Phạm Thị Hoài's Blog, page 7

August 29, 2019

Hai viễn cảnh

Phạm Thị Hoài





2025





Phim Mười năm (Thập niên, tên tiếng Anh: Ten Years)
năm 2015 của 5 đạo diễn Hồng Kông gồm 5 phim ngắn, 5 kịch bản dystopia, viễn
cảnh đen tối, về một Hồng Kông của 10 năm sau, 2025.





Phim thứ nhất: Văn phòng Liên lạc của chính quyền
trung ương Trung Quốc mật cho viên chức Hồng Kông thuê xã hội đen ám sát hai
nghị viên của hai đảng chính trị trong buổi Lễ Lao động ở một trường học. Hai kẻ
giết thuê, một thuộc Hội Tam hoàng, một là người Ấn Độ nhập cư, ngay sau đó bị
cảnh sát bắn chết. Chính quyền đặc khu xác nhận đó là các thành phần khủng bố
nguy hiểm, vì thế cần sớm thi hành Luật An ninh Quốc gia.





Phim thứ hai: Trong một căn nhà đổ nát đóng kín ở khu
Đại Giác Chủy, hai thanh niên nam nữ tìm cách bảo tồn những mẫu vật cuối cùng
còn sót lại của một Hồng Kông trong ký ức. Bên ngoài là một Hồng Kông khác. Họ
lưu cả mồ hôi, da, tóc vào vườn ươm ký ức. Mẫu vật cuối cùng của nhân vật nam
là chính cơ thể mình.





Phim thứ ba: Một tài xế tắc xi tuyệt vọng vì tiếng Hán
tiêu chuẩn (phổ thông thoại) thành ngôn ngữ chính thức tại Hồng Kông thay thế
tiếng Quảng Đông bị coi là phương ngữ.





Phim thứ tư: Một Hồng Kông của những người cười khẩy –
“Chúng ta chỉ là con điếm của Trung Quốc. Vậy nằm ngửa ra mà hưởng có phải hơn
không?”. Một Hồng Kông của những người thực dụng – “Mình có gì mà lo. Đảng Cộng
sản cũng chỉ là mafia đem tiền sang Hồng Kông gửi. Mà mafia thì sợ nhất là mất
tiền.” Một Hồng Kông của những người hoài nghi – “Hồng Kông chưa bao giờ và
không có khả năng độc lập.” Một Hồng Kông của những mật vụ trẻ măng mặc com-lê
nghiêm chỉnh ngồi nghe nhạc uống nước ngọt và mặt lạnh như tiền. Một Hồng Kông
của sự đểu giả vô biên của chính quyền trung ương và sự đàn áp tàn bạo của cảnh
sát đặc khu. Và một Hồng Kông của những thanh niên day dứt bởi “Hồng Kông không
có dân chủ vì chưa ai chết cho nó cả” và xuống đường tự thiêu.





Phim thứ năm: Trứng gà, như mọi sản phẩm sản xuất tại
Hồng Kông, không được phép ghi là sản phẩm địa phương. Những đội thiếu nhi mặc
đồng phục gợi hình ảnh Hồng Vệ binh mang theo danh sách các sản phẩm cấm đi
lùng soát các cửa hàng. Trong một kho cất giấu sách cấm có cả bộ truyện tranh Doraemon.





Mười năm không nổi bật về nghệ thuật, có phần như những tác phẩm tốt nghiệp của
sinh viên điện ảnh, song nó trở thành sự kiện khi nhận bằng khen của Hội Phê
bình Điện ảnh Hồng Kông và lãnh Giải Kim Tượng. Cầm chắc một tương lai Đại lục
hóa nhưng Hồng Kông sẽ thất thủ trong tư thế bất tử, tạc nốt nhạc hùng tráng cuối
cùng vào khúc ca tự do rồi sẽ rơi vào thinh không – ám ảnh ấy, niềm kiêu hãnh
và sự tuyệt vọng ấy cũng như việc lần đầu tiên hiện thực Hồng Kông xuất hiện trần
trụi như vậy trên màn hình khiến giải điện ảnh uy tín nhất của Hồng Kông và thuộc
loại danh giá nhất châu Á, đã chọn Mười năm của 5 đạo diễn trẻ – người
trẻ nhất 28, người lớn tuổi nhất chưa tròn 40 – còn tương đối vô danh – Ngũ Gia
Lương (Ng Ka-leung) Quách Trăn (Kwok Zune), Hoàng Phi Bằng (Wong Fei-pang), Âu
Văn Kiệt (Au Man-kit), Chu Quan Uy (Chow Kwun-Wai) – , với kinh phí chưa đầy 80.000
dollar là phim hay nhất trong năm. Và lần đầu tiên từ năm 1991, Trung Hoa Đại lục
cắt chương trình truyền hình trực tiếp buổi trao Giải Kim Tượng.





2075





Phim Trái đất lang thang (Lưu lãng địa cầu, tên tiếng Anh: The
Wandering Earth
) của đạo diễn Quách Phàm, dựa trên truyện ngắn cùng tên của
Lưu Từ Hân, ra mắt đúng mồng một Tết, là sự kiện cực đại của điện ảnh Trung Quốc
năm 2019. Kịch bản dystopia, viễn cảnh đen tối – trái đất lâm họa diệt
vong vì mặt trời biến thành một hồng cự tinh và loài người phải khuân quả địa cầu
lên đường đi tìm một hệ hành tinh khác – chuyển thành utopia, viễn cảnh
địa đàng – một nhóm người Trung Quốc can đảm, quyết tâm, giàu sáng kiến và đầy
nghị lực đã quên mình cứu nhân loại ở phút cuối cùng trong hành trình gian nan
nguy hiểm ấy.





Trong mấy năm gần đây, điện ảnh Trung Quốc tung ra
hàng loạt phim khủng thành công vang dội về thương mại không chỉ ở thị trường
trong nước. Trung Hoa thế kỷ 21 không còn dùng phim cúng cụ để tuyên truyền.
Quyền lực mềm made in China là những phim hành động hiện đại được đầu tư
lớn, với những kịch bản gay cấn, những pha diễn nghẹt thở, những cảnh quay hoành
tráng khốc liệt, những đạo diễn có nghề, diễn viên có hạng và hệ thống kĩ thuật,
kĩ xảo ngoại hạng. Tất cả đều phô diễn sức mạnh thiện chiến, lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí kiên cường và tinh thần quả cảm của quân đội Trung Quốc. Tất cả đều là
những bản anh hùng ca kể về những người lính Giải phóng quân dũng mãnh, hoặc tiễu
trừ một tổ chức tội phạm quốc tế khét tiếng (Chiến lang, 2015), hoặc chinh
phạt quân phản tặc, chư hầu của phương Tây, cứu bạn bè châu Phi (Chiến lang
2
, 2017), hay diệt cướp biển, dẹp khủng bố, giải vây cho đồng bào ở Bắc Phi
(Điệp vụ Biển đỏ, 2018). Không có gì thuộc về Hollywood mà xa lạ với
Chollywood. Trung Quốc trỗi dậy và đang khởi động để soán ngôi Mỹ cả trên màn
hình.





Trái đất lang thang cũng đầy đủ các linh kiện cần thiết để một sản phẩm
công nghệ điện ảnh chiếm lĩnh thị trường. Cũng siêu anh hùng – kiểu Trung Hoa,
sáng sủa, thân thiện, gương mẫu, một lần nữa lại Ngô Kinh xinh trai và đức hạnh
hơn điều lệ đảng viên cho phép. Cũng mở và thắt tuyến nước mắt đúng chỗ đã đánh
dấu, cũng pha trò vừa đủ để một khán giả trung bình kịp cười đúng lúc, cũng chêm
vài thằng ngốc và điểm xuyết mấy tính cách tiêu cực cho hiện thực thêm phần đa
dạng, cũng triết lý và mơ mộng pha vừa miệng đại chúng, cũng phóng lớn các loại
tình chủ lưu: tình bạn, tình yêu, tình anh em, phụ tử, khuyến mãi thêm tình
nhân loại một nhà quốc tế, và trên hết là tình yêu nước đấm ngực thiêng liêng,
chưa kể các phụ tùng kỹ thuật tối tân và tiết tấu tự sự hiện đại. Song lần này,
Trung Quốc không chỉ thắng trận Thiện Ác thông thường, không chỉ giải cứu mấy
con tin hay giải phóng một lãnh thổ. Lần này Trung Quốc là cứu tinh của nhân loại
và điện ảnh Trung Quốc chính thức tiến vào lãnh địa phim khoa học viễn tưởng vốn
là độc quyền của phương Tây. Địa đàng chưa đến ngay, nhưng sau tuần đầu tiên công
chiếu, bộ phim với kinh phí 50 triệu dollar này thu 350 triệu và sau ba tháng
700 triệu.





*





Tại siêu thị điện ảnh thượng vàng hạ cám Netflix, bạn có thể chọn cả món Mười năm lẫn món Trái đất lang thang và lần lượt tiêu thụ cả hai viễn cảnh trong một buổi tối rỗi rãi. Nhưng viễn cảnh Hồng Kông nằm vùi ở đâu đó khó biết, lọt thỏm vô tăm tích giữa bạt ngàn serie bất tận mang sứ mệnh giải trí bạn đến xuống mồ, bẹp rúm dưới muôn trùng phim ăn liền ăn luôn mồm ăn để ăn và xực vì bội thực là chế độ trọn gói ưu đãi. Còn viễn cảnh Trung Hoa? Nó được bày ra rầm rộ ngay ở quầy sát cửa và tự động nhảy vào giỏ hàng của bạn. Và sau 125 phút nhai lạc nốc bia, bạn không có cách nào khác là ghi nhận rằng sứ mệnh không tưởng Trung Hoa cũng không tệ hơn những sứ mệnh Hoa Kỳ tương tự. Nếu bia vẫn chật bàn và buổi tối chưa tàn, Netflix sẽ gợi ý rằng sau Trung Quốc, Hồng Kông, bạn nên thử món Việt Nam Hai Phượng.





Báo Trẻ, 29/8/2019

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 29, 2019 06:25

August 22, 2019

Bài học thứ 22

Phạm Thị Hoài





Hai cuốn sách của
học giả Yuval Noah Harari, Sapiens: Lược sử loài ngườiHomo Deus:
Lược sử tương lai
, đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam, tuy không gây hiệu
ứng bom tấn như ở các thị trường khác trên thế giới, song cũng có một tiếng
vang nhất định trong cộng đồng thiểu số của những người đọc loại sách này. Trong
hai tác phẩm ấy, hai hành trình hiện đại xuyên thời gian và ôm cả thế gian, một
ngược quá khứ, một hướng tương lai, chủ nghĩa cộng sản không thuộc những bước
ngoặt trọng đại nhất trên đường đi của nhân loại khiến tác giả phải đặc biệt dừng
chân quan sát, song mỗi lần nhắc đến nó, thái độ của ông, như dễ hiểu ở phần lớn
các học giả phương Tây, không thể gọi là ưu ái. Cũng dễ hiểu là ông không thể
còn nguyên vẹn trong bản dịch tiếng Việt.





Cuốn đầu, Sapiens:
Lược sử loài người
– NXB Tri thức 2017, Nguyễn Thủy Chung dịch từ bản tiếng
Anh, Võ Minh Tuấn hiệu đính – có ít nhất ba sửa đổi điển hình cho kiểu kiểm duyệt
cố hữu ở Việt Nam: né tránh, xiên xẹo và cắt xén.





Ở phần 3, chương 9,
đoạn nói về mâu thuẫn giữa bình đẳng và tự do cá nhân, câu “Anyone who
has read a novel by Alexander
Solzhenitsyn knows how Communism’s egalitarian ideal produced brutal tyrannies
that tried to control every aspect of daily life
” được phóng tác thành “Bất cứ
ai từng đọc tiểu thuyết của Alexander Solzhenitsyn đều hiểu rằng lý tưởng bình
đẳng cực đoan đã tạo ra những sự chuyên chế tàn bạo cố gắng kiểm soát mọi mặt của
cuộc sống thường ngày
“. Vậy là lý tưởng bình đẳngbị chỉ đích
danh là”của chủ nghĩa cộng sản” hóa thành một lý tưởng
bình đẳng”cực đoan” chung chung. Tự nó thì dịch lý tưởng
bình đẳng của chủ nghĩa cộng sản thành lý tưởng bình đẳng cực đoan là một hành
vi vừa né tránh vừa diễn giải khá thú vị và thậm chí có phần phản loạn, song
trong bối cảnh Việt Nam, nơi Alexander Solzhenitsyn cho đến nay là một tác giả
chưa bao giờ tồn tại, người đọc phiên bản Hà Nội sẽ đơn giản nghĩ ông là một
nhà văn nào đó phê phán một lý tưởng bình đẳng cực đoan nào đó. Chủ nghĩa cộng
sản vậy là vô can.





Ở phần 4, chương
18, đoạn nói về sự tan rã của khối Đông Âu, câu “When its members
realised that Communism was bankrupt…”
được dịch là “Khi các thành viên nhận thức được tiến
trình giải thể
…”. Vậy
là sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản đã xiên xẹo thành một “tiến trình
giải thể
” nào đó.





Sửa đổi thứ ba ngoạn
mục hơn cả. Ở phần 3, chương 12, tác giả dành cả một đoạn dài gần một trang so
sánh chủ nghĩa cộng sản với các tôn giáo khác. Rằng với các bậc thánh của nó là
Marx, Engels và Lenin, với các lễ hội của nó như ngày kỷ niệm Cách mạng tháng
Mười, với kinh thánh và sách tiên tri như bộ Tư bản, với các nhà thần học
tinh thông biện chứng mác-xít, với các giáo sĩ như các chính ủy trong quân đội,
với các vị tử đạo, các cuộc thánh chiến hay cả các phần tử dị giáo như nhóm Trotskist,
chủ nghĩa cộng sản thực sự là một tôn giáo cuồng tín và đậm màu truyền giáo.
Người cộng sản sùng đạo không thể đồng thời là Phật tử hay con chiên của Thiên
chúa, và chấp nhận tử đạo để truyền bá phúc âm của Marx và Lenin. Toàn bộ đoạn
này bị cắt phăng. Cuối cùng, độc giả bản tiếng Việt sẽ ghi nhớ nhận định ưa
thích của sử gia đang lừng danh này, rằng các ý thức hệ thời hiện đại như chủ
nghĩa tự do, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa Quốc xã đều là những
hệ tín điều không kém gì các tôn giáo hữu thần. Chỉ chủ nghĩa cộng sản là vô
can. Nó vẫn chính thức được mệnh danh là một khoa học.    





Tôi không có bản
tiếng Việt của cuốn thứ hai, Homo Deus: Lược sử tương lai – NXB Thế giới
2018, Dương Ngọc Trà dịch – để đối chiếu, song tần số những đoạn có thể báng bổ
từ phúc âm đến thực tiễn truyền giáo của đạo cộng sản ở cuốn này cao hơn ở cuốn
trước, vậy nhiều khả năng là bản dịch khó có thể ít méo mó hơn.





Nhưng câu chuyện
này thực ra chẳng có gì khác thường so với tất cả những gì chúng ta đã biết và
chưa được biết về kiểm duyệt tại Việt Nam, và lại càng ít hệ lụy so với một câu
chuyện khác.





Từ phát
hiện của một nhà báo Ukraine
, vụ lùm xùm
xung quanh chuyện kiểm duyệt bản tiếng Nga cuốn bom tấn thứ ba của Harari – 21
bài học cho thế kỷ 21
bung ra. Song bản thân sự
kiểm duyệt chỉ là chuyện nhỏ ở nước Nga mafia Sa hoàng và hậu sô-viết. Đáng chú
ý hơn là chính tác giả, ngôi sao hàn lâm thời danh đang một mình làm cả một think
tank
đối diện những câu hỏi khổng lồ của toàn thế giới, đã cộng tác với kiểm
duyệt và không thấy điều đó có gì đáng trách. Như thể điều đó chưa đủ mỉa mai,
đóng góp chính của ông cho tuyên giáo Kremlin nằm ngay trong phần 4, chương 17 với
tiêu đề “Hậu sự thật” (Post-Truth), nơi ông cho độc giả những lời
khuyên dí dỏm, rằng làm thế nào để biết sự thật về thế giới và không trở thành
nạn nhân của tuyên truyền và bịa đặt.





Trong nguyên bản,
Putin và guồng máy tuyên truyền của ông ta trong vụ Nga thôn tính bán đảo Krym
năm 2014 được dẫn ra làm ví dụ về nạn thông tin sai lệch và dối trá đang thống
lĩnh thế giới. Trong bản tiếng Nga, đoạn này bị cắt, nhưng được thay bằng một
ví dụ khác: bằng thành tích nói dối ngoạn mục của Trump. Ở một đoạn khác, nguyên
bản viết rằng việc Nga xâm lược và chiếm đóng Krym khiến phong trào bài
Nga ở Ukraine dâng cao và mưu toan bành trướng của Nga ở miền Đông Ukraine bị
ngăn chặn. Bản tiếng Nga, ngược lại, viết rằng Nga không coi việc sáp nhập
Krym là xâm lược một nước khác, đơn giản là quân đội Nga đã không vấp phải sự
kháng cự nào đáng kể, cả dân sự lẫn quân sự, và qua đó Nga đã thu được nhiều lợi
thế quan trọng tại miền Đông Ukraine và nâng cao uy tín quốc tế. Trong nguyên bản,
Nga là quốc gia đang thử nghiệm những hình thức mới của hỗn hợp giữa chế độ dân
chủ phi tự do và chế độ độc tài; trong bản tiếng Nga, quốc gia đó là Hungary.
Và rất nhiều chỗ khác, khi không tiện đem Trump hay Hungary ra thế chân thì những
nhận định về Nga – chẳng hạn, một quốc gia phá sản về ý thức hệ, bị một nhóm đầu
sỏ thao túng cả tài nguyên lẫn quyền lực – hay Putin – chẳng hạn, một nhà lãnh
đạo thiếu viễn kiến toàn cầu – đều bị cắt. Tất cả những kiểm duyệt đó được tác
giả chấp nhận. 





Giáo sư Harari thanh
minh rằng

đứng trước bức tường kiểm duyệt, người ta có ba lựa chọn. Thứ nhất là phá sập bức
tường ấy, nhưng đó là việc cần nhiều sức mạnh mà loại sức mạnh đó tiếc thay ông
không có. Hai là từ bỏ, như thế thì tốt cho bản thân vì lương tâm được thanh thản,
nhưng chẳng có lợi gì cho những người đang mắc kẹt phía sau bức tường. Thứ ba
là tìm cách đi vòng. Vấn đề chính của lựa chọn này là cái giá phải trả cao đến
đâu. Theo ông, chỉ thay đổi vài đoạn tương đối nhỏ mà sách của ông đến được với
công chúng Nga thì cũng xứng đáng. Hơn nữa, dù không trực tiếp chỉ mặt chính
quyền Putin, cuốn sách của ông vẫn phê phán các chế độ độc tài, tham nhũng và
chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Ông đã không hy sinh các ý tưởng chính, mà chỉ nhượng
bộ ở các ví dụ. Vả lại, mọi bản dịch đều nên có những thay
đổi để thích nghi

với bối cảnh văn hóa, tôn giáo và chính trị của đất nước liên quan. Ngay trong
tiếng Anh, bản dịch phát hành
ở Anh cũng khác với bản dịch phát hành ở Mỹ
. Bản ở Anh thì dùng ví dụ bóng đá.
Bản ở Mỹ phải chuyển từ bóng đá sang bóng rổ. 





Những người đang sống
và viết giữa vòng vây của bức tường kiểm duyệt biết quá rõ về lựa chọn đi vòng
như thế. Phần lớn họ cũng không có lựa chọn nào khác, dù họ còn biết rõ hơn rằng
đi vòng chưa làm bức tường nào rạn nứt. Có thể họ sẽ được trường hợp Harari an ủi.
Thỏa hiệp với cái Ác không là đặc quyền của riêng ai. Khi vặn nhỏ ngọn đèn tự
do của mình để được phép bước qua cánh cổng kiểm duyệt của độc tài, phương Tây
hi vọng rằng một chút ánh sáng vẫn tốt hơn bóng tối. Song thực tế có lẽ ngược lại.
Bóng đen của kiểm duyệt đang lan dần sang chính phương Tây. Trong xếp hạng tự do báo chí năm nay của tổ chức Phóng
viên không biên giới, trừ Đức còn ở nhóm 15 đầu bảng, tất cả các nước lớn
phương Tây đầy quá khứ tự do dân chủ đều đứng sau nhiều quốc gia châu Phi và Mỹ
Latin như Jamaica, Uruguay, Ghana, Namibia, Nam Phi… Và Hoa Kỳ, ngọn đuốc tự
do từng sáng nhất, đang đứng ở hạng 48, sau  những Burkina Faso, Botswana châu Phi và sau cả
Hàn Quốc, Đài Loan, hai nền dân chủ non trẻ châu Á.





Các “thích nghi” trong bản dịch tiếng Việt có được
ông Harari chấp nhận để phù hợp bối cảnh và để đến được với độc giả Việt Nam
hay không, tôi không biết. Tôi cũng không biết sự thật và hậu sự thật đã đổi chỗ
cho nhau như thế nào trong bản tiếng Trung, khi học giả này mấy năm trước loan tin
hai cuốn đầu của
ông được
dịch và in 2,5 triệu bản tại Trung Quốc. Tôi không có khả năng kiểm tra các bản tiếng
Trung, song căn cứ vào sự tương đồng tuyệt đối giữa hai guồng máy tuyên giáo ở
Việt Nam và Trung Quốc hiện tại, dễ hình dung bản tiếng Trung ít nhất cũng méo
mó như bản tiếng Việt.





Rồi 21 bài học
cũng sẽ sớm được dịch sang tiếng Việt. Sau khi lĩnh hội ở đó những minh triết dễ
thương được trình bày bằng giọng văn dễ mến, đại loại rằng thế chiến thứ ba khó
xảy ra nhưng cũng khó loại trừ, rằng thế giới đang bị hàng loạt vấn nạn nghiêm
trọng đe dọa, mọi nguyên tắc đạo đức đều tuột khỏi tầm nhận thức của mỗi cá
nhân, mọi chuẩn mực đều đã hết hạn sử dụng, nhưng bạn đừng quá lo, tất cả vẫn nằm
trong tầm tay của chúng ta, nếu chúng ta thông minh hơn chút xíu, sau khi học hết
21 bài học, bạn có muốn học tiếp bài học thứ 22 không? Đó là bài học về nghệ
thuật thay bóng đá bằng bóng rổ.





Berlin, 16/8/2019





(Báo Trẻ, 22/8/2019)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 22, 2019 08:18

March 14, 2019

Dấu. Chấm.

Tết Kỷ Hợi vừa rồi,
nguyên thủ quốc gia Nguyễn Phú Trọng gửi một bức thư viết tay đến cô giáo dạy
ông thời tiểu học. Tác phẩm này đóng góp bao nhiêu phần vào sự nghiệp của ông,
tôi không dự đoán được; song ở đó có một chi tiết nhỏ đáng lưu ý. Đó là dấu chấm
kết thúc hàng chữ đầu thư: “Kính thưa Cô giáo Đặng Thị Phúc.” Ông
không phải là ngoại lệ. Giới lãnh đạo Việt Nam đặt dấu chấm ở những
chỗ rất bất ngờ
;
vị trí ưu tiên là ngay sau tên tuổi chức vụ; vị trí phổ biến là sau dòng ghi
ngày tháng; những vị trí thách thức khác không kể xiết. Dấu chấm Ba Đình ấy là chính
tả hay chính trị?









Trước hết, nó từ đâu mà ra?





Dễ giải thích hơn
cả, đó là sự cẩu thả, gia tài nổi tiếng của người Việt mà mọi giai tầng xã hội
đều thừa hưởng trọn vẹn, không ai phải thua thiệt. Bình dân thì vô tâm chểnh mảng,
trí thức thì phiên phiến qua loa, quan chức thì tùy tiện tắc trách, lễ nghi thì
rườm rà luộm thuộm, phép tắc thì xập xí xập ngầu, tôn giáo thì hời hợt chắp vá,
văn hóa thì bừa bãi tầm phào, khoa học thì qua quýt nhất thời, y tế thì sơ sài
bất cẩn, ở thì tạm bợ, ăn thì bẩn thỉu, mặc thì dễ dãi, giao thông thì đi bừa, kinh
tế thì làm bừa, truyền thông thì nói bừa, đạo đức thì sống văng mạng. Trong bối
cảnh ấy, một dấu chấm bạ đâu quăng đấy lên giấy là điều tối thiểu để báo hiếu truyền
thống.





Một di sản khác
cũng có thể rọi thêm chút ánh sáng. Tôi nhiều lần quan sát một khoảnh khắc rất
đặc biệt ở những người hiếm phải sờ đến giấy bút. Viết được dăm chữ là họ lúng
túng, không biết thế đã đủ hay còn thiếu và nếu thiếu thì thiếu cái gì. Họ loay
hoay một thoáng với cây viết rồi quả quyết đặt một dấu chấm, và sau đó như
thoát gánh nặng, họ buông bút, yên tâm ra mặt. Những người sì sụp khấn vái từ
hòn dái linh thiêng khấn đi, những người bày chi chít tranh tượng lọ bình gối
thảm trong nhà, những người không chừa khe nào trên Facebook không nhét tuyên
ngôn, những người đắp chạt vàng bạc lên mỗi phân da thịt, những người không tuần
chay nào không góp nước mắt, những người kết bạn với cả thế gian, những người
đi một bước chụp ảnh một bước, tất cả đều chung tâm lý dấu-chấm-giải-thoát ấy.
Nếu không, họ sẽ cảm thấy rất chống chếnh, sẽ lạc trên mặt giấy và rơi tõm
trong cuộc đời, sẽ mất hút trong cõi ảo và mất liên lạc với bản thân. Họ phải đặt
hay đánh một ký hiệu. Dấu phẩy thì nhẹ hều, dấu chấm phẩy vẫn lửng lơ, dấu hai
chấm nhiêu khê, dấu ba chấm dang dở, song dấu chấm là một ký hiệu chắc chắn,
hoàn toàn đáng tin cậy. Bất kể thế nào, đặt một dấu chấm sau chữ ký là yên trí.
Có mất gì đâu, thừa còn hơn thiếu – một di sản tâm lý khác, in đậm lên diện mạo
người Việt.  





Lớp cộng sản tiền
bối, thế hệ lãnh đạo đầu tiên ở Hà Nội, không có học vị gì đáng kể. Hồ Chí Minh
tự học; Phạm Văn Đồng, Tôn Đức Thắng chưa qua trung học; Trường Chinh chưa hết cao
đẳng; đỉnh hàn lâm cô đơn là Võ Nguyên Giáp với bằng cử nhân luật. Song đó cũng
là thế hệ lãnh đạo viết sách và làm thơ nhiều nhất. Lãnh tụ của lớp sau, ông Lê
Duẩn, thậm chí mới hết tiểu học, không làm thơ nhưng vẫn hăng hái trước tác ở
những lĩnh vực khác và để lại ít nhất khái niệm “làm chủ tập thể” nổi
tiếng trong tiếng Việt. Họ đều không mắc lỗi dấu chấm. Giới lãnh đạo Việt Nam ngày
nay khác hẳn, toàn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, chưa kể bằng lý luận chính trị
cao cấp, lại hiếm khi sờ đến giấy bút. Họ giống những người như ở trên đã miêu
tả. Song ông thợ cả, giáo sư tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, vốn xuất thân văn chương
và thỉnh thoảng cũng thơ phú, chẳng lẽ trượt chính tả tiếng Việt?





Bạn có thể bảo, chuyện
nhỏ! Đem bục công an đặt
giữa tim người

còn được thì dấu chấm là cái gì mà phải đúng vị trí? Nếu cần thì nhốt hết các dấu
câu cứng đầu vào trại cải tạo. Hoặc quốc hữu hóa tuốt, rồi bổ nhiệm lại từng dấu
và tùy cơ cấu tranh chấp mà luân
chuyển

hay thuyên chuyển
. Hoặc trước khi dấu
chấm kịp gửi thư ngỏ phản đối thì Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã đề nghị Bộ
Chính trị kỷ luật, cho nó về vườn, xóa tư cách thành viên đứng đầu mười dấu câu
trong tiếng Việt. Dấu chấm than sẽ thay thế, để xứng đáng với hiện thực hùng tráng
xúc động tự-hào-lắm-Việt-Nam-ơi của chúng ta hơn. Có thể dấu chấm sẽ tìm đường vượt
biên rồi bị bắt cóc trở lại. Nó sẽ làm đơn xin tự thú; và sau khi bị cai tù nện
bẹp gí sẽ nhận bất kể vị trí nào để hòa mình với tập thể dấu câu, miễn là không
bị ghép vào dấu ba chấm.  





Vâng, có thể lắm,
nhưng hơi thiếu thuyết phục vì pha vị giễu cợt. Hiện thực Việt Nam, dùng nguyên
chất là nhất. Vậy tôi xin thử một cách lý giải khác.





Khi phát biểu hoặc nói chuyện, giới lãnh đạo Việt Nam tuân theo một tiết tấu và nhịp độ
đặc trưng riêng biệt, như thể đó là điều kiện bắt buộc để quy hoạch cán bộ cấp
cao. Họ không thao thao bất tuyệt, đó là sự hào nhoáng của nền dân chủ lừa mị phương
Tây – có lẽ vì thế mà trong ngôn ngữ chính trị của Hà Nội không có từ diễn thuyết. Họ không ưa hùng biện; vài
ba nhân vật có chút tài ăn nói trong số họ thì sớm qua đời hoặc nhanh vào tù. Họ
nghe lẫn nhau và học lẫn nhau một kỹ năng đặc biệt: kỹ năng nói rất chậm, rời rạc,
nhấn mạnh từng từ rồi chừa một khoảng trống. Đánh một dấu lặng. Để sức nặng của
mỗi từ có không gian đích đáng. Để mỗi ý có thời gian đọng lại. Để mỗi bài phát
biểu đều mang tầm lịch sử. Để các chính khách ma-dzê
in Việt Nam
,
một lần nữa, dù cờ lờ mờ vờ thế nào, thấy mình thực sự quan trọng. Và
trước hết, để trao cơ hội cho những tràng vỗ tay. Hôm nay. Vỗ tay. Trong không
khí tưng bừng. Vỗ tay. Phấn khởi. Vỗ tay. Của toàn Đảng. Vỗ tay. Toàn quân. Vỗ
tay. Toàn dân. Vỗ tay. Cá nhân tôi nghe rất sốt ruột và sợ mình phát điên, song
khi đã quen với phép ngắt câu của quyền lực ấy, không ai thấy dấu chấm Ba Đình có
gì khác thường. Một ngôn ngữ quái gở trở thành mẫu mực.    





Chính tả là chính trị. Nhận định của Victor Klemperer về ngôn ngữ đế chế Đức phát-xít, rằng mỗi dấu ngoặc kép là một đảng viên Quốc xã, thời nào cũng gợi mở.





Berlin, 08/3/2019





Phạm Thị Hoài





(Bài đã đăng trên báo Trẻ ngày 14/3/2019)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 14, 2019 14:11

February 21, 2019

Về một thông điệp





Nhân cuộc họp Thượng
đỉnh Mỹ-Triều sắp tới tại Hà Nội, 100 nhân sĩ, trí thức, nhà hoạt động xã hội
và tổ chức dân sự xã hội người Việt đã gửi tới Tổng thống Mỹ Donald Trump một bức
Thư ngỏ.





Thông điệp ngầm trong
một bức thư ngỏ là điều kỳ quặc. Tuy thư ngỏ nêu trên gây cho người đọc cảm
giác không biết các tác giả của nó thực ra muốn nói gì, song không phải ngẫu
nhiên mà nó ra đúng vào ngày 17 tháng Hai 2019, ngày kỉ niệm 40 năm Chiến tranh
Biên giới Việt-Trung, và nhấn mạnh nguy cơ Việt Nam bị tham vọng bành trướng của
Trung Quốc đe dọa. Nếu tôi hiểu không sai, cuối cùng đấy là một thông điệp đơn
giản nhưng vì những lý do nào đó khó nói thẳng: các trí thức Việt Nam mong được
Ngài Tổng thống, His Excellency Donald Trump, người “đóng vai trò dẫn dắt trong tư cách người đứng đầu quốc gia hùng mạnh nhất
và tiên tiến nhất
” của thế giới tự do, lưu ý giúp đỡ để Việt Nam chống
Tàu, bởi rút cuộc thì quyền lợi của Việt Nam và Hoa Kỳ là tương đồng, Ngài giúp
chúng tôi cũng chính là bảo vệ quyền lợi của nước Mỹ.





Tôi khó có thể
chia sẻ thông điệp đó.





1. Không chỉ riêng vì lợi ích của Việt Nam, điều kiện
quan trọng nhất để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ ở toàn bộ khu vực Biển
Đông bằng các biện pháp hòa bình là sự vững mạnh của cộng đồng các nước dân chủ
tự do toàn thế giới, trong đó có Hoa Kỳ. Song cộng đồng này đang lâm vào một cuộc
khủng hoảng lịch sử; bị chia rẽ sâu sắc; một số liên minh quan trọng bị rạn vỡ;
một số cam kết nền tảng bị hủy bỏ; một số định chế rường cột bị hoài nghi và
công kích; sự ưu việt của thể chế dân chủ pháp quyền bị mai một sức hấp dẫn, trọng
lượng quốc tế của toàn thể cộng đồng bị suy giảm. Donald Trump chính là hiện
thân của cuộc khủng hoảng ấy. Ông ta là kết quả nhưng không là đáp án. Ông ta
là một tai nạn, một vụ nổ cầu chì khi hệ thống chính trị của nền dân chủ quá tải;
điểm tích cực duy nhất ở đó là nó như một cú ngã bệnh đích đáng, khiến cái cơ
thể chính trị rất giàu sức đề kháng của Hoa Kỳ được thanh lọc cần thiết và kích
thích thay đổi. Với tất cả lo ngại, tôi vẫn tin rằng có thể mất trọn một thập
niên hay hơn nữa và phải trả những cái giá rất đắt, cuối cùng cộng đồng dân chủ
thế giới sẽ vượt qua giai đoạn thử thách khắc nghiệt này để tự đổi mới; song Donald
Trump không phải là giải pháp mà là vấn nạn ở tầng cao nhất, và hy vọng vào ông
ta không khác gì gửi gắm tương lai vào con bệnh thay vì vào một nền y học tiến
bộ.





2. Một hệ quả của điều kiện nói trên là khả năng kiềm chế các chính quyền độc tài trên thế giới, trong đó Việt Nam luôn có mặt, và Trung Quốc đóng vai trò trưởng thượng. Donald Trump, vị Tổng thống chỉ tuyệt đối nhất quán ở sự bất nhất khôn tả của mình, đã vô số lần bày tỏ thiện cảm, thậm chí lòng ngưỡng mộ, sự sốt sắng hợp tác và thậm chí sẵn sàng che chắn với các nhà độc tài cả hạng nhất lẫn hạng nhì trên thế giới, từ Putin đến Erdogan, từ Mohammed bin Salman đến Viktor Orbán, từ Tập Cận Bình đến Kim Jong-un, và tất nhiên cả với các nhà độc tài ở Ba Đình. Hiển nhiên ông ta có thể quay ngoắt 180 độ để sỉ vả cũng chính những đối tượng ấy trong một cơn đồng bóng lúc 5 giờ sáng mất ngủ bằng lời lẽ rất thô bỉ mà Hiến pháp Hoa Kỳ bất khả ràng buộc, bởi với tất cả sự thận trọng trước những khả năng thoái hóa của con người, các nhà lập quốc của đất nước vĩ đại này không thể hình dung một kịch bản như vậy. Tôi cũng không thể hình dung giới đấu tranh dân chủ Việt Nam, vì mấy lời đãi bôi tình thế của Trump nhắm vào phiên bản chủ nghĩa xã hội ở Cuba hay Venezuela, nói dzậy mà không phải dzậy, lại kỳ vọng vào một Tổng thống Mỹ mù tịt về các định chế dân chủ, tưởng mình là một le Roi Soleil, một Thái dương Vương; gọi báo chí tự do nước mình là “kẻ thù của nhân dân”, khinh thường quyết định của các thẩm phán độc lập, hô hoán đòi tống đối thủ chính trị vào tù, đuổi việc bất kỳ ai dám trái ý mình và hành xử như một tay anh chị sẵn sàng vặn cổ đứa nào dám nói xấu tao. Donald Trump là nỗi hổ thẹn của thế giới tự do và cơ hội của thế giới độc tài. Với tất cả tham vọng vô độ, việc ông ta vẫn không thể lạm dụng các quyền năng to lớn của chức vụ Tổng thống Mỹ để cai trị như một nhà độc tài hay thậm chí phát-xít là nhờ ở sự vững chắc của các cơ chế phân bố quyền lực và các định chế dân chủ pháp quyền Hoa Kỳ. Chỗ dựa của những người Việt yêu dân chủ là các cơ chế và định chế đó chứ không phải His Excellency đương nhiệm.





3. Cả hai cuộc chiến, Việt-Mỹ và Việt-Trung, đều cho thấy sự lắt léo biến hóa của các liên minh quyền lợi trên sân chơi thế giới mà Việt Nam chỉ là một trái bóng trong chân các siêu cầu thủ. Mỹ có thể chống Tàu đến người Việt cuối cùng như đã từng ngược lại; và Mỹ cũng có thể, như tròn 40 năm trước, vừa bịt tai này để không phải nghe tiếng súng ở biên giới Việt-Trung, vừa dỏng tai kia để nghe ngóng mọi động tĩnh ở Quảng trường Đỏ. Mỹ vào miền Nam Việt Nam vì quyền lợi của mình và của thế giới tự do, rồi lại rút khỏi đó cũng vì chính những quyền lợi ấy. Ý tưởng về sự tương đồng quyền lợi giữa Việt Nam và Hoa Kỳ hiện tại là một slogan tốt cho những cuộc gặp gỡ vô thưởng vô phạt, có lảy Kiều và rất nhiều hình ăn phây, song nó không liên quan gì đến thực trạng thế giới hiện tại, trong đó cuộc tranh hùng của hai đế chế, một đang tại vị và một đang trỗi dậy, là một vòng xoáy nuốt chửng quyền lợi của tất cả các quốc gia khác. Giữa cơn mê Make America Great Again của Trump và Giấc mộng Trung Hoa của Tập, một đất nước không có gì để đặt lên bàn cân ngoài xương máu nhân dân như Việt Nam thì chỉ giữ cho mình được đôi phần tỉnh táo là đã có phúc lớn. Còn lại, ở cấp độ những lợi ích dễ thương lượng hơn, dĩ nhiên Ngài Tổng thống với đam mê tột đỉnh là khoe tài cán của cá nhân mình trong các cú deal thượng thặng sẽ tiếp tục cảnh báo rằng an ninh quốc gia Mỹ đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi 32 tỉ dollar thâm hụt thương mại với Việt Nam, giới cần lao Mỹ đang rên xiết bởi trò ngoại thương unfair của người Việt, người Việt đang cướp công ăn việc làm và thu nhập của người Mỹ. Nhưng không sao, Việt Nam chỉ cần mua máy bay quân sự lớn nhất thế giới của Mỹ, tên lửa lớn nhất thế giới của Mỹ, tàu chiến lớn nhất thế giới của Mỹ và một số thứ lớn nhất thế giới của Mỹ nữa là chúng ta có một big deal hoàn hảo. America first. Việt Nam không nhất thì bét.





4. Cuối cùng, tôi cho rằng dù thế nào cũng không nên tuyên bố rằng 96 người và 4 tổ chức xã hội ký tên vào bức thư ngỏ này phát ngôn cho “ý chí và tâm nguyện của phần lớn người Việt Nam sinh sống trong nước cũng như ở nước ngoài“. Chúng ta nên thận trọng với tinh thần làm chủ tập thể.





Berlin, 19/2/2019





Phạm Thị Hoài





(Bài đã đăng trên trang Luật Khoa ngày 20/2/2019)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 21, 2019 13:34

February 15, 2019

Về văn hóa chính trị nhân sĩ – Phỏng vấn Chủ tịch Tập đoàn Dân chủ Đa nguyên Nguyễn Gia Kiểng

Phạm Thị Hoài thực hiện





Phạm Thị Hoài: Thưa anh Nguyễn Gia Kiểng, từ nhiều năm
nay anh cảnh báo và thậm chí lên án cách hoạt động đối lập của người Việt mà
anh gọi là “làm chính trị nhân sĩ”. Trong bài viết gần đây
nhất
,
thảo luận về “Yêu sách tám điểm
năm 2019 của người dân Việt Nam
“, một lần nữa anh yêu cầu “chấm dứt lối hoạt động chính trị nhân sĩ để
tiến tới đấu tranh có tổ chức
“. Thế nào là “làm chính trị nhân
sĩ”, trước hết xin anh một định nghĩa.





Nguyễn Gia Kiểng: Rất đồng ý. Trước khi thảo luận cần
đồng ý trên ý nghĩa của các từ ngữ. “Nhân sĩ” là một khái niệm của
Nho giáo để chỉ những người “kẻ sĩ”, nghĩa là những người có học, có
chút tiếng tăm. Các nho sĩ ngày xưa chỉ cố gắng một mình để học và thi lấy bằng cấp với ước mơ được phục vụ cho một
chính quyền và cho như thế là vinh quang. Họ không có văn hóa đấu tranh thay đổi
chính quyền để thay đổi xã hội, mục tiêu của họ chỉ là làm thế nào để có danh
giá và có địa vị xã hội cao hơn người khác. Do đó họ không thấy cần thiết phải
kết hợp với nhau thành tổ chức để có sức mạnh của tổ chức, điều kiện bắt buộc để
có thể đương đầu với chính quyền và áp đặt sự thay đổi. Khổng Tử dạy các nho sĩ
rằng “nước nguy thì đừng tới, nước loạn thì đừng ở, chế độ lành mạnh thì xin
phục vụ, chế độ vô đạo thì ở ẩn” (nguy
bang bất nhập, loạn bang bất cư, thiên hạ hữu đạo tắc kiến, thiên hạ vô đạo tắc
ẩn)
. Nhân sinh quan tồi hèn này thay vì bị khinh bỉ đã được coi là cao quý
trong hàng ngàn năm và đã ăn sâu vào tiềm thức của trí thức Việt Nam, hậu duệ của
những kẻ sĩ, trong khi dù muốn hay không trí thức bao giờ cũng phải đảm nhiệm
vai trò lãnh đạo.





Chúng ta chưa rũ bỏ
được di sản văn hóa này vì chúng ta chưa ý thức được sự tầm thường của nó. Hậu
quả là cho tới nay ngay cả đa số những trí thức có tâm hồn nhất cũng chỉ hoạt động
chính trị kiểu nhân sĩ, nghĩa là hoạt động với tư cách cá nhân, thỉnh thoảng ký
tên vào một kiến nghị hay tham gia một hành động nhất thời chứ không dấn thân
vào một tổ chức nào cả. Cách hoạt động chính trị nhân sĩ này sai một cách bi
đát. Tổ chức cho chúng ta sức mạnh, điều này ai cũng biết, nhưng nó cũng khiến
chúng ta mạnh dạn hơn, nó cũng là môi trường sản xuất và sàng lọc các ý kiến.
Không có tổ chức thì hậu quả tự nhiên là bất lực, nhút nhát và thiếu chính xác.
Nếu có một điều cần nhấn mạnh nhất thì đó là đấu tranh chính trị không bao giờ
là đấu tranh cá nhân mà luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức.





Chế độ cộng sản thực
ra không mạnh. Nó đã phân hóa ở mức độ hiểm nghèo và chỉ còn là một liên minh
giả dối của những người thù ghét nhau vì tranh giành quyền và tiền. Trở ngại
chính của cuộc vận động dân chủ hóa đất nước là văn hóa nhân sĩ, là cách hoạt động
chính trị nhân sĩ.





Phạm Thị Hoài: Trong một bài viết khác về “giai đoạn Ngô Đình
Diệm

anh cũng nhận định rằng “cách làm chính trị của ông Diệm và ông Nhu
là cách làm chính trị nhân sĩ
.”Điều trớ trêu là những
người cầm đầu cuộc đảo chính, giết hai anh em họ Ngô năm 1963, đã lập nên một
“Hội đồng Nhân sĩ” như một cơ quan dân sự đóng vai trò cố vấn. Hội đồng
này sau đó nhanh chóng bị giải tán, song một định chế như thế – có thể tương
đương với các assemblée
des notables
– không chỉ
có ở Việt Nam. Như vậy khái niệm “nhân sĩ” không hẳn được quan niệm
rõ ràng trong tiếng Việt. Nguồn gốc của nó cũng không sáng tỏ. Có vẻ như nó là
tất cả những khái niệm như thân hào, nho
sĩ, chí sĩ, danh sĩ, kẻ sĩ, văn thân, sĩ tử…
nhân vật cộng lại. Để tránh hiểu lầm, anh có thể khoanh vùng rõ nét
hơn cho cái “văn hóa nhân sĩ” mà anh vừa nói đến không?





Nguyễn Gia Kiểng: Ông Diệm và ông Nhu đúng là làm chính trị kiểu nhân sĩ như
tôi đã mô tả ở trên. Mục
tiêu thầm kín của các nhân sĩ là xây dựng uy tín cá nhân cho mình rồi chờ cơ hội
để nắm hay tham gia vào chính quyền. Cả ông Diệm lẫn ông Nhu đều không có tổ chức
nào cả. Ông Diệm đi Mỹ rồi đi Pháp tranh thủ sự yểm trợ để được đưa lên cầm quyền
nhưng thất vọng rồi sang Bỉ sống trong một nhà tu Công giáo để chờ thời. Ông
hoàn toàn không có lực lượng Việt Nam nào sau lưng. Thời cơ đã đến khi người
Pháp sắp thua tại Điện Biên Phủ và đưa ông Diệm lên cầm quyền vì họ nhìn thấy
nơi ông một lối thoát danh dự. Chỉ đến khi đã cầm quyền, ông Diệm và ông Nhu mới
thành lập Đảng Cần lao Nhân vị để có lực lượng nhưng không thành. Đảng Cần lao
Nhân vị có tới vài trăm ngàn đảng viên nhưng đã bốc hơi tức khắc sau khi ông Diệm
bị lật đổ. Thực ra nó đã chết trước đó mấy năm. Ông Ngô Đình Nhu, người sáng lập
ra nó, không muốn nhắc tới nó nữa vì nó chỉ tạo ra vấn đề chứ không giải quyết
được gì cả. Tình trạng này cùng giống hệt như Đảng Dân chủ của ông Nguyễn Văn
Thiệu trước năm 1975. Không ai có thể thành lập một chính đảng một khi đã nắm được
chính quyền vì lúc đó không thể phân biệt được những người vào đảng vì lý tưởng
chính trị với những người chỉ chạy theo quyền lợi. Cuối cùng thì ông Diệm chỉ
còn tin tưởng ở anh em họ hàng. Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu
sau đó, cho thấy rằng một người không có một chính đảng làm hậu thuẫn, ngay cả
nếu vì một sự tình cờ ngàn năm một thuở có được chính quyền, cũng thất bại chắc
chắn.





Cô Hoài nhắc lại
“Hội đồng Nhân sĩ” (assemblée
des notables
) do các tướng lãnh lập ra sau khi đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm.
Định chế này đã xuất hiện trong giai đoạn Cách mạng Pháp 1789 và cũng được lặp
lại sau này trong vài nước lạc hậu như là một liều thuốc chữa chạy cho tình trạng
trống vắng chính trị. Các tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa lập Hội đồng Nhân sĩ sau
khi lật đổ ông Diệm vì họ không có một sự chính đáng nào và cần dựa vào những
người có chút uy tín để được dư luận chấp nhận. Đây là một nhu cầu rất tạm thời
nên không ngạc nhiên khi hội đồng này bị giải tán sau đó. Đây cũng là dịp để
các vị nhân sĩ phơi bày sự trống rỗng kiến thức chính trị, một kiến thức chỉ có
được trong sinh hoạt chính đảng. 





Cô Hoài cũng thêm
ra một loạt các khái niệm của xã hội Nho giáo thân hào, nho sĩ, chí sĩ,
danh sĩ, văn thân, sĩ tử

nhân vật, có thể thêm kẻ sĩ, nho gia và vài danh xưng khác nữa. Điều này chứng tỏ văn hóa nhân
sĩ ăn rễ rất sâu vào xã hội ta. Nhân sĩ là một nho sĩ – hay sĩ tử, văn thân, kẻ
sĩ, nói chung là một người có đi học – có tiếng tăm. Các nhân sĩ có tiếng tăm lớn
được gọi là danh sĩ, nếu có thể có một vai trò lãnh đạo thì được gọi là chí sĩ.
Như vậy điều cốt lõi của văn hóa nhân sĩ là tiếng tăm, là chữ Danh. Đã sinh ra ở trong trời đất, phải có danh gì
với núi sông
(Nguyễn Công Trứ). Chữ Danh gần như là tất cả đối với các nhân
sĩ và trong hầu hết mọi trường hợp nó được coi là đồng nghĩa với “công
danh”, nghĩa là làm quan lớn, càng lớn càng vinh quang. Và mỗi nhân sĩ cố
gắng một mình để tìm công danh cho riêng mình.





Văn hóa nhân sĩ như vậy ít nhất để lại cho trí thức Việt Nam
hai thương tật:





Một là coi hoạt động chính trị là để làm quan, là tranh giành
công danh cho riêng mình, bằng cố gắng cá nhân.





Hai là tâm lý phục tùng chính quyền thay vì đấu tranh để thay
đổi nó, ngay cả khi đó chỉ là một chính quyền tồi dở và thô bạo.





Hai tật nguyền này khiến các trí thức Việt Nam không kết hợp
được với nhau để xây dựng một lực lượng có tầm vóc để đấu tranh dân chủ hóa đất
nước. Đa số không có văn hóa tổ chức hoặc ý chí thay đổi xã hội, hoặc cả hai.





Phạm Thị Hoài: Trong hai cụ Phan, hai nhà ái quốc lớn thời Pháp thuộc, có
vẻ như Phan Châu Trinh đáp ứng hình mẫu của một nhân sĩ mà anh miêu tả. Cụ hoạt
động cá nhân, cùng một vài người bạn đồng chí hướng chứ không ở trong một tổ chức
nào đáng kể. Cụ dành phần lớn cuộc đời cho công cuộc duy tân, khai hóa dân tộc và
viết những bản kiến nghị, điều trần gửi nhà cầm quyền thực dân chứ không trực
tiếp đấu tranh nhằm xóa bỏ chế độ thuộc địa. Phan Bội Châu khác hẳn, sáng lập
các tổ chức, vận động các phong trào, thậm chí theo đuổi cả các hoạt động bạo lực
nhằm giành lại độc lập cho dân tộc. Anh cổ xúy cho tinh thần Phan Châu Trinh
hay tinh thần Phan Bội Châu?





Nguyễn Gia Kiểng: Tôi kính trọng cả hai nhà chí sĩ họ Phan nhưng chọn lựa của
tôi rất rõ ràng: Phan Châu Trinh đúng và Phan Bội Châu sai. Tôi đã viết một
bài trong chiều hướng này
. Phan Châu Trinh không
hoạt động cá nhân, ông luôn luôn tìm cách liên kết với những người có tâm huyết
để có thêm sức mạnh. Năm 1904, ngay khi từ quan, ông đã kết thân với Trần Quý
Cáp và Huỳnh Thúc Kháng, rồi ba người cùng vào Nam liên kết với nhiều người
khác. Sau đó ông cũng ra Bắc gặp Đề Thám, sang Trung Quốc gặp Phan Bội Châu và sang
cả Nhật, để nhận định hướng đi cho cuộc đấu tranh, những mục tiêu cần phải đạt
tới, những gì cần làm và những gì có thể làm. Và ông đã làm những gì có thể
làm. Ông đấu tranh có phương pháp. Ngày nay các nghiên cứu về đấu tranh chính
trị không thiếu và anh em chúng tôi trong Tập hợp Dân chủ Đa nguyên đã đúc kết
trong các dự án chính trị, kể cả dự án gần đây nhất: Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai. Đấu tranh thay đổi xã hội phải qua năm giai đoạn trong đó
hai giai đoạn đầu cũng là hai giai đoạn dài và khó khăn nhất: một là xây dựng một
tư tưởng chính trị đúng thể hiện qua một dự án chính trị lành mạnh và khả thi;
hai là xây dựng một đội ngũ cán bộ nòng cốt. Phan Châu Trinh đã hành động như
thế. Ông cho rằng việc đầu tiên phải làm là khai dân trí, nghĩa là phổ biến một
tư tưởng chính trị. Ông là người Việt Nam đầu tiên quả quyết xác nhận lập trường
dân chủ và trình bày dân chủ một cách có bài bản. Ông không kêu gọi đấu tranh
xóa bỏ ngay tức khắc chế độ thuộc địa vì ông nhìn thấy một điều mà nhiều nho sĩ
không nhìn thấy là Việt Nam chưa bao giờ tiến bộ nhanh bằng trong giai đoạn
Pháp thuộc về tất cả mọi mặt khoa học, kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, giáo dục và
ngay cả nhân quyền. Phan Châu Trinh công khai và dứt khoát chọn lập trường
tranh đấu giành độc lập nhưng ông cho rằng dân tộc ta cần trước hết xứng đáng với
độc lập, để độc lập khiến chúng ta tiến bộ nhanh hơn và con người được tôn trọng
hơn. Phạm Quỳnh sau đó cũng có một lập trường tương tự dù không đủ dứt khoát và
gây tranh cãi. Phan Châu Trinh  hoàn toàn
có lý nhưng ông không thể làm hơn được, cuộc sống của ông trong những năm cuối
cùng tại Pháp quá thiếu thốn, ảnh hưởng nghiêm trọng lên tình trạng sức khỏe của
ông và ông mất năm 1926 sau khi về nước không đầy một năm, ở tuổi 54.





Phan Bội Châu trái lại chỉ hành động theo nhiệt huyết, ông chủ
trương giành độc lập bằng bạo lực dù không có phương tiện bạo lực, ông chủ
trương phục hồi Khổng giáo mà không ý thức rằng đó là một văn hóa độc hại, ông
cầu viện Nhật dù đó là một chế độ quân phiệt hung bạo. Ông lầm to.





Phạm Thị Hoài: Song giới nhân sĩ trong và ngoài nước hiện nay cũng rất đề cao tinh thần Phan Châu Trinh và hoạt động theo sát các chủ trương của cụ. Và từ những rụt
rè thận trọng ban đầu, nay họ đã tập hợp thành một đội ngũ nhất định, tuy chưa
phải là những tổ chức quy củ và mạnh mẽ nhưng đã có sức lan tỏa. Và quan trọng
nhất: họ cũng không thể làm hơn được. Mọi tổ chức đối lập đều bị chính quyền
bóp nát từ trong trứng nước. Vậy họ phải làm gì? 





Nguyễn Gia Kiểng: Không biết trong câu hỏi này cô Hoài có ý định khiêu khích để
tôi phản đối hay không nhưng tôi không nghĩ là các “nhân sĩ hiện nay”, để dùng từ của cô Hoài, đã làm tất cả
những gì có thể làm theo gương Phan Châu Trinh.





Phan Châu Trinh là nhà dân chủ đầu tiên của nước ta. Ông đã
vượt hẳn tư tưởng của thời đại mình, dứt khoát đoạn tuyệt với Khổng giáo và chọn
lập trường dân chủ nhân quyền. Điều này đặc biệt đáng thán phục vì Phan Châu
Trinh không biết tiếng Pháp và chỉ đọc một vài cuốn sách dịch tư tưởng phương
Tây được gọi là “Tân thư”, ông đã cần một cố gắng suy tư cá nhân rất
lớn để hiểu và hấp thụ những tư tưởng mới. Ông cũng đã từ quan, dứt khoát từ bỏ
mọi ân huệ của chế độ quân chủ và thẳng thắn bác bỏ nó đến nỗi bị án đày chung
thân, suýt bị tử hình nếu người Pháp không can thiệp. Sau này tại Pháp ông cũng
từ chối không chấp hành lệnh động viên vào quân đội Pháp trong Thế chiến I, dù
đó chỉ là hình thức, để bị tù và mất việc làm, rơi vào cảnh đói khổ đến nỗi cả
ông lẫn con trai đều chết vì hậu quả của thiếu thực phẩm và thuốc. Phan Châu
Trinh rất dũng cảm dù ông chủ trương đấu tranh bất bạo động.





Các trí thức hiện nay nói chung còn một khoảng cách xa so với
Phan Châu Trinh. Họ không đi trước và dẫn đường như ông. Nhiều kiến nghị và yêu
cầu còn tụt hậu so với ý thức của quần chúng. Nhiều người vẫn còn không dám nói
hết những điều mình nghĩ, một số tuy đã về hưu vẫn hãnh diện xưng ra những chức
vụ từng giữ trong chế độ cộng sản, dù xét cho cùng đó chỉ là tiếp tay cho một
chế độ bất chính và độc hại. Một số trí thức ưu tú đã đề cao Phan Châu Trinh,
tôi chỉ có thể tán thành họ, nhưng cũng xin phép nhắc nhở rằng Phan Châu Trinh đã
qua đời từ gần một thế kỷ rồi và cách tôn vinh đúng các nhà cách mạng tư tưởng
không phải là làm theo họ mà là đi xa hơn họ, như họ đã đi xa hơn di sản lịch sử
của chính họ.





Tôi cũng không nghĩ là các trí thức hiện nay đã làm tất cả những
gì họ có thể làm. Chúng ta phải có một tổ chức mạnh để giành thắng lợi cho cuộc
vận động dân chủ và đó là điều chúng ta có thể làm được ngay trong tình trạng
hiện nay, dù chủ trương của chính quyền cộng sản là không để nhem nhúm thành lập
các tổ chức như họ đã nhiều lần nhắc lại. Trong hơn 40 năm qua đã diễn ra một
cuộc giằng co giữa một bên là nhân dân Việt Nam vùng vẫy để tự cởi trói và bên
kia là ĐCSVN cố xiết lại để duy trì chế độ toàn trị, với kết quả là ĐCSVN đã phải
nhượng bộ khá nhiều. Hiện nay mọi người Việt đều có thể công khai nói rằng mình
ủng hộ dân chủ, không thích chủ nghĩa Mác-Lênin, thậm chí đả kích chế độ cộng sản
mà cùng lắm chỉ bị thiệt hại về quyền lợi chứ không bị đe dọa về an ninh. Đó là
điều mà hàng ngàn người đang làm công khai mỗi ngày trong đời thường cũng như
trên các mạng xã hội. Mức độ tự do này đủ để chúng ta có thể thành lập một tổ
chức dân chủ mạnh nếu thực sự có quyết tâm từ bỏ cách hoạt động nhân sĩ để đấu
tranh có tổ chức.





Có hai điều kiện chính. Điều kiện thứ nhất là phân công. Mỗi
người tùy cương vị của mình – ở trong hay ngoài nước, ở trong hay ngoài bộ máy
đảng và nhà nước cộng sản v.v. – làm những gì mình có thể làm thay vì tranh
giành những vai trò mà mình không thể đảm nhiệm. Điều kiện thứ hai, quan trọng
hơn nhiều, là niềm tin sắt đá vào sức mạnh của lẽ phải, là niềm tin rằng bao
nhiêu triệu công an võ trang cũng vẫn thua lẽ phải, nếu chúng ta thực sự biết vận
dụng lẽ phải.





Phạm Thị Hoài: Cuộc Cách mạng Hòa bình ở Đông Đức năm 1989 chấm dứt chế độ
chuyên chính vô sản ở CHDC Đức và dẫn đến thống nhất nước Đức diễn ra không do
tổ chức nào lãnh đạo. Ngược lại, các tổ chức chính trị đối lập mà trước đó
không thực sự hiện diện đã hình thành qua đêm, từ phong trào tự phát lan rộng của
quần chúng. Song dường như cuộc cách mạng đó cũng như tất cả các chuyển đổi
thành công từ một chế độ độc tài cần ít nhất một trong ba điều kiện: Một, ý chí
thay đổi chế độ hiện hành của đa số người dân; hai, một khoảng trống quyền lực
đủ lớn; và ba, một hoàn cảnh chính trị quốc tế đủ thuận lợi. Đông Đức năm 1989
đáp ứng cả ba điều kiện đó. Việt Nam năm 2019 dường như không đáp ứng cả ba. Đa
số dân chúng không màng chuyện chính trị. Chính quyền đảng trị và nhà nước công
an không thực sự suy yếu dù chúng ta cấp sẵn giấy báo tử cho nó từ rất lâu rồi.
Còn thế giới thì có đủ thứ khác đáng bận tâm hơn chế độ cộng sản giả hiệu hạng
nhì ở Việt Nam, chưa kể chỗ dựa vững mạnh của chế độ ấy ở một Trung Quốc cộng sản
giả hiệu hạng nhất đang chuẩn bị thống soái thế giới. Lẽ phải, trong hoàn cảnh
như vậy, có vẻ rất cô đơn? 





Nguyễn Gia Kiểng: Lẽ phải không bao giờ cô đơn và luôn có sức mạnh vô địch của
nó nếu biết vận dụng. Không thể so sánh Việt Nam hiện nay với Đông Đức năm
1989. Đông Đức lúc đó giống như một tỉnh của Đức bị nước ngoài chiếm đóng, nước
ngoài bỏ đi và một nước mẹ phồn vinh giang tay đón nhận. Trong một hoàn cảnh
như thế thì dù có hay không có các tổ chức chính trị, thay đổi vẫn đến. Việt
Nam hiện nay là một quốc gia đang phải chịu đựng một chính quyền tồi dở đặt nền
tảng trên một chủ nghĩa độc hại. Chúng ta phải thay đổi cả chính quyền lẫn chế
độ và văn hóa chính trị. Cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước Việt Nam là một cuộc
cách mạng đúng nghĩa. Chúng ta mong muốn cuộc cách mạng này sẽ diễn ra trong
hòa bình và trong tinh thần hòa giải dân tộc nhưng đó vẫn là một cuộc cách mạng
rất lớn, toàn diện và triệt để. Kinh nghiệm cũng như lý luận cho thấy là có bốn
điều kiện cần và đủ để một cuộc cách mạng thành công, như Tập hợp Dân chủ Đa nguyên
đã vạch ra trong các dự án chính trị từ ba thập niên qua và nhắc lại trong Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai:





Điều kiện thứ nhất là mọi người trong nước đồng
ý rằng chế độ hiện hữu là tệ hại và phải thay đổi.





Điều kiện thứ hai là đảng hay giai cấp cầm quyền,
vì mất đồng thuận trên lý tưởng chung hay vì bị ung thối, đã chia rẽ, phân hóa
và đã mất bản năng tự tồn của một đoàn thể.





Điều kiện thứ ba là đại đa số quần chúng đạt tới
đồng thuận về một chế độ mới và những mục tiêu quốc gia mới.





Điều kiện thứ tư là có một tập hợp chính trị
xuất hiện phù hợp với nguyện ước của toàn dân làm điểm hội tụ cho những khát vọng
đổi mới.






nhiên không bao giờ có điều kiện nào được thực hiện xong 100%, nhưng tới một mức
độ chín muồi nào đó ta có thể coi một điều kiện là đã đạt được. Đây là những điều
kiện để một quốc gia tự thay đổi. Dĩ nhiên bối cảnh thế giới có thể gia tốc hoặc
làm chậm lại tiến trình cách mạng nhưng yếu tố quyết định vẫn là cố gắng của
chính dân tộc đang cần sự thay đổi. Nhìn vào tình trạng Việt Nam hôm nay chúng
ta có thể nói là hai điều kiện đầu coi như đã có.





Điều
kiện thứ ba cũng đã có được một phần đáng kể. Quần chúng Việt Nam hiện nay đều
muốn một chế độ dân chủ pháp trị và một nền kinh tế thị trường, nhưng vấn đề
gai góc còn lại là hiểu rõ những khái niệm nền tảng của dân chủ và đem lại cho
chúng một nội dung vừa Việt Nam vừa cập nhật. Không đơn giản đâu, dân chủ không
phải chỉ là khẩu hiệu “tam quyền phân lập”. Chúng ta cần một nền tảng
tư tưởng và những định hướng lớn cho mô thức Việt Nam như chúng tôi đã trình
bày trong dự án chính trị của mình. Đất
nước đang cần một đột phá về tư tưởng mà hình như trí thức Việt Nam vẫn tránh
né, chính vì thế mà cuộc vận động dân chủ vẫn chưa khởi sắc.





Điều
kiện thứ tư, cũng là điều kiện cụ thể nhất và quan trọng nhất, nghĩa là một tổ
chức chính trị có tầm vóc, thì chúng ta gần như thiếu hẳn. Đó là lý do khiến chế
độ cộng sản vẫn còn tồn tại dù đáng lẽ nó đã phải bị đào thải từ lâu rồi. Phải
ý thức rằng ngay cả nếu chế độ này có ngã gục trên chính quyền thì chúng ta vẫn
cần một lực lượng để kéo thi thể của nó đi chỗ khác, nhưng lực lượng này chúng
ta vẫn chưa có.





Tại
sao chúng ta vẫn chưa có một tổ chức dân chủ mạnh? Lý do chính không phải là vì
chính quyền cộng sản đàn áp. Với mức độ tự do đã giành được và các phương tiện
giao thông và truyền thông hiện đại, chúng ta hoàn toàn có thể xây dựng được một
tổ chức dân chủ lớn. Trở ngại chính là di sản văn hóa nhân sĩ, là cách hoạt động
chính trị một mình hay trong khuôn khổ bạn bè thay vì tham gia xây dựng một tổ
chức đúng nghĩa. Chúng ta chỉ có thể đưa cuộc vận động dân chủ ra khỏi thế èo ọt
hiện nay nếu vất bỏ được cách làm chính trị nhân sĩ này. Tổ chức sẽ cho chúng
ta sức mạnh, lòng tin và sự dũng cảm, nhưng nó cũng giúp chúng ta có được bước
đột phá tư tưởng cần thiết mà tôi vừa nói tới trong điều kiện thứ ba, vì tổ chức
cũng chính là môi trường sản xuất và sàng lọc các ý kiến.





Phạm Thị Hoài:
Vì sao đó nhất thiết phải là một tổ chức dân chủ mạnh mà không thể là một liên
minh, một tập hợp của rất nhiều tổ chức có thể tương đối nhỏ? Đã có khá nhiều tổ
chức như vậy ở Việt Nam và hải ngoại, song dường như phần lớn đều chưa sẵn sàng
đứng chung trong một liên minh dân chủ? Hai năm trước, Tập hợp Dân chủ Đa
nguyên mà anh là chủ tịch phải trải qua một vụ ly khai. Bản
thân anh với chủ trương đấu tranh ôn hòa cũng bị những người chống cộng cực
đoan tẩy chay. Lý tưởng dân chủ không đủ mạnh để làm chất keo đoàn kết các lực
lượng dân chủ, hay đơn giản là mô hình kinh điển của những tổ chức và đảng phái
chính trị trước đây không còn phù hợp với những phương thức vận động quần chúng
của thế kỷ 21 này, khi cá nhân một influencer có thể ảnh
hưởng trực tiếp tới hàng trăm ngàn, thậm chí cả triệu người qua internet?





Nguyễn Gia Kiểng: Chúng ta đâu có mô hình tổ chức kinh điển nào từ trước đến
nay đâu. Sự thực là chúng ta chẳng có mô hình tổ chức nào cả, cứ tùy hứng mà lập
tổ chức thôi. Đó thảm kịch văn hóa của chúng ta và cũng là lý do khiến chúng ta
vẫn chưa có được một tổ chức dân chủ có tầm vóc. Khi chúng ta tưởng rằng mình đã
học được kinh nghiệm của một đảng nào đã thành công tại một nước nào đó thì
cùng chỉ là học phiến diện và vội vã chứ không hiểu. Muốn hớt tóc hay làm
móng tay cũng phải học ít nhất nửa năm, nhưng đấu tranh để thay đổi số phận của
cả một dân tộc thì nhiều người lại cho rằng không học cũng làm được. Kết quả là
hợp rồi tan. Sau gần nửa thế kỷ dưới chế độ cộng sản đã có hàng trăm hàng ngàn
tổ chức được thành lập để chống lại nhưng bây giờ còn lại bao nhiêu tổ chức có
chút thực chất? Không bằng số ngón tay của một bàn tay. Nhưng tại sao cách hành
động cẩu thả như vậy cứ tiếp tục? Đó có lẽ là vì lý tưởng dân chủ và lòng yêu
nước không đủ mạnh. Người ta chỉ hành động vì tức giận với chế độ cộng sản, hay
tệ hơn nữa vì muốn có chút tiếng tăm nên không thấy cần phải nghiên cứu và học
hỏi. Nếu thực sự đấu tranh vì dân chủ và tương lai đất nước thì người ta sẽ
chăm chú quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ và sẽ hiểu rằng xây dựng một tổ chức
dân chủ có tầm vóc là điều vừa bắt buộc phải làm vừa vô cùng khó khăn và sẽ có
thái độ đóng góp khiêm tốn và thận trọng. Anh em chúng tôi trong Tập hợp Dân chủ
Đa nguyên đã dành trọn hai năm để chỉ nghiên cứu về mục tiêu, đường lối và
phương thức đấu tranh trước khi quyết định thành lập tổ chức. Nhờ đó chúng tôi
hiểu rằng muốn xây dựng một tổ chức phải có một tư tưởng chính trị đúng đắn thể
hiện qua một dự án chính trị nghiêm túc và khả thi, sau đó cố gắng đầu tiên là
phải xây dựng một đội ngũ nòng cốt. Hai giai đoạn này chiếm gần hết thời giờ và
cố gắng của cuộc đấu tranh và có thể kéo dài nhiều thập niên nhưng đó là cái
giá phải trả cho cuộc cách mạng dân chủ. Chúng ta có thể nhận xét là ngay cả
các chính đảng có bề dầy lịch sử mà không cập nhật được tư tưởng chính trị cũng
không thể tồn tại.





Thành
lập tổ chức rất khó nhưng là điều không thể tránh né. Một cá nhân đứng ngoài mọi
tổ chức dù xuất chúng và tận dụng mạng internet
cũng chỉ có thể đóng góp cho cuộc vận động dân chủ trong việc khai dân trí,
nhưng cũng chỉ giới hạn thôi vì điều cần khai dân trí nhất chính là phải chấm dứt
lối làm chính trị nhân sĩ.





Công
thức liên minh các tổ chức nhỏ cũng không phải là giải đáp cho nhu cầu có một lực
lượng dân chủ mạnh. Từ 1975 tới nay đã có vài chục liên minh. Tất cả các liên
minh này đều bế tắc ngay sau khi thành lập và trên thực tế tan rã ngay sau đó.
THDCĐN có lập một ủy ban nghiên cứu về các kinh nghiệm liên minh để rút những kết
luận cho tương lai. Trong Khai Sáng Kỷ
Nguyên Thứ Hai
chúng tôi đã nói đến sự cần thiết của một mặt trận, hay liên
minh, dân chủ, nhưng đó chỉ là một liên minh giai đoạn ở cao điểm của cuộc vận
động dân chủ và dù vậy cũng phải có hai điều kiện. Một là phải có một tổ chức mạnh
và có uy tín để làm đầu tầu với vai trò lãnh đạo được các tổ chức thành viên
khác chấp nhận. Hai là mỗi tổ chức thành viên đều phải có một tầm vóc nào đó, nếu
không thì liên minh cũng giống như một cuộc tảo hôn và sẽ thất bại.






Hoài có nhắc tới vụ ly khai hơn hai năm trước xẩy ra trong THDCĐN. Những ai đã
từng tham gia xây dựng các tổ chức đều hiểu rằng những trục trặc là thường.
Lòng người phức tạp và văn hóa tổ chức của người Việt Nam chúng ta không cao,
lý tưởng dân chủ và lòng yêu nước nơi một số người đôi khi cũng không đủ mạnh để
chấp nhận những hệ lụy của sinh hoạt tổ chức. Chúng tôi có may mắn là ít gặp sự
cố nhưng đây không phải là lần đầu có những người ra đi. Phần lớn ra đi trong sự
nhã nhặn và vẫn giữ cảm tình với tổ chức, nhưng cũng có những người ly khai,
nghĩa là ra đi và dứt tình với tổ chức. Đặc tính chung ở những người ly khai này
là họ ngừng hoạt động chính trị một thời gian ngắn sau đó. Vụ ly khai cách đây
hai năm chỉ là một hành động phản bội vì bị cám dỗ tiền bạc quá lớn chứ tuyệt đối
không phải vì một động cơ chính trị nào. Những người chủ mưu, trong đó có người
phụ trách trang Thông Luận, đã cướp trang web này để lấy nó làm dụng cụ
bênh vực ông Trịnh Vĩnh Bình trong vụ kiện chính quyền cộng sản Việt Nam. Ông
Trịnh Vĩnh Bình, một người quen thân lâu ngày của họ, đòi bồi thường 1050 triệu
USD và hứa sẽ tặng 90% số tiền giành được cho các thân hữu. Họ không thể làm việc
này trong THDCĐN được vì đối với chúng tôi, đây chỉ là vụ kiện của một người
làm giầu bất chính bằng cách câu kết với một chính quyền bất lương và bị chính
quyền bất lương này phản bội. Cám dỗ quá lớn và họ đã bịa đặt đủ điều để đánh lừa
một số anh em khác, thí dụ như bịa đặt một chúc thư của cố huynh trưởng Nghiêm
Văn Thạch kêu gọi các chí hữu nổi loạn chống ban lãnh đạo ngay trong ngày đám
tang của ông. Họ đã tan rã ngay sau khi vụ kiện kết thúc, chỉ còn vài người cố
gian trá tới cùng thôi.






Hoài cũng nói tới những người buộc tội chúng tôi thân cộng. Xin trả lời vắn tắt
rằng chuyện này đã thuộc hẳn vào quá khứ. Phần lớn dư luận trong cũng như ngoài
nước ngày nay đã hiểu lập trường của chúng tôi, dù đồng ý hay không. Không thể
khác, không có sự hiểu lầm nào kéo dài mãi được.





Phạm Thị Hoài: Có thể có một hiểu lầm khác.
Trên trang nhà, Tập hợp Dân chủ Đa nguyên khẳng định rằng mình “gần như là
địa chỉ duy nhất cung cấp cho độc giả và mọi người Việt Nam những
kiến thức cơ bản nhất về chính trị”, “
ngoại lệ duy nhất
” trong các tổ chức và đảng
phái chính trị Việt Nam hiện tại có khả năng dự đoán và “
giải pháp cho tất cả các mọi vấn đề của Việt Nam
“. Chưa kể nguy cơ đánh mất thiện cảm của các đồng minh chính
trị, tuyên xưng “duy nhất” ấy có phù hợp với diễn ngôn dân chủ đa
nguyên không, và rốt cuộc, ít nhiều cũng rơi vào một khía cạnh của “văn
hóa chính trị nhân sĩ” mà anh phê phán, khía cạnh một mình, chỉ riêng
mình, duy nhất mình đạt được thành tựu không, thưa anh?





Nguyễn Gia Kiểng: Cảm ơn lời nhắc nhở chân tình
của cô Hoài. Cùng một lập trường nhưng mỗi người có cách phát biểu khác nhau.
Hai bài báo mà cô Hoài nhắc tới phản ánh cách phát biểu riêng của Việt Hoàng. Mỗi
người chúng ta đều là một ngoại lệ duy nhất cả. Điều tôi có thể quả quyết là Việt
Hoàng, một chí hữu đầy tiềm năng của Tập hợp, không viết như vậy vì tự mãn mà
vì phiền lòng trước cách đấu tranh hiện nay trong phong trào dân chủ. Chúng ta
phản bác chế độ cộng sản và đấu tranh để thay đổi nó thì chúng ta cũng phải biết
chúng ta muốn thay đổi như thế nào, chúng ta muốn xây dựng đất nước Việt Nam
nào. Chúng ta cũng phải biết đâu là những vấn đề lớn đang đặt ra cho đất nước
và có thể có những giải đáp nào. Nhưng thực tế là trong vô số các tổ chức đã được
thành lập, và đa số không còn nữa, đã có bao nhiêu tổ chức có được một dự án
chính trị cho đất nước? Hãy lấy một thí dụ cụ thể là môi trường. Từ ba thập
niên qua Tập hợp Dân chủ Đa nguyên đã liên tục cảnh báo rằng đất nước đang bị hủy
hoại và đây là một trong những nguy cơ lớn nhất vì đất nước trước hết là đất và
nước, và khi đất nước đã bị ô nhiễm đến độ không còn sống được nữa thì chúng ta
chẳng còn gì để nói với nhau. Chúng tôi đã không nhận được sự đồng tình hưởng ứng
nào cho đến khi xẩy ra thảm họa Formosa. Chúng tôi còn nêu ra nhiều vấn đề lớn
khác với những đề nghị giải đáp, như những ai bỏ thì giờ đọc dự án chính trị của
chúng tôi có thể thấy. Niềm tin của anh em chúng tôi là muốn đấu tranh chính trị
đúng nghĩa thì phải nhận diện được và có giải đáp cho những vấn đề lớn của đất
nước, đồng thời chuẩn bị nhân lực để thực hiện những giải đáp đó. Muốn như thế
thì phải có sức mạnh của tổ chức, phải hy sinh tư kiến, lòng tự ái và tham vọng
cá nhân để đấu tranh có tổ chức. Cách phát biểu của Việt Hoàng có thể bị hiểu lầm
là tự mãn nhưng hoàn toàn không có tâm lý nhân sĩ.





Một lời sau cùng: Lẽ Phải có sức mạnh vô địch nhưng nó không chỉ giới hạn
trong phạm vi đạo đức. Khi chúng ta lên án độc tài, tham nhũng và các thẩm phán
tay sai trong những phiên tòa chính trị chúng ta có lẽ phải, nhưng chúng ta
cũng có lẽ phải khi chúng ta nói một nền kinh tế lành mạnh phải cố gắng phát
triển thị trường nội địa thay vì để cho ngoại thương chiếm 200% GDP như hiện
nay. Và chúng ta cũng có lẽ phải khi bác bỏ lối làm chính trị nhân sĩ và khẳng
định rằng đấu tranh chính trị luôn luôn phải là đấu tranh có tổ chức.





Phạm Thị Hoài: Xin cảm ơn anh Nguyễn Gia Kiểng.





Berlin, 7/2/2019





(Báo Trẻ, 14/2/2019)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 15, 2019 05:57

January 22, 2019

Ngày xứ người, đêm đất mẹ – Trò chuyện với một nhà bất đồng chính kiến lưu vong





Phạm Thị Hoài thực hiện





Cuộc trò chuyện này được thực hiện qua thư
điện tử, với nhà bất đồng chính kiến Phạm Hồng Sơn, người từng
, sau giảm thành 5 năm tù và 3 năm quản
thúc, nay sống tại Paris, Pháp
.





Phạm Thị Hoài: Thưa anh Phạm Hồng Sơn, anh sống ở Paris vừa
tròn một năm. Vì sao có cuộc ra đi này?





Phạm Hồng Sơn: Trước khi vào
tù năm 2002 tôi có khoảng gần một tháng cảm nhận gần hơn với nhà tù
và có khoảng gần hai năm thích thú làm quen với cảm giác phiêu lưu đi
vào một con đường “đặc biệt”. Nhưng với việc rời khỏi Việt Nam vừa
rồi, tôi có khoảng một tuần để đi đến quyết định dứt khoát trước
một biến cố chưa bao giờ nghĩ tới. Hai con tôi đều được học bổng
Excellence-Major của chính phủ Pháp và đã rời Việt Nam đi du học, đây
là điều may mắn nhưng phần nào đã được trông đợi. Ít lâu sau vợ tôi
lại có quyết định di chuyển từ văn phòng đại diện khu vực tại Hà
Nội sang làm việc ngay tại trụ sở chính tại Paris. Sự kiện này quá bất
ngờ đối với tôi. Nhưng tôi xét thấy mình không thể không ủng hộ một cơ
hội như thế cho sự nghiệp của một người đã hy sinh cho tôi quá nhiều.





Phạm Thị Hoài: Đây là lần đầu tiên anh đến châu Âu. Cuộc
sống ở Pháp, ngay tại thủ đô hoa lệ, có như anh hình dung?





Phạm Hồng Sơn: Sinh ra và lớn
lên ở một đất nước như Việt Nam và ra đi để sống ở một đất nước như
Pháp, tôi xác định đó sẽ là một cuộc chuyển đổi giống như một con
cá vốn sống trong một cái chum nay sẽ phải bơi trong biển cả. Nhưng thực
tế nước Pháp không quá khác biệt so với những gì tôi hình dung, nói
đúng ra là gần như không có bất cứ điều gì khiến tôi ngạc nhiên thực
sự, dù đó là vẻ đẹp mỹ lệ, sự đồ sộ nguy nga hoành tráng của các
công trình kiến trúc có tuổi đời vài trăm năm hoặc sự tổ chức chặt
chẽ, công phu, tỉ mẩn, nghiêm cẩn của các viện hàn lâm, viện nghiên
cứu, hệ thống thư viện, kể cả sự sôi động, huyên náo của môi trường
chính trị, báo chí lẫn sự đa dạng, muôn màu của các gương mặt con
người và những cảnh nhếch nhác, tiều tụy ngay tại Paris. Nhưng cái bất
ngờ nhất đối với tôi là vấn đề tâm lý.





Phạm Thị Hoài: Không phải một cú sốc văn hóa, mà là một cú
sốc tâm lý?





Phạm Hồng Sơn: Cuộc sống, con
người và các tập quán ở Pháp hoàn toàn không làm tôi phải ngỡ
ngàng, khó chịu hay sửng sốt. Phần yêu mến, khâm phục, thân tình hơn
hẳn những mặt ngược lại. Nhưng cuộc sống thực tế làm cho những cảm
nghĩ về thân phận cá nhân, thân phận dân tộc của tôi trở nên nặng nề
hơn, cực đoan hơn. Từ khi sang Pháp tôi luôn bị ám ảnh bởi một mặc
cảm của kẻ chẳng ra gì, đã từng hùng hổ, đánh chửi người khác,
rồi bây giờ lại âm thầm trông cậy, sống nhờ vào người bị đánh chửi
đó nhưng không chịu thừa nhận lỗi lầm. Bố mẹ tôi “đánh Pháp”, hai anh
trai tôi “đánh Mỹ” rồi bây giờ cả gia đình tôi sống nhờ vào Pháp –
đồng minh của Mỹ.





Phạm Thị Hoài: Công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa,
trong đó có Việt Nam, khỏi chế độ thực dân Pháp là một lỗi lầm hay sao? Và nước
Pháp hay nhiều quốc gia phát triển cấp học bổng cho sinh viên ưu tú từ các nước
khác là việc cũng đem lại lợi ích cho chính họ. Còn vợ anh thì không sống nhờ,
mà làm việc và đóng thuế cho nước Pháp. Tôi không nhìn thấy ở đó một khía cạnh
nào đáng mặc cảm cả
.





Phạm Hồng Sơn: Tôi thấy trong
câu hỏi và gợi ý này có sự hiện hình của tinh thần hiềm tỵ phương
Tây, chống Pháp bằng mọi giá và ở mọi lĩnh vực của người Việt hồi
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Một năm vừa qua tôi có gặp nhiều
người sinh sống ở Pháp đến từ các cựu thuộc địa Pháp như Algérie,
Tunisie, Maroc; những người tôi gặp cũng không có ai suy nghĩ khác với
câu hỏi và gợi ý này. Tuy nhiên, nếu vượt qua được lòng tự ái to
nhất của loài người – tinh thần dân tộc (nationalism) hay chủ nghĩa yêu
nước (patriotisme) – chúng ta phải thừa nhận, xã hội loài người, từ
sau thời kỳ hái lượm, muốn hay không, cũng phải sống trong một trật
tự nằm dưới sự điều khiển, quản trị hay cai trị của một nhóm người
gọi là chính quyền. Vậy vấn đề quan trọng nhất không phải là ai, kẻ
nào, màu da, huyết thống nào nắm chính quyền, mà phải là ai là
người có thể mang tới một sự quản trị tốt hơn cho tiến bộ, hạnh
phúc. Sự thật ngày nay đã chứng minh rõ ràng công cuộc giải phóng
thuộc địa có mục đích rất cao cả nhưng kết cục của nó nói chung
thường ngược lại. Để tránh hiểu lầm, chúng ta không thể “chạy tội”
cho nhiều âm mưu, nhiều tội ác của các nhà thực dân, nhưng chúng ta
cũng đừng nên quên chưa có nhà quản trị xã hội, ông vua, ông lãnh tụ
đích thị “máu đỏ, da vàng” nào tuyệt không có những âm mưu tư lợi,
không phạm tội ác đối với chính đồng bào của họ. Xem lại sử sách
chúng ta còn phải khẳng định những người sau thường man dã, ác độc
hơn những người trước và lại thiếu hẳn những kiến thức, hoài bão về
khoa học, dân chủ, tự do, nhân quyền như cách nói hiện đại ngày nay.





Đó là
những gì đã thuộc về quá khứ, phần nào cũng nằm trong sự ấu trĩ,
sai lầm của nhân loại ở thời kỳ chuyển đổi từ biệt lập sang giao
thoa và toàn cầu hóa. Nhưng đau đớn là cho đến ngày hôm nay Việt Nam
vẫn nằm dưới một chế độ rất tồi bại. Một người Pháp tôi gặp đã
nói rằng chủ nghĩa yêu nước của Việt Nam trong thế kỷ 20 đã thành
công trong việc quét sạch các cơ sở, mầm mống cho một xã hội tự do
mà người Pháp đã kỳ công hay vô tình tạo dựng. Với tư cách là một
người Việt Nam, và mãi mãi vẫn là một người Việt Nam, chị thử hình
dung tôi có cảm giác như thế nào trước nhận định này ngay trên đất
Pháp?





Phạm Thị Hoài: Có những ví dụ khác: Botswana, Uruguay, Chile…
sau khi giành được độc lập đã phát triển khá ngoạn mục và hiện tại thậm chí còn
vượt qua nước Pháp của “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” về mức độ tự do, theo
bảng xếp hạng của tạp chí The Economist. Hàn quốc, Singapore, Malaysia, Đài Loan đều
từng là thuộc địa. Theo tôi, chủ nghĩa yêu nước tự nó không liên quan gì đến tiến
bộ xã hội hay phản tiến bộ. Mà là một chủ nghĩa khác
.   





Phạm Hồng Sơn: Lý do chính
của kết quả phát triển đáng ngưỡng mộ của các nước này nằm ở vấn
đề kỹ thuật chứ không phải ở việc “giải phóng” hay “độc lập”. Không
xem lại lịch sử hậu thuộc địa của các nước này, tôi vẫn tự tin
khẳng định rằng để đạt được các tiến bộ như chị vừa nói, mà hẳn
phải qua nhiều khúc quanh bi kịch, giới trí thức, giới tinh hoa của
các nước này chắc chắn đã phải có ý thức hoặc đấu tranh để tiếp thu các
ý niệm, các kỹ thuật quản trị tiến bộ của các nhà thực dân như pháp trị (Etat de droit, rule of law),
phân quyền (séparation des
pouvoirs) hoặc báo chí tự do, hội đoàn độc lập, tinh thần khoa học.
Như vậy ở đây chúng ta lại phải quay về điểm đã nêu: vấn đề không
phải là “người nước ta” hay “người nước ngoài” cầm quyền mà là
phương pháp, đường lối cầm quyền. Trong khi đó chủ nghĩa yêu nước thường
đi theo xu hướng phải là “người nước ta”. Và, như mọi tình yêu, có
những thứ tương tự chủ nghĩa yêu nước và sự lợi dụng tình yêu nước
không dễ dàng phân biệt. Chính công cuộc giải phóng thuộc địa cùng “tình
yêu nước” – một xúc cảm nhiều hơn lý trí – đã mở ra cơ hội tối ưu
cho những thế lực đen tối, phản tiến bộ lên ngôi. Dĩ nhiên, không phải
tất cả mọi quốc gia hậu thuộc địa đều rơi vào bi kịch này. Nhưng dù
thế nào, để học và vận hành tốt một phương pháp quản trị xã hội,
cũng như mọi kỹ thuật khác, đều đòi hỏi thời gian và những khả năng
nhất định, Trong khi đó, các thế lực ác, phản tiến bộ lại luôn chực
chờ tại mọi thời điểm của xã hội loài người. Như vậy, nếu không
thể quy tội cho chủ nghĩa yêu nước thì chủ nghĩa này cũng cần phải hết
sức cảnh giác. Ngày nào con người còn chuộng thơ ca, ngày đó chủ
nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu nước vẫn còn.





Phạm Thị Hoài: Tuy độc lập dân tộc không đồng nghĩa với tự
do, nhưng làm sao một dân tộc nô lệ có thể hy vọng có tự do từ kẻ ngoại xâm, dù
đó là một kẻ ngoại xâm văn minh? Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ đã trở thành một
trong những văn bản chủ chốt của triết học chính trị trong hệ thống các quốc
gia tự do dân chủ. Có lẽ anh đang chứng kiến một nước Pháp hiện nay khác xa nước
Pháp thực dân ở Đông Dương trước đây.





Phạm Hồng Sơn: Từ ngữ lừa
gạt và phản bội chúng ta: ngoại xâm. Thực tại Việt Nam đang chứng
minh hùng hồn nhất chính đồng bào của chúng ta, Đảng Cộng sản Việt
Nam, chính xác là các lãnh tụ của nó, đã và vẫn đang tiếp tục cố
bịt mọi lối thoát của dân tộc khỏi kiếp sống thụ động, thụ nhục. Nhưng
chính nhờ kẻ “ngoại xâm” Phú Lãng Sa mà người Việt chúng ta mới được
nếm mùi báo chí, thầy cãi, biểu tình, thị uy, bãi khóa, bầu cử, hệ
thống cầu cống, công báo, duyệt chi ngân sách công…, và chính thức cắt
khỏi thân phận phiên thuộc Trung Hoa. Giống như cơ thể sinh học, không
phải mọi ngoại xâm đều tai hại, đôi khi còn cực cần thiết như vaccin
chẳng hạn. Các cuộc can thiệp của đội quân mũ nồi xanh của Liên Hợp Quốc
thực chất cũng là những cuộc “ngoại xâm”. Giống thời Charles de Gaulle,
hiện tại vẫn có người Pháp giữ quan điểm Mỹ là quân xâm lược
(agresseur, envahisseur) Việt Nam thời kỳ chiến tranh 54-75; nhưng họ đã
im lặng hoặc nhoẻn cười khi tôi hỏi họ nghĩ sao về các binh lính
Pháp chiến đấu ở Afghanistan, Lybie, Malie và Syrie hiện nay. Điều đáng
nói là sai lầm, ngộ nhận của những người Pháp dân tộc chủ nghĩa đó
không gây hậu quả đáng kể cho một cường quốc như Pháp nhưng lại vô
cùng tai hại cho những dân tộc như Việt Nam.





Đối
với thế giới, đặc biệt ở Việt Nam, Cách mạng Pháp 1789 nổi tiếng
hơn rất nhiều Cách mạng Mỹ 1776. Nhưng dưới góc độ đặt ra nền tảng của
một chính quyền dân chủ có khả năng tự ‘kềm chế và đối trọng’
(checks & balances), theo tôi, nếu ta ngưỡng mộ cuộc cách mạng trước
một thì cần phải ngưỡng mộ cuộc cách mạng sau gấp nhiều lần dù
chúng ta phải dành nhiều phút mặc niệm cho những người bản xứ và da
đen tại 13 bang gốc của nước Mỹ hiện nay.





Tôi
chưa đủ khả năng để đưa ra một so sánh, dù ngắn gọn, giữa nước Pháp ở
Đông Dương ngày xưa và nước Pháp ngày nay, nhưng tôi cho rằng Pháp vẫn
tiếp tục là một nguồn cảm hứng, ảnh hưởng đối với sự phát triển
của nhân loại.





Phạm Thị Hoài: Sự kiện “áo vàng” vừa rồi lại cho thấy một
nước Pháp khác, bị chia rẽ trầm trọng, với những vấn đề kinh tế xã hội nan giải.
Tuy chưa có mô hình nào tốt hơn để thay thế, song các nền dân chủ kiểu phương
Tây đang chạm vào những giới hạn của mình, trong khi một mô hình khác, kiểu
Trung Quốc, dường như mới rời điểm xuất phát và còn cả một tương lai phía trước
.





Phạm Hồng Sơn: Dân chủ là một
phát kiến của con người sau hàng ngàn năm luôn phải bất lực đối mặt
với sự hung tàn vô giới hạn của kẻ cầm quyền. Cũng như mọi phương
thuốc có thật, dân chủ có những tác dụng phụ và hạn chế của nó
trước các nhu cầu, khả năng, bất trắc vô giới hạn của con người. Một
trong những điều kiện cần để dân chủ có thể hoạt động tối ưu là
phẩm hạnh hay lòng cao thượng, chính trực. Bởi dân chủ tự thân nó đã
cho phép mọi sự vô lý và ý đồ, cả tốt lẫn xấu, được tồn tại và
cạnh tranh bình đẳng. Đáng tiếc, xu hướng ăn tiêu và khoái lạc
(société de consommation et de loisirs) quá đà trong các nước phương Tây
đã khiến cho phẩm hạnh bị bào mòn và hậu quả là dân chủ bị lao
đao. Cuộc bầu cử Mỹ năm 2016 là một ví dụ rõ nhất. Sự kiện “áo
vàng” ở Pháp, theo tôi, không phải là vấn đề lo ngại nhất, đó chỉ
là cơn sốt thường kỳ có hơi cao của một cơ thể dân chủ. Chính quyền
dân chủ – dựa trên sự ưng thuận của (đa số) nhân dân – có ưu điểm cơ
bản tránh được đổ máu và đàn áp nhưng sự lựa chọn của đại chúng
thường không phải là sắc sảo nhất; và sự vận hành của chính quyền
dân chủ thường trắc trở.





Nhìn
về Trung Hoa tôi thấy lo nhiều hơn mừng. Bản thân tôi rất ngưỡng mộ
nền văn minh Trung Hoa. Nhưng càng ngưỡng mộ bao nhiêu càng thấy đáng
tiếc bấy nhiêu. Văn minh Trung Hoa đã nhìn thấy từ rất sớm tính hòa
đồng, đồng tồn tại trong vũ trụ. Có âm, có dương và trong âm có
dương, trong dương lại có âm, âm dương biến hóa chuyển đổi sang nhau uyển
chuyển khôn cùng. Nền văn minh đó cũng nhận ra lợi ích của cạnh tranh, triệt
tiêu trong học thuyết Ngũ hành. Đạo đức
kinh
còn cảnh báo một cách tinh diệu sự phù phiếm, nhất thời của
danh lợi, vật chất của đời sống con người trước sự vĩ đại, huyền
bí vô cùng của vũ trụ. Nhưng các nhà tư tưởng chính trị Trung Hoa cổ
và trung đại, kể cả Mạnh Tử, như tôi biết, đều không đụng tới đối
lập chính trị và ước chế quyền lực. Về con người, họ chỉ coi là
những đối tượng cần được quan tâm, vỗ về để cho quyền lực được yên
ổn, muôn năm chứ không coi là những chủ thể tôn quý cần được khai
phóng, làm chủ.





Mấy
thập niên qua dựa vào phương Tây, Trung Quốc đã đạt được những kết
quả gây kinh ngạc, từ kinh tế, khoa học, quản trị công ty cho tới môi
trường. Nhưng đằng sau đó là những hộp đen kín mít và sự loại bỏ
không thương tiếc những con người như Lưu Hiểu Ba. Nếu coi mô hình Trung
Quốc hiện nay chỉ là sự khởi đầu, chúng ta còn có thể tự an ủi và
trông chờ các đột biến bớt u ám. Nhưng, nếu nhìn Trung Quốc hiện nay
là sự tiếp nối dứt khoát của nhà Tần, nhà Hán, chúng ta cần phải
kinh hãi.





Phạm Thị Hoài: Phương Tây cũng kinh hãi, hay ít nhất là lo
ngại trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, song lợi nhuận từ big business với Trung
Quốc đủ lớn để bỏ qua những khác biệt then chốt giữa hai hệ thống chính trị; thậm
chí nhiều tập đoàn doanh nghiệp phương Tây hùng mạnh còn quỳ gối trước những
yêu sách độc đoán của Bắc Kinh. Thực tế “tiêu chuẩn kép” này đã khiến những
nguyên tắc tự do, dân chủ, pháp quyền của phương Tây nhiều khi thành những khẩu
hiệu suông. Chủ nghĩa tư bản độc tài Trung Hoa đã được chính chủ nghĩa tư bản tự
do phương Tây dung dưỡng và khích lệ
.





Phạm Hồng Sơn: Việc ưu tiên cho
“nồi cơm” hay cho kinh tế không phải hoàn toàn không có lý. Adam Smith
và Mạnh Tử có một điểm chung là cùng nhìn thấy cái lợi cho tiến
bộ của cộng đồng trong sự giàu có của cá nhân. Nhưng “hằng sản,
hằng tâm” của Mạnh Tử không hề nhìn thấy sự nguy hiểm của quyền lực
tuyệt đối. Ngược lại, “bàn tay vô hình” của Adam Smith không chỉ nhấn
mạnh tự do cho cá nhân mà còn đòi hỏi quyền lực công phải là kết
quả của một khế ước công, tức hiến pháp, và tư pháp phải tách biệt
khỏi hành pháp.





Ngoài
ra, chúng ta cũng phải thấy dân chủ và nhân quyền của phương Tây không được
xây dựng hoàn hảo ngay trong một lần. Tuyên
ngôn Độc lập
Hoa Kỳ ra đời năm 1776, mười một năm sau mới có bản
Hiến pháp, gần 100 năm sau đàn ông da mầu mới có quyền bầu cử và mãi
đến năm 1920 phụ nữ Mỹ mới được đi bỏ phiếu. Ở Pháp, Tuyên ngôn Nhân quyền và Quyền Công dân
công bố năm 1789 nhưng lần đầu tiên phụ nữ Pháp được cầm lá phiếu là
tháng Tư năm 1945 – gần một tháng sau khi triều đình Huế tuyên bố Việt Nam
độc lập.





Dù có
thể bị hiểu lầm hoặc bị lợi dụng, chúng ta phải thấy một thực tế
trong lịch sử là các tiến bộ về chính trị và nhân quyền thường đi sau
hoặc đến muộn hơn so với các thăng tiến về kinh tế. Đó cũng là lý
do của những kỳ vọng lớn đã có về Trung Quốc sau năm 1978. Nhưng, thời
sự Trung Quốc hiện nay và sự phát triển của khoa học, công nghệ đang
bác bỏ những kỳ vọng này. Song, cái khó của các nền dân chủ của
phương Tây là muốn cầm quyền phải có đủ phiếu bầu của người dân. Mà
đa phần dân chúng, ở đâu cũng thế, đều không phải là Jean-Jacques
Rousseau, Voltaire, Abraham Lincoln hay Trang Tử.





“Tiêu
chuẩn kép” của phương Tây là sự thể hiện vấn đề nan giải muôn thuở
của nhân loại: mâu thuẫn giữa các nhu cầu bình thường hay tầm thường
với những ước vọng hướng thượng, cao cả. Song, ít ra phương Tây đã
đạt được “tiêu chuẩn kép”. Trung Quốc, và nhiều nước tương tự, chỉ
có một tiêu chuẩn thôi: theo Đảng.





Quan
hệ thế nào cho đúng đắn với Trung Quốc là vấn đề quá lớn. Nhưng tôi
tin phương Tây, đúng ra là một phần nhân loại khác Trung Quốc, sẽ tìm
ra giải pháp. Ngay trong thời đại còn nhiều mù mờ về Trung Hoa và
bộn bề với các cuộc binh lửa tại châu Âu, Napoléon Bonaparte đã nhận
định: Thế giới sẽ run rẩy khi Trung Hoa thức giấc. Chẩn đoán đúng
luôn là bước cần thiết để có cách chữa trị.





Phạm Thị Hoài: Rất nhiều người Việt, cả ở trong nước lẫn ở
hải ngoại, đặc biệt ở Mỹ, đã đặt tất cả niềm tin và hy vọng vào chính sách ngoại
thương cứng rắn hiện nay của Hoa Kỳ với Trung Quốc, vì thế có người thậm chí tôn
Tổng thống Trump lên hàng thánh thần. Nửa thế kỷ trước, Trung Quốc giúp Hà Nội
đánh Mỹ. Bây giờ người Việt mong được Mỹ giúp đánh Tàu
.  





Phạm Hồng Sơn: Đánh giá về
cá nhân Tổng thống Trump và các chính sách của ông đang gây chia rẽ
sâu sắc và làm sứt mẻ nhiều tình cảm. Ở đây, tôi chỉ muốn nói Donald
Trump đắc cử tổng thống là kết quả của một cuộc bầu cử hoàn toàn free
& fair thể hiện ý nguyện của nhân dân Mỹ trong một hạn định 4 năm.





Về
vấn đề liên quan tới Việt Nam: Quỵ lụy hay khúm núm không phải là
những phẩm chất đáng phô trương. Nhưng chừng nào con người còn khác
biệt về mức độ trí tuệ và sức mạnh, chừng đó các quan hệ giữa
các cá nhân và giữa các quốc gia còn phải chịu những quy luật
nghiệt ngã của kẻ mạnh.





Tôi
chắc mọi người sẽ phải kinh ngạc khi xem bức tranh đặc
tả đoàn sứ thần Thái Lan tới gặp triều đình Pháp năm 1861 – 12 năm
trước khi Pháp hãm thành Hà Nội lần thứ nhất và 23 năm trước khi
triều Nguyễn hạ bút ký vào Hiệp ước Patenôtre. Nhưng nếu nhìn lịch
sử phát triển của Thái Lan so với các quốc gia trong vùng, tôi cũng
chắc không ai dám nói triều đình và sứ thần Thái Lan lúc đó là hèn
nhát hay ngu dốt.





Gần
đây người ta cũng biết François
Hollande năm 2006 lúc đương là lãnh đạo của Đảng Xã hội Pháp đã tự
thân tới sứ quán Mỹ tại Paris để ngỏ lời xin lỗi cho thái độ
anti-américain của Tổng thống Jacques Chirac trong cuộc tấn công Iraq.





Do đó,
theo tôi, một dân tộc khôn ngoan hay ngờ nghệch không phụ thuộc vào
việc có hay không có tư tưởng “vọng ngoại” hay “lụy ngoại”.





“Bây giờ người Việt mong được Mỹ giúp đánh
Tàu”
,
đây là một tín hiệu của sự thức tỉnh trong xã hội. Nhưng vấn đề
chính lại không nằm ở Mỹ. Trên cả văn kiện lẫn thực tại và lịch
sử, “Tàu” là đồng minh bảo trợ cho Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
Cộng sản Việt Nam lại đã trở thành một đối tác làm ăn của Mỹ,
được Mỹ cam kết tôn trọng thể chế chính trị độc đảng toàn trị. Đến
đây đã quá rõ vật cản lớn nhất của dân tộc ta, chính là Đảng Cộng
sản Việt Nam, chứ không phải Tàu.





Phạm Thị Hoài: Phần lớn thời gian trong lịch sử và nhất là
sau khi khối cộng sản Đông Âu sụp đổ, hình mẫu và chỗ dựa của Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng Cộng sản Trung Quốc. Song trong vòng bốn thập niên, một thời gian kỷ
lục, Trung Hoa từ một khối nghèo đói lạc hậu khổng lồ đã trở thành một cường quốc
với tham vọng dẫn đầu và thống trị thế giới. Vậy việc mô hình tư bản độc tài
leninist ấy không dẫn đến những thành công tương tự ở Việt Nam phải có những
nguyên nhân khác, ngoài thể chế?





Phạm Hồng Sơn: Phải nói ngay
rằng rất khó so sánh giữa một đảng có một lãnh tụ có tham vọng
làm bá chủ thế giới với một đảng có một lãnh tụ suốt đời chỉ nhắm
vào một mục đích giữ cho bằng được quyền lực, danh vọng của bản
thân và đảng của ông ta bằng mọi giá, kể cả bán nhượng chủ quyền
lãnh thổ cha ông. 





Chúng
ta phải thấy rằng trong suốt chiều dài tồn tại của nhân loại, thời
kỳ có tự do, dân chủ chỉ là một chấm rất nhỏ và mới xuất hiện
cách đây khoảng 250 năm. Nhưng nhân loại đã tạo ra nhiều nền văn minh
khác nhau từ cách đây hàng ngàn năm với những sáng chế, thành quả,
tiến bộ khiến cho người ngày nay vẫn phải khâm phục. Trong khi Việt Nam
gần như không có gì để so sánh với thế giới, Trung Quốc hiện tại
làm tôi liên tưởng tới thời nhà Tống của Trung Hoa cách đây 1000 năm. Đa
số các sử gia phương Tây, như tôi biết, đều coi nhà Tống là thời kỳ
rực rỡ nhất trong lịch sử Trung Hoa; về mặt công nghệ, phát minh đã
đi trước phương Tây. Thời kỳ này người Trung Hoa đã có những hạm đội
hàng trăm thuyền, có những chiếc tàu vượt đại dương có sức chứa
400-500 người, đã thực hiện những chuyến du hành xuyên đại dương trước cả
Christophe Colomb hay Vasco da Gama. Nhà Trung Hoa học Nguyễn Hiến Lê cũng
thổ lộ: “Không triều đại nào, ngay cả đời Thịnh Đường, làm cho tôi mê
bằng khoảng gần cuối đời Bắc Tống.” Nhưng John K. Fairbank đã nhận
xét rằng thời nhà Tống nổi bật là sự kiểm soát cao độ dân chúng,
kể cả tầng lớp trên. Chính quyền thời này đã đặt ra các nguyên tắc
ứng xử chi tiết, có tới 200 mục, cho quan hệ giữa các cá nhân từ gia
đình cho tới xã hội với mục đích làm cho trăm họ luôn ổn định, an
vui và tuân phục triều đình. Lịch sử Trung Hoa luôn đầy ắp những điều
khiến người ta ngỡ ngàng hay bàng hoàng như thế.





Thời
cộng sản thuần túy cũng thế, Trung Quốc là một nước nghèo nhưng
không yếu. Chỉ 15 năm sau khi nắm chính quyền, Mao Trạch Đông đã sở
hữu sức mạnh quân sự nguyên tử trong bối cảnh đối đầu với cả Mỹ và
Liên Xô. Đấy là chưa kể hai người Trung Hoa không cộng sản đã giành
giải Nobel vật lý năm 1957. Với tham vọng, tầm nhìn lãnh tụ và phẩm
chất, truyền thống của dân tộc như thế, sự phát triển nhảy vọt của
Trung Quốc hiện nay, về vật chất và khoa học, không phải là điều quá
khó hiểu.





Phạm Thị Hoài: Huyền thoại Trung Quốc sụp đổ có vẻ cũng giống
huyền thoại tư bản giãy chết.  Phương Tây
đã nhầm khi hi vọng rằng tự do kinh tế sẽ kéo theo tự do chính trị ở Trung Quốc,
cũng như Cựu Tổng thống Bill Clinton đã nhầm khi chế giễu việc Bắc Kinh kiểm
soát internet là không khác gì đóng miếng thạch rau câu lên tường. Trung Quốc
không những kiểm soát thành công internet mà còn biến internet thành công cụ kiểm
soát và tuyên truyền hữu hiệu. Hà Nội có vẻ bất lực hơn. Anh có tin rằng bất chấp
những thứ như Luật An ninh mạng, phủ tường lửa lên toàn bộ đất nước như ở Trung
Quốc là điều khó xảy ra ở Việt Nam?





Phạm Hồng Sơn: Phát biểu đó
của Bill Clinton có tính chất chính trị hơn khoa học. Chính sách “tín
chỉ xã hội” của Trung Quốc, hiện đang thí điểm theo cách rất linh
hoạt tại 43 địa phương, thực ra là một học hỏi và phát triển từ “tín
chỉ tài chính” của phương Tây. Rõ ràng, đúng như các phê phán, chỉ
trích từ thế giới dân chủ, “tín chỉ xã hội” là công cụ rất thâm
độc, trói chặt các tự do cơ bản của con người – ý niệm khá trừu
tượng và hoàn toàn không tồn tại trong nền văn minh Trung Hoa. Nhưng,
tìm hiểu sâu thêm, chúng ta phải thấy “tín chỉ xã hội” cũng đưa tới một
số hệ quả tích cực cho dân chúng, ví dụ giảm tội phạm, cải thiện ý
thức tôn trọng luật giao thông, bảo vệ môi trường, gia tăng độ khả tín
trong các giao dịch xã hội v.v. Mặt khác, giống như con chim bị nhốt
trong lồng, ban đầu có thể rất bức bách, nhưng sau nó cũng quen dần
với đời sống tù đày và có khi còn cảm thấy hãnh diện với những
nan lồng chau chuốt hay cảm thấy hả hê vì không còn phải tung cánh đi
tìm thức ăn, nước uống như những con chim bên ngoài. Trong kho tàng văn
học đồ sộ của Trung Hoa hình như không có chuyện ngụ ngôn về con chó
rừng gầy guộc, đói khát, lè lưỡi chạy mất khi nhìn thấy vết hằn
trên cổ của con chó nhà ung dung, béo tốt. Pho truyện Tây du ký có gợi ý vấn đề ước
chế quyền lực, nhưng sự ước chế này lại nhằm vào nhân vật đại diện
cho kẻ bị trị, cho tầng lớp nhân dân, chứ không phải kẻ nắm quyền
thống trị xã hội: Tôn Ngộ Không.





Như
chúng ta đã trao đổi, rất khó so sánh Hà Nội và Bắc Kinh. Không chỉ
vấn đề khả năng công nghệ, chính quyền độc tài Hà Nội cần thế giới
nhiều hơn chiều ngược lại. Ngoài ra, xã hội Việt Nam sau bao năm bị
cùm kẹp, uốn nắn cũng khó có những hành động kịch tính. Diễn biến
của “Vụ Chu Hảo” là thêm một dấu chỉ cho thấy không gian mạng cũng
là một cái van giúp chính quyền điều chỉnh các áp lực xã hội. Trong
một tình hình như thế, phủ tường lửa lên toàn bộ xã hội là điều
ít có khả năng xảy ra.





Phạm Thị Hoài: So với chỉ hai thập niên trước, xã hội dân sự
và dư luận ngoài luồng chính thống ở Việt Nam đã giành được những không gian tồn
tại quan trọng. Nhiều người đã dấn thân và phải trả những cái giá rất đắt cho
điều đó. Và nhiều người, là những gương mặt nổi bật, sau khi bị kết án tù nặng
nề, đã bị chính quyền tống xuất thẳng từ nhà tù ra nước ngoài, chủ yếu là Mỹ và
châu Âu. Những cuộc ra đi như vậy gây khá nhiều tranh cãi và lo ngại. Một trong
những lo ngại lớn là ở nước ngoài, các nhà hoạt động đó có thể bị vô hiệu hóa
.
 





Phạm Hồng Sơn: Chúng ta phải
thẳng thắn thấy rằng những cải thiện đó của xã hội là điều rất
đáng mừng nhưng vẫn chỉ là sự “ăn nhờ” phần lớn vào các tiến bộ,
thành quả của nhân loại và còn ở khoảng cách rất xa so với những
gì nhân loại đã đạt được. Mọi đóng góp, dấn thân đều đáng trân quý
và biểu dương nhưng, theo Nelson Mandela, không có hy sinh nào cho tự do,
dân chủ được coi là đắt.





Về “tống
xuất”: ở đây cần thẳng thắn làm rõ một điều rất tế nhị, việc “tống
xuất” không bao giờ thực hiện được nếu không có sự đồng ý của người
bị “tống xuất”, chưa kể đó còn là một quá trình thường kéo dài
trong nhiều tháng ngày. Hơn một năm sống xa Tổ quốc càng củng cố cho
suy nghĩ trước đây của tôi: đối với một người hoạt động công khai
chống độc tài, việc ra đi theo ý của nhà cầm quyền phải được ý
thức là một thất bại cho cá nhân và cộng đồng. Nhìn vào những nhà
hoạt động dân chủ có trình độ và phẩm cách như Ngụy Kinh Sinh, Đoàn
Viết Hoạt chúng ta phải khẳng định, những phát biểu đại ý như “ở
đâu cũng có thể đấu tranh” chỉ là những biểu tỏ ngộ nhận hoặc tự
an ủi hơn là sáng suốt, trung thực. Đương nhiên, mọi thứ có thể thay
đổi, nhưng chúng ta phải nghiêm túc đặt câu hỏi: Tại sao các chính
quyền độc tài, xưa cũng như nay, đều coi đẩy đối lập đi lưu vong là
một giải pháp để bảo tồn quyền lực?





Phạm Thị Hoài: Voltaire, Nhất Linh, Karl Marx, Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh, Kỳ Ngoại hầu Cường Để, Lenin, Trotsky, Charles
de Gaulle, Tôn Trung Sơn, Đức Dalai Lama, Edward Snowden, Mahatma Gandhi… Không
thể kể hết những người bất đồng chính kiến và hoạt động đối kháng từ chốn lưu
vong. Hai mươi năm lưu vong của Gandhi ở Nam Phi đã đặt nền tảng cho sự nghiệp
chính trị của ông ở Ấn Độ sau này
.   





Phạm Hồng Sơn: Lưu vong vẫn và
sẽ mãi là một giải pháp chờ thời của những con người bất đồng với
các thế lực cầm quyền. Nhưng chấp nhận “tống xuất” là một vấn đề
rất khác. Đấu tranh chống độc tài không chỉ là việc tố cáo, chuyển
hóa hay lật đổ, đó còn là một công cuộc thu phục ý chí của kẻ cầm
quyền – cũng là những con người có bộ óc và trái tim – và thuyết
phục lòng dân. Những đối tượng và con người cần thu phục hay thuyết
phục đó sẽ nghĩ sao về một xu hướng đang định hình trong giới đấu
tranh: lên tiếng, có tiếng, vào tù và lên máy bay thoát sang thẳng những
quốc gia đang là niềm mơ ước của hàng triệu người Việt. Chúng ta
phải dũng cảm nhìn thấy những thất vọng, nuối tiếc không dễ biểu
tỏ của những người ở lại, của những người hằng dõi theo, tin tưởng,
trông đợi những tử tế, tốt đẹp sẽ đến từ những con người dám lên
tiếng, tranh đấu.





Theo
tôi, việc chấp nhận “tống xuất” không hay hơn việc thú tội khi bị bắt.
Đó đều là những hành động xuất phát từ cùng một nguyên nhân: khuất
phục thử thách. Tuy nhiên, dưới góc độ nhân quyền, đó là những quyền
mặc nhiên của mỗi cá nhân. Nhưng, khi đó, chúng ta phải quên hẳn đi
những gì thuộc về trách nhiệm, danh dự của một phong trào hay một
lý tưởng.





Phạm Thị Hoài: Còn trường hợp của anh? Anh có cảm thấy mình
đang lưu vong, dù ra đi không phải vì bị tống xuất?





Phạm Hồng Sơn: Năm 2009, sau khi
hết hạn quản chế 3 năm và theo lời hứa của Bộ Công an có đăng công
khai trên báo, tôi đi làm hộ chiếu, để sang Mỹ làm nghiên cứu theo một
học bổng, nhưng bị từ chối mặc dù trước đó chính quyền đã nhiều
lần gợi ý tôi và gia đình nên ra đi. Kể từ đó tôi xác định không bao
giờ nghĩ đến việc làm hộ chiếu chừng nào chế độ độc tài toàn trị
này còn tồn tại. Lần ra đi này, hộ chiếu của tôi được cấp là do
tác động của một nhóm sứ quán phương Tây, đứng đầu là Pháp. Trước khi
cầm hộ chiếu, tôi được cho biết khả năng quay về Việt Nam có thể
không có. Căn cứ vào cách hành xử của chính quyền đối với nhiều
người khác và bản thân, khi lấy quyết định ra đi tôi đã xác định rõ
đây là một cuộc lưu vong để giảm tối đa mọi cơ hội chính quyền có
thể lợi dụng để mặc cả, gây áp lực như đã xảy ra.





Phạm Thị Hoài: Khi quyết định tị nạn chính trị tại Pháp năm
1990, ở cao trào của sự sụp đổ của khối cộng sản Đông Âu, có lẽ ông Bùi Tín
không thể hình dung rằng cuộc đời lưu vong ấy kéo dài 28 năm và mình sẽ vùi
thân nơi đất khách. Còn khả năng trở lại Việt Nam của anh?   





Phạm Hồng Sơn: Tôi không lạc
quan như nhiều người khác. Ngay sau khi bị bắt vào năm 2002 tôi đã tự
nhủ, hệ thống chính trị này dứt khoát không thể chấp nhận nhưng thay
đổi nó là việc không thể nhanh chóng. Khi ra tù năm 2006, thời điểm
không khí đấu tranh chống độc tài cả trong và ngoài nước rất rầm rộ
với hàng loạt tổ chức, đảng phái, đoàn thể độc lập ra mắt hoạt
động, có những trí thức trẻ công khai trở về nước để đấu tranh, nhưng
tôi cũng vẫn nghĩ chưa thể có những biến đổi lớn trong 10 năm tới.





Khi
máy bay cất cánh rời xa Việt Nam, tôi thầm nói lời tạm biệt với tất
cả những gì đã gắn bó, thân thương, sát cánh, nuôi nấng và đùm bọc
mình trong nửa thế kỷ. Song, tôi không dám hẹn ngày trở lại. Sau một
năm sống xa xứ tôi càng hiểu và chia sẻ nỗi niềm của những con người
“ngày xứ người, đêm đất mẹ” nhưng dứt khoát không trở về chừng nào chính
thể hiện hành không thay đổi.





Phạm Thị Hoài: Paris cũng là lựa chọn của nhiều nhà bất đồng
chính kiến nổi tiếng từ Việt Nam khác, như nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà văn Dương
Thu Hương, ngoài ra còn là trung tâm của Tập hợp Dân chủ Đa nguyên và Đảng Dân
chủ Đa nguyên. Anh sẽ không thấy mình bị lẻ loi?





Phạm Hồng Sơn: Mọi cuộc gặp
mặt đã có với những nhân vật đối kháng đang ly hương, không chỉ tại
Pháp, đều cho tôi một cảm giác thân thiết, ấm áp, xúc động. Tất cả
cộng đồng đấu tranh chống độc tài, trong và ngoài nước, luôn luôn là
một nguồn khích lệ, tự hào cho cuộc sống hiện tại của tôi trên đất
Pháp.





Phạm Thị Hoài: Cảm ơn anh Phạm Hồng Sơn





Tháng Giêng 2019





(Báo Trẻ, 17/01/2019)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 22, 2019 05:36

November 19, 2018

Phỏng vấn một đảng viên thoái Đảng

Phạm Thị Hoài thực
hiện





Phỏng vấn này được
thực hiện qua thư điện tử, với một người bạn sống ở Việt Nam, từng cộng tác với
tôi ở cả hai giai đoạn làm báo,
talawas pro&contra , bút danh La Thành .





Phạm Thị Hoài: Tôi
còn nhớ, nhiều năm trước khi chúng ta đang làm việc chung cho talawas, tôi đã rất
bất ngờ khi bạn cho biết bạn là đảng viên. Bạn vào Đảng trong hoàn cảnh nào?





La Thành: Vào
sát thời điểm tốt nghiệp trung học phổ thông, tôi nộp đơn thi vào một trường đại
học kỹ thuật của quân đội, một cơ sở đào tạo sau bậc phổ thông mà lâu nay vẫn
được xếp vào hàng các trường “trọng điểm” của khối đại học công lập. Đó là những
năm cuối cùng của giai đoạn lịch sử được gọi là “thời bao cấp”, trước thời kỳ Đổi
Mới. Sức cuốn hút của hình ảnh các sinh viên đại học mặc quân phục, sự khác biệt
trong thủ tục sơ tuyển (về sức khỏe, lý lịch và học lực) đã là những yếu tố quyết
định sự lựa chọn đầu đời này của tôi lúc đó, một thiếu niên có tâm hồn lãng mạn,
nhìn cuộc sống chủ yếu qua ô cửa sổ các cuốn tiểu thuyết văn học cổ điển, báo Thiếu Niên và báo Tiền Phong.





Hai
mươi phần trăm thời lượng đào tạo của khóa học dài 5 năm được dành cho các môn
học về chính trị và quân sự đã ít nhiều nhồi vào đầu óc tôi những luận điểm
chính thống về hệ thống chính trị – xã hội mà tôi đang sống trong đó. Tôi được
biết rằng ở Việt Nam, nơi đã ra đời “nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á”,
các lực lượng vũ trang được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp – tuyệt đối – về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều
này liên quan trực tiếp đến câu khẩu hiệu về mục tiêu đào tạo của nhà trường,
“KỸ SƯ – SĨ QUAN – ĐẢNG VIÊN”, được căng kẻ khắp nơi trong khuôn viên của trường.
Tuy nhiên, kiểu tính cách của tôi không phù hợp để tôi đạt được trọn vẹn cả ba
mục tiêu này vào thời điểm tôi ra trường.





Tôi
trải qua ba đơn vị quân đội trước khi quay trở lại đúng cái alma mater của mình để làm giảng viên ở
một bộ môn khoa học, vào lúc tôi đã đeo lon đại úy song vẫn chưa có đảng tịch.
Chi bộ của bộ môn, mà một nửa trong số họ vốn là những người thầy cũ của tôi, lập
tức cử người theo-dõi, giúp-đỡ để phát-triển-Đảng cho tôi (các từ in nghiêng là những thuật ngữ rất
chuẩn mực của môn khoa học mà cụ đương kim lãnh tụ số một của đất nước đang là
sư phụ). Đối với họ, việc một giảng viên đại học kiêm một sĩ quan quân đội phải
vào Đảng là chuyện đương nhiên, miễn thảo luận: ít nhất, nó có lợi cho xu hướng
thăng tiến mặc định vào thời điểm đó của tôi, cũng như cho số liệu thống kê “thành
tích phát triển Đảng” của đảng bộ đơn vị.





Tôi
được phân công số giờ giảng nhiều nhất trong bộ môn, cùng một vài công tác
phong trào khác. Cuối năm đó, tôi được bầu làm “chiến sĩ thi đua” và được giới
thiệu để chi bộ làm thủ tục kết nạp vào Đảng.





Phạm Thị Hoài: Nhưng
từ nhiều năm nay bạn đã thầm lặng thoái Đảng. Đảng viên có những cách nào để ra
khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam?





La Thành: Về bản
chất, sự gia nhập Đảng của mỗi cá
nhân là một quá trình đồng thời công
nhận lẫn nhau giữa cá nhân đó và tổ chức Đảng, trong khi sự ra khỏi Đảng của một đảng viên là một
quá trình ngược lại: sự bất cầnkhông công nhận của một trong hai bên hoặc
cả hai bên với nhau.





Như
vậy, một đảng viên có thể ra khỏi Đảng một cách thụ động khi Đảng (được đại diện bởi phân bộ Đảng trực tiếp quản
lý) giành quyền chủ động khai trừ đảng
viên ấy ra khỏi Đảng và xóa tên khỏi danh sách đảng viên của phân bộ, mặc dù đảng
viên ấy chưa từng bộc lộ biểu hiện bất cần Đảng. Điều này thường xảy ra đối với
các đảng viên phạm pháp hình sự và bị khởi tố, hoặc các đảng viên có những vấn
đề nghiêm trọng về đạo đức theo các tiêu chí của Đảng. Hiếm hoi hơn, đó là khi
người đảng viên nảy sinh mâu thuẫn với Đảng trong phạm trù chính trị – tư tưởng,
mặc dù chưa hoặc không có nguyện vọng ra khỏi hàng ngũ Đảng nhưng vẫn bị Đảng
chủ động khai trừ. Một trong các thí dụ nổi tiếng của trường hợp này là sự kiện
tướng Trần Độ bị thu hồi đảng tịch.






chiều ngược lại, một đảng viên có thể ra khỏi Đảng một cách chủ động khi có ý chí loại bỏ các giá trị
– lý luận hoặc thực tiễn, hoặc cả hai – của Đảng khỏi cuộc sống của mình, bằng
cách này hay cách khác. Trong tình huống này, người đảng viên chủ động bỏ Đảng
có hai cách lựa chọn: công khai viết
đơn xin ra khỏi Đảng hay tuyên bố từ bỏ đảng tịch một cách chính thức, hoặc lặng lẽ bỏ sinh hoạt đảng.





Phạm Thị Hoài: Cách của
bạn như thế nào?





La Thành: Từ nhiều
năm nay, tôi đã bỏ không sinh hoạt đảng. Khi chuyển công tác khỏi đơn vị, tôi
được Ban Tổ chức của đơn vị (tức bộ phận Đảng vụ) viết phiếu chuyển sinh hoạt đảng,
đồng thời giao lại cho tôi bộ hồ sơ đảng viên của tôi. Tôi mang bộ hồ sơ về nhà
và cho vào két sắt. Mọi người nói đùa rằng làm như thế là “gia nhập quần chúng
chui”.





Phạm Thị Hoài: Vì sao
bạn chọn cách đó?





La Thành: Thực
ra, lúc đang còn trong quân đội, trong một lần sinh hoạt chi bộ hàng tháng, tôi
đã từng đề xuất khả năng tôi xin ra khỏi Đảng, nhưng ngay lập tức, các vị “đàn
anh” trong chi bộ lúc ấy chặn ngay: “Cậu muốn ra khỏi Đảng, đi chỗ khác mà ra. Cậu
ra ở đây ảnh hưởng đến nhiều người.” Quả thật đó là một thực tế, vì nếu tôi xin
ra khỏi Đảng một cách chính tắc, năm đó cái chi bộ mà tôi là thành viên chắc chắn
sẽ mất danh hiệu “Chi bộ Trong sạch Vững mạnh”. Một số đảng viên sẽ không được
công nhận các danh hiệu “Chiến sĩ Thi đua” hay “Chiến sĩ Quyết thắng”. “Điểm
thi đua tích lũy” của các đảng viên còn lại trong chi bộ có thể bị ảnh hưởng;
đó là một hình thức số hóa công trạng, sẽ được tham chiếu khi phân nhà, chia đất,
khi xét tặng các loại huân chương, huy chương, kỷ niệm chương theo niên hạn…
Sau nhiều thập kỷ cai trị, hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
thành công trong việc huấn luyện để các cán bộ nòng cốt của nó cả đời chỉ bận bịu
tự sỉ nhục mình theo cách đó mà không thể ngẩng đầu lên để nhìn thấy những thứ
khác…





Tóm
lại, tôi lựa chọn phương án “gia nhập quần chúng chui”, một mặt để không ảnh hưởng
tới các đồng nghiệp cũ của tôi, mặt khác vì tôi tự xác định tôi không phải là một
đảng viên thuộc loại “nhân vật của công chúng”, việc tôi công khai ý nguyện từ
bỏ Đảng sẽ không làm xói mòn bao nhiêu “sức đề kháng” của nó, trừ phi đã bắt đầu
xuất hiện một phong trào bỏ Đảng rầm rộ, mà điều này thì rõ ràng là chưa xảy
ra.





Phạm Thị Hoài: Theo bạn
ước tính, tỷ lệ đảng viên bỏ Đảng hiện ở mức nào?





La Thành: Như đã
phân tích ở trên, cụm từ “bỏ Đảng” thực ra chỉ dành cho các đảng viên có ý chí
ra khỏi Đảng một cách chủ động, khi
giành quyền loại bỏ các giá trị lý luận và thực tiễn của Đảng ra khỏi cuộc sống
của mình. Như vậy, đảng viên bỏ Đảng đều ít nhiều là những nhà bất đồng chính kiến.
Họ có thể là các công chức hoặc thành viên lực lượng vũ trang tự chuyển khỏi
khu vực nhà nước vì những lý do khác nhau, hoặc là một bộ phận trong những người
về hưu. Chưa từng có thống kê chính thức, song tôi cho rằng ở thời điểm hiện
nay, con số đảng viên chủ động bỏ Đảng có thể đến vài chục ngàn, và như vậy mới
chỉ vào khoảng xấp xỉ 1% trong tổng số bốn triệu đảng viên của Đảng.





Phạm Thị Hoài: Bỏ Đảng
chắc chắn là việc khó. Khó tới mức nào?





La Thành: Theo
nhìn nhận của tôi, đối với các “nguyên đảng viên” chủ động bỏ Đảng, việc ly
khai các giá trị của Đảng đồng nghĩa với việc tự loại bỏ các khó khăn về tinh
thần ra khỏi cuộc sống của mình. Tôi chưa từng quan sát thấy đảng viên nào lựa
chọn buông bỏ các giá trị của Đảng kèm theo những mất mát lớn trong đời sống vật
chất trước đó của họ.





Phạm Thị Hoài: Còn
khoảng cách thực tế giữa việc chia tay Đảng trong tư tưởng và công khai tuyên bố
bỏ Đảng?





La Thành: Khoảng
cách đó, theo tôi nghĩ, tỷ lệ thuận với mức độ nổi tiếng của người đảng viên bất
đồng chính kiến, và điều này thường tương đồng với cấp bậc của người đó trong hệ
thống đẳng cấp của Đảng. Đối với các đảng viên cấp thấp, “chia tay Đảng trong
tư tưởng” hay tuyên chiến công khai với tấm thẻ Đảng không khác nhau nhiều.
Trong khi đó, đối với các đảng viên cao cấp và/hoặc nổi tiếng như Nguyên Ngọc,
Chu Hảo, Mạc Văn Trang hay nghệ sĩ Kim Chi, công khai hành động chia tay đội
ngũ Đảng rõ ràng là có tiếng vang hơn nhiều so với khi họ “áo gấm đi đêm”, một
khi truyền thông và mạng xã hội không thể thờ ơ với động thái này của họ.





Phạm Thị Hoài: Nhưng
những đảng viên âm thầm thoái Đảng, họ có thực sự làm giảm sức mạnh của Đảng
không?





La Thành: Câu trả
lời của tôi là “không”.





Phạm Thị Hoài: Đảng
không thực sự coi đó là một nguy cơ đáng kể hay sao?





La Thành: Đảng số
của Đảng Cộng sản Việt Nam, như mọi đảng toàn trị đã từng hoặc đang tồn tại
trên thế giới, là một con số thuần túy hình thức, không có giá trị đo đếm sức mạnh
ý chí hoặc đạo đức của Đảng. Sau hơn nửa thế kỷ cai trị trong điều kiện toàn trị,
Đảng đã hoàn thiện một hệ thống chính trị thiên về hình thức, với bản chất là
quyền lực chỉ tập trung ở bộ phận trung ương của nó, mà các đảng viên ở bộ phận
này hầu như không bao giờ bỏ Đảng, trừ một vài trường hợp hết sức hiếm hoi
không đáng kể. Các đảng viên tầm trung và tầm thấp hoặc bám vào hệ thống chính
trị đó như các động vật ký sinh, hoặc từ giã hệ thống này vì lý do nhận thức: cả
hai trường hợp đều không ảnh hưởng đến quán tính vận hành của hệ thống. Hệ thống
ấy khó có thể bị sứt mẻ bởi một cộng đồng dân chúng mà tuyệt đại đa số đã được
tẩy não bằng một huyền thoại lịch sử đã được nhào nặn kỹ càng và hoàn toàn khiếp
nhược trước các biểu tượng răn đe.





Nếu
có thể ví Đảng với một cơ thể sống, tôi mường tượng nó như một động vật cấp thấp,
là loài rắn chẳng hạn. Mà động vật cấp thấp thì khó chết chỉ vì 1% cơ thể đang
ung thối hay hoại tử, không phải bộ phận đầu não của nó.





Phạm Thị Hoài: Nếu hệ
thống không bị ảnh hưởng đáng kể thì việc những đảng viên từng có nhiều cống hiến
cho sự nghiệp của Đảng, từng giữ những cương vị cao, nay công khai tuyên bố ra
khỏi Đảng có thể có tác động gì?





La Thành: Sự chủ
động ly khai Đảng của họ chắc chắn gây được tiếng vang. Không những thế, tôi
còn tin rằng đó là nước đi tất yếu để họ tự bảo vệ các giá trị đã có của mình
trong ván cờ với Đảng và với chính cuộc đời họ. Họ ít nhiều đã và đang xua đi
màn sương khói huyền hoặc lâu nay bao quanh các đài hương bệ tượng uy nghi của
Đảng, đã và đang góp phần làm xói lở nỗi sợ hãi mà Đảng đã ám thị dân chúng
trong ba phần tư thế kỷ cai trị độc đoán của nó. Việc những người như nhà văn
Nguyên Ngọc và nhà khoa học Chu Hảo vào Đảng, phục vụ Đảng và đóng góp cho uy
quyền của Đảng trong quá khứ là một đáng tiếc. Tuy nhiên, bằng quyết định ly
khai Đảng, họ đã chạm tay trở lại vào lương tri và tự do tư duy như những phạm
trù đạo đức. Trong lịch sử tồn tại của mình, Đảng đã phạm không ít sai lầm. Quyết
định kỷ luật Giáo sư Chu Hảo vừa qua từ Ủy ban Kiểm tra của Đảng là một trong
những động thái minh chứng cho sự xơ cứng và u mê già nua của nó.





Phạm Thị Hoài: Nhưng
Đảng vẫn đang được tiếp máu từ các thế hệ trẻ và bất chấp mọi tổn thất, dường
như vẫn chưa phải lo thiếu đảng viên?





La Thành: Từ Đại
hội VI (1986) đến Đại hội XII (2016), số đảng viên của ĐCSVN đã tăng từ 1,9 triệu
lên 4,5 triệu. Trong vòng ba thập niên đó, dân số Việt Nam tăng từ 60 triệu lên
95 triệu, có nghĩa là tỷ lệ đảng viên trong dân cư đã tăng từ 3,1% lên 4,7%. Nhưng
điều đó không đồng nghĩa với sự gia tăng về uy tín chính trị của Đảng, mà chủ yếu
xuất phát từ những lý do hình thức, chỉ đơn thuần phản ánh sự phình to của bộ
máy quản lý ở tất cả các cấp của hệ thống chính trị. Dĩ nhiên, nó cũng phản ánh
sự gia tăng nhu cầu vào Đảng, khi tấm thẻ đảng đảm bảo cho cơ hội thăng tiến
trong hệ thống chính trị đó.





Phạm Thị Hoài: Nhu cầu
muốn vào Đảng hay áp lực phải vào Đảng?





La Thành: Không
có quy định thành văn rằng cán bộ từ cấp nào trở lên thì bắt buộc phải là đảng
viên, song chế độ toàn trị và độc tài ý thức hệ do Đảng áp đặt và vận hành hơn
nửa thế kỷ qua ở Việt Nam đã khiến công tác tổ chức của nó ngày càng thấm đẫm
chủ nghĩa hình thức. Việc phân loại, tuyển chọn và đề bạt nhân sự của Đảng lâu
nay đã trở nên máy móc, trọng hình thức hơn nội dung. Không phải các phẩm chất
nhân văn, năng lực tư duy và kỹ năng hành động mà các loại “mác mỏ” như bằng cấp,
học vị, danh hiệu hay tấm thẻ đảng trở thành mục tiêu tranh thủ giành giật của
tất cả những người tìm kiếm cơ hội. Cách đây vài chục năm tôi còn thấy một cán
bộ khoa học giữ vị trí lãnh đạo cao cấp mà không phải là đảng viên: Giáo sư Phạm
Duy Hiển, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia – một cơ
quan trực thuộc chính phủ ngang cấp bộ – kiêm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt
nhân Đà Lạt, những chức vụ tương đương thứ trưởng và vụ trưởng. Bây giờ khó tìm
được trưởng, phó một đơn vị cấp ba (cấp một là các bộ ngành của chính phủ, các
ban ngành của Trung ương Đảng, các ủy ban nhân dân hoặc ban chấp hàng đảng bộ tỉnh/thành
phố trực thuộc trung ương) mà không phải là đảng viên. Sĩ quan cao cấp trong
các lực lượng vũ trang, tức từ quân hàm thượng tá trở lên, thì gần như bắt buộc
phải là đảng viên trước khi được đề bạt.





Phạm Thị Hoài: Tôi
nghe nói, vào Đảng bây giờ có khi cũng phải “chạy”, phải vào bằng cửa sau?





La Thành: Trên mọi
nấc thang quyền lực, từ địa vị cán bộ hành chính hoặc đảng vụ cấp xã phường đến
những vị trí lãnh đạo béo bở ở các công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước hay những
chiếc ghế đầy uy quyền ở Ban Chấp hành Trung ương hoặc chính phủ, Đảng đang điều
hành mọi công việc, trong đó có công tác phát triển Đảng, theo chủ nghĩa thân tín. Nhân sự có nhu cầu
vào Đảng phải tiếp cận và chứng minh sự trung thành của mình với nhân sự lãnh đạo
bằng mọi cách khả dĩ, từ những xách quà hay tấm phong bì tiền mặt thô thiển đến
những thủ đoạn ủng hộ tinh vi hoặc kín đáo hơn như trợ giúp lãnh đạo kiếm chác
lợi ích kinh tế/chính trị, tự nguyện trở thành các tiện ích sinh hoạt cho lãnh
đạo như đối tác chơi thể thao, kẻ dẫn bạn tình hoặc làm luôn đối tác tình dục của
lãnh đạo. Sự hé mở gần đây của truyền thông về những bộ máy quan chức ở địa
phương gồm toàn thân tộc, hay về những hot
girl
trở thành cốt cán sau một đêm chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh
toàn cảnh nhem nhuốc tởm lợm của hệ thống này.





Phạm Thị Hoài: So với
thế hệ của bạn và thế hệ trước, đảng viên trẻ hiện nay thế nào?





La Thành: Có thể
tạm chia họ thành hai nhóm. Nhóm thực dụng
gồm những người vào Đảng cho có đủ “mác mỏ” để tiến thân. Họ ít nhiều có cảm
xúc trước một số bất cập nghiêm trọng của chế độ hiện tại, song thường tránh
tham gia các tranh luận về chủ đề chính trị, hoặc tham gia ở mức độ an toàn.
Đây có lẽ là nhóm đông đảo nhất, mắc hội chứng doublethink khá nặng. Nhóm “hồng
vệ binh”
tập hợp những người thành kính và quyết liệt bảo vệ các biểu tượng
giá trị của Đảng như Hồ Chí Minh, ý thức hệ Mác Lê, cuộc “kháng chiến chống
Pháp” và chiến thắng Điện Biên Phủ, cuộc “kháng chiến chống Mỹ” và chiến thắng
30 tháng Tư năm 1975, cùng những “sáng tạo tài tình” của Đảng như Đổi Mới,
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, vân vân. Nhóm này nói chung
có sức khỏe tâm thần hạn chế, hầu hết mắc chứng tự kỷ ở mức độ khác nhau.





Phạm Thị Hoài: Và tất
cả đều tham dự “sinh hoạt đảng”. Cụ thể đó là cái gì?





La Thành: Theo điều
lệ ĐCSVN, đảng viên được tổ chức thành các phân bộ, gọi là đảng bộ, tương ứng với các đơn vị địa lý hành chính hoặc các đơn vị
kinh tế-xã hội. Theo thông lệ hiện nay, ở cấp chi bộ sinh hoạt đảng định kỳ diễn
ra mỗi tháng một lần. Nội dung là kiểm điểm công việc và hoạt động trong tháng,
thường là công việc chuyên môn và hoạt động phong trào, nhắc lại hoặc định hướng
kế hoạch công việc và hoạt động tháng tới. Ngoài ra có thể phổ biến nghị quyết
của đảng ủy cấp trên hoặc nghị quyết
của hội nghị Trung ương gần nhất, thường dưới hình thức đọc tài liệu in sẵn và
yêu cầu đảng viên viết bản thu hoạch cá nhân sau khi đọc các văn kiện đó. Buổi
sinh hoạt thường kết thúc bằng việc nghe đọc và biểu quyết thông qua một nghị
quyết do một người trong ban chấp hành, thường là bí thư chi bộ / đảng bộ, chuẩn
bị trước và được các đảng viên góp ý bổ sung trong buổi sinh hoạt. Diễn biến của
mọi buổi sinh hoạt Đảng đều được ghi biên bản. Sổ sách ghi chép nghị quyết,
biên bản họp, mẫu kiểm điểm cá nhân hiện nay đều được thiết kế, in ấn và phân
phát đến từng chi bộ hoặc đảng viên.





Cuối
tháng Sáu có họp sơ kết giữa năm và cuối tháng Mười Hai họp tổng kết cả năm.
Trong các buổi sinh hoạt đặc biệt này, mỗi đảng viên phải viết bản tự kiểm điểm
cá nhân, đọc trước toàn chi bộ rồi nghe các đảng viên khác nhận xét. Cuối buổi
sinh hoạt tổng kết năm là tiết mục bình bầu các danh hiệu thi đua để cấp trên
khen thưởng.





Phạm Thị Hoài: Thế đảng
viên trau dồi chủ nghĩa Mác-Lê vào lúc nào?





La Thành: Các
chuyên gia của Đảng lâu nay đã cho ra đời ba bộ giáo trình sơ cấp, trung cấp và
cao cấp cho các môn Triết học Mác-Lênin,
Kinh tế Chính trị Mác-LêninChủ nghĩa Cộng sản Khoa học. Chương
trình sơ cấp dành cho các trường cao đẳng và đại học không thuộc lực lượng vũ
trang hoặc Trung ương Đảng, chiếm 15% thời lượng đào tạo mỗi khóa học, theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cán bộ nguồn cho vị trí trưởng/phó các đơn vị
cấp ba và cấp hai bắt buộc phải có chứng chỉ đã qua chương trình trung cấp ở
các khóa học tại các trường đảng cấp tỉnh/thành, trong khi học viên sĩ quan các
trường đại học của quân đội và công an được thụ huấn chương trình này ngay
trong quá trình đào tạo. Cán bộ nguồn cho vị trí lãnh đạo cao cấp (trưởng/phó
các cơ quan từ cấp một đến cấp trung ương), tướng lĩnh chỉ huy hoặc chính ủy
các đơn vị cấp chiến dịch-chiến lược của lực lượng vũ trang phải có chứng chỉ
đã qua chương trình cao cấp ở một khóa học tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh hoặc Học viện Quốc phòng.





Phạm Thị Hoài: Ảnh hưởng
của Đảng ở thành phố và nông thôn có khác nhau nhiều không?





La Thành: Ở nông
thôn, người dân nói chung đồng nhất Đảng với chính quyền về quan niệm. Điều này
không có nghĩa ảnh hưởng của Đảng ở nông thôn là tích cực. Tệ nạn gia đình trị
và tham nhũng, đặc biệt là tham nhũng đất đai và tham nhũng chính sách, của các
đảng bộ và chính quyền địa phương trong nhiều năm qua đã gây nhiều bất bình và
phản kháng trong dân chúng, điển hình là các sự kiện như Đoàn Văn Vươn 2012,
Formosa 2016, Đồng Tâm-Mỹ Đức 2017, Bình Thuận 2018. Còn ở thành phố, ảnh hưởng
của Đảng đa dạng hơn. Trong các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước, đảng tịch và
sinh hoạt Đảng vẫn còn là những yếu tố điều kiện ảnh hưởng đến cơm áo và thăng
tiến của một bộ phận cán bộ nhân viên, song cũng chỉ dừng ở các ảnh hưởng kinh
tế. Dân đô thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, khinh nhờn Đảng hơn, song ý thức
phản kháng lại yếu hơn so với dân nông thôn. Uy quyền chính trị của Đảng ở
thành phố giống như các zombie, những
thây ma hôi thối vẫn tiếp tục áp đặt luật chơi của nó lên cuộc sống hiện tại.





Phạm Thị Hoài: Trên
những kênh phi chính thống như mạng xã hội, vỉa hè, công khai phê phán, giễu cợt
và chửi Đảng hoặc các lãnh đạo Đảng dường như đã trở thành một môn thể thao
toàn dân, thậm chí với sự tham gia của cả các đảng viên. Như vậy, có thể coi là
xã hội Việt Nam đã cởi mở hơn nhiều so với vài thập niên trước không?





La Thành: Bớt phải
thì thầm khi chê trách Đảng và lãnh đạo Đảng là một không khí cởi mở biểu kiến
và thụ động, giống như khung cảnh bầy thỏ đang đi lại dạn dĩ và đỡ rón rén hơn
trước mũi con sói đã già nua, chậm chạp và đầy bệnh tật. Tin tốt là mọi toan
tính đảo ngược tình trạng hiện tại là không thể.





Phạm Thị Hoài: Đảng bất
lực, hay tạm dung tình trạng đó vì tin chắc ở quyền lực của mình?





La Thành: Đảng
chưa bao giờ biết đến dung thứ, một khi nó còn có thể hành xử bất dung. Chắc chắn
là nó bất lực, và bất an. Các đảng viên cao cấp hiện đang sở hữu những bất động
sản và tài khoản giá trị lớn ở nước ngoài. Nhưng ngay sau khi Khối Soviet sụp đổ,
một ngân lượng cực lớn tài sản của Đảng, gồm hàng chục tỷ đô-la Mỹ, đã từng được
di tản ra nước ngoài để chuẩn bị cho sự lưu vong của bộ máy trung ương của nó.
Mới đây nhất, việc Luật An ninh Mạng cùng bộ nghị định để thực hiện nó được vội
vã thông qua, siết chặt các quyền tự do tự nhiên và căn bản của nhân dân, đã
cáo giác sự hoảng loạn của ban lãnh đạo ĐCSVN trước tiền đồ của chính nó. Toàn
Đảng, đặc biệt là bộ phận trung ương của nó, đang ở trong trạng thái bất an tuyệt
đối.





Phạm Thị Hoài: Nếu
ĐCSVN đã suy yếu như vậy, bạn có tin vào một phong trào bỏ Đảng rầm rộ trong
tương lai không xa?





La Thành: Chắc chắn là không. Đoạn tuyệt hay dứt khoát rũ bỏ di sản quá khứ không phải
là năng lực tính cách điển hình của người Việt, càng không phải là của những
người đã bước chân vào ngôi nhà của Đảng, cho dù di sản đó có tồi tệ và vô giá
trị đến đâu, và ngay cả khi họ không còn một lợi ích gì đáng kể gắn liền với tấm
thẻ Đảng. Để đoạn tuyệt với một di sản quá khứ tồi tệ, con người cần một năng lực
tư duy tự do, óc phê phán và lương tri thuần khiết. Đây là những phẩm chất lý
tính khá hiếm hoi trong đời sống tinh thần của người Việt, càng hiếm trong đời
sống tinh thần của các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.





Berlin, tháng 11/2018





(Báo Trẻ 8/11/2018
15/11/2018)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 19, 2018 06:01

October 11, 2018

Ông Vượng tính hết cả rồi

Phạm
Thị Hoài





Xe hơi là sân chơi
của đàn ông, từ một trăm ba mươi năm nay. Đồ chơi ở đó là những thứ phù hợp với
sở thích và nguyện vọng của giới mày râu, gồm cả những nhu cầu vô cùng tế nhị –
chẳng hạn cho những chàng thấy súng nhà mình hơi bé, một hãng bán xe Porsche đã
quảng cáo đạn nổ thật đùng đoàng. Nhưng hơn cả phù hợp là khơi dòng; hơn cả khơi
dòng là cài cấy những khao khát còn chưa nhen nhóm, định hướng những ham muốn còn
chưa thành hình. Với đường xá giao thông Việt Nam, xe trên 150 mã lực thực tế
là vô nghĩa, và một chiếc Pagani Huayra không sinh ra để chơi trong nhà rồi thỉnh
thoảng ra phố dạo mát. Song không hề gì. Tôi thích, tôi muốn, tôi thèm, tôi
ham, vậy tôi tồn tại. Nhân loại tiến về phía trước bằng ước muốn.





Ở sân chơi xe hơi, phái đẹp là phụ
tùng bắt buộc. Tiếng Việt hiện đại gọi những cô gái ấy là “nhân viên
PG”, dân dã là “gái mồi”, theo tôi “kích thích viên”
là sát với nghề của họ. Họ thả khêu gợi bên những chiếc xe phân khối ngày càng
lớn, váy ngắn hơn gót giày, này em xinh búp bê, này chị đê mê dominatrix
giày ống nai nịt, kim loại cọ xát da thịt, ngực trần bày chật mui trần. Họ tháp
tùng trí tưởng tượng của đàn ông, ví phồng, xe hay, đào đẹp, những hạng mục dễ
soạn catalog.





Nhưng từ vài năm gần
đây, nhất là từ #MeToo, truyền thống macho của sân chơi xe hơi ở phương Tây
lung lay mạnh. Ngay cả những hội chợ xe nổi tiếng
vì đào lẳng cũng đổi hướng
, nhiều hãng thay hẳn kích thích viên bằng đội ngũ bán
hàng chuyên nghiệp. Thời các nàng cây cảnh khép lại, hơn nữa từ Tesla trở đi,
phi quảng cáo lại hóa thành một chiến lược tiếp thị tự lan tỏa kỳ diệu. Hình ảnh
như thể bất biến của hãng xe không thèm quảng cáo này chỉ là Elon Musk cạnh một
chữ T mà chữ V của Vinfast không phải là không có chút gần gũi. Cả Tesla và
Vinfast đều bước ra từ hư vô, tay mơ ngoại đạo, không có một lịch sử vĩ đại sau
lưng, không có một đế chế hùng hậu dưới chân, không đáng một cái cười ruồi của
những ông lớn khả kính, và đều đặt cược vào một ván cờ lớn. Song con đường của
hai nhà trái hẳn nhau.





 Tesla, nghèo hơn Vinfast rất nhiều ở điểm xuất phát, với
những cơ sở sản xuất hiện tại vẫn khiêm tốn hơn Vinfast vài chục lần và thỉnh
thoảng lại mấp mé bờ phá sản, trở thành một tác nhân khuấy đảo và xoay chuyển cuộc
chơi, một game changer với một công
nghệ đột phá, một sản phẩm sáng tạo, khai phá một thị trường mới và đương đầu với
những thách thức mới của thời đại. Ngay cả nếu kinh doanh thất bại, Tesla cũng
đặt bệ phóng cho những hướng đi cách mạng, chưa kể đã tặng miễn phí toàn bộ
phát minh của mình cho cộng đồng. Hồn Tesla sẽ bất diệt, nếu xác nó chẳng may
tan tành. Nói cách khác, với Tesla, thế giới xe hơi cho đến nay vẫn do động cơ
đốt trong chế ngự buộc phải thay đổi.





Vinfast có mọi lý
do để chọn con đường ngược lại. Tập đoàn mẹ của nó đi lên từ bất động sản. Không
phải ngẫu nhiên mà mật độ tỉ phú bất động sản trên thế giới dày đặc nhất ở
Trung Quốc. Ở Việt Nam, 6
trong 10 người giàu nhất
sàn chứng khoán là tỉ phú địa ốc, và 3 trong số đó thuộc
gia đình người đứng đầu Vingroup. Chưa bao giờ, chưa ở đâu – nhất là ở Việt Nam,
không khác ở Trung Quốc, nơi đất đai đi liền với cơ chế quyền lực và là nguồn
phát sinh tham nhũng và xung đột xã hội khổng lồ nhất – tỉ phú bất động sản có
thể là những nhà cải cách khai phóng. May mắn thì họ là những người bảo thủ thận
trọng, trung thành với một số giá trị nhân văn căn bản, đủ khôn ngoan và cả lọc
lõi, giàu ý chí và khát vọng doanh nhân, nhạy bén với thời cơ, thông minh trong
chính sách nhân sự, biết tổ chức và hành động hiệu quả, có tầm vóc và có viễn
kiến.





Đó có phải là trường
hợp của ông Phạm Nhật Vượng, tôi không biết, dĩ nhiên tôi mong như thế. Nhưng tôi
không chờ đợi ở Vinfast bất kỳ một hành động nào có tính cánh mạng. Nó thích
nghi chứ không thách thức. Nó đi theo – đi tắt đón đầu nhưng vẫn là đi theo –
những kẻ đi trước chứ không hề mở một con đường khác. Nó không cống hiến một sản
phẩm nào mới mà chỉ áp dụng những thành tựu sẵn có và đã được thử thách của thiên
hạ. Nó khéo léo hòa nhập vào câu lạc bộ công nghiệp xe hơi thế giới lâu đời như
thành viên trẻ nhất và lập kỉ lục làm thẻ nhanh nhất; đủ hào nhoáng để lên sân
khấu, đủ vô danh hiền lành để chưa làm ai lo ngại; khiêm tốn nhận mình chẳng có
gì hết ngoài một túi tiền hạng nhất để mua sắm và một lòng tự hào dân tộc ngoại
hạng để nuôi quyết tâm. Tự hào dân tộc thì các đại gia xe hơi thế giới miễn
bình luận, không phải vô sản mà tư bản toàn thế giới đã liên hiệp thành công,
song túi tiền thì đáng chú ý. Vinfast hào phóng chi và các đại gia sẵn lòng
bán. Người Đức được tiền, người Ý được tiếng, người Mỹ được thể, người Việt được
kiêu hãnh và Vingroup được thương hiệu đẳng cấp, win-win thế giới phẳng, pháo bông, hoa lẵng, thịnh vượng, hòa bình,
tình tự dân tộc, ông Vượng đã tính hết.





Phải, chúng ta những
tồn tại bé nhỏ chỉ băn khoăn nên nhét mấy đồng bạc lẻ vào bít tất hay liều chơi
số đề, nên trong các thảo luận sôi nổi về Vinfast sớm muộn cũng có người nạt: anh
bảo cho mày biết nhé, đầu tỉ phú, dzú Ngọc Trinh, người ta tính đâu vào đấy cả
rồi, ngon vãi, mày câm họng đi cho anh nhờ. Quả nhiên ngôi sao Việt Nam vừa vụt
sáng trên bầu trời xe hơi quốc tế đã xuất hiện khác hẳn những hiện hữu tội nghiệp
thường thấy của cùng đất nước ấy ở những hội chợ nước ngoài. Không có những màn
kính thưa dài như hai cuộc chiến tranh bất hủ. Không có diễn văn cờ-lờ-mờ-vờ của
quan chức chính phủ. Không có hoa rủ như đám cưới hay đám tang. Không có những
nhân vật mờ ám đi lại xốn xang. Không có “lỗi đánh máy”. Chừng ấy là
quá nhiều hoàn hảo cho một sự kiện Việt.





Chi tiết hỏng duy
nhất là chiếc bình hoa di động đội vương miện. Như trên đã nói, thời testosterone của công nghiệp ôtô đã qua,
một chiếc xe văn minh không muốn và không cần búp bê minh họa. Song có lẽ tôi
đã phát ngôn cho cái gu thời đại của một giới trung lưu phương Tây nhất định –
bạn có thể bảo đó là bọn elite chết
tiệt, những kẻ tế nhị nhăn mũi trước tre nứa, áo dài, người đẹp, ethnic kitsch. Với công chúng Việt – và
họ mới là đối tượng chiến lược của Vinfast –  màn em xinh đó chắc chắn ghi điểm mạnh. Và dù
sao, đó là tân hoa hậu khá mộc mạc trong sáng, không phải nữ hoàng nội y hay công chúa kim
cương
.
Thế cũng là một lựa chọn đỡ dở trong cái dở. Hơn nữa, chút lăn tăn ấy được bù lại
bằng dấu ấn rạng rỡ của vị nữ chủ tịch, với tôi là cú PR độc đáo nhất của
Vinfast thời cổ xúy giới tính đa dạng này. Trên toàn thế giới, phụ nữ đứng đầu
một hãng xe hơi đếm trên đầu ngón tay. Tôi tin ngay là ông Vượng đã tính cả.     





Còn phép tính chủ bài của Vinafast?





Tesla đặt cược vào tương lai, Vinfast đặt vào một mẫu số
chung vĩ đại: lòng tự hào dân tộc của người Việt. Không có gì phải nghi ngờ, đó
là một nguồn vốn khổng lồ, thậm chí hơi quá vô tận. Song như tất cả những gì vô
hạn, nó dễ dàng được phát không, để chẳng dùng được vào việc gì ngoài ra đường
hét và lên mạng phét. Một tình yêu chẳng bao giờ cạn chỉ làm trái tim thoái
hóa. Một cuộc đời trường sinh chỉ làm sức sống thui chột. Một lòng tự hào dân tộc
bất tận chỉ khiến tri giác của dân tộc ấy hao mòn. Lành mạnh nhất, theo tôi, chỉ
nên để cái tự hào ấy ở chế độ “ngủ gật Liên Hiệp
quốc
” (standby
mode).





Điều đáng nói ở đây là chính Vinfast đã cung cấp một nghịch
lý ngoạn mục về lòng tự hào dân tộc. Không chỉ gốc rễ mà cả hình thể, cấu trúc
phát triển, quy trình chăm bón của hai cây xe vừa mọc thử đều hoàn toàn do nước
ngoài quyết định, phần ngọn vươn lên kiêu hãnh sẽ do người Việt đảm nhận. Tôi
chẳng có gì phản đối mô hình kinh doanh đó, Vingroup thậm chí có thể sang Bordeaux mua đứt hàng loạt château, thuê người Pháp sản xuất Vinvin, chẳng cần
phí một tí sinh mạng Việt cao quý nào cả. Song đám cưới thuê phù dâu phù rể vẫn
khả dĩ, thuê nguyên cả chú rể cô dâu thì chỉ còn là vở diễn. Để nói hơi cường
điệu: với một kịch bản nhuốm màu chủ nghĩa thực dân mới tự nguyện, Vinfast diễn
rất bài bản một chủ nghĩa dân tộc cưỡng chế. Và chúng ta vỗ tay rào rào.





Tôi sẽ thiện cảm với Vinfast hơn nhiều, nếu nó vặn ngọn lửa
dân tộc xuống chế độ ngủ gật, nhất là không thao túng truyền thông bằng một slogan Lạc Rồng gì đó. Rồi người giàu ở
một nước nghèo như Việt Nam vẫn chơi BMW xịn chứ không phải phiên
bản thay thế
. Người nghèo vẫn đi xe máy Tàu. Miếng bánh thị
trường còn lại chia nhau, vẫn đủ cho Vinfast có một chỗ đứng nếu giai đoạn sản
xuất lớn trôi chảy. Không ai phải khai gian thuế yêu nước. Và công nghiệp xe
hơi Đức nếu chẳng may mất quê hương thứ hai là Trung Quốc sẽ có cửa di tản nhanh
nhất. Tất cả đều hạnh phúc. Ông Vượng tính như thần.





Berlin, 7/10/2018





(Báo Trẻ, 10/10/2018)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 11, 2018 07:14

September 7, 2018

Chữ nghĩa một thời: Thằng Kên và cán binh Tuân

Phạm Thị Hoài





Khi Thượng Nghị sĩ John McCain qua đời, có hai văn bản được những
người Việt quan tâm đem ra đọc lại. Một, tùy bút “Đèn điện phố phường Hà
Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào” của Nguyễn Tuân; và hai, hồi ký của John
McCain về năm năm rưỡi là tù binh chiến tranh tại Hỏa Lò, Hà Nội. Tùy bút của
Nguyễn Tuân viết cuối năm 1967, đăng lần đầu trong tuần báo Văn nghệ số 250 ra ngày 25/2/1968, sau
đó in trong tập tùy bút Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi
, do Hội Nhà văn Hà Nội xuất bản cuối năm 1972, một
số trích đoạn
gần đây được đăng lại trên
báo chí trong nước. Hồi ký của John McCain đăng
trên tuần tin US News & World Report
ngày 14/5/1973
, bản dịch tiếng Việt được phổ biến trên báo chí hải ngoại.





Tùy bút của Nguyễn Tuân





Tác phẩm này nằm trong loạt ký sự gồm những bài tương tự về thành tích
bắn rơi máy bay Mỹ của Hà Nội trong chiến tranh không quân ở miền Bắc Việt Nam.
Nếu không phải là McCain – tức “thằng quan tư Mích Kên” theo cách gọi
của Nguyễn Tuân –, người sau này thành một chính khách Hoa Kỳ có ảnh hưởng lớn
và từ vị trí đó tác động nhiều mặt đến quan hệ Việt-Mỹ, mà là “thằng quan
ba Nin Giôn tội phạm”, “thằng tù quan hai Cờ Lác” hay những
thằng “giặc bay”, “giặc lái” khác mà nhà văn danh tiếng đều
phỏng vấn, thì tùy bút “Đèn điện” chắc chắn không được đặc biệt chú
ý. Nó không phải là một ngoại lệ, càng không phải một bài viết bất đắc dĩ, viết
theo lệnh tuyên huấn, khom lưng luồn háng vì hèn vì sợ hay vì miếng cơm manh áo
gì đó, như người đời sau sẵn lòng phỏng đoán để thông cảm hay chê bai tùy góc
nhìn. Ở tất cả các bài khác và không chỉ trong loạt ký sự này, tác giả của Chùa Đàn huyền thoại đều hăng say chống Mỹ,
đều bừng bừng khí thế nhằm thẳng đầu thù mà bắn, đều dạt dào tin tưởng vào sức
mạnh tất thắng của cuộc “chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ hòa bình
thế giới”. Trong giàn anh hùng ca chống Mỹ của “toàn dân tộc” – trừ
những người bị cách ly khỏi cũng dân tộc ấy – Nguyễn Tuân không xung phong lĩnh
xướng, nhưng cống hiến một giọng rất riêng: giọng cụ Nguyễn.





Bây giờ, khi loạt tác phẩm này của cụ rõ ràng đã hết hạn sử dụng, mùi
đặc trưng của giọng văn ấy vẫn còn đó, giọng văn từng khiến nhiều thế hệ độc
giả và đồng nghiệp mê mệt hay thậm chí khiếp phục. Chỉ khác với trước 1945: thay
vì tung hoành trong một chủ nghĩa duy mỹ cá nhân khinh bạc đậm màu hoài cổ,
Nguyễn Tuân từ thuở “lột xác”, đi tìm “những định thức để rung
động cho đúng nhịp với đời sống cao rộng” đã sốt sắng trút tất cả tài hoa ở
độ chín muồi của mình vào một mỹ học của “xây đập, mở đường xã hội chủ
nghĩa” và của “hoa nở trên đầu súng, nhạc reo trong lửa đốt đồn”
hướng về tương lai. Ông cũng bàn giao tất cả các ngón sở trường của một lãng tử
phiêu du văn hóa bằng tiền túi tự xưng Nguyễn thuở trước cho một văn công miệt
mài đi thực tế bằng ngân sách nhà nước tự xưng “đồng chí Tuân” sau
này. Như chàng Nguyễn trong cảm hứng trữ tình của một cái Tôi tinh hoa sang
chảnh, đồng chí Tuân cũng lên đồng, cũng đê mê, phởn chí, đầy ngông nghênh
trong cảm hứng sử thi của một cái Ta đại chúng kiêu hãnh. Thậm chí đầy hưởng thụ.
Hưởng thụ sự hả hê khi hạ nhục một tù binh bị thương nặng và đem “cả lò
nhà mày, cả họ nhà mày” ra rỉa rói rồi bồi thêm lời rủa tuyệt tự. Hưởng
thụ sự đắc chí khi bố thí lòng nhân đạo bằng cách “cắm một điếu thuốc Điện Biên vào mồm thằng giặc”. Cắm
thuốc, rồi “bật diêm châm vào mặt nó”, rồi “đặt cái gạt tàn
thuốc lá lên ngực nó đầy lông rậm dầy như cái ức một con thú dữ”. Bốn lần
cắm thuốc, khi ra về “không quên vứt lên ngực thằng giặc bay Kên cả chỗ
thuốc lá còn lại”. Hưởng thụ cả cái sáng kiến bất ngờ khi kết thúc bài
viết bằng ẩn dụ Sở thú: “Qua một buổi mơ chưa cất cơn trước Sở thú Hà Nội,
tôi như thấy hầu hết phi công Hoa Kỳ đang gau gắu xì xụp ngay trong một dãy nhà
sắt mà người ta chỉ dành riêng cho những con vật dữ nhất. Tất thảy phi công tù
Hoa Kỳ, kể cả mấy thằng đánh trộm nhà máy điện đèn ta bắt sống trên hồ Trúc,
tất cả chúng nó tôi đều muốn cho chuyển hết vào Sở thú Hà Nội. Thằng Pi Tơ,
thằng Đơ Vít, rồi En Tơ Ni, Ri Sa, Ơ Lơ, Ê Lân, rồi Mích, Sác, Giôn, Gim, vân
vân, tất cả những con thú ấy, nay nên đưa chúng vào cái ‘Khách sạn Hin Tơn Bách
thú’ này này.”  





Nguyễn Tuân đã theo sát tinh thần của thời đại ông tới mức không vượt
lên trước một ly nào. Bây giờ, với độ lùi hay bước tiến của 50 năm, trong một
thế giới đã hoàn toàn thay đổi, nhất là khi “thằng Kên” thuở ấy vừa
ra đi như một anh hùng, một biểu tượng cho những giá trị tốt đẹp nhất của một
nước Mỹ đang chia rẽ sâu sắc, đồng thời như hiện thân của nỗ lực hàn gắn quá
khứ Việt-Mỹ đau thương, bài “Đèn điện” dĩ nhiên gây sốc. Nhưng cú sốc
đó là dấu hiệu tốt, dấu hiệu của một ngôn ngữ đã tỉnh lại sau một cơn say dài
đẫm máu. Nguyễn Tuân không phải là nhà văn đầu tiên và cuối cùng, ở phía nào
của cuộc chiến nào cũng vậy, hân hoan vung bút cho phép tu từ khủng khiếp của
chiến tranh. Những tên tuổi lừng lẫy hơn nhiều trên văn đàn thế giới cũng từng
như vậy, tới mức Karl Kraus – nhà văn Áo, thuộc một thiểu số những trí thức
hoài nghi chiến tranh như Franz Kafka và Albert Einstein – kinh hãi trước sự
tham chiến hùng hổ trên mặt giấy của các đồng nghiệp trong Thế chiến I, phải ước
ao khi hòa bình lập lại sẽ dồn hết đám văn sĩ say chiến đó vào một chỗ, rồi mời
thương phế binh của cuộc chiến đến nện cho một trận nhừ tử. Song một ngôn ngữ vừa
tỉnh cơn mê sảng này hoàn toàn có thể rơi ngay vào một cơn mê sảng khác. Tu từ
chiến tranh lại chưa bao giờ thôi tiềm ẩn trong tư duy và ngôn ngữ của người Việt,
dân tộc dường như vẫn tự định vị không phải bằng thành tựu mà bằng chiến thắng
hay khát khao chiến thắng.





Hồi ký của John McCain





Nổi tiếng là một diều hâu can đảm và nhiệt thành phụng sự lý tưởng
chống độc tài, bảo vệ thế giới tự do, trong Chiến tranh Lạnh ông McCain là
người kiên định chống cộng. Tất nhiên ông căm thù những giám ngục đã hành hạ ông
và các tù binh Mỹ khác ở Hỏa Lò, điều đó ông còn nhắc lại trong chiến dịch
tranh cử tổng thống năm 2000, khi ông
lại dùng từ gook
– mọi vàng, chỉ người châu Á, tương đương với nigger, mọi đen, chỉ người da đen – như
trong hồi ký Hỏa Lò. Trong văn bản này, tròn hai tháng sau ngày được trao trả
về Mỹ, không có gì đáng ngạc nhiên là cựu tù binh McCain giữ quan điểm cứng rắn
chống Hà Nội, phê phán phong trào phản chiến ở Mỹ và bày tỏ lòng ngưỡng mộ với
Tổng thống Nixon dù ông này đang vướng vào vụ Watergate. Đoạn hồi ức của McCain
thở ra mùi máu lửa chiến trường và mùi chiến tuyến ý thức hệ. Song dù như vậy
và bất chấp từ gook xuất hiện 12 lần,
nó là một văn bản tiếng Anh với hệ thống đại từ nhân xưng trung lập mà bản
tiếng Việt đã diễn giải bằng hệ thống đại từ nhân xưng đầy chủ quan của mình.  





Rất có thể, nếu được dùng tiếng Việt, như Nguyễn Tuân đã dùng, viên quản
giáo bị tù binh tặng biệt hiệu Con Rệp sẽ bảo “thằng Kên” rằng,
“Cha mày là một đô đốc gộc. Bây giờ bọn tao sẽ đưa mày đến bịnh viện”,
đúng như trong bản dịch. Nhưng ông ta nói tiếng Anh, và lời tường thuật cũng bằng
tiếng Anh không có vẻ gì là “mày-tao” của McCain như sau: “Your
father is a big admiral; now we take you to the hospital
”. Rất có thể, nếu dịch câu này thành:
“Cha anh là một đô đốc cao cấp; bây giờ chúng tôi sẽ đưa anh vào bệnh viện”,
thì chân dung Con Rệp trong tiếng Việt sẽ đổi khác. Một kẻ hành hạ tinh thần
biết nói tiếng Anh mà thô lỗ hạ cấp, hay cũng kẻ đó mà nham hiểm lịch thiệp thì
đáng sợ hơn? Tôi không biết chân dung nào trong tiếng Việt thì đúng với bản gốc
và đúng với sự thực hơn. Đại từ nhân xưng luôn là một thách thức hầu như không
thể vượt qua trong dịch thuật, và phần lớn các tác phẩm dịch văn học nước ngoài
đều phải khoác một bản sắc ông-bà-anh-chị-em-chú-bác, chàng-nàng và cả đồng chí
không thể tránh của tiếng Việt, song tôi quả thật đã khó ở với những “mày-tao”như trên, những “hắn”, những “gã” dịch
từ he, những “chúng, bọn chúng” dịch
từ they, những “tên lính canh” dịch
từ the guard, những “tay cộng sản”
dịch từ a communist… và đặc biệt, với
“cán binh Bắc Việt” dịch từ North
Vietnamese
.





Cả hai, “cán binh” và “Bắc Việt” đều thuộc từ vựng
của phía nam vĩ tuyến 17 trước kia và của cộng đồng người Việt tị nạn ở hải
ngoại sau này. Tuy không hàm nghĩa mạt sát như “ngụy quân, ngụy
quyền” của phía bên kia, nhưng “cán binh” cũng vạch một chiến
tuyến rõ rệt. Như nhiều người miền Bắc khi ra sống ở nước ngoài, một thời gian
dài nếu không được thân ái tặng danh hiệu “cộng cái”, tôi cũng bị
những người Việt chống cộng cực đoan ở hải ngoại gọi là “nữ cán
binh”. Chỉ thiếu pha chiêu hồi là tôi sẽ rơi ngon lành vào bối cảnh của
cuộc chiến hơn bốn mươi năm trước. Người trực tiếp trải qua những kinh nghiệm
ác nghiệt nhất của cuộc chiến ấy, cố Thượng Nghị sĩ John McCain, đã làm rất
nhiều để vượt qua làn ranh chiến tuyến; trong khi chúng ta, ở cả hai phía, còn
chưa tính đến việc thu dọn những trầm tích của nó trong ngôn ngữ. Một ngôn ngữ
mà chúng ta không thể chia cắt và canh gác giới tuyến, một ngôn ngữ mà khả năng
hàn gắn chắc chắn mạnh mẽ hơn khả năng phân ly. Tôi mong có một bản dịch mới
cho hồi ký Hỏa Lò của McCain. Vì “thằng Kên” và “cán binh”
Tuân vĩnh viễn thuộc về quá khứ, là chuyện của chữ nghĩa một thời, dù một thời
vang bóng.





Berlin, 2/9/2018





(Báo Trẻ 6/9/2018)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 07, 2018 07:36

July 5, 2018

Về Luật An ninh Mạng của Việt Nam và Luật NetzDG của Đức

Phạm Thị Hoài





Trong các tranh luận
xung quanh Luật An ninh Mạng (Luật ANM) vừa được
thông qua tại Việt Nam, một số người đã lấy Luật NetzDG của CHLB Đức làm
quy chiếu để khẳng định rằng Việt Nam không phải là một ngoại lệ, thế giới (dân
chủ và văn minh như Đức) cũng phải có những bộ luật tương tự.





Thế nào là tương tự?





NetzDG, nguyên
văn: Gesetz zur Verbesserung der
Rechtsdurchsetzung in sozialen Netzwerken
(Luật cải tiến chấp pháp tại các
mạng xã hội), gọi tắt là Netzwerkdurchsetzungsgesetz,
viết tắt là NetzDG, có hiệu lực từ ngày 01.10.2017 và chính thức được áp dụng từ
ngày 01.01.2018.  Luật này rất ngắn gọn,
nội dung chính như sau: Các mạng xã hội hoạt động vì mục đích lợi nhuận và có từ
2 triệu thành viên ở Đức trở lên – điển hình là Facebook, vì vậy NetzDG còn được
gọi nôm na là Luật Facebook – phải xóa, gỡ bỏ hay chặn những nội dung vi phạm
luật pháp, tức vi phạm tổng cộng 22 điều thuộc bộ Luật Hình sự, trong một thời hạn
nhất định. Thời hạn được quy định như sau: 24 tiếng đồng hồ kể từ khi nhận được
báo cáo khiếu nại đối với các nội dung hiển nhiên vi phạm luật pháp, tức không
cần phân tích sâu xa đã có thể thấy rõ tính chất vi phạm; và 7 ngày đối với những
nội dung khác. Nếu cố tình hay sơ ý không tuân thủ sẽ bị phạt hành chính, mức
cao nhất là 500 triệu euro, mức thấp nhất là 5 triệu.





Từ khi còn là dự
thảo đến nay, NetzDG gây tranh cãi và bị phản đối, tại Đức và cả ở quốc tế. Nhẹ thì nó bị
coi là một sản phẩm tư pháp vội vàng và ngớ ngẩn, nặng thì nó bị cáo buộc xâm
phạm quyền tự do thông tin và ngôn luận của công dân. Nhiều cá nhân và tổ chức
đã tuyên bố sẽ kiện bộ luật mà họ coi là vi hiến này ra Tòa Bảo hiến.





Một mặt, mục đích hiển
nhiên của NetzDG mà không ai phản đối là ngăn chặn sự bành trướng của những dịch
bệnh kinh hoàng từ mạng xã hội, trong đó trầm trọng nhất là tin giả (fake news) và phát ngôn gây thù hận (hate speech). Các doanh nghiệp cung cấp
mạng xã hội như Facebook không phải là những nhà từ thiện, mà thuần túy là các nhà
tư bản. Nguyên tắc nổi tiếng: lợi nhuận 20% thì tư
bản háo hức; 50%, nó trở nên táo bạo; 100%, nó sẵn sàng chà đạp lên mọi luật lệ
của con người và 300%, nó không từ một tội ác nào, dù có phải lên giá treo cổ;
và trước khi bị treo cổ nó sẽ cố bán cho bạn chính sợi thòng lọng đó với giá đắt
nhất, vẫn còn nguyên hiệu lực, cả với chủ nghĩa tư bản đỏ đang thống trị tại
các quốc gia vẫn mang danh nghĩa cộng sản. Fake
news
, hate speech và những xú uế
rác rưởi đang tràn ngập không gian mạng là tài nguyên vô tận cho các doanh nghiệp
kiểu Facebook kiếm lời. Không có gì phải bàn cãi, bản năng tham lam vô độ đó phải
bị luật pháp kiềm chế.





Nhưng mặt khác,
trong một nhà nước pháp quyền, chức năng phán quyết về những hành vi vi phạm luật
pháp duy nhất thuộc về tòa án và các thẩm phán độc lập, và không ít những phán
quyết ấy cần đến vài tuần, vài tháng, thậm chí vài năm. Các diễn ngôn văn chương,
nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật châm biếm và đả kích, thường đa tầng đa
nghĩa, nhiều khi đi chênh vênh giữa ranh giới của hợp pháp và bất hợp pháp. NetzDG
đã khoán trắng nhiệm vụ khó khăn này – như thể đó là một lĩnh vực outsourcing – cho đội ngũ nhân viên
không hề được đào tạo tương xứng về luật pháp của các mạng xã hội, và áp đặt một
thời hạn không tưởng là 24 tiếng đồng hồ hoặc cùng lắm 7 ngày. Với áp lực thời
gian ấy, với hình phạt hành chính nặng đô ấy, những nhân viên đóng vai từ dân vệ
đến quan tòa nghiệp dư của các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội tất yếu có xu
hướng overblocking, xóa nhầm còn hơn
bỏ sót, trái với nguyên tắc nhân bản bỏ sót còn hơn phạt nhầm trong nền tư pháp
của các nước dân chủ pháp quyền. Với NetzDG, không gian mạng có thể sẽ bớt xú uế
hơn đôi chút, nhưng có thể cũng sẽ ít tự do hơn.





Tất nhiên tôi
không phải là đỉnh cao chói lọi của nhân loại để trả lời câu hỏi: nên cắt bớt mấy
phân chiếc áo của tự do để chắp vào chiếc quần của an ninh trật tự. Nhưng là
người trải qua cả hai thể chế, cá nhân tôi luôn xót xa cảm thấy mỗi bước lùi của
tự do, mỗi vết rạn dù nhỏ nhất trong những pháo đài dân chủ đều có nguy cơ
thành một viên gạch củng cố cho các thành lũy chuyên chế, và như cười vào mặt
những người đã và đang phải trả những cái giá đau đớn ở các quốc gia chuyên chế.
Song có phải vì thế mà NetzDG của Đức đáng được làm chỗ dựa để bênh vực Luật An
ninh Mạng của Việt Nam không? Câu trả lời là không.





Thứ nhất, NetzDG từ
tên gọi đã cho thấy nó chỉ nhằm vào việc thúc đẩy thực thi những quy định luật
pháp sẵn có của Đức. Những nội dung bị coi là vi phạm luật pháp đều đã được quy
định trong bộ Luật Hình sự. NetzDG chỉ mất
chưa đầy một dòng liệt kê số thứ tự của các điều liên quan, không chế tạo thêm
một tội danh nào. Những quy định đối với các mạng xã hội cũng đã có sẵn trong Luật Truyền thông
Điện tử

(Telemediengesetz) từ năm 2007.
NetzDG không làm việc gì khác ngoài tăng áp lực, bằng cách đưa ra những hình phạt
tiền thấm thía và quy định thời hạn hành động cụ thể cho các doanh nghiệp cung
cấp mạng xã hội, hy vọng qua đó có thể chống các dịch bệnh ngày càng nghiêm trọng
trên các mạng xã hội nhanh chóng hơn. Hy vọng này có trở thành hiện thực hay
không, đó lại là chuyện khác.





Thứ hai, NetzDG
không có mục đích bảo vệ một chế độ chính trị, một đảng phái, một chính phủ hay
quốc gia nào, mà bảo vệ mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp là nạn nhân của sự
hoành hành của những quái thai do chính con người đẻ ra trên không gian mạng. Không
phải các cơ quan nhà nước nói chung hay một cơ quan đặc trách nào đó của chính
quyền mà mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, kể cả không là thành viên của mạng
xã hội, đều có quyền báo cáo khiếu nại.





Thứ ba, đối tượng
của NetzDG không phải là các cá nhân người dùng mạng xã hội, mà là các doanh
nghiệp cung cấp mạng xã hội. Hình phạt hành chính mà luật này đưa ra chỉ áp dụng
cho các doanh nghiệp này. Nhóm đối tượng liên quan được khoanh vùng rõ ràng, đó
chủ yếu là Facebook, Twitter và Google (với YouTube), trong khi những mạng
chuyên đề như Linkedin, Xing, các ứng dụng nhắn tin như WhatsApp, các hệ thống
thư điện tử, diễn đàn trên các trang mạng và hầu như mọi dịch vụ internet khác
đều không bị đụng chạm.   





Thứ tư, NetzDG
không phải là sự kiểm duyệt từ phía nhà nước. Chính quyền hoàn toàn không can
thiệp vào quy trình báo cáo khiếu nại và xử lý báo cáo khiếu nại. Đó thuần túy
là việc giữa doanh nghiệp tư nhân cung cấp mạng xã hội và khách hàng của mình.
Trong các trường hợp phức tạp, các doanh nghiệp có thể tự nguyện xin tư vấn từ
phía các cơ quan nhà nước, song không bị ràng buộc vào kết quả tư vấn này. Hệ
thống tư pháp nhà nước chỉ vào cuộc khi tranh chấp giữa doanh nghiệp và người
dùng mạng xã hội trong quá trình xử lý báo cáo khiếu nại cần đến sự phân xử của
một tòa án.





Thứ năm, để bảo đảm
tính minh bạch của quy trình xử lý báo cáo khiếu nại, NetzDG đề ra một loạt quy
định đối với các doanh nghiệp cung cấp mạng xã hội, chẳng hạn trách nhiệm đăng
công khai báo cáo định kỳ 6 tháng trên Công
báo
và trên trang nhà, trách nhiệm cử đích danh một đại diện phụ trách xử
lý báo cáo khiếu nại tại Đức, trách nhiệm lưu trữ những nội dung bị gỡ bỏ trong
vòng mười tuần làm chứng cứ, trách nhiệm kịp thời thông báo và lý giải quyết định
của mình cho người khiếu nại cũng như người đăng nội dung bị gỡ bỏ… Một cơ quan
hành chính nhà nước sẽ giám sát, nhưng không can thiệp vào quy trình này.





Thứ sáu, NetzDG
đương nhiên không hề đưa ra những quy định về trách nhiệm của các doanh nghiệp
cung cấp mạng xã hội như xác thực thông tin người dùng, cung cấp thông tin người
dùng cho Bộ Công an, ngừng cung cấp dịch vụ mạng cho người dùng, lưu trữ dữ liệu
tại Việt Nam… như trong Luật ANM, điều 26. Các nền dân chủ phương Tây có thể
đang gặp khủng hoảng và các chế độ chuyên chế có thể đang tự đắc phất cờ, hơn
bao giờ hết với sức mạnh vô song của Trung Quốc, nhưng những điều tương tự như
các quy định kể trên của Luật ANM Việt Nam không thể xuất hiện trong một bộ luật
của nước Đức hiện tại.  





Như vậy, dù là một
bước đi chuệch choạc và chắc chắn không phải là thành tựu huy hoàng của nền
pháp quyền trong một thể chế dân chủ, phần tương tự của NetzDG với Luật ANM Việt
Nam có lẽ chỉ chưa đầy một phần trăm. Song khác biệt quan trọng nhất xung quanh
hai bộ luật này không bắt nguồn từ văn bản, mà từ thể chế nhà nước và môi trường
xã hội khác xa nhau. Tôi sẽ đề cập điều đó trong phần tiếp theo.





*





Toàn văn Hiến pháp
Hoa Kỳ có được cài thẳng vào hay thay thế Hiến pháp Việt Nam tối hôm nay thì
sáng mai Việt Nam vẫn không thành một quốc gia dân chủ. Văn bản luật pháp dĩ
nhiên quan trọng, như đã trình bày trong phần 1, song đời sống thực
của nó chứ không phải sự tồn tại trừu tượng của những con chữ lại hoàn toàn phụ
thuộc vào thể chế và môi trường xã hội. Một văn bản luật nhân bản và giàu sức sống
nhất cũng chết trong một không gian pháp lý phi nhân tính và mịt mù tù túng. Chương II Hiến
pháp Việt Nam

đẹp như mơ, có thể sánh vai những hiến pháp tiến bộ nhất hành tinh. Song hiện
thực của quyền con người và quyền công dân ở Việt Nam lại chôn chân ở một đẳng
cấp hoàn toàn khác. Các nhà quan sát dân chủ đã quá lạc quan khi luật pháp toàn
trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu cũ được thay thế gần như qua đêm. Song trong
vòng chưa đầy ba mươi năm, cả Nga và nhiều nước Đông Âu lại lần lượt tiến từng
bước vững chắc về hướng chuyên chế. Di sản của các xã hội toàn trị bền hơn hẳn
những cải cách tư pháp. Điều gì thì tốt hơn: một văn bản luật đen tối tương xứng,
hay một văn bản luật sáng ngời tương phản hiện thực u ám? Sống trong địa ngục với
luật địa ngục thì tốt hơn, hay với luật thiên đường? Tôi không trả lời được câu
hỏi đó, nhưng tôi cho rằng nếu 36 điều rực rỡ của Chương II Hiến pháp không đủ
sáng để đẩy lùi bóng tối của Luật ANM thì chúng ta không nên quá quan tâm đến
văn bản.





Nhiều người phản đối
Luật ANM hay một số điều nhất định của luật này đã phản ứng như thể nó là một
công cụ mới toanh, được bổ sung để xiết chặt tự do internet ở Việt Nam. Không
đúng. Cách đây không lâu đã có Nghị định
72/2013/ND-CP
“Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch
vụ internet và thông tin trên mạng” tương tự. Nhưng dù không có cả Nghị định
này lẫn Luật ANM, thậm chí dù các điều 79, 88, 258 Luật Hình sự cũ (tức các điều
109, 117, 331 Luật Hình sự Tu
chính
)
không tồn tại thì những người sử dụng internet để bày tỏ tiếng nói bất đồng
chính kiến của mình với chính quyền vẫn bị đàn áp, mức độ trừng phạt ngày càng
cao. Chính quyền Việt Nam không cần và chưa bao giờ cần một công cụ pháp lý
chính thức để làm việc này. Nó cũng không cần một sự hợp pháp hóa cho bất kỳ một
chính sách nào. Tất cả chỉ là những thủ tục hình thức. Một bộ luật mới như Luật
ANM dĩ nhiên có thể nhất thời gây bức xúc, song nó không phải là một đột biến,
mà là tiếp diễn tự nhiên của truyền thống thù địch tự do
internet
,
nhưng có thể đạt tới một chất lượng kiểm duyệt và đàn áp mới, nếu nó dọn đường
cho bước phát triển theo mô hình Trung Quốc, phong tỏa cộng đồng mạng Việt Nam
bằng những thành tựu và sản phẩm công nghệ xuất sắc made in China. Chủ nghĩa cộng sản 0.4 là chuyên chính vô sản cộng với
điện khí hóa toàn quốc, theo Lenin. Chủ nghĩa cộng sản 4.0 là chuyên chính tư bản
nhà nước cộng với số hóa toàn quốc, theo Tập Cận Bình.





Nhưng cũng không
ít người hoan nghênh việc kiểm soát và kiểm duyệt mạng theo tinh thần của Luật
ANM. Họ lập luận rằng dân trí nước ta còn rất thấp, người Việt còn ngu dốt, chỉ
thuần cảm tính, nhẹ dạ mù quáng, phát ngôn bừa bãi nóng nảy, đụng một tí là gí
lồng văng cục, đã thế còn ngông cuồng manh động, ỉ đáy vào luật pháp, cào phím
thay vì động não, tóm lại là ngu lâu hết đường chữa. Ở đó, trên mạng, hàng ngày
những anh chị thầy đời với đội ngũ cổ động viên đông đảo sa sả mắng mỏ và giáo
huấn đám dân Việt đầu óc hũ nút mà họ gọi là lừa, là mọi, là bần cố nông, là quần chùng, mít đặc. Rằng
để lãnh đạo lũ lừa An Nam nhẹ không ưa này thì chỉ có cộng sản là đủ chiêu và đủ
tầm.





Lập luận này có phần
đi theo hướng các chủ thuyết thực dân và phát-xít về những chủng man di xứng
đáng bị những tộc thượng đẳng chăn dắt cai trị. Song chủ nghĩa thực dân còn phải
viện vào sứ mệnh khai hóa, chủ nghĩa phát-xít viện vào tính ưu việt của những
chủng tộc đặc tuyển, trong khi chủ nghĩa lừa-ưa-nặng đương nhiên mặc định một số
phận tăm tối không có lựa chọn nào khác của một dân tộc hay một cộng đồng.
Trong cái diễn ngôn tột đỉnh khinh miệt con người đó, các anh chị thầy đời ấy
cũng ít nhiều thừa nhận sự độc đoán, tàn nhẫn, bất công, tha hóa và đểu giả của
bộ máy cai trị tự mệnh danh cộng sản, song nếu không trực tiếp đồng tình thì họ
cũng hăng hái thông cảm, rằng không như thế thì đám dân đã ngu còn tỏ ra nguy
hiểm này làm loạn. Giải phóng thì quên đi, sứ mệnh giải phóng những người cùng
khổ đã cảm ơn trả về cho Karl Marx. Khai phóng, khai sáng hay khai hóa đều bằng
thừa. Thân lừa sinh ra là để bị xỏ mũi.     





Các tệ nạn xã hội
quả nhiên rất yêu vũng bùn lầy tù đọng của ngu dốt mông muội. Dân đen sinh ra
trong đó và ngắc ngoải ở đó, song các đại diện ưu tú của tầng lớp thượng lưu
kinh tế, truyền thông và chính trị mới chính là những kẻ hiểu rõ giá trị của
vũng bùn đen ngòm ấy, mới biết cách khoắng nó lên, đổ thêm nhầy nhụa và dìm cổ
dân chúng xuống đó mãi mãi. Thật mỉa mai, khi các anh chị thầy đời bàn về việc
người Việt không đủ văn minh để xứng đáng được phát ngôn tự do trên mạng rồi
vui vẻ giao nhiệm vụ bịt những cái mồm thối của đám phá rối trật tự trên mạng
cho công an thì chính những vị tướng công an cao cấp nhất quốc gia lại chống lưng cho các
trùm tội phạm

– toàn những anh chị đẹp đẽ trẻ trung, sáng láng, đầy học thức, ngoại ngữ,
cương vị, quyền lực – lôi kéo hàng chục triệu con bạc khốn nạn lao vào cuộc đỏ
đen trên không gian ảo. 





Cư dân mạng Việt
Nam đang đứng ở nấc thang nào của văn minh?





Nhiều năm trước,
khi thường xuyên phải tiếp xúc với những phát ngôn chửi bới nhục mạ, tôi đã
đinh ninh rằng chỉ cộng đồng mạng Việt Nam mới có thể sinh ra những sản phẩm hạ
lưu như thế. Nhưng tôi đã rất nhầm. Đỉnh cao của nhân loại có thể phụ thuộc vào
những chỉ dẫn địa lý, song vực sâu của cũng nhân loại ấy thì phi chủng tộc và
biên cương. Người Việt không hề là ngoại lệ. Ở Đức, trong chính những ngày này,
khi đội tuyển quốc gia nếm thất bại chưa từng thấy trong cả lịch sử tham dự Giải
Vô địch Bóng đá Thế giới, mạng xã hội sặc mùi cống rãnh kinh tởm. Người ta trút
mọi ăn thua cay cú và nỗi nhục bại trận lên đầu dân nhập cư, người tị nạn và
chính sách tị nạn còn ít nhiều tử tế của Thủ tướng đương nhiệm. Như thể mấy cầu
thủ gốc Thổ và châu Phi trong đội tuyển đã vấy bẩn dòng máu bóng đá thanh khiết
của dân tộc Đức, khiến huyền thoại bóng đá Đức sụp đổ, phép màu kinh tế Đức tan
biến, lũ bựa Hồi giáo sẽ hãm hiếp đến phụ nữ tóc vàng cuối cùng và giang sơn của
dòng giống German sẽ đi tong. Toàn những giọng như vậy, ở nơi được mệnh danh là
đất nước của thi hào và triết gia, của Goethe và Kant, của tinh thần duy lý. Ở
Nga, đất nước của Pushkin và Tolstoy, cũng những ngày nóng bỏng này, thịt da phụ nữ Nga
đang bị nướng

trên truyền thông lá cải và mạng xã hội, chấm với món nước sốt dân tộc nhãn hiệu
Gái-Nga-không-ngửa-lờ-cho-trai-ngoại. Ở Ấn Độ, đất nước của Phật tổ và Gandhi, nạn nhân của những
tin đồn thất thiệt về trẻ em bị bắt cóc
lan truyền qua WhatsApp trong vòng ba
tháng gần đây đã lên đến 9 người. Năm ngoái, tổng cộng 22 người vô tội bị những
đám đông cuồng nộ phanh thây xé xác cũng vì WhatsApp. Nhưng con số đó quá khiêm
tốn so với những bê bối khác của Facebook, tập đoàn doanh nghiệp đã mua ứng dụng
này mấy năm trước với giá 19 tỉ dollar. Ở Miến Điện, chiến dịch đàn áp gần
700.000 người Rohingya Hồi giáo cũng một phần bắt nguồn từ những mồi lửa kích động
lây lan trên Facebook, theo báo cáo của Hội đồng
Nhân quyền Liên hiệp Quốc
. Ở Mỹ, điều gì xảy ra trên Twitter lúc 3 giờ sáng
hàng ngày, giờ EST, chúng ta đã biết. Người Việt không xứng đáng bị bịt miệng
trên mạng hơn người bất kỳ nước nào. 





Song số đông người
Việt hầu như mù tin học, kỹ năng internet duy nhất là trường kỳ bám phây, thậm
chí không hề biết đến thao tác đăng xuất khỏi Facebook. Họ dễ thành nạn nhân
hơn tội phạm trên mạng. Song thay vì bảo vệ họ hay giúp họ tự bảo vệ mình,
chính quyền trước sau chỉ tập trung ngăn chặn những nội dung bị coi là “phản
động, tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước, nói xấu, bôi nhọ chế
độ.” Báo cáo minh bạch
của Google

nửa cuối năm 2017 cho thấy, 83% nội dung bị chính quyền Việt Nam yêu cầu gỡ bỏ
là vì phê phán chính quyền. Để so sánh: tỷ lệ này ở các nước dân chủ Bắc Mỹ,
châu Âu, Nhật và Hàn quốc là 0%, Nga: 2%, Trung Quốc: 8%. Thay vì lo ngăn
chặn những tệ nạn thực sự trên mạng, chính quyền Việt Nam trước hết lo dập tắt
những tiếng nói bất đồng chính kiến. Không khó đoán Luật ANM trước hết sẽ được
dùng vào việc gì. 





NetzDG, dù có những điểm đáng tranh cãi thế nào, chắc chắn không để dùng vào việc tương tự. Hơn nữa, ở  Đức, dĩ nhiên bạn cứ việc công khai phê phán, đi biểu tình chống NetzDG và đâm đơn kiện luật này lên Tòa Bảo hiến, thẩm quyền pháp lý tối thượng của quốc gia. Để lấy một ví dụ: năm 2008, căn cứ vào Chỉ thị 2006/24/EC của EU (Data Retention Directive), Đức ra Luật Bảo quản Dữ liệu Dự phòng (Vorratsdatenspeicherung). Gần 35.000 đơn kiện ào ạt gửi đến Tòa Bảo hiến. Năm 2010, Tòa Bảo hiến Liên bang tuyên hủy luật này vì vi hiến. Năm 2014, Pháp viện Tối cao Châu Âu tước bỏ hiệu lực của Chỉ thị nói trên. Năm 2015, Đức ra một Luật Bảo quản Dữ liệu Dự phòng sửa đổi, và lại kéo theo hàng chục ngàn đơn kiện. Trước khi Tòa Bảo hiến ra quyết định cuối cùng, luật này bị hoãn thi hành dù đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực. Việt Nam không cần Tòa Bảo hiến, thẩm quyền pháp lý tối thượng là Bộ Chính trị Đảng Cộng sản.





Báo Trẻ, 28/6/2018 -05/7/2018

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 05, 2018 12:56

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.