Phạm Thị Hoài's Blog, page 9
December 4, 2014
Tử tù Claude Gueux (1)
Victor Hugo
Phạm Hồng Sơn dịch và chú thích
Lời giới thiệu của người dịch
Có thể nói dấu hiệu trung thực nhất của một hệ thống luật pháp đã bị tha hóa là tử tội hoàn toàn thản nhiên trước cái chết do luật pháp thi hành. Nhưng dấu hiệu đó cũng cho thấy một tín hiệu tích cực: lý trí và phẩm cách của xã hội đó chưa hoàn toàn cúi đầu trước tử thần hay sự tha hóa của luật pháp. Sự tích cực đó sẽ còn tích cực hơn nếu thái độ khinh thường “công lý” như thế đánh động được dư luận xã hội cho những cải cách có thể về hệ thống luật pháp/chế độ chính trị. Vì vậy, có thể nói công lý là cha và cũng là con của luật pháp. Và cả hai thứ đó đều là con và đồng thời cũng gần như là cha của con người.
Claude Gueux, sáng tác văn học của Victor Hugo năm 1834, đã đề cập mối quan hệ tay ba phức tạp, tương hỗ vừa nói qua một câu chuyện cụ thể dựa trên một sự kiện có thật: Tháng 11 năm 1831 trong một nhà tù lớn tại Troyes, vùng gần Paris, một tù nhân đã giết chết một cai tù trước sự tán đồng, hả hê của đám đông bạn tù. Kẻ sát nhân tù nhân đó, cố nhiên không thể thoát được cơn thịnh nộ của nhà chức trách, đã bị luật pháp kết án tử hình và bị hành quyết gần như ngay lập tức. Nhưng Victor Hugo không nhìn vụ việc bằng con mắt lạnh lùng của luật pháp đương thời, Claude Gueux đã đặt lại vụ việc trên những bình diện lớn hơn: trách nhiệm xã hội, bản thể con người, đạo đức, giáo dục, luật pháp và cả niềm tin tôn giáo.
Claude Gueux, về lượng chữ, là một tác phẩm rất mỏng so với hai tác phẩm đồ sộ nổi tiếng khác của Victor Hugo, Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre Dame de Paris) và Những người khốn khổ (Les Misérables). Nhưng về triết lý nhân sinh, ý nghĩa xã hội, tâm lý nhân vật, cũng như tinh thần nhân văn cao cả, Claude Gueux chưa hẳn đã mỏng hơn hai tác phẩm đồ sộ kia, nếu không muốn nói chính Claude Gueux (Claude Khốn Cùng) là bà đỡ cho Les Misérables (Những người khốn khổ) ra đời gần 30 năm sau.
Có lẽ linh hồn, nếu ta tin là có linh hồn, của nhân vật chính trong Claude Gueux sẽ thanh thản hơn, siêu thoát hơn nếu độc giả hôm nay, thay vì ngậm ngùi hay rơi nước mắt trong khi đọc tác phẩm, nhận được rõ hơn nguyên nhân của những bất cập, bất nhân trong hệ thống pháp luật hiện tại và, cũng không im lặng hay cúi đầu khuất phục.
___
Cách đây chừng bảy hoặc tám năm, ở Paris có một gã thợ nghèo tên là Claude Gueux. Gã sống cùng một cô gái, cũng là người hầu, và một đứa bé con của cô ta. Tôi sẽ kể lại các việc như chúng đã xảy ra rồi độc giả thu lấy những đạo đức đã được gieo trên đường đi của chúng. Claude là một thợ giỏi, hoạt bát, lanh trí, bị nền giáo dục khinh miệt nhưng được tự nhiên ưu ái, không biết đọc nhưng rất biết nghĩ. Một mùa đông buốt giá, mất việc, trong hốc trọ thuê áp mái của gã hết sạch cả lửa lẫn bánh. Gã ta, cô gái và đứa trẻ co ro trong đói, rét. Claude đi ăn trộm. Tôi không biết gã đã trộm gì và trộm ở đâu, chỉ biết vụ trộm đã mang lại bánh mỳ cùng lửa ấm cho người đàn bà và đứa bé trong ba ngày, và năm năm tù cho gã.
Gã bị đưa tới nhà tù trung tâm Clairvaux để thi hành án. Clairvaux nguyên là một tu viện cổ đã được cải thành ngục thất, những buồng nguyện thành hầm giam người, còn bàn thờ thành cột trói bêu tù.
Khi chúng ta nói về tiến bộ nghĩa là khi đó chỉ có một số người hiểu và thực thi điều này mà thôi. Chính đó là cái bị ẩn giấu trong ngôn từ của chúng ta.
Xin tiếp tục.
Tới nơi, ban đêm Claude bị đưa vào ca-sô [1], ban ngày đưa vào xưởng. Nhưng xưởng không phải là cái tôi phàn nàn.
Claude Gueux, gã thợ ngay thật đã thành tên trộm, là một người nghiêm túc, trọng liêm sỉ. Gã có cái trán cao với những nếp nhăn trước tuổi, có những ánh bạc lấp ló trong mái tóc đen, đôi mắt hiền, mạnh mẽ ẩn sâu dưới cung mày đẹp, hai lỗ mũi rộng khoáng đạt, chiếc cằm kiêu hãnh nhô về trước với đôi môi ngạo nghễ ở trên. Một cái đầu đẹp. Nhưng rồi chúng ta sẽ thấy xã hội đối xử ra sao với tướng mạo đẹp đẽ này.
Gã ít nói, thường dùng cử chỉ nhiều hơn, nhưng con người gã có một cái gì đó đầy uy lực khiến người khác phải tuân phục. Gã có cái vẻ trầm tư của nghiêm nghị hơn là đau khổ. Nhưng gã đã chịu nhiều khổ đau.
Nơi Claude Gueux bị giam cầm có một giám quản xưởng tù, một loài công chức dành riêng cho nhà tù. Loại người này có phẩm chất của cả cai tù lẫn chủ xưởng, vừa thúc được thợ vừa hăm được tù, vừa đặt được vào tay bạn cái cưa và cúi xuống luồn cho hai chân bạn đôi xiềng. Giám xưởng của Claude Gueux còn là một biến dị của loài công chức đó. Cộc lốc, độc đoán, bảo thủ, luôn luôn áp chế. Tuy nhiên, đôi lúc ông ta cũng tỏ ra gần gũi, thân thiện, thậm chí còn vui vẻ, bông đùa. Con người ông ta có chất nhẫn tâm nhiều hơn chất thô cứng. Đặc biệt ông ta không thích lý luận, tranh cãi với ai, kể cả với bản thân. Ông ta là một người cha, người chồng tử tế theo cái nghĩa trách nhiệm, không phải theo nghĩa phẩm hạnh. Ngắn gọn, ông ta không ác nhưng tồi. Ông ta thuộc dạng người không có gì có thể rung động, co giãn. Một con người được cấu tạo bằng những phân tử bất động, trơ ỳ trước mọi ngôn từ, tình cảm. Là loại người có những cơn giận băng giá, có những mối hận u uất, những phẫn nộ vô cảm, khiến cho lửa căm hờn bùng lên mà không tỏa hơi nóng giận, có thể ví với một thanh gỗ dày một đầu đã cháy rực mà đầu kia vẫn lạnh ngắt. Tất cả mọi nẻo chính, phụ trong bản đồ tính khí của ông ta đều tiến tới một điểm: chai lỳ. Ông ta tự hào về điểm ấy và có ý tự sánh mình với Napoléon. Đó chỉ là một ảo tưởng quang học, như nhiều người đôi lúc đã nhầm chai lỳ với nghị lực, hay đã tin một ngọn nến là một vì sao. Mỗi khi con người này định làm một chuyện vô lý mà ông ta gọi là ý chí, ông ta sẽ ngẩng cao đầu đạp qua mọi ngáng trở để đi tới cùng sự vô lý. Kiên định không trí lực, sự ngu dại nối thêm ngu dốt phụng sự ông ta. Và phụng sự đắc lực. Nhưng nói chung, khi một thảm họa, dù công hay tư, đổ xuống đầu chúng ta, nếu quan sát kỹ đống đổ nát và soi xét kỹ quá trình diễn ra, ta sẽ gần như luôn thấy thủ phạm là một kẻ có trí óc bình thường nhưng ương ngạnh, kẻ rất tự tin và tự phụ. Thế gian vẫn có những cái đầu đặc ngang bướng như thế nhưng tự tưởng là thiên tài.
Đó là tất cả những gì thuộc về bản tính lão giám xưởng tại nhà tù trung tâm Clairvaux. Đó cũng là cách xã hội đều đặn chà đạp lên tù nhân làm phát ra những tia lửa nhỏ căm hờn. Tia lửa của nhiều viên đá lửa giống nhau cọ vào những viên sỏi giống nhau thường làm thành đám cháy.
Khi tới Clairvaux, Claude Gueux được đánh số ngay rồi được đưa vào xưởng giao việc. Giám xưởng tới gặp Claude, nhận ngay ra gã là một tay thợ cừ và xử sự tử tế với gã. Thậm chí có một lần nhân lúc trong người dễ chịu và lại trông thấy Claude quá buồn, vì gã luôn nhớ tới người đàn bà gã vẫn gọi là vợ, lão giám kể cho Claude nghe, vừa để cho khuây khỏa thời gian vừa để vỗ về Claude, rằng cái ả bất hạnh đó đã đi làm điếm rồi. Claude im lặng, lạnh lùng hỏi về đứa trẻ, lão giám nói không biết.
Sau vài tháng, Claude quen dần với nhà tù và có vẻ không còn nghĩ ngợi thương nhớ điều gì nữa. Thay vào đó là một sự thâm trầm nghiêm nghị rất riêng biệt.
Rồi thêm một thời gian nữa, Claude trở thành một người có uy thế đặc biệt đối với tất cả các tù của xưởng. Như có một cam kết ngầm mà không ai biết vì sao, kể cả Claude, tất cả thường hỏi ý kiến gã, lắng nghe gã, khâm phục và làm theo ý gã – cấp độ cuối cùng của ngưỡng phục. Đây không phải là loại tuân phục bình thường từ những con người cùng có bản năng bất phục. Đối với Claude, cái đế chế đó là một bất ngờ. Nhưng thật ra nó đã nằm ngay trong ánh mắt khi gã nhìn mọi người. Mắt chính là cửa sổ để người khác trông thấy những suy tư, hiểu được những ý định trong đầu của một người.
Để một người luôn tràn trề ý kiến, tư tưởng trong đầu cùng sống với những người không có gì trong đầu, sau một thời gian và do qui luật hấp dẫn, những cái đầu tăm tối cũng sẽ dần dần, một cách khiêm nhường và quí trọng, châu quanh cái trí não tỏa sáng. Đã có những con người là sắt thì cũng có những con người là nam châm. Claude là một thanh nam châm mạnh.
Chưa tới ba tháng Claude đã trở thành linh hồn, luật pháp và thành người ấn định trật tự cho cả xưởng. Mọi việc, mọi người đều răm rắp hành động nhịp nhàng theo chỉ đạo của gã. Có lúc gã còn không chắc gã đang là vua hay là tù nữa. Tình trạng đó giống như kiểu một giáo chủ bị giam cầm cùng cả tăng đoàn. Nhưng đương nhiên, được tù yêu thì phải bị cai tù ghét, sự song hành tất yếu. Luôn luôn thế. Nổi tiếng không bao giờ không sánh cùng bài bác. Vị ngọt thương yêu từ người nô lệ luôn phải kèm thêm chất đắng ác cảm của chủ nô.
Một trong những cấu tạo đặc biệt của cơ thể Claude là gã rất phàm ăn. Khẩu phần hàng ngày của hai người đàn ông có sức vóc bình thường chỉ vừa vừa đủ cho cái dạ dày của gã hoạt động cầm chừng trong ngày. Đối với người sung túc ăn khỏe là cơ hội để rót thêm vui sướng cho đời, nhưng ăn khỏe là nỗi khổ của đám thợ nghèo, là điều bất hạnh cho lũ tù nhân.
Khi còn ở ngoài, Claude quần quật suốt ngày, kiếm được mỗi ngày đến 2 cân bánh mỳ, Claude xơi hết. Trong tù, cũng quần quật cả ngày nhưng khẩu phần cho tù chỉ được chừng 8 lạng bánh và khoảng 1 lạng thịt. Đã là khẩu phần thì không thể thay đổi.
Claude thường xuyên đói trong nhà tù Clairvaux. Gã đói và đói, thế thôi. Claude không nói gì. Tính gã thế.
Một hôm, vừa ngấu nghiến xong hết phần ăn của mình Claude ngồi ngay vào làm việc hòng đánh lừa cái đói, trong khi các tù khác vẫn còn rộn rã ăn uống. Bỗng một thanh niên trắng trẻo, thanh mảnh, tay cầm phần ăn vẫn còn nguyên và con dao ăn, đến gần Claude. Cậu thanh niên cứ đứng im cạnh Claude, nửa muốn nói điều gì, nửa không dám. Chàng trai, chiếc bánh, và miếng thịt làm Claude không chịu nổi.
“Cậu muốn gì?”
“Tôi muốn anh giúp tôi một việc.” Cậu thanh niên rụt rè trả lời.
“Việc gì?”
“Giúp tôi cùng ăn suất này. Đối với tôi nhiều quá.”
Một giọt nước tràn qua trong con mắt kiêu hãnh của Claude. Gã cầm lấy dao, chia đôi suất ăn ra làm hai phần bằng nhau, cầm lấy một phần rồi ăn.
“Cám ơn”, cậu tù trẻ nói. “Nếu anh muốn, chúng ta hàng ngày sẽ chia nhau như thế này.”
“Cậu tên gì?” Claude lên tiếng.
“Trắng.”
“Sao cậu lại ở đây?”
“Tôi đã ăn trộm.”
“À, tớ cũng vậy.”
Bọn họ từ đó cùng chia nhau như thế mỗi ngày. Claude 36 tuổi nhưng nhiều lúc có cái vẻ của người đã 50 vì gã lúc nào trông cũng suy tư, nghiêm túc. Trắng mới có hai mươi nhưng mọi người lại nghĩ chỉ mới mười bảy vì tay ăn trộm này có cái nhìn trông quá thơ ngây. Quan hệ giữa hai người đàn ông trở nên thắm thiết. Nhưng sự thắm thiết kiểu tình cha con hơn là tình bạn, vì Trắng vẫn tươi trẻ như một cậu bé mà Claude lại nom như một ông già.
Hai người cùng làm trong một xưởng, cùng ngủ dưới một mái vòm, cùng đi với nhau mỗi khi được đi dạo và cùng ngoạm chung một chiếc bánh. Cả hai say nhau đến mức có cảm tưởng kẻ này là thế giới của kẻ kia. Cả hai ngập tràn hạnh phúc.
Ở trên chúng ta đã nói tới lão giám xưởng, người luôn xét nét tù nhưng lại hay phải nhờ đến Claude mỗi khi muốn tù vâng lời. Đã hơn một lần Claude phải cho giám xưởng mượn cái uy của gã để ngăn không cho rối loạn hay bạo loạn xảy ra. Đúng ra thì phải nói 10 lời của Claude có trọng lượng bằng 10 ông cẩm. Nhiều lần Claude đã phải lên tiếng giúp lão giám. Nhưng trong thâm tâm lão giám xưởng không ưa Claude, lão rất khó chịu với cái cách Claude giúp lão. Lão ghen với tay ăn trộm. Sâu trong tim lão giám đã mọc ra một mối căm thù âm thầm, kình địch không nguôi với Claude. Đó là lòng ghen hận của kẻ có quyền nhưng thiếu uy với một người không có quyền nhưng đầy uy tín. Đó cũng là kiểu hiềm tị của kẻ chỉ có sức mạnh cơ bắp với người sở hữu nhiều uy lực tinh thần.
Những thù hằn đó thuộc hạng thù hằn tai hại nhất của con người.
Nhưng Claude yêu Trắng nhiều chừng nào thì lại thờ ơ với lão giám chừng ấy. Một hôm vào buổi sáng lúc tù nhân xếp hàng từng đôi đi từ chỗ ngủ sang chỗ làm, Trắng đang đứng cạnh Claude thì bị gọi tên ra ngoài để gặp giám xưởng.
“Họ cần gì em?” Claude hỏi.
“Em không biết.”
Trực buồng đưa Trắng đi.
Buổi sáng đã trôi hết, Trắng không thấy về. Đến giờ ăn, Claude hí hửng sẽ gặp Trắng ở trong sân nghỉ. Trắng không có ở đó. Vào lúc tất cả quay lại xưởng cũng không thấy Trắng trong xưởng. Một ngày đã trôi qua. Tối đến, khi mọi người đã vào hết khu ngủ, Claude dò tìm đôi mắt Trắng. Không thấy. Có lẽ đó là lúc khó khăn nhất với Claude, gã không thể chịu đựng được thêm và cất lời hỏi người trực buồng ở ngoài, điều gã chưa bao giờ làm:
“Trắng bị ốm à?”
“Không.” Người trực trả lời.
“Sao hôm nay không về?”
“À, bị chuyển khu khác rồi.” Tiếng trả lời hờ hững.
Những người chứng kiến cảnh hỏi đáp này về sau đã nói rằng ngay sau câu trả lời đó cây nến nhỏ trên tay Claude rung lên nhè nhẹ. Gã bình thản hỏi thêm:
“Ai đã ra lệnh chuyển?”
Người trực đáp: “M.D.”
M.D. là tên của giám xưởng.
Cả ngày hôm sau trôi đi cũng giống ngày hôm trước, không có Trắng.
Tối đến, khi việc sản xuất đã dừng, giám xưởng M.D. bắt đầu đi tuần vòng kiểm tra quanh xưởng như thường lệ. Khi thấy giám xưởng từ xa, Claude bỏ cái mũ len trên đầu xuống, đóng lại các cúc chiếc áo khoác tù màu xám đúng theo qui định khi gặp cai tù, rồi mũ cầm tay đứng thẳng lên ngay lối vào bệ của gã. Giám xưởng vừa đi tới.
“Thưa ông!”
Lão giám dừng lại, nghiêng người.
“Thưa ông”, Claude nói tiếp, “có đúng là Trắng đã bị chuyển khu rồi phải không?”
“Đúng.”
“Ông ơi, tôi cần Trắng để có thể sống được ông ạ.” Claude nói theo, và thêm: “Ông biết là suất ăn của trại không đủ cho tôi, Trắng đã nhường một phần của cậu ấy cho tôi mà ông.”
“Đó là chuyện của nó.” Giám xưởng nói.
“Ông ơi, không có cách nào chuyển lại Trắng về khu này hở ông?”
“Không được. Quyết rồi.”
“Ai quyết?”
“Tao.”
“Thưa ông D., đây là chuyện sống chết của tôi, tất cả phụ thuộc vào ông đấy. Xin ông xem lại.”
“Tao không bao giờ xem lại những cái tao đã quyết.”
“Tôi đã làm điều gì không phải với ông sao?”
“Không!”
“Vậy sao ông lại tách tôi và Trắng ra?”
“Vì.”
Lão giám xưởng chỉ nói thế và đi. Claude gục đầu xuống, im lặng. Đúng là “hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”[2].
Chúng tôi phải nói để quí bạn biết là nỗi buồn chia ly này không hề làm cho thói phàm ăn của Claude trở thành tồi tệ. Gã không thể hiện có một sự thay đổi lớn nào cả. Gã còn không nói với bất kỳ người bạn nào về Trắng. Gã vẫn đi bộ một mình trong sân vào giờ nghỉ và đói. Không có gì hơn.
Tuy nhiên những người gần và hiểu gã nhận thấy một cái gì đó gở gở, u ám cứ hiện dần lên trên khuôn mặt gã mỗi ngày. Ngoài điều đó ra, gã lại có vẻ dễ thương hơn bao giờ hết.
Nhiều người muốn chia suất ăn cho gã nhưng gã từ chối.
Nhưng kể từ lúc nhận được lời giải thích của giám xưởng, tối nào cũng thế Claude đều có một hành động kỳ cục làm tất cả phải ngạc nhiên vì điều đó lại xuất hiện từ một con người rất nghiêm túc. Cứ vào lúc cai xưởng đi tuần qua ngay trước bệ của Claude, Claude đều ngước mắt lên nhìn chằm chằm vào giám xưởng rồi, với một giọng vừa bồn chồn vừa tức giận như kiểu vừa cầu khẩn vừa dọa dẫm, nói chỉ hai từ: Thế Trắng? Lão giám đều giả như không nghe thấy gì hoặc chỉ nhún vai đi thẳng.
Giám xưởng đã phạm sai lầm lớn khi nhún vai, vì tất cả những khán giả xem những cảnh tái diễn kỳ lạ ấy đều thấy rõ trong con người Claude đã có một điều gì được xác quyết rồi. Cả nhà tù đều hồi hộp chờ xem kết cục của cuộc đấu, cuộc đấu giữa chai lỳ với quyết đoán.
Một lần Claude còn nói với giám xưởng:
“Ông ơi, xin ông hãy nghe tôi. Hãy trả lại tôi người bạn, rồi ông sẽ được tốt đẹp, tôi đảm bảo với ông đấy. Hãy ghi nhận cho tôi là tôi đã nói thế rồi ông nhé.”
Một lần khác, ngày Chủ nhật, Claude hai tay ôm trán chống gối, ngồi bất động trên một tảng đá trong sân suốt mấy giờ liền, một bạn tù đến gần vừa cười vừa nói ầm lên:
“Quỉ ơi, làm gì ở đây thế, Claude?”
Claude từ từ ngẩng đầu lên nặng nề:
“Tôi đang xử một người.”
Buổi tối ngày 25/10/1831, vào đúng lúc giám xưởng đi tuần vòng, Claude lấy chân giậm vỡ một mặt kính đồng hồ gã nhặt được ở ngoài hành lang lúc sáng. Tiếng kính vỡ nghiến rờn rợn. Giám xưởng gắt: “Tiếng gì đâu đấy?”
“Không có gì đâu, tôi đấy”, Claude đáp lời. “Ông giám ơi, trả lại tôi Trắng đi, hãy trả lại bạn cho tôi.”
“Không thể được.”
“Nhưng cần phải thế ông ạ”, giọng Claude nhẹ nhàng nhưng quả quyết. Claude nhìn thẳng vào mặt giám xưởng, nói thêm:
“Hãy nghĩ kỹ thêm đi ông ơi. Hôm nay là ngày 25 tháng Mười. Tôi cho ông đến mồng 4 tháng Mười Một đấy.”
Người trực bên ngoài nhắc M.D. rằng Claude đã có ý đe dọa, cần cho gã vào ca-sô ngay.
“Không, không cần”, cai xưởng nhếch mép cười. “Vẫn cần tử tế với loại người đó.”
Hôm sau, lúc Claude đang đi dạo một mình vẻ suy nghĩ quên hết cả những tù khác đang vui đùa dưới mảnh nắng nhỏ ở một góc gần đấy, một bạn tù khác đi đến gần:
“Này, Claude, anh đang nghĩ gì đấy? Trông buồn thế.”
“Tao sợ là sắp có điều gì không hay đang đến với lão M.D. tử tế này mất.”
Trong suốt chín ngày đầy từ 25 tháng Mười đến 4 tháng Mười Một, không ngày nào Claude không nhắc giám xưởng về nỗi đau ngày càng đau của gã do mất Trắng. Quá mệt vì những lời van nài giống như thúc lệnh, lão giám xưởng một lần cũng phải tống Claude vào ca-sô trong 24 giờ. Nhưng tất cả chỉ có thế.
Ngày 4 tháng Mười Một đã tới. Sáng ra mọi người thấy Claude trở dậy với một vẻ mặt thanh thản đặc biệt chưa bao giờ thấy kể từ ngày giám xưởng quyết định chia ly gã với người bạn. Vừa dậy, Claude lục ngay chiếc hòm gỗ mộc đựng đồ dưới chỗ ngủ. Gã lôi ra một cái kéo may và một cuốn Emile [3] sờn cũ. Đó là những kỷ vật duy nhất còn lại từ người đàn bà yêu thương của gã, người mẹ của con gã và của cái hốc trọ đầm ấm trước đây. Nhưng cả hai vật đều vô dụng đối với Claude. Kéo chỉ dùng cho phụ nữ, sách cho kẻ biết đọc. Claude không biết vá may cũng không biết đọc.
Lúc đi qua khu vực từng là nơi cầu nguyện nay đã bị quét vôi trắng và chuyển thành khu đi dạo cho tù vào mùa đông, Claude đến gần một bạn tù đang nhìn chằm chằm vào những song sắt to tướng ở chiếc cửa kính trên cao, gã chìa chiếc kéo nhỏ ra cho người bạn nhìn thấy rồi nói:
“Tối nay tao sẽ cắt những chấn song đó bằng chiếc kéo này.”
Người bạn ngớ người ra rồi phá ra cười. Claude cũng cười phá theo.
Sáng hôm đó Claude làm việc hăng hơn ngày thường. Chưa bao giờ gã lại làm nhanh và chuẩn đến thế. Gã như phải bằng mọi giá hoàn thành cho bằng được ngay trong buổi sáng chiếc mũ rơm mà người khách giàu có và tử tế đã trả tiền trước cho gã. [4] Trước giờ nghỉ trưa, Claude lấy cớ và đi xuống xưởng mộc ở ngay phía dưới. Đó cũng là nơi gã được mọi người yêu quí như những nơi khác nhưng gã ít khi lui tới.
“Này, Claude đến này.”
Mọi người chạy tới xúm quanh Claude, chuyện trò râm ran như hội. Claude đảo nhanh mắt một vòng, không thấy một bóng cai tù cảnh giới.
“Ai có rìu thì cho tôi mượn nào.” Claude nói.
“Làm gì thế?”
Gã nói: “Tối nay giết giám xưởng.”
Mọi người xúm đến đưa đủ loại rìu ra cho Claude chọn. Cuối cùng, gã lấy cái nhỏ nhất có lưỡi rất bén, giấu vào trong quần và đi ngay. Ở đó có tất cả 27 tù. Gã không nói với ai phải bí mật, nhưng tất cả đều giữ kín.
Họ thậm chí còn không nói gì về chuyện đó với nhau nữa.
Ai cũng tự chờ cái sẽ đến. Ghê rợn, thẳng thắn và đơn giản. Sẽ không thể có trục trặc. Claude không phải là người có thể khuyên nhủ hay chê trách được.
Một giờ sau, gã đi đến chỗ một bạn tù trẻ mới có 16 tuổi đang ngồi ngáp trong khu đi dạo và nói cậu ta nên học chữ đi. Cũng lúc đó, một bạn tù khác tiến sát vào Claude hỏi giấu cái quỉ gì trong quần đấy, Claude nói:
“Rìu để giết M.D. tối nay. Lộ à?”
“Hơi thôi.”
Mọi việc khác đều diễn ra giống như mọi khi. Đúng 7h tối, các tù bị nhốt lại trong mỗi khu ứng với một xưởng. Các cai tù giám sát cánh thợ tù cũng phải đi ra ngoài cho tới khi giám xưởng đi tuần xong một vòng.
Thành ra Claude Gueux với các bạn tù khác cùng nghề đều bị nhốt chung lại trong cùng một xưởng.
Trong cái xưởng đó đã xảy ra một cảnh dị thường, vừa trang nghiêm vừa kinh hãi, một cảnh hi hữu chưa có trong sử sách.
Ở đó, như cáo trạng đã tuyên trước đây, có tất cả 82 kẻ ăn trộm, kể cả Claude.
Khi các cai tù vừa ra ngoài để mặc tù nhân ở lại với nhau, Claude đứng thẳng lên trên bệ của mình, thông báo cho cả phòng biết gã có điều cần nói. Tất cả im phăng phắc. Claude lên giọng:
“Tất cả anh em đều biết Trắng là em tôi. Suất ăn của trại không đủ cho tôi ăn. Kể cả số tiền tôi kiếm được chỉ để mua thêm bánh, cũng không đủ. Trắng đã chia bớt suất của cậu ấy cho tôi. Tôi yêu quí cậu ấy trước hết là vì cậu ấy đã nuôi tôi và sau nữa là do tình cảm của cậu ấy đối với tôi. Lão giám xưởng M.D. đã chia li chúng tôi. Lão làm điều đó chỉ vì chúng tôi đã quyến luyến nhau. Đó là một con người ác độc, hả hê khi làm kẻ khác đau khổ. Tôi đã xin lão nhiều lần trả lại Trắng cho tôi. Anh em thấy không? Lão không muốn điều đó. Tôi đã để hạn cho lão tới ngày 4 tháng Mười Một lão phải đem Trắng về đây. Nhưng lão lại cho tôi vào ca-sô. Còn tôi, trong chín ngày đó tôi đã dành để xét xử lão và đã kết án: tử hình. [5]* Hôm nay 4 tháng Mười Một. Hai giờ nữa lão sẽ tới. Tôi xin báo để mọi anh em biết tôi sẽ giết lão. Anh em thấy thế nào?”
Tất cả nín lặng.
Claude tiếp tục nói với sự rung động, thuyết phục một cách tự nhiên đặc biệt. Gã nói gã biết rõ gã sắp thực hiện một hành động bạo tàn nhưng gã không tin là gã sai. Gã đang tự thẩm tra với lương tâm của 81 kẻ ăn trộm.
Phải chăng gã đang cực đoan một cách thô thiển?
Người ta phải tự định đoạt lấy công lý mỗi khi bị lâm vào đường cùng?
Không thể lấy đi mạng sống của lão giám nếu không phải tự trả bằng sinh mạng của mình, nhưng rất nên đổi sinh mạng của gã để lấy một sự công bằng?
Gã đã nghĩ thật chín trong hai tháng qua chưa?
Gã có chắc gã đã không để lòng hận thù xui khiến và nếu là như thế gã đã khẩn cầu mọi người hãy ngăn chặn gã?
Gã đã thành thật để những người công chính quanh gã biết rõ suy nghĩ của gã?
Gã quyết giết M.D. nhưng nếu có người phản đối, gã sẽ lắng nghe?
Chỉ có một người lên tiếng nói rằng trước khi hành động cần phải thử thêm một lần cuối, nói lại với giám xưởng để lão nghĩ lại xem sao.
“Đúng vậy, tôi sẽ làm như thế”, Claude đáp.
Chiếc đồng hồ lớn đánh tám tiếng. Giám xưởng sẽ tới lúc 9h.
Sau khi cái tòa phá án [6] đặc biệt đó phê chuẩn xong bản án gã đã tuyên, Claude lại có một vẻ hoàn toàn thanh thản. Gã đặt lên chiếc bàn nhỏ tất cả những đồ đạc khốn khổ của mình rồi chia hết cho từng người theo thứ tự tình yêu thương gã xếp sau Trắng. Gã chỉ giữ lại cho mình cây kéo may nhỏ nhắn.
Rồi gã ôm hôn từng người. Một vài người bật khóc, gã mỉm cười nhìn họ.
Trong những khoảnh khắc của giờ cuối cùng gã còn làm cho cả buồng nhiều lúc phải lặng đi và nhiều lúc lại náo nhiệt, làm nhiều người âm thầm hy vọng, như họ từng nghĩ, có thể gã sẽ thôi cái quyết định ghê gớm ấy. Có lúc gã còn đùa cợt bằng cách dùng lỗ mũi to tướng của mình thổi tắt phụt một ngọn nến trong cái buồng vốn đã tối om. Sự giáo dục kém cỏi đôi khi cũng gây phiền toái cho phẩm cách trong sáng của gã. Không gì có thể làm cho con người đường phố của gã mất hết ngay được những mùi vị của phố xá.
Thoáng thấy một người trẻ yếu ớt đang run rẩy nhìn dán vào gã vì sợ những gì sắp xảy ra.
“Nào, can đảm lên, người bạn trẻ. Nhanh thôi mà, chỉ một loáng thôi.” Claude trấn an.
Khi chia xong tất cả đồ vật, gã chia tay, bắt tay từng người, gã nói với mọi người không được lo lắng gì nữa và yêu cầu tất cả trở lại như bình thường. Sự tuân thủ lẳng lặng được thực thi.
(Còn 1 kì)
Nguồn: Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: Claude Gueux, Le livre de Poche, Libretti, Paris 2012. Các chú thích của người dịch có tham khảo chú thích của sách vừa dẫn. Độc giả có thể xem bản tiếng Pháp điện tử: Claude Gueux
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Hồng Sơn & pro&contra
[1] Nơi giam đặc biệt, diện tích rất nhỏ thường chỉ đủ một người nằm, đóng kín, ngột ngạt, tối tăm và ẩm thấp, có thể ở dưới lòng đất. Nguyên văn: “cachot”.
[2] Nguyên văn “Pauvre lion en cage à qui l’on ôtait son chien” (con sư tử tội nghiệp ở trong cũi bị người ta lấy đi con chó của nó).
[3] Emile – tên tác phẩm nổi tiếng của Jean-Jacques Rousseau ra mắt năm 1762, bàn về phương pháp giáo dục mới mang tính phổ thông, nhân đạo, quan tâm, không cưỡng ép, hòa đồng với thiên nhiên.
[4] Trong các nhà tù Pháp đương thời, thu nhập từ các sản phẩm do tù nhân làm ra được chia làm ba phần bằng nhau: một phần cho nhà tù, một phần cho tù nhân sử dụng ngay, một phần giữ lại để giao cho tù nhân lúc được trả lại tự do.
[5]* Đúng theo văn bản. (Ghi chú của Victor Hugo)
[6] La cour de cassation: theo hệ thống tư pháp của Pháp, đây là một trong những cấp tòa có thẩm quyền cao nhất về tư pháp nhằm thẩm tra lại mọi phán quyết của các tòa trước đó, nhưng chỉ xem xét về phương diện áp dụng luật đúng/sai, không xem xét lại tình tiết, sự kiện (faits; facts). Tòa này được lập năm 1790, thời Cách mạng Pháp. Nhưng la cour de cassation, không giống với một số supreme court (pháp viện tối cao) theo hệ thống common law (thông luật), chỉ có thẩm quyền tối cao đối với các vụ việc dân sự (civil) và hình sự (criminel/criminal) nghĩa là việc xem xét tối hậu (appel final/final appeal) cho các vụ việc hành chính (administrative) thuộc một thiết chế khác là Conseil d’Etat (Hội đồng Nhà nước) và xem xét tính hợp hiến thuộc Conseil Constitutionel (Hội đồng Hiến pháp).
Tử tù Claude Gueux
Victor Hugo
Phạm Hồng Sơn dịch và chú thích
Lời giới thiệu của người dịch
Có thể nói dấu hiệu trung thực nhất của một hệ thống luật pháp đã bị tha hóa là tử tội hoàn toàn thản nhiên trước cái chết do luật pháp thi hành. Nhưng dấu hiệu đó cũng cho thấy một tín hiệu tích cực: lý trí và phẩm cách của xã hội đó chưa hoàn toàn cúi đầu trước tử thần hay sự tha hóa của luật pháp. Sự tích cực đó sẽ còn tích cực hơn nếu thái độ khinh thường “công lý” như thế đánh động được dư luận xã hội cho những cải cách có thể về hệ thống luật pháp/chế độ chính trị. Vì vậy, có thể nói công lý là cha và cũng là con của luật pháp. Và cả hai thứ đó đều là con và đồng thời cũng gần như là cha của con người.
Claude Gueux, sáng tác văn học của Victor Hugo năm 1834, đã đề cập mối quan hệ tay ba phức tạp, tương hỗ vừa nói qua một câu chuyện cụ thể dựa trên một sự kiện có thật: Tháng 11 năm 1831 trong một nhà tù lớn tại Troyes, vùng gần Paris, một tù nhân đã giết chết một cai tù trước sự tán đồng, hả hê của đám đông bạn tù. Kẻ sát nhân tù nhân đó, cố nhiên không thể thoát được cơn thịnh nộ của nhà chức trách, đã bị luật pháp kết án tử hình và bị hành quyết gần như ngay lập tức. Nhưng Victor Hugo không nhìn vụ việc bằng con mắt lạnh lùng của luật pháp đương thời, Claude Gueux đã đặt lại vụ việc trên những bình diện lớn hơn: trách nhiệm xã hội, bản thể con người, đạo đức, giáo dục, luật pháp và cả niềm tin tôn giáo.
Claude Gueux, về lượng chữ, là một tác phẩm rất mỏng so với hai tác phẩm đồ sộ nổi tiếng khác của Victor Hugo, Nhà thờ Đức Bà Paris (Notre Dame de Paris) và Những người khốn khổ (Les Misérables). Nhưng về triết lý nhân sinh, ý nghĩa xã hội, tâm lý nhân vật, cũng như tinh thần nhân văn cao cả, Claude Gueux chưa hẳn đã mỏng hơn hai tác phẩm đồ sộ kia, nếu không muốn nói chính Claude Gueux (Claude Khốn Cùng) là bà đỡ cho Les Misérables (Những người khốn khổ) ra đời gần 30 năm sau.
Có lẽ linh hồn, nếu ta tin là có linh hồn, của nhân vật chính trong Claude Gueux sẽ thanh thản hơn, siêu thoát hơn nếu độc giả hôm nay, thay vì ngậm ngùi hay rơi nước mắt trong khi đọc tác phẩm, nhận được rõ hơn nguyên nhân của những bất cập, bất nhân trong hệ thống pháp luật hiện tại và, cũng không im lặng hay cúi đầu khuất phục.
___
Cách đây chừng bảy hoặc tám năm, ở Paris có một gã thợ nghèo tên là Claude Gueux. Gã sống cùng một cô gái, cũng là người hầu, và một đứa bé con của cô ta. Tôi sẽ kể lại các việc như chúng đã xảy ra rồi độc giả thu lấy những đạo đức đã được gieo trên đường đi của chúng. Claude là một thợ giỏi, hoạt bát, lanh trí, bị nền giáo dục khinh miệt nhưng được tự nhiên ưu ái, không biết đọc nhưng rất biết nghĩ. Một mùa đông buốt giá, mất việc, trong hốc trọ thuê áp mái của gã hết sạch cả lửa lẫn bánh. Gã ta, cô gái và đứa trẻ co ro trong đói, rét. Claude đi ăn trộm. Tôi không biết gã đã trộm gì và trộm ở đâu, chỉ biết vụ trộm đã mang lại bánh mỳ cùng lửa ấm cho người đàn bà và đứa bé trong ba ngày, và năm năm tù cho gã.
Gã bị đưa tới nhà tù trung tâm Clairvaux để thi hành án. Clairvaux nguyên là một tu viện cổ đã được cải thành ngục thất, những buồng nguyện thành hầm giam người, còn bàn thờ thành cột trói bêu tù.
Khi chúng ta nói về tiến bộ nghĩa là khi đó chỉ có một số người hiểu và thực thi điều này mà thôi. Chính đó là cái bị ẩn giấu trong ngôn từ của chúng ta.
Xin tiếp tục.
Tới nơi, ban đêm Claude bị đưa vào ca-sô [1], ban ngày đưa vào xưởng. Nhưng xưởng không phải là cái tôi phàn nàn.
Claude Gueux, gã thợ ngay thật đã thành tên trộm, là một người nghiêm túc, trọng liêm sỉ. Gã có cái trán cao với những nếp nhăn trước tuổi, có những ánh bạc lấp ló trong mái tóc đen, đôi mắt hiền, mạnh mẽ ẩn sâu dưới cung mày đẹp, hai lỗ mũi rộng khoáng đạt, chiếc cằm kiêu hãnh nhô về trước với đôi môi ngạo nghễ ở trên. Một cái đầu đẹp. Nhưng rồi chúng ta sẽ thấy xã hội đối xử ra sao với tướng mạo đẹp đẽ này.
Gã ít nói, thường dùng cử chỉ nhiều hơn, nhưng con người gã có một cái gì đó đầy uy lực khiến người khác phải tuân phục. Gã có cái vẻ trầm tư của nghiêm nghị hơn là đau khổ. Gã còn là một kẻ giỏi chịu đựng.
Nơi Claude Gueux bị giam cầm có một giám quản xưởng tù, một loài công chức dành riêng cho nhà tù. Loại người này có phẩm chất của cả cai tù lẫn chủ xưởng, vừa thúc được thợ vừa hăm được tù, vừa đặt được vào tay bạn cái cưa và cúi xuống luồn cho hai chân bạn đôi xiềng. Giám xưởng của Claude Gueux còn là một biến dị của loài công chức đó. Cộc lốc, độc đoán, bảo thủ, luôn luôn áp chế. Tuy nhiên, đôi lúc ông ta cũng tỏ ra gần gũi, thân thiện, thậm chí còn vui vẻ, bông đùa. Con người ông ta có chất nhẫn tâm nhiều hơn chất thô cứng. Đặc biệt ông ta không thích lý luận, tranh cãi với ai, kể cả với bản thân. Ông ta là một người cha, người chồng tử tế theo cái nghĩa trách nhiệm, không phải theo nghĩa phẩm hạnh. Ngắn gọn, ông ta không ác nhưng tồi. Ông ta thuộc dạng người không có gì có thể rung động, co giãn. Một con người được cấu tạo bằng những phân tử bất động, trơ ỳ trước mọi ngôn từ, tình cảm. Là loại người có những cơn giận băng giá, có những mối hận u uất, những phẫn nộ vô cảm, khiến cho lửa căm hờn bùng lên mà không tỏa hơi nóng giận, có thể ví với một thanh gỗ dày một đầu đã cháy rực mà đầu kia vẫn lạnh ngắt. Tất cả mọi nẻo chính, phụ trong bản đồ tính khí của ông ta đều tiến tới một điểm: chai lỳ. Ông ta tự hào về điểm ấy và có ý tự sánh mình với Napoléon. Đó chỉ là một ảo tưởng quang học, như nhiều người đôi lúc đã nhầm chai lỳ với nghị lực, hay đã tin một ngọn nến là một vì sao. Mỗi khi con người này định làm một chuyện vô lý mà ông ta gọi là ý chí, ông ta sẽ ngẩng cao đầu đạp qua mọi ngáng trở để đi tới cùng sự vô lý. Kiên định không trí lực, sự ngu dại nối thêm ngu dốt phụng sự ông ta. Và phụng sự đắc lực. Nhưng nói chung, khi một thảm họa, dù công hay tư, đổ xuống đầu chúng ta, nếu quan sát kỹ đống đổ nát và soi xét kỹ quá trình diễn ra, ta sẽ gần như luôn thấy thủ phạm là một kẻ có trí óc bình thường nhưng ương ngạnh, kẻ rất tự tin và tự phụ. Thế gian vẫn có những cái đầu đặc ngang bướng như thế nhưng tự tưởng là thiên tài.
Đó là tất cả những gì thuộc về bản tính lão giám xưởng tại nhà tù trung tâm Clairvaux. Đó cũng là cách xã hội đều đặn chà đạp lên tù nhân làm phát ra những tia lửa nhỏ căm hờn. Tia lửa của nhiều viên đá lửa giống nhau cọ vào những viên sỏi giống nhau thường làm thành đám cháy.
Khi tới Clairvaux, Claude Gueux được đánh số ngay rồi được đưa vào xưởng giao việc. Giám xưởng tới gặp Claude, nhận ngay ra gã là một tay thợ cừ và xử sự tử tế với gã. Thậm chí có một lần nhân lúc trong người dễ chịu và lại trông thấy Claude quá buồn, vì gã luôn nhớ tới người đàn bà gã vẫn gọi là vợ, lão giám kể cho Claude nghe, vừa để cho khuây khỏa thời gian vừa để vỗ về Claude, rằng cái ả bất hạnh đó đã đi làm điếm rồi. Claude im lặng, lạnh lùng hỏi về đứa trẻ, lão giám nói không biết.
Sau vài tháng, Claude quen dần với nhà tù và có vẻ không còn nghĩ ngợi thương nhớ điều gì nữa. Thay vào đó là một sự thâm trầm nghiêm nghị rất riêng biệt.
Rồi thêm một thời gian nữa, Claude trở thành một người có uy thế đặc biệt đối với tất cả các tù của xưởng. Như có một cam kết ngầm mà không ai biết vì sao, kể cả Claude, tất cả thường hỏi ý kiến gã, lắng nghe gã, khâm phục và làm theo ý gã – cấp độ cuối cùng của ngưỡng phục. Đây không phải là loại tuân phục bình thường từ những con người cùng có bản năng bất phục. Đối với Claude, cái đế chế đó là một bất ngờ. Nhưng thật ra nó đã nằm ngay trong ánh mắt khi gã nhìn mọi người. Mắt chính là cửa sổ để người khác trông thấy những suy tư, hiểu được những ý định trong đầu của một người.
Để một người luôn tràn trề ý kiến, tư tưởng trong đầu cùng sống với những người không có gì trong đầu, sau một thời gian và do qui luật hấp dẫn, những cái đầu tăm tối cũng sẽ dần dần, một cách khiêm nhường và quí trọng, châu quanh cái trí não tỏa sáng. Đã có những con người là sắt thì cũng có những con người là nam châm. Claude là một thanh nam châm mạnh.
Chưa tới ba tháng Claude đã trở thành linh hồn, luật pháp và thành người ấn định trật tự cho cả xưởng. Mọi việc, mọi người đều răm rắp hành động nhịp nhàng theo chỉ đạo của gã. Có lúc gã còn không chắc gã đang là vua hay là tù nữa. Tình trạng đó giống như kiểu một giáo chủ bị giam cầm cùng cả tăng đoàn. Nhưng đương nhiên, được tù yêu thì phải bị cai tù ghét, sự song hành tất yếu. Luôn luôn thế. Nổi tiếng không bao giờ không sánh cùng bài bác. Vị ngọt thương yêu từ người nô lệ luôn phải kèm thêm chất đắng ác cảm của chủ nô.
Một trong những cấu tạo đặc biệt của cơ thể Claude là gã rất phàm ăn. Khẩu phần hàng ngày của hai người đàn ông có sức vóc bình thường chỉ vừa vừa đủ cho cái dạ dày của gã hoạt động cầm chừng trong ngày. Đối với người sung túc ăn khỏe là cơ hội để rót thêm vui sướng cho đời, nhưng ăn khỏe là nỗi khổ của đám thợ nghèo, là điều bất hạnh cho lũ tù nhân.
Khi còn ở ngoài, Claude quần quật suốt ngày, kiếm được mỗi ngày đến 2 cân bánh mỳ, Claude xơi hết. Trong tù, cũng quần quật cả ngày nhưng khẩu phần cho tù chỉ được chừng 8 lạng bánh và khoảng 1 lạng thịt. Đã là khẩu phần thì không thể thay đổi.
Claude thường xuyên đói trong nhà tù Clairvaux. Gã đói và đói, thế thôi. Claude không nói gì. Tính gã thế.
Một hôm, vừa ngấu nghiến xong hết phần ăn của mình Claude ngồi ngay vào làm việc hòng đánh lừa cái đói, trong khi các tù khác vẫn còn rộn rã ăn uống. Bỗng một thanh niên trắng trẻo, thanh mảnh, tay cầm phần ăn vẫn còn nguyên và con dao ăn, đến gần Claude. Cậu thanh niên cứ đứng im cạnh Claude, nửa muốn nói điều gì, nửa không dám. Chàng trai, chiếc bánh, và miếng thịt làm Claude không chịu nổi.
“Cậu muốn gì?”
“Tôi muốn anh giúp tôi một việc.” Cậu thanh niên rụt rè trả lời.
“Việc gì?”
“Giúp tôi cùng ăn suất này. Đối với tôi nhiều quá.”
Một giọt nước tràn qua trong con mắt kiêu hãnh của Claude. Gã cầm lấy dao, chia đôi suất ăn ra làm hai phần bằng nhau, cầm lấy một phần rồi ăn.
“Cám ơn”, cậu tù trẻ nói. “Nếu anh muốn, chúng ta hàng ngày sẽ chia nhau như thế này.”
“Cậu tên gì?” Claude lên tiếng.
“Trắng.”
“Sao cậu lại ở đây?”
“Tôi đã ăn trộm.”
“À, tớ cũng vậy.”
Bọn họ từ đó cùng chia nhau như thế mỗi ngày. Claude 36 tuổi nhưng nhiều lúc có cái vẻ của người đã 50 vì gã lúc nào trông cũng suy tư, nghiêm túc. Trắng mới có hai mươi nhưng mọi người lại nghĩ chỉ mới mười bảy vì tay ăn trộm này có cái nhìn trông quá thơ ngây. Quan hệ giữa hai người đàn ông trở nên thắm thiết. Nhưng sự thắm thiết kiểu tình cha con hơn là tình bạn, vì Trắng vẫn tươi trẻ như một cậu bé mà Claude lại nom như một ông già.
Hai người cùng làm trong một xưởng, cùng ngủ dưới một mái vòm, cùng đi với nhau mỗi khi được đi dạo và cùng ngoạm chung một chiếc bánh. Cả hai say nhau đến mức có cảm tưởng kẻ này là thế giới của kẻ kia. Cả hai ngập tràn hạnh phúc.
Ở trên chúng ta đã nói tới lão giám xưởng, người luôn xét nét tù nhưng lại hay phải nhờ đến Claude mỗi khi muốn tù vâng lời. Đã hơn một lần Claude phải cho giám xưởng mượn cái uy của gã để ngăn không cho rối loạn hay bạo loạn xảy ra. Đúng ra thì phải nói 10 lời của Claude có trọng lượng bằng 10 ông cẩm. Nhiều lần Claude đã phải lên tiếng giúp lão giám. Nhưng trong thâm tâm lão giám xưởng không ưa Claude, lão rất khó chịu với cái cách Claude giúp lão. Lão ghen với tay ăn trộm. Sâu trong tim lão giám đã mọc ra một mối căm thù âm thầm, kình địch không nguôi với Claude. Đó là lòng ghen hận của kẻ có quyền nhưng thiếu uy với một người không có quyền nhưng đầy uy tín. Đó cũng là kiểu hiềm tị của kẻ chỉ có sức mạnh cơ bắp với người sở hữu nhiều uy lực tinh thần.
Những thù hằn đó thuộc hạng thù hằn tai hại nhất của con người.
Nhưng Claude yêu Trắng nhiều chừng nào thì lại thờ ơ với lão giám chừng ấy. Một hôm vào buổi sáng lúc tù nhân xếp hàng từng đôi đi từ chỗ ngủ sang chỗ làm, Trắng đang đứng cạnh Claude thì bị gọi tên ra ngoài để gặp giám xưởng.
“Họ cần gì em?” Claude hỏi.
“Em không biết.”
Trực buồng đưa Trắng đi.
Buổi sáng đã trôi hết, Trắng không thấy về. Đến giờ ăn, Claude hí hửng sẽ gặp Trắng ở trong sân nghỉ. Trắng không có ở đó. Vào lúc tất cả quay lại xưởng cũng không thấy Trắng trong xưởng. Một ngày đã trôi qua. Tối đến, khi mọi người đã vào hết khu ngủ, Claude dò tìm đôi mắt Trắng. Không thấy. Có lẽ đó là lúc khó khăn nhất với Claude, gã không thể chịu đựng được thêm và cất lời hỏi người trực buồng ở ngoài, điều gã chưa bao giờ làm:
“Trắng bị ốm à?”
“Không.” Người trực trả lời.
“Sao hôm nay không về?”
“À, bị chuyển khu khác rồi.” Tiếng trả lời hờ hững.
Những người chứng kiến cảnh hỏi đáp này về sau đã nói rằng ngay sau câu trả lời đó cây nến nhỏ trên tay Claude rung lên nhè nhẹ. Gã bình thản hỏi thêm:
“Ai đã ra lệnh chuyển?”
Người trực đáp: “M.D.”
M.D. là tên của giám xưởng.
Cả ngày hôm sau trôi đi cũng giống ngày hôm trước, không có Trắng.
Tối đến, khi việc sản xuất đã dừng, giám xưởng M.D. bắt đầu đi tuần vòng kiểm tra quanh xưởng như thường lệ. Khi thấy giám xưởng từ xa, Claude bỏ cái mũ len trên đầu xuống, đóng lại các cúc chiếc áo khoác tù màu xám đúng theo qui định khi gặp cai tù, rồi mũ cầm tay đứng thẳng lên ngay lối vào bệ của gã. Giám xưởng vừa đi tới.
“Thưa ông!”
Lão giám dừng lại, nghiêng người.
“Thưa ông”, Claude nói tiếp, “có đúng là Trắng đã bị chuyển khu rồi phải không?”
“Đúng.”
“Ông ơi, tôi cần Trắng để có thể sống được ông ạ.” Claude nói theo, và thêm: “Ông biết là suất ăn của trại không đủ cho tôi, Trắng đã nhường một phần của cậu ấy cho tôi mà ông.”
“Đó là chuyện của nó.” Giám xưởng nói.
“Ông ơi, không có cách nào chuyển lại Trắng về khu này hở ông?”
“Không được. Quyết rồi.”
“Ai quyết?”
“Tao.”
“Thưa ông D., đây là chuyện sống chết của tôi, tất cả phụ thuộc vào ông đấy. Xin ông xem lại.”
“Tao không bao giờ xem lại những cái tao đã quyết.”
“Tôi đã làm điều gì không phải với ông sao?”
“Không!”
“Vậy sao ông lại tách tôi và Trắng ra?”
“Vì.”
Lão giám xưởng chỉ nói thế và đi. Claude gục đầu xuống, im lặng. Đúng là “hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”[2].
Chúng tôi phải nói để quí bạn biết là nỗi buồn chia ly này không hề làm cho thói phàm ăn của Claude trở thành tồi tệ. Gã không thể hiện có một sự thay đổi lớn nào cả. Gã còn không nói với bất kỳ người bạn nào về Trắng. Gã vẫn đi bộ một mình trong sân vào giờ nghỉ và đói. Không có gì hơn.
Tuy nhiên những người gần và hiểu gã nhận thấy một cái gì đó gở gở, u ám cứ hiện dần lên trên khuôn mặt gã mỗi ngày. Ngoài điều đó ra, gã lại có vẻ dễ thương hơn bao giờ hết.
Nhiều người muốn chia suất ăn cho gã nhưng gã từ chối.
Nhưng kể từ lúc nhận được lời giải thích của giám xưởng, tối nào cũng thế Claude đều có một hành động kỳ cục làm tất cả phải ngạc nhiên vì điều đó lại xuất hiện từ một con người rất nghiêm túc. Cứ vào lúc cai xưởng đi tuần qua ngay trước bệ của Claude, Claude đều ngước mắt lên nhìn chằm chằm vào giám xưởng rồi, với một giọng vừa bồn chồn vừa tức giận như kiểu vừa cầu khẩn vừa dọa dẫm, nói chỉ hai từ: Thế Trắng? Lão giám đều giả như không nghe thấy gì hoặc chỉ nhún vai đi thẳng.
Giám xưởng đã phạm sai lầm lớn khi nhún vai, vì tất cả những khán giả xem những cảnh tái diễn kỳ lạ ấy đều thấy rõ trong con người Claude đã có một điều gì được xác quyết rồi. Cả nhà tù đều hồi hộp chờ xem kết cục của cuộc đấu, cuộc đấu giữa chai lỳ với quyết đoán.
Một lần Claude còn nói với giám xưởng:
“Ông ơi, xin ông hãy nghe tôi. Hãy trả lại tôi người bạn, rồi ông sẽ được tốt đẹp, tôi đảm bảo với ông đấy. Hãy ghi nhận cho tôi là tôi đã nói thế rồi ông nhé.”
Một lần khác, ngày Chủ nhật, Claude hai tay ôm trán chống gối, ngồi bất động trên một tảng đá trong sân suốt mấy giờ liền, một bạn tù đến gần vừa cười vừa nói ầm lên:
“Quỉ ơi, làm gì ở đây thế, Claude?”
Claude từ từ ngẩng đầu lên nặng nề:
“Tôi đang xử một người.”
Buổi tối ngày 25/10/1831, vào đúng lúc giám xưởng đi tuần vòng, Claude lấy chân giậm vỡ một mặt kính đồng hồ gã nhặt được ở ngoài hành lang lúc sáng. Tiếng kính vỡ nghiến rờn rợn. Giám xưởng gắt: “Tiếng gì đâu đấy?”
“Không có gì đâu, tôi đấy”, Claude đáp lời. “Ông giám ơi, trả lại tôi Trắng đi, hãy trả lại bạn cho tôi.”
“Không thể được.”
“Nhưng cần phải thế ông ạ”, giọng Claude nhẹ nhàng nhưng quả quyết. Claude nhìn thẳng vào mặt giám xưởng, nói thêm:
“Hãy nghĩ kỹ thêm đi ông ơi. Hôm nay là ngày 25 tháng Mười. Tôi cho ông đến mồng 4 tháng Mười Một đấy.”
Người trực bên ngoài nhắc M.D. rằng Claude đã có ý đe dọa, cần cho gã vào ca-sô ngay.
“Không, không cần”, cai xưởng nhếch mép cười. “Vẫn cần tử tế với loại người đó.”
Hôm sau, lúc Claude đang đi dạo một mình vẻ suy nghĩ quên hết cả những tù khác đang vui đùa dưới mảnh nắng nhỏ ở một góc gần đấy, một bạn tù khác đi đến gần:
“Này, Claude, anh đang nghĩ gì đấy? Trông buồn thế.”
“Tao sợ là sắp có điều gì không hay đang đến với lão M.D. tử tế này mất.”
Trong suốt chín ngày đầy từ 25 tháng Mười đến 4 tháng Mười Một, không ngày nào Claude không nhắc giám xưởng về nỗi đau ngày càng đau của gã do mất Trắng. Quá mệt vì những lời van nài giống như thúc lệnh, lão giám xưởng một lần cũng phải tống Claude vào ca-sô trong 24 giờ. Nhưng tất cả chỉ có thế.
Ngày 4 tháng Mười Một đã tới. Sáng ra mọi người thấy Claude trở dậy với một vẻ mặt thanh thản đặc biệt chưa bao giờ thấy kể từ ngày giám xưởng quyết định chia ly gã với người bạn. Vừa dậy, Claude lục ngay chiếc hòm gỗ mộc đựng đồ dưới chỗ ngủ. Gã lôi ra một cái kéo may và một cuốn Emile [3] sờn cũ. Đó là những kỷ vật duy nhất còn lại từ người đàn bà yêu thương của gã, người mẹ của con gã và của cái hốc trọ đầm ấm trước đây. Nhưng cả hai vật đều vô dụng đối với Claude. Kéo chỉ dùng cho phụ nữ, sách cho kẻ biết đọc. Claude không biết vá may cũng không biết đọc.
Lúc đi qua khu vực từng là nơi cầu nguyện nay đã bị quét vôi trắng và chuyển thành khu đi dạo cho tù vào mùa đông, Claude đến gần một bạn tù đang nhìn chằm chằm vào những song sắt to tướng ở chiếc cửa kính trên cao, gã chìa chiếc kéo nhỏ ra cho người bạn nhìn thấy rồi nói:
“Tối nay tao sẽ cắt những chấn song đó bằng chiếc kéo này.”
Người bạn ngớ người ra rồi phá ra cười. Claude cũng cười phá theo.
Sáng hôm đó Claude làm việc hăng hơn ngày thường. Chưa bao giờ gã lại làm nhanh và chuẩn đến thế. Gã như phải bằng mọi giá hoàn thành cho bằng được ngay trong buổi sáng chiếc mũ rơm mà người khách giàu có và tử tế đã trả tiền trước cho gã. [4] Trước giờ nghỉ trưa, Claude lấy cớ và đi xuống xưởng mộc ở ngay phía dưới. Đó cũng là nơi gã được mọi người yêu quí như những nơi khác nhưng gã ít khi lui tới.
“Này, Claude đến này.”
Mọi người chạy tới xúm quanh Claude, chuyện trò râm ran như hội. Claude đảo nhanh mắt một vòng, không thấy một bóng cai tù cảnh giới.
“Ai có rìu thì cho tôi mượn nào.” Claude nói.
“Làm gì thế?”
Gã nói: “Tối nay giết giám xưởng.”
Mọi người xúm đến đưa đủ loại rìu ra cho Claude chọn. Cuối cùng, gã lấy cái nhỏ nhất có lưỡi rất bén, giấu vào trong quần và đi ngay. Ở đó có tất cả 27 tù. Gã không nói với ai phải bí mật, nhưng tất cả đều giữ kín.
Họ thậm chí còn không nói gì về chuyện đó với nhau nữa.
Ai cũng tự chờ cái sẽ đến. Ghê rợn, thẳng thắn và đơn giản. Sẽ không thể có trục trặc. Claude không phải là người có thể khuyên nhủ hay chê trách được.
Một giờ sau, gã đi đến chỗ một bạn tù trẻ mới có 16 tuổi đang ngồi ngáp trong khu đi dạo và nói cậu ta nên học chữ đi. Cũng lúc đó, một bạn tù khác tiến sát vào Claude hỏi giấu cái quỉ gì trong quần đấy, Claude nói:
“Rìu để giết M.D. tối nay. Lộ à?”
“Hơi thôi.”
Mọi việc khác đều diễn ra giống như mọi khi. Đúng 7h tối, các tù bị nhốt lại trong mỗi khu ứng với một xưởng. Các cai tù giám sát cánh thợ tù cũng phải đi ra ngoài cho tới khi giám xưởng đi tuần xong một vòng.
Thành ra Claude Gueux với các bạn tù khác cùng nghề đều bị nhốt chung lại trong cùng một xưởng.
Trong cái xưởng đó đã xảy ra một cảnh dị thường, vừa trang nghiêm vừa kinh hãi, một cảnh hi hữu chưa có trong sử sách.
Ở đó, như cáo trạng đã tuyên trước đây, có tất cả 82 kẻ ăn trộm, kể cả Claude.
Khi các cai tù vừa ra ngoài để mặc tù nhân ở lại với nhau, Claude đứng thẳng lên trên bệ của mình, thông báo cho cả phòng biết gã có điều cần nói. Tất cả im phăng phắc. Claude lên giọng:
“Tất cả anh em đều biết Trắng là em tôi. Suất ăn của trại không đủ cho tôi ăn. Kể cả số tiền tôi kiếm được chỉ để mua thêm bánh, cũng không đủ. Trắng đã chia bớt suất của cậu ấy cho tôi. Tôi yêu quí cậu ấy trước hết là vì cậu ấy đã nuôi tôi và sau nữa là do tình cảm của cậu ấy đối với tôi. Lão giám xưởng M.D. đã chia li chúng tôi. Lão làm điều đó chỉ vì chúng tôi đã quyến luyến nhau. Đó là một con người ác độc, hả hê khi làm kẻ khác đau khổ. Tôi đã xin lão nhiều lần trả lại Trắng cho tôi. Anh em thấy không? Lão không muốn điều đó. Tôi đã để hạn cho lão tới ngày 4 tháng Mười Một lão phải đem Trắng về đây. Nhưng lão lại cho tôi vào ca-sô. Còn tôi, trong chín ngày đó tôi đã dành để xét xử lão và đã kết án: tử hình. [5]* Hôm nay 4 tháng Mười Một. Hai giờ nữa lão sẽ tới. Tôi xin báo để mọi anh em biết tôi sẽ giết lão. Anh em thấy thế nào?”
Tất cả nín lặng.
Claude tiếp tục nói với sự rung động, thuyết phục một cách tự nhiên đặc biệt. Gã nói gã biết rõ gã sắp thực hiện một hành động bạo tàn nhưng gã không tin là gã sai. Gã đang tự thẩm tra với lương tâm của 81 kẻ ăn trộm.
Phải chăng gã đang cực đoan một cách thô thiển?
Người ta phải tự định đoạt lấy công lý mỗi khi bị lâm vào đường cùng?
Không thể lấy đi mạng sống của lão giám nếu không phải tự trả bằng sinh mạng của mình, nhưng rất nên đổi sinh mạng của gã để lấy một sự công bằng?
Gã đã nghĩ thật chín trong hai tháng qua chưa?
Gã có chắc gã đã không để lòng hận thù xui khiến và nếu là như thế gã đã khẩn cầu mọi người hãy ngăn chặn gã?
Gã đã thành thật để những người công chính quanh gã biết rõ suy nghĩ của gã?
Gã quyết giết M.D. nhưng nếu có người phản đối, gã sẽ lắng nghe?
Chỉ có một người lên tiếng nói rằng trước khi hành động cần phải thử thêm một lần cuối, nói lại với giám xưởng để lão nghĩ lại xem sao.
“Đúng vậy, tôi sẽ làm như thế”, Claude đáp.
Chiếc đồng hồ lớn đánh tám tiếng. Giám xưởng sẽ tới lúc 9h.
Sau khi cái tòa phá án [6] đặc biệt đó phê chuẩn xong bản án gã đã tuyên, Claude lại có một vẻ hoàn toàn thanh thản. Gã đặt lên chiếc bàn nhỏ tất cả những đồ đạc khốn khổ của mình rồi chia hết cho từng người theo thứ tự tình yêu thương gã xếp sau Trắng. Gã chỉ giữ lại cho mình cây kéo may nhỏ nhắn.
Rồi gã ôm hôn từng người. Một vài người bật khóc, gã mỉm cười nhìn họ.
Trong những khoảnh khắc của giờ cuối cùng gã còn làm cho cả buồng nhiều lúc phải lặng đi và nhiều lúc lại náo nhiệt, làm nhiều người âm thầm hy vọng, như họ từng nghĩ, có thể gã sẽ thôi cái quyết định ghê gớm ấy. Có lúc gã còn đùa cợt bằng cách dùng lỗ mũi to tướng của mình thổi tắt phụt một ngọn nến trong cái buồng vốn đã tối om. Sự giáo dục kém cỏi đôi khi cũng gây phiền toái cho phẩm cách trong sáng của gã. Không gì có thể làm cho con người đường phố của gã mất hết ngay được những mùi vị của phố xá.
Thoáng thấy một người trẻ yếu ớt đang run rẩy nhìn dán vào gã vì sợ những gì sắp xảy ra.
“Nào, can đảm lên, người bạn trẻ. Nhanh thôi mà, chỉ một loáng thôi.” Claude trấn an.
Khi chia xong tất cả đồ vật, gã chia tay, bắt tay từng người, gã nói với mọi người không được lo lắng gì nữa và yêu cầu tất cả trở lại như bình thường. Sự tuân thủ lẳng lặng được thực thi.
(Còn 1 kì)
Nguồn: Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: Claude Gueux, Le livre de Poche, Libretti, Paris 2012. Các chú thích của người dịch có tham khảo chú thích của sách vừa dẫn. Độc giả có thể xem bản tiếng Pháp điện tử: Claude Gueux
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Hồng Sơn & pro&contra
[1] Nơi giam đặc biệt, diện tích rất nhỏ thường chỉ đủ một người nằm, đóng kín, ngột ngạt, tối tăm và ẩm thấp, có thể ở dưới lòng đất. Nguyên văn: “cachot”.
[2] Nguyên văn “Pauvre lion en cage à qui l’on ôtait son chien” (con sư tử tội nghiệp ở trong cũi bị người ta lấy đi con chó của nó).
[3] Emile – tên tác phẩm nổi tiếng của Jean-Jacques Rousseau ra mắt năm 1762, bàn về phương pháp giáo dục mới mang tính phổ thông, nhân đạo, quan tâm, không cưỡng ép, hòa đồng với thiên nhiên.
[4] Trong các nhà tù Pháp đương thời, thu nhập từ các sản phẩm do tù nhân làm ra được chia làm ba phần bằng nhau: một phần cho nhà tù, một phần cho tù nhân sử dụng ngay, một phần giữ lại để giao cho tù nhân lúc được trả lại tự do.
[5]* Đúng theo văn bản. (Ghi chú của Victor Hugo)
[6] La cour de cassation: theo hệ thống tư pháp của Pháp, đây là một trong những cấp tòa có thẩm quyền cao nhất về tư pháp nhằm thẩm tra lại mọi phán quyết của các tòa trước đó, nhưng chỉ xem xét về phương diện áp dụng luật đúng/sai, không xem xét lại tình tiết, sự kiện (faits; facts). Tòa này được lập năm 1790, thời Cách mạng Pháp. Nhưng la cour de cassation, không giống với một số supreme court (pháp viện tối cao) theo hệ thống common law (thông luật), chỉ có thẩm quyền tối cao đối với các vụ việc dân sự (civil) và hình sự (criminel/criminal) nghĩa là việc xem xét tối hậu (appel final/final appeal) cho các vụ việc hành chính (administrative) thuộc một thiết chế khác là Conseil d’Etat (Hội đồng Nhà nước) và xem xét tính hợp hiến thuộc Conseil Constitutionel (Hội đồng Hiến pháp).
November 30, 2014
Những nước bình thường: phương Đông 25 năm hậu cộng sản
Andrei Shleifer và Daniel Traisman
Trần Ngọc Cư dịch
Hai mươi lăm năm sau khi Bức tường Bá Linh sụp đổ, một cảm thức nuối tiếc về cơ hội đã bỏ lỡ đang trùm lên các nước một thời nằm ở phía Đông đường ranh này. Trở lại thời điểm đó, hi vọng của dân chúng tại đây đã dâng cao trong không khí hồ hởi đón mừng sự sụp đổ đột ngột của chủ nghĩa cộng sản. Từ Bratislava đến Ulaanbaatar, cơ hồ thể chế dân chủ và sự thịnh vượng kinh tế đã đến đợi ở góc đường.
Ngày nay, tâm trạng người dân tại những nước này trở nên u ám hơn. Với một vài trường hợp ngoại lệ, như Estonia và Ba Lan, những nước hậu cộng sản còn lại bị coi là những trường hợp thất bại – kinh tế bị oằn xuống dưới sức nặng của tầng lớp hưởng hưu bổng đang sống chật vật và giới đầu sỏ chính trị đang sống xa hoa, còn chính trị thì bị hoen ố bởi các trò gian lận ở thùng phiếu và sự xuất hiện những lãnh đạo độc tài. Từ Yugoslavia cũ đến Chechnya và bây giờ đến miền Đông Ukraine, các cuộc chiến đã làm gián đoạn sự liên tục của thời gian hơn 40 năm hòa bình lạnh [cold peace] trên lục địa châu Âu, để lại nhiều vùng lõm âm ỉ bạo động. Đối với nhiều quan sát viên thời sự, chế độ kìm kẹp độc tài và tham vọng địa chính trị hiếu chiến của Tổng thống Nga Vladimir Putin tiêu biểu cho một tình trạng suy thoái dân chủ tổng quát hơn lan ra từ phía Đông. “Điều tồi tệ nhất của chủ nghĩa cộng sản là những gì diễn ra sau nó,” Tổng Biên tập của một nhật báo Ba Lan và trước đây là một nhà bất đồng chính kiến chống cộng, ông Adam Michnik, mỉa mai.
Ngày kỷ niệm là một dịp tốt để chiêm nghiệm lịch sử và chẩn đoán tương lại. Nhiều thay đổi đã diễn ra từ khi các nước hậu cộng sản – gồm 15 quốc gia kế thừa Liên Xô, 14 nước cộng sản cũ của Đông Âu , và cựu chư hầu Xô-viết Mông Cổ – đã thoát khỏi các chế độ Mác-xít tàn bạo cách đây một thế hệ. Không phải mọi thay đổi đều phải trở thành một cái gì tốt đẹp hơn. Nhưng nếu coi những cải tổ hậu cộng sản là thất bại, thì đó lại là một sai lầm, và sai lầm này có nhiều ý nghĩa vượt ra ngoài khu vực. Một số nhà nghiên cứu, choáng ngợp trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và bị sốc do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, gần đây đã coi chủ nghĩa tư bản nhà nước độc tài là một phương án sinh động thay thế cho sự rối loạn chức năng của thể chế dân chủ tự do. Quan niệm sai lầm cho rằng nỗ lực cải tổ thị trường đã thất bại tại Đông Âu đã tăng cường cái ảo giác này.
Sự thật là lối tường thuật u ám đang thịnh hành về thế giới hậu cộng sản phần lớn là sai lầm. Gạt qua một bên các hình ảnh thời sự hiện nay, chúng ta sẽ thấy cuộc sống đã được cải thiện ngoạn mục khắp khối Đông cũ. Từ thời kỳ quá độ đến nay, các nước hậu cộng sản đã phát triển kinh tế nhanh chóng; ngày nay, người dân trở nên giàu có hơn, có tuổi thọ cao hơn, và sống hạnh phúc hơn. Gần như trên mọi phương diện, những quốc gia này hiện nay hoàn toàn giống như bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới có cùng một mức độ phát triển kinh tế. Chúng đã trở thành những nước bình thường – và, trong nhiều cung cách, tốt đẹp hơn cả bình thường.
Mặc dù tính trung bình, chúng giống như các quốc gia đồng đẳng kinh tế, nhưng trên thực tế các quốc gia chuyển đổi thể chế này đã trở nên đa dạng hơn nhiều. Sau khi thoát ra khỏi mô hình do Moscow áp đặt, chúng chịu sức thu hút của những quốc gia láng giềng phi cộng sản gần nhất: các nước ở Trung Âu nghiêng về châu Âu hơn; các nước ở Trung Á nghiêng về châu Á hơn. Trong những năm sắp tới, con đường phát triển của chúng có khả năng cùng phản ánh sự ganh đua giữa hai lực tác động chính: tính năng động toàn cầu của hiện đại hóa và sức níu kéo của địa lý [khu vực].
CÁC QUỐC GIA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Để hiểu rõ các nước hậu cộng sản nói trên đã thay đổi ra sao ta hãy nhớ lại chúng đã xuất phát như thế nào. Về chính trị, chúng đều là những quốc gia độc tài được cai trị bởi một đảng cầm quyền. Mỗi nước đều có cán bộ tuyên giáo để dạy bảo người dân phải nghĩ gì, có mật vụ để phát hiện bất đồng chính kiến, và có trại tù để giam giữ những người chỉ trích chế độ. Tất cả đều bày ra các cuộc tuyển cử khôi hài trong đó đảng chiếm hơn 95 phần trăm phiếu bầu. Trừ Yugoslavia và Albania sau năm1960, các nước khác đều nhận lệnh từ Moscow, một trung tâm quyền lực đã đưa xe tăng vào Hungary năm 1956 và Tiệp Khắc năm 1968 để đàn áp các cuộc nổi dậy của dân chúng.
Tất cả các nước trong khối cộng sản vào thời đó có nền kinh tế do trung ương kiểm soát. Hầu hết hoặc tất cả tài sản đều thuộc về nhà nước, và giá cả được các nhà làm kế hoạch kinh tế đặt ra, chứ không do thị trường định đoạt. Công nghiệp nặng chiếm ưu thế trong khi khu vực dịch vụ thì èo uột. Tại Liên Xô, chi phí quốc phòng đã ngốn tới 25 phần trăm GDP vào cuối những năm 1980, so với dưới 6 phần trăm tại Mỹ. Vào năm 1986, các nhà máy của Liên Xô đã sản xuất một kho vũ khí gồm 45.000 đầu đạn hạt nhân.
Làm thoả mãn người tiêu thụ không phải là một ưu tiên. Để mua được một căn hộ vào những năm 1980, người nạp đơn ở Bulgaria phải đợi đến 20 năm, và tại Ba Lan phải đợi đến 30 năm; một phần tư số người trong danh sách chờ tại Liên Xô là người đã nghỉ hưu. Người mua xe hơi tại Đông Đức phải đặt hàng trước 15 năm. Tại Romania, nhà độc tài Nicolae Ceausescu buộc mọi người phải theo một chế độ ăn uống thiếu calorie vào đầu những năm 1980 để dành tiền trả nợ nước ngoài. Ông qui định mỗi phòng chỉ được thắp sáng bằng một bóng đèn 40 watt, sưởi ấm các công sở chỉ đến 14 độ C là tối đa, và thời gian phát sóng truyền hình mỗi ngày là hai giờ với các chương trình tẻ nhạt.
Các nước cộng sản có thể rêu rao một số thành tích. Với chỉ 8 phần trăm dân số thế giới, Liên Xô và các nước Đông Âu đã giành được 48 phần trăm huy chương tại Thế vận hội Seoul năm 1988 và có đến 53 trong số 100 tay cờ tướng hàng đầu năm đó. Tỉ lệ người có học và biết chữ là cao.
Tuy nhiên, vào những năm suy tàn của chủ nghĩa cộng sản, ít ai chịu đứng ra bênh vực nó. Theo Vaclav Havel, nhà bất đồng chính kiến về sau trở thành Tổng thống Cộng hòa Séc, hệ thống đó là một “cỗ máy đồ sộ quái đản, inh ỏi và tanh hôi.” Nhiều năm sau khi rời bỏ quyền hành, Mikhail Gorbachev, chủ tịch cuối cùng của Liên Xô đã mô tả đặc tính của nền kinh tế mà có thời ông giám sát là “ngốn ngấu” và “phung phí tài nguyên.”
Cuối cùng, toàn bộ hệ thống Xô-viết thình lình sụp đổ. Các lãnh đạo mới được dân bầu ra khắp khối cộng sản cũ phải đối diện với nền kinh tế nước mình trong cơn khủng hoảng. Năm 1989, lạm phát tăng vọt 640 phần trăm tại Ba Lan và 2.700 phần trăm tại Nam Tư. Khoảng thời gian trước 1991, thời điểm Liên Xô tan rã, sản lượng của nước này giảm 15 phần trăm một năm.
Các chính phủ hậu cộng sản đồng loạt thực thi các chương trình cải tổ – được thiết kế để giảm bớt việc kiểm soát giá cả, thúc đẩy mậu dịch, quân bình ngân sách, tư hữu hóa các xí nghiệp nhà nước, và thiết lập các chương trình phúc lợi xã hội – mặc dù một số nước có thể theo đuổi các chương trình này nhanh hơn và mạnh hơn các nước khác. Những cải tổ này đã thay hình đổi dạng nền kinh tế của họ. Nói chung, nhờ từ bỏ đường lối hoạch định kinh tế trung ương, các nước hậu cộng sản có điều kiện phát triển kinh tế thị trường hơn phần còn lại của thế giới. Khoảng năm 2011, các nước này đạt một chỉ số tự do kinh tế trung bình là 7,0, một chỉ số do Viện Fraser, một nhóm nghiên cứu tại Canada đúc kết, so với chỉ số trung bình toàn cầu là 6,8. Nước được cải tổ nhiều nhất trong khối,Estonia, có chỉ số tự do kinh tế nằm giữa Đan Mạch và Hoa Kỳ.
Hầu như khắp mọi nơi, các con khủng long công nghiệp nhà nước phải nhường bước cho các công ty tư nhân là những công ty bắt đầu sản xuất phần lớn tổng sản phẩm nội địa (GDP). Sản lượng trung bình của khu vực tư tại các nước hậu cộng sản hiện nay chiếm khoảng 70 phần trăm. Công nghiệp nặng được giảm thiểu, và trung bình, khu vực dịch vụ tăng từ 36 phần trăm đến 58 phần trăm sản lượng quốc gia trong thời gian từ 1990 đến 2012. Không có một khu vực nào trên thế giới mà mậu dịch quốc tế phát triển nhanh như thế, với kim ngạch nhập khẩu và xuất khẩu cùng tăng vọt từ 75 phần trăm đến 114 phần trăm GDP. Sau nhiều thập niên chủ yếu trao đổi mậu dịch với nhau trong cùng một khối, các quốc gia hậu cộng sản đã nhanh chóng tái định hướng kinh tế để nhắm tới các thị trường nước ngoài tại châu Âu và những khu vực khác. Tính đến năm 2012, giá trị hàng xuất khẩu từ các nước Đông Âu cũ sang EU tăng trung bình 69 phần trăm và từ các nước cộng hòa Xô-viết cũ 47 phần trăm.
Tóm lại, những nước này đã chuyển đổi hệ thống kinh tế do nhà nước quản lý, được quân sự hóa và công nghiệp hóa cao độ thành một nền kinh tế thị trường hướng về dịch vụ, đặt cơ sở trên sở hữu tư nhân và hội nhập vào mạng lưới thương mại toàn cầu. Không còn bị bóp méo theo đường lối Mác-xít, các định chế kinh tế, chính sách mậu dịch, và các môi trường điều tiết tại những nước này ngày nay giống hệt các nước khác có cùng một mức lợi tức quốc gia.
Bất chấp những thay đổi này, các quan sát viên thường qui trách nhiệm cho các cải tổ thời hậu cộng sản về thành tích kinh tế tồi tệ tại các quốc gia đang trải qua thời kỳ quá độ. Hai cáo buộc thông thường cho rằng trên cơ bản các cải tổ này đã được quan niệm một cách sai lầm và rằng chúng đã được thi hành một cách quá triệt để [too radical]. Việc chỉ trích này nêu lên hai câu hỏi: một là, liệu thành tích kinh tế của các quốc gia này có thực sự tồi tệ hay không, và hai là, liệu các chiến lược triệt để hơn có mang lại kết quả tồi tệ hơn so với các đường lối cải tổ tuần tự hơn hay không. Câu trả lời vắn tắt cho cả hai câu hỏi là không.
HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐI LÊN
Một khởi điểm hợp lý trong việc đánh giá thành tích kinh tế của một nước là lợi tức quốc gia của nó, nhưng bất cứ một sự so sánh nào dùng số liệu của thời Xô-viết cũng cần phải được xét đến bằng một thái độ hoài nghi. Vì nhiều lý do khác nhau, phần lớn sản lượng mà các kế toán viên của thời cộng sản ghi lại trong sổ sách thường không có giá trị như con số mà họ rêu rao. Các nhà máy báo cáo láo sản lượng của mình để lãnh tiền thưởng, do đó thổi phồng các số liệu GDP lên đến 5 phần trăm. Nhiều hàng hóa do các nhà máy này sản xuất có phẩm chất tồi tệ đến nỗi người tiêu thụ không chịu mua. Chính phủ phát động nhiều dự án đồ sộ nhưng không bao giờ được hoàn thành (mà vẫn được tính vào chi phí đầu tư, làm gia tăng các giá trị GDP) và duy trì các chi phí quốc phòng to lớn với trị giá rất đáng hoài nghi. Rốt cuộc, chỉ một phần rất nhỏ trong lợi tức chính thức của quốc gia lọt vào túi của người dân mà thôi. Vào năm 1990, chẳng hạn, lượng tiền dùng để tiêu thụ trong các hộ gia đình tại hầu hết những nước phi cộng sản [noncommunist countries] chiếm đến 60 phần trăm GDP. Nhưng tại Nga, con số này chiếm chưa được một phần ba GDP, và tại Azerbaijan, con số này rơi xuống dưới một phần tư.
Phần lớn sự suy thoái kinh tế được ghi nhận trong những năm đầu của thời kỳ quá độ hậu cộng sản – theo một vài ước tính, có thể giảm đến một nửa – đã phản ánh việc cắt bỏ sản lượng hư cấu hay các đầu tư vô bổ của thời cộng sản. Nhưng thậm chí nếu những con số chính thức này được thừa nhận theo giá trị bề mặt của chúng, bức tranh mà chúng cho thấy vẫn sáng sủa hơn người ta thường lầm tưởng. Bất chấp nền kinh tế bị suy giảm lúc đầu, trong thời gian từ năm 1990 đến năm 2011, một nước hậu cộng sản có mức tăng trưởng trung bình (Uzbekistan) cũng tăng trưởng nhanh hơn một chút so với một nước có mức tăng trưởng trung bình ở một nơi khác trên thế giới (Norway). Trong khi GDP đầu người của Norway tăng lên 45 phần trăm trong thời gian nói trên, Uzbekistan tăng được 47 phần trăm. Bosnia, nơi lợi tức quốc gia tăng hơn 450 phần trăm, đã đạt tỉ lệ tăng trưởng ở vị trí thứ ba trên thế giới trong giai đoạn vừa nói. Albania đứng ở vị thứ 16, tăng trưởng 134 phần trăm, và Ba Lan vị thứ 20, tăng trưởng 119 phần trăm. Ba nước hậu cộng sản này còn qua mặt cả những cỗ máy có truyền thống tăng trưởng như Hồng Kông và Singapore.
Sự gia tăng về mức tiêu thụ cũng ngoạn mục không kém. Từ năm 1990 đến năm 2011, mức tiêu thụ trong các hộ gia đình tính theo đầu người tại các nước hậu cộng sản đã tăng trung bình 88 phần trăm, so với mức tăng trung bình 56 phần trăm tại các nơi khác trên thế giới. Tại Ba Lan, mức tiêu thụ hộ gia đình đã tăng 146 phần trăm, ngang với tỉ lệ của Hàn Quốc. Tại Nga, mức tiêu thụ đã tăng 100 phần trăm.
Người dân bình thường đã trông thấy mức sống của mình được cải thiện đáng kể. Số người sở hữu xe hơi, một thước đo đáng tin cậy về lợi tức có thể đem ra tiêu xài, đã gia tăng sau khi chế độ cộng sản sụp đổ mặc dù GDP có sa sút trong những năm đầu của thời kỳ quá độ. Trong thời gian từ 1993 đến 2011, con số trung bình của xe hơi chở người [passenger cars] đã tăng từ một chiếc cho 10 đầu người đến một chiếc cho 4 đầu người. Hiện nay số xe hơi tính theo đầu người tại Lithunia, Ba Lan, và Lithuania còn cao hơn cả Anh.
Trong công nghệ thông tin, Đông Âu cũng vươn lên phía trước, đi từ lạc hậu đến tiến bộ vượt bậc. Vào năm 2013, tỉ lệ số điện thoại di động được sử dụng cho mỗi đầu người là 1,24 [cứ 100 người thì có đến 124 chiếc điện thoại], một con số vượt cả phương Tây. Thế giới hậu cộng sản ngày nay có một tỉ lệ cư dân mạng là 54 phần trăm dân số trong một nước trung bình – cao hơn bất cứ khu vực nào trên thế giới ngoại trừ Bắc Mỹ và Tây Âu.
Công dân của các quốc gia hậu cộng sản cũng đi du lịch nhiều hơn bao giờ; họ thực hiện 170 triệu chuyến du lịch nước ngoài năm 2012. Và ở trong nước, họ sống trong những hộ chung cư rộng rãi hơn: từ năm 1991, không gian sống tính theo đầu người đã tăng lên 99 phần trăm tại Cộng hòa Séc, 85 phần trăm tại Armenia, và 39 phần trăm tại Nga. Nhờ các chương trình tư hữu hóa nhà ở cho đại chúng, tỉ lệ sở hữu nhà ở tại một vài nơi đã vượt đến mức cao nhất thế giới. Dân chúng cũng ăn ngon hơn trước. Tại bảy trong số chín cộng hòa Xô-viết cũ có công bố các số liệu thống kê liên quan, việc tiêu thụ trái cây và rau đã tăng vọt. Vào năm 2011, chẳng hạn, dân Ukraine ăn 58 phần trăm nhiều rau hơn và 47 phần trăm nhiều trái cây hơn so với 20 năm về trước. Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan, Slovakia, và Slovenia trải qua một hiện tượng mà các nhà nghiên cứu y khoa đã mô tả vào năm 2008 trong Tạp chí Dịch tễ học châu Âu [the European Journal of Epidemiology] “gần như chắc chắn là một đợt giảm thiểu bệnh tim mạch nhanh nhất chưa từng thấy” sau khi người tiêu thụ bắt đầu thay thế dầu thực vật cho các loại mỡ động vật.
Về sự thăng tiến trong xã hội, các số liệu thống kê phủ nhận thành kiến cho rằng xã hội hậu cộng sản đang bị phân hóa giữa giới đại gia đầu sỏ và tầng lớp ăn mày. Tỷ số sinh viên ghi danh đại học, vốn đã cao, sau năm 1989 thậm chí còn gia tăng hơn nữa, ở mức trung bình 33 phần trăm trước năm 2012. Cũng trước năm 2012, tại những nước hậu cộng sản, tỉ lệ trung bình học sinh vừa xong trung học quyết định tiếp tục học thêm là cao hơn tỉ lệ tương ứng tại Thụy Sĩ. Mặc dầu tỉ lệ nghèo khổ và bất bình đẳng lợi tức thường tăng lên vào lúc đầu của thời kỳ quá độ, nhưng những tỉ lệ này tại các quốc gia hậu cộng sản hiện nay là thấp hơn các nền kinh tế khác có cùng mức lợi tức tương đương.
Các chính phủ cũng đang có thêm nhiều nỗ lực để đảm bảo cho người dân có thể hít thở không khí trong lành hơn. Chế độ cộng sản đã để lại một rừng ống khói nhà máy, nhưng từ 1990, cả 11 nước hậu cộng sản thành viên của EU đã cắt giảm hơn một nửa các lượng khí thải carbon monoxide, ốc-xít ni-tơ, ốc-xít lưu huỳnh. Thậm chí trong khi kinh tế đang tăng trưởng, 12 hai nước cộng hòa Xô-viết cũ đã cắt giảm các khí thải ô nhiễm thoát ra từ các nguồn cố định vào không khí, ở tỉ lệ trung bình 66 phần trăm trong thời gian từ 1991 đến 2012.
Và mặc dù thường có những bài báo nêu lên tỉ suất tử vong tăng vọt [soaring mortality] do căng thẳng của thời kỳ quá độ, các xu thế phát triển liên quan đến dân số của khu vực này là không đen tối. Tính trung bình, tuổi thọ tại các quốc gia hậu cộng sản đã tăng từ 69 tuổi vào năm 1990 đến 73 tuổi vào năm 2012. Thậm chí tại Nga, từ lâu đã bị mô tả là một vùng thảm họa dân số [demographic disaster zone], tuổi thọ trung bình cũng đứng ở mức ngoài 70 một chút – nghĩa là cao hơn bao giờ hết trong lịch sử Nga. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ sinh, vốn đã thấp, lại giảm nhanh hơn tại các các nước hậu cộng sản tính theo tỉ lệ phần trăm so với bất cứ khu vực nào trên thế giới trong thời gian từ 1990 đến 2010. Lượng rượu cồn tiêu thụ [của mỗi người] tính trung bình cũng nhích xuống từ 2,1 gallon [hay 7,95 lít] cồn tinh chất vào năm 1990 xuống 2,0 gallon [hay 7,57 lít] vào năm 2010. Có vài ngoại lệ: lượng rượu tiêu thụ đã tăng lên tại Nga và các quốc gia Baltic. Nhưng thậm chí lượng rưọu trung bình cho mỗi đầu người tại Nga vào năm 2010 là 2,9 gallon [hay gần 11 lit] vẫn còn thấp hơn ở Áo, Pháp, Đức, hay Ái Nhĩ Lan.
Mặc dù những tiến bộ như về mức sống, chẳng hạn, là quan trọng; nhưng chuyển đổi cơ bản nhất đã diễn ra tại các nước trong khối Đông cũ là chính trị. Người dân của hầu hết các quốc gia chuyển đổi chế độ hiện sống dưới những chính phủ tự do và cởi mở hơn bất cứ thời điểm nào trong lịch sử của họ. Thậm chí khi đối chiếu với bối cảnh trong đó thể chế dân chủ đã trỗi dậy trên toàn cầu vào những thập niên gần đây, mức độ chuyển đổi chính trị trong khối Đông cũ vẫn là rất ngoạn mục.
Một vài số liệu có thể chứng minh điều này. Sử dụng thước đo phổ biến nhất về các chế độ chính trị, gọi là Chỉ số Chính thể [Polity index], do Trung tâm Nghiên cứu Hoà bình của các Thể chế [the Center for Systemic Peace], chúng tôi đặt các nước trên một thang điểm từ số không (thuần túy độc tài) đến 100 (thể chế dân chủ vững mạnh nhất). Vào năm 1988, các quốc gia khối Đông được xếp từ vị thứ 5 (Albania) đến 40 (Hungary), tính trung bình các nước trong khối này có điểm số 20, gần với điểm số của Ai Cập và Iran. Dựa vào trình độ phát triển kinh tế lúc bấy giờ, các nước cộng sản nổi bật lên như là những chế độ độc tài khác thường trên thế giới. Sau các cuộc cách mạng 1989-91, Chỉ số Chính thể trung bình của chúng đã tăng vọt, vươn tới điểm số 76 vào năm 2013. Ngày nay, một nước hậu cộng sản trung bình được hưởng tự do của một nước bình thường như người ta kỳ vọng, dựa vào mức lợi tức quốc gia của nó. Có đến 6 nước hậu cộng sản có Chỉ số Chính thể cao nhất, ngang hàng với Đức và Mỹ.
VƯƠN CAO HƠN NỮA
Các nước hậu cộng sản ngày nay còn lâu mới trở nên hoàn hảo. Nhưng hầu hết các khuyết điểm của chúng cũng là thuộc tính tiêu biểu cho các quốc gia có cùng một trình độ phát triển kinh tế. Trên nhiều mặt, các nước này còn đạt được những thành tích tốt đẹp hơn, vượt ra ngoài các dự đoán dựa vào lợi tức quốc gia. Và trong một số ít trường hợp tụt hậu, các nước này gần như luôn luôn đi đúng hướng.
Xin lấy nạn tham nhũng làm ví dụ. Khu vực này thường xuyên bị đánh giá rất thấp trên các chỉ số đo lường nạn tham nhũng mà người ta tin là có thật [perceived corruption]. Thành tích yếu kém này là không đáng ngạc nhiên vì những chỉ số đo lường nạn tham nhũng phần nào đã dựa vào các cuộc thăm dò các nhà doanh nghiệp quốc tế, là những người có khả năng bị lung lạc do cái hình ảnh bẩn thỉu của khu vực này được nêu lên trên các phương tiện truyền thông toàn cầu. Nhưng các chỉ số của nạn hối lộ được chính người dân của những nước hậu cộng sản này tường thuật trong các cuộc thăm dò không tiết lộ danh tánh lại vẽ ra một bức tranh khác hẳn. Những chỉ số này, mặc dù cao, vẫn là tiêu biểu cho các nước có một mức lợi tức tương đương. Các cuộc thăm dò do tổ chức giám sát Minh bạch Quốc tế [Transparency Internatonal] tiến hành từ năm 2010 đến năm 2013 cho thấy rằng số người thú nhận đã hối lộ quan chức tại một quốc gia hậu cộng sản trung bình (23 phần trăm) là ít hơn con số trung bình tại những nước khác (28 phần trăm).
Về xung đột vũ trang cũng thế, khu vực này không khác với những vùng có cùng mức độ phát triển tương đương. Mặc dù chiến tranh đã xảy ra tại Nam Tư cũ, Chechnya, và hiện nay tại Ukraine, các nước hậu cộng sản không khác với các quốc gia có cùng một mức độ phát triển, trong khả năng trải qua xung đột vũ trang hay nội chiến trong 25 năm qua. Các quốc gia này cũng không cho thấy tỉ lệ tử vong cao hơn, cả trong chiến tranh hay bạo động lẫn qua số liệu tuyệt đối hoặc tính theo đầu người. Và mặc dù cuộc xung đột vũ trang tại Ukraine là quá mới để được tính vào những con số này, nhưng nó không có khả năng thay đổi kết quả thống kê, trừ phi chiến sự ở đó leo thang ra ngoài vòng kiểm soát.
Đằng sau những dữ liệu này, người ta còn chứng kiến tiến trình phi quân sự hóa nhanh chóng của toàn khu vực: so với chi phí quốc phòng của Liên Xô cũ có khi lên đến 25 phần trăm GDP, ngày nay không một quốc gia kế tục nào của nó, kể cả Nga, có ngân sách quốc phòng vượt quá 5 phần trăm GDP. Thậm chí khi liên minh của chúng tan rã, các quốc gia trong khốiWarsawcũ đã cho giải ngũ một triệu binh lính.
Nạn lạm phát và thất nghiệp cũng là hai vấn đề khác cần được bàn đến. Vào những năm 1990, hầu hết các nước hậu cộng sản đều kinh qua những gian khổ do vật giá leo thang và nạn thất nghiệp tăng vọt. Tuy nhiên, trước năm 2012, tình trạng lạm phát gần như đã được ổn định tại hầu hết những nước này; tỉ lệ lạm phát trung bình của các nền kinh tế hậu cộng sản trên thực tế đã rơi xuống dưới tỉ lệ lạm phát trung bình toàn cầu. Và mặc dù nạn thất nghiệp tại các nước chuyển đổi chế độ này vẫn còn cao hơn vài phần trăm so với các quốc gia có cùng trình độ kinh tế, nhưng tỉ lệ này vẫn tiếp tục đi xuống kể từ khi chạm đỉnh khoảng năm 2000.
Những năm gần đây còn chứng kiến những cải thiện trong một lãnh vực khác mà các nước hậu cộng sản đã từng tụt hậu so với phần còn lại của thế giới: đấy là hạnh phúc của người dân. Theo đợt thăm dò mới nhất của tổ chức Nghiên cứu các Giá trị Thế giới [the World Values Survey], được tiến hành trong những năm 2010-14, các nước trong khối Đông cũ cũng sắp bắt kịp thế giới về phương diện hạnh phúc. Tính trung bình, 81 phần trăm dân chúng được hỏi ý kiến tại các nước hậu cộng sản cho biết rằng họ hoặc là “rất” hoặc là “hoàn toàn” hạnh phúc, so với 84 phần trăm toàn thế giới. Với mức lợi tức hiện có, người dân tại những nước này không còn đặc biệt trầm cảm [particularly depressed] như trước – mặc dù họ vẫn bày tỏ nỗi bất bình khác thường [unusual dissatisfaction] với công việc, với chính phủ, cũng như với hệ thống giáo dục và y tế. Tỉ lệ tự sát, mặc dù vẫn còn tương đối cao, đã giảm bớt đáng kể từ khi chế độ cộng sản cáo chung.
CÁC QUI LUẬT VỀ SỰ THU HÚT GIỮA CÁC QUỐC GIA
Bài nghiên cứu các giá trị trung bình này làm lu mờ sự khác biệt to lớn diễn ra từ khi tính đồng phục [uniformity] do Moscow áp đặt lên chư hầu của mình cáo chung. Ngày nay, sự tương phản giữa các quốc gia hậu cộng sản đa dạng này là rất rõ nét. Ba Lan đã trở thành một nước dân chủ thị trường tự do có lợi tức quốc gia tăng lên hơn hai lần kể từ năm 1990; Tajikistan vẫn là một nước độc tài, trên mình còn mang thương tích chiến tranh và cực kỳ nghèo khổ, do một nhà lãnh đạo duy nhất đứng đầu suốt hơn 20 năm.
Một lý giải được lặp đi lặp lại nhiều lần về sự cách biệt giữa các thành quả kinh tế là, tại một số nước các quan chức chính phủ đã phá hoại hiệu quả bằng cách theo đuổi các cải tổ quá táo bạo. Theo luận cứ này, một đường lối chậm rãi hơn, có bài bản hơn đã giúp một số nước khác thực hiện các cuộc chuyển đổi thành công hơn. “Các chính sách theo đường lối tuần tự [gradualist policies] sẽ ít gây thiệt hại trong ngắn hạn, nhưng sẽ dẫn đến ổn định kinh tế và xã hội rộng lớn hơn, và thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong dài hạn,” nhà kinh tế Joseph Stiglitz đã lập luận trong cuốn sách ông xuất bản năm 2002, Globalization and Its Discontents [Toàn cầu hóa và những nỗi bất bình]. “Trong cuộc chạy đua giữa con rùa và con thỏ, hình như con rùa lại thắng cuộc một lần nữa.” Lý giải này đã thu hút những người trong khối Xô-viết cũ khi họ nhận thấy các đặc quyền của mình bị tiến trình tự do hoá đe dọa và những người ở phương Tây mất lòng tin vào các thế lực kinh tế thị trường. Nhưng lý luận như vậy là sai lầm: khoảng giữa thập niên 1990, các nước theo đuổi cải tổ một cách nhiệt tình đã thành công vượt bậc so với những nước trì hoãn cải tổ.
Chỉ nhìn sơ vào các dữ liệu cũng đủ cho ta hậu thuẫn kết luận này. Để đo lường tiến độ của sự cải tổ, chúng tôi dựa vào các chỉ số được Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu đưa ra, điều chỉnh chúng để định cho mỗi nước một số điểm hàng năm từ 0 đến 100, tùy theo mức độ mà nước đó tiến gần đến kinh tế thị trường tự do. Chúng tôi gọi những nước vượt lên trên 40 điểm trong ba năm đầu của thời kỳ quá độ là “những nước cải tổ triệt để [radical reformers].” Chín quốc gia hội đủ tiêu chuẩn này: Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Estonia, Ba Lan, Nga, và Slovakia. Chúng tôi gọi những nước có điểm từ 25 đến 40 là những nước “cải tổ tuần tự [gradual reformers],” và những nước chưa vươn tới 25 điểm là “những nước cải tổ chậm [slow reformers].”
Việc so sánh thành tích kinh tế của ba nhóm nước này cho thấy rằng những cải tổ nhanh chóng hơn và triệt để hơn sẽ giảm thiểu, chứ không tăng thêm khó khăn kinh tế. Công bằng mà nói, khi bắt đầu quá trình chuyển đổi, các nước thuộc nhóm cải tổ triệt để đã chứng kiến sự suy giảm sản lượng trầm trọng hơn một chút so với các nước thuộc nhóm cải tổ tuần tự. Nhưng sau ba năm, những nước cải tổ triệt để đã xốc tới phía trước, vượt xa các nước cải tổ tuần tự. Trong khi đó, những nước cải tổ chậm gặp nhiều khó khăn nhất và ngày nay tiếp tục tụt hậu so với hai nhóm kia.
Cuối cùng những nước cải tổ tuần tự đã bắt kịp những nước cải tổ triệt để, nhưng việc này chỉ xảy ra sau nhiều năm chịu thiệt thòi vì phải trả giá đắt cho hiệu quả thấp [underperformance]. So với những nước hăng hái đi theo thị trường tự do, những nước cải tổ tuần tự mất nhiều thời gian hơn để lấy lại mức tiêu thụ hộ gia đình đã có trước đó và để ổn định giá cả lạm phát. Và trong mức độ người ta có thể phán đoán, dựa vào các dữ liệu thống kê hiện có, nạn thất nghiệp đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến những nước chậm cải tổ như Armenia và Madedonia, nghiêm trọng hơn các nước khác cùng kinh qua thời kỳ quá độ. Nhìn chung, không có bằng chứng nào cho thấy đường lối cải tổ tuần tự có thể giảm bớt sự nhức nhối của quá trình chuyển đổi. Tất cả mọi dấu hiệu đều chỉ theo chiều ngược lại: chính những con thỏ, chứ không phải những con rùa, đã thắng cuộc đua. Nhiều con rùa cuối cùng cũng theo kịp, nhưng chỉ sau khi lặn lội một hành trình gian khổ hơn.
Ngoài sự khác biệt vì cải tổ nhanh hay chậm, một mô hình nổi bật khác phát sinh từ vị trí địa lý của một quốc gia ở trong khu vực. Những tiên đoán trước đây, rằng tất cả các nước đang chuyển đổi rồi sẽ giống các quốc gia phương Tây, đã không trở thành hiện thực. Quá trình hội tụ quả thật đã diễn ra, nhưng ở hướng khác: giữa các nước hậu cộng sản và các lân bang phi cộng sản. Trên nhiều phương diện, các quốc gia hậu cộng sản đã trở nên tương tự với những nước phi cộng sản gần biên giới của chúng nhất.
Những quốc gia Baltic xích gần với Phần Lan hơn, những nước trong vùng Caucasus xích gần với Iran và Thổ Nhĩ Kỳ hơn. Những quốc gia Trung Á trở nên gần giống với Afghanistan và Iran hơn. Những nước Trung Âu thì xích gần với Áo và Đức hơn, nhưng thỉnh thoảng vẫn được các nước láng giềng ở phía Đông níu kéo. Có vài ngoại lệ đối với mô hình này – đáng lưu ý nhất là Belarus, một nước đã trở nên độc tài hơn so với những nước hậu cộng sản láng giềng. Nhưng trong hầu hết mọi trường hợp, sau khi thoát khỏi gọng kềm của Moscow, các chư hầu Xô-viết cũ đã nhanh chóng bung ra, hội nhập vào môi trường khu vực của mình.
Các đặc tính của những nước láng giềng không cộng sản gần gũi nhất của mỗi quốc gia vào thời điểm 1990 có thể gợi ý mạnh mẽ về đường hướng phát triển sau này của quốc gia đó. Nếu xét đến khởi điểm của từng nước, chúng ta sẽ thấy rằng hễ các nước láng giềng phi cộng sản càng giàu có, càng dân chủ và càng tự do về mặt kinh tế, thì cuối cùng nước hậu cộng sản đó sẽ trở nên giàu có, dân chủ và tự do về mặt kinh tế hơn trước. Sự hội tụ này còn biểu hiện trong nhiều cung cách tế nhị hơn nữa – chẳng hạn, trong tỉ lệ sinh viên đăng ký vào đại học, trong mức tiêu thụ rượu cồn, và thậm chí trong tuổi thọ trung bình. Đôi khi, các nước láng giềng còn ảnh hưởng trực tiếp lên viễn ảnh phát triển của những nước hậu cộng sản này, như trường hợp quân chiến đấu Hồi giáo từ bên kia biên giới Afghanistan tấn công vào Tajikistan hay khi các công ty Đức thành lập các nhà máy sản xuất tại Cộng hòa Séc. Nhưng một động lực quan trọng hơn thúc đẩy tính đồng qui này chắc hẳn là những đặc tính văn hóa cơ bản đã có trước chế độ cộng sản và các biên giới quốc gia hiện nay.
NHỮNG KỲ VỌNG TO LỚN
Mười năm về trước, chúng tôi đã lập luận trong tạp chí này rằng Nga đã trở thành “một quốc gia bình thường,” với các khuyết tật chính trị và kinh tế tương tự khuyết tật của những quốc gia cùng trình độ phát triển. Chúng tôi dự đoán rằng tăng trưởng kinh tế của Nga sẽ tiếp diễn, đồng thời hiện đại hóa xã hội theo bước phát triển đó. Tiên đoán này đã trở thành hiện thực: GDP tính theo đầu người của Nga đã tăng thêm 39 phần trăm kể từ năm 2004, và sự thâm nhập Internet tại Nga đã tăng lên 4 lần, qua mặt Hy Lạp.
Quay sang chính trị, chúng tôi phác họa hai kịch bản có thể xảy ra. Kịch bản thứ nhất nêu lên “sự cạnh tranh ngày một gia tăng giữa các đảng phái dân chủ và sự xuất hiện của một xã hội dân sự ngày một vững mạnh hơn.” Kịch bản thứ hai tiên đoán một “sự tuột dốc hướng tới một chế độ độc tài được quản lý bởi các cán bộ nhà nghề trong ngành công an dưới chiêu bài của các thủ tục dân chủ hình thức.” Tiên đoán của chúng tôi cho rằng Nga sẽ vạch ra một con đường nằm giữa hai thái cực này – một tiên đoán hóa ra là quá lạc quan, xa vời thực tế. Cuối cùng, Tổng thống Nga đã chọn phương án thứ hai.
Việc Putin chọn con đường độc tài rõ ràng làm cho Nga trở thành nguy hiểm hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, việc này vẫn chưa làm cho Nga trở nên bất bình thường về mặt chính trị. Thật vậy, trên một biểu đồ đối chiếu chỉ số Chính thể [Polity scores] của nhiều quốc gia khác nhau với chính lợi tức của chúng, Nga vẫn chỉ chệch hướng một chút so với mô hình tổng quát. Đối với một nước có lợi tức quốc gia như Nga, chỉ số Chính thể dự kiến vào năm 2013 là 76 trên thang điểm 100. Chỉ số thực của Nga là 70, ngang hàng với Sri Lanka và Venezuela.
Nếu Nga thậm chí trở nên giàu có hơn nữa mà không chịu tự do hóa chính trị, nó mới thực sự trở thành bất bình thường. Chỉ có ba nhóm nước giàu hơn Nga hiện nay là các nước dân chủ phát triển, các nước độc tài dầu lửa (hầu hết nằm trong vùng Vịnh Ba Tư), và các quốc gia đô thị (city-states) như Singapore và Macao. Rõ ràng là Nga không thể trở thành một quốc gia đô thị, và nó không có đủ tài nguyên thiên nhiên để trở thành một nước độc tài kiểu Ả-rập. (Lợi tức từ dầu khí hàng năm của Nga là 3.000 USD mỗi đầu người, so với 34.000 USD đối với Kuwait.) Vì thế Nga hiển nhiên phải chọn giữa trải qua bế tắc kinh tế và theo đuổi phát triển kinh tế song song với dân chủ hóa mạnh mẽ hơn trước. Hiện nay, Điện Kremlin có vẻ quyết tâm đi theo lựa chọn thứ nhất, nhưng những lựa chọn của nó có thể thay đổi theo thời gian.
Tuy vậy, chủ nghĩa độc tài ngày càng gia tăng của Nga chắc chắn không làm cho thế giới sao lãng những tiến bộ ngoạn mục của khu vực hậu cộng sản này nói chung. Hai mươi lăm năm về trước, những nước thuộc về khối Đông tiêu biểu cho một trong hai nền văn minh loại trừ lẫn nhau trên thế giới [an alternative civilization]. Vào lúc đó mà tưởng tượng chúng nhanh chóng hòa nhập vào dòng chính toàn cầu [the global mainstream], phải cần đến một sự bạo gan nào đó. Thời kỳ quá độ đã gây ra không ít thất vọng. Nhưng nhìn chung, những thay đổi từ năm 1989 đến nay là một thành công nổi bật.
Đã đến lúc phải xét lại cái cảm thức sai lầm về giai đoạn này. Những cải tổ thị trường, những nỗ lực xây dựng dân chủ, những cuộc tranh đấu chống tham nhũng đã không thất bại, mặc dù chúng vẫn chưa hoàn tất. Luận điệu cho rằng một đường lối cải tổ kinh tế tuần tự sẽ có hiệu quả hơn và ít gây đau đớn hơn đã bị các bằng chứng dữ liệu bác bỏ. Thời kỳ quá độ hậu cộng sản không hề cho thấy sự bất cập của chủ nghĩa tư bản tự do hay sự rối loạn chức năng của thể chế dân chủ. Nói đúng hơn, nó chứng minh tính ưu việt và lời hứa hẹn trường tồn của cả hai.
______
ANDREI SHLEIFER là Giáo sư Kinh tế tại Đại học Harvard. DANIEL TREISMAN là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Calfornia, Los Angeles, và là tác giả cuốn The Return: Russia’s Journey From Gorbachev to Medvedev [Trở về thế giới bình thường: Hành trình của Nga từ Gorbachev đến Medvedev.]
Hình: Baku, thủ đô Azerbaijan ngày nay
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh: “Normal Countries. The East 25 Years After Communism”. Foreign Affairs số tháng Mười Một/Mười Hai 2014.
Bản tiếng Việt @ 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
November 27, 2014
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (3)
Bài liên quan:
Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Những chỗ bị kiểm duyệt sửa đổi và cắt bỏ trong bản dịch cuốn “Điệp viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” của Thomas A. Bass
Bản dịch trọn vẹn: Thomas A. Bass – Điệp viên yêu chúng ta. Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn
Trao đổi lại với ông Thomas A. Bass về phần biên tập ban đầu cuốn sách của ông mà tôi tham gia
Thomas A. Bass – Phản hồi độc giả nhân lần xuất bản tại Berlin
Thomas A. Bass – Rừng Sát: hiện tượng kiểm duyệt tại Việt Nam (Bản dịch mới – Kỳ 1)
Thomas A. Bass – Rừng Sát: hiện tượng kiểm duyệt tại Việt Nam (Bản dịch mới – Kỳ 2)
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (1)
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (2)
In doubt we publish
Một nhà báo nghiêm túc có được phép khai thác hay dẫn nguồn, chẳng hạn, từ đoạn băng ghi cuộc điện đàm “Fuck the EU” giữa bà Trợ lí Ngoại trưởng Hoa Kỳ Victoria Nuland và Đại sứ nước này tại Ukraine Geoffrey Pyatt, hay đoạn băng ghi cuộc điện thoại “dọn sạch tiền trong nhà” giữa cha con Erdoğan, thời còn là Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ, hay đoạn băng ghi âm ông Chủ tịch Tập đoàn Đại Dương Hà Văn Thắm cùng đàn em dọn dẹp hậu trường đi đêm giữa giới mafia tài phiệt và thượng đỉnh quyền lực chính trị? Theo quan niệm báo chí truyền thống, câu trả lời là không. Đó là những tư liệu chưa được kiểm chứng và bất hợp pháp. Luật pháp của hầu hết mọi quốc gia đều nghiêm cấm việc bí mật đặt máy nghe trộm rồi đem công bố. Song theo Wikileaks, câu trả lời sẽ là: In doubt we publish.
Đúng 10 năm trước, cùng tòa soạn talawas tôi đứng trước một quyết định: Có nên đăng tập tài liệu mang tên “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng” của nhà báo Nhật Hoa Khanh không. Lí do để không đăng ít nhất cũng nhiều bằng lí do để đăng. Tác giả hoàn toàn im lặng trước những cáo buộc là giả mạo, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, từ chính vợ ông Tố Hữu, trên báo chí chính thống. Việc thẩm định độ xác thực của tài liệu nằm ngoài khả năng của chúng tôi, song có hai điểm quan trọng ủng hộ cho việc công bố: thứ nhất, tác giả có thật, được biết đến ở Việt Nam dưới bút danh này; thứ hai, Tố Hữu là một nhân vật mà công luận quan tâm. Quyền được biết của công luận, đã giành được và được dành vị trí ưu tiên.
Nhưng the public´s right to know là một khái niệm co giãn. Nó đã nhiều lần bỏ rơi các nhà báo chân chính và chống lưng cho báo chí giật gân lá cải. Ngay ở các nước có đủ các định chế chính trị, luật pháp và văn hóa, cộng thêm một truyền thống báo chí tự do lâu đời và một trình độ dân trí tương đối cao, người ta vẫn không dễ dàng xác định quyền được biết của công luận chấm dứt và quyền riêng tư bất khả xâm phạm bắt đầu từ ranh giới nào.
Khi nước Mỹ rúng động về vụ cô thực tập sinh có mái tóc bồng, tôi – lúc đó mới sống 5 năm ở phương Tây – đã đi từ ngạc nhiên này đến sững sờ khác. Người Mỹ dường như không có việc gì đáng làm hơn là bình luận hàng tháng trời về oral sex có phải là sex. Báo chí truyền thông Hoa Kỳ dường như không thấy một đề tài nào quan trọng hơn điếu xì-gà, chiếc váy xanh vấy tinh dịch và blow job trong Oval Office. Rồi khi ông Bill Clinton đứng ra trước ống kính truyền hình từ Map Room trong Nhà trắng ngày 17/8/1998 vừa xin lỗi vừa tự vệ, vừa mếu máo vừa hùng hồn: Even presidents have private lives, Tổng thống cũng có quyền có đời tư không liên quan gì đến ai, tôi đồng ý ngay, chỉ tiếc là cái gu ái tình của người đàn ông bảnh bao và giàu quyền lực nhất thế giới này có vẻ xích về hướng ăn tạp hơn ăn tinh.
Tôi đến từ một xứ sở, nơi một nhúm nhân vật đứng đầu quốc gia ra những chính sách để một bộ máy công quyền với tay vào tận giấc mơ và những thứ khác trong giường ngủ của dân chúng, nhưng chính họ thì tồn tại cách li khỏi công luận. Báo chí Việt Nam thoải mái đăng hình Obama khiêu vũ với vợ, cầm tay vợ, ôm vợ, hôn vợ, đút thức ăn cho vợ; người Việt biết rõ đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ mặc váy của nhà thiết kế nào vào dịp nào, hai đệ nhất khuyển trong Nhà trắng tên là gì, lai lịch ra sao; hai đệ nhất tiểu thư học trường nào, đóng bao nhiêu học phí. Người Việt cũng được thông tin kha khá về gia tộc họ Kim, thậm chí biết cả vụ Kim con phải điều trị mắt cá chân vì thích đi giày đế cao. Nhưng không biết gì về các nhà lãnh đạo quốc gia của chính mình. Kim con cao 175 cm so với Kim cha 160, Putin 170, Sarkozy 165, Đặng Tiểu Bình 152, Tập Cận Bình 180 và Omaba 185 cm. Nhưng đố ai biết chiều cao của các nhà lãnh đạo Việt Nam, kể cả Hồ Chí Minh. Tôi thật sự muốn biết Bộ Chính trị phải dùng chung một loại thuốc nhộm tóc hay được tùy ý lựa chọn trên thị trường tự do. Trừ ông Nguyễn Phú Trọng bạc minh bạch và ông Nguyễn Thiện Nhân bạc do dự, tóc tất cả các vị đã trên lục tuần ấy đều đồng bộ đen nhánh. Tóc đen, cà vạt đỏ có phải là điều kiện bắt buộc để làm chính trị tại Việt Nam không?
Hay phu nhân của Thủ tướng đã sắm chiếc áo dài ren màu tím rùng rợn khi tiếp vợ chồng Thủ tướng Singapore ở chợ nào?
Phu nhân của Tổng Bí thư đã đứng bao lâu trước gương để chọn cho mình bộ áo dài tuyết nhung loang lổ hoa văn đáng kinh hãi, bên ngoài khoác thêm chiếc áo vét cán bộ màu be, khi tiếp vợ chồng Chủ tịch Lào? Thế hệ màu be là thảm họa toàn cầu, thành tích riêng của các mệnh phụ Việt Nam là kết hợp nó với xì-tai áo dài sặc sỡ quệt sát đất. Song tôi e rằng đó cũng là những bí mật quốc gia, hoặc khu vực riêng tư cấm nhà báo xâm phạm. Cho nên, sống thêm 15 năm nữa ở phương Tây, khi bà nhà báo Valérie Trierweiler, cựu đệ nhất tình nhân nước Pháp, tung ra cuốn sách về Tổng thống bê bối François Hollande, tuy ghét trò kể tội người tình xưa và rất không ưa chuyện đem đồ lót ra phơi ở quảng trường, tôi vẫn thấy hành động của bà hơn hẳn truyền thống ngậm miệng làm thinh của các Đệ nhất Phu nhân khác của nước Pháp, bà Pompidou, bà d’Estaing và đặc biệt bà Mitterrand, để các đấng ông chồng trăng hoa của họ có vợ lớn, vợ bé, con chung, con riêng, thậm chí bằng tiền dân đóng thuế. Ở Việt Nam, chỉ một bài báo hé lộ rằng Hồ Chủ tịch từng có vợ người Hoa chứ chưa cần mở một cánh cửa phòng the nào đã khiến Tổng biên tập một tờ báo lớn mất chức.
Quyền được biết của công luận thắt lại đến tối thiểu trong định nghĩa bóp nghẹt của một nền độc tài chính trị và phình ra đến tối đa trong định nghĩa vụ lợi của một nền độc tài thương mại giải trí. Ở một xã hội chưa ra khỏi nền độc tài kể trước đã sắp bước vào nền độc tài kể sau như Việt Nam, định nghĩa nào đủ hiệu lực cho một hiện thực vừa thả cửa bùng phát vừa giam hãm o bế, vừa vô chính phủ vừa chuyên chế, vừa hỗn loạn vừa định hướng gắt gao? Báo chí hồn nhiên trưng ảnh chụp hàng loạt chứng minh thư và giấy tờ tùy thân của người dân để giật tít về những cái tên “độc” ở Việt Nam. Báo chí vô tư trình ra các bệnh án cá nhân, kể cả của người đang điều trị về tâm thần, trước bàn dân thiên hạ. Những bé gái bị xâm phạm tình dục xuất hiện với đầy đủ họ tên, địa chỉ, thậm chí kèm cả ảnh trên mặt báo. Cáo trạng được đăng trước khi xét xử. Nghi can bị công luận chỉ mặt gọi tên trước khi tòa truy tố. Sao lớn sao nhỏ bày mông đùi như xếp cỗ. Đời những phụ nữ bán dâm bị mở tanh bành. Hàng vạn khách hàng bị một công ti với slogan “Giá trị thực cho niềm tin bền vững” gài phần mềm nghe trộm. Chính quyền yêu cầu dân khai cả số điện thoại và địa chỉ email vào phiếu lí lịch. Và ít nhất 500 triệu tài khoản Facebook của 90 triệu người Việt trở thành chốn riêng tư công khai khổng lồ, nơi họ, cộng đồng FB tự nguyện thi đua tích cực nhất thế giới, hăng hái triển lãm mình và nhân tiện trưng luôn cả anh hàng xóm, như thể ngày tận thế là ngày FB down. Nếu internet truyền được cả mùi, tôi tin rằng anh hùng FB đầu tiên chia sẻ cái mùi vô cùng độc đáo của mình với cộng đồng mạng mênh mông sẽ đến từ Việt Nam. Song ở chính đất nước ấy, việc báo chí truyền thông điều tra nghi án gian lận tuổi của một cầu thủ nổi tiếng lại bị coi là xâm phạm bí mật đời tư. Ở chính đất nước ấy, ly hôn thì xử công khai còn chính trị xử kín, và sức khỏe của giới lãnh đạo là bí mật quốc gia. Đầu năm 1984, dân chúng Liên Xô tuyệt không biết gì, nhưng người phụ trách văn phòng của tờ Washington Post tại Moskva, nhà báo Dusko Doder, thì đưa trúng tin Tổng Bí thư Yuri Andropov vừa qua đời ngày 9/2, trước cả thông báo chính thức từ chính quyền Xô-viết. Khẳng định của ông dựa vào một số dấu hiệu, chẳng hạn trụ sở Bộ Quốc phòng Liên Xô sáng đèn suốt đêm, và một chương trình nhạc jazz trong đài phát thanh bỗng được thay bằng nhạc cổ điển. Khi Brezhnev mất hai năm trước, đài Liên Xô cũng đổi chương trình nhạc, từ đại chúng sang cổ điển. 25 năm sau kỉ nguyên Xô-viết, công luận Việt Nam trở tay không kịp với tin ông Phạm Quý Ngọ đột ngột từ trần, còn bệnh tình của ông Nguyễn Bá Thanh là cả một kì án.
Vì thế tôi hiểu sự phân vân, ngay trong giới truyền thông và xuất bản Việt Nam, rằng bài phóng sự của Thomas A. Bass có thể xâm phạm quyền riêng tư của những nhân vật được đề cập. Tôi không băn khoăn như vậy. Các nội dung được ông nhà báo Mỹ tường thuật thuần túy tập trung vào công việc giữa ông và những người liên quan trong quá trình xuất bản cuốn sách của ông. Song chủ đề khó khăn này thường vượt quá thẩm quyền bình luận của các cá nhân đứng ngoài. Phán quyết cuối cùng nên thuộc về tòa án, nếu người ta được sống trong một hệ thống tư pháp ít nhiều đáng tin cậy. Để lấy một ví dụ: Spickmich, một trang mạng chấm điểm giáo viên ở Đức ra đời mấy năm trước, với gần một triệu học trò là thành viên tham gia đánh giá thày cô giáo. Đó quả là một ý tưởng đặc biệt. Thày và trò bỗng đổi vai. Kết quả được đăng công khai: tên giáo viên, dạy môn gì, ở trường nào, được học trò cho mấy điểm, căn cứ trên một số tiêu chí như năng lực chuyên môn, nhiệt tình giảng dạy, tư cách trên bục giảng, thái độ ứng xử với học trò, sự công bằng khi chấm bài, và cả phong cách thời trang. Đầu tiên là một cô giáo bị điểm quá xấu đâm đơn kiện, rồi kéo theo hàng loạt thày cô khác, với sự ủng hộ đáng kể trong dư luận xã hội, nhiều người đòi cấm hẳn trang này. Họ cho rằng những thông tin cá nhân và quyền riêng tư của các giáo viên bị xâm phạm nghiêm trọng. Song từ Tòa Tiểu bang đến Tòa Thượng thẩm Tiểu bang, rồi Tòa Thượng thẩm Liên bang và cuối cùng là Tòa Bảo hiến Liên bang, tất cả các cấp thẩm quyền của hệ thống tòa án ở Đức đều bác bỏ đơn kiện của các thày cô. Tòa phán, giáo viên phải chấp nhận việc học trò có thể đánh giá mình không như mình mong đợi. Dù học trò chấm sai, thậm chí không loại trừ cả những động cơ cá nhân, nhưng quyền nhận định về giáo viên của học trò – rốt cuộc đó là quyền tự do chính kiến – được đặt cao hơn quyền bảo vệ thông tin của các thày cô, vả lại những thông tin ấy không thực sự là riêng tư vì chúng gắn với công việc. Đã đánh giá một giáo viên thì không thể không nêu đích danh tên, trường, bộ môn dạy, và chấm điểm cho từng mục, kể cả nhận định rằng cô giáo ăn mặc tẻ nhạt hay sexy.
Một nghi vấn khác cũng được đặt ra trong vụ “Rừng Sát” là breach of confidence. Tác giả đã có lời trần tình, thậm chí còn cho biết đã gửi bài cho những người liên quan xem lại từ vài tuần trước khi công bố. Gây dựng hay phản bội lòng tin, rốt cuộc chỉ chính những người trong cuộc tự biết. Đôi khi sự thỏa thuận chỉ ở trong một ánh mắt, trong một lời ngập ngừng, trong một cái cười nửa môi, những điều không có hiệu lực gì trước luật pháp vô tình. Song ngay cả khi sự bội tín của nhà báo là không thể chối cãi thì phán quyết từ cả dư luận lẫn những định chế luật pháp cuối cùng vẫn cần dựa trên sự cân nhắc: lợi ích chung của xã hội trong mỗi trường hợp cụ thể có đủ lớn để biện minh cho thiệt hại riêng của cá nhân liên quan hay không. Không có công thức pha sẵn nào cho mọi trường hợp.
Nhà báo Heribert Schwan vốn được tuyển làm ghostwriter, người viết thuê cho cựu Thủ tướng Đức Helmut Kohl. (Viết thuê ở phương Tây rất phổ biến. John F. Kennedy khi còn là Thống đốc Massachusetts thậm chí còn đoạt giải Pulitzer cho Profiles in Courage, cuốn sách do trợ lí Ted Sorensen của ông viết. Cuốn It Takes a Village: And Other Lessons Children Teach Us của Hillary Clinton khi đang là Đệ nhất Phu nhân do bà Barbara Feinman, một giáo sư báo chí viết. Bài được báo chí Việt Nam coi là “diễn văn lịch sử” của Putin tháng Ba năm nay, đón chào Krym trở về nước mẹ Nga, do Vladislav Surkov, cố vấn riêng của Putin chấp bút.) Sau ba tập hồi kí và cả một cuốn nhật kí, tổng cộng 3000 trang đứng tên nhà chính khách, ông bị sa thải vì xung đột gay gắt với người vợ mới của nhà chính khách, người muốn chăm sóc một hình ảnh hoàn hảo về Helmut Kohl cho hậu thế. Nhưng ông còn bản sao 630 tiếng đồng hồ trong 200 cuốn băng ghi 105 cuộc trò chuyện với Helmut Kohl, và đầu tháng Mười năm nay, ông xuất bản cuốn Di sản: Biên bản Helmut Kohl, đứng tên mình, khắc họa một chân dung chính khách không lấy gì làm đáng mến; moi ra những rác rưởi đằng sau bốn nhiệm kì 16 năm quyền lực của ông cựu Thủ tướng; tiết lộ những lời mạt sát của ông này về nhiều nhân vật chính trị ở cả Đức và trên đấu trường quốc tế. Tất cả trên cơ sở những lời thổ lộ trong chỗ tin cậy, không che đậy, thành thực đến tối đa của ông cựu Thủ tướng với ghostwriter của mình. Ông nhà báo đã bội tín, không có gì phải bàn thêm. Song có điên mới không xuất bản một cuốn sách như thế, cả các đồng nghiệp đang bịt mũi trước đạo đức nhà báo bốc mùi hôi rình của ông cũng phải đồng ý như vậy. Đó là một tác phẩm chứa đầy tư liệu vô giá về một chương quyết định trong lịch sử nước Đức, gồm cả giai đoạn Bức tường Berlin sụp đổ và hai nước Đức thống nhất. Vụ kiện tụng diễn ra rầm rộ. Theo phán quyết của tòa, từ lần tái bản tiếp theo tác giả phải loại bỏ chính xác 115 câu trích dẫn nguyên văn lời ông cựu Thủ tướng vì liên quan đến bản quyền, còn 200.000 cuốn đang phát hành thì được giữ nguyên. Tôi phục là tòa xử giỏi. Các bên liên quan đều có thua, có thắng. Thắng triệt để là bên đứng ngoài: lợi ích của công luận.
Người thường xuyên đi quá tất cả các ranh giới được coi là đạo đức nghề nghiệp thông thường, từ xâm phạm bí mật đời tư, giả mạo nhân thân, cải trang hình dạng, đặt băng bí mật đến phản bội lòng tin nổi tiếng nhất trong làng báo Đức là Günter Wallraff. Tên ông đã được chuyển thành khái niệm wallraffing để biểu thị trường phái báo chí undercover mà ông là đại diện tiêu biểu. Ông từng giả mạo tên tuổi, vào làm biên tập viên ba tháng trong tòa soạn báo Bild, tờ lá cải có số lượng phát hành ở thời điểm ấy khoảng 5 triệu bản hàng ngày, để sau đó viết một cuốn sách phanh phui những cung cách thông tin thiếu lương thiện của Bild. Tất cả những nỗ lực của tờ báo giàu thế lực này không ngăn cản được cuốn sách. Nó thành công vang dội. Trong những lần tái bản tiếp theo, một số đoạn dẫn nguyên văn lời các biên tập viên tòa soạn báo Bild bị bôi đen, nhưng từ năm 2009 đã xuất hiện trọn vẹn trên Wikileaks. In doubt we publish, mượn từ nguyên tắc căn bản trong các nền luật pháp tiên tiến, In dubio pro reo. Trong trường hợp sự bất hợp pháp của văn bản còn chưa được chứng minh đầy đủ, còn tồn tại hoài nghi, thì công bố.
(Còn tiếp 1 kì)
© 2014 pro&contra
November 22, 2014
Thomas A. Bass – Rừng Sát: hiện tượng kiểm duyệt tại Việt Nam (Bản dịch mới – Kỳ 2)
Phạm Hồng Sơn dịch
Bài liên quan:
Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Những chỗ bị kiểm duyệt sửa đổi và cắt bỏ trong bản dịch cuốn “Điệp viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” của Thomas A. Bass
Bản dịch trọn vẹn: Thomas A. Bass – Điệp viên yêu chúng ta. Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn
Trao đổi lại với ông Thomas A. Bass về phần biên tập ban đầu cuốn sách của ông mà tôi tham gia
Thomas A. Bass – Phản hồi độc giả nhân lần xuất bản tại Berlin
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (1)
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (2)
Thomas A. Bass – Rừng Sát: hiện tượng kiểm duyệt tại Việt Nam (Bản dịch mới – Kỳ 1)
Đọc toàn văn trong bản PDF
CÁC CƠ CHẾ KIỂM SOÁT VĂN CHƯƠNG
Một hôm vào tháng Ba 2014 một bản dịch tiếng Việt của The Spy Who Loved Us xuất hiện ở Hà Nội dầu không ai có thể cho tôi biết chắc và như tôi biết thì giấy phép xuất bản phải đến tháng Năm 2014 mới được cấp. Thậm chí nhan đề sách của bản dịch đó còn bị cắt và biến thành: Z.21, một mật danh của Phạm Xuân Ẩn. Dường như cuốn sách, giống như nhân vật của nó, có số phận phải âm thầm xuyên qua mảnh đất đầy bất trắc của những xung đột văn hóa tại Việt Nam.
Khi đang ngồi xem xét những chỗ bị cắt trong danh sách cuối cùng về các đoạn kiểm duyệt mà người ta đã gửi cho tôi trước đó, tôi nhận được một e-mail thông báo rằng cuốn sách đã được xuất bản. Đây là một vi phạm hợp đồng rõ ràng. Nhưng tôi quyết định không nhấn vào điểm này để được rảnh rang trong sáu tháng, như đã giao kèo, chuẩn bị cho việc công bố bản dịch không kiểm duyệt trên mạng (web). Web là nơi đang giúp văn chương Việt Nam giữ được sinh lực. Bởi cả một mạng lưới dày đặc và xám xịt được bện bằng những giám sát của công an, của tiền phạt, và cả bằng những song sắt nhà tù hay viễn cảnh lưu đày, đang mỗi ngày chụp sát hơn xuống giới nhà báo, blogger, nghệ sĩ, nhạc sĩ và nhà thơ nữa, khắp đất nước. Vâng, thậm chí nhà thơ Việt Nam cũng có thể bị tội vạ, như tôi sẽ sớm được biết trong chuyến thăm Việt Nam sắp tới.
Tôi đã tận dụng sự xôn xao chút ít của dư luận (gồm cả một bài đăng ngay trên trang bìa của tờ Tuổi Trẻ) từ việc xuất bản cuốn sách của tôi để lên kế hoạch cho hành trình tới Đông Nam Á. Tôi muốn được gặp những nhà kiểm duyệt mà tôi đã trao đổi, tranh luận suốt 5 năm qua, hoặc ít nhất là những người sẽ mạnh dạn nói chuyện với tôi. Vào một đêm cuối tháng Năm tôi tới Hà Nội trên một chuyến bay khởi hành từ Paris. Hạ cánh xong, tôi bơi luôn qua lớp sương mù đục của khói bụi hòa lẫn với nóng ẩm, rồi trú tại Khách sạn Nhà thờ trong khu phố cổ ngay gần Nhà thờ Lớn Saint Joseph. Từ nơi đó tôi lên lịch gặp Nguyễn Việt Long, biên tập viên đầu tiên của tôi ở Nhã Nam. Tôi cũng hẹn gặp với Nguyễn Nhật Anh và Vũ Hoàng Giang, giám đốc và phó giám đốc Nhã Nam. Sau này tôi mới biết có hai người nữa trong dự án này cũng muốn nói chuyện với tôi. Đó là ông Nguyễn Thế Vinh, biên tập viên của Hồng Đức – nhà xuất bản nhà nước đã đưa ra danh sách cắt xén cuối cùng, và cũng là nhà xuất bản mang lại giấy phép xuất bản cho cuốn sách. Một người khác, đó là ông Dương Trung Quốc, nhà sử học và là đại biểu của Quốc hội Việt Nam. Ông Quốc hình như là người đã có những tác động chính trị cần thiết cho cuốn sách của tôi – hoặc ít nhất là một phiên bản của nó – được xuất bản ở Việt Nam.
Người dịch của Z.21 là một nhà báo Hà Nội, ông Đỗ Tuấn Kiệt. Đáng tiếc là ông ấy lại không có ở Hà Nội trong khi tôi ở Việt Nam. Dựa vào bản dịch có thể thấy ông Kiệt là người nói tiếng Bắc, phương ngữ chiếm ưu thế, nay bị thấm nhiều thuật ngữ Mác-xít-Lê-nin-nít được mượn từ người Trung Quốc. Tai người miền Nam không hạp với loại ngôn ngữ này. Đó không phải là giọng của Phạm Xuân Ẩn, nhân vật trong cuốn sách của tôi, và quả thực, ông Ẩn đã chế giễu cách nói đó. Ông Ẩn đã coi mười tháng học ở Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc tại Hà Nội vào năm 1978 là một vụ “cải tạo” – một nỗ lực bị thất bại trong việc dạy ông Ẩn thứ ngôn ngữ đó. “Tôi đã sống quá lâu trong lòng kẻ thù,” ông Ẩn giãi bày. “Nên họ đưa tôi đi tái chế.”
Sau khi sách dịch xong, ông Long, biên tập viên của tôi, bắt tay vào công việc nặng nề: kiểm duyệt nó. Qua nhiều năm, trong khi ông cố tìm cách để có giấy phép xuất bản, bản dịch ngày càng phải chịu thêm nhiều thay đổi khi các nhà xuất bản cứ lần lượt từ chối. Sau đó tôi hình dung, như vậy là dự án này đã chín hẳn thành một thứ đang bốc mùi nguy hiểm. Đó không phải là thứ người ta muốn đụng vào nếu họ vẫn còn nâng niu sự nghiệp làm biên tập ở một tòa báo của Công an hay của Bộ Nội vụ. Bản thân ông Long chắc đã bắt đầu bị để ý. Sau đó ông đã bỏ khu vực xuất bản sách văn chương sang làm biên tập sách toán cho trẻ em.
Ông Long và tôi đồng ý gặp nhau ở khách sạn. Ông bấm chuông, bước vào phòng với một vẻ khá lo lắng. Ông ngồi ghé vào chiếc ghế sô-pha, xin lỗi vì đến muộn, và cuối cùng đồng ý uống cùng tôi một ly bia. Khoảng ngoài 50 với mái tóc đen vuông vức, ông Long trong bộ đồng phục thường thấy của cán bộ Việt Nam với đôi kính to tròn, áo sơ mi trắng cộc tay có chiếc bút nổi trên túi ngực, đồng hồ kim loại đeo trễ vòng quanh cổ tay, quần âu màu xám và đi đôi dép xăng-đan. Sau khi đưa mắt nhìn xung quanh như thể soát xem có những máy móc ghi âm nào không, ông Long bắt đầu trả lời những câu hỏi của tôi bằng kiểu giải thích xa xôi đầy cảnh giác của một người sống trong một nhà nước cảnh sát.
Được đào tạo ở Liên Xô cũ với chuyên ngành điều khiển học hay gọi là hệ thống kiểm soát các lò phản ứng hạt nhân, đặc biệt là cho lò hạt nhân ở Đà Lạt mà phía miền Bắc chiến thắng đã thu được sau khi người Mỹ rút đi năm 1975. Tốt nghiệp từ Viện Công nghệ Năng lượng Moskva (Moscow Power Engineering Institute), ông Long đã tự học tiếng Anh trong 5 năm khi du học ở đó.
Sau khi hàn huyên về lý do chuyển từ ngành điều khiển học sang lĩnh vực xuất bản, chúng tôi chuyển sang nói về cuốn sách của tôi. “Hết sức vất vả mới biên tập được cuốn của ông,” ông Long kể. “Tôi bị kẹt ở giữa, bị o ép giữa tác giả và cấp trên của tôi. Chính quyền thì tuyên bố đây là một cuốn nhạy cảm. Xử lý không đúng loại này, anh có thể phải rắc rối to. Đấy là tất cả những gì tôi có thể nói với ông.”
“Về mặt pháp luật, không có nhà xuất bản tư nhân ở Việt Nam. Do vậy Nhã Nam phải tự liên kết với một nhà xuất bản của nhà nước mỗi lần muốn ra một cuốn sách. Chúng tôi đã đưa cuốn của ông tới rất nhiều nhà xuất bản nhưng tất cả đều trả lại. Cuối cùng, chỉ có Hồng Đức là đồng ý xin giấy phép xuất bản cho nó thôi. Hồng Đức là một nhà xuất bản có thế lực.”
“Sao họ lại có thế lực?” tôi hỏi.
Ông Long cười ái ngại. “Thôi, chúng ta hãy chỉ nói là họ có thế lực. Tôi chỉ có thể nói được vậy thôi.” Sau này tôi biết Hồng Đức thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, một trong những cơ quan kiểm duyệt lớn nhất.
“Thế còn những điều bị cắt?” tôi tiếp tục tìm hiểu.
“Người dịch phải dịch toàn bộ sách. Sau đó chúng tôi sẽ bỏ đi tất cả những gì cần phải bỏ. Chúng tôi không thể nào để nguyên như vậy được. Xin xuất bản cuốn của ông là một hành trình hết sức khó nhọc. Rất nhiều vấn đề phải kiểm duyệt và chẳng có cách nào khác ngoài cắt bỏ.”
Khi tôi đề nghị cho ví dụ, ông nêu ra hai cái tên, Đại tá Bùi Tín, người đã chạy sang Pháp năm 1990 để phản đối Việt Nam thiếu dân chủ, và Tướng Giáp, trước khi mất năm 2013, đã viết nhiều thư phản đối ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Việt Nam. “Không thể viết gì về những việc đó được,” ông Long nói. “Mọi người đều biết những việc đó, nhưng ông không thể có được giấy phép xuất bản nếu những thứ đó còn trong sách của ông.”
“Vậy tại sao ông biết cái gì sẽ bị kiểm duyệt?”
“Chúng tôi phải biết. Bằng quan sát. Có thể một số người có suy nghĩ khác, nhưng chúng tôi biết những gì cần làm. Nhiều chuyện còn phụ thuộc vào thời điểm nữa.” ông nói. “Chúng tôi đã xuất bản được một cuốn của Dalai Lama phản đối Trung Quốc. Nhưng khi giới chức phát hiện ra việc đó thì chúng tôi bị cấm, không cho làm thêm những sách của Dalai Lama nữa. Nói chung, chúng tôi không thể xuất bản bất cứ điều gì xấu cho Trung Quốc. Ví dụ cuộc chiến biên giới năm 1979 giữa Trung Quốc và Việt Nam là chủ đề chúng tôi không được phép đề cập.”
Ông Long hắng giọng vẻ bồn chồn. Ông từ chối ly bia thứ hai tôi mời. Rồi ông lại đưa mắt nhìn quanh phòng, nhưng không thấy điều gì lạ làm ông bớt đi vẻ rầu rĩ.
“Kiểm duyệt thường lặng lẽ,” ông nói. “Không hề bị cấm một cách chính thức nhưng tất cả các sách đã được xuất bản đều có thể đột nhiên biến mất khỏi các quầy.”
“Xuất bản cuốn của ông là việc cực kỳ nan giải. Đây là cuốn sách khó nhất đối với tôi đấy.”, ông nhắc lại.
Tôi hỏi thêm ông Long có phải là đảng viên của Đảng Cộng sản không. Ông thì không, nhưng anh trai ông là đảng viên. “Vào Đảng đem lại nhiều quyền lợi chính trị. Nó sẽ giúp ông leo cao trong các tổ chức nhà nước.”
Ông lịch thiệp từ chối một ly bia khác và nói đã đến giờ ông phải đi lấy xe máy để về nhà. Ông Long chúc mừng tôi về việc đã xuất bản được sách.
“Đó không thực sự là cuốn sách của tôi,” tôi đáp và nhắc có 400 đoạn đã bị cắt.
“Bốn trăm không phải quá nhiều,” ông Long nói. “Người Việt chúng tôi có câu: ‘Đầu xuôi, đuôi lọt’. Lần tái bản tới có thể một số đoạn đó sẽ được phục hồi”
Khi ông Long lách nhanh qua cửa ra ngoài, trông ông có cái dáng vẻ lo lắng vì đã nói quá nhiều trong cuộc gặp ngắn ngủi với tôi. Tôi chúc ông nhiều điều tốt đẹp trong công việc mới. “Lương khá hơn rồi,” ông đảm bảo với tôi.
VIỆT NAM HỌC
Sáng hôm sau, bắt một chiếc ta-xi tới quận Cầu Giấy ở phía tây thành phố, xe chạy qua nhiều hồ nước điểm xuyết trung tâm Hà Nội, tôi đến một đại lộ có hàng cây ở hai bên, nơi đây Nhã Nam, nhà xuất bản của tôi chiếm trọn một tòa nhà cũ có những cửa sổ chớp mở ra những ban-công có lan can bằng sắt. Mới quãng mười giờ sáng mà cả thành phố đã ngộp trong một bầu khí xam xám, nóng và ẩm. Quầy sách ở tầng trệt của Nhã Nam chất đầy những bản dịch của Proust, Kundera và Nabokov, và tôi thấy hân hạnh khi nhận ra một chồng sách ngay ngắn của mình được trưng cạnh Lolita. Tôi tự giới thiệu với người trực bàn và được dẫn lên gác gặp Nguyễn Nhật Anh, và cộng sự của ông, Vũ Hoàng Giang, phó giám đốc. Tôi đã gặp ông Giang tối hôm trước. Ông đã dự buổi nói chuyện của tôi ở Cinematheque Hà Nội mà tôi không biết trước, nhưng ngay sau đó ông Giang đã tự giới thiệu với tôi. Khi ông chủ tịch Nhã Nam đưa tặng tôi một bó hoa sen tim tím tôi chợt nghĩ rằng những phát biểu của tôi tối hôm trước có thể đã quá thẳng thắn.
Nguyễn Nhật Anh, dáng người dong dỏng vận áo phông đen, quần jeans, đi dép xăng-đan trông có dáng một khách nghiện cà-phê hơn là một biên tập viên của một nhà xuất bản lớn. Có tiếng là thính văn chương, ông Anh ngồi làm việc ở một cái bàn chất đầy sách và một chồng bản thảo cao. Cộng sự của ông, ông Giang, một người cao, đẹp trai, mặc một chiếc áo thun cổ bẻ, luôn tươi cười và có một hình xăm nhỏ trang trí ở cổ tay phải. Tôi hình dung hai người đang chia nhau cai quản cái tổ hợp này, ông Anh lo về nội dung chữ nghĩa còn ông Giang về việc bán hàng. Lúc sau tôi mới biết chồng giấy cao tôi tưởng là bản thảo trên bàn ông Anh thực ra là các bản hợp đồng xuất bản và ông Giang, có sở thích văn chương riêng, chính là người đã thu xếp để cuốn sách của tôi được xuất bản.
Cô Thu Yến, biên tập viên đã đấu với tôi trong vài năm qua, không được mời dự trong cuộc gặp này. Cô vẫn phải ngồi làm việc trong phòng giao dịch hợp đồng, nhưng đã có một người khác được thuê đến để phiên dịch – một phụ nữ Việt Nam trẻ trung từng làm cho một công ty luật của Mỹ. Khi ông Anh học giả và ông Giang tươi tắn nói về những điểm tế nhị trong ngành xuất bản Việt Nam thì những câu dịch của cô gái trẻ cứ ngắn dần, ngắn dần rồi gần như chẳng dịch gì cả. Rất may, tôi đã đưa theo người phiên dịch riêng của mình, và chúng tôi phải mất nhiều giờ đồng hồ trong buổi chiều hôm đó để dựng lại cuộc trò chuyện.
Tôi ngồi ở chiếc ghế bành trong phòng ông Anh. Bên ngoài những cửa sổ chớp, bầy ve trên cây đang phát ra những tiếng kêu chói tai dễ sợ. Ông Giang đã cảnh báo cho tôi biết trong e-mail về “hệ thống kiểm duyệt chặt và khá nặng tay của các nhà xuất bản thuộc nhà nước Việt Nam. Có lẽ ông khó mà hình dung hết được.” Sau khi được mời một tách trà xanh, chúng tôi đi luôn vào cuộc trao đổi về kiểm duyệt, nói chung ở Việt Nam và nói riêng trong trường hợp của tôi.
Ông Anh mở đầu, đáp lại những câu hỏi của tôi bằng những câu giải thích dài dòng, kiểu cách. Ông Giang tiếp tục khi ông chủ bỏ đấy, đi tới chiếc máy cà-phê espresso bên cạnh bàn làm việc và tự pha cho mình một cốc. Tôi đã thèm định xin một cốc nhưng quyết định giữ lịch sự và tiếp tục với món trà. Ông Anh mô tả cách các nhà kiểm duyệt soi xét cả những chi tiết nhỏ nhất. Ông lấy ví dụ, các nhân vật chính trị phải được kính cẩn. Không ai được phép gọi người sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Hồ Chí Minh. Ông ta phải là Bác Hồ – điều đã khắc ông ta cùng lúc vào trong cấu trúc gia đình Việt Nam và lịch sử Việt Nam.
“Kiểm duyệt là việc rất hóc búa,” ông Anh nói. “Chúng tôi thực ra không có một hệ thống hay một bộ chuẩn mực nào để biết nó sẽ hành xử ra sao. Tất cả những điều chúng tôi biết chỉ là rất nhiều nhà xuất bản đã không dám in sách của ông.”
Các cửa ra vào có che rèm và cửa sổ trong phòng ông Anh đều mở ra một hàng hiên nhìn xuống phố nhưng chúng vẫn được đóng kín để ngăn bớt khí nóng. Ngoài chiếc bàn làm việc trĩu nặng bởi sách và một bàn pha cà-phê cũng chất đầy sách, căn phòng của ông Anh không chứa thứ gì khác ngoài chiếc ghế tôi đang ngồi và những bức tường xanh trống trơn.
“Vì trước đã có một cuốn về chủ đề này in được nên chúng tôi nghĩ rằng đến lượt chúng tôi sẽ dễ dàng hơn,” ông Anh nói. “Chúng tôi cũng đã tin chắc chúng tôi sẽ in được cuốn của ông.”
Tôi hỏi ông Anh tại sao lại chọn người dịch cuốn của tôi là người miền Bắc, làm mất đi những sắc thái tinh tế và không thể chuyển nổi cả những câu bông lơn của nhân vật anh hùng có xuất thân miền Nam.
“Các khác biệt đó cũng chỉ như âm nhạc,” ông Anh nói. “Cũng như các ca sĩ khác nhau hát cùng một bài và làm cho bài hát được thể hiện bằng nhiều cách thôi. Giống như khi dịch cuốn Những thứ họ mang của Tim O’Brien, chúng tôi đã phải cố giữ sao cho đúng với giọng miền Nam. Nhưng trong trường hợp của ông, chúng tôi xác định chúng tôi làm việc với một cuốn sách chính trị, một tác phẩm phi hư cấu. Người đọc những sách như thế là người miền Bắc nên ông cần làm cho sách dễ hiểu hơn với họ.”
Tôi đề nghị ông Anh và ông Giang nói thêm nữa về việc kiểm duyệt cuốn sách của tôi. Hai người mô tả về qui trình-đã-biết-cho-đến-hôm-nay, được bắt đầu với bản dịch, và được giao phó cho một người biết rõ ván bài sẽ được chơi như thế nào. Sau đó sách sẽ được chuyển cho biên tập viên, người sẽ loại đi tất cả những nội dung “nhạy cảm”.
“Sao người biên tập biết được cái gì cần bỏ?”
“Đấy là việc của ông ấy,” ông Anh trả lời. “Ông Long là một chuyên gia về các cơ chế kiểm soát – thường được gọi là điều khiển học – và một loạt những nguyên tắc tương tự được áp dụng trong lĩnh vực văn chương. Công đoạn kiểm duyệt ở nhà xuất bản có một số cơ chế kiểm soát chúng tôi biết rõ nhưng cũng còn nhiều thứ không biết được. Do vậy, chúng tôi phải trông cậy vào kinh nghiệm của người biên tập đã quen với việc cắt xén bản thảo. Người đó biết cái gì có nhiều khả năng không qua nổi các nhà kiểm duyệt.”
“Qui trình kiểm duyệt là nguy hiểm, nguy hiểm cho tác giả và cho cả nhà xuất bản nữa,” ông Anh nói thêm. Nói đến đây, ông Anh đã khẩy đôi dép ra khỏi chân và đang làm mát hai bàn chân trần trên nền nhà lát gạch men. Trên đầu, chiếc quạt hối hả phả hơi nóng xuống khắp phòng. Nhiệt độ ở Hà Nội, mùa Xuân này, đang vượt trên 37° C.
Ông Anh kể cho tôi nghe câu chuyện về một tập thơ của tác giả có tên Trần Dần do công ty ông xuất bản năm 2006. Các tác phẩm của Trần Dần đã bị cấm liên tục từ những năm 1950 khi ông dính vào vụ Nhân văn Giai phẩm – một phiên bản Cách mạng Văn hóa của Mao tại Việt Nam nhằm thanh trừng các văn nghệ sĩ, họ bị liệt vào danh sách đen, bị tống giam và bị cấm đoán suốt 50 năm. Một trong những nghệ sĩ đó là Văn Cao, người đã sáng tác cho Việt Nam bản Quốc ca năm 1945. Từ năm 1957 cho tới tận năm 1986, người Việt Nam đã phải ở trong một tình cảnh trớ trêu, được phép chơi nhạc nhưng không được hát bài Quốc ca của Văn Cao. Chỉ khi một số lời của Quốc ca được sửa đi thì bài hát mới được hát trở lại. Bản thân Văn Cao đã từ lâu thôi không sáng tác nhạc hay ca khúc nữa. Ông đã đứng vào hàng ngũ những nghệ sĩ Việt Nam, cỡ hàng trăm người, từ thập niên 1950 cho tới nay, phải im lặng hoặc đi sống đời lưu vong.
Những tưởng Mao đã chết từ lâu và cuộc Cách mạng Văn hóa của ông ta đã bị đả phá, Nhã Nam cho rằng sẽ an toàn khi in trở lại Trần Dần. Sau đó công ty có được giấy phép xuất bản từ một doanh nghiệp nhà nước ở Đà Nẵng và cho in một số thơ của Trần Dần, nhưng tiếng sét đã nổ. “Công an đến thẳng hội chợ thu hết tất cả sách về Trần Dần,” ông Anh kể. “Sau đó họ đến công ty khám xét, lục soát và thu hủy rất nhiều nữa. Chúng tôi quá kinh hoàng, đã nghĩ sẽ phải đóng cửa và chấm dứt công việc.”
“Nguyên nhân từ đâu?”
Ông Anh hạ thấp giọng và nói ra tên của một cơ quan: A25.
“Không, bây giờ là A87 rồi,” ông Giang thêm vào.
Các cơ quan của chính phủ bắt đầu với chữ A, nghĩa là “an ninh”, có rất nhiều. A25, bây giờ là A87, chuyên phụ trách về các nhà xuất bản.
“Đúng ra, đó là An ninh Văn Hóa, Cục An ninh Văn hóa,” ông Anh nói.
Tôi hỏi: “Địa chỉ ở đâu?”
“Họ chẳng có địa chỉ nào cả,” ý ông Anh nói là họ có mặt ở khắp nơi. Hai người bọn họ nói nhát gừng với nhau về cái nguyên nhân gây ra rắc rối nhưng không câu nào được dịch.
“Không có bất cứ một cơ quan nào chịu trách nhiệm về kiểm duyệt cả,“ ông Anh giải thích. “Nhưng có rất nhiều người thực hiện.” Tôi lại thấy ông Anh nêu ra cái tên Bộ Công an.
Ông Giang nêu tên Bộ Thông tin Truyền thông. “Đấy mới là cơ quan chịu trách nhiệm về xuất bản.”
Ông Anh bổ sung lực lượng cảnh sát quốc gia và một số tổ chức khác vào danh sách. “Cũng giống như mây trời ấy. Họ có mặt ở khắp nơi.”
“Thường họ không bắt biên tập viên. Tác giả thì có thể bị bắt. Nhưng nói chung các biên tập viên biết được trước khi nào sẽ có rắc rối,” ông nói.
Tôi đề nghị họ nói chi tiết hơn nữa về kiểm duyệt trong việc xuất bản cuốn sách của tôi. Đây chính là lúc lần đầu tiên tôi nghe nói tới Nguyễn Thế Vinh. Ông Vinh là người đã đưa ra danh sách cuối cùng cho những chỗ phải cắt và là người đảm bảo có được giấy phép xuất bản. Theo mô tả của hai người, tôi nhận ra sức mạnh đáng kể của ông Vinh trong ngành xuất bản. Từng làm giám đốc cho nhiều công ty, nhưng hiện thời ông Vinh làm biên tập viên cho Hồng Đức – một nhà xuất bản thuộc sở hữu nhà nước trực thuộc Bộ Thông tin Truyền thông. Công ty này không chỉ cấp giấy phép cho cuốn của tôi mà còn được thể hiện logo của nó trên trang bìa. Đúng ra thì sách có hai logo: Một, của Nhã Nam là con trâu đang lặc lè với một cậu bé (hoặc cô bé) đang đọc sách trên lưng, cái kia là của Hồng Đức với chữ H hoa trắng nằm trong chữ Đ hoa màu đen.
Tôi còn biết thêm một việc thú vị về ông Vinh. Ông cũng là người đã lấy được giấy phép cho cuốn Perfect Spy (Điệp viên hoàn hảo) của Giáo sư Berman. Bản dịch tiếng Việt của cuốn sách này đã được tưởng là chất bôi trơn cho cuốn sách của tôi và còn ai có thể thực hiện công việc loại này tốt hơn người đã từng hoàn tất việc đó.
Trong khi ông Anh lúi húi pha cà-phê cho mình, ông Giang tiếp tục kể. “Cuốn sách của ông đã bị năm hoặc sáu nhà xuất bản từ chối. Còn những nhà xuất bản khác lại muốn can thiệp quá nhiều, đòi thay cả nội dung. Họ liên tục đòi cắt thêm, cắt thêm. Nhưng chúng tôi không chịu, cho tới khi Nguyễn Thế Vinh nhận làm.”
“Ông ấy đòi thay đổi những gì?” Tôi hỏi.
Ông Anh đang đi đi lại lại phía sau bàn. Một cái chau mày làm tối sầm mặt ông Giang. “Lúc nào nói chuyện với ông ấy, ông đừng nên hỏi quá khó. Cái đó có thể làm ông Vinh mất lòng và không có lợi cho việc bán cuốn sách của ông.”
“Ai đã đề nghị ông Vinh tham gia vậy, thưa các ông?” Tôi hỏi thêm.
“Ông Giang đã tiếp cận ông ấy,” ông Anh trả lời. Tôi nhận thấy hai người đàn ông đã trở nên bất an khi nói cho tôi biết những chi tiết như thế. Và cả hai cùng ngồi im, khoanh tay trước ngực.
“Những người ở Hồng Đức cũng muốn viết một lời giới thiệu cho cuốn của ông nhưng chúng tôi từ chối.” Ông Anh lên tiếng trở lại.
Nghe thế, trong đầu tôi mường tượng ngay ra những gì mà Hồng Đức có thể viết để chuốt lại những câu văn thật chuẩn cho Phạm Xuân Ẩn – nhà tình báo “hoàn hảo”, một cán bộ cộng sản toàn năng nhưng đã khiến cho nhiều người phương Tây phải mê mẩn ngưỡng mộ. Tôi cảm thấy biết ơn những người biên tập đã cứu tôi thoát khỏi sự hổ thẹn này.
“Chính ông Vinh đã lĩnh trách nhiệm cho việc in cuốn sách của ông đấy,” ông Anh nói.
“Ý ông là cuốn sách có thể vẫn còn bị kiểm duyệt?”
“Ngay ngày mai vẫn có thể bị thu hồi,” ông Anh thêm vào. “Không ai biết lý do từ đâu cả. Chúng tôi vẫn phải trông chừng mọi dấu hiệu xấu vì lúc nào cũng có thể có một kẻ nào đó tìm thấy những chỗ gọi là ‘nhạy cảm’ trong bất kỳ cuốn sách nào.”
“Theo các ông tôi nên tránh nói những chủ đề nào khi còn ở Việt Nam?” Tôi tiếp lời.
“Xin ông hãy nhớ cho, ông Vinh là người thành đạt và có danh tiếng trong nghề.” Ông Anh trả lời.
Đến lúc này thì mọi người đều đã rõ quan điểm của tôi trong vấn đề kiểm duyệt – một việc hèn hạ của những kẻ có quyền chuyên lừa gạt những người yếu thế để bảo toàn quyền lợi riêng cho bản thân. Tôi không cần phải lặp lại những điều đã thể hiện.
“Ông không nên quá thẳng với ông Vinh. Ông ấy làm việc theo chỉ đạo của nhà xuất bản.” ông Anh tiếp lời.
“Ông cũng nên coi cuốn sách của mình như một vật thể sống. Nó có thể được tái bản, những chỗ đã bị cắt trong lần đầu có thể sẽ được bổ sung trong những lần sau.” Ông Giang giảng giải.
Tôi đảm bảo với ông Anh và ông Giang là tôi sẽ cố hết sức không làm mếch lòng ai. Cả hai cũng đều biết bản tiếng Việt đầy đủ không bị kiểm duyệt của tôi sẽ được công bố trên internet.
“Ngay bây giờ thì Việt Nam chúng tôi chẳng có chuẩn mực gì cả,” ông Giang nói. “Chúng tôi không được biết những quyền của mình và không biết kiểm duyệt sẽ đến từ đâu. Nhưng hệ thống của chúng tôi đang thay đổi. Hy vọng ông hiểu rằng chúng tôi có thể tiến bộ. Chúng tôi có thể làm tốt hơn nữa. Chúng tôi đang phải học để hội nhập với ngành xuất bản thế giới.”
“Nhưng nếu cuốn của ông được tái bản chúng tôi muốn đưa trở lại các chi tiết đã bị cắt,” ông Giang nói thêm. “Ông đã có cảm nhận tích cực về Việt Nam. Mọi người biết điều đó. Vậy mong ông hãy kiên nhẫn, cho chúng tôi thêm thời gian để xem xét, sắp đặt thêm. Mọi người đánh giá cao ông như một chuyên gia về Việt Nam, một nhà phê bình, đôi khi quá nghiêm, nhưng công bằng. Việt Nam học – có lẽ đó là từ nói đúng cho những việc ông đang làm.”
“Mỗi năm các ông xuất bản bao nhiêu cuốn loại ‘rắn’?” Tôi hỏi.
“Trong nghề này, chúng tôi chuyên làm những sách khó,” ông Anh trả lời. “Lĩnh vực nào cũng có cái khó của nó. Nhưng sách của ông là ca đặc biệt. Ca khó nhất. Riêng tôi đã định bỏ. Tôi cho rằng sẽ chẳng có hy vọng gì. Tôi là người nóng nảy mà cuốn đó lại quá ư là rắn. Tôi đã buông tay và nói ‘cuốn này sẽ không bao giờ in được đâu!’ Nhưng những đồng nghiệp của tôi kiên nhẫn hơn tôi, họ nói “Từ từ nào. Vẫn còn cơ hội mà.” Nhờ có ông Giang và cô Thu Yến nên cuốn sách của ông mới được nhìn thấy ánh sáng ở đây đấy. Họ đã rất kiên trì và nhẫn nại.”
“Có lúc tôi đã cảm thấy như bị kẹt giữa hai làn đạn,” ông Anh tiếp tục. “Tôi bị bắn liên tục từ cả hai phía. Tác giả thì phản đối việc cắt bỏ. Người kiểm duyệt thì yêu cầu phải cắt. Cũng có những tác giả thông cảm cho hệ thống này, như Milan Kundera chẳng hạn. Ông ấy đã từng sống lâu dưới chế độ kiểm duyệt. Khi chúng tôi in sách của ông ấy, ông ấy hiểu các vấn đề của chúng tôi và đồng ý cho chúng tôi làm những gì chúng tôi phải làm. Nếu mà ông hiểu cho hơn nữa thì chúng tôi đã được nhờ nhiều hơn.”
“Thay mặt nhà xuất bản, chúng tôi muốn nói với ông là chúng tôi chúc mừng cuốn sách của ông đã được xuất bản ở đây,” ông Giang tiếp lời. Có thể ông Giang đang cảm thấy áy náy vì tôi đã bị so sánh không được hay lắm với Milan Kundera. Thực ra tôi thấy buồn cười về chuyện một người tỵ nạn trốn khỏi Tiệp Khắc cộng sản lại tỏ ra dễ tính đến thế để bị kiểm duyệt ở Việt Nam cộng sản.
“Nhưng đây không phải lần đầu Việt Nam và Hoa Kỳ găng nhau trong đàm phán,” tôi nói. Ông Anh và ông Giang thích câu đùa của tôi. “Tôi vui vì chúng ta đã có một kết thúc có hậu.” Xong cả ba cùng bắt tay nhau. Sau đó tôi được đề nghị ngồi vào bàn của ông Anh để ký tặng sách của tôi cho các nhân viên Nhã Nam. Gần như mọi người trong công ty đều muốn có một cuốn trước khi điều có thể xảy ra: cuốn sách biến khỏi các giá sách. Suốt buổi trưa hôm đó mọi người liên tục vào phòng ông Anh để tôi ký.
ĐIỆP VIÊN HOÀN HẢO?
Đến nay đã có sáu cuốn sách viết về Phạm Xuân Ẩn, ba cuốn bằng tiếng Việt, một, tiếng Pháp và hai, tiếng Anh. Cuốn tiểu sử tự họa “chính thức”, Điệp viên hoàn hảo (Perfect Spy), được xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2007 và được dịch sang tiếng Việt một năm sau đó. “Chúng tôi đã làm cho cuốn đó hồng từ đầu chí cuối,” một người sành sỏi về xuất bản ở Việt Nam đã nói với tôi như thế. Nghĩa là các nhà kiểm duyệt Việt Nam đã tô cho thật nổi sắc thái yêu nước lên chân dung nhân vật anh hùng dân tộc vốn đã được chọn lọc kỹ.
Ngay từ nhan đề, Điệp viên hoàn hảo, đã đủ cho mọi người phải hiểu đó là nói về Phạm Xuân Ẩn một người Việt Nam vì dân tộc, yêu nước. Cuốn sách cũng cho rằng ông Ẩn đã về hưu một cách hạnh phúc khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc năm 1975. Nhưng vấn đề của câu chuyện lại ở chỗ nó có vẻ không thật. Mọi điệp viên đều có một vỏ bọc và một cuộc đời được giấu kín phía sau trong cuộc sinh tồn hai mặt hoặc, như Phạm Xuân Ẩn, là bốn mặt. Vì, có lúc ông Ẩn làm cho Phòng Nhì của Pháp, lúc lại cho CIA và lúc lại cho cả cơ quan tình báo của Nam Việt lẫn Bắc Việt. Hoạt động tình báo cho người Pháp ông Ẩn chỉ ở mức làm thêm kiểm duyệt thuê ở Sở Bưu điện, cắt tỉa các điện tín của Graham Green trước khi gửi cho tạp chí Paris Match. Khi làm cho người Mỹ, ông Ẩn còn được đào tạo về khoa chiến tranh tâm lý trong những năm 1950 do chính Edward Lansdale và những nhân viên tình báo CIA khác huấn luyện.
Làm cho cơ quan tình báo của Nam Việt, ông Ẩn là cánh tay phải của trùm tình báo Trần Kim Tuyến, người có sự nghiệp được coi như kết thúc vào năm 1962 do bị thất sủng sau cú chính quyền bị lật đổ hụt. Nhưng ông Ẩn vẫn giữ quan hệ với ông Tuyến – người vẫn là “phù thủy” có tật đam mê lật đổ. Ông Ẩn đã giúp ông Tuyến nhiều thực phẩm, thuốc men (chắc chắn có cả tin tức kèm theo) khi ông trùm tình báo bị quản thúc tại gia. Sau đó ông Ẩn còn giúp ông Tuyến một phi vụ cuối cùng. Ông Ẩn cứu mạng ông Tuyến. Có một tấm ảnh nổi tiếng năm 1975 chụp chiếc trực thăng cuối cùng của Hoa Kỳ đang bay lên từ nóc tòa nhà số 22 đường Gia Long, cho thấy một chiếc thang mỏng manh bắc vào thân máy bay. Người cuối cùng leo lên chiếc thang đó chính là Trần Kim Tuyến, nhưng người giúp ông ta leo lên được chính là cựu trợ lý tâm phúc của ông ta. Tại sao ông Ẩn lại giúp cho người từng là đầu não rất lâu của ngành tình báo Nam Việt thoát khỏi những người cộng sản? “Tôi biết tôi sẽ gặp rắc rối,” ông Ẩn nói với tôi. “Đó là một sếp tình báo, một nhân vật quan trọng cần phải bắt lại, nhưng ông ấy là bạn tôi. Tôi có ân tình với ông ta.” Làm sao có thể biết được ông Ẩn đã quyết định phụng sự lòng trung thành với ai hay bao nhiêu câu hỏi khó trả lời đã tránh được khi ông Tuyến bay thoát sang Anh lưu vong.
Ông Ẩn đã giữ được vỏ bọc nhà báo trong suốt hai mươi năm, nhưng khi nó bị bung mất sau cuộc chiến, ông đã làm một vỏ thứ hai – một chiến lược gia tầm thế giới đang tận hưởng đời hưu trí phong lưu. Suốt ngày khách khứa, tán gẫu với nhiều nhà báo phương Tây. Gần đây tôi có xem một đoạn phim về ông Ẩn khi được phỏng vấn vào năm 1988, do nữ diễn viên Hollywood và cũng là một người tỵ nạn từ Việt Nam, tên Tiana Silliphant, thực hiện. Tiana lúc đó đang thu thập dữ liệu cho cuốn phim tài liệu của cô Từ Hollywood tới Hà Nội (From Hollywood to Hanoi). Ông Ẩn ngồi rất thoải mái ngay trên bậc cửa thềm nhà của ông, phía sau không phải một mà hai con chó giống Đức đang canh chừng. Tiana hỏi thẳng ông Ẩn về những người mà ông đã phản bội và những người bạn đã chết vì hoạt động tình báo của ông. Đôi mắt ông Ẩn dướn lên, sắc mặt thoáng biến. Nhưng ngay lập tức ông Ẩn trả lời bằng cách lái câu chuyện vào chiếc vỏ thứ hai. “Tôi mới rời quân ngũ, về hưu cách đây có vài tuần,” ông Ẩn thủng thẳng nói. “Tôi chưa bao giờ phản bội ai cả.”
Ông Ẩn nói trong băng rằng ông xuất ngũ, về hưu năm 1988. Nhưng có lần, cũng được ghi băng, ông lại nói rằng về hưu năm 2002 và một lần khác thì về hưu năm 2005. Đó là lần một vị khách đã trông thấy chiếc TV lớn màn hình phẳng trong phòng khách nhà ông có kèm tấm thiếp cho biết là quà tặng khi ông về hưu của những “người bạn” từ Tổng cục II – Tình báo Quân đội. Nhưng rất có thể ông Ẩn chưa bao giờ nghỉ hưu, ông vẫn luôn là thành viên của các cơ quan tình báo cho tới tận lúc qua đời. Dưới vỏ bọc thứ nhất, nhà báo, ông là một điệp viên suốt từ năm 1950 cho tới lúc mãn cuộc chiến Việt Nam. Trong lớp vỏ thứ hai, nhà chiến lược về hưu, ông đã hoạt động điệp báo thêm ba mươi năm nữa – lâu hơn cả giai đoạn đầu. Ông đã làm những gì trong vai trò một điệp viên còn hoạt động là điều vẫn chưa thể biết, nhưng chắc chắn ông đã báo cáo về những vị khách tới thăm và đưa ra những đánh giá, phân tích chính trị khiến ông trở nên có giá. Bằng việc dí dỏm nói về chuyện những người cộng sản đã thất bại trong việc “cải tạo” lại mình, ông Ẩn đã thành công trong việc làm lạc đi những ngờ vực rằng ông vẫn còn hoạt động tình báo. Điểm đặc biệt này chỉ được lộ ra khi Tướng Nguyễn Chí Vịnh đọc điếu văn trong đám tang ông Ẩn. Khi ấy Tướng Vịnh đang đứng đầu Tổng cục II. Điếu văn do Tướng Vịnh đọc cho biết ông Ẩn đã lập “những chiến công phi thường” ngay khi sống trong “lòng kẻ thù”, kèm theo danh sách các huân, huy chương của quân đội, mỗi chiếc đều là một câu chuyện lớn của đời ông.
Trong mục tham chiếu sơ sài, Điệp viên hoàn hảo cho biết Phạm Xuân Ẩn đã được tặng mười một huân, huy chương. Nhưng thực tế ông có tới mười sáu chiếc, trong đó sáu chiếc được trao sau 1975. Mười bốn trong tổng số, và bốn chiếc trong số sau 1975 là thuộc huân, huy chương chiến công, không phải cho các phân tích chiến lược mà vì những hành động quân sự cụ thể. Ông Ẩn đã giành được huân chương vì lập công trợ giúp chiến thuật cho các trận đánh từ Ấp Bắc năm 1963, Ia Đrăng 1965 cho tới Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc cuộc chiến năm 1975. Bốn huân chương chiến công khác được trao cho ông sau 1975 là vì những hoạt động nào vẫn còn là bí mật.
Giấu bớt huân, huy chương, hạ thấp ý nghĩa và làm quên đi sự thật rằng nhiều huân, huy chương đã được trao sau 1975 là một phần của chiến lược xây dựng Phạm Xuân Ẩn thành một “điệp viên hoàn hảo” với bản mặt hiền lành, như Hồ Chí Minh, để được nhấc hẳn ra ngoài tính chất đẫm máu ghê rợn của những cuộc chiến chống thực dân ở Việt Nam. Trong Điệp viên hoàn hảo, nhiều góc cạnh nghề nghiệp của ông Ẩn đã bị đẽo gọt hoặc phạt hẳn đi. Những tình tiết ông chỉ trích sự bất tài, tham nhũng của chế độ cộng sản, những nhận xét rất khó chịu của ông về ảnh hưởng của Nga, những phản đối Trung Quốc can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam và những câu bông đùa của ông về việc đã bị “cải tạo” lại vào năm 1978, cũng như sự đối lập của ông đối với nhóm lãnh đạo hiện thời ngả theo Trung Quốc, tất cả đều được kể mềm đi. Những chi tiết khác về việc vợ và bốn người con của ông đã được đưa sang Hoa Kỳ năm 1975 rồi một năm sau lại bị gọi về Việt Nam cũng đã được làm mờ đi hoặc lờ hẳn đi. Trong phiên bản được gia công để công chúng thưởng lãm, giống như người viết tiểu sử “chính thức” của ông đã kể, ông Ẩn vẫn ở lại Sài Gòn khi chiến tranh chấm dứt vì phải chăm sóc người mẹ già yếu. Nhưng thực ra tình báo Việt Nam từ trước đã có kế hoạch đưa ông sang Hoa Kỳ tiếp tục làm điệp báo cho chính quyền. Nhưng kế hoạch đó cuối cùng bị Bộ Chính trị bác nên ông buộc phải ở lại và phải gọi cả nhà quay trở về. Những thông tin về hoạt động của ông thời hậu chiến cho thấy Việt Nam đã có kế hoạch, và chắc chắn đã thành công, trong việc cài điệp viên vào Hoa Kỳ lúc chấm dứt chiến cuộc. Nhưng điều này cũng cho biết đã có một bất đồng lớn giữa cơ quan tình báo và Bộ Chính trị, và cơ quan tuyên truyền của Việt Nam muốn dùng câu chuyện một bà mẹ già yếu để che mối bất đồng đó đi.
Một khi những mảng tối đã được lắp trở lại cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn thì các nhà kiểm duyệt buộc phải chống lại những mô tả kém-hoàn hảo-hơn về ông. Đúng ra họ sẽ phải cần năm năm để viết lại cuộc đời ông và cố làm cho nó thật giống với phiên bản chính thức. Và nước cờ mở của Nhã Nam đã bị hụt. Vì một cuốn sách về Phạm Xuân Ẩn của một tác giả phương Tây đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam không có nghĩa là cuốn thứ hai sẽ được dễ dàng. Thật vậy, như chúng ta gần đây mới biết, ngay cả phiên bản “hồng” về cuộc đời ông Ẩn đã nói ở trên cũng là một vụ hồi hộp. Tin này do công điện ngoại giao Hoa Kỳ nói đến tháng Chín 2007 và được Wikileaks tiết lộ năm 2011. Điện tín từ Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở thành phố Hồ Chí Minh tả lại việc bản Việt ngữ Điệp viên hoàn hảo đã suýt bị Bộ Công an cho nghiền thành cám vào phút cuối như thế nào, dù việc in ấn hoàn toàn do một công ty của chính quyền thực hiện. Những nhà kiểm duyệt bên Bộ Công an phản đối “rất nhiều những trích dẫn lời Phạm Xuân Ẩn, ca cẩm về việc Việt Nam chỉ đơn thuần đổi ông chủ này lấy một ông chủ khác – tức Liên-Xô –, và chỉ trích của ông về nhiều chính sách sau chiến tranh của nhà nước.” Các biên tập viên cũng bị rắc rối vì đã “ủng hộ xuất bản một cuốn sách, trong đó một trong những anh hùng danh tiếng nhất của đất nước lại tung các tấn công vào khắp các chính sách hậu chiến của nhà nước Việt Nam và phê phán tính chất khép kín của xã hội Việt Nam.” Theo ghi chép của Tổng Lãnh sự, “phái ủng hộ cải cách trong chính quyền Việt Nam” đã chỉ “cao tay” hơn “phe chống cải cách” khi đích thân ông Chủ tịch nước phê chuẩn việc xuất bản cuốn sách.
Những câu chuyện kiểm duyệt vừa nói đã cho thấy thượng tôn luật pháp (rule of law) ở Việt Nam đã và đang bị thay bằng thượng tôn luật rừng như thế nào.
Những người có quyền sẽ làm tất cả mọi điều có thể để bảo vệ các đặc quyền của họ. Tôi thấy hoảng vì những câu chuyện như thế, nhưng nhiều người lại ngáp khi nghe tôi nói về tình trạng kiểm duyệt ở Việt Nam. “Thế ông mong đợi điều gì?” họ thường hỏi thế. “Chẳng có gì ngạc nhiên ở đây cả.” Thậm chí nhiều người bạn Việt Nam của tôi còn phó thác tất cả cho định mệnh, cho một niềm tin kỳ lạ rằng họ có thể đọc được cả những con chữ vừa khuất bóng. “Tôi có thể chỉ cho ông biết một cuốn sách đã bị đục bỏ ở chỗ nào.” Bảo Ninh, nhà văn, đã đảm bảo với tôi như thế. “Chúng tôi biết những gì đã bị cắt. Chúng tôi chỉ không thể nói về những chuyện đó thôi.”
Thật khó có lý lẽ để chống kiểm duyệt khi trước mặt sự vô sỉ đã chan hòa. Nhưng gần đây đã có một nỗ lực quí giá chống kiểm duyệt do Amartya Sen, người từng đoạt Giải Nobel về kinh tế, khởi xướng. Trong một bài viết cho tờ Index on Censorship (Chỉ mục về Kiểm duyệt) năm 2013, Sen đã truy vấn đất nước Ấn Độ quê hương ông về ý tưởng học theo mô hình Trung Quốc – một chính quyền độc tài có thể làm kinh tế tăng trưởng bằng việc phá bỏ tự do cá nhân. Nền tảng trong quan điểm đối lập của Sen là: “tự do báo chí là yếu tố cốt yếu cho phát triển”. Tự do ngôn luận có “giá trị tự thân”, Sen nói. Đó là “yêu cầu tất yếu để có một nền chính trị sáng suốt.” Điều đó sẽ “giúp những người thiếu may mắn hay bị bỏ rơi được lắng nghe”, đó là yếu tố cốt tử để xã hội có “những ý tưởng mới”. Trung Quốc có vẻ vẫn đang vận hành khá ổn, nhưng Sen – nhà kinh tế học đã đoạt Giải Nobel cho công trình nghiên cứu về nạn đói – nhắc cho chúng ta nhớ lại điều gì có thể xảy ra khi tuyên truyền chiếm chỗ của thông tin.
“Trong bất kỳ hệ thống độc tài nào cũng có một sự mong manh không tránh khỏi”, Sen viết như thế. Lần cuối cùng hiện tượng này tự bộc lộ là ở Trung Quốc, trong cuộc cải cách ruộng đất tồi tệ của thời kỳ Đại Nhảy vọt, đất nước này đã phải chịu một trong những nạn đói khủng khiếp nhất thế giới. “Từ năm 1959-1962… có ít nhất 30 triệu người Trung Quốc chết đói do chính quyền không nắm được sự thật và vì công luận không có bất kỳ tiếng nói phản kháng có sức mạnh nào để cảnh báo sai lầm trong các chính sách giống như trong các nền dân chủ.”
“Và các sai lầm về chính sách cứ tiếp tục lặp lại suốt trong những năm đói kém kinh hoàng đó,” Sen viết tiếp. “Tình trạng trắng thông tin tuyệt đối, vì kiểm duyệt và kiểm soát, tới mức chính quyền bị chính hệ thống tuyên truyền của nó làm cho tin xằng rằng vẫn còn hơn 100 triệu tấn gạo. Cuối cùng, năm 1962 Mao Chủ tịch phải đích thân lên tiếng và thừa nhận là “thiếu dân chủ”, nhưng cái thiếu trong trường hợp này là cái thiếu giết người. Ấn Độ và nhiều nơi khác trên thế giới có thể đã bị quyến rũ bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt tới 2 con số của Trung Quốc, nhưng sẽ thật dại dột, Sen nói, nếu học theo các biện pháp phi dân chủ – những thứ đã làm suy sụp các chế độ toàn trị và làm cho những kẻ lãnh đạo của các chế độ đó tin chính những lời dối trá của họ.
TÁC PHONG THỜI CHIẾN
Ông Nguyễn Thế Vinh, biên tập viên của nhà xuất bản Hồng Đức, là người kiểm duyệt cuối cùng tôi gặp trong chuyến đi tìm hiểu ngành xuất bản ở Việt Nam. Tôi phải xuất hiện trong một hội chợ sách tại Hà Nội để ký tặng sách và sau đó ngồi bàn chủ tọa thảo luận về cuốn sách của tôi. Ngồi cạnh tôi, một bên là ông Vinh điều độ, giống như nhiều biên tập viên khác, có vẻ mến sách hơn tác giả, và bên kia là ông Dương Trung Quốc lịch lãm, người cũng có công làm cho cuốn sách của tôi được ấn hành. Ông Quốc là một nhà sử học và chính trị gia. Tôi không rõ ông viết về loại sử nào, nhưng là một đại biểu được bầu của Quốc hội Việt Nam, ông Quốc – một người nồng nhiệt có phong độ giống như một Bill Clinton của Việt Nam – thể hiện rõ là một chính trị gia thành đạt.
Tôi phải cố nén sự khó chịu vì gần hết buổi tối đã được dành để nói về Phạm Xuân Ẩn như một “điệp viên hoàn hảo”. Xin hãy nhớ, ông Vinh đã biên tập và kiểm duyệt cả tiểu sử “chính thức” và cuốn sách của tôi. Người ta đã khuyên tôi phải giữ miệng và chớ làm hại cho việc bán cuốn sách của tôi. Khổ sở này vẫn tiếp tục lan sang cả bữa tối khi tôi vẫn phải giữ mồm giữ miệng còn ông Vinh và ông Quốc cứ thoải mái thưởng thức bữa tiệc thịnh soạn nhiều món. Chính hai ông ấy là những người cuối cùng quyết định cắt gọt sách của tôi nhưng dầu sao họ cũng là những người có thế lực làm cho nó được xuất bản. Tôi đang nợ họ một ít tiền nhuận bút mà tôi định sẽ tặng cho một số người trong hàng triệu linh hồn thiệt thòi của cộng đồng người Việt xa quê hương sau cuộc chiến. Nhưng khi món ăn được chuyển từ rau xào sang cá hấp thì lưỡi của tôi đột nhiên mất đi sự e dè đủ để trườn ngay vào chủ đề kiểm duyệt.
“Theo luật thì Việt Nam không có hệ thống kiểm duyệt,” ông Vinh nói. “Chủ yếu là chúng tôi là tự kiểm duyệt.”
Ông Quốc, nhà chính trị, đồng ý với ông bạn văn chương. “Ở Việt Nam kiểm duyệt nằm ngay trong đầu của mọi người. Người cắt xén sách của ông là chính các biên tập viên, chứ không phải chính quyền”, ông Quốc nói.
Tôi đề nghị họ làm rõ thêm về việc vì sao một đất nước không có hệ thống kiểm duyệt lại có thể kiểm duyệt được nhiều người viết đến thế. “Tất cả các nhà xuất bản đều thuộc nhà nước”, ông Vinh nói. “Tất cả mọi người làm trong hệ thống đều phải hiểu điều này: vì mục tiêu cao cả hơn của quốc gia họ phải hy sinh một số thứ. Chúng tôi ở đây có một câu thành ngữ: Giết nhầm còn hơn bỏ sót.”
Ông Quốc để một nụ cười từ từ nở rộng khắp mặt rồi mới nhẹ nhàng trách ông bạn: “Anh nói cứ như chính ủy ấy.”
Lúc sau cũng trong buổi tối hôm đó ông Quốc gợi ý cho tôi biết tại sao cuốn sách của tôi cuối cùng cũng được xuất bản sau năm năm bị chặn. “Tất cả các cuốn tiểu sử đã được cho phép in về Phạm Xuân Ẩn trước đây đều là kết quả từ các bản tốc ký. Người ta in những gì mà ông ấy nói cho họ in. Nhưng cuốn của ông thì khác. Cuốn của ông là tư liệu và là bản nghiên cứu, nhưng quan trọng hơn, nó đã bắt được cái hồn người của Phạm Xuân Ẩn. Vì thế mà tôi nghĩ nó nên được xuất bản.”
Tôi nhận lời khen tặng nhưng ghi nhớ rằng cuốn sách của tôi chưa thực sự được xuất bản ở Việt Nam. Cuốn đang bán ở Việt Nam chỉ là loại quảng cáo lấp lửng, còn bản Việt ngữ đầy đủ chỉ có thể có ở hải ngoại. Đó là bản sẽ được dịch lại và công bố ở Berlin từ các file điện tử lưu trong những chiếc máy tính đã được gia cố chống lại các cuộc tấn công của các nhà kiểm duyệt từ Việt Nam. Hiện nay tại Việt Nam vẫn đang có những nhà kiểm duyệt đang cố vươn tay ra khắp thế giới và làm tê liệt máy tính ở ngayBerlin. Điều đó làm cho những kẻ kiểm duyệt đó ít hiền lành hơn rất nhiều so với những gì mà ông Vinh muốn tôi tin. Trong trường hợp này những nhà kiểm duyệt đó không chỉ hành động như những người làm vườn tự do, thích cắt tỉa theo ý muốn của họ, mà là những đặc vụ của chính quyền thực hiện mệnh lệnh tấn công người khác ở nước ngoài.
Khi chúng tôi chuyển từ món cá sang thịt nướng, ông Quốc ra dấu sắp cho tôi biết một điều đặc biệt. Phạm Xuân Ẩn không chỉ tiếp tục làm điệp viên sau 1975 mà còn làm công việc đó ở cấp cao nhất. “Ông ấy đã làm hiệu trưởng trường đào tạo tình báo của quân đội ở Thành phố Hồ Chí Minh”. Tám tháng ông Ẩn phải nằm ở Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc tại Hà Nội, năm 1978, là để chuẩn bị cho vị trí quan trọng đó.
Nhưng tôi chưa thấy chứng cứ nào cho thông tin này. Thực ra tôi ngờ rằng đó chỉ là một phần của chiến dịch tuyên truyền nhằm làm cho Phạm Xuân Ẩn trở thành một cán bộ cộng sản hoàn hảo. Điều khẳng định trên còn khó đứng vững hơn vì ngay lúc trước trong cùng buổi tối đó, chính ông Quốc đã thừa nhận là ông Ẩn, một người miền Nam đã từng làm việc cho Mỹ, luôn bị các đồng nghiệp miền Bắc nghi kỵ. “Những người ở vị trí như của Phạm Xuân Ẩn không được chính quyền tin tưởng. Có rất nhiều câu hỏi về ông ấy”, ông Quốc nói. Chắc những câu hỏi như thế còn lâu mới được trả lời. “Ít nhất phải sau 70 năm tài liệu ở Việt Nam mới được giải mật”, ông Quốc cho biết.
Sau này, để kiểm chứng sự khẳng định của ông Quốc rằng, Phạm Xuân Ẩn đã làm hiệu trưởng học viện tình báo, tôi đã tới thăm ông Bùi Tín ở căn hộ một buồng áp mái của ông tại Paris. Ông Tín cũng là một nhà báo tình báo có tiếng. Ông là Phó Tổng biên tập của tờ Nhân dân, tờ báo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi viết một bài xã luận vào mùa Xuân năm 1990 ca ngợi sự sụp đổ của Bức tường Berlin và việc áp dụng các cải cách chính trị dân chủ trong phe cộng sản. Ông Tín lúc đó sắp bị Bộ Chính trị loại bỏ nhưng Bộ Chính trị cũng đang phải chuẩn bị ký một thỏa thuận hợp tác bí mật giữa Việt Nam và Trung Quốc. (Ông Tín nói, “Thỏa thuận Thành Đô tháng Chín năm 1990 là sự mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc Việt Nam.”). Để tránh bị bắt, ông Tín đã để vợ cùng hai con ở lại Hà Nội rồi bay sang Paris dự cuộc gặp với các biên tập viên của các báo cộng sản. Sau đó ông Tín không bay về nước, ông nghĩ tình hình sẽ tự lật ngược trong khoảng một đến hai năm, các lực lượng tiến bộ của Việt Nam cũng sẽ giành được thế thượng phong và áp dụng trở lại các cải cách dân chủ cho đất nước. Hai mươi lăm năm sau, ông Tín vẫn ở Paris và vợ ông, người ông chưa gặp mặt suốt từ năm 1990 đến nay, vẫn sống trong vòng “kiểm soát chặt chẽ” ở Hà Nội.
Là đại tá quân đội và là người thân tín của Tướng Giáp, và là đồng nghiệp báo chí đã kết bạn với Phạm Xuân Ẩn sau khi hai người gặp nhau năm 1975, ông Tín là một nguồn tin cậy để kiểm tra kỹ thông tin của ông Quốc. “Đúng, Phạm Xuân Ẩn đã viết báo cáo về những người khách tới thăm,” ông Tín xác nhận, “và đôi khi ông ấy cũng được mời đến Bộ Nội vụ giảng bài cho các điệp viên đang học ở Sài Gòn. Nhưng ông ấy hoàn toàn không ở cấp lớn như hiệu trưởng học viện tình báo. Chính quyền đã đối xử với ông ấy như một công cụ hấp dẫn thôi. Ông ấy là một vật trang kim để họ chơi đùa và chiêm ngưỡng. Ông ấy tốt cho việc tuyên truyền nhưng họ không bao giờ tin.”
Dù có những phát biểu còn đầy bí hiểm, tôi bắt đầu thấy khoái ông Quốc khi chúng tôi cùng nhiệt thành cạn sạch một chầu bia khá thoải mái và kết thúc buổi tối với những chiếc tăm vểnh trên miệng – tín hiệu vừa chén xong một bữa tuyệt vời. Ông Quốc còn làm tôi ngạc nhiên thêm bằng một tiết lộ khác. Không giống như ngày xưa, ông Quốc nói, chính quyền Việt Nam hôm nay không còn được điều khiển bởi những bộ óc lớn và những thiên tài quân sự nữa. “Chính quyền Việt Nam ngày nay không đủ thông minh để cho phép một người như Phạm Xuân Ẩn làm những điều như trước đây. Phải vừa táo bạo vừa sáng suốt mới có thể điều khiển được một điệp viên cỡ đó. Cái đó trong tiếng Anh của ông nói thế nào? À, ‘Nạn nhân đầu tiên của chiến tranh là sự thật’. Ở đây, chúng tôi vẫn còn nhiều tác phong thời chiến lắm.”
Đến đây, trong buổi tối đó, những người bạn thích giao lưu vào lúc bữa tiệc ngon sắp tàn đều nhất trí với nhau gần như về tất cả mọi chuyện, và những nhà kiểm duyệt của tôi cùng tôi lại bắt đầu nâng ly chúc tụng. Trăm phần trăm.
Nguồn: Dịch từ bản gốc tiếng Anh “Swamp of the Assassins: On Being Censored in Vietnam”, phần I, do tác giả gửi đến pro&contra.
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Hồng Sơn & Thomas A. Bass & pro&contra
November 16, 2014
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (2)
Bài liên quan:
Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Những chỗ bị kiểm duyệt sửa đổi và cắt bỏ trong bản dịch cuốn “Điệp viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” của Thomas A. Bass
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (3)
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (4)
Bản dịch trọn vẹn: Thomas A. Bass – Điệp viên yêu chúng ta. Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn
Trao đổi lại với ông Thomas A. Bass về phần biên tập ban đầu cuốn sách của ông mà tôi tham gia
Thomas A. Bass – Phản hồi độc giả nhân lần xuất bản tại Berlin
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (1)
Sự khó chịu trong sự thật
Câu hỏi đầu tiên nên trả lời trong vụ “Rừng Sát” là: bài phóng sự của Thomas A. Bass về kiểm duyệt tại Việt Nam có trình bày đúng thực trạng đó không? Theo tôi, đúng. Và hay. Chân dung truyền thần sinh động của ông về bộ mặt kiểm duyệt ở Việt Nam thật đến mức khó chịu. Nó bao quát hiện tượng kiểm duyệt, khắc họa bản chất của kiểm duyệt, phác họa cấu trúc và các hình thái của kiểm duyệt, tìm hiểu bối cảnh của kiểm duyệt và miêu tả chi tiết kiểm duyệt diễn ra như thế nào. Nó là một áng văn hấp dẫn, một tư liệu giá trị. Nếu tôi không quá nhầm thì công luận phải mong muốn nó được phổ biến. Song điều phiền toái nằm ngay trong giá trị của bài phóng sự.
Tác giả, như thông lệ của phóng viên điều tra phương Tây, đã không dùng nút bấm điều khiển từ xa, không tổng hợp và lọc tin từ bàn phím, không nghe qua tai, nhìn qua mắt và phát ngôn qua miệng người khác, mà tuân thủ đạo đức hay điều răn hàng đầu của nghề báo: ông không bịa ra một bài phóng sự mà tiếp cận người thật, việc thật, và lấy trường hợp thật của chính mình làm chất liệu.
Chuẩn mực đầu tiên này của sự thật có vẻ lạ lùng với báo chí Việt Nam. Để lấy một ví dụ: khi “em bé đuốc sống” Lê Văn Tám đã được người trong cuộc, một nhân chứng, một giáo sư sử học đầy uy tín chính thống, tiết lộ là nhân vật hư cấu để tuyên truyền thì nhà báo Trần Trọng Tân, người từng đứng đầu ngành văn hóa tư tưởng của đất nước, vẫn khẳng định em bé này là có thật, vì một số sách báo sau này đã thuật lại sự kiện này. Tôi không biết có ai sẵn sàng trả tiền mua tin của Thông tấn xã Việt Nam hay không, song sở dĩ các hãng tin nước ngoài như Reuters, AP, AFP, UPI, DPA…, hầu hết của phương Tây, bán được loại hàng đặc biệt này vì bên cạnh những ưu thế khác, trước hết là giá trị xác thực của món hàng được đảm bảo: người thật, việc thật, phóng viên thật. Bán một chiếc túi nhái Louis Vuitton rất dễ; cả giá trị sử dụng lẫn giá trị thẩm mĩ của nó có khi còn cao hơn của hàng xịn, vấn đề chỉ còn là nguồn gốc toát ra từ chính người dùng; nhưng bán tin fake Reuters thì không thể, giá trị sử dụng của nó là zero. Trong hai tác phẩm đáng chú ý nhất hai năm vừa qua, Bên thắng cuộc của Huy Đức và Đèn cù của Trần Đĩnh, chúng ta có thể tìm được vô số ví dụ về việc toàn bộ guồng máy tuyên truyền của Việt Nam đã hư cấu, bịa đặt, giả mạo, bóp méo, lũng đoạn, dụng ý gây nhiễu, định hướng, kiểm soát và kiểm duyệt thông tin một cách toàn diện và hệ thống như thế nào. Bài báo, “phát pháo mở đầu cuộc Cải cách Ruộng đất” về vụ đấu bà Nguyễn Thị Năm – Cát Hanh Long, do chính ông Trần Đĩnh viết, “ký một cái tên ú ớ không còn nhớ và sau đó cũng không mó đến nó bao giờ”, như ông cho biết. Song bản thân ông không dự đấu tố. Để xào ra một “tường thuật”, ông “khai thác” người cấp dưỡng của ông Trường Chinh, theo sự “pha phách thêm nếm” của đồng chí phóng viên đầu bếp này, để rồi “phối hợp” với nó, chúng ta có bài “Địa chủ ác ghê” của một CB nổi tiếng. Ít nhất thì ông Hồ đã “bịt râu đến dự một buổi”, nhưng chắc chắn không phải vì tuân thủ đạo đức báo chí.
Và để so sánh: báo chí Đức ồn lên một dạo vì một vụ tai tiếng. Bỉnh bút của tờ Süddeutsche Zeitung, ông Heribert Prantl, một trọng lượng lớn trong làng báo Đức, bị chỉ trích vì trong một bài chân dung về người đứng đầu Tòa Bảo hiến Liên bang, ông miêu tả cảnh thực khách của vị chánh án được phân công làm bếp, như thể ông đã trực tiếp chứng kiến, trong khi ông chỉ nghe kể lại chứ chưa bao giờ ngồi trong căn bếp ấy. Tờ báo phải đăng đính chính. Một nhà báo khác, ông René Pfister của tờ Spiegel, được trao một giải thưởng báo chí danh giá cho một bài viết về Thống đốc bang Bayern, trong đó có đoạn miêu tả sưu tập mô hình tàu hỏa trong tầng hầm nhà vị chính khách này. Ngay sau đó ông bị tước giải thưởng vì chỉ biết đến sưu tập đó qua nguồn khác, song lại quên nêu rõ, khiến độc giả tưởng ông đã đích thân đặt chân xuống tầng hầm này.
Nếu cũng áp dụng những chuẩn mực như vậy, báo chí Việt Nam còn lại gì? Cần nói ngay rằng báo chí độc lập, thiếu hẳn điều kiện – tài chính, nhân sự, bộ máy tổ chức – và quyền tự do tiếp cận các sự kiện, đành giới hạn mình trong chức năng bình luận; dễ hiểu rằng nhiều nhận định nghiêm túc xuất hiện ở “lề trái” lại vô giá trị, vì dựa trên các thông tin hư cấu hoặc đã xào nấu nát bét nguồn gốc trong những chiếc vạc đại táo của các đầu bếp quốc doanh. Đó là chưa kể vô vàn những diễn đàn nặc danh mà tọa độ chính trị còn đáng ngờ hơn cả các thông tin được những người ngồi trong bóng tối lôi ra từ tay áo.
Trở lại với ông nhà báo Mỹ. Ông có thể kể câu chuyện hoàn toàn thật của mình, do chính mình trải qua, đích thân tai nghe mắt thấy, bằng cách giấu tên các nhân vật thật trong đó không? Tôi cho là không. Vì sao? Vì chỉ giấu họ trong những cái tên hư cấu là vô nghĩa, không cần là người trong ngành xuất bản ở Việt Nam cũng dễ dàng xác định who is who trong trường hợp này. Thao tác giấu tên bắt buộc phải kéo theo một loạt các hư cấu khác: ông phải tưởng tượng ra một nhà xuất bản khác, cuốn sách bị kiểm duyệt của ông phải mang một cái tên khác và tất nhiên một nội dung khác, bản thân ông cũng cần xuất hiện với một bút danh khác, và toàn bộ câu chuyện nên xảy ra ở một xứ tưởng tượng, phi thời đại, tốt nhất là ở Macondo. Nó sẽ không còn là một phóng sự điều tra mà trở thành một roman à clef. Tác phẩm được coi là roman à clef nổi tiếng, tiểu thuyết Mephisto của Klaus Mann – con trai Thomas Mann – là một ví dụ tốt. Dù nhân vật chính mang một cái tên hoàn toàn khác và được đặt trong những tình tiết hư cấu, nhưng bối cảnh là nước Đức thời Quốc xã không thay đổi, nên người đọc vẫn dễ dàng nhận ra đó là diễn viên Gustaf Gründgens, anh rể cũ của tác giả, một nghệ sĩ có tài, nhiều tham vọng, leo đến đỉnh cao sự nghiệp sân khấu của mình nhờ thỏa hiệp với chính quyền Hitler. Song Thomas A. Bass không có ý định viết tiểu thuyết. Tác phẩm của ông là một phóng sự người thật việc thật, thể loại đặc biệt, được coi là đỉnh cao và niềm tự hào của báo chí phương Tây.
Để lấy tiếp một ví dụ – hiển nhiên không phải để so sánh sự kiện, một sự kiện nằm ngoài khả năng hình dung của chúng ta – mà để hiểu, khi được gắn với những nhân vật cụ thể, có thực và có thể kiểm chứng, thì sự thật bỗng hiện ra trong toàn bộ sự khó chịu của nó như thế nào: Trước khi Seymour Hersh bám lấy viên trung úy William Calley Jr. để anh ta, chuếnh choáng sau một lượng bia kha khá, kể chuyện mình đã thực hiện lệnh search and destroy, tìm và diệt, tại làng Mỹ Lai ngày 16/3/1968, đúng tinh thần Big Count, càng nhiều xác địch càng vẻ vang, của Chiến dịch Phượng Hoàng ở cao điểm của Chiến tranh Việt Nam; trước khi nhà báo này cày tung nước Mỹ để tìm ra từng nhân chứng, với người thật, tên thật, những người lính trong quân đội Hoa Kỳ đã tham gia hoặc tận mắt chứng kiến vụ thảm sát ấy, với 504 xác người già, phụ nữ và trẻ em, thì công luận Hoa Kỳ không phải là không biết đến vai trò đáng ngờ của quân đội Hoa Kỳ trong những cái được gọi là “tổn thất ngoài dự kiến” trong Chiến tranh Việt Nam. Song khi cả nạn nhân và thủ phạm đều đứng khuất trong chốn no name thì sự thật còn chịu được theo một nghĩa nào đó. Phải đến khi phóng sự của Hersh xuất hiện, sau gần một năm ngược xuôi không nơi nào muốn công bố, cái sự thật ấy bỗng có những gương mặt thật, những chân dung thật, những cái tên thật, và mới thật sự trở thành khó chịu, sự khó chịu dẫn đến phong trào phản chiến, rồi góp phần đáng kể vào việc chấm dứt sự tham dự của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam.
Câu hỏi bên trên cũng có thể diễn đạt theo cách khác: Thomas A. Bass có cần, thậm chí có tránh nhiệm giấu tên các nhân vật thật trong câu chuyện thật của mình không? Một lần nữa, theo tôi là không. Song để thuyết phục nhiều người đã quen với “hoàn cảnh Việt Nam”, nơi vị nguyên thủ khai quốc dùng bút danh CB hay X.Y.Z để viết những bài báo agitprop kích động hoặc những mẩu chuyện đả kích bỗ bã, và đương kim Chủ tịch nước gọi đương kim Thủ tướng là “đồng chí X”, thì không dễ. Nhưng muốn thế nào, ít nhất từ hôm qua độc giả đã không còn là trẻ con, và hôm nay các nhân vật được đề cập còn chưa là những Lord Voldemort để tác giả “Rừng Sát” cần gọi nhà sử học kiêm đại biểu Quốc hội trong bài viết của mình là “ông Y” hay vị giám đốc công ti xuất bản Nhã Nam là “ông Z”. Họ là các nhân vật có tên tuổi đàng hoàng của giới chính trị, hàn lâm, truyền thông và xuất bản.
Ở phương Tây hiện tại, chẳng những ban lãnh đạo mà nhân viên của các nhà xuất bản, phóng viên các hãng truyền thông và báo chí, giới hàn lâm trong các trường đại học và viện nghiên cứu, những người làm việc trong các hãng quảng cáo và tổ chức sự kiện xã hội, trong các thư viện và bảo tàng…, đều công khai danh tính, thậm chí kèm cả ảnh và địa chỉ email cho bất kì ai muốn liên lạc. Công luận có quyền biết những nhân vật đang hàng ngày đào tạo, rèn rũa, tác động đến ý thức và dư luận xã hội là ai. Không phải chỉ chính khách và It Girl mà nhóm nói trên cũng được coi là những nhân vật ít nhiều đứng trong công luận, những public figure từ khía cạnh đặc thù của công việc họ làm. Phần lớn trong số họ đều có trang cá nhân chính thức, với đầy đủ tiểu sử, bước đường sự nghiệp, thành tích, tác phẩm, và thường kèm kết nối công khai trên các mạng xã hội.
Ở Việt Nam, nơi các nhà lãnh đạo đất nước được công khai đại diện bằng một hệ thống đồ sộ các trang mạng nặc danh vui vẻ truyền bá cuốn Mein Kampf như một “tác phẩm hấp dẫn” với những hình ảnh máu lửa giật gân, tên tuổi tự chúng đã sống những số phận khác hẳn. Công ti xuất bản Nhã Nam có một website, nhưng ở đó tuyệt đối không có một cái tên nào của những người nào chịu trách nhiệm. (Ở Đức chẳng hạn, luật pháp bắt buộc các doanh nghiệp – dĩ nhiên một công ti xuất bản là một doanh nghiệp – không những công khai tên các nhân sự chịu trách nhiệm, mà hàng loạt thông tin khác, kể cả mã số thuế doanh thu và mã số doanh nghiệp trên trang nhà.) Còn Nhà xuất bản Hồng Đức, cũng được nhắc tới trong vụ “Rừng Sát”, thì tồn tại kín đáo ngoài thời đại internet. Song không riêng gì họ. 99 % những cái tên kí dưới hàng chục ngàn bài báo và bản tin hàng ngày đăng trên hàng trăm tờ báo ở Việt Nam thực ra là thừa. Chúng vô nghĩa, vì không khác gì vô danh khi không công khai gắn với một con người thật, tên tuổi thật.
Chúng ta đã trải qua một chặng đường dài. Cột cây số đầu tiên cắm bảng “Đừng nghĩ”. Đi hết ba thế hệ mới gặp bảng “Nghĩ thì nghĩ, miễn đừng nói”. Đến đây tốc độ có vẻ cao hơn, chỉ một thế hệ sau đã đến cây số “Nói thì nói, miễn đừng nêu tên” và đi thêm một chút thì gặp tấm bảng khổng lồ “Đừng hành động”. Song một người Việt điển hình hôm nay vẫn là một người Việt dùng vô số nickname và ngại nêu danh tính thật. Bạn cứ thử gọi điện đến một tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp, hiệp hội… Ở phương Tây, lời đầu tiên mà người bên kia đường dây nói ra là tên mình, như điều đương nhiên nhất trần đời. Ở Việt Nam, đó là điều cuối cùng mà người ta muốn tiết lộ, như bí mật lớn nhất nhân gian. Dĩ nhiên nỗi e ngại này có nguồn gốc bất hạnh của nó, song nó cũng rất tiện dụng để làm cái cớ, biện minh cho tình trạng vô danh của trách nhiệm. No name là môi trường giết chết những thương hiệu khả tín, nhưng là chốn an toàn cho những tầm vóc thấp chốt ở vị trí cao. No name, như đã nói ở trên, là nơi sự thật còn chịu được theo một nghĩa nào đó.
Ông nhà báo Mỹ vác cái bản thảo bị bằm vặp của mình, nhằm thẳng quả bom kiểm duyệt xông tới, sau khi mon men ở vòng ngoài. Chui hẳn vào bụng nó chắc ông cũng dám lắm, nhà báo nước ngoài không có gì để mất ngoài cái story của họ, nhưng vòng sâu nhất mà ông có thể tiếp cận là chỗ đứng của những người gác bom, những người vạch cho ông bằng bút đỏ, đâu là ranh giới cuối cùng. Trong cái story của ông, họ là những nhân vật chính mà tên tuổi thật, như dấu chấm tất yếu trên chữ i, khiến câu chuyện ấy không thể thật hơn. Song sự kinh ngạc từ phía độc giả Việt Nam cho thấy, cú sốc văn hóa Việt-Mỹ đã hoàn hảo. Như cái tên Tố Hữu trong cuốn sách của ông bị các nhà kiểm duyệt viết tắt – một cách lố bịch và vô nghĩa – thành T.H, có lẽ ông phải tự kiểm duyệt tên các nhân vật trong bài phóng sự của mình? Ông sẽ có khá nhiều lựa chọn: CB, T.H, X, hoặc XYZ. Muốn kể một câu chuyện về kiểm duyệt, trước hết bạn hãy tự kiểm duyệt. Chào mừng bạn đến với đất nước của hài hước, chúng tôi đơn giản là Việt Nam!
Vâng, đó là cố hương của tôi, một nhà văn viết tiếng Việt, lần cuối cùng được xuất bản trong nước là 19 năm trước, 1995, một tập truyện ngắn bị đình chỉ ngay sau khi phát hành. Tám năm sau, lần cuối cùng tôi được về thăm nhà, ông Trịnh Đình Khôi, chuyên viên cao cấp phụ trách mảng văn hóa văn nghệ thuộc Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, nay là Ban Tuyên giáo Trung ương, khẳng định với tôi rằng ông không liên quan đến cái lệnh cấm đó, thậm chí ông đã bênh vực cuốn sách của tôi trong cuộc họp phê bình nhà xuất bản. Ai cấm, ông không biết. Nhưng ông không biết, thì ai biết? Cái đó thì phải hỏi bên Bộ, ông nói. Tức bên chính phủ. Cấu trúc hai nhà nước trong một nhà nước của Việt Nam, bên này Ban, bên kia Bộ, quả là một sáng kiến vĩ đại. Chúng ta đều trở thành những con lắc, chóng mặt giữa hai bờ quyền lực, và một giây nào đó chợt bừng tỉnh để ngay sau đó lại trở về quán tính chao đảo thì gần ba phần tư thế kỉ đã trôi qua.
Ngồi trong căn phòng tuềnh toàng của Ban ở một biệt thự Pháp chỉ còn cái xác nhưng vẫn giữ vẻ khang trang đường bệ so với các kiến trúc của người Việt, cách Lăng Hồ Chủ tịch không đầy một cây số, với bộ bàn ghế rẻ tiền, bộ ấm chén cáu bẩn cùng chiếc bô nhựa màu đỏ đầy ắp bã trà, một trong những vật dụng ám ảnh tôi nhất trong mọi phòng tiếp khách của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương thuở đó, tôi hoàn toàn tin rằng ông chuyên viên tư tưởng thành thật. Cũng thành thật như thế, ở một tầm khác, là người đứng đầu ngành tư tưởng văn hóa của đất nước, ông Trưởng Ban, Ủy viên Bộ Chính trị, một nhà thơ, người đã phá mọi kỉ lục cấm sách của các bậc tiền nhiệm, song với một điểm son là sách tuy bị đình chỉ nhưng tác giả bình an. Song cả ông Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng không liên quan gì đến cuốn sách bị cấm của tôi. Nhận chén trà từ tay người phục vụ – hay phải gọi là người thư kí? – mang tới, tôi không thấy chiếc bô nhựa màu đỏ trong phòng tiếp khách bề thế hơn nhiều của ông, ghế bọc giả da, nhưng hơi thở của quyền lực ở đây không ồn ào, chỉ lạnh lẽo. Ông nhắc đến những bài thơ thuở nào của tôi mà chính tôi không còn nhớ, mấy trăm bài thơ đầu tay tôi đã đốt sạch để không bao giờ còn bị môn thể thao đá cầu chữ nghĩa trong nghệ thuật này ở Việt Nam cám dỗ. Chúng tôi trò chuyện về talawas, trang mạng do tôi phụ trách lúc đó. Ông gọi nó là một cửa sổ nhìn ra thế giới và quan tâm tới giải thưởng văn chương mang tên Bùi Giáng mà tôi từng đề nghị. Song sự thân ái giữa người cầm bút và người cầm bút đó không ngăn cản việc sáu tháng sau, talawas bị chặn, các biên tập viên ở Việt Nam lần lượt bị công an triệu tập. Cha mẹ tôi, gần đất xa trời, cũng phải lập cập lên “làm việc” với an ninh. “Nhờ hai cụ nhắn với chị Hoài, chắc chị ấy cũng muốn về thăm gia đình chứ”, Stasi Việt Nam ngọt ngào tiễn cha mẹ tôi ra về.
Khi tôi ra khỏi dinh thự của Văn phòng Trung ương Đảng do người Pháp để lại, trời đã tối, nhưng vẫn còn những cán bộ cởi trần mặc quần đùi vờn bóng bàn ở sân. Bây giờ, mười một năm sau, chắc họ chơi golf. Bàn ghế chắc đã thay bằng cái gì khảm trai, cái gì gỗ gụ, như cái thẩm mĩ búa liềm rồng phượng của đất nước này đòi hỏi. Nhưng chiếc bô nhựa đỏ, tôi tin là nó bất diệt. Nó vẫn còn. Còn nguyên như khu rừng nhiệt đới của kiểm duyệt. Lạc trong đó, bạn sẽ đầy lòng cảm ơn người kiểm lâm đã cứu bạn khỏi bị hùm xé xác, bằng cách vạch cho bạn một đường thoát qua khu đầm lầy. Lún đến đâu, tùy vào bạn. Tôi ngoái lại nhìn một lần nữa cái trụ sở của quyền lực ấy và nhẹ người, tôi sẽ không phải gieo một con xúc xắc nào trong ván mạt chược lớn, cuộc chơi của các nạn nhân, ân nhân, thủ phạm và đồng phạm đó nữa. Lời của chàng thanh niên 25 tuổi Karl Marx viết năm 1843 cho người cộng sự Arnold Ruge khi quyết định rời khỏi nước Đức, bắt đầu cuộc đời lưu vong tròn 40 năm của mình, vẳng lên trong tôi như một bằng chứng nữa, rằng lịch sử dành cho mọi người Việt – trong đó có tôi, người đang sống, đến nay vừa tròn 20 năm, ở Đức – một quy chế hài hước đặc cách. Ông viết: “Tôi đã mệt mỏi vì sự thớ lợ, ngu xuẩn, vì công quyền thô thiển, vì thói bợ đỡ, luồn cúi, quay lưng của chúng ta và vì tệ chẻ chữ.” Lí do cho sự mệt mỏi đó là chế độ kiểm duyệt tại Đức mà nạn nhân là tờ Rheinische Zeitung do Marx chủ biên, với loạt bài nổi tiếng của ông bàn về tự do báo chí và xuất bản.
(Còn tiếp)
© 2014 pro&contra
November 14, 2014
Châu Á của người Á Châu: Những lý do tại sao tình hữu nghị Nga-Hoa sẽ là bền vững
Gilbert Rozman
Trần Ngọc Cư dịch
Gần đây, Trung Quốc và Nga đã thách thức trật tự quốc tế bằng cách hậu thuẫn lẫn nhau trên mặt trận ngoại giao để đối phó vấn đề Ukraine và Hồng Kông, theo thứ tự tương ứng. Nhưng các quan sát viên phương Tây gần như đã hiểu lầm những lý do khiến hai nước phải xây dựng các quan hệ thân thiết với nhau hơn trước. Nga và Trung Quốc được thúc đẩy bởi các lợi ích vật chất mà hai nước chia sẻ thì ít, nhưng bởi một ý thức thông thường về cái căn cước dân tộc [national identity] thì nhiều. Cái bản sắc dân tộc này tự định hình trong cuộc đối kháng chống phương Tây và trong việc củng cố cách nhìn của mỗi nước về di sản của chủ nghĩa cộng sản truyền thống. Moscow và Bắc Kinh có những bất đồng về trật tự tương lai mà họ dự phóng cho khu vực riêng của mình. Nhưng cả hai đều nhất trí rằng trật tự địa chính trị phương Đông chắc chắn xung khắc với trật tự địa chính trị phương Tây – và chính điều này đã dẫn hai nước đến những quan hệ song phương gần gũi hơn trước một cách đáng kể.
Một số quan sát viên phương Tây đã nhấn mạnh quá đáng về các căng thẳng Trung-Xô trong thời Chiến tranh Lạnh, đồng thời tranh luận rằng quan hệ giữa Bắc Kinh và Moscow có thể vẫn còn thiếu bền vững vì những chuyển biến đã diễn ra bên trong hai nước từ thập niên 1990, kể cả tiến trình dân chủ hóa tại Nga, toàn cầu hóa tại Trung Quốc, và sự trỗi dậy nhanh chóng của một giai cấp trung lưu có khả năng tiếp cận thông tin bên ngoài tại cả hai nước. Về việc Trung Quốc và Nga xây dựng các quan hệ mới, các quan sát viên này tin rằng tình hữu nghị Nga-Hoa chỉ là một cuộc hôn nhân hờ [a marriage of convenience] sẽ bị các lợi ích quốc gia khác gạt qua một bên, trong đó phải kể đến các quan hệ hữu hảo với phương Tây.
Nhưng hầu hết người phương Tây không hiểu được rằng, kể từ những năm 1990, các quan chức Trung Quốc và Nga đã bắt đầu hối tiếc về những căng thẳng giữa hai nước trong thời Chiến tranh Lạnh. Họ hiểu rằng vấn đề tranh chấp được gây ra do thiếu sự trùng hợp lợi ích quốc gia thì ít, mà do bản sắc dân tộc thì nhiều – cái bản sắc dân tộc đã bị méo mó bởi các đòi hỏi ý thức hệ về quyền lãnh đạo thế giới cộng sản. Moscow phạm phải sai lầm nghiêm trọng khi chờ đợi Bắc Kinh cam chịu quyền lãnh đạo của mình, chấp nhận vai trò của một đối tác đàn em. Lãnh đạo Trung Quốc không chấp nhận vai trò đó, vì điều ám ảnh duy nhất của họ là tính ưu việt của ý thức hệ Cộng sản Trung Quốc.
Các nhà làm chính sách của hai nước cương quyết không lặp lại các vấn nạn này. Mặc dù Trung Quốc đang ở trong vị thế là một đối tác nổi bật trong mối quan hệ này, nhưng họ đã tỏ ra tự chế. Các lãnh đạo tại Moscow và Bắc Kinh tránh để cho chủ nghĩa dân tộc bá quyền nước lớn [chauvinistic nationalism] lấn át lợi ích quốc gia của nhau trong một nỗ lực chung nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của phương Tây trong khu vực của mỗi nước.
Vì mục đích đó, chính phủ của hai nước chủ ý tập trung vào những chính sách đối ngoại nhắm tới việc triệt hạ chính nghĩa của phương Tây [Western legitimacy], đồng thời thận trọng không đưa ra những bình luận phê phán các tham vọng của nhau trong chính sách đối ngoại. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã mô tả cái gọi là Giấc mộng Trung Hoa [China Dream] về một trật tự địa chính trị mới tại châu Á do các chính phủ trong khu vực tạo dựng nên – trong đó Bắc Kinh đóng một vai trò khống chế. Trong một cung cách tương tự, Tổng thống Nga Vladimir Putin nói rõ mục đích của mình là tạo ra một Liên minh Á Âu, trong đó các quan hệ giữa các quốc gia Xô-viết trước đây là do Moscow định đoạt. Nga và Trung Quốc cáo buộc Mỹ đang thể hiện một não trạng hiếu chiến của thời Chiến tranh Lạnh bằng cách ra sức ngăn chặn tham vọng chính đáng của hai nước trong các khu vực ảnh hưởng của họ.
Ít ra có đến sáu lý do để tin rằng quan hệ đối tác ngầm này giữa Nga và Trung Quốc là bền vững. Một, Putin và Tập đã và đang dựa vào các ý thức hệ rất giống nhau để biện minh cho chế độ của mình. Cả hai đều nhấn mạnh niềm tự hào về thời đại xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa dĩ Hoa vi trung [Sinocentrism] hay chủ nghĩa dĩ Nga vi trung [Russocentrism] vốn đang tìm cách nới rộng trật tự chính trị trong nước ra bên ngoài, và chủ nghĩa chống bá quyền [anti-hegemonism]. Mặc dù chủ nghĩa dân tộc Nga có một tố chất bài ngoại [a strain of xenophobia] trong đó, từng tiếp sức cho lối tuyên truyền mị dân chống Trung Quốc trong những năm 1990, nhưng Putin đã hạn chế tối đa khía cạnh dân tộc chủ nghĩa này và tránh trực tiêp nhắc đến sự trỗi dậy của Trung Quốc. Ý hệ dĩ Hoa vi trung [Sinocentrist ideology] có xu thế tương tự là nuôi dưỡng các căng thẳng với Nga – trong đó có việc thách thức các đòi hỏi chủ quyền của Nga tại Trung Á gồm lãnh thổ trước đây đã thuộc về Liên Xô. Nhưng các lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc đã cho thấy, trong các hội nghị và diễn đàn quốc tế, kể cả tại Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, rằng họ sẵn sàng bày tỏ sự tôn trọng [vùng] ảnh hưởng chính trị và văn hóa của Nga.
Hai, Trung Quốc và Nga đang tìm cách nêu bật những dị biệt lịch sử với phương Tây và nhấn mạnh chiến tuyến giữa họ với Mỹ trong thời Chiến tranh Lạnh. Sách báo bị nhà nước kiểm duyệt tại hai nước ít khi nhắc đến cuộc tranh chấp Trung-Xô trong Chiến tranh Lạnh. Mặc dù trước đây một số sử gia Trung Quốc đã nhìn nhận rằng Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ là do Bắc Triều Tiên xâm lăng Nam Triều Tiên, nhưng các sách giáo khoa mới nhất đồng loạt đổ lỗi cho Mỹ đã gây ra chiến tranh. Trong xu thế này, các nhà làm chính sách và các học giả trong cả hai nước gia tăng lập luận rằng phương Tây không bao giờ thay đổi não trạng đế quốc thời Chiến tranh Lạnh của mình. (Họ đưa ra bằng chứng bằng cách cáo buộc phương Tây đã hậu thuẫn cho cái gọi là các cuộc cách mạng màu tại Ukraine và Hồng Kông.) Luận điệu này ngụ ý là Trung Quốc và Nga vẫn phải tiếp tục chống lại ảnh hưởng của phương Tây và đóng góp cho việc kiến tạo một trật tự quốc tế mới.
Ba, cả hai nước đều lập luận rằng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 chứng tỏ rằng mô hình chính trị và kinh tế của phương Tây đang ở trên bờ thất bại và là kém ưu việt hơn các mô hình phát triển của họ (phần sau của tranh luận này có sức thuyết phục tại Trung Quốc nhiều hơn tại Nga.) Các lãnh đạo tại Bắc Kinh và Moscow đều không cho phép xã hội dân sự có điều kiện tạo ra một nguy cơ nào cho chế độ của mình, vì thế trong năm 2014 này đã ra tay đàn áp thô bạo hơn bất cứ thời điểm nào kể từ đầu thập niên 1990.
Bốn, cả Putin lẫn Tập đều nhấn mạnh tầm quan trọng của các quan hệ song phương Nga-Hoa trong việc đối đầu với các mối đe dọa từ ngoài vào. Đây là một hệ luận [a corollary] của việc hai chính phủ đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của chủ nghĩa cộng sản, dù đó là một ý thức hệ đang thống trị (tại Trung Quốc) hay như một di sản lịch sử tích cực (tại Nga). Điều này làm hai nước không còn bao nhiêu đồng minh ý thức hệ ngoài việc chỉ còn có nhau [các đồng minh ý thức hệ khác là Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn – TNC] – và ta không có lý do để tin rằng điều này sẽ thay đổi trong một tương lai có thể thấy trước.
Năm, Nga và Trung Quốc đã thể hiện thành công một nỗ lực là đứng cùng một phe trong các tranh chấp quốc tế. Để khỏi xung đột công khai về các vấn đề khu vực, như các chính sách chủ quyền lãnh thổ và năng lượng của Việt Nam, cả Trung Quốc lẫn Nga đều ngăn cấm việc bàn luận công khai các bất đồng quan điểm giữa hai nước, nhờ vậy giảm thiểu sức ép của dân chúng tại nước này đòi hỏi chính phủ phải lên tiếng phản đối nước kia. Đồng thời mỗi nước đều vác loa rêu rao mối đe dọa của Mỹ và đồng minh của Mỹ trong bất cứ tranh chấp nào liên quan tới một trong hai nước. Chiến dịch này có hiệu quả đến nỗi trong năm nay đôi khi khó phân biệt giữa sách báo Nga và sách báo Trung Quốc viết về cuộc khủng hoảng tại Ukraine hay các cuộc biểu tình tại Hồng Kông.
Sáu, hiện có những chiến dịch mà chính phủ hai nước đang tiến hành để đề cao bản sắc dân tộc. Putin và Tập đã vận dụng mọi nguồn lực có sẵn trong tay, kể cả chế độ kiểm duyệt gắt gao và cuộc tranh luận sôi nổi từ trên xuống dưới, để động viên cả nước hậu thuẫn một cuộc tuyên truyền chính trị inh ỏi nhằm biện minh cho các cuộc đàn áp ở trong và ngoài nước. Những kêu gọi này đã có hiệu quả vì chúng dựa vào những nỗi bất bình do lịch sử để lại và sử dụng luận điệu bá quyền nước lớn rất quen thuộc. Kết quả là, chủ nghĩa dân tộc đã trỗi dậy mạnh mẽ nhất tại hai nước kể từ điểm cao của Chiến tranh Lạnh.
Luận điệu của Trung Quốc trong việc hậu thuẫn các hành động của Putin tại Ukraine và luận điệu của Nga tán thành quan điểm của Tập về các vấn đề Đông Á không phải là một trùng hợp ngẫu nhiên. Nói đúng ra, đó là một đặc điểm của một trật tự địa chính trị mới thời hậu Chiến tranh Lạnh. Chừng nào những nhà lãnh đạo chính trị chóp bu hiện nay tại Trung Quốc và Nga còn nắm giữ quyền lực, thì không có lý do gì để kỳ vọng một thay đổi lớn hoặc trong bản sắc dân tộc của hai nước hoặc trong quan hệ Nga-Hoa. Những nước hi vọng tạo ra sự chia rẽ giữa hai quốc gia – trong đó có Nhật Bản dưới Chính quyền Thủ tướng Shinzo Abe – chắc chắn sẽ thất vọng. Nói cách khác, không phải là chuyện ngẫu nhiên khi Mỹ không giành được hậu thuẫn của Trung Quốc trong nỗ lực chống chủ nghĩa bành trướng Nga tại Ukraine. Dù vấn đề là Bắc Triều Tiên, Iran, hay một thách thức nào khác đối với phương Tây, ta nên sẵn sàng chứng kiến có thêm nhiều cuộc đọ sức từ phía Nga-Hoa, chứ không hề giảm bớt.
___________
GILBERT ROZMAN là Phó Giảng viên tại Phân khoa Nghiên cứu Đông Á của Đại học Princeton. Sách mới nhất của ông là The Sino-Russian Challenge to the World Order (Thách thức Nga-Hoa đối với Trật tự Thế giới).
Nguồn: “Asia for the Asians. Why Chinese-Russian Friendship Is Here To Stay”, Foreign Affairs 29/10/2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
November 12, 2014
Thomas A. Bass – Phản hồi độc giả nhân lần xuất bản tại Berlin
Trần Lê Quỳnh dịch
Bài liên quan:
Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Những chỗ bị kiểm duyệt sửa đổi và cắt bỏ trong bản dịch cuốn “Điệp viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” của Thomas A. Bass
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (3)
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (4)
Bản dịch trọn vẹn: Thomas A. Bass – Điệp viên yêu chúng ta. Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn
Nhà báo và kiểm duyệt (1)
Trao đổi lại với ông Thomas A. Bass về phần biên tập ban đầu cuốn sách của ông mà tôi tham gia
Cho phép tôi xác minh các nguồn tin và phương pháp được dùng cho bài viết về “Kiểm duyệt ở Việt Nam”. Là một phần của một nghiên cứu rộng hơn, bài tiểu luận kể lại chuyện cuốn sách của tôi về ông Phạm Xuân Ẩn đã bị kiểm duyệt như thế nào. Tôi miêu tả các trao đổi xung quanh chủ đề này, cũng như những lần gặp một số trong những người chịu trách nhiệm kiểm duyệt cuốn sách. Thông thường, tôi đến những cuộc hẹn này – đã được thu xếp để trao đổi về trải nghiệm riêng của tôi cũng như vấn đề kiểm duyệt nói chung – với một hoặc hai người phiên dịch và một cuốn sổ tay để ngỏ để ghi chép những trao đổi on the record.
Những người chịu nói chuyện với tôi là những người tốt. Họ trọng danh dự, bị chính quyền ép phải kiểm duyệt trái ý muốn của họ. Những người từ chối nói chuyện với tôi chính là những người điều hành hệ thống này, những quan chức giúp hệ thống hoạt động. Tôi chịu ơn những người đã nói chuyện với tôi, đó là những con người dũng cảm. Tôi đã cố gắng tường thuật trung thực về một tình thế nan giải khiến tất cả chúng ta đều khó xử.
Không ai buộc phải nói chuyện với tôi nếu họ không muốn. Tôi không hề tường thuật những chủ đề mà người đối thoại yêu cầu trước là phải giữ kín. Không một tư liệu nào trong bài của tôi được thu thập bằng một cách nào khác những phương pháp chuẩn mực khi phóng viên phỏng vấn các đối tượng và tường thuật các cuộc trao đổi. Tôi cũng cần nói thêm rằng chuyến thăm Hà Nội gần đây của tôi mở đầu bằng một buổi nói chuyện công khai, tại đó tôi đã nói về kiểm duyệt ở Việt Nam và về dự định công bố một ấn bản không bị kiểm duyệt của cuốn sách. Sau buổi đó, những ai nói chuyện với tôi hẳn phải biết tôi là một tác giả điều tra về tình trạng kiểm duyệt và chuẩn bị viết về đề tài này.
Sau cùng, tôi muốn nói rằng bài tiểu luận đó đã được gửi trước để xem lại. Vài tuần trước khi bài được công bố, tôi đã gửi cho những người liên quan những đoạn có trích dẫn lời của họ. Tôi bảo họ, “Cứ thoải mái chữa lại những sai sót mà tôi có thể phạm phải, hoặc thay đổi lời trích, nếu cách viết lại có thể giúp làm rõ hay diễn tả suy nghĩ của bạn đúng hơn.” Không một ai hồi âm lời mời của tôi. Bây giờ tôi vẫn giữ nguyên lời mời ấy.
Một số độc giả dường như đã sửng sốt khi biết bài viết của tôi lại xuất hiện trước bằng tiếng Việt. Tôi hình dung được rằng chuyện này có thể gây e ngại. Mùa Xuân năm ngoái, khi làm việc ở Tunisia, tôi hiểu được cách chính quyền Ben Ali ngăn chặn tin tức. Vì không được phép tường thuật diễn biến thời sự, các phóng viên đã ngầm tiết lộ tin tức cho Pháp. Khi một bản tin được đăng trước trên tờ Le Monde thì ở Tunisia người ta có thể tường thuật lại, vì đó là tin đã xuất hiện trên báo chí nước ngoài. Lúc này đây, tôi chỉ có thể giải thích rằng Việt Nam là nơi nhận tin đầu tiên.
Tôi viết bài tiểu luận về kiểm duyệt ở Việt Nam như lời giới thiệu cho bản thảo cuốn sách được khôi phục. Tôi đã ký một hợp đồng với công ty xuất bản Việt Nam, cho phép tôi công bố bản dịch không bị kiểm duyệt, sáu tháng sau khi ấn bản kiểm duyệt ra mắt tại Việt Nam, với chi phí của riêng tôi. Vì bản thảo đã khôi phục sẽ được công bố bằng tiếng Việt nên lời giới thiệu cũng cần ra mắt bằng tiếng Việt. Việc bài của tôi được in trước bằng tiếng Anh, tiếng Urdu, tiếng Ba Lan hay tiếng Việt không quan trọng. Thế giới văn thư đầy những ví dụ về các tác giả cho tác phẩm ra mắt trước trong những ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ của mình.
Những lần đến Việt Nam gần đây, đi đâu tôi cũng nghe mọi người bảo rằng mình không được phép nói về những chủ đề “nhạy cảm”. Họ không thể nói về “x” vì nó nhạy cảm, hoặc không được viết về “y” vì nó nhạy cảm. Nhưng đồng thời, mọi người đều khẳng định với tôi rằng họ đã biết hết về “x” và “y”. Người ta quả quyết rằng mình nhìn ra những góc khuất, đọc thấy những dòng đã xóa trên các trang sách bị kiểm duyệt. Tôi viết về những chủ đề nhạy cảm vì cho rằng, đã đến lúc phải khôi phục những dòng đã bị biến mất.
11/10/2014
Bản tiếng Việt © Trần Lê Quỳnh & pro&contra & Thomas A. Bass
*
Bản tiếng Anh
BERLIN REJOINDER
Thomas A. Bass
Allow me to clarify the sources and methods for my essay on “Censorship in Vietnam.” Part of a larger study, the essay recounts how my book on Pham Xuan An was censored. I describe my correspondence on the subject and my meetings with some of the people responsible for censoring my book. I customarily arrived at these meetings—which were arranged to discuss my personal experience and censorship in general—with one or two translators and an open notebook, in which I recorded conversations that were on the record.
The people willing to talk to me were the good guys. They were the honorable ones, dragooned into censorship against their will, because the government demands it. The people who refused to talk to me are the ones who run this system, the apparatchiks who keep it humming. To the people who spoke to me, the brave ones, I owe my great thanks. I tried to report honestly on a dilemma that perplexes us all.
No one had to talk to me if he or she didn’t want to. I didn’t report on subjects that people asked me (in advance) to hold in confidence. None of the material in my essay was collected by any means other than the standard methods by which journalists interview subjects and report conversations. I should also mention that my recent visit to Hanoi began with a public lecture in which I discussed Vietnamese censorship and my plans to publish an uncensored version of my book. Everyone talking to me after this would have known that I was an author investigating censorship and preparing to write about it.
Finally, I should note that my essay was submitted for review. A few weeks before the piece was published, I sent the sections in which people were quoted to the people in question. “Please feel free to correct any mistakes that I may have made or alter quotations, if the new wording clarifies or better expresses your thoughts,” I said. No one took me up on my offer. The offer still stands.
Apparently, there is also some consternation about the fact that my essay is appearing first in Vietnamese. I can imagine how this might be unsettling. I was working last spring in Tunisia, where I learned how news was covered under the Ben Ali regime. Not being allowed to report what was happening, journalists leaked their stories to France. After Le Monde broke a story, it could be reported back to Tunisia, as an item appearing in the foreign press. At this point, all I can offer by way of explanation is that Vietnam is getting the news first.
I wrote my essay on Vietnamese censorship as the introduction to the restored manuscript. I had signed a contract with my Vietnamese publishing company that allowed me —at my own expense—to publish an uncensored translation of my book, six months after the censored version appeared in Vietnam. Since the restored text was going to be published in Vietnamese, the introduction would also have to be in this language. It is irrelevant whether my essay was published first in English, Urdu, Polish, or Vietnamese. The world of letters is replete with examples of writers whose work appeared first in tongues other than their own.
Everywhere I went in Vietnam during my recent travels I heard people say they weren’t allowed to talk about “sensitive” subjects. They couldn’t talk about “x” because it was sensitive or report on “y” because it was sensitive. At the same time, everyone assured me that they knew all about “x” and “y.” People claimed they could see around corners and read lines erased from censored books. I am writing about sensitive subjects because I think it’s time to restore the missing lines.
11/10/2014
Bản tiếng Anh © Thomas A. Bass & pro&contra
November 11, 2014
Trao đổi lại với ông Thomas A. Bass về phần biên tập ban đầu cuốn sách của ông mà tôi tham gia
Nguyễn Việt Long
Bài liên quan:
Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Những chỗ bị kiểm duyệt sửa đổi và cắt bỏ trong bản dịch cuốn “Điệp viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” của Thomas A. Bass
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (3)
Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (4)
Bản dịch trọn vẹn: Thomas A. Bass – Điệp viên yêu chúng ta. Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn
Nhà báo và kiểm duyệt (1)
Mới đây, trang pro&contra có đăng một bản dịch tiếng Việt bài “Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam” của GS Thomas Bass, tác giả cuốn Điệp viên Z.21, kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ (tên nguyên tác: The Spy Who Loved Us) viết về quá trình biên tập và xin giấy phép xuất bản tại Việt Nam.
Tôi hiểu được nỗi niềm và sự bực bội của tác giả khi tác phẩm của ông bị cắt xén và chỉnh sửa một số đoạn. Tuy nhiên, bài viết của ông có thể khiến cho người đọc hiểu không đúng một số sự việc liên quan đến tôi, người được ông Bass nhắc đến.
Qua ngòi bút sinh động nhưng có chỗ lấp lửng của ông Bass, người đọc chưa kịp đánh giá “sự quan tâm đến từng chi tiết” của một ông Long nào đó đại diện cho Nhã Nam thì đã có ác cảm ngay lập tức vì “giọng điệu gây gổ” của ông này, cùng với việc khuấy lên “những “chi tiết rối mù”, cốt để các học giả chỉ xoay quanh tiểu tiết mà quên đi điểm chính.” Bạn đọc có cảm tưởng như “trận giáp lá cà tại hàng rào văn chương” mà tác giả mô tả, mở đầu bằng câu nói của biên tập viên Nhã Nam: “Tác giả nhầm”, đã kết thúc với phần thắng chung cuộc có vẻ nghiêng về phía tác giả qua chiến dịch chứng minh rằng: “Biên tập viên nhầm”. Tôi chưa kịp cảm động khi thấy ông Bass “cảm thấy lương tâm cắn rứt” vì sợ rằng ông có thể là nguyên nhân gây nên những phiền toái nào đó cho biên tập viên Nhã Nam thì đã thấy mình biến thành “một con chuột bị kẹt giữa một tác giả khó tính và các nhà kiểm duyệt khắt khe” (chắc ông Bass ám chỉ đây là hai con mèo to!). Dưới ngòi bút giàu tưởng tượng của tác giả, tôi đã thoát thế kẹt giữa hai con mèo bằng cách chọn con mèo có quyền sinh quyền sát với tôi hơn, nghĩa là “sẽ cho… [bản dịch cuốn sách của Bass] cú đấm thôi sơn đầu tiên, và càng cắt gọt hữu hiệu thì… [tôi] càng được các quan chức nhà nước đánh giá cao”(!).
Vì vậy, tôi viết bài này với tư cách cá nhân (không thay mặt cho Nhã Nam) để kể lại một số “góc khuất” trong công việc biên tập cuốn sách này mà tác giả không nói đến, phần liên quan đến tôi, cho tới khi tôi rời Nhã Nam.
“GIÁP LÁ CÀ” VỀ NGÔN NGỮ
Đúng như lời Thomas Bass nói, dường như ông “đã hiểu sai chức năng của các biên tập viên Việt Nam”, khi ông đã lẫn lộn giữa một bên là vấn đề học thuật và tính chính xác của dữ kiện lịch sử với bên kia là những vấn đề liên quan đến chính trị. Hạn chế lớn của Thomas Bass là ông không biết tiếng Việt nên phải dựa vào những người Việt hải ngoại. Trong quá trình trao đổi thư từ tràng giang đại hải bằng tiếng Anh khiến tôi rất mất thì giờ và năng lượng với một người ngoại quốc chưa hiểu rõ những tinh tế của ngôn ngữ tiếng Việt hay có những nhầm lẫn về lịch sử và chính trị Việt Nam, tôi đã từng đề nghị ông cho phép tôi trao đổi trực tiếp bằng tiếng Việt với người đại diện nào đó của ông (dù là giấu tên), nhưng Thomas Bass đã khước từ.
Tất nhiên là đội ngũ tư vấn người Việt của ông đã có công lao sửa đổi những lỗi chính tả về tên riêng hay một số từ không chuẩn hoặc không đúng trong bản dịch. Nhưng dường như họ đại diện cho một thứ tiếng Việt được dùng cách đây gần nửa thế kỷ ở miền Nam Việt Nam, bị “đóng băng” kể từ khi rời đất nước ra đi và muốn bảo vệ cho thứ ngôn ngữ đã hơi lỗi mốt đó của họ, đối nghịch lại với thứ ngôn ngữ hiện hành mà họ cho là ngôn ngữ quan phương (bureaucratic language) có chủ ý, đầy rẫy những “thuật ngữ cộng sản”. Theo quan điểm của họ thì bản dịch tuy “thành thạo và trung thành với bản gốc (“competent” and “faithful to the text”) nhưng lại sử dụng nhiều từ và lối nói Hán Việt, gây nên nhiều sai lạc về niên đại của từ ngữ (anachronisms). (Nhân tiện đây xin nói thêm là bản dịch bài viết nói trên của Thomas Bass đã dùng từ “thác ngộ niên đại” để dịch chữ anachronism mà đến tôi cũng chẳng rõ nghĩa lắm. Không biết nếu ban cố vấn của ông Bass mà đọc đến chữ này thì họ có phê phán người dịch không). Như vậy đã có một độ “vênh” nhất định giữa hai phe trong trận “giáp lá cà” này.
Ở đây, có những vấn đề hiểu lầm nhất định mà tôi cho rằng xuất phát từ đội ngũ tư vấn và “kiểm duyệt” của phía Thomas Bass. Đừng tưởng chỉ có kiểm duyệt một phía nhé, sự “kiểm duyệt” gắt gao bản dịch và trí tưởng tượng của đội ngũ trợ thủ cho ông Bass khiến cho một số chi tiết đơn giản bỗng trở thành vấn đề to tát ở cấp chính phủ hoặc có dụng ý chính trị nào đó trong con mắt của ông tác giả người Mỹ. Chẳng hạn, chuyện ghi chú về năm sinh của Ngô Đình Diệm (thuần túy học thuật) bị quy là phía Việt Nam muốn hạ thấp uy tín của Ngô Đình Diệm, không muốn ông ta được ghi nhận là quan đầu tỉnh trẻ tuổi nhất (khi mới 25 tuổi). Hay chuyện Nam tiến và Rừng Sát sẽ đề cập dưới đây.
Để xử lý độ vênh này, phía biên tập Việt Nam tiếp thu có chọn lọc, bởi vì có những từ cũ nếu sử dụng thì độc giả ngày nay không hiểu (hoặc cho là sách in sai, như trong trường hợp “diễn binh” dưới đây), do đó chỉ nên dùng từ cũ trong lời thoại của nhân vật chứ không dùng đại trà trong lời kể của tác giả.
Dường như phía tác giả cũng thích sa vào việc bắt bẻ, sửa chữa những tiểu tiết, những từ ngữ mà theo tôi là chẳng khác nhau mấy và không ảnh hưởng đến nội dung. Quan điểm của tôi trong những trường hợp này là nếu phía tác giả kiên quyết đòi dùng phương án của họ và nếu đó không phải là trường hợp dùng sai hay nghĩa ngô nghê hoặc khó hiểu, gây hiểu lầm cho người đọc thời nay thì tôi sẵn sàng nhượng bộ, cốt cho công việc tiến triển.
Xin nêu vài ví dụ điển hình:
a) “Tiến sĩ về những cuộc cách mạng” (nguyên văn: “Ph.D. in revolutions”) được phía tác giả sửa thành “Tiến sĩ chuyên trò cách mạng”, cuối cùng văn bản in ra là “Tiến sĩ chuyên trị cách mạng” (tr. 17, sách dịch).
b) Tên hai tờ báo New York Herald Tribune (Diễn đàn Thông tin New York) và Christian Science Monitor (Người theo dõi Khoa học Kitô giáo) được phía tác giả sửa thành “Diễn đàn rao bán tin New York” và “Người theo sát Khoa học Kitô giáo” (tr. 16). Tôi đã kiên quyết giữ lại tên cũ vì đã được báo chí Việt Nam dịch như vậy quen rồi và đúng hơn.
c) Trường hợp sau đây lại là sự dung hòa, chấp nhận từ cũ đồng thời giải nghĩa trong ngoặc bằng từ thời nay.
Bản dịch ban đầu: Nước Mỹ đã cử hai tàu khu trục đến Việt Nam chở theo khí tài chiến tranh.
Tác giả sửa: Nước Mỹ đã cử hai tàu khu trục đến Việt Nam chở theo quân cựu (sic) chiến tranh.
Sách in ra: Nước Mỹ đã cử hai tàu khu trục đến Việt Nam chở theo quân cụ (khí tài) chiến tranh. (tr. 81)
d) Bản dịch ban đầu: John F. Kennedy, người khi ấy đang là một hạ nghị sĩ nhiệm kỳ thứ ba của bang Massachusetts….
Tác giả sửa và BTV đồng ý: John F. Kennedy, người khi ấy đang là một dân biểu nhiệm kỳ thứ ba của bang Massachusetts… (tr. 84)
e) Từ “heroin” (tr. 118, 119, 120) được tác giả sửa thành “bạch phiến”. BTV chấp nhận.
f) Từ “diễu binh” (tr. 94 và 95, sách dịch) được phía tác giả kiên quyết sửa thành “diễn binh” là từ thịnh hành thời bấy giờ, nhưng bây giờ không ai dùng. Để giảm bớt những điểm tranh cãi, tôi đã đồng ý thay bằng từ cũ “diễn binh” với chú thích đây là từ cũ, nghĩa là “diễu binh”. Tuy nhiên, những người biên tập và xét duyệt sau này chắc không để ý đến chi tiết đó, hoặc cho là rườm rà không cần thiết nên đã sửa lại như cũ và bỏ chú thích.
g) Một trường hợp khác (tr. 145): bản dịch ban đầu là “quyên góp cho thánh thất của [Trịnh Minh] Thế” được phía tác giả thay bằng “đặt vào hộp phước sương cho thánh thất của Thế”, nhưng cuối cùng bên tôi quyết định chọn một từ đơn giản và dễ hiểu thời bây giờ là “công đức…”, cũng vì đa số người đọc bây giờ mấy ai hiểu hộp phước sương là cái gì.
h) Cách dùng “chiến tranh quy ước” (tr. 13) (conventional war) và “chiến tranh phi quy ước” (unconventional warfare) (tr. 128, 139, 182) của phía tác giả tuy phổ biến nhưng sai nghĩa tiếng Việt nên tôi nhất quyết sửa lại thành “chiến tranh thông thường” và “chiến tranh không thông thường” như cũ. Về chuyện đúng sai của từ này tôi có giải thích trong một ghi chép trên Facebook của mình, không bàn kỹ ở đây.
i) Con bướm đen của thần chết, papillon nocturne (bướm đêm), bay vào khung cửa sổ. Bình thường chúng chỉ bay vào ban đêm. (tr. 165, 166)
Nguyên văn: The black butterfly of death, the papillon nocturne, flew in the window. Normally they fly only at night. (tr. 106, sách nguyên bản)
Phương án sửa của tác giả không được chấp nhận trong sách in ra: Con mối đen của thần chết, papillon nocturne (con mối đêm), bay vào khung cửa sổ. Bình thường chúng chỉ bay vào ban đêm.
k) … mười ba chiếc xe bọc thép chở quân “rồng xanh” M-113,… (tr. 214)
Phương án sửa của tác giả không được chấp nhận trong sách in ra: … mười ba chiếc xe bọc thép chở quân “Thanh Long” M-113,…
l) Âm thanh tằng tằng tằng của những khẩu AK-47… (tr. 318)
Phương án sửa của tác giả không được chấp nhận trong sách in ra: Âm thanh tạt tạt tạt của những khẩu AK-47…
m) Riêng từ “Nam tiến” tôi đã sửa hết thành từ khác mang nghĩa tương đương (trên pro&contra có một danh sách dài trong đó có nhắc đến từ này) để tránh hiểu nhầm vì trong đầu người đọc nói chung và giới trẻ nói riêng hiện nay, từ đó thường được hiểu là đồng nghĩa với việc tham gia bộ đội (Vệ quốc đoàn) từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu theo chỉ thị của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay sau Cách mạng Tháng Tám. Do đó, câu “Phạm Xuân Ẩn, giống như cha mình, đã phục vụ công cuộc Nam tiến” đã được sửa thành “Phạm Xuân Ẩn, giống như cha mình, đã phục vụ công cuộc đấu tranh ở miền Nam” (tr. 38, sách dịch) vì hai cha con ông Ẩn không tham gia Vệ quốc đoàn Nam tiến. Chẳng có lý do chính trị chính em gì đằng sau trong trường hợp này như ông Bass tưởng tượng ra kiểu như: “Ông [Phạm Xuân Ẩn] cũng không được phép tham gia nam tiến”.
Ông Bass phàn nàn rằng “Gia đình của Phạm Xuân Ẩn không được phép “di cư từ Bắc vào Nam” thì lạ quá, bởi vì ở trang 39 sách dịch có đoạn dài như thế này, tuy có cắt một chút ý “râu ria” chả ảnh hưởng gì đến ý chính là có di cư tới miền Trung Việt Nam, rồi về phía Nam tới vùng Nam Kỳ:
T ổ tiên của Phạm Xuân Ẩn có gốc gác từ khu vực miền Nam Trung Hoa. “Đó là nơi chúng tôi sống trước khi bị xua đi,” ông nói.“Chúng tôi di cư tới miền Trung Việt Nam, khu vực của người Chăm và người Khmer, trước khi chúng tôi đi xa hơn về phía Nam tới vùng Nam Kỳ. Tổ tiên tôi cũng đi theo lịch sử chung của cả đất nước, dịch chuyển từ đồng bằng châu thổ sông Hồng về phía Nam tới những vùng đất thấp.”
NHỮNG SAI SÓT CỦA TÁC GIẢ
Trong cuốn sách nguyên bản tiếng Anh của Thomas Bass, các ghi chú đều được đặt ở cuối sách như một phụ lục. Trong bản dịch, ngoài các ghi chú đó, chúng tôi phải thêm nhiều chú thích khác để giải thích những điển tích phương Tây, những câu và cụm từ bằng tiếng Pháp và tiếng Latin trong nguyên bản và những lý giải khác, chẳng hạn nêu ra những chi tiết còn tồn nghi, sai sót của tác giả hoặc một cách hiểu khác, một quan điểm khác về cùng một vấn đề. Tuy nhiên, có vẻ như ông Bass không thích điều đó (“Điều đầu tiên tôi nhận thấy là có quá nhiều chú thích, trong một cuốn sách mà ban đầu không có một chú thích nào”), do đó đã nảy sinh “cuộc chiến chú thích” giữa biên tập viên (BTV) và tác giả (TG). Ông đặc biệt khó chịu mỗi khi thấy một chú thích nói rằng: “Tác giả nhầm/sai”, nên đã yêu cầu những chỗ nào tác giả sai thì sẽ sửa luôn vào chính văn và bỏ chú thích, điều được tôi tuân thủ khá tốt. Tuy nhiên, tất cả những sai sót của tác giả vẫn còn nguyên trong sách gốc tiếng Anh đã xuất bản năm 2009. Điều đặc biệt là thông tin về ông Lê Đức Thọ sai tới ba lần về ba khía cạnh khác nhau (không trùng nhau).
Xin được mở đầu đoạn liệt kê về chú thích này bằng ví dụ quan trọng nhất mà tác giả dùng làm nhan đề bài viết: Rừng Sát hay Rừng Sác?
1. Chú thích BTV đề xuất sau khi TG kiên quyết giữ phương án “Rừng Sát” với nghĩa đi kèm “Khu rừng của những sát thủ” (tr. 66 và một số trang khác, sách dịch):
Tên gọi chính xác hơn hiện nay là Rừng Sác, và như vậy thì không còn nghĩa “sát thủ” nữa. “Sác” là tên chung chỉ các loại cây mọc ở vùng ngập mặn, như đước, mắm, bần, sú, vẹt.
Một cuộc tranh cãi dài dòng và quyết liệt bằng tiếng Anh diễn ra qua thư từ. Dĩ nhiên là tôi không thể đưa những đường dẫn (link) đến các trang giải thích bằng tiếng Việt, trong đó có giải đáp của học giả An Chi. Tôi chỉ có thể giải thích như ông Bass đã kể trong bài viết, về việc người miền Nam không phân biệt được các phụ âm cuối “t” và “c” trong trường hợp này, cùng một số hình ảnh có chữ “Rừng Sác”. Cuối cùng tôi đành chịu thua tác giả, với ý nghĩ rằng xét cho cùng, người ta có thể châm chước cho một ông tác giả ngoại quốc chưa am tường văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ Việt (ngay người Việt còn sai ở chủ đề này), nhưng điều đó không có nghĩa là tác giả đúng. Kết quả là trong sách vẫn để nguyên tên gọi Rừng Sát và không có chú thích nào. Thế nhưng tác giả tiếp tục sai lầm khi đẻ ra một thuyết âm mưu về việc Chính phủ Việt Nam đã đổi tên khu rừng đó: “Chắc chắn là, đằng sau việc đổi tên này, các quan chức cộng sản còn tỏ ra thận trọng về việc đã sử dụng Rừng Sát làm bàn đạp trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Họ không muốn bị người ta nhầm, coi họ cũng là những sát thủ sống ở đầm lầy.” (!)
Hiện tôi đang có trong tay cuốn Sổ tay địa danh Việt Nam của hai tác giả Nguyễn Dược và Trung Hải, NXB Giáo dục, 2003. Ở mục từ Rừng Sát (Rừng Sác) có ghi cả hai tên chính phụ như vậy, các tác giả lại khẳng định Rừng Sát mới đúng, mặc dù về nghĩa thì họ cũng viết rằng “gọi là Rừng Sát, vì các loại cây mọc ở đây đều thấp, cành là sát mặt đất”. Dẫn chứng này bác bỏ việc Rừng Sác bị chính thức đổi tên.
2. Trong bài, ông Bass có nói về dấu thanh điệu trong tên riêng của tiếng Việt. Thực ra chuyện không chỉ gói gọn trong dấu thanh. Số là trong nguyên bản tiếng Anh, cụ nội của ông Phạm Xuân Ẩn được ghi là “Pham Xuan Ong” (tr. 15, sách nguyên bản). Tôi đã gửi thư hỏi ông Bass tên chính xác (gồm cả dấu) của cụ là gì. Đáng tiếc là đội ngũ tư vấn của ông (“các học giả, dịch giả, một cựu nhân viên CIA và một nhà ngoại giao Mỹ với vợ là người Việt”) đành bó tay. Cuối cùng tôi phải nhờ chi nhánh phía Nam của Nhã Nam liên hệ với những người quen biết gia đình ông Ẩn để biết họ tên chính xác của cụ là Phạm Xuân Hùng (tr. 36, sách dịch).
Chú thích của tôi: Nguyên văn: Pham Xuan Ong. Gia đình ông Phạm Xuân Ẩn cho biết cụ nội của ông Ẩn là Phạm Xuân Hùng, giữ chức Tả lang (chức được ban cho thợ giỏi thời ấy).
Tác giả yêu cầu sửa lại tên trong chính văn và bỏ chú thích, tôi đồng ý.
3. Câu nói về quê quán của ông Phạm Xuân Ẩn: Có gốc gác ở Hà Đông, giữa trung tâm của miền Bắc Việt Nam trong vùng châu thổ sông Hồng đất chật người đông, nằm giữa Hà Nội và vùng ven biển,… (tr. 36, sách dịch)
Chú thích: Nguyên văn: Ha Dong. Một số trang mạng ghi quê gốc của ông ở Hải Dương. Bia mộ của ông ghi: “Nguyên quán: Thừa Thiên – Huế”.
Tác giả kiên quyết giữ nguyên câu văn, bỏ chú thích, với lý do ông Ẩn khẳng định với tác giả quê ông ở Hà Đông và các nguồn khác không đáng tin cậy.
4. Nguyên văn: With a new language and literature, Vietnam would become the sole Asian country with a Roman alphabet. (tr.17, sách nguyên bản)
Bản dịch: Với chữ viết và một nền văn học mới, Việt Nam trở thành quốc gia châu Á duy nhất với bộ chữ cái Latinh.
Chú thích: Tác giả viết không đúng. Nhiều nước Đông Nam Á cũng sử dụng bộ chữ cái Latinh như Malaysia, Singapore, Brunei, Phillippines, Indonesia.
Tác giả yêu cầu và BTV đồng ý bỏ chú thích và sửa câu văn thành: Với chữ viết và một nền văn học mới, Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia châu Á sử dụng bộ chữ cái Latin. (tr. 39, sách dịch)
5. Nguyên văn: the Sûreté (French criminal investigation department) has identified An as an Annamite. (tr.19, sách nguyên bản)
Bản dịch: Sûreté (Sở Điều tra Hình sự của Pháp) đã gọi Phạm Xuân Ẩn là một người Annamite.
Chú thích: Dịch theo nguyên bản. Đúng ra đây là Sở Liêm phóng hay Sở Mật thám Pháp, tương đương cơ quan an ninh ngày nay.
Tác giả yêu cầu: sửa “Sở Điều tra Hình sự của Pháp” thành “Sở Mật thám Pháp” và bỏ chú thích. BTV đồng ý (tr. 42, sách dịch).
6. Thông tin về ông Lê Đức Thọ bị sai tới ba lần. Đầu tiên là đoạn nói rằng ông Lê Đức Thọ là thủ tướng tương lai của Việt Nam:
Nguyên văn: An chuckles at the thought of Vietnam’s future prime minister functioning as a dating service. (tr. 63 , sách nguyên bản)
Bản dịch: Phạm Xuân Ẩn bật cười khùng khục khi nghĩ đến việc vị thủ tướng tương lai của Việt Nam lại đóng vai trò một người mai mối.
Chú thích: Tác giả nhầm lẫn. Ông Lê Đức Thọ sau là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng kiêm Trưởng Ban Tổ chức Trung ương.
Tác giả bèn yêu cầu: sửa “vị thủ tướng tương lai” thành “một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương”. Lại xuất hiện cái sai mới. Cuối cùng bản dịch chọn phương án “nhà cách mạng kỳ cựu” và bỏ chú thích. (tr. 105, sách dịch)
7. Nguyên văn: Le Duc Tho, founder of the Indochina Communist Party… (tr. 129, sách nguyên bản)
Bản dịch: Ông Lê Đức Thọ, một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương…
Chú thích: Thông tin này không đúng.
Sách in bỏ chú thích và sửa lại thông tin sai: Ông Lê Đức Thọ, một trong những cán bộ cốt cán của Đảng Cộng sản Đông Dương… (tr. 200)
8. Nguyên văn: Dinh Duc Thien, the two-star general1 who helped build the Ho Chi Minh Trail, and Le Duc Tho, the four-star general2 and Nobel Peace Prize winner who snookered Henry Kissinger at the Paris Peace Accords. (tr. 235, sách nguyên bản)
Bản dịch: Đinh Đức Thiện, vị trung tướng đã giúp xây dựng nên Đường mòn Hồ Chí Minh, và Lê Đức Thọ, vị đại tướng từng giành giải Nobel Hòa bình và là người đã xỏ mũi Henry Kissinger tại Hiệp định Hòa bình Paris. (tr. 350)
Chú thích 1: Nguyên văn: two-star general. Thực ra ông là thượng tướng.
Chú thích 2: Ông Lê Đức Thọ không hề là đại tướng hay có quân hàm cấp nào cả.
Sách in bỏ hai chú thích trên và sửa lại thông tin sai: thay “trung tướng” bằng “thượng tướng” và thay “vị đại tướng” bằng “người”, đồng thời bỏ tiếp hai chữ “là người” ở đoạn sau.
9. Nguyên văn: Born in 1901, Jean Baptiste Ngo Dinh Diem was a Catholic mandarin
who had become a provincial governor at the age of twenty-five. (tr. 82, sách nguyên bản)
Bản dịch: Sinh năm 1901, Jean Baptiste Ngô Đình Diệm là một viên quan theo Công giáo từng trở thành quan đầu tỉnh ở tuổi hai mươi lăm. (tr. 132, sách dịch)
Chú thích do BTV thêm vào: Năm 27-28 tuổi (1928 hoặc 1929) Ngô Đình Diệm được thăng Tuần vũ (tương đương tỉnh trưởng) tỉnh Bình Thuận. Có tư liệu cho rằng trước đó, Ngô Đình Diệm được thăng Quản đạo Ninh Thuận năm 1926. Đấy là tính theo năm sinh chính thức (1901). Còn theo một số tư liệu, Ngô Đình Diệm sinh ngày 27-7-1897, sau khi lên cầm quyền mới đổi sang 3-1-1901.
Chú thích do TG đề xuất và xuất hiện ở sách in ra: Năm 27-28 tuổi (1928 hoặc 1929) Ngô Đình Diệm được thăng tuần vũ (tương đương tỉnh trưởng) tỉnh Bình Thuận. Những tư liệu khác nói rằng ông được thăng quản đạo Ninh Thuận năm 1926. Đấy là tính theo năm sinh chính thức (1901). Ngày sinh của ông cũng bị tranh cãi, có nguồn nói ông sinh năm 1897.
Chú thích mang tính học thuật thuần túy này bị ông Bass suy diễn theo thuyết âm mưu: “Một tình tiết mơ hồ đối với một tác giả người Mỹ hóa ra lại là vấn đề lớn đối với người Việt. Nếu giả định rằng Ngô Đình Diệm là một con rối của Mỹ, một con chó chỉ đường cho những tên đế quốc xâm lược, thì việc cuối cùng mà người ta muốn là ghi nhận những thành tích của ông ta khi ông ta còn trẻ. Vì vậy mà người ta phủ nhận sự kiện ông là quan đầu tỉnh trẻ nhất trong lịch sử Việt Nam, và phức tạp hóa vấn đề đến mức tác giả thà bỏ luôn lời khẳng định đó còn hơn là tiếp tục tranh cãi.” (Theo tôi, bản dịch chỗ này chưa đạt về tiếng Việt ở ý “thì việc cuối cùng mà người ta muốn là…”, nên dịch là “thì người ta chẳng muốn chút nào việc…”).
10. Nguyên văn: … Dr. Pham Ngoc Thach, who was serving as minister of foreign affairs for the Viet Minh. (tr. 132, sách nguyên bản)
Bản dịch: … bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, người đang đảm nhiệm cương vị bộ trưởng ngoại giao cho Việt Minh.
Chú thích: Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch không làm Bộ trưởng Ngoại giao mà làm Bộ trưởng Y tế trong Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và là ủy viên Ủy ban Nhân dân Nam Bộ.
Sách in: … bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, người đang phụ trách đối ngoại trong Ủy ban Nhân dân Nam Bộ của Việt Minh, đồng thời là bộ trưởng Y tế trong chính phủ Việt Minh.
11. Nguyên văn: … the Tay Son warrior Nguyen Hue, who in 1785 defeated the Chinese... (tr. 207, sách nguyên bản)
Bản dịch: … người anh hùng Tây Sơn Nguyễn Huệ, người đã đánh bại quân Thanh năm 1785...
Chú thích: Thực ra là năm 1789.
Sách in ra sửa lại năm và bỏ chú thích (tr. 314).
12. Nguyên văn: …Thanh Nien, official newspaper of the Ho Chi Minh Communist Youth League. (tr. 231, sách nguyên bản)
Bản dịch: … báo Thanh Niên, tờ báo chính thức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Sách in ra bỏ chú thích và sửa lại (tr. 344): báo Thanh Niên, tờ báo chính thức của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam.
13. Ngoài ra, ở một đoạn khác tác giả viết về Bùi Tín không chính xác, khiến BTV phải thêm hai chú thích.
Nguyên văn: Not even military officials as highly placed as Bui Tin, a North Vietnamese colonel and intelligence agent, knew An’s story. Working as deputy editor of the North Vietnamese army newspaper, Tin rode a tank up to the Presidential Palace on April 30. Accidentally finding himself the highest ranking officer on the scene, he accepted the surrender of the South Vietnamese government and then sat down at the president’s desk to file a dispatch for his newspaper. (tr. 222, sách nguyên bản)
Bản dịch: Thậm chí cả những sĩ quan quân đội cao cấp như Bùi Tín, một đại tá trong quân đội Bắc Việt Nam và cũng là một sĩ quan tình báo1, cũng không biết câu chuyện về Phạm Xuân Ẩn. Trên cương vị phó tổng biên tập tờ báo của quân đội miền Bắc Việt Nam, ông Tín đi trên một chiếc xe tăng đến Dinh Tổng thống ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tình cờ nhận ra mình là sĩ quan có cấp bậc cao nhất tại đó, ông đứng ra chấp nhận lời đầu hàng của Chính phủ miền Nam Việt Nam và sau đó ngồi ở bàn Tổng thống để viết bài cho tờ báo của mình2.
Chú thích [1]: Điều này không được các tài liệu ở Việt Nam hay bản thân đương sự khẳng định.
Chú thích 2: Chi tiết không chính xác này lặp đi lặp lại trong một số sách báo xuất bản ở nước ngoài, kể cả trong cuốn Điệp viên hoàn hảo của Larry Berman. Bùi Tín chiều ngày 30 tháng 4 mới có mặt ở Dinh Độc Lập, sau khi Dương Văn Minh đã đọc lời tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh. Sau này Bùi Tín có nhận rằng mình là sĩ quan cao cấp đầu tiên có mặt tại đây, nhưng điều này mâu thuẫn với các nhân chứng khác và với chính những bài viết trước đây của Bùi Tín. Lúc đó ông chỉ là thượng tá, được thiếu tướng Nguyễn Công Trang, khi đó là đại tá, tiếp đón ở Dinh Độc Lập. Sĩ quan có cấp bậc cao nhất tiếp nhận sự đầu hàng của nội các Dương Văn Minh là trung tá chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 Bùi Văn Tùng (sau này là đại tá).
Sau khi thêm hai chú thích dưới đây, tôi đã phải tranh luận vô cùng vất vả với GS Bass. Cuối cùng ông đồng ý sửa bản gốc để chúng tôi dịch lại, đồng thời bỏ chú thích. Câu Accidentally finding himself the highest ranking officer on the scene, he accepted the surrender of the South Vietnamese government and then sat down at the president’s desk to file a dispatch for his newspaper được thay bằng After witnessing the surrender of the South Vietnamese government, Tin sat down at the former president’s desk to file a dispatch for his newspaper. Tuy nhiên, sau khi tôi rời Nhã Nam, đoạn này đã bị cắt bỏ hoàn toàn.
14. Một chỗ khác tác giả cũng cung cấp thông tin không chính xác: Today the border bristles with troops—Vietnam has more than thirty divisions facing China (Ngày nay đường biên giới vẫn còn kín đặc binh sĩ – Việt Nam có hơn ba mươi sư đoàn hướng về phía Trung Quốc). Chỗ này tôi cũng thêm một chú thích, sau đó tác giả đã sửa lại nguyên bản, bỏ con số 30 sư đoàn kia đi. Tuy nhiên, đoạn này về sau cũng bị cắt bỏ.
NHỮNG CHÚ THÍCH VỚI THÔNG TIN THÊM TỪ NGUỒN KHÁC BỊ CẮT BỎ
Ông Bass có vẻ “kị” mỗi khi BTV bổ sung chú thích có nhắc đến các cuốn sách, bài báo hoặc quan điểm của các tác giả khác và đòi bỏ đi, thường với lý do đó là các nguồn kém tin cậy hơn nguồn của chính ông hoặc thiếu căn cứ. Trong các ví dụ dưới đây, tất cả các chú thích do BTV đề xuất đều bị tác giả gạt bỏ:
Trang 109: Phạm Xuân Ẩn nói với nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải. “Hai nghề này nó rất mâu thuẫn nhau, nhưng lại giống nhau. Một đằng lấy được tin tức gì phân tích ra, sau đó giấu đi như mèo giấu cứt là tình báo. Đằng khác thì lấy được tin gì, phân tích ra sao thì đăng toạc móng heo lên báo, phát thanh lên đài! Đó là làm nghề báo chí!”
Chú thích: Trích từ cuốn Tên người như cuộc đời của Nguyễn Thị Ngọc Hải.
Trang 161: Phạm Xuân Ẩn là điệp viên cộng sản đầu tiên tại tổng hành dinh quân đội Việt Nam, nhưng khi có một sĩ quan khác được tuyển mộ từ bộ tổng tham mưu sang thay, thì đã đến lúc ông có thể chuyển đi.
Chú thích: “Theo loạt bài “Giải mã Phạm Xuân Ẩn” của Hoàng Hải Vân đăng trên báo Thanh niên (tháng 4-2008) thì Phạm Xuân Ẩn đã thuyết phục được trung úy Thường làm ở Bộ Tổng tham mưu chịu thay thế cho ông để ông giải ngũ.”
Trang 343: Năm 1997, hình như Chính phủ Việt Nam đã không cho phép Phạm Xuân Ẩn sang thăm Mỹ tham dự một hội thảo tại Quỹ Á châu ở New York, mà ông đã được mời với tư cách khách mời đặc biệt,…
Chú thích: Về việc này, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải cho biết đã hỏi ông Mười Nho và được trả lời: “Tôi luôn luôn có một mối lo ngại: Cho Ẩn đi nước ngoài có sợ bị ám sát hay phục kích bắt cóc để biết thêm nhiều bí mật tình báo hay không dù chiến tranh đã qua đi… Chính cậu ấy cũng nói cho tôi biết: Bên Mỹ mời qua. Nhưng chưa thể nắm chắc được, bảo đảm được chuyến đi có an toàn hay không.” (Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, 2-5-2008).
Trang 393, 394: Điều Phạm Xuân Ẩn không nhắc đến trong hàng trăm tiếng đồng hồ thảo luận chi tiết với nhiều nhà văn viết tiểu sử phương Tây là hai tấm Huân chương Chiến công Hạng nhất mà ông giành được, đây là loại Huân chương Chiến công hạng cao nhất, chỉ dành cho những chiến công đặc biệt mang tầm quan trọng quốc gia. Không tấm Huân chương nào được tặng thưởng cho công tác phân tích hoặc tình báo chiến lược, và chúng khẳng định rằng những đóng góp lớn nhất của Phạm Xuân Ẩn cho lý tưởng không phải là phân tích hoặc báo cáo mà những công trạng trên cương vị điệp viên tình báo chiến thuật, một người đã thu thập được những tin tức cụ thể về các chiến dịch quân sự sắp diễn ra, và theo lời ghi trong quyết định chính thức về việc phong tặng ông danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân tháng 1 năm 1976, “vì đã cung cấp kịp thời” nhiều thông tin “đặc biệt có giá trị”.
Chú thích: Nhà báo Lâm Tuyền trong bài “Gần nửa thế kỷ phân tích thời cuộc” trên báo Lao động có viết: “Được biết, một trong những Huân chương Chiến công hạng Nhất mà Đảng và Nhà nước tặng thưởng cho ông là vì, năm 1974 ông đã gửi cho cấp trên của mình câu trả lời: Mỹ dứt khoát không đưa quân trở lại miền Nam.”
Trang 404, 405: Phải mãi đến khi chúng được trưng bày bên chiếc quan tài để mở của Phạm Xuân Ẩn, người ta mới biết rằng Phạm Xuân Ẩn đã nhận được mười sáu tấm huân huy chương của quân đội, chứ không phải bốn, như những người viết tiểu sử của ông đưa ra trước đó 1. Trong đó có các Huân chương Quân công và Huân chương Chiến công 2.
Chú thích 1: Tác giả không phân biệt huân chương và huy chương, thậm chí cả huy hiệu trong tiếng Anh cũng ghi là medal. Trong bài “Vĩnh biệt nhà tình báo vĩ đại Phạm Xuân Ẩn” của Hoàng Hải Vân đăng trên Vietnamnet ngày 21-9-2006 thì Phạm Xuân Ẩn được tặng thưởng 14 huân chương, 1 huy chương và 1 huy hiệu. 14 huân chương là: Huân chương Độc Lập hạng nhì; Huân chương Quân công hạng ba; Huân chương Chiến thắng hạng ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất; Huân chương Chiến công hạng nhất; 2 Huân chương Chiến công hạng nhì; Huân chương Chiến công hạng ba; Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, nhì, ba; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba. So với liệt kê của tác giả Bass dưới đây thì có một chút khác biệt về tên gọi: Huân chương Chiến sĩ vẻ vang thay cho Huân chương Chiến sĩ giải phóng.
Chú thích 2: Huân chương Quân công được xếp thứ tư về hạng bậc và cao hơn Huân chương Chiến công.
Trang 404, 405: … Phạm Xuân Ẩn lần lượt nhận được thêm sáu tấm huân huy chương khác trong những năm sau 1975. Số này gồm có một Huân chương Độc lập Hạng nhì, Huy chương Quân kỳ Quyết thắng; Huân chương Kháng chiến Hạng nhất, và ba Huân chương Chiến sĩ Giải phóng, đủ cả ba hạng nhất, nhì, ba.
Chú thích: Huân chương Độc lập là huân chương cao thứ ba trong hệ thống huân chương (sau Huân chương Sao Vàng và Huân chương Hồ Chí Minh). Huân chương Kháng chiến tặng cho cá nhân và tập thể có công lao, thành tích trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (đã thôi tồn tại trong hệ thống khen thưởng từ năm 2003 mà thay bằng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ). Huân chương Chiến sỹ Giải phóng [chữ sỹ ở đây viết đúng như trong nguyên bản tiếng Anh và dòng chữ ghi trên Huân chương] do Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đặt ra và chỉ tồn tại đến năm 1977, tương đương Huân chương Chiến sĩ vẻ vang (từ năm 2003 đổi thành Huy chương Chiến sĩ vẻ vang). Huy chương Quân kỳ quyết thắng để tặng cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng có thời gian phục vụ liên tục trong Quân đội nhân dân từ 25 năm trở lên.
LỜI KẾT
Ở Việt Nam, người ta thường hay ví biên tập viên như bà đỡ giúp cho một tác phẩm ra đời. Viết đến đây, bất giác tôi lại nghĩ đến nỗi đau mà các sản phụ phải trải qua. Đa số những người sinh nở tại Việt Nam hiện nay đều trải qua cái gọi là “thủ thuật cắt/rạch tầng sinh môn” (episiotomy) do các y bác sĩ thực hiện vì các lý do thẩm mỹ và an toàn, nhằm bảo vệ sản phụ và thai nhi, giúp ca sinh nở dễ dàng hơn. Tuy về lý thuyết chỉ dành cho những ca đẻ khó, nhưng với hiện trạng y tế Việt Nam, dễ có đến 80% ca sinh đẻ tại Việt Nam áp dụng biện pháp này. Trong khi đó, tại các nước có nền y tế tiên tiến như Mỹ hay Pháp, nghe nói tỷ lệ áp dụng thủ thuật trên là rất thấp. Mà Điệp viên Z.21, kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ quả thực là một ca đẻ khó. Nếu tôi nhớ không nhầm thì cơ hội ra đời cuốn sách đã đến ngay dịp 30-4-2010, và tôi đã thúc giục tác giả mau chóng hoàn thành xét duyệt, nhưng ông vẫn “soi kính lúp” bản dịch, có lẽ do những nhận xét của đội ngũ tư vấn khiến ông “tỉnh ngộ”. Dịp may qua đi, cơn rặn đẻ đã kéo dài bốn năm mới cho ra đời tác phẩm mà không có mỹ từ “yêu nước Mỹ” như ông mong đợi.
Nguồn: Bài do tác giả gửi đến pro&contra, đồng thời đăng trên trang FB của tác giả
November 5, 2014
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (1)
Phạm Thị Hoài
Mở đầu
Dường như mọi câu chuyện liên quan đến Phạm Xuân Ẩn đều có thêm ít nhất một mặt bất ngờ khác. Khi cho đăng bài phóng sự dài “Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam” của Thomas A. Bass, kể lại việc xuất bản cuốn sách của ông về nhà tình báo huyền thoại của Việt Nam, đi kèm với việc công bố bản dịch trọn vẹn của tác phẩm này, tôi đã thực sự ngỡ ngàng: không ít dư luận trên các mạng xã hội không đồng tình với việc ông phơi bày tất cả, người thật, việc thật, tên tuổi thật lên mặt báo, và thấy trong đó hành vi bội tín (breach of confidence), phản bội nguồn tin, bị coi là vi phạm đạo đức nghề báo và ở một số nước thậm chí có thể là tội bị kết án hình sự.
Sự việc không chỉ dừng ở đó, ngoài tội, ông nhà báo Mỹ còn phải chịu cái lỗi khó lòng gỡ nổi, vì ngoài việc bị ông “đâm sau lưng”, những người bị ông đem ra kể tuốt tuồn tuột kia có thể bị chính quyền sờ gáy, thậm chí bị tù tội, nhẹ nhất cũng bị ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp. Đến đây sự việc cũng chưa dừng lại, đời sống dư luận là như vậy, nó phải đâm chồi nảy nhánh cho đến khi nào hút cạn nguồn dinh dưỡng, bây giờ đến lượt sứ giả bị chặt đầu vì đưa hung tin. Bỗng nhiên người dịch phóng sự của Thomas A. Bass, cũng như tôi, người đăng bài trên trang của mình, được mệnh danh là những kẻ chỉ điểm, tiếp tay cho một nhà báo Mỹ phản trắc, ích kỉ, vô đạo đức nghề nghiệp, đã thế còn dốt nát và nhầm lẫn lung tung trong kiến thức về Việt Nam, làm hại một số người nhất định trong ngành xuất bản ở Việt Nam, những người đã đầy nỗ lực giúp cho cuốn sách của ông được ra đời. Song đến đây dường như câu chuyện vẫn chưa đi hết đà của nó, người ta phát hiện ra là bản gốc tiếng Anh của phóng sự đó chưa đăng công khai ở đâu cả và như vậy có nghĩa là bản tiếng Việt chỉ có thể bất hợp pháp, không khác gì một văn bản không chính thức, ra đời một cách mờ ám vì thiếu hẳn nguồn gốc rõ ràng.
Trong bối cảnh dư luận đang hoài nghi về cả tính lương thiện lẫn tính hợp pháp của bài phóng sự này, dịch giả Phạm Nguyên Trường đã đề nghị rút bản dịch của mình xuống. Hiển nhiên là tôi tôn trọng và đã đáp ứng đề nghị ấy. Tôi thành thật xin lỗi đã sơ suất để anh, một người bạn mà tôi trân trọng từ hơn mười năm nay, phải rơi vào tình huống này. Song cũng hiển nhiên, một bản dịch khác đang được thực hiện và sẽ sớm lên mạng. Về việc này, xin được trở lại sau.
Khi sự ngỡ ngàng ban đầu qua đi, tôi nhận ra và mừng rằng những phản ứng nói trên trong dư luận cũng bất ngờ tặng chúng ta một món quà, một cơ hội bổ ích để tìm hiểu về những tiêu chí và khái niệm then chốt như breach of confidence, đạo đức nghề báo, sự lương thiện của phóng viên, nguyên tắc bảo vệ nguồn tin, nguồn gốc của thông tin và văn bản, ranh giới của điều được phép trong investigative journalism, quyền riêng tư (right of privacy), quyền được biết của công luận (the public´s right to know)… Phần lớn đó là những tiêu chuẩn của các nền báo chí tự do, được những nhà báo giỏi và giàu lòng yêu nghề nhất ở Việt Nam quan tâm và đưa vào thực hành trong giới hạn có thể.
Tác giả Thomas A. Bass đã được biết về những dư luận xung quanh bài viết của mình và hứa sẽ có phản hồi. Qua pro&contra, ông gửi lời xin lỗi rằng hôm nay và ngày mai (6-7/11/2014), ông bận tham dự Hội thảo Quốc tế “Engaging with Vietnam” lần thứ 6, tổ chức tại Đại học Oregon, Hoa Kỳ; trong nhóm đề tài “The Powers of the Written Word” ông cũng sẽ dùng câu chuyện đeo đẳng mình 5 năm vừa rồi mà kết quả là bài phóng sự đang được chú ý để thuyết trình: về kiểm duyệt tại Việt Nam.
Các nhà báo ở phương Tây, đặc biệt là nhà báo viết phóng sự, đặc biệt là nhà báo viết phóng sự điều tra, đặc biệt là nhà báo viết phóng sự điều tra ở Mỹ, có lẽ không ai không thuộc lòng câu mở đầu bất hủ của nhà báo nữ khó thương nhưng khó cưỡng Janet Malcolm trong Nhà báo và Sát nhân (The Journalist and the Murderer): “Every journalist who is not too stupid or too full of himself to notice what is going on, knows that what he does is morally indefensible.” Bất kì nhà báo nào, nếu không quá ngớ ngẩn hoặc không quá tự mãn để hiểu điều gì đang diễn ra, đều biết rằng việc mình làm là không thể biện hộ về phương diện đạo đức. Một luận điểm đủ sốc để cảnh báo lâu dài. Janet Malcolm là một trong hai tác giả nữ viết essay thường xuyên gây cảm hứng cho tôi – người kia là Dubravka Ugrešić. Nhan đề bài viết này của tôi được gợi từ tên tác phẩm nổi tiếng và trước sau vẫn phân cực mạnh mẽ nói trên của bà.
(Còn tiếp)
© 2014 pro&contra
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers

