt giữa Tây phương hóa và duy trì hệ thống củaTrung Quốc là sự khác biệt giữa nhân và phi nhân. Nói cách khác, nếumuốn sống một cuộc sống nhân bản thì phải triệt để Tây phương hóa,không có nhân nhượng và điều hòa gì hết.
Về văn học Trung Quốc Đại lục
Văn học Đại lục hiện nay không có gì hay cả. Không viếtđược, chứ không phải không được phép viết. Ảnh hưởng của văn họcphương Tây chỉ hữu ích khi khơi dậy được sức sống nội tâm của cáctác giả Trung Quốc. Như Lỗ Tấn, chịu nhiều ảnh hưởng ngoại quốc,song AQ chính truyện của ông tuyệt đối là của Trung Quốc. Hiệnnay có một số tác giả sao chép cả quan niệm lẫn cấu trúc của vănhọc phương Tây, như Trạm xe điện của Cao Hành Kiện đã bệ nguyên kếtcấu của Trong khi chờ Godot và được coi là “cách tân”.Kiểu thô tục cao cấp đó còn đáng sợ hơn bắt chước câu chữ. Văn họctìm về cội nguồn cũng sao chép những quái sự li kỳ của Trăm nămcô đơn, Trần Khải Ca và những người khác cũng lâm vào tình trạngnày.
Về phần mình, tôi cũng phải nhặt nhạnh sự thông tuệ củangười khác, nhưng học một cách thiết thực, vì tôi lớn lên trong mộtsa mạc văn hóa. Tôi phải cảm ơn Marx, vì Tuyển tập Karl Marx là cuốnsách duy nhất tôi được đọc thời Cách mạng Văn hóa. Marx đã cấp chotôi rất nhiều chỉ dẫn về lịch sử triết học phương Tây và là cầunối duy nhất với “thế giới” thời đó. Tôi đã đọc Toàntập Karl Marx hơn 40 quyển và có thể trích dẫn thuộc lòng khánhiều đoạn. Các tác phẩm thời kỳ đầu của Marx rất được.
Về chủ nghĩa Marx
Với tôi, chấn động duy nhất từ Marx là thái độ phê phánkhông thỏa hiệp. Phương pháp luận lịch sử của Marx cũng chứa đựngmột đạo lý nhất định, nhưng nhiều thứ khác thì vớ vẩn, chẳng hạnsự phân tích cấu trúc xã hội phương Tây: kẻ bóc lột và người bịbóc lột, giai cấp tư sản và giai cấp công nhân, quá đơn giản để thấyđược quan hệ tương hỗ, kiềm chế lẫn nhau giữa các giai tầng. Nói chínhxác thì khái niệm giai cấp hiện không thể áp dụng ở phương Tây đượcnữa. Cách phân loại của Marx chỉ đúng với xã hội chuyên chế. Chủnghĩa cộng sản của Marx thực ra chỉ là một nhánh trong truyền thốngcủa phương Tây, từ nhà nước lý tưởng của Plato qua thiên đường trongKinh thánh, Utopia của More, Thái dương thành (Civitas Solis) của Campanella đến chủ nghĩa xã hội không tưởng củaPháp. Nhưng lý tưởng mác-xít khốn khiếp là ở chỗ nó thuyết giảngrằng ngay ngày mai nó sẽ thành hiện thực: chủ nghĩa tư bản đã chuẩnbị sẵn điều kiện vật chất tối hảo cho cuộc cách mạng dẫn đến chủnghĩa cộng sản. Các lý tưởng của Marx xem ra thật rẻ mạt.
Về điều kiện cải tạo Trung Quốc
Trung Quốc hiện chưa thoát khỏi nền văn minh nông nghiệp vàvẫn còn phải tu bổ khóa học về chủ nghĩa tư bản. Ngay cả khi mộtvài nhà cầm quyền có hạ quyết tâm thì Trung Quốc vẫn không có khảnăng cải tạo về căn bản, vì đơn giản là thiếu nền móng. Điều kiệnduy nhất để Trung Quốc thực sự đạt tới một chuyển đổi lịch sử làphải trải qua ba trăm năm chấp nhận làm thuộc địa. Hương Cảng được nhưngày nay là nhờ cả trăm năm thuộc địa. Trung Quốc rộng lớn hơn nhiều,đương nhiên phải cần đến ba trăm năm. Nhưng liệu ba thế kỷ có đủ không?Tôi vẫn hoài nghi lắm. Song đáng tiếc là lịch sử không còn cho TrungQuốc một cơ hội như Hương Cảng nữa. Thời thuộc địa thực dân đã thuộcvề quá khứ. Chẳng còn ai sẵn sàng nhận lấy cái gánh nặng là TrungQuốc.
Về Tổ quốc
Marx viết trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản:“Công nhân không có Tổ quốc. Người ta không thể cướp của họ cáimà họ không có.” Tôi không quan tâm đến những lời gió bay ái quốchay phản quốc. Ai thích gọi tôi là đồ phản quốc thì tôi là đồ phảnquốc, đồ bất hiếu quật mộ tổ tiên, và tôi lấy đó làm tự hào.
Nguồn: Tạp chí Khai Phóng (Hong Kong) ngày 27.11.1988. Nhan đề đoạn trích do người dịch đặt.
Tuần báo Trẻ, 22/7/2021
July 16, 2021
Lưu Hiểu Ba – Đằng sau kỳ tích Trung Quốc
Phạm Thị Hoài dịch
Tôi dịch bài viết này như một nén hương nhỏ tưởng niệm nhà văn và tù nhân lương tâm Lưu Hiểu Ba, qua đời vì bạo bệnh trong tù ngày 13 tháng Bảy bốn năm trước. Tất cả những gì ông nói về Trung Quốc đều có hiệu lực trọn vẹn với Việt Nam, đất nước khôn nguôi căm ghét người láng giềng phương Bắc, để rồi không làm gì khác ngoài trở thành bản sao vĩnh cửu, tuy mờ và thu nhỏ, của chính kẻ thù truyền kiếp ấy.
______________
SauThảm sát Thiên An Môn ngày 4 tháng Sáu 1989, nền kinh tế Trung Quốc đã có nhữngthay đổi to lớn, mức độ vượt xa so với những năm tám mươi.
Độnglực chính cho sự phát triển kinh tế cao độ này là nỗ lực của Đặng Tiểu Bìnhnhằm nhanh chóng cứu vãn quyền lực cá nhân và tính chính danh của chế độ bịsa sút nghiêm trọng do vụ thảm sát Lục Tứ. Đặng quyết tâm dùng kinh tếđể duy trì ổn định chính trị và đề xuất phương châm “phát triển là đạo lýtối hậu”.
Khibức màn xã hội ngột ngạt vừa được vén lên về mặt kinh tế, động lựcchính cho những thay đổi tiếp theo là mưu đồ trục lợi của các gia đình quyền quý,tức những thế lực bắt đầu nổi lên từ đầu thập niên tám mươi.
Chínhsự tham lam của giới quyền quý này đã khuấy động dục vọng làm giàu củacon người, phát động giấc mộng kim tiền của toàn dân, thúc đẩy sự phát triểnbất thường và nhanh chóng của nền kinh tế Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng trung bìnhhàng năm trên 9% có thể gọi là một “kỳ tích kinh tế”.
Đặcsắc Trung Quốc
Tuysự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc phụ thuộc vào thị trường hóa và tư hữuhóa, nhưng thị trường kiểu Trung Quốc không phải là kết quả của thị trườnghóa nhà nước pháp quyền mà là kết quả của thị trường hóa quyền lực. Quyềnlực thành phương thức chủ yếu để phân bổ các nguồn lực; phân phốiquyền lực quyết định phân phối nguồn vốn. Tư hữu hóa kiểu Trung Quốckhông phải là tư hữu hóa hợp pháp và hợp đạo đức, mà là tư hữu hóa kiểu thổphỉ. Thị trường bất động sản được mở cửa từng bước biến thành sân chơiriêng cho giới quyền thế, và thị trường tài chính do chính phủ kiểm soát biếnthành một thiên đường phương Đông cho giới quyền thế có thể giàu sụ quađêm. Sự xuất hiện đột ngột của nền kinh tế mới đã mở ra những cơ hội mới cho giớiquyền thế, và cũng tạo ra một tầng lớp phú ông trẻ tuổi gắn bó với quyềnlực.
Đồngthời, việc “chia nhỏ nồi cơm to bằng thìa riêng” trong quá trìnhtái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đã khiến quá nhiều tài sản nhà nước chảy vàotúi một thiểu số nắm quyền hành; những ngành công nghiệp độc quyền manglại lợi nhuận cao hầu hết nằm trong tay một vài gia đình quyền thế.
Ngânsách của chính quyền Trung cộng tăng nhanh tới mức không chỉ trên cả tốcđộ tăng trưởng đã rất cao của GDP, mà còn vượt xa tốc độ tăng thu nhập củadân chúng. Ngày càng giàu và nhiều thế lực, giới quan chức vung tiềnra khắp thế giới. Đồng thời, tốc độ tích lũy tài sản tư nhân của giới quyềnquý Trung Quốc có thể khiến bất kỳ nhà tư bản nào ở một quốc gia tư bản lâu đờitrở nên kém cỏi. Huyền thoại làm giàu qua đêm lan truyền trong nhữnggia tộc quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Cáigiá quá đắt
Cáigiá phải trả của sự phát triển theo mô hình Trung Quốc là các quyền tựdo cá nhân cũng như quyền lợi và phúc lợi xã hội bị bỏ qua. Hưởng lợi từ sựphát triển hiệu quả cao này chủ yếu là các nhóm quyền thế. Dân thường chỉ nhặtnhạnh cơm thừa canh cặn sót lại.
Hoàntoàn tương ứng với điều đó là quan điểm kỳ dị về nhân quyền, đặt quyền sinhtồn lên hàng đầu, tức nhân quyền theo mô hình đặc sắc Trung cộng, nhằm phụcvụ sự ổn định của chế độ và lợi ích của giới cầm quyền.
ĐảngCộng sản Trung Quốc không ngần ngại sử dụng mọi nguồn lực để duy trì sự ổn địnhchính trị. Sự băng hoại của ý thức hệ chính thống đã khiến chủnghĩa cơ hội cực đoan và chủ nghĩa thực dụng lên ngôi. Nhưng không hềgì, chủ nghĩa nào cũng được, miễn là đặc quyền độc tài và củacải cướp bóc được bảo toàn.
Sáchlược của Đảng
Sáchlược thống trị của chế độ độc tài đầu sỏ được chia thành năm khía cạnh tươnghỗ nhau:
Thứnhất, sử dụngchủ nghĩa dân tộc như một liên kết ý thức hệ mới, gắn các khẩu hiệu chính thứccủa chính sách ngoại giao cường quốc và sự trỗi dậy của các cường quốc với tinhthần độc lập chống Mỹ, chống Nhật và chống Đài Loan. Đồng thời, hướng toàn bộxã hội quay trở lại thời đại hoàng quyền; các bậc đế vương vĩ đại và sự thịnhvượng của nền văn minh Trung Quốc thời hoàng kim trở thành những chủ đềchính của văn hóa đại chúng.
Saunhững đại loạn chính trị, sự phát triển của nền kinh tế được tuyêntruyền là nghỉ ngơi và dưỡng sức, là hứa hẹn về một tương lai sung túc, cócơm ăn áo mặc trong một xã hội hài hòa, phiên bản mới của nền hòa bình vàthịnh vượng truyền thống, dựa trên đức trị với “bát vinh bát sỉ”– tám điều vinh, tám điều nhục – nối tiếp truyền thống Nho giáo[1].
Thứhai, tiến mạnh theohướng “tất cả vì lợi nhuận” của chủ nghĩa tư bản nguyên thủy. Chínhquyền Trung cộng cổ động làm giàu. Lợi ích của toàn đảng chia thành lợiích của các phe cánh chính trị. Lợi ích của cả quốc gia chia thành lợiích của các tập đoàn đặc quyền. Còn lại miếng bánh cuối cùng thì chiacho nhóm lợi ích của các gia đình và cá nhân quyền thế.
ĐảngCộng sản Trung Quốc không còn húy kỵ việc theo đuổi lợi nhuận và cũng khôngcòn ngần ngại đứng ra đại diện cho đại tư bản. Lợi nhuận đã thay thế sự vậnđộng ý thức hệ, trở thành sợi dây gắn kết xã hội và thước đo lòng trungthành chính trị cũng như thành tích công cán và hiệu quả điều hànhquản lý của các quan chức. Tình trạng tham nhũng, chiếm dụng công quyền đểtư lợi đã trở thành căn bệnh ung thư ăn sâu vào cơ thể của Đảng.
Vớinhóm cầm quyền hiện tại, kim tiền là nền chính trị vĩ đại nhất. Tiền, đểđảm bảo sự ổn định của chế độ và lợi ích của giới quyền lực. Tiền, để bìnhđịnh các thành phố trung tâm và mua chuộc giới tinh hoa. Tiền, để thỏa mãnlòng tham của những kẻ muốn giàu nhanh qua đêm và dập tắt sự phản kháng của nhữngtầng lớp dân chúng thiệt thòi. Tiền, để mặc cả với các nước phương Tây trongchính sách ngoại giao. Tiền, để mua sự ủng hộ chính trị từ những nước nhỏbất hảo.
Thứba, chạy theo tiêuthụ vật chất xa xỉ và văn hóa phù phiếm dễ dãi.
Mộtmặt, lĩnh vực tiêu dùng liên tục phóng ra những “vệ tinh giá trên trời”,xe hơi nổi tiếng, đồng hồ nổi tiếng, biệt thự sang trọng và một văn hóatiêu dùng sôi động. Mặt khác, sự tầm thường hóa, đại chúng hóa được bọcbằng lớp vỏ Chân Thiện Mỹ và phồn vinh giả tạo đã trở thành một ngànhcông nghiệp cao sản và thống lĩnh thị trường văn hóa. Sự vui nhộn tiểuphẩm và thư giãn nông cạn của nó phối hợp với sự ồn ào lên gân của cácchủ đề thấm nhuần ý thức hệ đã tạo ra một chủ nghĩa hưởng lạc được chế độđộc tài chủ ý dung túng, phát tán một sự độc ác thô bỉ, lạnh lùng vàman rợ.
Thứtư, mọi bất đồngchính kiến về chính trị đều bị nghiêm cấm, các hoạt động có tổ chứccủa xã hội dân sự bị đặc biệt nghiêm trị.
Dướisự đàn áp khốc liệt của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối với các tổ chức dânsự tự trị, những cá nhân đã tách khỏi các tổ chức đảng và đơn vị nhà nước tuycó một không gian riêng tư nhất định nhưng không thể hình thành một xã hộidân sự có tổ chức và tự trị trong phạm vi công cộng mà lại một lần nữa bị phântán, bị nguyên tử hóa, không đủ khả năng hình thành một lực lượng dân sự độclập, có tổ chức, vì vậy không thể nói đến việc tranh giành quyền lực với nhànước và đảng cầm quyền được tổ chức cao độ.
Thứnăm, mua chuộcgiới tinh hoa trí thức. Sau ngày 4 tháng Sáu, đầu tiên chính quyền Trungcộng dùng máu để trấn áp và uy hiếp giới tinh hoa trí thức, những người đãđóng một vai trò to lớn trong phong trào phản kháng năm 1989, rồi sau đócám dỗ họ bằng lợi nhuận, và nhanh chóng biến giới trí thức thành những kẻkhuyển nho dùng mông đít quyết định cái đầu.
Trongsâu thẳm, có thể họ bác bỏ ý thức hệ của chế độ hiện hành hoặc thậm chí khinhbỉ chính quyền hiện tại, song những cám dỗ lớn của lợi ích hiện hữu vànguy cơ khủng bố chính trị cao khiến họ phải gắn bó với chế độ hiện tại, côngkhai bày tỏ thái độ thừa nhận và ủng hộ chế độ đó. Họ tích cực xíchlại gần quyền lực và tư bản, không bỏ lỡ bất kỳ cơ hội nào để hứng ơn mưamóc, không còn ngại công khai biện hộ cho các tập đoàn quyền lực, vàkhông còn xấu hổ khi tự giác hành động như nghệ sĩ hóa trang tư tưởng củachế độ tư bản. Tri thức, quyền lực và tư bản đã kết thành một liên minh lợiích tam vị nhất thể, cho phép giới tinh hoa trí thức nhanh chóng gia nhậphàng ngũ giàu sang quyền thế.
Chiphí xã hội
Dođó, những biến đổi cực đại trong lĩnh vực kinh tế của Trung Quốc nhìn bềngoài tuy rộng lớn và sâu sắc, nhưng thực chất lại khập khiễng và hời hợtmà đặc điểm chính là mở rộng về số lượng thay vì nâng cao chất lượng.
Chấtlượng cuộc sống xã hội nói chung và chất lượng con người đã không được cảithiện đồng bộ với tốc độ tăng trưởng kinh tế quá nhanh chóng. Các tiêu chuẩnđạo đức, sức sống tinh thần tư tưởng, phúc lợi xã hội và sự tham dự củacông chúng kém xa so với những năm tám mươi. Trung Quốc đang điên rồ chạytheo một chủ nghĩa tư bản thân hữu ở dạng tồi tệ nhất.
Giớichức sắc thì chia nhau tài sản của Đảng chuyển hóa từ cái gọi là tài sản nhànước một cách vô nguyên tắc; giới tinh hoa thì biện hộ cho quyền lực và tưbản một cách vô liêm sỉ.
Sứcmạnh tổng hợp thực tế và đạo đức những năm tám mươi đến từ phe khai sángcởi mở trong nội bộ Đảng, giới trí thức tự do, giới trẻ đầy nhiệt huyết,giới kinh tế tư nhân truy cầu đạo nghĩa và những người bất đồng chính kiến đểthúc đẩy cải cách chính trị nay đã biến mất. Duy nhất thay vào đó là một cảicách kinh tế đơn thuần lấy lợi ích kinh tế làm chuẩn mực.
Đằngsau “kỳ tích kinh tế” đó là kỳ tích hủ bại của thể chế, kỳtích bất công xã hội, kỳ tích suy đồi đạo đức, và kỳ tích phung phí tươnglai. Đó không chỉ là một kỳ tích với chi phí kinh tế và chi phí nhân quyền cựckỳ cao, mà cả với chi phí xã hội toàn diện không thể nào tính hết.
Nguồn: Bản tiếng Anh của bài viếtnày, nhan đề “Behind the China Miracle”, đăng lần đầu trên BBCngày 04/11/2008, sau này được đưa vào tuyển tập No Enemies, No Hatred,HarvardUniversity Press, 2012
Dịchtừ bản tiếng Đức “Die Hintergründe des chinesischenWirtschaftswunders” trong Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass,Fischer Verlag, Frankfurt am Main, 2013Tuần báo Trẻ, sốra ngày 15/7/2021
[1] “Bát vinh bát sỉ” (八荣八耻) là luận thuyết xã hội chủ nghĩa về danh dự và ô nhục do Hồ Cẩm Đào đề xướng năm 2006 gồm tám điều vinh và tám điều nhục như sau: 1) Yêu tổ quốc là vinh, hại tổ quốc là nhục; 2) Phục vụ nhân dân là vinh, phản bội nhân dân là nhục; 3) Tôn sùng khoa học là vinh, ngu muội vô tri là nhục; 4) Chuyên cần lao động là vinh, lười biếng hưởng lạc là nhục; 5) Đoàn kết tương trợ là vinh, ích kỷ hại người là nhục; 6) Trung thực thủ tín là vinh, hám lợi vong nghĩa là nhục; 7) Tuân thủ kỷ cương pháp luật là vinh, vi phạm kỷ cương pháp luật là nhục; 8) Phấn đấu gian khổ là vinh, kiêu căng xa xỉ là nhục. (Chú thích của người dịch)
July 13, 2021
Lưu Hiểu Ba – Lẽ nào chúng ta không là kẻ đồng lõa?
Hôm nay là tròn 4 năm ngày mất của LưuHiểu Ba. Ở Việt Nam sự nghiệp tư tưởng, văn hóa và chính trị của ôngchưa bao giờ được đề cập. Tên ông chỉ được nhắc đến, khi truyền thông chínhthống vạch trần âmmưu của phương Tây với Giải Nobel Hòa bình cho ông năm 2010, khi ViệtNam chiasẻ niềm tự hào của Trung Quốc trước một Nobel thực sự xứng đángcho một người Trung Quốc khác – nhà văn Mạc Ngôn – năm 2012, khi BắcKinh nổi giận về đề nghị lấy tên ông đặt cho con đường trước cửa Đạisứ quán Trung Quốc tại Hoa Kỳ năm 2016, và khi ôngqua đời năm 2017– vài dòng không một lời thương tiếc.
Song độc giả Việt Nam có thể đọc ôngqua một tác phẩm do NXB Văn hóa Dân tộc xuất bản năm 2002, Người đẹp tặngta thuốc bùa mê, bản dịch của Vũ Công Hoan, hơn 400 trang đối thoạivăn học giữa Lão Hiệp – bút danh của Lưu Hiểu Ba mà các nhà kiểm duyệtViệt Nam chắc chắn không biết – và Vương Sóc, hai văn nhân cùng thế hệ,cùng nổi lên như hai hiện tượng đặc biệt của văn đàn Trung Quốc từ giữanhững năm tám mươi. Đoạn trích sau đây là ý kiến của Lưu Hiểu Ba về vănhọc Trung Quốc sau Cách mạng Văn hóa.
Phạm Thị Hoài
___________
Từ khi Cách mạng Văn hoá chấm dứt đến nay,văn nhân Trung Quốc vẫn tựa lưng vào một vòng sáng hư ảo. Lúc mới đầu, vòngsáng hư ảo này chiếu vào sự phản kháng và chống đối của các nhà phê bình, nhàvăn, ca sĩ và đạo diễn tiên phong. Bối cảnh lớn của hình thái ý thức Cách mạng Vănhoá đã làm nổi bật hoặc thổi phồng tính chất sâu sắc và gay gắt của sự phản khángấy. Dần dần các nhà tiên phong đã mất đi cái nền cho họ nổi bật, sự phản khángđã mất đi bối cảnh. Té ra chúng ta chỉ nói những lời người khác đã nói. Chúngta chẳng qua là “văn học tan băng” của Liên Sô, chẳng qua là nói nhữngđiều mà các bậc tiền bối của thời Ngũ Tứ đã nói từ đời nào. Thế là chẳng ai tìmđược chỗ đứng, người thì đi tìm cội nguồn, kẻ thì lao vào văn hoá đại chúng,người nữa thì chạy theo thời thượng mới nhất của phương Tây. Các đạo diễn tiênphong, những nhà lý luận tinh anh cũng bắt đầu cải tà quy chính. Còn các nhà viếttiểu thuyết thì cơ bản không có việc làm, liền quay sang viết các cảm thán cũ.Ví dụ, lửa của Tô Ðồng[1] giống lửa của Dư Thu Vũ[2]. Tô Ðồng là phiên bản tồi của Trương Ái Linh[3]. Dư Thu Vũ là văn học tìmvề cội nguồn, là thông tục hoá thuyết văn hoá Trung Quốc cứu vớt loài người củaLý Trạch Hậu[4].Còn có cả luồng tư tưởng “bản địa hoá” rất ầm ĩ hung hăng, đem chủnghĩa phương Ðông[5] vàviệc phê phán chủ nghĩa thực dân phương Tây ra nói. Cách mạng Văn hoá vừa chấmdứt là thời kỳ động đực của người Trung Quốc. Nếu một ngày nào đó thật sự có tựdo, có thể viết một cách không bị hạn chế, thì chúng ta còn viết được gì nữa?Lúc đó mới thật sự mất ngôn ngữ, ngay đến đại giả dối cũng không có.
Trí thức, nhà văn Trung Quốc đứng trước mộtvấn đề: khi đại nạn của dân tộc kéo dài nửa thế kỷ xảy ra mà tàn dư vẫn cònthì phải đối mặt với nó bằng phương thức và tư thế dáng vẻ nào? Tôi cảm thấy sựgiả dối lớn nhất là thể hiện mình trước tiên, đặt mình vào vị trí của người lênán và phán xét. Xưa nay chưa có ai hoặc rất hiếm có ai tự hỏi bản thân rằng tacó dự phần vào việc gây ra đại nạn này không. Ta có phải là kẻ đồng lõa không?Ta có phải chịu một phần trách nhiệm, dù chỉ từ khía cạnh đạo nghĩa không?Không có sự xét hỏi tâm khảm mình này thì không có cái gì thật. Gột rửa sạch bảnthân thì coi như gột rửa sạch cho tất cả bọn đao phủ. Cho nên văn chương TrungQuốc đều mang tính tô vẽ giả dối. Tô hồng bản thân cũng là tô hồng nỗi đau khổ,tô hồng nỗi đau khổ có nghĩa là gỡ tội cho những kẻ gây nên đau khổ.
Thứ văn chương ấy cho một cảm giác rằngchính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng gian tà độc ác. Ta đã là người kiên trìcho đến giây phút chó sủa trong bóng tối. Thứ này có hiệu quả lạ lùng lắm. Khiđau khổ không được công khai thì người ta im lặng, chấp nhận, lạnh lùng tới mứctê dại, tới mức thành người thực vật. Nhưng khi được công khai thì đau khổ trởthành một thứ vốn liếng để chộp lấy quyền lực, địa vị xã hội và vinh quang, thậmchí là viên gạch gõ cửa khoa cử. Ta là phái hữu từng chịu khổ nạn; ta là thanhniên trí thức từng lên núi xuống làng; ta là ngưu ma quỷ thần từng bị đấu tố,đã nằm chuồng bò… Vậy thì xã hội phải tôn kính ta, bù đắp cho ta, bồi thườngcho ta, ta có quyền đòi hỏi xã hội tất cả. Dựa vào cái gì cơ chứ? Dựa vào việcta đã từng chịu khổ, đã từng bị bức hại. Những người đã băng qua đồng cỏ núituyết thì có huân chương trường chinh. Những người từng đào địa đạo, giật nổ lôcốt giặc thì có huân chương kháng chiến. Những người đã đánh qua Nam Kinh thìcó huân chương giải phóng. Những người từng đánh giặc Mỹ thì có huân chương“chống Mỹ viện Triều”. Vậy thì, ta từng chống “Bè lũ 4tên”, từng gửi kiến nghị cho Đảng, đã trở thành phái hữu, thì ta phảiđược huân chương phái hữu, huân chương ngưu ma quỷ thần. Ðể treo nó lên ngực nỗiđau khổ của ta, để ai ai cũng biết ta đã từng chịu khổ, ta có quyền yêu cầu mọithứ và càng có quyền lên án người khác và tô hồng bản thân.
Sau 70 năm Bức màn Sắt của Liên Sô, dùthế nào thì vẫn còn một quyển Quần đảo Gulag, vẫn còn có người sờ lênngực tự hỏi, ta phải chịu trách nhiệm gì bởi sự tồn tại của bức màn sắt đó. Vìsao ta đã không làm gì khi có cơ hội chống lại, thậm chí một câu chất vấn đơngiản, một động tác ôm cột điện hét to cũng không làm. Chúng ta là nạn nhân, điềuấy là cái chắc. Lẽ nào chúng ta không là kẻ đồng lõa? Tối thiểu nên tự hỏi bảnthân như vậy.
Lúc Cách mạng Văn hoá mới bắt đầu, tôicòn nhỏ, không có thứ cử chỉ mạnh mẽ của Hồng Vệ binh. Nhưng hồi tưởng lạithì cảnh tàn nhẫn của cả xã hội cũng là từ trẻ con gây nên. Còn nhớ một việc rõnhất, tôi đã từng có lần tàn nhẫn với một ông già bằng tuổi bà nội tôi khi ấy,lúc tôi mười một mười hai tuổi. Ông tên là Doãn Hải, đã đi lính Quốc dân Đảng mấyngày sau đó đào ngũ về nhà. Ông ở gác dưới nhà tôi, làm nghề cắt tóc nuôithân, tức là cầm một chiếc tăng-đơ sắt bóp bóp trong tay, phát ra tiếng kim loạiva vào nhau, ngân rất lâu mới dứt. Ông Doãn Hải và bà nội tôi có quan hệ vớinhau rất tốt. Cách mạng Văn hoá bùng nổ, ông trở thành phần tử có lịch sử phảncách mạng. Bị con trai từ bỏ, ông không được cắt tóc nữa, bị buộc dọn khỏinhà, đến ở trong một gian nhà nhỏ mấy mét vuông của phòng nồi hơi khu tập thểchúng tôi, vừa tối vừa ẩm, ngoài cái giường ra không còn chỗ nào nữa. Ông phảiđi bới rác kiếm sống. Trong khu nhà chúng tôi còn có một người đàn bà Nhật bị gọilà “Ðông Phương”. Bà và ông Hải cùng bị chỉnh. Hàng ngày khi chúngtôi, sáng xin chỉ thị, tối báo cáo bày tỏ lòng trung thành, nhảy điệu múa chữTrung, thì bà Ðông Phương và ông Doãn Hải phải đứng trước mặt cúi đầu nhận tội.Ông Doãn Hải đầu cắt trọc, cạo bóng loáng. Một hôm tôi và mấy bạn nhỏ vừa đi vừatìm trò nô đùa, chợt nhìn thấy cái đầu trọc long lóc của ông Doãn Hải đang lụcbới trong đống rác, dưới nắng trời cái đầu trọc càng bóng loáng. Mắt tôi bừngsáng lên, tìm được trò chơi rồi. Chúng tôi đi đến chỗ ông nói to: “LãoDoãn Hải kia ngẩng đầu lên, thò cái đầu trọc ra, để ta búng vào trán mấycái”. Ông Doãn Hải nhìn tôi, đần mặt ra có vẻ cầu cứu. Ông bảo: “CậuBa ơi, tôi và bà nội cậu ngang tuổi nhau, lại là hàng xóm láng giềng quen biếtcũ, trước đây thường hay cắt tóc cạo đầu cho mấy anh em cậu, xin cậu tha chotôi lần này”. Tôi đáp: “Không được, dứt khoát phải búng”. ÔngDoãn Hải lại van xin mấy câu, thấy không ăn thua, ông liền lùi một bước thoảthuận: “Vậy thì nếu cậu định búng thật thì tôi quay đi, cậu búng vào gáycó được không? Tôi bảo: “Cái lão già này khôn ranh láu lỉnh lắm, thảo nàoquy lão là có lịch sử phản cách mạng. Không được, hôm nay ta dứt khoát phảibúng vào cái trán bóng kia mới được”. Mấy bọn trẻ khác cùng vào hùa vớitôi, đá tung cái sọt đựng rác của ông, sấn sổ nói: “Không cho búng thì từnay về sau đừng hòng bới rác nữa”.
Ông Doãn Hải không biết làm gì hơn, đành cốthò cái đầu ra giữa trời nắng gay nắng gắt, trán ông đọng những giọt mồ hôili ti. Tôi hoàn toàn không biết đó là một thứ làm nhục nhân cách hết sức ghê gớm.Ông Doãn Hải ở độ tuổi có thể làm ông nội tôi, sống lương thiện, lại dí dỏm,trước đây thường kể chuyện pha trò khi cắt tóc cho tôi. Nhưng lúc này, tôikhông cảm thấy gì, chỉ cảm thấy háu chơi. Tôi búng mạnh vào cái trán bóng lọnglấm tấm mồ hôi của ông, mấy cậu bạn kia cũng búng theo. Cuối cùng ông Doãn Hảicúi xuống, quay người đi, lưng quay về phía chúng tôi, vơ nhặt những thứ đồngnát vương vãi ra đất. Bây giờ nghĩ lại, chắc chắn là ông khóc, khóc vì nỗi sỉnhục chảy vào tim. Trái tim con người, nếu biết chảy máu, thì nhất định chảyvào lúc móng tay tôi búng lên trán ông Doãn Hải. Từ đó trở đi, hễ nhìn thấychúng tôi thì từ mãi đằng xa, ông Doãn Hải đã giơ cánh tay lên hô to: “Họctập Hồng Tiểu binh! Kính chào Hồng Tiểu binh!”. Ông hô tới mức chúng tôicười phá lên. Lúc còn bé tôi đã làm khá nhiều việc tàn nhẫn như vậy. Hành vinày không khác gì về thực chất với Hồng Vệ binh chuyên đi đánh đập cướp giật,túm đầu người khác. Bọn chúng tôi có một thứ tàn bạo hung dữ không coi ai rangười, vốn có ngay từ lúc còn nằm trong bụng mẹ. Ở thời đại con người như rau cỏ,thì không ai trong chúng ta thoát được trách nhiệm, rửa sạch được mình đâu.
(Trích từ Người đẹp tặng ta thuốcbùa mê của Vương Sóc và Lão Hiệp, bản dịch của Vũ Công Hoan, NXBVăn hóa Dân tộc, 2002)
[1] Tô Đồng (Su Tong), tác giảtiểu thuyết Năm thê bảy thiếp (Thê thiếp thành quần, 1990)được Trương Nghệ Mưu chuyển thể điện ảnh thành bộ phim Đèn lồngđỏ treo cao (1991) nổi tiếng. Tiểu thuyết Con thuyền không bếnđỗ đoạt giải Văn học châu Á của ông được dịch và xuất bản tạiViệt Nam năm 2011. Năm 2015, ông đoạt Giải Mao Thuẫn, giải thưởng vănhọc danh giá hàng đầu Trung Quốc.
[2]Dư Thu Vũ (Yu Qiuyu) là một nhà văn và học giả văn hóa Trung Quốchết sức thành đạt. Hai tác phẩm Ngàn năm một tiếng thở dàivà Hành trình vô tận của ông được dịch và xuất bản tại ViệtNam năm 2018.
[3]Trương Ái Linh (Eileen Chang, 1920-1995), nhà văn nữ xuất sắc với những tác phẩmvề Thượng Hải và Hong Kong những năm 1940, sống phần lớn cuộc đời vàmất tại Hoa Kỳ. Tác phẩm Sắc, Giới của bà được dịch và xuấtbản tại Việt Nam năm 2009.
[4]Lý Trạch Hậu (Li Zehou), học giả và nhà tư tưởng, ảnh hưởng mạnh đếntrào lưu thoát giáo điều cộng sản ở Trung Quốc từ những năm tám mươi,từng bị quản thúc sau Sự kiện Thiên An Môn, từ năm 1991 sống và giảngdạy tại Hoa Kỳ. Danh tiếng của học giả trẻ tuổi Lưu Hiểu Ba hình thànhvới tác phẩm Phê phán sự lựa chọn – Đối thoại với Lý Trạch Hậunăm 1987. Một số công trình của Lý Trạch Hậu như Bốn bài giảng mỹhọc, Trung Quốc tư tưởng sử luận đã được dịch và xuất bảntại Việt Nam.
[5] Trào lưu xuất phát từ Orientalism (1978), tác phẩm nổi tiếng của Edward Said, học giả Hoa Kỳ gốc Palestine
June 24, 2021
Văn tế văn sĩ
Phạm Thị Hoài
Một thời gian dài, tôi tâm niệm tựcáo phó là việc đương nhiên với một người viết. Con dấu tối hậu trêntrang cuối tấm hộ chiếu ở cõi tạm này ta phải đích thân đóng, đểchắc chắn đã làm chủ cuộc đời mình chí ít một lần, dù có thể đã“buông lỏng lãnh đạo” nó ở tất cả các giờ phút trọng đại trongkiếp tồn tại mà mình ngẫu nhiên tham dự và trình diễn. Chí ít mộtlần giữ quyền đánh giá sự nghiệp của mình, ở thời điểm thân xác sắpkhao cho giòi bọ, tác phẩm chuẩn bị làm mồi cho thời gian. Dấu vếttinh thần của không ít người viết còn sớm tàn hơn dấu vết thể xác. Songmột ngày, lướt qua những dòng văn điếu khi lại một tác giả vừa quađời, tôi bỗng nhẹ nhõm bỏ ngay ý định đó. Tự cáo phó là dại dột. Ngườiở lại chắc chắn sẽ rộng lượng với tôi hơn tôi khi tôi ra đi. Khôngphải vì nghĩa tử nghĩa tận gì đó linh tinh, mà vì trước cái chếtmọi thứ đều thành tương đối. Phần lớn lầm lỗi đều dễ thể tất và chiếcquan tài giấy mực thường lớn hơn kích cỡ người xuống mồ.
Văn cúng nhà văn vì thế khá giốngnhau, rút cuộc thì đa số người viết đều loanh quanh trên dưới một mặtbằng chung nào đó của tài năng và tầm vóc, để làm cái việc mà họhoàn toàn không mơ ước là tôn bật một thiểu số xuất sắc. Thiểu sốấy có thể sống sót ngay cả khi bị bồi thêm vài cú chôn từ những phumộ văn chương chơi bẩn. Hai ngày sau khi Edgar Allan Poe qua đời, một bài viết kýtên Ludwig xuất hiện trên tờ New-York Daily Tribune và sau đóhàng loạt tờ khác đăng lại, tuyên bố rằng cái chết của Poe khiếnnhiều người bàng hoàng nhưng ít ai phải đau xót, vì đó là một thiêntài điên loạn, tiểu sử thì bê bối, đời sống thì bệ rạc, tư cáchthì bê tha nghiện ngập, bản tính thì đố kỵ nhỏ nhen, kém thân thiện,thiếu trung thực, lạnh lùng giễu cợt, khinh bỉ con người, trơ lìtrước đạo đức và danh dự, là nhà văn thì chỉ giỏi vẽ vời làm màu,là nhà phê bình chỉ cắm đầu mổ xẻ câu chữ, là nhà thơ tuy có độcđáo, song lại nhờ một sự nhạy cảm bệnh hoạn, một trí tưởng tượng mịtmù u ám, và trên tất cả là một tham vọng thô lậu: thành đạt, để cóquyền cười nhạo cái thế giới đã khiến lòng tự phụ của mình bịtổn thương. Bài báo ký cái tên lạ hoắc ấy hóa ra là của nhà phêbình Rufus WilmotGriswold,người thế chân Poe chủ biên một tạp chí văn chương, được chính ông giaodi cảo văn học của mình để quản lý, độc quyền xuất bản các tácphẩm của ông và định đoạt cho ông một số phận văn học đáng ngờ bằngmột cuốn tiểu sử đầy ảnh hưởng và cũng đầy bịa đặt bỉ ổi. Songmột phần tư thế kỷ sau, Poe phục sinh và bất tử, bài cáo phó rắptâm hạ ông xuống một huyệt mộ văn học thảm hại cũng bất tử theo,còn tác giả của nó rơi vào cõi vô tăm tích.
Cho đa số cố lắm chỉ lên đếnthường thường bậc trung, công thức truy điệu là một pha trộn ít nhiều khéo léo giữa nỗlực bày tỏ lòng thành và nỗ lực tránh thành thật. Một nhà vănxoàng ra đi thực ra là được giải thoát khỏi sự tầm thường khốn khổcủa cái nghiệp văn vẻ tự buộc. Thực ra là một an ủi trong nỗi đau lybiệt, thậm chí một ân huệ cho văn chương. Song chúng ta không nói thế. Trongvăn tế, chúng ta đem hết chân tình trân trọng một con người đã miệtmài trên con đường chữ nghĩa và để lại những trang văn bình dị nhưng chứachan tình người. Cứ qua đời là các nhà văn đều trúng giải thươngtiếc. Văn đàn thông báo mất mát. Hoặc khoảng trống. Về nguyên tắc làkhông ai lấp nổi. Nhưng tất nhiên vẫn còn lại những tác phẩm truyềncảm hứng, lay động tâm hồn nhiều thế hệ và sống mãi trong lòng bạnđọc. Những tác phẩm giàu tính nhân văn, có tầm vóc tư tưởng và chiềusâu văn hóa, gửi gắm thông điệp sâu sắc về những giá trị đích thực.Những tác phẩm thấm đẫm hơi thở cuộc đời và âm vang sự sống. Củamột người trọn đời đi tìm cái Đẹp, đam mê sáng tạo, tâm huyết vớinghề cầm bút, nặng lòng với văn chương, cháy hết mình trong tình yêunghệ thuật (ngoài ra còn biết lắng nghe ý kiến phê bình, ưu ái hoặc cócông phát hiện và bồi dưỡng đội ngũ viết văn trẻ), luôn ấp ủ nhữngchủ đề về quê hương đất nước, trăn trở suy ngẫm về thân phận conngười, bền bỉ đồng hành cùng lịch sử dân tộc và thời đại. Bằng ngônngữ sống động chân thực. Từ một cuộc đời mẫu mực đầy yêu thương vàmột tâm hồn nhạy cảm, vị tha, với những rung động sâu xa. Đã gópphần làm nên, đã là gương mặt tiêu biểu của, đã gây ấn tượng với,đã khá thành công ở. Và đã được tặng những giải thưởng cao quý nhưgiải B (không có giải A).
Thể loại văn tế văn sĩ này không cầnđến trí tuệ nhân tạo dụng võ. Một phần mềm đơn giản là đủ. Cho cảnhững đúc kết sự nghiệp dễ nhớ, bằng văn vần, lắp ghép từ tên cáctác phẩm. Cho cả những biến tấu tâm tình, mới hôm nào ngồi họp cùnganh, ngoài trời mưa lâm thâm; tháng trước nói chuyện điện thoại chị cònhồ hởi; lần gặp cuối ông đã yếu nhưng ánh mắt vẫn tinh anh, nụ cườivẫn sảng khoái; trên giường bệnh bạn vẫn một lòng thiết tha, cuộc đờiyêu như vợ của ta ơi; để rồi khi nhắm mắt ai cũng thanh thản, đắcthiền với tỷ lệ ngang đảng viên trúng cử Quốc hội. Tùy quan hệ cánhân, có thể chọn cả cách gọi người vừa khuất. Là người Bạn lớn,người Anh lớn, người Chị lớn, người Thầy lớn, người Văn lớn. Hoặc tiệnnhất: người hiền. Vừa khỏi rắc rối viết hoa viết thường, vừa theokịp trào lưu, đú trend trong tiếng Việt mới. Người hiền sớmmuộn cũng vào đề thi môn Ngữ văn, mạng xã hội cần những lăn tăn thờivụ.
Nghề nào cũng có lộc của nó. Cáophó văn chương tạm ứng một bonus ngoại lệ cho một sự nghiệp vănhọc mà thời gian rồi sẽ tính sổ. Nhưng trái với hình dung nhẹ dạcủa chúng ta, thời gian không có lý do gì để phải đúng đắn, kháchquan, công bằng và minh bạch hơn những cơ chế thẩm định khác. Nó nhấnchìm ức vạn ghe thuyền văn vẻ bé nhỏ trong cái bụng đại dương củanó, song cũng đánh đắm cả những con tàu lớn. Nó lùa những ông hoàngvà thần dân hạng bét của vương quốc văn chương vào cùng một xó quênlãng. Hai phẩm chất đáng tin cậy nhất của nó là vô tình và độcđoán. Nên trước khi thời gian ra tay, món tạm ứng hương khói hậu hĩnhnên đem ra dùng ngay, vả lại nghề văn ngày nay đã đủ mất giá để chẳnglộc linh cữu nào có thể đền bù.
Song những ngày vừa rồi, đọc nhữngdòng tưởng nhớ một nhà văn có tên tuổi vừa qua đời, tôi chỉ mong mâmcỗ cúng ông bớt đi nhiều món. Vẫn những thứ nhả ra từ phần mềm văntế văn sĩ. Vẫn cái gì mà tâm hồn trong sáng, sức làm việc bền bỉ,bút lực dồi dào, vốn văn hóa dày dặn, khát khao sáng tạo, cần mẫn truytìm mạch nguồn sống của dân Việt, bảo vệ những giá trị văn hóa cốtlõi của dân tộc. Vẫn cái gì mà nhà văn chân chính, cây bút đíchthực, tạo nên những giá trị không thể phủ nhận, dâng hiến cho sứmệnh của văn chương. Vẫn cái gì mà sống trọn một đời người sốngtrọn một đời văn. (Có những đời người không sống trọn chăng? Là KháiHưng chết phũ phàng vong thây ư? Có những đời văn không sống trọnchăng? Là Nhất Linh quyên sinh uất hận chăng?) Ông được gọi là hiệntượng, vì kỷ lục tuổi tác, kỷ lục nghìn trang mỗi đầu sách, kỷlục trung thành với viết tay truyền thống, kỷ lục chung thủy với mộtnhà xuất bản, kỷ lục sách dày mà bán chạy và kỷ lục giải thưởng,những giải thưởng chính thống mà người ta thường chê bôi trong ngữcảnh khác. Tất nhiên ông được gọi là người hiền, thậm chí làbậc “Phật văn”. (Chúng ta lại lên đường đi tìm tiên văn, thánhvăn cho đủ bộ như mười mấy thế kỷ trước đời Đường chăng? Chỉ trừquỷ văn. Eo ôi. Sợ lắm. Cấm.) Và những bài văn vần không thể tránhlại xuất hiện, nhặt tên tác phẩm này chắp tên tác phẩm kia. Người tatrầm trồ, tổng kết một sự nghiệp thế là tuyệt khéo. Thể loại phêbình văn học trà dư tửu hậu này sớm muộn cũng sẽ vào đề thi môn Ngữvăn.
Ông là người đẩy tôi vào tiểuthuyết. Khi ấy tôi vừa đốt sạch mấy trăm bài thơ để không bao giờ bénmảng đến thi phú nữa và mới viết được dăm trang truyện ngắn. Ông ngồinghe tôi phán thánh phán tướng về Trư cuồng rồi bảo, viếttiểu thuyết là chạy đường dài, ăn nhau về cuối. Và thách tôi, cógiỏi thì viết tiểu thuyết đi. Một người bạn chung chứng kiến cúthách đó, hứa thưởng mỗi trang một điếu thuốc nếu tôi vào cuộc. Tôi nhậnlời, với tiểu thuyết Thiên sứ.
Tôi không còn thực sự dõi theo những sáng tác sau này của ông nữa. Ông đã rẽ sang một hướng khác và tìm được chỗ đứng trong dòng chủ lưu, từ “ngoại biên” trở lại “trung tâm”, lội ngược con đường từ “trung tâm” dạt sang “ngoại biên” ở khúc quanh trước đó của số phận, như nhận định của Lại Nguyên Ân[1] trong một bài viết cách đây đã lâu, cho đến nay theo tôi là đáng đọc nhất về nhà văn Nguyễn Xuân Khánh. Tôi mong ông tiếp tục được nghiên cứu và đánh giá nghiêm túc như thế, sau tất cả những văn tế văn sĩ hương khói mù mịt. Cách tiện nhất để chôn một sự nghiệp văn học là cấp cho nó đủ loại chứng chỉ phổ biến trên thị trường, kể cả chứng chỉ về một thời hoạn nạn. Thời “Trư văn” mà người ta khẽ nhắc, để ồn ào chuyển sang thời “Phật văn”.
(Tuần báo Trẻ, 24/6/2021)
[1] Lại Nguyên Ân, “Vài nétvề đường văn Nguyễn Xuân Khánh”, 2012: http://lainguyenan.free.fr/TungDoanDu...
June 1, 2021
Thạch thảo ngắt rồi, em nhớ chăng?
Phạm Thị Hoài
Khi dịch Thưgửi một nhà thơ trẻ[1] của Rainer Maria Rilkeđầu những năm 90, tôi không biết đã có một bản dịch tiếng Việt khác,Thư gửi người thi sĩ trẻ tuổi của Hoàng Thu Uyên, do An Tiêmxuất bản ở Sài Gòn năm 1969. Cách đây vài năm, bắt gặp những dòngchữ mở đầu của mình xuất hiện dưới một cái tên khác, tôi mới biếtđến bản dịch đó và có dịp thưởng thức tình trạng lộn xộn thú vịngự trị trên cõi tự tung tự tác mà chúng ta gọi là internet:có trang đăng bản dịch của Hoàng Thu Uyên với bìa sách An Tiêm nhưng chêmphần lời dẫn từ bản dịch của tôi; có trang cũng đăng như vậy nhưngvới bìa sách do NXB Văn hóa Sài Gòn tái bản năm 2008; có trang để tôilàm dịch giả cho bản dịch của Hoàng Thu Uyên; có trang cho Hoàng ThuUyên đứng tên bản dịch của tôi. Sở dĩ cho đến nay tôi không nhầm mìnhlà Hoàng Thu Uyên, vì đó là bút danh của một trong những gương mặttrí thức lừng lẫy nhất ở miền Nam Việt Nam trước 1975: Phạm CôngThiện.
Thông thạocả chục ngoại ngữ cổ kim Đông Tây song lại “khinh bỉ những kẻnào biết nhiều thứ tiếng” và cho rằng tiếng Việt là khó nhấtvì “không có văn phạm và ngữ pháp”, Phạm Công Thiện đã dịchnhững tác giả thượng thặng như Heidegger, Nietzsche, Krishnamurti, HenryMiller, Nikos Kazantzakis, Rainer Maria Rilke nhưng ông không phải là mộtdịch giả theo nghĩa thông thường để có thể đem đặt vào một trườngphái dịch thuật nhất định hay đánh giá bằng những nguyên lý và tiêuchí ngày càng phức tạp của nghề này; nhất là ở thời mà trí tuệnhân tạo đã đủ sức chuyển phần xác của hầu hết mọi ngôn ngữ sangcác ngôn ngữ khác trong chớp mắt song vẫn bó tay trước phần hồn vàchúng ta, thua xa quy mô và tốc độ của AI, vẫn liều lĩnh và vô vọng đâmđầu vào những ngõ cụt của bất khả dịch. Không là dịch giả xuấtsắc nhất cũng như không là thi sĩ sáng giá nhất, không là nhà văn đặcbiệt nhất, không là học giả uyên bác nhất, không hẳn là một nhà tưtưởng dù thường được gọi là triết gia và lại càng không thực sự làmột tu sĩ, song Phạm Công Thiện là tổng thể kỳ lạ nhất của ngônngữ, tư tưởng, nghệ thuật, tôn giáo và tinh thần thời đại mà miềnNam Việt Nam sinh ra trong một khoảnh khắc ngắn ngủi và đặc quánh củalịch sử, từ giữa thập niên sáu mươi đến biến cố tháng Tư 1975, trong vòngxoáy của một cuộc chiến leo thang từng ngày, giữa vỏ đạn, xác ngườivà những chiến tuyến khốc liệt.
Trong lờigiới thiệu Về thể tính của chân lý, dịch từ nguyên bản tiếng Đức Vom Wesen der Wahrheit củaMartin Heidegger, ông tuyên bố bản dịch của mình “đánh dấu một biến cố quan trọng trong tư tưởng Việt Nam, vì dịch, theoHeidegger, có nghĩa nhảy, dịch chỉ có thể thành tựu được là nhờ một cái nhảy.Người dịch Heidegger phải bắt buộc làm hai cái nhảy: nhảy vào thể tính Đôngphương qua ngôn ngữ Việt Nam và nhảy vào thể tính Tây phương qua ngôn ngữ Đức:điều kiện sơ đẳng của người dịch là phải nắm lấy tính thể Đông phương trongmười ngón tay mình và nắm lấy tính thể Tây phương trong mười ngón chânmình.” Chuyện mười ngón tay mười ngón chân chỉ là một cách nóiđiển hình Phạm Công Thiện, có thể cường điệu đại ngôn, có thể tu từmê hoặc, có thể cực đoan lập dị và cả tào lao nonsense, nhưng baybổng, nên thơ, độc đáo bất ngờ, quảng bác mà nóng rực như một dòngdung nham trẻ trung cường tráng, phun xối xả dăm năm rồi tắt vụt. Ôngdịch cũng như viết, lang thang, ngẫu hứng, phóng túng, thậm chí bấtcần, nhất là không cần “đau đáu đi tìm một tương đương” vìtiếng Việt đơn âm, trong sự tôn thờ đắm đuối của ông, mang một“khả tính siêu việt” và một trật tự hoàn toàn khác vớitrật tự tổng hợp của ngôn ngữ đa âm phương Tây, khiến dịch là “sờmó tiếng Việt và bị tiếng Việt sờ mó, nâng từng chữ, bóp từng chỗkín”, là “phục hồi lại ngôn ngữ Việt Nam, lắng nghe lại tấtcả dư âm phong phú của từng chữ Việt, mỗi từ Việt là kết quả lâudài gian nan của sự đấu tranh khủng khiếp, kết tinh tất cả hồn thiêngđất nước, là một bước chân của tổ tiên bước đi hoang vu vào đêm tốicủa dân tộc, té lên, té xuống, mở rộng ra chân trời rực sáng của nonsông”, và rốt cuộc, dịch để hiểu “vì sao một chữ Đức, một chữHy Lạp lại quyết định chiến tranh Việt Nam”. Tiếng Việt là ngôinhà đầy an ủi để hồn của một dân tộc đang thí xác cho bom Mỹ vàsúng trường Kalashnikov lui về nương náu.
Phạm Công Thiện không làmnghề dịch để phải bận tâm đến những chuẩn mực chao ôi là nghiêm cẩnmà chúng ta thường nép vào, dính chặt và nhiều khi chết gí ở đó.Ông chỉ dịch những tác giả ruột thịt với mình để nhờ tiếng Việt,quy chiếu từ một ngôn ngữ khác, phát ngôn tinh thần hư vô, thái độ khướctừ và sự cô đơn của chính mình. Nên ông trung thành với bản thân hơnvới bản gốc và nếu cần thì hy sinh bản gốc để bảo toàn hay thậmchí khuếch đại bản thân. Rilke của ông chệch với Rilke của Rilke khánhiều, song đó là chủ định, đầy ý thức và thách thức, chứ không đơngiản là dịch ẩu hay dịch nhầm. Cách dịch của ông khiến tôi phải nhớđến nhân vật Faust của văn hào Goethe, cũng là dịch giả nhiệt thànhvà một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết dịchthuật văn học ở Đức.
Faust muốn dịch nguyênbản Kinh thánh Tân ước sang tiếng Đức cho thỏa khát khao khải thị, vàvấp ngay vào câu mở đầu lời dẫn Phúc âm theo Thánh Gioan: “Sáchcó ghi: Khởi thủy là Lời“. Chàng băn khoăn, không, không thểđề cao Lời quá mức như vậy, phải dịch khác. “Khởi thủy là Tưtưởng” chăng? Nhưng liệu tư tưởng có tác động và tạo ra tấtcả không? Hay nên dịch thành “Khởi thủy là Sức mạnh“? Lựachọn này vừa tính đến đã thấy không ổn. Và cuối cùng, như được thầnlinh dẫn dắt, chàng vững lòng đặt bút viết: “Khởi thủy làHành động“[2].Khái niệm logos trong bản gốc tiếng Hy Lạp của câu này cho phépnhiều cách diễn giải. Bản tiếng Việt trùng với phần lớn các bảndịch ở những ngôn ngữ khác: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời“,trong khi ở bản tiếng Nhật và tiếng Hàn thì logos là chínhKi-tô, khi chưa có gì trong vũ trụ thì đã có Ki-tô; còn ở bản tiếngTrung thì “Thái sơ hữu đạo“, khởi thủy là Đạo chứkhông phải Lời. Một cách dịch tuyệt vời, “mở ra một chân trờicho chiêm niệm”, theo tiêu chí dịch thuật của một dịch giả đặcbiệt khác, thi sĩ Bùi Giáng, cũng một hiện tượng kỳ lạ và kỳ diệucủa miền Nam trước 1975 và tương đồng về tinh thần hơn là tương phảntrong hành động với Phạm Công Thiện. Cũng chuyện nhảy, từ Heideggerqua Phạm Công Thiện, cú nhảy trong dịch thuật ở Bùi Giáng là nhảylùi, lùi xa khỏi bản gốc để trân trọng nó từ khoảng cách thíchđáng và “nếu buộc phải dịch thì đành cưỡng bức”. Ông đã cưỡng8 câu thơ tự do của Emily Dickinson vào 14 câu lục bát, trong đó một câulà trích nguyên văn từ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ôngkhông dịch, vì “kẻ biết dịch tối cao không bao giờ chịudịch”.
Mỗi thời đại hay thực ra mỗi thế hệ đều cần bản dịch của thời đại mình, thế hệ mình. Mọi bản dịch đều sẽ đến lúc lỗi thời và thường lỗi thời nhanh hơn bản gốc. Nhiều trang dịch của Phạm Công Thiện, như chính con người quá đỗi khác thường và cuộc đời đầy đứt gãy của ông, tách khỏi ngữ cảnh của thời đại hố thẳm và thế hệ bơ vơ, khủng hoảng, quằn quại mà kiêu hãnh của ông, khó có thể khiến độc giả bây giờ hình dung sức lan tỏa và chấn động của chúng ở miền Nam nửa thế kỷ trước. Tôi không thuộc nhóm đệ tử vô điều kiện của ông để say sưa niệm những câu dịch bùa chú, như “Tính thể mà khi lập thể thì không có căn thể” (Sein als Gründendes hat keinen Grund), song mỗi lần lướt qua biết bao bản dịch rón rén sợ sệt, biết bao bản dịch rúm ró nhu nhược, biết bao bản dịch gò bó tủn mủn, biết bao bản dịch bẹp gí dưới bóng đè của bản gốc, biết bao bản dịch vô vị và nô lệ đang nghiễm nhiên sống khỏe thì nhành thạch thảo của Phạm Công Thiện lại hiện về.
Trong Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, chương bảy, cuốn sách huyền thoại mà ông khởi viết lúc 19 tuổi để xuất hiện như một cơn địa chấn giữa một Sài Gòn đang chao đảo trong những biến cố kinh hoàng, Phạm Công Thiện đã trích dẫn bài thơ “L’Adieu” của Guillaume Apollinaire trước khi Phạm Duy mở đầu ca khúc nổi tiếng của mình với “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo. Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi”, phổ lời Việt của bài thơ ấy. Hoàng Nguyên Chương và Bùi Giáng đều dịch bruyère là thạch thảo. Một phần tư thế kỷ sau, Phạm Công Thiện vẫn trở đi trở lại với thạch thảo trong Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất. Ông biết bruyère là loài thảo mộc đặc trưng của các vùng đồng hoang châu Âu mà ông dịch là “truông thạch thảo”, tiếng Đức là Heide trong một đoạn thơ của Georg Trakl được Heidegger – vẫn Heidegger! – trích trong Was heißt Denken?. Bây giờ, với trụ sở của Google trong não bộ, chúng ta thông thái ghê gớm. Chúng ta thừa biết thạch thảo là một loài hoa cúc chẳng liên quan gì đến Apollinaire, Georg Trakl và Heidegger. Nhưng chết rồi sẽ là một mùa thu khác chứ không phải mùa thu ấy, mùa thu của Phạm Công Thiện, Phạm Duy, Bùi Giáng, Hoàng Nguyên Chương, của miền Nam trước 1975, khi ta ngắt đi một cụm hoa cúc mối.
Phạm CôngThiện qua đời mười năm trước ở chốn lưu vong. Nếu không, hôm nay ôngtròn tám mươi, tuổi bây giờ không còn quá hiếm.
1/6/2021
Tuần báo Trẻ,3/6/2021
[1] Bản mới hiệu đính đã đăngtrên Tuầnbáo Trẻ tháng 4 & 5, 2021
[2] J. W. Goethe, Faust,phần I, câu 1217-1237, tr. 62-63, bản dịch của Quang Chiến, NXB Văn học,Hà Nội 2001
March 30, 2021
Một nét lẻ loi nghiêng lệch góc trời
Phạm Thị Hoài
Lần gặp đầu tiên, khi tôi đến thì ngọngió Hua Tát vừa quét vài nhát mà thành trì văn học hiện thực xãhội chủ nghĩa phải nghiêng ngả đã ngồi đó, nhỏ thó, nhầu nhĩ, cũkỹ, lặng lẽ và lạc lõng khôn tả ở phòng khách nổi tiếng của giađình nhà giáo Văn Tâm, giữa sách, tranh, đồ cổ, những bức hình vangbóng một dòng họ danh giá, những món ăn tinh tế mà bà Cam đãi kháchvới một sự thanh lịch quặn lòng, và những tên tuổi lẫy lừng củagiới trí thức ít nhiều giữ khoảng cách với hệ thống. Ngay sau đóanh rủ tôi đi uống cà phê đêm, ở một chỗ “hay lắm, chứ đámsa-lông này thì cũng phải biết, nhưng sa vào đó là toi, mình phảithận trọng”.
Nhu cầu thận trọng của tôi rất nhỏ.Một trong những tính cách Việt khiến tôi tuyệt vọng nhất là cái gìcũng cân nhắc, cẩn tắc vô áy náy, cái gì cũng nâng lên đặt xuống,nhìn trước ngó sau, lo xa, dè chừng, uốn lưỡi dăm bảy lần, so đo khôndại, cẩm nang tồn tại toàn những mưu sinh với thủ thuật tiến thoáigiữa nhân tình thế thái, bao nhiêu tinh hoa đúc cả lại trong những mẹobảo trọng, giữ mình. Giữ mình và mơ thỏa chí tang bồng. Rồi mẹobiến thành đạo. Tôi không mê cái đạo ấy. Anh bảo, vì em còn trẻ, lạimay mắn nữa. Tôi đồng ý. Khi ấy tôi vừa ra khỏi cuộc hôn nhân thứnhất, sống chung với chuột và gián trong một tầng hầm đủ để đứnglom khom và sáng dậy vẫn nhảy chân sáo khỏi giường dù không có gìnhét vào bụng. Anh nghiêm trang nói bằng giọng đàn ông trầm nhất màtôi từng nghe và không còn gặp lại ở đâu nữa: “Nhưng cuộc đờibất trắc lắm. Hình như anh cũng đầy bất trắc”. Tôi nhắc, anh đangnói đúng lời nhân vật kể chuyện trong Tướng về hưu đấy nhé: “Hìnhnhư tôi khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng”. Bất trắc nhậnrồi, vậy cổ hủ và thô vụng thì sao? Nào, hình như hay không hình như?Anh gầm gừ gì đó trong cổ họng, nhưng nuốt xuống, chỉ nhả ra một tràng“À à à à… Thì thì thì thì…”, tật hay thuật nói lắp màtôi hay nhại trong bốn tháng rưỡi thân với anh. Tôi cậy tuổi trẻ vàtình cảm, đùa chọc ở mọi cung bậc, song không sợ có thể đi quá, vìbiết chẳng thật sự chạm được vào anh.
Có một bức tường ngăn anh với bênngoài. Anh thăng hoa nhất, khi bức tường ấy kiên cố nhất. Nó, chứkhông phải thần thánh nào sang tay cho những trang viết xuất sắc củaanh khi ấy một khí quyển đặc biệt khiến chúng ta say mê và kinh ngạc.Phần lớn người viết ở Việt Nam không sở hữu những bức tường như thế.Họ phát quang cho mình phần ổ ngay ngắn và đẻ suôn sẻ những quảtrứng vuông vắn vào đó. Song anh không muốn nó, bức tường của anh,pháo đài kỳ diệu khiến tôi phát ghen. Chừng nào nó còn là mộtthách thức, những cú húc của anh vào nó còn tóe ra đủ những tialửa thổi bùng ngọn lửa của một trào lưu văn chương. Tôi gặp anh khi côngcuộc húc đầu vào tường đó đã ít nhiều phân thắng bại. Anh sứt đầumẻ trán, nhưng bức tường lở dần từng mảng. Nó thấp dần, để anhkhông cao dần.
So với những tồn tại dọn ổ kia, đờivăn của anh gập ghềnh hơn, song lời chúc “không thuận buồm xuôigió” của ông Hoàng Ngọc Hiến với anh cuối cùng đã vô dụng. Trongnhững tác giả quan trọng của văn học tiếng Việt, anh có một sựnghiệp thành đạt và yên ổn vào bậc nhất. Đất nước này chưa bao giờhết những văn nhân bị hắt hủi, bịt mồm, đày ải, giam cầm, thanhtrừng, hủy diệt. Chiến tranh, chính trị và cơ cực cũng đã cướp đinhững Vũ Trọng Phụng, Phạm Quỳnh, Nhất Linh, Khái Hưng, Nam Cao, đẩynhững Mai Thảo, Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Dương Thu Hươngđi biệt xứ. Nguyễn Du trong Vàng lửa, chân dung xúc động vàlãng mạn của anh về chính mình, một người đàn ông “bé nhỏ, mặtnhàu nát vì đau khổ”, “ngập trong mớ bùng nhùng” củamột đời sống vật chất “do những hoạt động cù lần mang lại, năngsuất thấp, chỉ thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu”, có vẻ bị hãmtrong những khổ nhục sống mòn của đời công chức quèn thời xã nghĩatem phiếu hơn là vây trong những khổ nạn dấn thân và thăng trầm củalịch sử mà tác giả của Truyện Kiều gánh chịu. Nguyễn Du thựcchứ không phải của hư cấu đã chọn, dù thế cuộc chỉ cung cấp nhữnglựa chọn cực lòng. Ông, đại diện trâm anh thế phiệt của một vươngtriều suy tàn, chống đến cùng khởi nghĩa Tây Sơn áo vải, đại thi hàodân tộc chống đại anh hùng dân tộc trong nỗi khó xử của chúng ta hậuthế. Ông thất bại, phiêu bạt xứ người lánh nạn, trở về, bất hợptác, bỏ trốn, bị bắt, đi tù, ở ẩn, và mười bảy năm cuối đời lại chứngtỏ tầm vóc của cốt cách khi được trọng dụng, nhiều lần cáo quan,cả khi tại vị cũng xa lánh tao đàn chính thống. Nỗi “hận mênhmông, sầu mênh mông”, lời Trương Tửu về ông, của cuộc đời đầy ýthức về dấn thân, thất bại và sự vô nghĩa của công thành danh toạiấy khác hẳn kích thước của những toan tính bảo trọng, lúc nào quấtngựa lúc nào ghìm cương của vị tiên chỉ trong làng văn Việt, khi ấymới mất và để lại trên chiếu nhất một khoảng trống bao người thèmmuốn. Tôi e rằng anh chống batoong đi dạo thì không hợp, nhưng hình hàithần thái ấy trong quần ống cao ống thấp thì chuẩn Nguyễn Tuân củađồng quê.
Trong cách điệu tài tình của anh, nôngthôn Việt Nam thô lậu, tối tăm, khốn cùng, cam chịu, song là chốn đểthương nhớ, là nẻo để tìm về, như thể ở đó và chỉ ở đó trái timthích thổn thức của chúng ta mới có thể rung lên trong sự bình dị, trongtrẻo, thậm chí tinh khiết, trong thiện tính của tình người, trong tâmlinh đậm triết lý dân gian thông thái, trong những lời dân dã bỗ bãsướng tai và cái cười tục tĩu mà giải tỏa, như thể nông thôn ấy làlối thoát của xã hội đô thị hóa nhiễu nhương giả trá với đám tríthức giả danh trong những sa-lông phù phiếm. Từ lúc anh khơi cơn sốtchân quê trong văn chương đến lúc Bà Tân Vê-lốc nhà quê xôngvào ẩm thực giải trí, đạt hơn bốn triệu người theo dõi trên YouTube,nông thôn ấy vẫn thế, chưa bao giờ khác và cho đến gần đây nhất, là nhữngcái tên cắm bật máu ký ức, Thái Bình, Tiên Lãng, Đắk Nông, Văn Giang,Đồng Tâm. Chỉ không là giải thoát.
Tôitrách anh đã né tránh những vấn nạn thực và cấp bách của cái nôngthôn ấy và ít nhiều thi vị hóa nó. Anh ái ngại, rằng tôi đã quáđặt lòng tin vào ý nghĩa xã hội của văn chương, chỉ có đám nhà vănxoàng, kém tự tin ở tài năng của mình mới đi phản ánh xã hội. Khônglâu sau, anh đào sâu quan niệm ấy trong tiểu luận Nhà văn và bốntrùm ‘Mafia’:“Việc phản ảnh xã hội của họtrong tác phẩm thường sốt sắng nhưng cũng thường sai be bét. Làm sao mà khôngsai be bét được? Ngay các nhà chính trị khi định ra chế, định ra chính sách, hướngdẫn chúng thực hiện chính sách đó, phấp phỏng theo dõi hàng ngày cũng còn khôngtin sự sai đúng, nữa là một người đứng ở ngoài cuộc?” Nhân vật kẻ sĩtrong các tác phẩm của anh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bính vàtất cả các thày giáo nông thôn đều không hiểu gì về chính trị, họchỉ là những đứa trẻ trong vắt và ngờ nghệch, với một lòng tốtnhỏ chẳng cứu được ai, thậm chí sự cô đơn của họ cũng bé nhỏ.
Một lúc nào đó, tôi chỉ còn nghetiếng anh từ một khoảng cách lớn. Vẫn giọng đàn ông trầm nhất từngkhiến tôi xao xuyến ấy. Bây giờ anh nói về những thứ như nhà văn chỉlà người viết trong tay Thượng đế, rồi ranh giới giữa thiên tài vàthiên tai, rồi xuất thế nhập thế, ngôn hoài thuật hoài, vô sở cầubất sở cầu, rồi tu thân tìm đạo, chân tính Phật tính, rồi chân-thiện-mỹ, rồi một lần nữalại con người càng có tâm càng nhục, đời rất buồn nhưng rất đẹp hayđời rất bạc nhưng rất đáng yêu, vừa đáng phỉ nhổ vừa đáng trântrọng, thậm chí cả về giữ gìn bản sắc dân tộc và hòa nhập với thế giớivăn minh… Anh cũng dành nhiều thời gian để luận anh hùng, chủ yếutrong văn giới. Những thi sĩ thánh thiện bị đám đông phàm phu tục tửbôi bẩn. Những cuộc chơi lớn của tài năng siêu việt vấp phải sự trungbình đông đúc và mẫn cán. Sự đểu giả và bạc bẽo trong trường văntrận bút. Và anh, với nỗi buồn tê tái, vẫn đăng đàn cao đàm khoátluận và cả hội hè thù tạc, thậm chí hòa dần vào “đám giặcgià lăng nhăng thơ phú” bất tử trong chính con chữ của anh. NguyễnTuân cũng mở đầu bằng mười năm sáng chói và phần đời còn lại dùngđể nuôi huyền thoại, bằng chí giữ mình.
Một tác giảlớn dĩ nhiên không sinh ra để phải chịu hoạn nạn hay ngược lại. Goethevẫn vĩ đại trong văn học Đức từ một cuộc đời quan chức hanh thông, ăncơm chúa mà tối ngày múa vũ điệu ngoạn mục của riêng mình. Ở phươngTây bây giờ, khổ ải đáng kể nhất với đa số người viết, thường xuấtthân từ các lớp đào tạo viết văn ở những trường đại học danh tiếng,chỉ đơn giản là bán được tài năng hơn giá xứng đáng. Song anh đến từmột bối cảnh khác. Nơi không thể có một Trần Dần của Cổng tỉnh,Đêm núm sen, Jờ Joạcx, Mùa sạch, Những ngã tưvà những cột đèn, Con trắng, Hùng ca lụa, Độngđất tâm thần, Thơ không lời-Mây không lời, Thiên thanh, Thởdài-Tư Mã dâng sao, Thơ mini và những ghi chép trong các cuốnSổ bụi huyền thoại, nếu không có “quốc nạn Nhân văn”.Không thể có Chuyện kể năm 2000 nếu Bùi Ngọc Tấn không từngmang số tù CR880. Không thể có Trăng ngục và Xem đêm nếukhông có 12 năm biệt giam của Phùng Cung.
Cũng không thể có Nguyễn Huy Thiệpnếu không có Đổi Mới. Cái giá phải trả của biết bao người đã choanh một sự nghiệp phùng thời. Cõi văn chương không có vua, song văn lựcthâm hậu của anh lẽ ra không chỉ đủ để lên ngôi trong truyện ngắn. Lầngặp cuối cùng mười năm trước, khi tôi đến thì tác giả lừng danh củavăn học Việt Nam đương đại đã ngồi đó, nhỏ thó, nhầu nhĩ, cũ kỹ,lặng lẽ và lạc lõng khôn tả giữa mấy chục độc giả của Liên hoan Vănhọc Berlin. Tôi nhắc lại ước mơ “cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằngsóng dữ” thuở nào, anh bảo đã rửa tay gác bút. Viết thế thôi,viết nữa bọn trẻ nó ghét. Thế là tri túc, biết mình biết đời.
Không ai biết và viết về anh như chính anh. Thời thân thiết tôi thường bày trò lẩy Thiệp, lấy chữ của anh vận vào anh. Hôm ấy tôi lẩy được “một nét lẻ loi nghiêng lệch góc trời”.
29/3/2021
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers

