Lưu Hiểu Ba – Lẽ nào chúng ta không là kẻ đồng lõa?
Hôm nay là tròn 4 năm ngày mất của LưuHiểu Ba. Ở Việt Nam sự nghiệp tư tưởng, văn hóa và chính trị của ôngchưa bao giờ được đề cập. Tên ông chỉ được nhắc đến, khi truyền thông chínhthống vạch trần âmmưu của phương Tây với Giải Nobel Hòa bình cho ông năm 2010, khi ViệtNam chiasẻ niềm tự hào của Trung Quốc trước một Nobel thực sự xứng đángcho một người Trung Quốc khác – nhà văn Mạc Ngôn – năm 2012, khi BắcKinh nổi giận về đề nghị lấy tên ông đặt cho con đường trước cửa Đạisứ quán Trung Quốc tại Hoa Kỳ năm 2016, và khi ôngqua đời năm 2017– vài dòng không một lời thương tiếc.
Song độc giả Việt Nam có thể đọc ôngqua một tác phẩm do NXB Văn hóa Dân tộc xuất bản năm 2002, Người đẹp tặngta thuốc bùa mê, bản dịch của Vũ Công Hoan, hơn 400 trang đối thoạivăn học giữa Lão Hiệp – bút danh của Lưu Hiểu Ba mà các nhà kiểm duyệtViệt Nam chắc chắn không biết – và Vương Sóc, hai văn nhân cùng thế hệ,cùng nổi lên như hai hiện tượng đặc biệt của văn đàn Trung Quốc từ giữanhững năm tám mươi. Đoạn trích sau đây là ý kiến của Lưu Hiểu Ba về vănhọc Trung Quốc sau Cách mạng Văn hóa.
Phạm Thị Hoài
___________
Từ khi Cách mạng Văn hoá chấm dứt đến nay,văn nhân Trung Quốc vẫn tựa lưng vào một vòng sáng hư ảo. Lúc mới đầu, vòngsáng hư ảo này chiếu vào sự phản kháng và chống đối của các nhà phê bình, nhàvăn, ca sĩ và đạo diễn tiên phong. Bối cảnh lớn của hình thái ý thức Cách mạng Vănhoá đã làm nổi bật hoặc thổi phồng tính chất sâu sắc và gay gắt của sự phản khángấy. Dần dần các nhà tiên phong đã mất đi cái nền cho họ nổi bật, sự phản khángđã mất đi bối cảnh. Té ra chúng ta chỉ nói những lời người khác đã nói. Chúngta chẳng qua là “văn học tan băng” của Liên Sô, chẳng qua là nói nhữngđiều mà các bậc tiền bối của thời Ngũ Tứ đã nói từ đời nào. Thế là chẳng ai tìmđược chỗ đứng, người thì đi tìm cội nguồn, kẻ thì lao vào văn hoá đại chúng,người nữa thì chạy theo thời thượng mới nhất của phương Tây. Các đạo diễn tiênphong, những nhà lý luận tinh anh cũng bắt đầu cải tà quy chính. Còn các nhà viếttiểu thuyết thì cơ bản không có việc làm, liền quay sang viết các cảm thán cũ.Ví dụ, lửa của Tô Ðồng[1] giống lửa của Dư Thu Vũ[2]. Tô Ðồng là phiên bản tồi của Trương Ái Linh[3]. Dư Thu Vũ là văn học tìmvề cội nguồn, là thông tục hoá thuyết văn hoá Trung Quốc cứu vớt loài người củaLý Trạch Hậu[4].Còn có cả luồng tư tưởng “bản địa hoá” rất ầm ĩ hung hăng, đem chủnghĩa phương Ðông[5] vàviệc phê phán chủ nghĩa thực dân phương Tây ra nói. Cách mạng Văn hoá vừa chấmdứt là thời kỳ động đực của người Trung Quốc. Nếu một ngày nào đó thật sự có tựdo, có thể viết một cách không bị hạn chế, thì chúng ta còn viết được gì nữa?Lúc đó mới thật sự mất ngôn ngữ, ngay đến đại giả dối cũng không có.
Trí thức, nhà văn Trung Quốc đứng trước mộtvấn đề: khi đại nạn của dân tộc kéo dài nửa thế kỷ xảy ra mà tàn dư vẫn cònthì phải đối mặt với nó bằng phương thức và tư thế dáng vẻ nào? Tôi cảm thấy sựgiả dối lớn nhất là thể hiện mình trước tiên, đặt mình vào vị trí của người lênán và phán xét. Xưa nay chưa có ai hoặc rất hiếm có ai tự hỏi bản thân rằng tacó dự phần vào việc gây ra đại nạn này không. Ta có phải là kẻ đồng lõa không?Ta có phải chịu một phần trách nhiệm, dù chỉ từ khía cạnh đạo nghĩa không?Không có sự xét hỏi tâm khảm mình này thì không có cái gì thật. Gột rửa sạch bảnthân thì coi như gột rửa sạch cho tất cả bọn đao phủ. Cho nên văn chương TrungQuốc đều mang tính tô vẽ giả dối. Tô hồng bản thân cũng là tô hồng nỗi đau khổ,tô hồng nỗi đau khổ có nghĩa là gỡ tội cho những kẻ gây nên đau khổ.
Thứ văn chương ấy cho một cảm giác rằngchính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng gian tà độc ác. Ta đã là người kiên trìcho đến giây phút chó sủa trong bóng tối. Thứ này có hiệu quả lạ lùng lắm. Khiđau khổ không được công khai thì người ta im lặng, chấp nhận, lạnh lùng tới mứctê dại, tới mức thành người thực vật. Nhưng khi được công khai thì đau khổ trởthành một thứ vốn liếng để chộp lấy quyền lực, địa vị xã hội và vinh quang, thậmchí là viên gạch gõ cửa khoa cử. Ta là phái hữu từng chịu khổ nạn; ta là thanhniên trí thức từng lên núi xuống làng; ta là ngưu ma quỷ thần từng bị đấu tố,đã nằm chuồng bò… Vậy thì xã hội phải tôn kính ta, bù đắp cho ta, bồi thườngcho ta, ta có quyền đòi hỏi xã hội tất cả. Dựa vào cái gì cơ chứ? Dựa vào việcta đã từng chịu khổ, đã từng bị bức hại. Những người đã băng qua đồng cỏ núituyết thì có huân chương trường chinh. Những người từng đào địa đạo, giật nổ lôcốt giặc thì có huân chương kháng chiến. Những người đã đánh qua Nam Kinh thìcó huân chương giải phóng. Những người từng đánh giặc Mỹ thì có huân chương“chống Mỹ viện Triều”. Vậy thì, ta từng chống “Bè lũ 4tên”, từng gửi kiến nghị cho Đảng, đã trở thành phái hữu, thì ta phảiđược huân chương phái hữu, huân chương ngưu ma quỷ thần. Ðể treo nó lên ngực nỗiđau khổ của ta, để ai ai cũng biết ta đã từng chịu khổ, ta có quyền yêu cầu mọithứ và càng có quyền lên án người khác và tô hồng bản thân.
Sau 70 năm Bức màn Sắt của Liên Sô, dùthế nào thì vẫn còn một quyển Quần đảo Gulag, vẫn còn có người sờ lênngực tự hỏi, ta phải chịu trách nhiệm gì bởi sự tồn tại của bức màn sắt đó. Vìsao ta đã không làm gì khi có cơ hội chống lại, thậm chí một câu chất vấn đơngiản, một động tác ôm cột điện hét to cũng không làm. Chúng ta là nạn nhân, điềuấy là cái chắc. Lẽ nào chúng ta không là kẻ đồng lõa? Tối thiểu nên tự hỏi bảnthân như vậy.
Lúc Cách mạng Văn hoá mới bắt đầu, tôicòn nhỏ, không có thứ cử chỉ mạnh mẽ của Hồng Vệ binh. Nhưng hồi tưởng lạithì cảnh tàn nhẫn của cả xã hội cũng là từ trẻ con gây nên. Còn nhớ một việc rõnhất, tôi đã từng có lần tàn nhẫn với một ông già bằng tuổi bà nội tôi khi ấy,lúc tôi mười một mười hai tuổi. Ông tên là Doãn Hải, đã đi lính Quốc dân Đảng mấyngày sau đó đào ngũ về nhà. Ông ở gác dưới nhà tôi, làm nghề cắt tóc nuôithân, tức là cầm một chiếc tăng-đơ sắt bóp bóp trong tay, phát ra tiếng kim loạiva vào nhau, ngân rất lâu mới dứt. Ông Doãn Hải và bà nội tôi có quan hệ vớinhau rất tốt. Cách mạng Văn hoá bùng nổ, ông trở thành phần tử có lịch sử phảncách mạng. Bị con trai từ bỏ, ông không được cắt tóc nữa, bị buộc dọn khỏinhà, đến ở trong một gian nhà nhỏ mấy mét vuông của phòng nồi hơi khu tập thểchúng tôi, vừa tối vừa ẩm, ngoài cái giường ra không còn chỗ nào nữa. Ông phảiđi bới rác kiếm sống. Trong khu nhà chúng tôi còn có một người đàn bà Nhật bị gọilà “Ðông Phương”. Bà và ông Hải cùng bị chỉnh. Hàng ngày khi chúngtôi, sáng xin chỉ thị, tối báo cáo bày tỏ lòng trung thành, nhảy điệu múa chữTrung, thì bà Ðông Phương và ông Doãn Hải phải đứng trước mặt cúi đầu nhận tội.Ông Doãn Hải đầu cắt trọc, cạo bóng loáng. Một hôm tôi và mấy bạn nhỏ vừa đi vừatìm trò nô đùa, chợt nhìn thấy cái đầu trọc long lóc của ông Doãn Hải đang lụcbới trong đống rác, dưới nắng trời cái đầu trọc càng bóng loáng. Mắt tôi bừngsáng lên, tìm được trò chơi rồi. Chúng tôi đi đến chỗ ông nói to: “LãoDoãn Hải kia ngẩng đầu lên, thò cái đầu trọc ra, để ta búng vào trán mấycái”. Ông Doãn Hải nhìn tôi, đần mặt ra có vẻ cầu cứu. Ông bảo: “CậuBa ơi, tôi và bà nội cậu ngang tuổi nhau, lại là hàng xóm láng giềng quen biếtcũ, trước đây thường hay cắt tóc cạo đầu cho mấy anh em cậu, xin cậu tha chotôi lần này”. Tôi đáp: “Không được, dứt khoát phải búng”. ÔngDoãn Hải lại van xin mấy câu, thấy không ăn thua, ông liền lùi một bước thoảthuận: “Vậy thì nếu cậu định búng thật thì tôi quay đi, cậu búng vào gáycó được không? Tôi bảo: “Cái lão già này khôn ranh láu lỉnh lắm, thảo nàoquy lão là có lịch sử phản cách mạng. Không được, hôm nay ta dứt khoát phảibúng vào cái trán bóng kia mới được”. Mấy bọn trẻ khác cùng vào hùa vớitôi, đá tung cái sọt đựng rác của ông, sấn sổ nói: “Không cho búng thì từnay về sau đừng hòng bới rác nữa”.
Ông Doãn Hải không biết làm gì hơn, đành cốthò cái đầu ra giữa trời nắng gay nắng gắt, trán ông đọng những giọt mồ hôili ti. Tôi hoàn toàn không biết đó là một thứ làm nhục nhân cách hết sức ghê gớm.Ông Doãn Hải ở độ tuổi có thể làm ông nội tôi, sống lương thiện, lại dí dỏm,trước đây thường kể chuyện pha trò khi cắt tóc cho tôi. Nhưng lúc này, tôikhông cảm thấy gì, chỉ cảm thấy háu chơi. Tôi búng mạnh vào cái trán bóng lọnglấm tấm mồ hôi của ông, mấy cậu bạn kia cũng búng theo. Cuối cùng ông Doãn Hảicúi xuống, quay người đi, lưng quay về phía chúng tôi, vơ nhặt những thứ đồngnát vương vãi ra đất. Bây giờ nghĩ lại, chắc chắn là ông khóc, khóc vì nỗi sỉnhục chảy vào tim. Trái tim con người, nếu biết chảy máu, thì nhất định chảyvào lúc móng tay tôi búng lên trán ông Doãn Hải. Từ đó trở đi, hễ nhìn thấychúng tôi thì từ mãi đằng xa, ông Doãn Hải đã giơ cánh tay lên hô to: “Họctập Hồng Tiểu binh! Kính chào Hồng Tiểu binh!”. Ông hô tới mức chúng tôicười phá lên. Lúc còn bé tôi đã làm khá nhiều việc tàn nhẫn như vậy. Hành vinày không khác gì về thực chất với Hồng Vệ binh chuyên đi đánh đập cướp giật,túm đầu người khác. Bọn chúng tôi có một thứ tàn bạo hung dữ không coi ai rangười, vốn có ngay từ lúc còn nằm trong bụng mẹ. Ở thời đại con người như rau cỏ,thì không ai trong chúng ta thoát được trách nhiệm, rửa sạch được mình đâu.
(Trích từ Người đẹp tặng ta thuốcbùa mê của Vương Sóc và Lão Hiệp, bản dịch của Vũ Công Hoan, NXBVăn hóa Dân tộc, 2002)
[1] Tô Đồng (Su Tong), tác giảtiểu thuyết Năm thê bảy thiếp (Thê thiếp thành quần, 1990)được Trương Nghệ Mưu chuyển thể điện ảnh thành bộ phim Đèn lồngđỏ treo cao (1991) nổi tiếng. Tiểu thuyết Con thuyền không bếnđỗ đoạt giải Văn học châu Á của ông được dịch và xuất bản tạiViệt Nam năm 2011. Năm 2015, ông đoạt Giải Mao Thuẫn, giải thưởng vănhọc danh giá hàng đầu Trung Quốc.
[2]Dư Thu Vũ (Yu Qiuyu) là một nhà văn và học giả văn hóa Trung Quốchết sức thành đạt. Hai tác phẩm Ngàn năm một tiếng thở dàivà Hành trình vô tận của ông được dịch và xuất bản tại ViệtNam năm 2018.
[3]Trương Ái Linh (Eileen Chang, 1920-1995), nhà văn nữ xuất sắc với những tác phẩmvề Thượng Hải và Hong Kong những năm 1940, sống phần lớn cuộc đời vàmất tại Hoa Kỳ. Tác phẩm Sắc, Giới của bà được dịch và xuấtbản tại Việt Nam năm 2009.
[4]Lý Trạch Hậu (Li Zehou), học giả và nhà tư tưởng, ảnh hưởng mạnh đếntrào lưu thoát giáo điều cộng sản ở Trung Quốc từ những năm tám mươi,từng bị quản thúc sau Sự kiện Thiên An Môn, từ năm 1991 sống và giảngdạy tại Hoa Kỳ. Danh tiếng của học giả trẻ tuổi Lưu Hiểu Ba hình thànhvới tác phẩm Phê phán sự lựa chọn – Đối thoại với Lý Trạch Hậunăm 1987. Một số công trình của Lý Trạch Hậu như Bốn bài giảng mỹhọc, Trung Quốc tư tưởng sử luận đã được dịch và xuất bảntại Việt Nam.
[5] Trào lưu xuất phát từ Orientalism (1978), tác phẩm nổi tiếng của Edward Said, học giả Hoa Kỳ gốc Palestine
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers

