Phạm Thị Hoài's Blog, page 10

November 4, 2014

Bản dịch trọn vẹn: Thomas A. Bass – Điệp viên yêu chúng ta. Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn

Bài liên quan:

Phạm Thị Hoài - Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo

Những chỗ bị kiểm duyệt sửa đổi và cắt bỏ trong bản dịch cuốn “Điệp viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” của Thomas A. Bass


Đỗ Tuấn Kiệt dịch

Bùi Xuân Bách bổ sung và hiệu đính


Toàn văn bản dịch trong bản PDF (2.136 KB)



Trích đoạn kết


Đường phố Sài Gòn đang tấp nập người mua quà cáp và chuẩn bị cho những ngày lễ mừng năm mới. Đây còn là mùa cưới, nên việc được mời dự đến hai đám cưới một ngày cũng không có gì là lạ. Những sự kiện xa hoa này trong các khách sạn của Sài Gòn có sự tham gia của hàng trăm khách, ban nhạc sống, những suối rượu sâm banh, và cả chủ hôn để mời mọc mọi người dốc cạn cơ man nào là bia và rượu. Sau khi được chụp ảnh nâng cốc chúc mừng hạnh phúc cặp trai gái, các vị khách lại đứng lên loạng choạng trèo lên xe máy trước khi hòa vào dòng giao thông đông đúc của Sài Gòn.


Trong khi Việt Nam chuyển mình từ chủ nghĩa cộng sản sang chủ nghĩa tiêu dùng, thì bức tượng Đức Mẹ Đồng trinh trước nhà thờ xây bằng gạch đỏ của Sài Gòn tỏ biểu hiện bất bình. Bức tượng tô điểm cho một công viên nhỏ hình bầu dục trồng đầy hoa, một điểm yêu thích mà những cô dâu của thành phố tìm đến để chụp ảnh. Gần đây, công viên xinh xắn này còn thu hút một loại đám đông khác. Hàng trăm người đã bắt đầu đổ về đây để chứng kiến những sự kiện lạ lùng trong ngày. Đức Mẹ Đồng trinh Maria đang khóc. Người ta thấy những giọt nước mắt chảy ra trên má bức tượng. Nếu như bạn nghi ngờ, cánh săn ảnh của thành phố sẽ ấn vào tay bạn những bức ảnh chụp rất rõ ràng những giọt nước trào lên trong khóe mắt tượng và dấu vết lấp lánh khi chúng chảy trên mặt tượng. Xúm xít xung quanh là những cô dâu mặc váy dài trắng và đám đông tò mò, cánh thợ ảnh này đang làm ăn rất khấm khá.


Trước sự thúc giục của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, vị giám mục đã tuyên bố rằng nước mắt của Đức Mẹ Đồng trinh là một hiện tượng hoàn toàn tự nhiên xuất phát từ việc nước mưa đọng quá nhiều và những trận gió mùa dai dẳng mùa trước. Chẳng ai tin lời ông. Đức Mẹ Đồng trinh đang khóc vì bà buồn rầu. Bà cảm nhận được nỗi đau của người dân. Bà nhìn thấy sự chênh lệch ngày càng gia tăng giữa người giàu và người nghèo ở Việt Nam, tham nhũng và hối lộ tăng lên. Bà thông cảm với những người nông dân bắt buộc phải giết gà nhà mình sau một đợt cúm gia cầm bùng phát. Bà ủng hộ những người lao động tại các nhà máy sản xuất giầy Nike đang tổ chức đình công, đòi những ông chủ Hàn Quốc ngừng đánh đập và phải trả lương thỏa đáng. Bà ủng hộ những người công nhân may Việt Nam, vốn được trả mức lương còn bèo bọt hơn cả những công nhân giày của Nike – bốn mươi đô la một tháng ở thành phố và ở vùng nông thôn thì chỉ có ba mươi đô la một tháng– và cũng đang đình công. Bà biết nỗi đau của sự kiện ngày 11 tháng 9 và xót xa vì thế giới đang tự khủng bố mình bằng lòng hận thù giết chết chủ yếu phụ nữ và trẻ em. Vòng tay dịu dàng của Đức Mẹ Đồng trinh, sự bao dung và nhân từ của Người, không còn đủ để chữa lành thế giới này khỏi nỗi đau.


Đức Mẹ Đồng trinh trong công viên đã trở thành điểm hành hương cho những người Việt Nam ở xa tận ngoài Hà Nội. Vị giám mục cố tìm cách giải tán họ, nhưng ai cũng cho rằng những tuyên bố của ông là do Chính phủ viết thay. “Người Việt Nam có một cách giải thích sâu xa cho tất cả,” một người bạn giải thích. Có thể nói rằng họ là những người tán chuyện đại tài. Họ lấp đầy những quán cà phê và quán bia vỉa hè của thành phố với những tốp người sôi nổi chuyện trò luôn mồm. Trong một tràng rộn ràng những câu chuyện tiếu lâm, những câu cách ngôn, và cả chuyện tầm phào, họ mổ xẻ chính trị, phân tích tình hình thế giới, chia sẻ các công thức nấu ăn, hát hò, ngâm thơ. Lúc duy nhất tôi nghe thấy màn huyên thuyên này lắng xuống là khi tôi đứng giữa đám đông đang chăm chú nhìn lên mặt Đức Mẹ Đồng trinh.


Một đêm, khi đang lững thững bước trở về Khách sạn Continental sau bữa tối, mấy người bạn và tôi nhận ra đám đông mọi khi đang đứng trước tượng Đức Mẹ. “Tôi tin chắc những gì họ thấy trên mặt bức tượng chỉ là phân chim bồ câu ấy mà,” Thắng nói. Ở Việt Nam vào mùa Thu thường có những cơn mưa dai dẳng, kéo dài cả ngày Giáng sinh. Trời cũng chợt lạnh bất thường, khiến khắp nơi trở nên ẩm ướt và u ám. Những cây mai, loại hoa bình thường vẫn nở vào dịp Tết của người Việt Nam và tượng trưng cho sự thịnh vượng và hạnh phúc của đất nước, năm nay sẽ không nở. “Có thể là có chuyện gì đó thật,” anh thừa nhận. “Đầu tiên chúng tôi có một trận động đất ở Sài Gòn. Sau đó lại đến dịch cúm gia cầm. Giờ thì đến chuyện công nhân đình công và các quan chức chính phủ bị truy tố vì tham nhũng. Đây không phải là quãng thời gian dễ dàng gì.”


Mùa hè năm 2006, Phạm Xuân Ẩn phải hai lần vào Viện Quân y 175. Một người bạn vào thăm ông đã kể lại rằng Phạm Xuân Ẩn nói đùa về việc muốn tìm một nơi dưới địa ngục ở gần một người có duyên kể chuyện để ông còn có bạn mà trò chuyện. Đến lần vào thăm thứ hai, người bạn này nhìn thấy ông với một cái ống thông cắm thẳng vào khí quản của ông. Tại ông không chịu thôi nói chuyện đấy mà, Ẩn ạ, ông bạn nói. Nên cuối cùng người ta phải làm cho ông ngậm miệng lại. Phạm Xuân Ẩn mỉm cười bằng cặp lông mày. Đến lần thăm thứ ba, người bạn này thấy ông đã hôn mê. Vào thứ Tư, ngày 20 tháng 9, lúc 11 giờ 20 phút sáng, tức ngày 28 tháng 7 năm Bính Tuất, Phạm Xuân Ẩn qua đời ở tuổi 79. Ông được liệm vào quan tài rồi đưa về nhà để quàn trong ba ngày. Khách đến viếng chia buồn với gia đình mang theo hoa, quả, và hương. Họ đặt đồ viếng của mình lên bàn thờ. Sau đó họ chắp tay lại khấn và vái ba vái.


Đặt cạnh chiếc quan tài để mở, lồng trong khung kính và gài trên nền vải đen, là 16 tấm huân huy chương của Phạm Xuân Ẩn. Trước đó người ta cho rằng ông đã được thưởng 4 tấm huân chương Quân công, nhưng con số thực sự được tiết lộ lúc này là 14, không kể tấm huy chương ghi nhận ông là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Những tấm huân chương này được tặng thưởng cho những trận đánh và chiến dịch thắng lợi cụ thể, nhờ đóng góp về mặt chiến thuật của Phạm Xuân Ẩn. Thế giới đã biết về vai trò của Phạm Xuân Ẩn trong chiến thắng Ấp Bắc và Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, nhưng chưa biết về hai tấm huân chương hạng Nhất khác. Một tấm được tặng thưởng năm 1970 vì đã cung cấp tin cảnh báo sớm cho cơ quan đầu não của cộng sản, giúp họ tránh bị ném bom hoặc bị bắt giữ trong vụ Richard Nixon xâm lược Campuchia. Một tấm huân chương khác xác nhận rằng Phạm Xuân Ẩn là nhân vật chủ chốt trong Chiến dịch Lam Sơn 719, khi quân lực Việt Nam Cộng hòa bị đập tan sau nỗ lực bất thành đầu tiên nhằm xâm nhập Lào và chia cắt Đường mòn Hồ Chí Minh năm 1971.


“Ngay khi nhìn thấy tất cả những tấm huân huy chương của Phạm Xuân Ẩn, chúng ta có thể biết ngay rằng ông ấy chịu trách nhiệm về một loạt những thất bại của Mỹ,” Kyle Hörst nói với tôi. “Có một sự tương ứng trực tiếp giữa những trận đánh cụ thể và mỗi tấm huân chương trong số này. Phạm Xuân Ẩn vẫn thường nói với tôi: ‘Nếu tôi kể câu chuyện của mình ra, mọi người sẽ thấy đau lòng’. Suốt một thời gian dài tôi băn khoăn. ‘Những người sẽ đau lòng là những ai?’ Sau đó tôi nhận ra, có lẽ chính là những người Mỹ đã tin tưởng ông suốt bao nhiêu năm trong khi ông lại chiến đấu chống lại họ. Đây không phải là công việc của một người đơn thuần làm công tác phân tích chiến lược. Nó là công việc của một nhà chiến thuật bậc thầy.”


Phạm Xuân Ẩn được mai táng với đầy đủ nghi thức quân đội vào ngày 23 tháng 9 năm 2006. Trong lễ tang có cả một người lính gác mặc lễ phục mang khung kính bày những tấm huân chương của ông. Theo truyền thống ở Việt Nam, một đám tang phải đi kèm với đám rước qua các đường phố, trong tiếng kèn và những phụ nữ có thai tranh nhau chạy đến sờ vào quan tài để lấy may. Phạm Xuân Ẩn hẳn sẽ thích tiếng kèn và những phụ nữ có thai, nhưng ông được đưa lên một chiếc xe tang quân sự và chở tới nhà tang lễ Bộ Quốc phòng ở Gò Vấp gần nghĩa trang Thủ Đức dành cho các anh hùng quân đội. Bức ảnh Phạm Xuân Ẩn mặc quân phục được đặt trước chiếc quan tài màu đỏ trang trí kỳ công của ông. Gia đình ông mặc áo sô trắng đầu quấn rế. Những que hương, được chụm lại thành từng bó lớn và cắm trong những khay cát, tỏa khói nghi ngút. Tham dự lễ truy điệu có ông Võ Văn Kiệt, cựu thủ tướng Việt Nam, và một loạt tướng lĩnh, có cả Nguyễn Chí Vịnh, tổng cục trưởng Tổng cục 2 (Tình báo Quốc phòng), người đọc bài điếu văn về tiểu sử cuộc đời Phạm Xuân Ẩn. Gọi  ông là “mũi nhọn xung kích và lực lượng tấn công chủ chốt” trong tổ tình báo của mình – với mật danh là tổ H.63 – tướng Vịnh đã điểm lại những “chiến công phi thường” mà Phạm Xuân Ẩn đã lập được khi sống và hoạt động ngay giữa “lòng địch”.


Một người quan sát miêu tả khung cảnh này là “buổi họp mặt của các điệp viên quân đội. Phạm Xuân Ẩn đang được đón nhận vào ngôi đền huyền thoại của ngành tình báo quân sự”. Quá trình này đã bắt đầu từ vài tháng trước đó, khi một chiếc ti vi Sony 27 inch được chuyển tới nhà ông với một tấm biển ghi: “Những đồng đội ở Tổng cục 2 kính tặng”.


Sau lễ truy điệu tại Gò Vấp, trời bắt đầu mưa to khi Tư Cang cùng vợ và các con ông Ẩn bước theo quan tài ra khỏi nhà tang lễ. Họ bước qua một đoàn lính với lưỡi lê tuốt trần gắn trên nòng súng, và nhìn chiếc quan tài được cho vào cái lồng kính trên xe tải quân sự. Đám tang lễ lên đường tới nghĩa trang nằm dọc bên đường quốc lộ tới Biên Hòa, nơi Phạm Xuân Ẩn sẽ được mai táng bên cạnh Ba Quốc và những đồng đội khác trong ngành tình báo quốc phòng. Nơi an táng này, với khoảng 500 ngôi mộ, được bài trí như một công viên. Bên kia đường là một nghĩa trang dành riêng cho những binh sĩ Việt Nam Cộng hòa chiến đấu ở phía bên kia của cuộc chiến. Nghĩa trang của Việt Nam Cộng hòa um tùm cỏ dại, những bia mộ sứt sẹo và xiêu vẹo trên mặt đất.


Hàng chục bài báo ghi lại sự kiện Phạm Xuân Ẩn qua đời. Những người bạn của ông trong nghề báo đã không hề quên ông. Những bài viết về ông là cáo phó chính trên tờ New York TimesLe Monde, và thậm chí Time cũng phá vỡ nhiều năm im lặng bẽ bàng của mình để công nhận Phạm Xuân Ẩn là một phóng viên tầm cỡ. “Phạm Xuân Ẩn là một nhà báo hàng đầu… một phần là nhà nho, một phần là tu sĩ thời Trung cổ”, như Stanley Cloud, cựu trưởng văn phòng đại diện Sài Gòn, đã viết. Cloud phủ nhận lời buộc tội rằng Phạm Xuân Ẩn đã gài thông tin sai sự thật, và khẳng định ông (Phạm Xuân Ẩn) đã “cứu chúng ta khỏi việc phản ánh những sự việc không chính xác”. Cloud viết tiếp rằng Phạm Xuân Ẩn là một người theo chủ nghĩa dân tộc, một người yêu nước, một người yêu tổ quốc và nền văn hóa của mình. Điều này không ngăn cản tình yêu ông dành cho nước Mỹ hoặc nước Pháp. Ông yêu văn học Pháp. Ông ngưỡng mộ nền văn hóa Mỹ. Nhưng trong người ông không có mẩu xương nô lệ nào, và mối quan hệ duy nhất mà ông muốn có với bên ngoài là sự tôn trọng lẫn nhau. Đất nước Việt Nam đã đánh lui quân xâm lược suốt hàng nghìn năm qua, và trông đợi bất kỳ điều gì khác ở một người Việt Nam yêu nước thì đúng là tưởng tượng ra một con báo không có đốm [1]. Người ta nhìn Phạm Xuân Ẩn và tưởng rằng ông không có đốm. Họ tưởng ông đứng về phe mình, và ông cũng không bao giờ nói với họ điều ngược lại, nhưng chắc chắn ông là một người Việt Nam chân chính nhất, người đặt tình yêu tổ quốc lên trên những lợi ích của bản thân. Như Cloud viết khi kết thúc bài báo của mình: “Trong chiến tranh, một đồng nghiệp của chúng tôi đã nói, ‘Tôi nghĩ Phạm Xuân Ẩn là ví dụ hoàn hảo cho những gì tốt đẹp nhất trong xã hội ViệtNam. Hồi đó tôi cũng cảm thấy như vậy. Bây giờ vẫn thế.’”


Trong một bài báo đưa tiễn khác, sếp cũ của Phạm Xuân Ẩn tại Time, Frank McCulloch viết: “Không một lần nào trong ngần ấy năm làm việc cho tôi tại văn phòng đại diện của Time, Phạm Xuân Ẩn lại đi xuyên tạc hoặc điều chỉnh những bài viết của mình theo hướng có lợi cho cộng sản. Điều nghịch lý là ông thực sự yêu nước Mỹ và nền dân chủ của nó, đồng thời ông cũng vô cùng ngưỡng mộ và trân trọng nền báo chí tốt đẹp trong bối cảnh nước Mỹ thời kỳ đó”. McCulloch kết thúc bài báo của mình bằng một lời nhắn gửi rằng “Tôi vẫn chào mừng anh, Ẩn ạ, như một người bạn, một nhà báo, một con người phức tạp và mâu thuẫn yêu chuộng dân chủ, một người chồng và một người cha, và có lẽ, trên tất cả, như một người Việt Nam yêu nước, người có thể đã, hoặc có thể không, đặt cược tất cả vào nhầm con ngựa”.


Vào ngày thứ ba sau lễ mai táng của Phạm Xuân Ẩn, gia đình ông quay trở lại nghĩa trang để cúng lễ “mở cửa mả”. Mang theo hoa và đồ ăn, họ cầu nguyện cho linh hồn ông được siêu thoát. Họ còn mang theo một cái ô dựng lên để che cho ông khỏi bị nắng. Thứ cuối cùng mà họ mang theo là một chiếc thang hàng mã đặt dựa vào thành ngôi mộ để giúp linh hồn ông lên thiên đường. Tôi tưởng tượng ra Phạm Xuân Ẩn tận dụng chiếc thang này, trèo ra khỏi địa ngục càng nhanh càng tốt để tìm kiếm một thế giới tươi sáng hơn với những cuộc chuyện trò thú vị.


Bản quyền bản tiếng Việt © Công ty Văn hóa & Truyền thông NhãNam, 2014


Phần bổ sung và hiệu đính © 2014 Bùi Xuân Bách & pro&contra & Thomas A. Bass


Ảnh do tác giả cung cấp.




[1] Lấy ý câu thành ngữ “Một con báo không thể thay đổi được các vết đốm trên mình nó.”

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 04, 2014 16:37

November 2, 2014

Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (4)

pro&contra - Bản dịch đã được rút xuống theo yêu cầu của dịch giả.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 02, 2014 15:39

Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (3)

pro&contra - Bản dịch đã được rút xuống theo yêu cầu của dịch giả.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 02, 2014 06:31

November 1, 2014

Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)

pro&contra - Bản dịch đã được rút xuống theo yêu cầu của dịch giả.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 01, 2014 13:02

October 31, 2014

Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)

pro&contra - Bản dịch đã được rút xuống theo yêu cầu của dịch giả.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 31, 2014 17:50

Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo

Phạm Thị Hoài


Khi nghe Thomas A. Bass, một tác giả và giáo sư văn chương ở New York, kể rằng cuốn sách của ông về Phạm Xuân Ẩn đang được dịch để xuất bản tại Việt Nam, thú thật tôi đã không chú ý lắm. Lại một cuốn nữa ư? Trong khoảng mười năm gần đây, sách báo, tài liệu, phim ảnh về nhà tình báo tài ba của Việt Nam, một “điệp viên hoàn hảo” như nhan đề một cuốn sách cũng của một giáo sư Mỹ, liên tục ra đời và chỉ khác nhau ở chỗ ngày càng rầm rộ hơn, hoành tráng hơn, thậm chí cũng giật gân hơn, có lẽ để làm ông còn hoàn hảo hơn. Song ở đất nước lạm phát cả kẻ thù lẫn anh hùng này, cách chắc chắn nhất để triệt hạ sức hấp dẫn của một nhân vật là bắc loa phóng thanh ca ngợi người đó từ sáng đến tối. Nếu cứ tiếp tục như thế, một lúc nào đó tác phẩm duy nhất còn thiếu về Phạm Xuân Ẩn sẽ là cuốn Giết một anh hùng như thế nào.


Khi được nghe kể tiếp là cuốn sách của Thomas A. Bass gặp rắc rối với kiểm duyệt, tôi thầm nghĩ, một học giả phương Tây định in sách ở Việt Nam, dù chỉ viết, chẳng hạn, về trang phục trên đầu người Việt, khăn, lá, mũ, nón, cũng phải chuẩn bị tinh thần chơi mèo vờn chuột với kiểm duyệt. Chuyện đó ông phải hiểu. Mà trái khoáy nhất là trí thức phương Tây càng thiên tả, thậm chí thân cộng hay cộng sản nòi, càng bị xét nét. Chắc ông cũng biết chuyện những trí thức Pháp và Đức từng đi theo Việt Minh đều lần lượt nếm mùi nghi kị của Việt Minh; đến tờ tạp chí văn hóa của Đảng Cộng sản Pháp Les Lettres françaises một thời còn bị ngờ là “thế lực phản động”, có lẽ lỗi của nó là hay hơn mức các cán bộ văn hóa Việt Nam cho phép. Tôi rất hay tự hỏi, điều gì sẽ còn lại dai dẳng nhất, sau khi tất cả những giáo điều cộng sản, những u mê, ấu trĩ và cuồng tín, những thói quen, nếp hằn và thông lệ khủng khiếp của chế độ ấy qua đi. Có lẽ là sự nghi kị, ngờ vực đó. Chúng ta chỉ còn cách kiên nhẫn. Tôi rộng rãi cho nó một lịch trình ít nhất là một nửa thế kỉ.


Thomas A. Bass có vẻ không muốn đợi lâu đến thế. Khi tôi gần như đã quên hẳn câu chuyện còn bỏ dở, ông thông báo, đầy buồn phiền, rằng cuốn sách của ông bị kiểm duyệt tệ hại và ngỏ ý xem tôi có thể giúp được gì không. Tôi rất sẵn lòng viết thư cho nhà xuất bản của ông ở Việt Nam, Nhã Nam, hỏi han, chuyển sự buồn phiền từ New York qua ngả Berlin về Hà Nội, hi vọng, ấn tượng của cá nhân tôi về công ti xuất bản này là rất dễ chịu. Tôi an ủi ông rằng Nhã Nam là một lựa chọn tốt. Nếu có thể, họ đã in cuốn sách của ông không sót một dấu phẩy và còn cộng thêm một dấu chấm than tán dương. Song kiểm duyệt là môn thể thao tinh thần ở những quốc gia hậu cộng sản như Trung Quốc và Việt Nam, nó đòi hỏi một tinh thần “thượng võ” có thể gọi là mỉa mai, nhưng cũng có thể gọi là thuần túy thực dụng. Tác giả của Deng Xiaoping and the Transformation of China, ông Ezra Vogel, một giáo sư Harvard, cho rằng bản dịch tác phẩm của ông ở Trung Quốc giữ được 90% thì vẫn hơn là 0%, nếu nó không được xuất bản. Nó đã được xuất bản, và bán được gần 700.000 cuốn. Bộ phim Tử địa Skyfall chấp nhận cắt phăng cảnh một nhân viên bảo vệ ở Thượng Hải bị bắn gục; Đặc vụ áo đen 3 chấp nhận hi sinh cảnh toàn bộ nhân viên một nhà hàng Tàu là bọn giặc ngoài hành tinh. Bù lại bằng thị phần của Hollywood ở Trung Quốc, những tổn thất đó xem ra rất nhỏ. Vấn đề là sức chịu đau của từng người. Tôi chịu đau kém, nói đúng ra là không thể chịu nổi dù chỉ một nhát cắt, nên việc xuất bản ở Việt Nam là không đặt ra, trừ khi đã tự xử lí mình trước để tránh tay người ngoài.


Nhưng Thomas A. Bass còn vượt xa tôi. Chỉ cần nhìn thấy cái kéo kiểm duyệt là ông đã rên rỉ. Tiếng la của ông khiến tôi tò mò và bắt đầu đọc. The Spy Who Loved Us. The Vietnam War and Pham Xuan An´s Dangerous Game quả nhiên là một cuốn sách khác về Phạm Xuân Ẩn. Với tất cả thiện cảm dành cho cuộc chiến đấu giành độc lập của người Việt và sự ngưỡng mộ không che giấu cho nhà tình báo vĩ đại, Thomas A. Bass quan tâm đến con người Phạm Xuân Ẩn đằng sau anh hùng Phạm Xuân Ẩn, đến những bí ẩn của một nhân cách đa diện đằng sau những bí mật của một cuộc đời hai mặt, đến những xung đột nghiêm trọng đằng sau trò chơi hai mang, đến những hoàn cảnh và số phận người Việt đằng sau các bản tin thời sự, đến những câu hỏi sẽ ám ảnh thời hậu chiến ngay đằng sau những sự kiện còn nóng hổi của Chiến tranh Việt Nam, đến điều chưa và không thể nói ra đằng sau những phát ngôn chính thức, đến sự thật khó khăn đằng sau những lớp hỏa mù dày đặc. Ông vẽ chân dung của một điệp viên không hoàn hảo trong một thời đại đầy lỗi lầm. Đôi khi tôi có cảm giác, tác giả không mong gì hơn là Phạm Xuân Ẩn chỉ là một nhân vật tiểu thuyết và Chiến tranh Việt Nam chỉ là một hư cấu. Nhưng cả hai đều thuộc chắc nịch vào hiện thực, một hiện thực kéo dài mà đến lượt mình, tác giả của cuốn sách cũng bị cuốn vào.


Cuốn vào và cuối cùng ông đã chấp nhận kiểm duyệt để điệp viên của mình trong vai “kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” được ra mắt tại Việt Nam tháng Ba năm nay. Bù lại là một thương lượng làm giàu cho chúng ta, người đọc, người chứng kiến bước chuyển, dù quá chậm, quá gian nan, của Việt Nam về hướng cởi mở hơn, tự do hơn, đỡ ngại ngần ngờ vực nghi kị hơn. Nhã Nam đồng ý để tác giả công bố bản dịch trọn vẹn, không kiểm duyệt, trên mạng, sau sáu tháng phát hành bản bị kiểm duyệt tại Việt Nam. Tôi hân hạnh được dùng trang nhà của mình cho việc này. pro&contra sẽ lần lượt đăng tải phần so sánh những chỗ bị kiểm duyệt và phần hiệu đính, cũng như toàn bộ bản dịch đã được khôi phục và bổ sung. Và cùng với nó là những ghi chép của Thomas A. Bass về câu chuyện xuất bản cuốn sách của ông ở Việt Nam, “ghi lại công việc của các nhà kiểm duyệt, ghi lại những ưu tư và lo lắng của họ”, như “một cái máy đo địa chấn văn học”. Như chương vĩ thanh, nếu một ngày Điệp viên yêu chúng ta được xuất bản tại Việt Nam, nguyên vẹn.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 31, 2014 05:35

October 25, 2014

Từ vụ tước bằng của Thạc sỹ Đỗ Thị Thoan (2)

Lê Tuấn Huy


Xem phần 1


Ngày 28/04/2014, các văn bản của giới học thuật trong và ngoài nước, phản đối việc thẩm định luận văn và thu hồi bằng Thạc sỹ Khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan, được chính thức trao cho người đại diện của Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Đến nay, không có phản hồi.


Ngày 15/05/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành Thông tư số 15/2014/TT-BGDĐT (Thông tư 15) để ban hành Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ (mới), có hiệu lực từ ngày 01/07/2014. Đến nay, có một phản ứng.


Với những gì tôi đề cập ở hai bài trước, thiển nghĩ, khía cạnh pháp lý, khoa học và chính trị của vụ việc, kể cả đối với thông tư mới, ít nhiều đã được cơ bản vạch ra. Nhưng với hai diễn biến vừa nhắc, có lẽ cần nói thêm vài điều.


Thông tư 15 có thể hợp pháp hóa cho các quyết định bị phản đối của Đại học Sư phạm Hà Nội không? Đương nhiên là không, bởi nguyên tắc bất hồi tố không cho phép. Thêm vào đó, ở quy chế mới, Điều 41, với hai khoản cụ thể, đã giới hạn hết sức rõ ràng phạm vi của nó, là chỉ áp dụng đối với các khóa tuyển sinh từ ngày 01/07/2014 trở đi.


Thông tư 15 có thể hợp lý hóa cho hành động phi pháp và phi lý của Đại học Sư phạm Hà Nội không? Cũng không. Bởi, cho dù ở quy chế mới, với Điều 30 về thẩm định luận văn, có đem lại sự biện minh “hậu kiểm” về động cơ hay nội dung (phần nhiều, tùy thuộc thái độ chủ quan), thì những người soạn thảo nó cũng chưa dám phá vỡ giới hạn cuối cùng của sự liêm sỉ về mặt thể thức (phải tuân thủ, bất kể thái độ chủ quan).


Tại điểm c, khoản 2, Điều 30, dù gạt học viên, người hướng dẫn và hội đồng chấm luận văn khỏi phiên họp thẩm định, quy chế mới vẫn giữ cho họ quyền được thông báo và có thể gửi ý kiến, cung cấp tài liệu tới hội đồng thẩm định. Như vậy, họ không phải hoàn toàn bị trói tay, bịt mắt, khóa miệng; mà hội đồng thẩm định cũng không phải là “thực thể” tuyệt đối bí mật, cả về con người lẫn thời gian, địa đểm.


Bên cạnh đó, tại khoản 2 của điều này, các giải pháp nhằm bảo đảm quyền lợi cho học viên sau khi luận văn bị thẩm định không đạt không vì lý do sao chép bất hợp pháp, cũng được đưa ra.


Vậy mà, bỏ xa cả Thông tư mới, vượt hẳn lên chuẩn mực hành xử văn minh, Đại học Sư phạm Hà Nội và Hội đồng Thẩm định Luận văn Đỗ Thị Thoan đã phá vỡ mọi chuẩn thức. Họ xử trí vấn đề không trên tinh thần duy lý và đối thoại của nhà khoa học, không trên tinh thần khoan dung và thiện ý của nhà giáo dục, mà bằng sự cáo buộc và phán xử của quan tòa, bằng việc xuống tay vô tình và dứt điểm của đao phủ.


Song, nói như thế không có nghĩa Thông tư 15 là hợp lý. Bản thân việc biến cái gọi là thẩm định luận văn thành một “định chế” chính thức đã là sự chà đạp thô bạo lên khoa học và tự do học thuật. Những điều phi lý của việc làm này – mà tôi đã cảnh báo – nay biểu hiện cụ thể ra ở quy chế mới:


1. Căn cứ để ra quyết định thẩm định đạt đến độ tùy tiện cao nhất: Ngoài việc có đơn tố cáo, quy chế mới cho phép thủ trưởng cơ sở đào tạo lập hội đồng thẩm định “khi thấy cần thiết”, mà tuyệt nhiên không xác định như thế nào là “thấy cần thiết”.


2. Thay cho việc minh định, sự mơ hồ được lấy làm tiêu chuẩn khoa học: Tại điểm c, khoản 2, Điều 26, luận văn được yêu cầu phải “phù hợp với thuần phong mỹ tục của người Việt Nam”, trong khi khái niệm “thuần phong mỹ tục” vốn không được định tính và định lượng một cách khoa học, mà chỉ dựa trên cách hiểu dân gian, võ đoán và mang tính bảo thủ cố hữu của ý thức xã hội. Rồi đây, học viên các ngành văn học, triết học, tâm lý học, xã hội học… hẳn sẽ không dám đi vào các đề tài như thơ Hồ Xuân Hương, libido, cách mạng tính dục, mãi dâm, v.v.. Mà cũng chưa cần đụng đến các đề tài ấy, bất kỳ nội dung nào, câu chữ nào bị gán cho là trái thuần phong mỹ tục cũng đều có thể bị truy xét.


3. Thay cho bình đẳng và đối thoại khoa học, áp chế hành chính trở thành cơ sở để xử lý học thuật:


- Biến “thẩm quyền” hành chính thành “quyền lực” khoa học: Hội đồng thẩm định có quyền định đoạt cuối cùng nhưng lại không có bất kỳ tiêu chí gì cho thấy họ có năng lực chuyên môn – đúng với đề tài liên quan – cao hơn hội đồng ban đầu.


Nên nhớ, trình độ thạc sỹ có quy trình đào tạo chỉ qua một cấp bảo vệ luận văn chứ không phải hai cấp như trình độ tiến sỹ (hội đồng cấp cơ sở và hội đồng cấp nhà nước), nên không thể lấy thẩm quyền hành chính cao hơn ra mà áp đặt và gán ghép một quyền lực khoa học mặc nhiên cho hội đồng thẩm định.


- Áp đặt “khoa học”: việc cách ly cả học viên, người hướng dẫn, lẫn hội đồng đánh giá khỏi phiên họp thẩm định áp dụng cho mọi lý do chứ không phải chỉ với những trường hợp gian lận (đạo văn, viết hộ…).


- Biến người hướng dẫn từ người gợi mở và trao đổi khoa học thành người kiểm duyệt và đồng trách nhiệm với học viên: Điều 27, khoản 2, điểm c quy định người hướng dẫn có ý kiến xác nhận luận văn đạt các yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 26 (có đóng góp lý luận hoặc thực tế, có giá trị, phù hợp thuần phong mỹ tục…), trong khi đó là việc mà hội đồng xét đề tài luận văn đã làm một cách sơ khởi, và sẽ được từng thành viên hội đồng chấm luận văn làm rõ.


Đồng thời, người hướng dẫn và hội đồng đánh giá – xét ở chính vai trò này – chỉ làm công việc thuần khoa học với luận văn, nhưng cũng bị đưa vào diện có thể “bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự” (Điều 40, khoản 2, điểm c). Hội đồng thẩm định, cũng làm việc với luận văn, lại không bị đặt vấn đề như thế.


4. Không những lẫn lộn tầng cấp đào tạo, còn nhầm lẫn cả lĩnh vực hoạt động, giữa đánh giá khoa học với phán xử tư pháp; mà lại là loại tư pháp nguyên sơ nhất: (không có đối thoại mở và bình đẳng khoa học) chỉ có thẩm quyền tuyệt đối, kín và chung quyết của hội đồng thẩm định, mà không có cơ chế để kháng nghị từ phía đối tượng bị tái thẩm hay công luận.


5. Trao thẩm quyền “tự trị” độc đoán và vô hạn cho thủ trưởng cơ sở đào tạo.


Những điểm cơ bản trên không hẳn đã báo hiệu cái chết của đào tạo và khoa học, bởi nó đã chết từ lâu trước khi có Thông tư 15, đặc biệt là các ngành khoa học xã hội. Thông tư này chỉ góp thêm vào “tính rừng” của hệ thống văn bản pháp lý, nhằm “cung ứng” thêm một công cụ tự kiểm duyệt cho học viên và người tham gia đào tạo sau đại học.


Có thể, để đồng bộ, Thông tư 15 sẽ là hình mẫu cho một “định chế” tương tự trong đào tạo tiến sỹ, sẽ ra đời ở một thông tư khác. Hậu quả của chúng như thế nào, xin không bàn đến nữa.


Liên quan đến thông tư đang đề cập, Luận văn của Đỗ Thị Thoan cũng chỉ như một việc đã rồi. Tuy nhiên, với sự cụ thể đến mức hơi bất thường ở Điều 41 (để ngăn làn sóng tố ngược các luận văn giai đoạn hóa rồng học vị vừa qua chăng?), đã chứng minh thêm nữa sự bất hợp pháp trong việc thẩm định Luận văn Đỗ Thị Thoan và củng cố cơ hội sử dụng các biện pháp pháp lý đối với việc làm đó.


Đối với Đỗ Thị Thoan và Hội đồng Đánh giá Luận văn, con đường công luận rõ ràng đã thành công. Nay, con đường pháp lý – nếu muốn – là công việc liên hệ trước tiên với những người liên can trực tiếp. Công luận chỉ có thể hỗ trợ.


Đối với Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội, các quy định mặc nhiên miễn cho ông trách nhiệm pháp lý trong việc trả lời các văn bản của giới học thuật trong và ngoài nước. Nhưng với tư cách một cá thể trong cộng đồng khoa học và giáo dục, ông vẫn mang trách nhiệm đạo lý và trách nhiệm khoa học. Tất nhiên, ông hoàn toàn có thể xem đó chẳng có gì là trách nhiệm, nhưng trở thành một vết nhơ dưới con mắt của cộng đồng này, trong lịch sử học thuật nước nhà, là cái giá không nhỏ, cho dù ông có được sự hậu thuẫn của những quyền lực ngoài khoa học.


Dù sao, đến lúc này, trên bình diện chung, câu chuyện Đỗ Thị Thoan xem ra đã nhẹ hơn việc ra đời của Thông tư 15.


Có lẽ, rồi sẽ có thêm tiếng nói về nó, nhưng một khi phần đông giới đại học vẫn xem việc lên tiếng là công việc của người khác, còn mình thì sẵn sàng chấp nhận một tầng mới được gia cố vào cái “vòng kim cô” vốn có, thì đừng mong có được hiệu quả như việc Bộ Công an đã “đính chính” Thông tư 28/2014/TT-BCA ngày 07/07/2014 của bộ này.


Và, bất cứ sự đấu tranh nào với Thông tư 15 mà không tính đến đến hiệu quả, không tính đến những hình thức khả dĩ để gia tăng trọng lượng (vận động không hợp tác quốc tế, không tham gia đào tạo, v.v…), thì tốt nhất, đừng làm gì.


01-05/10/2014


© 2014 Lê Tuấn Huy & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 25, 2014 02:56

October 22, 2014

Chủ nghĩa cộng sản thân hữu tại Trung Quốc

Bùi Mẫn Hân


Trần Ngọc Cư dịch


Lặng lẽ mà xem Tập Cận Bình

Bắt ruồi đánh hổ giữa quan, binh.

Lắm người nao nức trong chờ đợi,

Vì biết đâu, Bình đập vỡ bình!


Trong chiếc bình kia nhung nhúc dòi

Quẳng vào đống rác cũng đành thôi.

Tội tình gì phải ôm mang mãi

Khổ lụy quê hương, nhục giống nòi?


(Cảm tác của dịch giả về bài xã luận sau đây của Bùi Mẫn Hân)


___________


Vào thời điểm Tập Cận Bình phát động chiến dịch chống tham nhũng ngay sau khi trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vào cuối năm 2012, hầu hết các nhà quan sát thời sự đều nghĩ rằng ông sẽ chỉ thông qua các đề xuất, bỏ tù một số quan chức cao cấp rồi tiến hành công việc như cũ, đâu lại vào đấy thôi. Dù sao, các lãnh đạo tiền nhiệm của ông gần như đã lợi dụng các cuộc điều tra chống tham nhũng để loại bỏ các đối thủ chính trị của mình và củng cố quyền lực. Các biện pháp kỷ luật thường được tiến hành rầm rộ trong vòng một năm sau khi nhà lãnh đạo mới được chỉ định làm Tổng Bí thư và giảm dần cường độ vào năm tiếp theo.


Nhưng chiến dịch chống tham nhũng của ông Tập đã vượt quá điều mong muốn trước mắt là khẳng định địa vị chính trị tối cao của mình. Đây là một chiến dịch với tầm mức và tham vọng chưa từng có trước đây, đánh vào một tầng lớp gồm khoảng 5.000 quan chức cao cấp đang điều hành những cơ quan trọng yếu nhất của ĐCSTQ, của Chính phủ, của Quân đội và các công ty Nhà nước. Mục tiêu của chiến dịch không nằm ngoài nỗ lực xóa bỏ một hệ thống cai trị bất thành văn mà các lãnh đạo chóp bu dùng để cai trị Trung Quốc kể từ cuộc đàn áp Thiên An Môn năm 1989: một mạng lưới tự củng cố bằng các mối quan hệ dựa vào chế độ bảo trợ và tham nhũng. Là một lãnh đạo thấy mình được thôi thúc bởi một sứ mệnh lịch sử là phải bảo vệ quyền cai trị của ĐCSTQ bằng mọi giá, ông Tập đã coi nạn tham nhũng tràn lan hiện nay như một mối đe dọa nghiêm trọng cho sự tồn tại lâu dài của chế độ.


Nhưng tham nhũng đã thấm sâu vào  nhà nước đảng trị này đến nỗi nó trở thành chất keo để giữ cho guồng máy khỏi tan rã. Và vì thế, chiến dịch bài trừ tham nhũng của ông Tập nhằm đảm bảo sự trường tồn của ĐCSTQ hình như đang đặt ra một mối đe dọa cho sự sống còn của Đảng trong ngắn hạn hoặc trung hạn.


Các số liệu đáng tin cậy đo lường nạn tham nhũng tại Trung Quốc là tương đối hiếm hoi, nhưng một số chỉ dẫn, gồm cả những số liệu được Chính phủ kiểm duyệt, đã hỗ trợ cho sự đồng thuận của những nhà quan sát tình hình Trung Quốc, rằng nạn tham những đã gia tăng đáng kể trong hai thập niên qua. Theo các vụ tham nhũng được tường trình trên các phương tiện truyền thông chính thống có thẩm quyền nhất, món tiền hối lộ trung bình đã tăng vọt từ 91.000 USD năm 2000 lên đến 225.000 USD năm 2009, nghĩa là tăng 100 phần trăm (sau khi điều chỉnh lạm phát).


Kể từ đầu thập niên 1990 đến nay, các quan tham ăn cắp công quĩ càng nhiều hơn, một phần nhờ vào sự gia tăng to lớn trong ngân sách chi tiêu cho các dự án cơ sở hạ tầng. Các hợp đồng béo bở về xa lộ, hải cảng và đường sắt là những cơ hội để họ làm giàu cho chính mình, cho thân nhân và bạn bè. Các đầu tư vào cơ sở hạ tầng, nhà đất và các bất động sản khác gia tăng trung bình từ 36 phần trăm GDP trong thời kỳ 1980-1991 đến hơn 41 phần trăm GDP trong thời kỳ 1992-2011.


Dựa vào các dữ liệu của năm 2011, đầu tư vào cơ sở hạ tầng chiếm khoảng 1/3 tổng số đầu tư vào bất động sản. Mười sáu người đứng đầu ngành giao thông vận tải tại 11 tỉnh đã bị trừng trị nghiêm khắc (một người bị xử tử) về tội tham nhũng trong vòng hai thập kỷ qua. Năm ngoái, Bộ trưởng Đường sắt lâu năm, Lưu Chí Quân [Liu Zhijun], nhận án tử hình treo về tội đã nhận hơn 10 triệu USD tiền hối lộ.


Một nguồn lợi khác từ trên trời rơi xuống là chương trình tư hữu hóa — được gọi bằng mỹ từ “cải tổ quyền làm chủ tài sản”, chỉ vì một ái ngại ý thức hệ còn sót lại về việc biến các tài sản trên danh nghĩa là của nhà nước thành tài sản tư nhân. Từ đầu thập niên 1990, Chính phủ Trung Quốc dần dần nới lỏng quyền kiểm soát việc sử dụng các tài nguyên đất đai và hầm mỏ, chẳng hạn, cho phép các quan chức địa phương được tự do chuyển nhượng các tài sản quí giá này cho thân nhân và bạn bè — một thứ tự do chưa từng có trước đó. Trong một vụ tai tiếng nghiêm trọng liên quan đến Chu Vĩnh Khang [Zhou Yongkang], trùm Công an vừa mới nghỉ hưu, người con trai cả của ông đã mua hai lô dầu lửa từ một đại công ty năng lượng nhà nước là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc với giá gần 3,2 triệu USD rồi nhanh chóng bán lại, thu về một lợi nhuận trên 80 triệu USD. Theo một cuộc điều tra của tạp chí  doanh nghiệp Tài Tân [Caixin] rất uy tín tại Trung Quốc, Tào Vĩnh Chính [Cao Yongzheng], một thân hữu của ông Chu và là người từng khoe khoang có thể tiên đoán được tương lai, hình như đã được tặng một lô dầu lửa đã đem lại cho ông một số lợi nhuận gần 100 triệu USD một năm – rất có thể đây là một phần thưởng cho một số dịch vụ nào đó.


Căn cứ vào tin tức từ văn phòng của các công tố viên tỉnh và thành phố, khoảng từ 1/3 đến 2/3 số vụ tham nhũng tại Trung Quốc hiện nay có liên quan đến các nhóm quan chức và doanh nhân. Trong thập niên 1980, hầu hết các tội tham nhũng đều do các cá nhân tự mình gây ra. Hình thức tham nhũng cấu kết mới hiện nay độc hại hơn nhiều vì nó khó bị phát hiện và chặn đứng hơn, đồng thời nó bào mòn sự vẹn toàn cơ chế của nhà nước.


Nó cũng đe dọa quyền kiểm soát của Đảng đối với các lãnh đạo cao cấp địa phương: Các quan chức cấu kết nhau thường thăng thưởng và bao che nhau bằng một mạng lưới ô dù được tổ chức chặt chẽ. Tại thành phố Mậu Danh [Maoming], thuộc tỉnh Quảng Đông, hơn 240 viên chức địa phương, gồm ba bí thư thành ủy liên tiếp, phó chủ tịch thành phố, trưởng ban công an thành phố, trưởng ban chống tham nhũng và nhiều lãnh đạo cơ quan của thành phố, đều có dính líu vào một vụ tai tiếng tham nhũng trong khoảng thời gian từ 2009 đến 2012. Trong một vụ đại tai tiếng đang diễn ra tại tỉnh Sơn Tây, nơi có trữ lượng than đá phong phú, bốn trong 13 quan chức cao cấp nhất của vùng này đã bị bắt giữ vì “các vi phạm kỷ luật và luật pháp nghiêm trọng,” một cách gọi khác của nạn tham ô, trong đó có cả trưởng ban chống tham nhũng của tỉnh này.


Nạn tham nhũng tràn lan này đã vô tình tạo một cơ hội hiếm có để ông Tập lập thành tích nhanh chóng sau khi vươn lên địa vị cao nhất tại Trung Quốc. Chống tham nhũng hiện nay là một trong ba cột trụ chính trong chiến lược đối nội của ông,  song song với cải tổ kinh tế và ngăn chặn các lực lượng dân chủ. Cuộc chiến chống tham nhũng này phục vụ một số mục tiêu cho ông. Như đã từng diễn ra trước đây, nó có thể giúp ông Tập loại bỏ các đối thủ chính trị của mình và tái áp đặt kỷ luật đã trở nên quá lỏng lẻo lên một Đảng cầm quyền. Chiến dịch này còn có thể o ép một hệ thống quan liêu miễn cưỡng phải thực hiện các cải tổ kinh tế, những cải tổ có thể xói mòn quyền lực và các đặc quyền của họ. Và nó có thể giúp ông Tập giành được hậu thuẫn của dân chúng bằng cách đi theo một số đường lối nhắm tới việc chỉnh sửa lại cái hình ảnh lem luốc của ĐCSTQ vì bị coi là một chế độ suy đồi mất hẳn quan hệ với quần chúng.


Để nhấn mạnh hữu hiệu thông điệp này, Ông Tập đang theo đuổi một đường lối có nhiều mũi nhọn. Mũi mạnh nhất là điều tra và truy tố một số rất đông đảo gồm các quan chức cao cấp, những người trên thực tế đã từng hưởng quyền bất khả xâm phạm trước đây. Trong 23 tháng qua, 50 con hổ hay cách gọi những quan chức cao cấp từ hàm thứ trưởng trở lên đã rơi vào lưới của ông Tập, so với vỏn vẹn 30 con trong vòng 5 năm trước khi ông được chỉ định làm Tổng Bí thư ĐCSTQ. Cuộc săn bắt của ông Tập đã tóm cổ được vài con mèo cỡ bự, trong đó có ông Chu, một nhân vật ngoài chức trùm công an Trung Quốc còn là cựu ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị, cơ quan ra quyết sách cao nhất của Đảng. Một động thái chưa từng có trước đây là việc truy tố tướng cao cấp Từ Tài Hậu [Xu Caihou], một Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương mới nghỉ hưu và là cựu Ủy viên Bộ Chính trị.


Chiến dịch trong sạch hóa này đã đưa ra những thay đổi thủ tục khiến giới lãnh đạo địa phương khó che đậy nạn tham nhũng hơn trước nhiều. Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương, cơ quan nội chính bài trừ tham nhũng của Đảng – do một đồng minh của ông Tập, là Vương Kỳ Sơn [Wang Qishan] lãnh đạo – ngày càng dựa vào các toán kiểm tra đặc biệt để thanh lọc các quan chức tham nhũng tại các tỉnh thông qua các cuộc phỏng vấn và điều tra kín được mở rộng. Các cơ quan chống tham nhũng địa phương hiện nay phải báo cáo kết quả của bất cứ một cuộc điều tra nào mà họ tiến hành lên một cơ quan chống tham nhũng cấp cao hơn.


Chiến dịch chống tham nhũng của ông Tập còn áp đặt các biện pháp khắc khổ, loại bỏ nhiều bổng lộc hậu hĩ mà giới thống trị chóp bu của Trung Quốc đã coi là quyền lợi đương nhiên. Các điều lệ mới cấm quan chức nhận những món quà xa hoa, các phương tiện đáp ứng cho nhu cầu giải trí và du lịch của họ. Hậu quả là, lượng rượu cô-nhắc của Pháp và đồng hồ Thụy Sĩ bán ra đã giảm xuống nhanh chóng, trong khi nỗi bất bình của giới quan chức diễn ra khắp nơi.


Toàn diện và táo bạo, chiến lược chống tham nhũng của ông Tập có nhiều rủi ro, chính vì nó được cần đến trong bối cảnh sau đây: Tham nhũng đã xâm nhập vào cơ cấu định chế của nhà nước đảng trị Trung Quốc; như người ta thường nói, nó là chất dầu bôi trơn bộ máy quan liêu rộng lớn của Trung Quốc. Sau biến cố Thiên An Môn và sự sụp đổ của Liên Xô, ĐCSTQ không còn sức thu hút về mặt ý thức hệ nữa, và như một chiến lược để sống còn, Đảng bắt đầu tưởng thưởng cho các đảng viên trung thành những địa vị béo bở, duy trì hậu thuẫn của họ bằng quyền lợi vật chất. Lối ứng xử này có lợi về mặt chính trị, nhưng ĐCSTQ gần như không có biện pháp nào để hạn chế sự phóng túng của đảng viên, khiến trong họ nảy sinh ra một ý thức về quyền lợi đương nhiên [a sense of entitlement]. Họ bắt đầu tuân theo một modus vivendi [tạm ước sống chung] mới, theo đó các quan chức từ thấp đến cao trao đổi nhau đặc ân để giải quyết các bất đồng về vấn đề bổ nhiệm nhân viên hay phân phối chiến lợi phẩm kinh tế. Họ duy trì sự ổn định và tính cố kết [cohesion] trong hàng ngũ thông qua việc thương lượng mặc cả giữa các đầu sỏ.


Nhưng hiện nay cuộc chiến chống tham nhũng của ông Tập đang phá vỡ sự thỏa thuận ở chóp bu sau biến cố Thiên An Môn. Bằng cách áp đặt các biện pháp khắc khổ và các hình phạt về tội tham nhũng lên hệ thống quan liêu của nhà nước đảng trị Trung Quốc, ông Tập có nguy cơ gây bất bình cho một thế lực chính trị mạnh nhất nước, thậm chí biến họ thành thù địch.


Ở thời điểm này, ông Tập giành được hậu thuẫn của dân chúng và đang có đà chính trị, trong khi giới quan liêu có đủ thông minh để không tìm cách đẩy lùi bước tiến của ông. Hầu hết các quan chức đảng viên từng nếm trải đấu tranh nội bộ đang giả vờ phục tùng ông, thúc thủ để giữ an toàn bản thân. Một số viên chức địa phương đang cố tình làm trì trệ các công việc – như việc thông qua các dự án hay thực thi các nhiệm vụ hành chánh thông thường – rõ ràng là để gây áp lực khiến ông chấm dứt hay nới lỏng chiến dịch chống tham nhũng của mình. Hình như nhóm này tính toán rằng, nếu kinh tế trở nên đình đốn, ông Tập sẽ phải chuyển quan tâm của mình sang nỗ lực phục hồi tăng trưởng kinh tế, vì đây cũng là một cột trụ nâng đỡ tính chính đáng của Đảng.


Muốn thắng được sự chống đối thụ động này, có thể ông Tập phải điều chỉnh chiến lược của mình. Từ trước đến nay, ông vẫn dựa vào quyền kiểm soát quân đội để chặn đứng bất cứ một thách thức nào. Nhưng trong tương lai, ông cần phải nới rộng cơ sở hậu thuẫn của mình, cả trong lẫn ngoài ĐCSTQ và trong xã hội Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là phải nhanh chóng đề cử các thành phần cải tổ trong Đảng vào các địa vị quyền lực và cho phép ngành tư pháp có nhiều độc lập hơn trước để truy tố các quan chức tham nhũng. Có lẽ điều này còn ngụ ý một cái gì cấp tiến hơn nữa: cho phép giới truyền thông và xã hội dân sự hành động như những tổ chức giám sát của công dân, mặc dù cho đến nay Chính quyền Tập Cận Bình hình như vẫn quyết hạn chế tự do của các nhóm này.


Dù ông Tập có thay đổi đường lối chống tham nhũng hay không, điều rõ ràng là ông đã thay đổi luật chơi quyền lực tại Trung Quốc, đặc biệt trong nội bộ Đảng Cộng sản. Nhưng liệu sự quan trọng của uy tín lãnh đạo rốt cuộc có làm được một chất keo gắn bó trong Đảng bền chắc hơn sự gắn bó qua những đường dây hối lộ đã giữ Đảng cho đến ngày nay hay không, đó là điều chưa ai nắm chắc.


__________


Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei) là giáo sư về Quản lý Nhà nước tại Claremont McKenna College, California.


Nguồn: NYT 17/10/2014


Bản tiếng Việt © Trần Ngọc Cư & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 22, 2014 10:47

October 17, 2014

Ngày về

Phạm Thị Hoài


“Chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh thật khốn nạn. Sau hàng thế kỉ ngoại thuộc, sau ba chục năm trời nhiễu nhương, nay nước nhà được thanh bình, dân tộc bắt tay xây dựng đất nước, thì chúng ta lại bỏ xứ ra đi, chúng ta lại vắng mặt, lại đứng ngoài vòng.”


“Không về được, chúng ta tự thấy sống một đời vô duyên, lãng xẹt. Cần thì chưa chắc tổ quốc đã cần đến mình; chưa chắc mình sẽ có một đóng góp nào đáng kể. Những kẻ có ý thức cao nhất về mình cũng không bao giờ dám tự nhận mình là cả một cần thiết cho quốc gia. Tuy nhiên, nghĩ rằng ở cái xứ nghèo khó nhỏ bé của mình đồng bào đang rầm rập xây dựng mà mình không được dự phần vào, tự dưng có một cảm tưởng tưng hửng, dần dần ngấm thành một đau đớn.”


“Lòng chúng ta lúc nào cũng tha thiết với quê hương, nhưng quê hương lại không còn như xưa. Cho nên chúng ta lâm cảnh bẽ bàng.”


“Về ư? Dẫu có về được, ta đâu còn về để tiếp tục đời sống như trước, mà chỉ để tăng cường hàng ngũ nô lệ. Đành rằng sống chết không cần, nhưng đã sống ta lại cam chịu sống như vậy sao? Sống để răm rắp vâng lời, để suốt đời ca ngợi lãnh đạo sáng suốt, để đem thân trâu ngựa củng cố một chế độ độc tài, vun bồi quyền lợi của một tầng lớp thống trị?”


“Bị kẹt dưới chế độ độc tài là đáng thương; còn như quyết định tự nguyện nhảy vào cúi đầu phục vụ độc tài lại đáng nguyền rủa. Kẹt cứng! Đồng bào ta, có lớp bị kẹt lại trong nước, có lớp lại bị kẹt… ở ngoài nước!”


Những dòng trên đây là của một nhà văn miền Nam nổi tiếng, trong tùy bút “Ngày về” in năm 1987 tại California [1]. Hai mươi lăm năm sau những tâm sự khắc khoải này và ba mươi bảy năm sau khi rời quê hương, một phần nhỏ tác phẩm của ông đã trở về. Hai đầu sách, Quê hương tôiTạp văn được Nhã Nam xuất bản tại Việt Nam. Chỉ có điều bút danh nổi tiếng của ông, Võ Phiến, được thay bằng Tràng Thiên, một bút danh ít người biết đến.


Tất nhiên điều đó không bình thường. Nó để lại một dư vị không dễ chịu. Dư vị của ngụy trang. Nhưng ngụy trang là hành vi gắn liền với toàn bộ sự tồn tại Việt Nam, với tất cả những mặt khuất và điểm sáng của nó. Ở đây tôi thiên vị các điểm sáng. Chúng ta thử nhìn câu chuyện Võ Phiến cải tên này qua một sự cố khác, sự cố Chuyện ở nông trại, tác phẩm lừng danh về những con lợn làm cách mạng để rồi thiết lập chính cái nguyên trạng mà chúng lật đổ, cũng do Nhã Nam xuất bản không lâu sau Lolita [2] và Võ Phiến.


*


Trong vụ tác phẩm chống toàn trị cộng sản kinh điển của George Orwell lọt lưới kiểm duyệt ở Việt Nam, công đầu chắc chắn thuộc về những người làm sách. Tuy không thể cho Chuyện ở nông trại một sự hiện diện rầm rộ trên truyền thông như với tác phẩm nổi tiếng và tai tiếng của Nabokov [3], nhưng chỉ riêng việc nó được cấp phép xuất bản và bản dịch không bị cắt xén đã đủ ngoạn mục. Song trong trường hợp tác phẩm đặc biệt này, ngoài bản lĩnh và sự dấn thân khéo léo của những người làm sách, phải có những may mắn khác.


May mắn đáng kê ra đầu tiên là sự dốt nát của bộ máy kiểm duyệt văn hóa tại Việt Nam. Ai từng làm việc với nó đều vẫn phải sửng sốt dù đã được nhiều lần báo trước. Trình độ của đại đa số các cán bộ kiểm duyệt có một quyền quyết định nào đó thường thấp đến mức “hạn chế” còn là một mĩ từ quá rộng lượng để chỉ. Guồng máy công quyền ở mọi nơi đều là chốn nương thân lí tưởng cho sự tầm thường, nhưng ở đất nước này guồng máy ấy do một bàn tay vô hình ưa mỉa mai sắp đặt: hệt như ở các lĩnh vực khác, tiêu chuẩn của người quản lí văn hóa dường như trước hết phải là không biết gì về văn hóa. Nghe họ mở miệng – đúng ra phải gọi là mở băng – bạn sẽ chỉ có một cảm giác duy nhất là tuyệt vọng. Tuyệt vọng khi nghe họ giải thích, chẳng hạn vì sao Kafka là một “trường hợp có vấn đề”, và càng tuyệt vọng hơn khi một lúc nào đó, khoảng hai thập niên sau, trái đất vẫn quay dù chúng ta đứng im, lại nghe họ giải thích vì sao trường hợp ấy không có vấn đề nữa. Trước một thành trì u mê được dán kín tem quyền lực như vậy bạn không có cơ hội nào hết. Hoặc là bạn phát điên. Hoặc là bạn trở thành một nhà hiền triết. Ngoài hai khả năng khá gần nhau này, bạn còn có thể tê liệt như một lựa chọn dễ dàng hơn. Tôi từng liệt toàn thân khi lịch sự ngồi nghe một cán bộ tuyên huấn cỡ kha khá kể chuyện ông ấy đã liều bảo vệ một tác phẩm đang bị “đánh” của tôi như thế nào. Tư duy của ông ấy – nếu có thể gọi đó là tư duy – không hề bị xúc phạm trước một chân lý đại loại như: một nhà văn rửa tay trước khi viết là một nhà văn trong sạch, nhân đạo và tiến bộ. Còn sự đổi mới tư duy táo bạo của ông ấy nằm ở nhận thức rằng tôi tuy không rửa tay nhưng vẫn trong sạch, nhân đạo và tiến bộ, vì tay tôi có bẩn đâu mà phải rửa. Mạng lưới kiểm duyệt thỉnh thoảng thủng ra một hai lỗ, có khi cho cả một tác phẩm lớn chui vừa, từ sự dốt nát đó. Thuyết phục kẻ giáo điều thường vô ích. Nhưng một kẻ giáo điều mù tịt đôi khi lại bất ngờ có một quyết định sáng sủa, vì hắn thậm chí không đủ hiểu biết để ý thức về quyết định đó của mình.


Những phẩm chất trứ danh khác của bộ máy nói trên là quan liêu, lười nhác và tắc trách. Tôi đảm bảo rằng nếu thay tên George Orwell bằng Eric Athur Blair, tên thật của ông, hay H. Lewis Always, một bút danh khác của ông, và đổi 1984 thành Tấm lòng của người Anh Cả; hoặc nếu thay Arthur Koestler bằng Kösztler Artúr và lấy tên bản gốc tiếng Đức Sonnenfinsternis dịch thành Một vầng nhật thực thay vì dịch theo những nhan đề đã quá nổi tiếng của bản tiếng Anh Darkness at Noon hay bản tiếng Pháp Le Zéro et l’Infini, thì cả hai tác phẩm thuộc hàng chống toàn trị và chống cộng đầu bảng này đều được duyệt êm ru tại Việt Nam và báo Nhân dân sẽ nhiệt tình quảng cáo. Trong trường hợp Animal Farm, rất có thể vụ vỡ đê kiểm duyệt xảy ra vì bản thảo được mang một cái tên đồng quê hiền lành, Chuyện ở nông trại.


*


Vì thế tôi mừng cho một phần Võ Phiến đã chui lọt một trong những cái lỗ tất yếu ngày càng to ra trong bức tường kiểm duyệt ngày càng kém chất lượng ở Việt Nam. Một ngày không xa, Đêm giã từ Hà Nội có thể được xuất bản với tên tác giả là Nguyễn Đăng, một bút danh của Mai Thảo. Nếu phải đổi thành Hà Nội đêm tiễn biệt, Giọt nước mắt đêm chia tay Hà Thành, Thăng Long đêm biệt li… để Mai Thảo được trở về cố hương, tôi sẽ lựa chọn sự ngụy trang ấy. Bản thân tôi, không được thông báo trước, cũng có lần xuất hiện trên một tạp chí ít người đọc ở trong nước, với cái tên chỉ dùng trong gia đình và một nhóm nhỏ bạn bè.


Trong số những nhà văn miền Nam được mệnh danh là „những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa-tư tưởng“ thì Duyên Anh ngồi tù 5 năm rưỡi, mất tại Pháp; Hồ Hữu Tường ngồi tù 5 năm, ra tù thì qua đời tại Việt Nam; Nguyễn Mạnh Côn chết trong tù; Vũ Khắc Khoan di tản, mất tại Hoa Kỳ; Mai Thảo vượt biên, mất tại Hoa Kỳ; Doãn Quốc Sỹ ngồi tù 14 năm, hiện sống ở Hoa Kỳ; Nhã Ca đi tù 2 năm, hiện sống ở Hoa Kỳ; Võ Phiến di tản, hiện sống tại Hoa Kỳ; Nhất Hạnh đã ra nước ngoài từ 1967; Dương Nghiễm Mậu ngồi tù 2 năm, hiện sống tại Việt Nam… Năm 2007, 4 tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu vừa được in lại ở trong nước thì biến mất, rất nhanh, sau khi những pháo đài à la Vũ Hạnh khạc đạn, loại đạn tồn kho quân khí tư tưởng từ vài chục năm trước, thô sơ cổ lỗ nhưng vẫn đủ sức sát thương. Nhưng từ khi Võ Phiến alias Tràng Thiên tái xuất, không thấy ông Vũ Hạnh, người đích thân phụ trách phần viết về Võ Phiến trong tác phẩm chống „biệt kích văn hóa“ khét tiếng nói trên, đem súng ra lau. Một dấu hiệu tích cực. Như thể dù phải len lén đi đêm, văn học miền Nam và văn học hải ngoại cuối cùng cũng gửi được một đại diện đáng kể của mình đến dự cuộc tọa đàm không chính thức và đã rất trễ giờ về hòa giải dân tộc.


*


Song ngày vui ngắn chẳng tày gang. Bây giờ chúng ta được biết cái giá phải trả cho tấm vé ngày về của Võ Phiến. Hóa ra việc cải tên chỉ là một động tác rất phụ. Con trai ông, cũng một nhà văn, bút danh Thu Tứ, người đã „chọn lựa và biên tập“ hai tác phẩm Quê hương tôiTạp văn nói trên, tuyên bố rõ trong bài „Trường hợp Võ Phiến“: „Chúng tôi cố chọn những tác phẩm vừa giá trị nhất vừa hoặc không chứa hoặc chứa rất ít nội dung chính trị. Nếu có nội dung chính trị, khi biên tập chúng tôi loại bỏ hết. Mục đích của việc chọn và bỏ như thế là đưa những thành tựu văn học đỉnh điểm của văn nghiệp Võ Phiến đến với người đọc mà không gây hại cho nước.“ Trong phần còn lại của bài viết khá dài này, ông Thu Tứ phê phán toàn bộ hành trình tư tưởng chống cộng của cha mình để đi đến kết luận về giá trị của Võ Phiến: „Văn nghiệp Võ Phiến vừa tích cực vừa tiêu cực. Tích cực, đáng lưu truyền, là phần văn học. Tiêu cực, đáng bỏ đi, là phần chính trị“ cũng như điều kiện để Võ Phiến có thể trở về: „Sai lầm chính trị đã đưa tác phẩm Võ Phiến ra khỏi lòng dân tộc. Đất nước đã độc lập, thống nhất lâu rồi. Nay đến lúc, nhân danh bảo tồn những giá trị văn hóa Việt Nam, đưa tác phẩm Võ Phiến trở về, sau khi lọc bỏ nội dung chính trị.“


Tuyên bố của ông Thu Tứ xuất hiện trên trang Góc nhìn vào tháng 8/2014, song đến khi được Tuần báo Văn nghệ TP HCM đăng lại cuối tháng 9 và đầu tháng 10/2014 nó mới thực sự được chú ý. Như có thể đoán trước, nó cũng vừa được báo Nhân dân và báo Tuyên giáo đăng lại. Còn thiếu báo Thanh tra, báo Quân đội và báo Văn nghệ của Hội Nhà văn là thành trì tư tưởng chính thống điểm danh xong. Năm ngoái, cái liên minh già nua ấy đã khoe cơ bắp trước tác giả trẻ Nhã Thuyên. Tương lai thuộc về ai, điều ấy không cần bàn cãi. Nhã Thuyên có rất nhiều tài năng, rất nhiều lao động cả học thuật và nghệ thuật. Cái liên minh ấy có những chiếc răng kiểm duyệt cuối cùng. Ông Thu Tứ chỉ góp thêm một chiếc lá vàng vào mùa thu của các vị trưởng lão.


Tôi không coi việc làm của con trai nhà văn Võ Phiến là hành động „đấu tố cha“ hay „bất hiếu“, như phần lớn phía dư luận đang phẫn nộ, đặc biệt ở hải ngoại. Máu mủ không phải là tiêu chuẩn để xác định đúng sai thiện ác. Chẳng lẽ chúng ta phải ca ngợi từ Kim Chính Nhật đến Kim Chính Ân, những người con trung thành nhất với cha ông? Lịch sử quá nhiều điên đảo và phân cực của Việt Nam tất yếu chia cắt và chia rẽ, thậm chí con người này đả đảo con người kia ngay trong một con người. Con cái Phạm Quỳnh bất hiếu chăng, khi tận trung phục vụ cho chế độ đã giết cha mình? Cù Huy Hà Vũ là một nghịch tử chăng, khi chống lại cái chế độ mà cha mình là một trong những công thần khai quốc? Chúng ta lấy quyền gì mà đem những quả tạ đạo đức ra đặt ùm ùm, lúc thì lên cán cân bên này, lúc thì lên cán cân bên kia, chỉ để lẩy cho được cái kết quả trọng lượng đang cần cho sổ sách trong những trường hợp như thế? „Trường hợp Thu Tứ“ chỉ là điển hình cho những xung đột đã và đang giằng xé người Việt trong mọi quan hệ và trên mọi bình diện. Nạn nhân là tất cả mọi thứ, riêng gì đâu tình phụ tử.


Nếu ông Thu Tứ chỉ đoạn tuyệt với cha mình về quan điểm chính trị, tôi không chia sẻ, nhưng đó là quyền tự do của ông, như của bất kì ai, mà tôi thấy tranh luận là vô ích. Song điều khiến tôi sởn gai ốc là ông biến cái quyền tự do tư tưởng ấy của bản thân thành quyền tự do thanh trừng tư tưởng của người khác, và người đó là thân phụ ông, nhà văn Võ Phiến, với tất cả lòng tin cậy ruột thịt đã cấp cho ông tấm giấy ủy quyền. Giấy phép gọt Võ Phiến cho vừa khuôn Thu Tứ. Không thể trớ trêu hơn. Đội quân đấu tranh tư tưởng của chính quyền Việt Nam có thể cả cười: nó sẽ tế nhị rút lui, khi gia đình đã đủ là trận tuyến.


Quả thật có những nghệ sĩ lớn đã nhỏ hẳn đi khi làm chiến sĩ tư tưởng và ngược lại. Người ngưỡng mộ nhà thơ Pablo Neruda ước gì bài tụng ca Stalin của đồng chí đảng viên cộng sản Pablo Neruda chỉ là một cơn ác mộng lạc đường. Người yêu thơ Lê Đạt muốn tống khứ 626 dòng Trường ca Bác năm 1970, viết ngày giỗ đầu Hồ Chủ tịch (Mây trắng đền Hùng/Râu Bác ung dung. Suối Lê Nin/ Núi Mác… Ôi/ Đến cả hình hài/ Bác/ cũng chẳng mang đi… Bác để lại/ cho ta/bốn biển/ sâu xa/ tình đồng chí. Bác để lại/ cho ta/ tất cả/ Bác Hồ), sau tất cả những sỉ nhục dành cho Nhân văn-Giai phẩm. Biết đâu một ngày nào hậu duệ của Tố Hữu sẽ đòi đốt sạch di sản của cha, một nhà thơ không phải là không có năng khiếu, chỉ giữ lại bài thơ „Khi con tu hú“, với tên tác giả là Lê Tư Lành, để giữ gìn nghệ thuật chân chính. Như ông Thu Tứ tin rằng phải cắt phăng khối nọc độc, phần tác phẩm chứa tư tưởng chống chế độ cộng sản của Võ Phiến, thì mới bảo toàn được giá trị sự nghiệp văn học của cha mình.


Những quan niệm lang băm trung cổ như thế vẫn sống sót trong thời hiện đại, nơi văn chương đã lặng lẽ rút lui khỏi ý thức xã hội. Ngày về âm thầm của một tác giả lớn có dấy lên được một chút dư luận cũng chỉ vì tiếng động của dao kéo kiểm duyệt. Trong „trường hợp Võ Phiến”, kiểm duyệt tại gia đã đi trước kiểm duyệt quốc gia.


© 2014 pro&contra




[1] Võ Phiến, Tùy bút, quyển 2, Văn Nghệ, California 1987, tr. 317-318, 323-324




[2] Bất chấp sự tranh cãi về dịch thuật, việc Lolita chính thức xuất hiện trong tiếng Việt là một bước tiến đáng ghi nhận của đời sống văn học tại Việt Nam.




[3] Cả Nhã Nam lẫn NXB Hội Nhà văn đều không đưa thông tin về cuốn sách lên mạng. Lời đồn cuốn sách đã bị thu hồi cũng không được phía nào xác nhận hay bác bỏ.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 17, 2014 15:35

October 15, 2014

Vì sao “Đèn cù” chưa bị chiếu cố?

Thế Thanh


Ngay sau khi tự truyện Đèn cù của Trần Đĩnh ra mắt độc giả, nhiều bài viết nhận định xuất hiện trên mạng với những phần trích dẫn đi kèm. Tôi đọc và thắc mắc tại sao một cuốn sách với nội dung “phản động” như thế, cho dù được xuất bản ở nước ngoài, nhưng bản thân tác giả đang ở trong nước, vậy mà vẫn yên thân, không hề hấn gì. Ba ngày vừa qua, bỏ thời gian đọc trọn cuốn sách này, thắc mắc của tôi đã có phần được giải toả.


1. Trong toàn bộ tự truyện, Trần Đĩnh đã cho thấy rất nhiều lấm lem của một số phần tử trong Đảng, những sai lầm của các nhân vật chóp bu, hoặc lưu manh côn đồ hoặc hèn nhát không dám chống lại cái sai, đã gây ra bao oan khuất, đổ máu, chiến tranh dẫn đến cái chết của mấy triệu mạng người. Kể cả sau khi nội chiến tương tàn kết thúc, vì Trung Quốc đã đạt được mục đích, thì con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa của Việt Nam vẫn không suy suyển, vẫn là đói rách, nghèo nàn, lạc hậu mở rộng ra cho cả nước từ Bắc chí Nam. Đã có bài viết trên mạng nhận định rằng, những gì về sự kiện lịch sử, thậm chí những cái gọi là “thâm cung bí sử” Trần Đĩnh cung cấp cho độc giả trong Đèn cù không mới, đã có nhiều người đề cập đến rồi. Quả thật nhận xét trên cũng có phần đúng. Nhưng cái công lớn của tác giả ở đây là đã thu gom rất nhiều những dữ kiện, chi tiết, rồi sắp xếp và trình bày cho độc giả theo cái logic tự truyện riêng của ông. Thêm nữa, khi dám liều công khai nói ra những sự thật bằng một tác phẩm, tác giả góp phần làm cho nhiều người bớt sợ hơn, dám bộc lộ ra cái chính kiến của mình. Riêng với Đảng, tác giả dù sao cũng có công giúp Đảng công khai cho dân chúng một số phần tử lấm lem (thực tế cũng đã chết), để dụ yên lòng dân. Bằng cách đó, Đảng muốn dân chúng thấy Đảng xem ra rất có thiện chí chỉnh đốn nội bộ, nghiêm túc “phê và tự phê”.


2. Có một điểm mấu chốt, mà theo tôi, Trần Đĩnh chưa chỉ ra được hoặc chưa dám chỉ ra: đâu là nguyên nhân đưa Đảng đến sai lầm, với hậu quả đẩy dân tộc này vào đường cùng, khốn khổ suốt 84 năm, mà cho đến tận hôm nay vẫn chưa sao thoát ra được. Tôi tìm thấy điểm mấu chốt ấy trong truyện ngắn “Cha tôi, tôi và con trai”, Tạ Duy Anh chỉ ra rất rõ cái nguyên nhân đẻ ra hàng triệu, hàng triệu “Lão Khổ” chính là cái thứ rất thối ở trong bình, có “cả thịt chuột, thậm chí thịt người chết đói”. Khốn nạn là cái thứ rất thối ấy, những câu chuyện bịa được đặt tên là chân lý, chính nghĩa ấy, lại được những tín đồ của nó sùng bái là đỉnh cao trí tuệ, là lương tâm nhân loại, là kiến trúc thượng tầng để xây dựng thiên đàng tại thế. Khốn nạn hơn, những tín đồ ấy “đã tin quá lâu vào những câu chuyện bịa, bởi những kẻ thiếu lương tâm, rồi lại tự bịa chuyện để huyền thoại hoá câu chuyện bịa đó.” Người ta đổ tội cho cái bình, nhưng thật ra cái bình chỉ có nhiệm vụ huyền thoại hoá câu chuyện bịa kia, có nhiệm vụ bảo vệ, giữ cái thứ thối ấy trong bình, phân phát, dụ dỗ, bắt ép mọi người phải ngửi, phải dùng nó. Ai ngu ngơ không biết hoặc cố tình ăn phải sẽ đau bụng, ỉa chảy. Những thứ được tuôn ra sau khi đã thu nạp cái thứ thối, thứ bịa kia là gì? Trần Đĩnh chỉ ra trong tự truyện của ông, đó là những khẩu hiệu: “Bạo lực cách mạng”, “Chính quyền ra từ nòng súng”, “Ba dòng thác cách mạng”, v.v.. Thật ra thì bây giờ người ta cũng đã nhìn nhận các thứ thối loại hai này không dùng được nữa. Một ví dụ mới đây, người ta cũng đã phải sửa “giải phóng thu đô” thành “tiếp quản thủ đô”. Trong tác phẩm, tác giả Trần Đĩnh nhắc nhiều đến Bất khuất với phần tự hào vì đã cố tránh không kích động hận thù, không cổ vũ chiến tranh. Nhưng tác giả lại không đề cập đến hậu quả khốc hại, đó là người ta lợi dụng nó để xúi giục, kích động bao lớp thanh niên “bất chấp” một cách ngây thơ, đâm đầu tìm cái chết vô nghĩa cho mình và cho người khác. Người chỉ đạo viết Bất khuất, rồi kiểm duyệt, chỉ thị in ấn và phát không nó (210.000 cuốn, trong đó phát riêng cho quân đội là 160.000 cuốn, tr. 291) lẽ nào lại không có ý đồ gì. Theo tôi, Bất khuất đã được người ta dùng như một thứ gia vị nêm nếm cho cái chất trong bình kia, nhằm đánh lừa vị giác, lôi kéo thanh niên xơi cái chất ấy vào, rồi tự nguyện thí mạng mình để “ba dòng thác cách mạng” thành công.


3. Giờ nói về cái bình. Những chi tiết tác giả cung cấp trong sách cũng đụng chạm đến nhiều nhân vật (phần lớn đã chết), kể cả giải huyền thoại cụ Hồ, nhưng tựu chung vẫn chỉ là vạch ra những sai lầm cá nhân. Còn đối với tập thể cái bình, tác giả dù bị khai trừ, nhưng xem ra vẫn còn cúi rạp trước cái bình ấy một cách rất cung kính, thành khẩn. Khi dính vào vụ án xét lại, tác giả chỉ dám dừng lại ở mức độ tìm cách kêu oan cho mình và cho bạn bè. Trong suốt câu chuyện tả buổi làm việc với an ninh A25 vào năm 1990 (tr. 547 tt), mọi lý luận, trưng dẫn của tác giả với an ninh chỉ nhằm một mục đích duy nhất là chứng minh những góp ý của mình cho Đảng lúc ấy là thành khẩn, là đúng đắn, và Đảng kết tội như vậy là oan sai. Trong câu chuyện, tác giả cũng đề cập đến nội dung một lá thư cá nhân thăm hỏi của Lê Đức Thọ gửi cho vợ của một nhân vật bị án xét lại, trong đó, Trưởng ban chuyên án của 24 năm về trước, phần nào nhìn nhận “nhóm xét lại” bị oan (tr. 545 tt). Có lẽ nhờ Đảng Cộng sản cai trị, mà tự điển Việt Nam phong phú thêm từ “dân oan”! Nếu có dân chủ thực sự, Trần Đĩnh có quyền kiện các cá nhân và cả cái tập thể kia ra toà vì tội vu khống, bôi nhọ, gây thiệt hại vật chất, tinh thần cho ông, v.v., chứ không phải là chắp tay vái lạy, khẩn khoản cái tập thể kia giải oan cho mình. Nếu là một xã hội dân chủ, cái tập thể kia sau khi thua kiện, phải bồi thường cả danh dự lẫn vật chất cho người ta và những cá nhân liên hệ phải vào tù vì những sai lầm đã gây ra. Nếu không làm được như vậy, thì cái tập thể kia đáng phải từ bỏ quyền lực mà nhường việc lãnh đạo đất nước cho người khác có trí tuệ và lương thiện hơn. Có lẽ Trần Đĩnh cũng chưa dám nghĩ đến như Tạ Duy Anh rằng để cho đất nước này tiến lên được, thì phải “chôn chúng [cái bình] xuống gốc khế”.


4. Đặc điểm của nhóm xét lại, trong đó có Trần Đĩnh, là kịch liệt chống Mao và những người có tư tưởng ủng hộ Mao trong cái bình made in Vietnam. Tác giả bộc bạch, ông không đứng về phe Liên Xô để chống Mao, chỉ đơn giản là ông chống chiến tranh và cổ vũ cho đối thoại để tiến tới thống nhất hai miền trong hoà bình và không đổ máu. Đèn cù ra đời với một quan điểm ôn hoà vào thời điểm này xem ra là có lợi cho Trung Quốc, và sẽ được Trung Quốc, cùng những người thân Trung Quốc chớp thời cơ tận dụng triệt để. Hơn lúc nào hết, Trung Quốc đang cần những chất xúc tác xoa dịu sự phẫn nộ của người Việt sau vụ giàn khoan HD-981. Nếu Bất khuất đã đóng trọn vai trò lịch sử của nó theo đúng ý đồ của Mao kích động chiến tranh, cả thế giới chống Mỹ, thì tôi cũng e ngại rằng Đèn cù cũng đang, có thể là vượt ra ngoài ý muốn tác giả, đóng một vai trò lịch sử khác theo rất đúng ý đồ thế hệ thứ ba của Mao – vừa đi cướp của, vừa hô hào chung sống hoà bình.


5. Vẫn chưa thực sự đụng chạm, phê phán cái chất bốc mùi chứa ở trong bình, vẫn còn toàn vẹn cái sự cung kính cái bình, vô tình hay hữu ý góp phần hạ hoả bầu khí chống Trung, đó là ba lý do, theo tôi, khiến Đèn cù chưa bị chiếu cố và tác giả của nó vẫn bình an. Cũng như nhiều người, tôi đang nhờ đợi đọc quyển thứ hai của tác giả, mà như được giới thiệu, là sẽ có nhiều cái mới. Hy vọng rằng, những điều tôi nói trên đây – cái bình và cái chứa ở trong bình, sẽ được bàn đến trong tập hai. Mà nếu rộng hơn nữa, là bàn cả lũ chuột chạy quanh cái bình. Lũ chuột này rất khôn, chỉ khi nào gặp nguy hiểm, chúng mới chạy vào ẩn nấp tạm trong bình. Còn bình thường, chúng chả dại ở trong bình, vì trong đó rất thối, tối tăm và ngột ngạt. Chỉ chờ cái sự hù doạ bên ngoài kia xẹp xuống, chúng túa ra hít thở khí trời và nhăng nhít kiếm ăn ngay.


© 2014 Thế Thanh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 15, 2014 17:00

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.