Phạm Thị Hoài's Blog, page 5
September 21, 2020
Dư luận
Phạm Thị Hoài
Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây. Thương lắm người dân Đồng
Tâm. Một phiên tòa nhạo báng công lý! Một bản án xúc phạm
lương tri!
Bọn xóc lọ này suốt
ngày thủ dâm oan sai. Đã súc vật còn đòi lương tri, đúng là yêu chó chó liếm mặt.
Đã đến lúc Đảng phải thay đổi tư duy, nhân đạo với đối tượng cần nhân đạo, phản
động thì bóp chết từ khi còn trứng nước. Bọn Đồng Tâm này đem bắn hết, tiếc đạn
làm gì với lũ chó này.
Đúng là nhân nhượng
quá. Chính quyền có cần phải yếu đuối thế không? Khoan hồng với lũ sâu bọ hại
dân hại nước này ư? Khủng bố thì bắn bỏ trong một nốt nhạc nhé. Nhìn thi thể
các chiến sĩ bà chỉ muốn xé xác cả lũ. Có thế nó mới biết trân quý tính mạng
người khác.
Xử nhẹ vl. Nhân đạo
dở hơi. Mình chết 3 người mà. Đề nghị Tổng Bí thư Chủ tịch nước chỉ đạo cho trảm
ít nhất 3 tên, chung thân 6 tên, bọn còn lại cho bế lịch 10-15 năm răng rụng hết
32 chiếc, tóc bạc cụ nó toàn phần là đủ răn đe. Bọn này ra tù là nó móc nối với
đám phản động ba que dân chủ cuội chống phá tiếp cho mà biết.
Các cháu bò đỏ hôm
nay xổng vãi, cụ chỉ thấy thằng cu Chung Con nó phá thôi nhé. Dân phá một,
chính quyền phá mười. Dân sai một, chính quyền sai mười. Đêm hôm mò vào giếng
trời nhà người ta làm gì? Hay là các quan mò vào nhà Thị Hến?
Nói như lồn. Lần
trước bắt giữ CSCĐ làm con tin, AEQL dân túy nhắm mắt ngó lơ bỏ qua không truy
tố, đã tha cho một lần, lại tiếp tục khinh nhờn phép nước, lên mạng hô hào chỉ
cần giết được ba thằng là chúng nó chạy hết, cuối cùng giết 3 chiến sĩ thật, tội
giết người sờ sờ còn chầy cối gì. AEQL phải rút kinh nghiệm, đừng du di dân túy
không đúng chỗ nữa, đừng nghĩ như vậy là nhân đức, mà chính là dung túng cho
cái sảy nảy cái ung.
Vũ lực là đặc quyền của nhà nước, đâu
cũng thế. Sang Mỹ mà xem chống người thi hành công vụ thì cảnh sát nó phát quà
thế nào nhé. Nhưng cảnh sát Mỹ nó khôn, nó cho trực thăng giã mẹ nó bom từ trên
cao, tan xác cả làng thì xuống âm phủ mà tìm nhau lập chiến khu mới.
Ở Mỹ nửa đêm xông vào nhà người ta không
có lệnh của tòa án cũng bị bắn bỏ mẹ đi chứ.
Thiện không đúng chỗ hóa ác. Ác đúng chỗ
hóa thiện. Ước gì toà Hong Kong ngày đó cũng hành xử như toà xứ thiên đường!
Ngày đó nếu ông luật sư người Anh không cứu ông Hồ thì dân Việt Nam đâu có khổ
như bây giờ. Bác Hồ mà vào tầm ngắm của các đồng chí thì đã chết không toàn
thây, lấy đâu mà sống mãi trong sự cố của chúng ta.
Ngu lâu dốt bền
vl. Luật sư là nghề cao quý nhưng lũ lật sư Việt Nam là lật sư kịch khung, là HTX
toàn thua. Cãi lý thì ít, cãi cùn thì nhiều. Bị chính bị cáo từ chối mà không
thằng nào thấy nhục. Đã dốt còn ngáo, đã ngáo còn hoang tưởng huyễn hoặc, cái ác nó đi ra từ đấy
chứ đâu. Lên tòa rõ oai, áo trắng cà vạt xách cặp như thật, nhưng đầu thì rỗng
tuếch nhạt toẹt. Loại này cưới vợ thì vợ bỏ, nuôi chó thì chó chạy, gặp anh
grab không khéo anh ấy cũng bịt mũi nốt, hàng xóm tránh như tránh tà, đi chơi
gái cũng chỉ quanh đi quẩn lại mấy mẹ phò hưu trí đại hạ giá khuyến mãi vừa
nhảy ngựa vừa lấy chửi chế độ làm đường lên đỉnh.
Đám CA tuột xích
đi làm lụt sư nhiều lắm. Kiểu lụt sư này thì hư bột hư đường hết. Đề nghị các
cấp có thẩm quyền phải có biện pháp xử lý mạnh với mấy ông luật sư chạy tội cho
kẻ thủ ác, bảo vệ khủng bố, lợi dụng phiên tòa để đánh bóng tên tuổi, bôi nhọ
ngành tư pháp, xuyên tạc cơ quan điều tra, sẵn sàng bán đứng thân chủ, bất chấp
công lý và đạo đức nghề nghiệp. Lũ này sớm muộn rồi cũng theo gót bọn Cù Huy Hà
Vũ, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài thôi.
Vụ Đồng Tâm, nếu
không có cái mặt lợn của hai thằng gật ăn hại Dương Trung Quốc, Lưu Bình Nhưỡng
và bọn rận chủ thì đám thằng Kình bố bảo cũng không dám manh động. Chân thành
mà nói thì nghề dâm chủ nhân quyền ở Việt Nam là nghề nguy hiểm và nhục nhã nhất
mà chúng vẫn lao vào thì nể chúng thật.
Lợn bây giờ được giá mà bạn!
Quê mình có ông tiến
sĩ về hưu ngày nào cũng chém mấy câu kiểu lịch sử này nọ: lịch sử sẽ ghi nhớ
phiên tòa này, lịch sử sẽ trả lời, sến súa ba xu dell chịu nổi. Lịch sử chắc
đang bận lắm nên mới khất lần sẽ nọ sẽ kia hê hê.
Còn lão tiến sĩ gì lấy đầu ra cắm cho
bọn phản động nữa. Tay này thời còn làm Phó CNVPQH có các vàng cũng tự khóa
mõm. Lại một thằng “nguyên” bất mãn đây. Lúc đương chức tọng ngập
họng, giờ về vườn hạ cánh an toàn thì đổi giọng. Đầu toàn shit, chặt bẩn mẹ nó
con dao.
Bọn Tây còn đòi Việt Nam phải chấp thuận để các nhà quan sát
quốc tế độc lập theo dõi phiên tòa nữa chứ. Địt con mẹ nhà nó,
lấy quyền gì mà chõ vào? Các chú ảo tưởng sức mạnh nhỉ? Việt Nam nhân quyền còn
tốt, các chú về theo dõi nhân quyền ở Mỹ nhá. Hỏi cảnh sát Mỹ giết người da đen
nhá! Hỏi chính phủ Mỹ để 200 ngàn người chết vì dịch nhá! Ngu vừa thôi chứ, ngu
hết phần thiên hạ à?
Bạn cứ mỉa mai đi,
nhưng lịch sử sẽ dựng tượng trong lòng
nhân dân cho cụ Lê Đình Kình. Để xem chế độ khốn nạn hút
máu dân này còn tồn tại bao lâu.
Địt mẹ thằng hút
máu lồn. Giết rắn là phải chặt đầu. Thằng Kình nó chỉ đạo giết người thì phải hốt
thôi. Nó trang bị hàng nóng thì phải úp sọt chứ lại còn phải đúng giờ hành
chính, vào nhà bỏ dép xong kính cụ con xin dâng lệnh bắt khẩn cấp hử thằng sọc
bò vàng? Mỹ có quyền giết Bin Laden thì Việt Nam cũng có quyền giết Kình.
Con nhang bảo là
thằng Kình già chết linh nên đưa anh Chung vào tù. Hihi cười phọt rắm.
Tư pháp như buồi!
Biết bao giờ cả nước mới thức tỉnh đây?
Mịa, Đồng Tâm còn
mê mút mùa thì đòi ai tỉnh? Cả xóm bây giờ vẫn tự hào đồng chí Kình trung kiên 55
tuổi Đảng mí lị chúng em tin tưởng Đảng và Nhà nước ạ, chúng em bị xúi bẩy ạ,
chúng em cắn rơm cắn cỏ xin hai chữ khoan hồng cho chúng em sớm về với gia đình
làm công dân tốt ạ.
Núp danh nghĩa đảng
viên chứ trung kiên cái con mẹ nhà nó chứ. Hết phim mới ăn năn hối cải. Tưởng ta
đây coi cái chết nhẹ như lông hồng để còn nhìn mặt bà con cả nước chứ nhể? Công an mới đập cái
bàn nhè nhẹ đã khai từ A-Z rồi. Thế 3 chiến sĩ hy
sinh không có gia đình chắc?
Tiếc cho các đồng
chí không hy sinh vì giặc mà vì chính một bộ phận dân ta. Ngày xưa các đồng chí
xua dân đi đánh ngoại xâm giữ đất, bây giờ giành đất các đồng chí xua lính đi
đánh dân.
Dân gì, bọn đó là
giặc, âm mưu chống phá có hệ thống, có tổ chức kĩ lưỡng, ký hợp đồng dài hạn với
Việt Tân rồi. Lòng tham vô đối, thái độ cực đoan, thủ đoạn thâm độc, mất hết
tính người. Những loại này phải lột truồng ra, đốt rác nhựa trên đầu cho nhỏ từng
giọt xuống đến chết mới thôi. Giết hết cho chừa, chấm hết! Tiếc rằng Lê Đình Kình đã chết bởi
chính hành động phạm luật của y, nếu không thì kẻ đầu tiên đứng trước bục bị
cáo đền tội giết người chính là tên giặc đó!
Ai giết ai? Ai phạm
luật? Vào tận giường ngủ nhà
dân nhả đạn trúng tim một ông già 84 tuổi què chân mà không cần khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử. Công lý họng súng hả? Một đất nước mà
súng đạn không nhắm vào quân thù mà nhắm vào dân trong một giao dịch dân sự là
một đất nước thất bại. Một thể chế mà sử dụng bạo lực để đối thoại với dân là một
thể chế thất bại.
Đồng Tâm là một
case kinh điển của đám bần nông ngây thơ, cả tin đến đáng thương, xuất phát từ
trò quá “tin yêu”. Dân túy mà đéo xong thì phải dân… tạch thôi. Đời
đéo nào có chuyện chuyên chính vô sản chịu thua. Kiểu gì thì cũng phải rửa mặt
cho chế độ. Kiểu gì thì anh em bần nông vưỡn đéo mở được mắt.
Mình trung lập, nhà
bao việc, thôi khép vụ án này lại. Thế là ổn rồi, ba mạng trả lại bằng ba mạng,
tạo nghiệp thì phải gánh nghiệp, gieo gió ắt gặt bão, làm càn thì thiệt thân.
Chế độ này không
thể trường tồn! Sẽ đến lúc bọn chóp bu bị đem ra xử, chết rồi cũng phải quật mồ,
quăng xương cho chó gặm.
Dân mình chỉ có hai cái ham muốn tột bậc: một là tiết canh cháo lòng, hai là đòi nợ máu. Miệng thì ăn chay niệm Phật, nhem nhẻm chống thịt chó, ôi thương con cún quá, mà cứ thấy tử hình là sướng. Đem Công Chức ra sân Mỹ Đình chém, đảm bảo cháy vé. Đúng là mọi rợ chấm khoai chan nước cống.
Chuẩn cmnr! Thế bọn
tinh hoa đâu không ẳng lên một câu nhỉ?
Tinh hoa trí thức cái
cục cứt! Bần cố nông thì vừa ngu vừa liều, giấy tờ lận lưng không có mà tuyên bố
sở hữu hùng hồn lắm. Lựu đạn còn đéo biết rút chốt mà lên mạng luận anh hùng hở
háng. Pháp luật thì rừng rú. Báo chí thì bưng bô. Chính quyền thì dã man. Dân
chúng thì vô cảm.
Chúng ta đều không
vô tội trước bi kịch của đồng bào mình. Trong 2 bản án tử hình đó có sự im lặng,
đớn hèn, ích kỷ, hẹp hòi của tôi.
Yên tâm đi, giơ
cao đánh khẽ, việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, cáo trạng chuyển một phát từ giết
người xuống còn được thì mình dự là sau phúc thẩm và kháng nghị sẽ rút án tử, vụ
này chính quyền chơi quả nhân văn hơi bị được của nó nhé.
ĐM chính quyền này
không bằng xã hội đen. Xã hội đen chấp nhận mình bên lề luật pháp, không ép
cung ghép tội, giết người xong không vỗ ngực khen mình nhân văn.
Đúng ý Đảng lòng
dân rồi đấy. Lẽ ra cần diệt cả họ nhà thằng Kình cho tiệt nòi phản quốc. Mụ
Thành khóc chán theo kịch bản Việt Tân rồi, bây giờ nên nhoẻn cười biết ơn Đảng
và Nhà nước cho thằng cháu nội sống sót đi là vừa.
Ơ, tưởng họ Lê tiêu
cả rồi mà? Lê Nin, Lê Duẩn, Lê Đức Anh. Lê Văn Tám nữa.
Mất mẹ nó hai mũi tiêm. Tại bọn Quốc hội
dại Tây, bày trò thuốc đặc hiệu giá cắt cổ. Chẳng qua là bọn Ô Hợp Quốc sản
xuất thuốc nhiều quá nên ra luật tử hình bằng thuốc để bán cho các nước yếu. Chết
còn tốn tiền thuế của dân. Đào hố đổ xăng như nó đã làm với 3 chiến sĩ là rẻ
nhất.
Một ý tưởng cho cách tử hình không tốn
kém đây ạ: Bắt 26 đứa kia đào cái hố, vót và cắm vài lớp chông, rồi 2 thằng bị
tử hình nhảy xuống, thằng chung thân rưới xăng và châm lửa, xong bắt chúng kéo
hai cái xác lên chụp ảnh tự sướng cúng phây.
Gì thì gì vưỡn phải
tâm phục khẩu phục quả đổi tội danh. Vì chỉ đạo diễn mỗi vở 3 bạn thui 3 con bê
đã toát bù hôi mà cử tọa vưỡn đéo hình dung được là giết dư lào. Nếu cả 29 bạn
cùng chơi thì kịch bản chắc phải giống kiểu cả làng đánh hội đồng các bạn trộm
chó.
Đêm giữa ban ngày! Bộ phim này đem đi
trình chiếu tranh giải Oscar chắc đạt giải nhất về độ trơ trẽn.
Công nhận đọc kịch bản thấy anh em còn
Đảng còn mình ngô nghê đéo ra cái hình thù gì. Càng cố kết tội dân càng chẳng
khác nào đang sỉ nhục cả lũ ăn hại đái nát. Giờ thì cả hệ thống phải ngu theo
thôi. Đồng chí thịt nhau chứ có đéo gì đâu. Dân Đồng Tâm giỏi ha, trong cảnh
mũi tên hòn đạn, khói lửa mù mịt mà nhẩn nha quạt chả ba chiến sĩ thơm nhở như
đi picnic nướng mực, mà lại không ai bị bỏng mới tài. Đéo dám thực nghiệm hiện
trường đâu.
Thích thì em chiều. Bỏ lũ luật sư và vợ
con cháu chắt thằng Kình xuống cho trải nghiệm thực tế. Em tài trợ cả xăng lẫn
hòm, năm nay quỹ từ thiện nhà em chưa giải ngân hết.
Chúng ta có
quyền nghi ngờ rằng, có một thế lực nào đó cố tình gây ra vụ xử này để gây chia
rẽ sâu sắc giữa nhân dân và giới cầm quyền, làm giảm sức đề kháng của Việt Nam
trước sức ép bá quyền của Trung Quốc trong một thế giới đang xung đột, phân bố
lại ảnh hưởng. Sẽ là ngây thơ chính trị nếu không đặt câu hỏi tình
báo Hoa Nam cùng các con bài của chúng đã nhúng bàn tay quỷ tác động vụ án Đồng
Tâm này đến đâu.
Tưởng nước
mình chỉ có một tổng biên tập cho mấy trăm tờ báo, hóa ra thằng đéo nào ở đây
cũng tổng biên tập ngon, mấy chục triệu cơ quan ngôn luận, ù hết cả tai. Chúc
các chú ở lại đánh bại sự thật, anh đi chăn gái cho lành.
Hôm nay có gì hot
nhỉ? Bú đánh ghen đơi, đánh úp chán rồi bà con ơi!
Địt mẹ tòa!
________
Nguồn: 100% Facebook
Ghi chú: Tôi sẵn sàng đáp ứng, nếu các tác giả có trích dẫn trong bài muốn được nêu rõ danh tính.
21/9/2020
September 2, 2020
Ngày thứ 100
Phạm Thị Hoài
Khi Việt
Nam có ca
Covid-19 đầu tiên tử vong, bạn gửi một dòng ngắn
gọn: “Thôi thế là xong!” Tôi biết bạn vừa kiện toàn tâm trạng ngây ngất
khi cả nước tiễn ông phi công người Anh lên máy bay, nhưng không thuộc trường
phái hăng
hái hiến phổi cho bệnh nhân này để thành
tích đánh giặc virus của đất nước được trọn vẹn, nên tôi nhắn lại: Trời ơi, thế
giới cứ hắt hơi là rơi vài mạng, bên Mỹ mỗi phút nhả ra hai chục ca nhiễm. Việt
Nam bây giờ phải nhường huy chương vàng cho Lào, huy chương bạc cho Campuchia, nhưng
khả năng ẵm huy chương đồng vẫn cao lắm. Bạn tỏ ý không hài lòng, cho rằng tôi
ghét chính trị Ba Đình nên chuyện gì cũng quàng vào giễu, trong khi cả thế
giới đánh giá cao mô hình chống dịch của Việt Nam, chúng ta có quyền tự hào lắm chứ.
Thực ra trong
cơn đại khủng hoảng này nước nào cũng tự hào, như đang trẩy hội khoe tài ở Olympic
dịch tễ. Mỗi nước một vẻ kiêu hãnh. Thế giới tưởng như ngày càng phẳng bỗng rất
lồi lõm với những bản sắc thể chế, xã hội, con người khác xa nhau.
Trung Quốc
kiêu hãnh đã quật ngã cả thành phố Vũ Hán để chặn đứng thảm họa cho toàn nhân
loại; đã hủy diệt mọi mầm mống tự do gieo rắc bệnh tật bằng sức mạnh của hệ thống
toàn trị ưu việt; đã đè bẹp mọi thông tin bi quan xuyên tạc để xã hội bình an;
đã đập tan cá nhân bằng búa tạ tập thể để quốc gia đông dân nhất thế giới này
ít ca bệnh và tử vong hơn Thụy Điển với một nhúm mươi triệu tâm hồn vô kỉ luật
trong mươi triệu thân xác ham hưởng thụ phương Tây.
Hoa Kỳ kiêu
hãnh đi từ kỉ lục này đến kỉ lục khác trong chớp mắt, phong cách chỉ xảy ra ở một
siêu cường chân chính; thống kê nào cũng dẫn đầu, đỉnh cao nào cũng mang tầm lịch
sử; xét nghiệm phi thường, lây nhiễm vô song, tử vong vô đối; ngoại lệ, đột phá,
gầm lên khúc ca tự do giữa vòng phong tỏa; vài ngày lại tìm ra một phép màu, và
nhân tiện vạch trần chân tướng bè lũ WHO tay sai Bắc Kinh.
Iran cũng lột
trần mặt nạ WHO là quân Do Thái và phường vô đạo, ngoài ra còn kiêu hãnh đã đứng
vững trước âm mưu xâm lăng sinh học của Mỹ. Cuba kiêu hãnh đã xuất khẩu bác sĩ
đi khắp năm châu chống dịch, đem về cho tổ quốc những đồng ngoại tệ thấm đẫm
nhân văn. Maroc kiêu hãnh đã đem xe tăng ra chặn virus. Tanzania kiêu hãnh đã hết
dịch chính xác từ ngày 08/5/2020 nhờ tụng kinh cầu nguyện. Nga kiêu hãnh là nước
đầu tiên phóng vaccine không người vào vũ trụ. Ấn Độ kiêu hãnh sắp đạt miễn dịch
cộng đồng, đặc biệt ở các khu ổ chuột, trước cả cựu mẫu quốc, chỉ vì Anh đột ngột
đổi chiến lược. Pháp kiêu hãnh có tổng thống trẻ trung hô xung phong như
Napoléon và de Gaulle cộng lại chia ba, phe ta chết như rạ, nhưng chết tẩm rượu
vang và gan ngỗng chứ không chết cuộn trong mấy lượt giấy toilet như ở những nơi
khác. Brazil kiêu hãnh được chọn mặt gửi vàng cho các tập đoàn dược nước ngoài
thử vaccine. Hàn quốc kiêu hãnh với song kiếm hợp bích là công nghệ và K-Pop, cứ
xét nghiệm và BTS là dịch trôi qua như trong mơ. Singapore tuy vỡ trận, đứng nhất
bảng lây nhiễm ở Đông Nam Á, nhưng kiêu hãnh đã quản thúc tốt virus trong ghetto
lao động nhập cư. Nhật kiêu hãnh vẫn bình thản như bao giờ, vẫn luôn tự kiềm chế,
ninja bịt mặt, vệ sinh sạch sẽ, đi khẽ nói nhỏ, giãn cách xã hội từ trong nôi, bình
thường muôn đời của Nhật là bình thường mới của thế giới. Đức kiêu hãnh vì một
lần nữa những phẩm chất dân tộc nổi tiếng lại tỏa sáng. Người Đức đúng kế hoạch,
họ mắc bệnh từ thứ Hai đến thứ Sáu, cuối tuần nghỉ, đồ thị dịch cuối tuần đều đặn
trũng xuống rất đẹp mắt. Người Đức trọng kỷ luật. Tuổi thọ trung bình của họ là
81, nên tính
đến ngày 23/8/2020, tuổi trung bình của 9.269 bệnh nhân Covid-19
tử vong ở Đức, có thể nào khác, cũng chính xác là 81.
Song con virus
thủ phạm lại hoàn toàn lãnh đạm trước mọi tự hào quốc gia và kiêu hãnh dân tộc.
Nó đến, như sứ giả từ phía tối của một thế giới đại đồng. Nó đỏng đảnh, vô tâm,
hiền lành, độc ác. Nó nhè chỗ này và tha chỗ khác. Nó biến hóa nhiều bộ mặt, thoắt
ẩn thoắt hiện, thật giả bất phân, âm dương lẫn lộn. Nó trôi nổi như một tin vịt
và ập xuống với tất cả trọng lượng của một hiện thực không thể chối cãi. Nó cho
phép phủ định, khẳng định và giả định trong cùng một thông điệp. Nó khác hẳn mọi
kẻ thù mà ta từng biết. Nó đi qua và chẳng để lại gì trong cuộc đời ta ngoài một
kết quả xét nghiệm, một đụn thịt nát, một cảm giác vô thường. Nó nhắc lại khi
chúng ta đã quên. Nó báo thù cho tự nhiên và ban ơn cho những sinh thể còn ít
nhiều trong trắng. Nó lang thang vô định và hạ sát bất kì. Nó là quyền năng và
hư vô. Nó không báo hiệu ngày tận thế, nhưng kết thúc kỷ nguyên phồn thịnh và bình
an dài lâu cuối cùng của một nhân loại vô độ. Trên bia mộ của cả triệu người đã
và sẽ chết trước số từ tám tháng qua, các thế hệ sau thậm chí không tìm ra một
chỉ dẫn. Song một sử gia cần mẫn có thể sẽ chép rằng, thời ấy, trước một kẻ thù
vô hình, nhân loại thức canh sự sống của mình như đun sữa, dưới độ sôi, vặn lửa
thật nhỏ, không để kết tủa, không để trào miệng vung. Trước một vi sinh vật lạ
lùng như vậy, thực ra chúng ta chỉ có thể khiêm nhẫn.
Người Việt rất
đỗi tự hào, song không phát minh một mô hình chống dịch độc sáng nào để có thể
đăng ký bản quyền quốc tế, chỉ sử dụng, một lần nữa, như trong suốt lịch sử hiện
đại, mô hình bình định hiệu quả của nước láng giềng phương Bắc mà họ gắn bó và căm
ghét, với nhà nước tập quyền và các công cụ của hệ thống toàn trị: tuyên giáo, quân
đội, cảnh sát, dân quân, dân phố, dân phòng, các đoàn thể xã hội và mạng lưới
tai mắt nhân dân. Tuy nghèo hơn nhiều, xét nghiệm từ đầu mùa dịch không bằng
Trung Quốc một ngày; lạc hậu hơn nhiều, thiếu toàn bộ nguồn lực công nghệ khổng
lồ biến mỗi con người thành một tập hợp thuật toán để bấm nút điều khiển và kiểm
soát, song Việt Nam đã kích hoạt thành công một chương trình gài sẵn trong bộ
gen của người Việt: chương trình chiến tranh nhân dân, từng bao lần thử thách
và bách chiến bách thắng. Trong vòng một nghị quyết, mỗi người Việt thành một
chiến sĩ trên mặt trận chống dịch và cả nước thành một pháo đài. Sau bốn thập
niên hòa bình, ngôn ngữ chiến tranh lại vang lên hùng hồn với những “chống
dịch như chống giặc”, “tổng hành dinh chống dịch”, “tuyến đầu
anh dũng”, “kiên cường bám chốt”, “ăn lán, ngủ rừng, bám địa
bàn”, “chiến binh áo trắng”, “giai điệu niềm tin chiến thắng”,
“toàn dân ra trận”, “cả nước ra quân”, “trực chiến”,
“khống chế”, “sát cánh”, “xung trận”, “đáp lời
Tổ quốc”, “toàn Đảng toàn quân toàn dân quyết tâm”, rất nhiều “chiến
công thần kì”, “chiến dịch thần tốc”, rất nhiều anh hùng và niềm
lạc quan phơi phới.
Mỗi dân tộc
có một sở trường. Mỹ không thể đem kinh nghiệm xét nghiệm sàng lọc virus Dân chủ
và virus Cộng hòa ra chia sẻ với thế giới. Không nước nào học được từ Lào bí
quyết hãm dịch trong vòng 22 ca hay từ Bắc Triều Tiên biện pháp cảnh cáo virus
bằng vũ khí nguyên tử. Sở trường lùng và diệt, “đi từng
ngõ, gõ từng nhà, rà từng đối tượng”, của người
Việt thiện chiến không thể áp dụng ở một nước toàn thua trận như Đức. Cách nhà
nghèo chống dịch khó đem giới thiệu cho nhà giàu. Châu Âu, có mỗi việc đeo khẩu
trang không xong, còn phải đặt vấn đề hiến pháp và câu hỏi bản thể, làm sao tiếp
thu nổi ý chí sắt đá của một Việt Nam thà hy sinh tất cả, dù có phải đốt cháy
Đà Nẵng…
Một tháng sau ngày thứ 100, Việt Nam tuy mất thêm huy chương đồng vào tay Miến Điện nhưng vẫn thắng rất oanh liệt. Tổn thất rất ít. Phía virus đã nướng vài sư đoàn. Bên ngoài, thế giới tiếp tục “toang”. Còn lại câu hỏi, hệ thống nào thành công hơn trong đại dịch, tự do hay toàn trị? Không phụ thuộc vào lời đáp, di sản của Covid-19 là một thế giới chấn thương, trong đó sự an toàn của riêng một quốc gia là vô nghĩa.
Tuần báo Trẻ, 03/9/2020
August 20, 2020
Điền vào dấu ba chấm: Đất nước của…
Phạm Thị Hoài
Đoạn thơ về đất nước trong đề thi tốt nghiệp
THPTQG môn văn năm nay tự nó không có gì đáng bàn. Thơ chính mạch vinh danh
quê hương đất nước con người mọi thời đều là sản phẩm dễ tiêu hóa và tiêu thụ, không
lo phản ứng phụ. Hay dở cũng không đáng bàn, tất cả đã chuẩn hóa, khen chê
ngoài đáp án là trượt. Thi văn ở Việt Nam ngày nay không khác thi bằng lái, miễn
sao thuộc luật, dĩ nhiên không cần phân biệt đó là một con ngựa sắt cổ lỗ cả về
động cơ lẫn khí thải hay một sáng tạo hiện đại của công nghệ xe hơi. Vì thế chê bai rằng tập hợp những câu
ngắn dài “cố thuộc mà khó thuộc” đó “xa lạ với thơ“ là nhầm địa
chỉ. Nhân tiện, không phải để bênh vực tác giả Nguyễn Khoa Điềm, người có những
dòng thơ đáng đọc hơn hẳn đoạn trích vừa nhắc, mà để hỏi nhỏ bộ lạc thơ dễ thuộc:
Có thi phẩm tiếng Việt nào, kể cả Kiều, thơ hơn jờ joạcx của Trần
Dần? jờ joạcx không khó thuộc, mà không thể thuộc, mỗi lần đọc lại bằng
mắt là một lần phát hiện những chùm sáng khác đi qua một thấu kính khác. Hôm
nọ lơ thơ bình minh tôi bóc lịc mịch ngày, thuộc đến đó thì còn khả dĩ, kể
cả cụm lịc mịch, và cái lơ thơ bình minh đó có thể in đậm vào trí
nhớ vì những bình minh khác đã quá nhàm. Nhưng tiếp theo thì trí nhớ từ chối.
Không phải vì nó chợt khó tính hay đã quá tải. Nó từ bỏ chức năng để nhường cho
ta cảm giác tinh khôi mỗi lần gặp lại: xuống hàng, 8 khoảng trống, tôi đi,
xuống hàng, song song cơn mưa to juỳnh juỵch jạng đông, xuống hàng, tôi
gặp, xuống hàng, 2 khoảng trống, một con nữ vận động viên, xuống
hàng, ướt, xuống hàng, jượt, xuống hàng, toàn thân, xuống
hàng, chạy joạch vòng mưa, xuống hàng, jòng jòng, xuống hàng, 1
– 9 – 6 – 3 min mét nữ, xuống hàng, xuống hàng, jờ jạchx nở jòn jọtx.
Tôi không khuyên đưa thơ Trần Dần vào chương trình ngữ văn phổ thông, thơ ấy
ngoài đáp án, thí sinh sau tay lái có thể thiệt mạng.
Đáng bàn là đề thi muốn gì với đoạn thơ ấy.
Có thể lấy bất kỳ một văn bản nào: giấy triệu tập lên đồn công an, đơn xin tự thú của
Trịnh Xuân Thanh,
bài quảng cáo bột giặt, hướng dẫn sử dụng que thử thai, một đoạn Luật Phòng
cháy Chữa cháy… làm văn mẫu và yêu cầu so sánh với một tác phẩm văn học bất kỳ
thuộc chương trình. Tôi tin sẽ có những bài luận thú vị, những thí sinh đầu
hàng và những phụ huynh đòi hoàn học phí. Nhưng đem một văn bản đã học chán
chê, đã phân tích nát bét và ôn đi ôn lại nhừ tử ra để yêu cầu phân tích đích
thị cái “tư tưởng” được nêu đích danh, tôi không rõ toàn bộ chuỗi
thao tác rất đặc trưng cho thi cử kiểu Việt Nam này sẽ dẫn tất cả các bên tham
gia đến bờ vực nào. Đầu vào và đầu ra giống hệt nhau, đó là sự lăng nhục cho những
phần mềm học sâu, trợ lý Alexa của Google mà mỗi ngày tôi mắng mấy trận mày ngu
quá, không nghĩ ra điều gì hay hơn à, cũng ngàn lần sáng tạo hơn. Song nhà trường
vẫn năm này qua năm khác đào tạo thành công những cấp độ động não ở con người mà
trí tuệ nhân tạo đã bỏ qua từ mấy thế hệ.
Nhưng đáng bàn hơn cả là “tư tưởng Đất
nước của Nhân dân” mà thí sinh được yêu cầu phân tích. Nhân dân vô danh,
lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm, giữ lúa, giữ lửa, giữ tiếng nói và tên đất
tên làng, tác giả liệt kê những việc nhân dân thường làm và kết luận đất nước
này là đất nước của nhân dân. Tốt thôi, tôi ủng hộ nhân dân, nhưng chẳng có gì ở đó
để “phân tích”, chẳng lẽ có thể phân tích “tư tưởng” Sắc đẹp
của Phụ nữ qua đoạn miêu tả dung mạo hấp dẫn của Thúy Vân và Thúy Kiều? Song
hoàn toàn có thể và nên đặt quan niệm về vẻ đẹp của phụ nữ hay quan niệm về đất
nước trong bối cảnh các thời đại và không chỉ trong sách vở. Tiếp cận theo cách
đó, “đất nước của nhân dân” ngày nay nhiều phần là một cách nói sáo
mòn và lừa mị.
Trừ Thân vương quốc
Liechtenstein không có nhân dân riêng mà thuê nhân dân lân bang, Công quốc
Monaco toàn triệu phú, nhân dân không có chỗ và Tây Sahara có nhân dân nhưng
nhân dân đi tị nạn hết thì đất nước nào trên thế giới này không của nhân dân? Đề
cao nhân dân không phải là sáng tạo riêng của các nhà nước dân chủ nhân dân, kể
cả Bắc Triều Tiên hiện tại và Khmer Đỏ một thuở, mà bắt nguồn từ các cuộc cách
mạng dân chủ tư sản trước đó hai trăm năm. Trước khi trở thành di sản quý báu của
“tư tưởng Hồ Chí Minh”, nguyên văn cụm từ chính quyền/nhà nước “của
dân, do dân, vì dân” đã vang lên trong câu kết Diễn
văn Gettysburg của Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln
ngày 19.11.1863: “and that government of the people, by the people, for
the people, shall not perish from the earth“. Dù sao, ông Hồ là một dịch giả
đặc biệt, như ông đã dịch thật rung động câu mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ
năm 1776 để mở đầu bản Tuyên
ngôn Độc lập Việt Nam năm 1945. Thời hưng thịnh công nông
binh, văn nghệ sĩ trí thức giầm chân chờ được kết nạp vào hàng ngũ nhân dân mà
vẫn nguyên phận dự bị. Dễ hiểu là chân dung nhân dân mà họ miệt mài khắc họa luôn
vươn cao trong tư thế cầm búa, cầm liềm và cầm súng, tuyệt đối không cầm bút.
Nhân dân trong đoạn trích thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, làm lụng, nuôi con,
đánh giặc, anh hùng, có chút tri thức thì nhất định đến từ văn hóa dân gian. Quan
niệm về đất nước của những chủ nhân ông thuở “be bờ đắp đập” ấy không
còn cung cấp một cảm hứng nào đúng tầm thời đại này.
Song vượt qua mọi thời đại, đất nước xứ sở nào cũng muốn tìm thấy mình trong một định nghĩa ít nhiều trường tồn. Người Pháp thật may mắn: tình yêu nói tiếng Pháp, Paris là thành phố của ánh sáng và ái tình, nước Pháp là đất nước của trái tim xao xuyến. Những lần đến Paris, tôi không thấy l’amour đầy đường; đời thường đi métro là tất cả trừ lãng mạn – đặc biệt tuyến 13 – và giá cắt cổ cho một bữa sáng với café và miếng không khí tẩm bột nướng giòn đáng gọi là khủng bố hơn là sexy. Nhưng không vô cớ mà đất nước ấy được tình yêu ghé môi đóng dấu.
Ý cũng không là đất nước của cuộc sống ngọt ngào tí nào khi vào nhóm đứng đầu bảng tử thần ký tên SARS-CoV-2. Những ngày bình an tiền Covid, không mất ví ở Ý là du khách đã mãn nguyện và ngoài ra còn không bị tương một bịch rác vào đầu ở Napoli, không bị tắc xi ở Venezia và hầu bàn ở Roma cắt cổ, không bị ăn cướp bởi xe ngựa, cảnh sát và cây xăng thì nên ghé Vatican cảm ơn phép màu của Thượng đế. Tuy thế, bất chấp bao nhiêu kinh nghiệm xương máu và khóa đào tạo “Làm thế nào để sống sót ở Ý”, mùa Thu này tôi sẽ chỉ có một nỗi nhớ, nhớ Bella Italia, dolce vita.
Đức thấy mình là đất nước của các nhà thơ và nhà tư tưởng, Land der Dichter und Denker. Thời Nazi, đó là đất nước của cai ngục và đồ tể, Land der Wächter und Schlächter, và trước đó nó đã được Karl Krauss, nhà văn Áo lừng danh với ngòi bút cay nghiệt, đổi thành đất nước của thẩm phán và đao phủ, Land der Richter und Henker. Bây giờ cả thơ ca, tư tưởng, cai tù, đồ tể lẫn thẩm phán và đao phủ đều không đóng góp gì cho GDP, Đức trở thành đất nước của xe hơi, bia và bóng đá, song Mercedes, BMW, VW, Bundesliga và chỉ số BMI ngày càng khuếch đại của những vại bia biết đi vẫn không thể cạnh tranh với huyền thoại thi ca và tư tưởng.
Huyền thoại “đất nước của những cơ hội vô tận” cũng sẽ sống mãi với Hoa Kỳ, ngay cả những khi nó là đất nước của những xung đột vô tận. Israel mãi mãi là miền đất hứa. Thái Lan là đất nước của nụ cười. Lào là đất nước triệu voi. Nhật là xứ sở mặt trời mọc. Buhtan là vương quốc của hạnh phúc. Úc là đất nước của chuột túi. Thụy Điển là đất nước của Ikea. Brazil là đất nước của bóng đá. Hàn quốc là đất nước của K-pop. Hà Lan là quê hương của hoa Tulip. Phần lan là đất nước của sauna. Nga có hai định nghĩa, là đất nước của Pushkin hay cõi Sa hoàng. Thụy Sĩ là đất nước bán vũ khí cho toàn thế giới nhưng bản thân chưa từng gây cuộc chiến nào và tiền bán vũ khí đem lập nhà băng cho bọn tội phạm Trung Quốc và Sicilia đến mở tài khoản, như hình dung của một cậu bé mà ông Marcello D’Orta, giáo viên Ý, công bố trong một sưu tập luận văn học trò…
Học trò Việt Nam sẽ điền gì vào câu “Đất nước của…”, nếu không phải theo đáp án “nhân dân” sau dấu ba chấm?
Tuần báo Trẻ, 20.08.2020
August 6, 2020
Dịch thuật và lựa chọn
Phạm Thị Hoài
Hai ngày sau bài phát biểu kịch
liệt chống Trung Quốc của Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo hôm
23/7/2020 tại Thư viện Tổng thống Richard Nixon, VnExpress rồi
nhiều trang báo đầu đàn khác ở trong nước, như VTC,
đồng loạt đăng cùng một bản dịch tiếng Việt, nhưng một ngày sau lại đồng loạt
rút xuống[1]. Chủ
đề “bài phát biểu dậy sóng” này vẫn hiện diện trên
truyền thông chính thống ở Việt Nam, song chỉ còn là đề cập gián tiếp qua tóm
tắt hay trích dẫn chọn lọc từ báo chí nước ngoài. Tất cả những động tác đó
không có gì lạ và đã thành thông lệ, thậm chí là truyền thống của báo chí nhà
nước; nhưng muốn thế nào, mỗi ca kiểm duyệt kể một câu chuyện và câu chuyện lần
này đáng lưu ý vì những tình tiết sau đây.
Bác Trung, bảo Cộng
Ở điểm trũng nhất của quan hệ Mỹ-Trung sau không ít thăng trầm kể cả
Thiên An Môn, bài phát biểu của ngoại trưởng Mỹ lần này gây ngạc nhiên không
phải vì sự gay gắt, mà vì nó chĩa mũi dùi vào sự cai trị của Đảng Cộng sản
Trung Quốc cũng như ý thức hệ cộng sản và nói thẳng không một chút úp mở rằng
đó là nguồn gốc tất yếu, không thể làm ngơ nữa của hiểm họa Trung Quốc đối với Hoa
Kỳ và thế giới tự do. Đó là điều mà các chính quyền Hoa Kỳ, bất kể Dân chủ hay Cộng
hòa, cho đến nay ít nhiều đều tránh đề cập. Việt Nam hiển nhiên lâm vào thế
kẹt, Bắc Kinh trước sau vẫn là hình mẫu cầm quyền cho Hà Nội dựa vào và noi
theo, hệ tư tưởng cộng sản ở Việt Nam trước sau vẫn là quốc đạo. 31 lần ông
Pompeo gọi tên “cộng sản”, bản dịch tiếng Việt giữ lại đúng 2 lần, đổi cả nhan
đề và loay hoay xoay xở để có thể vừa truyền đạt tương đối những chỉ trích với Trung
Quốc, vừa bảo toàn đảng cộng sản và chế độ cộng sản, để tránh những sự kiện gắn
liền với chính sách đàn áp khét tiếng của chính quyền cộng sản, và để bỏ qua xung
đột thể chế giữa hai mô hình độc tài cộng sản và dân chủ tự do.
Chỗ nào biến hóa được thì biến hóa, những người Duy Ngô Nhĩ “trốn
khỏi các trại tập trung ở Tân Cương”thành “rời khỏi Tân Cương”,
những người “sống sót ở Quảng trường Thiên An Môn” thành “từng
có mặt trong sự kiện Thiên An Môn”, Tập Cận Bình “độc tài
cai trị” thành “điều hành”, thách
thức từ Trung Quốc đòi hỏi nỗ lực và năng lượng “từ các nền dân chủ”
thành “từ nhiều quốc gia”, Đài Loan “vẫn nở rộ thành
một nền dân chủ cường tráng” thành Đài Loan “vẫn phát triển”…
Chỗ nào không biến hóa được thì cắt tỉa: “Nếu bây giờ chúng ta quỳ
gối, con cháu chúng ta có thể bị phó thác cho ân huệ của Đảng Cộng sản Trung
Quốc mà hành động hiện đang là thách thức lớn nhất cho thế giới tự do”
thành “Nếu chịu khuất phục, con cháu chúng ta có thể phải hứng chịu những
hậu quả từ Trung Quốc.”; “có thể chúng ta đã ngây thơ
về chủng loại Trung Hoa đầy độc tố của chủ nghĩa cộng sản”
thành “có thể chúng ta quá ngây thơ về Trung Quốc”; “làm ăn với một
công ty được ĐCS Trung Quốc chống lưng” thành “làm ăn với một công ty
Trung Quốc”; “chúng ta phải cổ động và phú quyền cho nhân dân Trung Quốc
vốn năng động, yêu tự do, hoàn toàn khác với ĐCS Trung Quốc” thành “chúng
ta phải tiếp xúc với người dân Trung Quốc”; “những
vi phạm nhân quyền thô bạo của ĐCS Trung Quốc” thành “những hoạt động vi
phạm nhân quyền”; “những gạ gẫm
món hời hay những ve vuốt của ĐCS Trung Quốc” thành “những đề xuất béo
bở của Trung Quốc”, mục đích của Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc là “duy
trì sự thống trị tuyệt đối của giới tinh hoa trong ĐCS Trung Quốc và bành
trướng một đế chế Trung Hoa” thành “nhiệm
vụ của họ là mở rộng đế chế Trung Quốc”; “để bảo vệ lý tưởng của mình trước
những chiếc vòi bạch tuộc của ĐCS Trung Quốc” thành để
bảo vệ “lý tưởng trước Trung Quốc”…
Chỗ nào không cắt tỉa được thì chặt phăng: Nguyên cả câu “Chúng ta phải ghi nhớ rằng chế độ của Đảng Cộng sản Trung Quốc là chế độ Mác-Lênin”. Nguyên cả đoạn vinh danh Vương Đan và Ngụy Kinh Sinh, hai nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc nổi tiếng được mời dự sự kiện, và nguyên cả đoạn tiếp theo: “Tôi lớn lên và phục vụ trong quân đội suốt thời Chiến tranh Lạnh. Và nếu có điều gì tôi học được thì đó là: những người cộng sản gần như luôn nói dối. Sự dối trá lớn nhất mà họ rêu rao là ý tưởng rằng họ đại diện cho 1,4 tỉ người bị canh giữ, áp bức và không dám lên tiếng. Hoàn toàn ngược lại. ĐCS Trung Quốc sợ những ý kiến trung thực của người dân Trung Quốc hơn bất kì kẻ thù nào, và không có lý do gì để sợ như vậy, trừ lý do lo đánh mất quyền lực của chính mình.”
Hà Nội tự thủ tiêu
Đoạn: “I have faith. I have
faith because of the awakening I see among other nations that know we can’t go
back to the past in the same way that we do here in America. I’ve heard this
from Brussels, to Sydney, to Hanoi”
được dịch “toàn văn” là “Tôi có niềm
tin. Tôi có niềm tin bởi thấy nhiều quốc gia đã thức tỉnh và hiểu rằng không
thể trở lại quá khứ giống cách chúng ta đang thực hiện ở Mỹ.”, tức câu “Tôi đã nghe điều đó từ Brussels đến
Sydney, Hà Nội” bị thủ tiêu.
Vậy Hà Nội thực sự đã nói gì với Ngoại trưởng Mỹ mà nhạy cảm thế? Đợi đến
lúc một cựu cán bộ ngoại giao Việt Nam nào đó tiết lộ những “chuyện bây giờ mới
kể” trong những trích đoạn hồi ký an toàn nào đó trôi nổi trên mạng, đúng công
thức đã được thử thách tí ti cấp tiến tí ti phá rào dâng trào cảm xúc, thì lịch
sử đã sang mùa quýt khác, hiện tại chúng ta chỉ biết rằng Hà Nội không thích
thú gì bị nêu đích danh cạnh EU và Úc, những đồng minh quân sự truyền thống của
Mỹ. Nói cách khác, chớ hy vọng Hà Nội sẽ sốt sắng hoan nghênh cái liên minh
chống Trung Quốc mà ông Pompeo đang khẩn thiết kêu gọi, chính thức gia nhập thì
chắc chắn càng không.
*
Như mọi thao tác ngôn ngữ, dịch thuật là công cụ của quyền lực. Quyền lực có thể chính trực, quảng đại, khai phóng. Quyền lực có thể gian tà, nhỏ nhen, giam hãm. Quyền lực có thể đắc thắng và quyền lực cũng có thể bất lực. Bản dịch tiếng Việt bài phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ nói trên, được gọi là “toàn văn” nhưng rõ ràng là phiên bản được cắt gọt điều chỉnh cho phù hợp với khí hậu chính trị Việt Nam, cho thấy khí hậu ấy đã có phần thay đổi. Chưa bao giờ kể từ Hội nghị Thành Đô, một văn bản phê phán Trung Quốc hạng nặng như vậy từng xuất hiện trên truyền thông chính thống ở Việt Nam, dù đã gắn giảm xóc và chỉ thọ không hơn một ngày. Song bản dịch ấy còn cho thấy rõ hơn một quyền lực chao đảo bởi những giằng xé cốt tủy mà chọn lựa nào cũng đe dọa tai họa ngang nhau. Ai đang mừng rằng những tuyên bố cứng rắn với Trung Quốc của Hoa Kỳ là có lợi cho Việt Nam, đang mong rằng Việt Nam có thể tranh thủ những tín hiệu tích cực ấy, đang chờ Mỹ đi trước trong công cuộc thoát Trung, có vẻ đang móc ảo tưởng từ một chiếc ví rỗng ra xài. Tuyên ngôn chống cộng mới toanh của Hoa Kỳ không mở đường cho Hà Nội, trừ khi đó chỉ là động tác tu từ. Trên trận tuyến ý thức hệ, Hà Nội không có lựa chọn. Không có lựa chọn thực ra là có duy nhất một lựa chọn.
(Tuần báo Trẻ 6/8/2020)
[1] Ở
thời điểm tôi viết bài này, chỉ còn trang PetroTimes của Hội Dầu khí Việt
Nam chưa hạ bản dịch: https://petrotimes.vn/toan-van-phat-bieu-keu-goi-chong-trung-quoc-chuyen-che-cua-pompeo-574854.html.
July 23, 2020
Quê hương tôi là tiếng Việt
Phạm Thị Hoài
(Trò
chuyện với Đinh Thúy Nga, phóng viên báo Tuổi
trẻ, tháng 4/1997 tại Hà Nội)
Đinh Thúy Nga: Tôi vừa đọc xong Marie
Sến, qua một bản photo, cũng vì tò mò muốn biết cái Phạm Thị Hoài mới viết
như thế nào. Nói thật là tôi không thích. Tôi thấy nó đanh đá quá, dường
như chị chỉ định phô diễn sự đanh đá của mình thôi và viết cho thỏa ý mình. Còn
câu chuyện không đến nỗi phải nói ra như thế. Tôi thích Thiên sứ của ngày xưa hơn.
Phạm Thị Hoài: Cảm ơn chị đã tò mò và đã đọc. Câu chuyện trong Marie
Sến, chị cho rằng không đến nỗi phải như thế, thì đơn giản là nó không đủ
sức thuyết phục đối với chị, có thể dùng một từ khác là khiên cưỡng.
Chúng ta cảm nhận sự khiên cưỡng khác nhau và chúng ta không bình đẳng: chị là
độc giả, có quyền đánh giá một tác phẩm là dở, không đáng đọc, không đáng mua;
tôi là tác giả, không hề có bất kỳ một quyền gì với độc giả, trừ quyền bất chấp
độc giả. Còn về sự đanh đá: người Việt không ai ưa kẻ đanh đá. Ghê gớm,
thậm chí khủng khiếp nhiều khi còn được hiểu theo nghĩa tích cực, nhưng đanh
đá thì bao giờ cũng đáng ghét và thường bị gắn vào đàn bà, cũng như chua
ngoa, lăng loàn. Ý nữa của chị rằng tôi chỉ viết cho thỏa ý mình,
điều đó thì đương nhiên rồi. Viết không thỏa, không sướng thì viết làm gì?
Nhưng ý mình, lòng mình lại chẳng phải cái lọ mực để biết đã dốc cả ra giấy hay
còn sót lại gì. Nói vậy nhưng tôi hiểu ý chị. Tôi cũng trân trọng Thiên sứ và mừng cho nó được nhiều người
mến mộ. Nhưng tôi không tin rằng nó là một cuốn sách quan trọng. Có lẽ nhiều
người không chia sẻ cái tham vọng của tôi về một tác phẩm quan trọng. Họ sẽ hỏi
ngay rằng, thế nào là quan trọng? Song lúc dọn nhà phải vứt bớt sách đi chẳng
hạn, người ta sẽ tự biết được điều đó. Tôi tin rằng Marie Sến quan trọng hơn Thiên
sứ và hy vọng nó là một tác phẩm có thể đọc nhiều lần, một lần khác chị sẽ
lại có những nhận xét khác.
Đinh Thúy Nga: Tôi cũng có nghe một vài nhà văn khen là Marie Sến sắc sảo và có tính khái quát
cao hơn Man nương. Nhưng tôi chỉ
thuộc phe Thiên sứ thôi. Dư luận cũng
thừa nhận Thiên sứ là thành công. Chị
nghĩ thế nào?
Phạm Thị Hoài: Thiên sứ dễ
đọc và cũng dễ gây thiện cảm với đông đảo người đọc hơn những tác phẩm khác của
tôi. Có một điều rất quan trọng, là người đọc khi bước chân vào cái thế giới hư
cấu của văn chương thì vẫn giữ nguyên những thói quen định hướng thông thường
của thế giới hiện thực: bên phải, bên trái, chỗ này cấm chỉ, chỗ kia hạ mã… Thiên sứ vẫn còn ủng hộ những thói quen
đó ở một mức độ đáng kể. Bé Hon dẫn lối cho người đọc. Người đọc được yên tâm
làm một du khách có hướng dẫn viên đáng mến. Cho nên có du lịch qua cả một địa
ngục thì người đọc cũng không hề đem ra vận vào mình. Mà chỉ vận vào tha nhân.
Còn tác giả thì ngoại cuộc. Như vậy là trong cuộc văn du này có hai kẻ ngoại
cuộc, độc giả và tác giả, có làm phiền gì nhau đâu, dễ có cảm tình với nhau là
phải. Ở những tác phẩm sau này của tôi, điều đó dần dần không còn nữa. Vai trò
người đọc, người viết, và người khác đã bị xáo trộn phức tạp tùy ở văn cảnh.
Đấy là thế giới hư cấu của những thói quen mới. Song bản thân tôi cũng phải mò
mẫm trong đó. Số đông độc giả không có nhu cầu dò tìm và sẵn lòng chấp nhận
những tai ương bất ngờ như vậy, dù là trong một thế giới hư cấu. Người ta bằng
lòng vượt qua những khúc mắc khủng khiếp trong một cuốn truyện trinh thám chẳng
hạn, vì biết chắc là mọi sợi chỉ cuối cùng đều về một mối, kẻ giết người cuối
cùng sẽ sa lưới. Người ta thích đi dạo trong những cánh rừng không có chó sói,
hoặc nếu có thì có luôn cả bác thợ săn nữa. Song đã có quá đủ các nhà văn làm
công việc gỡ chỉ hoặc dọn rừng rồi, tôi xin làm việc khác.
Đinh Thúy Nga: Trong nhiều truyện chị viết sau này, cả trong Man nương lẫn trong Marie Sến, cá nhân tôi thấy chị dường như chịu một thứ câu thúc nào
đó. Lúc thì bị câu thúc vì kỹ thuật, nên phải viết kiểu thế, lúc lại bị câu
thúc bởi ý định nói cho được, nên cũng cứ phải vì thế mà viết ra. Tôi không
biết nói thế có là “chủ quan áp đặt” lên Phạm Thị Hoài không?
Phạm Thị Hoài: Bàn về sự câu thúc dễ thành kẻ lý sự, mà lý sự
thì cũng khó ưa như đanh đá, với người Việt. Tôi thấy mình bị nhiều thứ
câu thúc hơn những điều chị vừa nhắc đến, nhưng trước hết tôi chỉ mong không bị
câu thúc bởi thành công đã có của mình mà thôi. Về sự ràng buộc của ý định thì
trời ơi, xin chị giở lại từng trang trong nền văn chương của chúng ta: đó là một
nền văn chương của các ý định và chỉ ý định là đáng kể. Hoặc là ý định tốt,
đáng hoan nghênh; hoặc là ý định xấu, đáng phê phán. Chủ đề tư tưởng phải rõ
ràng, mục đích phải sáng tỏ. Ngược lại với ý chị, nhiều tác phẩm của tôi là bị
chê là khó hiểu, chẳng biết tác giả muốn nói gì. Đồng thời, nhiều trang viết
của tôi lại bỗng nhiên được tặng bao nhiêu ý đồ lạ hoắc. Tác giả thật khó xử
với những món quà như vậy. Còn về kỹ thuật, đó là thứ dễ buộc vào và buông ra
nhất, áp lực của nó không bao giờ là vĩnh viễn. Nó giống như cùng một chiếc áo,
chỉ phù hợp với người này mà không hợp với người kia, hợp với lúc này mà lúc
khác lại hỏng. Chắc chị đã thấy tôi thử áo nhiều quá. Nếu ở những truyện trước
chị không có cảm giác ấy, thì chắc là áo tôi khi ấy cũng na ná áo nhiều người
khác. Song sự riêng biệt là một trong những điều kiện sống còn của nghệ thuật.
Đôi khi một kỹ thuật nào đó phải được phô trương, thậm chí khuếch trương, để
đẩy sự riêng biệt lên một bước nữa hoặc lên đến tột cùng. Tôi e rằng trong văn
chương Việt Nam, sự độc đáo chỉ được ghi nhận trên nguyên tắc chung mà thôi, nó
chưa bao giờ là một trong những thanh củi lớn cháy trong chiếc lò luyện văn của
chúng ta. Nhà văn Việt Nam thường không buồn khi thấy tác phẩm của mình cũng
hao hao giống tác phẩm của nhiều người khác. Tôi sẵn sàng chấp nhận nhiều thất
bại, chỉ để con đường nghệ thuật của mình là riêng biệt. Muốn được như vậy, thì
bản thân con đường đó không thể chỉ là sự kéo dài vô tận của Thiên sứ.
Đinh Thúy Nga: Theo chủ quan của tôi thì con đường nghệ thuật đó tới
nay có thể chia làm ba chặng: Thiên sứ
và Mê lộ là một, Man nương là hai, Marie Sến
là ba. Nhưng tôi vẫn cảm thấy cái nhân hậu, ấm áp của giai đoạn trước có sức
chinh phục hơn.
Phạm Thị Hoài: Có lẽ tôi là một củ gừng, càng già càng cứng và cay. Người
ta tuy nghiện riêng cho mình những thứ cay, đắng, chua, chát, nhưng khi có việc
bày cỗ, điển hình là cỗ cưới, thì toàn những vị ngọt, bùi, béo, bở. Trong mâm
cỗ cưới của văn học Việt Nam, có nhà văn nhà thơ nào tình nguyện chỉ làm một
quả ớt đâu. Các nhà thơ trào phúng thỉnh thoảng mới nhớ ra rằng trong thơ nên
có ớt, và hòa vào đó một tí chút vừa miệng thôi. Chị có cho rằng Nguyễn Đình
Chiểu ấm áp hơn Nguyễn Du không? Bà Huyện Thanh Quan nhân hậu hơn Hồ Xuân
Hương? Tôi rất quan tâm đến cái tâm lý sợ bị coi là ác của người Việt, văn
Việt. Ở quán nhậu, mỗi lần nâng cốc người ta đều lớn tiếng bày tỏ cái tâm, cái
tình, cái nghĩa, cái đức độ của mình trong cuộc đời. Nghe một lúc thì ù tai.
Sách của tôi không thể giống một quán nhậu như vậy được.
Đinh Thúy Nga: Tôi xin trở lại những chuyện cụ thể. Cho đến lúc này
tôi vẫn thấy sức chinh phục của sự sắc sảo và cái bản năng tinh tế rất đàn bà trong
Hành trình của những con số, Người đàn bà với hai con chó nhỏ, Tiệm may Sài Gòn… và tất nhiên của Thiên sứ. Sau này chị viết khác nhiều lắm.
Điều gì đưa đến sự thay đổi này?
Phạm Thị Hoài: Trước đây nhiều năm, tôi không có khả năng chỉ cần dùng hai chữ để mô tả một lần duy nhất một đồ vật nào đó, để dựng nên một chi tiết nào đó trong cả một cuốn tiểu thuyết mà người đọc vẫn nhớ đến đồ vật ấy, chi tiết ấy. Nếu có, thì đấy là một ngẫu nhiên. Trước đây nhiều năm, tôi đi vòng quanh cái bọc đựng tiếng Việt mà không mở tung nó ra. Trước đây nhiều năm, tôi vừa là cái mũ đựng những con thỏ xinh đẹp vừa là nhà ảo thuật. Nhưng thỏ rồi cũng dùng hết, tiết mục ảo thuật cũng qua đi. Làm sao có thể kể hết những thay đổi. Lý do quan trọng nhất là nhu cầu phải thay đổi, là lòng ham cái chưa biết, là nỗi sợ dừng lại quá lâu một chỗ. Có người cho rằng sau Thiên sứ tôi rơi vào chỗ bế tắc, chỉ còn “vùng vẫy trong sự dâm dục độc ác ngập ngụa của chính mình“. Tôi có thể cãi lại rằng, chính là trong giây phút bế tắc chứ không phải trong cơn cao hứng, Thượng đế đã tạo ra nhân loại, và chúng ta biết nhân loại bê bối như thế nào. Song thực ra điều tôi muốn nói là, mọi sáng tạo đều là kết quả của một bế tắc. Sau cuốn Marie Sến, tôi đã hăng hái bắt tay ngay vào tiểu thuyết số 3. Nhưng đọc lại mươi trang mới viết, thấy vẫn ở trong cái bóng của Sến, vẫn quanh quẩn trong ngả đường đã khóa lại với trang cuối cùng của cuốn sách đó, nên tôi phải bỏ ngay. May mắn là tôi có một số việc hoàn toàn khác trong năm vừa qua để từ giã một giai đoạn. Bây giờ tôi đang viết dở một truyện cho thiếu nhi. Ở đó thì Sến không lọt vào được.
Đinh Thúy Nga: Việc sống ở nước ngoài có ảnh hưởng đến sáng tác của
chị nhiều không?
Phạm Thị Hoài: Cuộc sống ở nước ngoài đương nhiên tác động tới con
người tôi, số phận tôi, và sáng tác của tôi. Chỉ có điều quan hệ của một môi
trường đã thay đổi với những sáng tác cũng đã thay đổi không đơn giản mà xác
định được. Có những nhà văn sống mấy chục năm ở bên ngoài vẫn viết giống hệt
những người chưa bao giờ ra khỏi Việt Nam. Lại có những nhà văn đi ra đi vào xoành
xoạch mà con đường sáng tạo của họ không mang dấu vết gì của những chuyến đi
như vậy. Ảnh hưởng trực tiếp nhất khi sống ở Đức đối với tôi, là tiếng Việt của
tôi phải đủ mạnh để thắng trong cuộc cạnh tranh với một ngôn ngữ mạnh là tiếng Đức.
Chúng ta đang sống ở thời mà mọi thứ đều được quốc tế hoá một cách rất đương
nhiên. Châu Á vận Âu phục cũng bình thường như châu Âu quấn xà rông. Trong nhà
một người Việt bình thường ở Hà Nội, có lẽ chỉ 0,5 % đồ đạc là dính dáng một
chút tới truyền thống thuần Việt. Quê hương, theo nghĩa vật lý, đã không còn
nữa để mà thiếu. Những sản phẩm rất đặc trưng Việt Nam như nghèo đói, lạc hậu,
tham nhũng, độc tài… cũng dễ dàng thấy ở nhiều xứ khác. Quê hương tôi là
tiếng Việt. Vậy thì ngồi ở Berlin, bật máy tính lên là tôi lại về quê rồi.
Đinh Thúy Nga: Việc đi ra nước ngoài nhiều, tiếp xúc rộng, theo chị,
có tác động như thế nào lên một người viết?
Phạm Thị Hoài: Nước ngoài là gần hai trăm quốc gia, và người ngoài
là hơn năm tỉ người. Cảm giác rằng mình là một trong vài triệu người viết tất
nhiên khác với cảm giác rằng mình là một trong vài trăm, chưa nói đến cảm giác
tôi và anh chia nhau ngôi tiên chỉ, thứ chỉ trong một cái làng văn nhỏ bé. Nhóm
từ “đi nước ngoài” có một ma lực đối với người Việt ở trong nước. Tôi
nhớ mãi một giai thoại chẳng biết có thực hay không, rằng Mao Trạch Đông lần
đầu tiên cầm một quả địa cầu trên tay đã bật khóc nức nở vì thấy tận mắt rằng
Trung Quốc không phải là tất cả thế giới. Một nhà văn Việt bỗng đặt chân đến
một nơi nào đó trên đất Mỹ mênh mông trong khoảng ba tuần đương nhiên không
khóc như vậy. Ngược lại. Từ ngày quan hệ Việt-Mỹ bình thường trở lại, nhà văn
Việt Nam sang Mỹ không khác gì trước đây sang Liên Xô. Song Mỹ khác Liên Xô
nhiều lắm. Người ta không thể sang nước Mỹ của Liên Xô, nhưng người ta có thể
sang Liên Xô của nước Mỹ. Như thế thì tuy đi nửa vòng trái đất, nhưng không
khác gì xê dịch tại chỗ, tiếp xúc với nhiều người nhưng chẳng qua chỉ là mình
lại gặp mình.
Đinh Thúy Nga: Năm, bảy năm trước, tôi nhớ chị cho biết đang học chữ
Hán. Việc học đến đâu rồi, có còn cần cho một người Việt, một người viết văn
hôm nay không?
Phạm Thị Hoài: Người Việt đã học quá nhiều ngoại ngữ, nhiều tới mức không có cái chuẩn nào cho tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Chúng ta vui vẻ sống trong tình trạng vô chính phủ này. Chẳng ai thắc mắc gì, khi cái tên nước ở miền Bắc trước kia theo trật tự Tàu, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau này bỗng chuyển sang Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo trật tự Việt. Tuyệt đại đa số dân chúng còn không hề biết đấy là một trật tự đã thay đổi. Cũng chẳng ai bận tâm xem câu “Chào buổi sáng” là nhằm vào người được chào, hay nhằm vào buổi sáng. Ngôn ngữ chỉ là phương tiện thôi mà, miễn là tiện lợi và hiểu được, phần lớn chúng ta quan niệm như vậy. Người Việt sống lâu ở nước ngoài thì dùng một thứ tiếng Việt đông lạnh, không còn mùi vị gì đặc trưng, hoặc cố thủ trong chiếc áo ngôn ngữ mang theo từ quê hương, mà áo nào mặc mãi thì cũng tã nát. Tôi không biết một người Việt bình thường có cần phải học nhiều hơn 300 từ tiếng Việt không, huống hồ chữ Hán. Chữ Hán có thể học suốt đời không xong, và nếu không sử dụng thì quên rất nhanh. Tôi không phải làm những việc thường xuyên liên quan đến chữ Hán, đã quên nhiều mặt chữ, may mà phần chính của cái vốn liếng xưa vì có ích trong việc viết mà không mất. Tôi nói có ích, ít nhất để không lạm dụng những buổi lê minh hay ánh tà dương nếu chỉ muốn xác định thời gian lúc rạng sáng hay xế chiều một ngày giản dị. Những cảm xúc tẻ nhạt ưa đội lốt Hán-Việt, song chúng không biết rằng như thế ngoài tội nhạt còn thêm tội rởm. Biết thiên là trời mà khác trời, địa là đất mà khác đất quả thật chỉ là mở đầu của mọi mở đầu mà thôi.
* Ghi chú: Nhà báo Đinh Thúy Nga không còn làm việc tại báo Tuổi trẻ. Chị đã đồng ý với việc công bố bài phỏng vấn này, sau 23 năm.
July 16, 2020
Sự thật và cơ chế đặc biệt
Phạm Thị Hoài
Án oan không chỉ
có ở Việt Nam. Tôi nhớ là mình đã sốc, như thấy trăng nước Mỹ không tròn hơn
trăng Trung Quốc, khi lần đầu tiên đọc những số liệu về oan và
sai
trong tố tụng hình sự ở Hoa Kỳ. Trái với hình dung mơ hồ và xác tín chắc nịch của
phần lớn chúng ta, những công cụ nhạy bén nhất, những thiết chế tiến bộ nhất và
những chuẩn mực được cân nhắc kỹ lưỡng nhất của một nền tư pháp độc lập trong
các nhà nước dân chủ tuy đã rút ngắn khoảng cách đến thiên đường công lý, song
cánh cửa mở vào chốn ấy vẫn khép chặt. Hoa Kỳ chiếm vị trí nổi bật trong các nước
tự do về sai phạm tư pháp ở khu vực hình sự, như thể để khẳng định vị trí ngoại
lệ (American exceptionalism) ở mọi phương diện,
song cũng dẫn đầu trong những nỗ lực phi thường
của xã hội dân sự
để khắc phục án oan. Mọi quốc gia với nhà nước pháp quyền khác đều có những khoảng
tối tư pháp đáng sợ của mình, và trắng trợn im lìm là trong những hộp đen tại
các nước chuyên chế.
Án oan có vô vàn lý do. Hãy bắt đầu với vấn đề mấu chốt:
sự thật. Một thời, duy nhất Chúa Trời và những Đấng Tối cao tương đương sở hữu
sự thật. Nguyên tắc của các vị này là không xuất hiện trước công chúng và chỉ
tiết lộ sự thật cho giới thân tín như giáo chủ, thiên tử, các nhà tiên tri và
hiền triết, nên tư pháp rất đơn giản gọn nhẹ. Salomon xử vụ hai phụ nữ giành
con bằng một thanh gươm và sự thông tuệ, ân huệ của Thượng đế. Nguyễn Thị Lộ
qua đêm với vua, vua chết, vậy Thị Lộ giết vua, vậy tru di tam tộc Nguyễn Trãi.
Quan văn Tư Mã Thiên bênh một quan võ thất trận, tức dèm pha anh vợ vua, một
quan võ thất trận khác, vậy đem Tư Mã Thiên ra thiến. Rồi đến thời sự thật
không cần phải tìm kiếm vì đã nằm gọn trong tay các nhà độc tài, tuy thế tục,
vô thần, song nghiễm nhiên thế thiên hành đạo. Nhà văn Thụy An: gián điệp, đạo diễn Vsevolod Meyerhold: gián điệp, học giả
Lưu Hiểu Ba: kích động lật đổ, nhà báo Nguyễn Hữu Đang: kích động lật đổ, nhà vật
lý Sakharov: chống phá chính quyền, nhà biên kịch Václav Havel: chống phá chính
quyền. Người lãnh cùm, người ăn đạn ngay tức khắc. Sự thật đồng nhất với ý chí
của kẻ cầm quyền.
Tư pháp Việt Nam hiện tại
về cơ bản vẫn sử dụng nguyên tắc này để kết án giới bất đồng chính kiến và cả
những thành phần cần loại khỏi guồng máy vì những lý do nhất định ở những thời
điểm nhất định mà công luận hoặc không hề biết hoặc chỉ được thông tin nhỏ giọt
và vào phút chót. Nền pháp quyền xã hội chủ nghĩa về cơ bản vẫn dựa trên chế độ
công an trị. Song trong hai thập niên vừa rồi, muốn hay không, chính quyền đã
buộc phải thúc đẩy cải cách tư pháp trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, đồng
thời độc quyền thông tin của nhà nước buộc phải lùi nhiều bước trước các phương
tiện truyền thông và mạng xã hội tự do. Thời chỉ đạo sự thật trượt thẳng vào kỷ
nguyên sự thật hỗn mang. “Hội những
người bảo vệ sự thật” bị “Hội những người yêu mến sự thật” đông
hơn gấp bội trên Facebook lườm nguýt, trong khi phe “Phát minh sự thật”
muốn liên kết với phe “Phát ngôn sự thật”, trang “Sự thật nóng hổi”
troll đến cùng trang “Sự thật lạnh lùng”, nhóm “Sự thật
trắng đen” bị nhóm “50 sắc xám của sự thật” khinh bỉ phỉ nhổ, và
tất cả đều thành thực chia sẻ tin giả.
Tôi vào nghề phiên dịch tại các tòa án ở Đức với vốn
tri thức từ cố hương xã hội chủ nghĩa vừa lò dò ra khỏi một tồn tại trung cổ cuối
thế kỷ trước, tức không có một ý niệm nào về tố tụng ở một xã hội hiện đại,
nhưng lại đầy ắp những khái niệm mờ nội hàm mà tiếng Việt luôn hào phóng cống
hiến. Phải sau một thời gian khá lâu tôi mới hiểu, cách tệ nhất để phụng sự sự
thật là đặt tiên đề rằng nó tuyệt đối, khách quan và luôn chiến thắng. Luật
pháp ở Đức thừa nhận một sự thật thỏa hiệp, nếu các phương tiện áp dụng để xác
định sự thật ấy là công khai, hợp pháp, tức hình thành từ một quy trình lập
pháp dân chủ. Trong tố tụng dân sự, sự thật xuất phát từ thương lượng giữa các
bên liên quan, tức sự thật quy ước, sự thật hình thức, chiếm thế thượng phong.
Tố tụng hình sự tất nhiên đi theo nguyên tắc khác, nó nỗ lực hướng đến những sự
thật bản chất, sự thật nội dung, song không phải vô cớ mà ở đó người bị buộc tội
được giải phóng khỏi trách nhiệm làm sáng tỏ sự thật bằng quyền im lặng, thậm
chí không hề bị trừng phạt khi nhầm lẫn hay khai man. Lời nhận tội của nghi can
không thuộc nhóm các chứng cứ quyết định dung mạo của sự thật. Nhiều luật gia
cho rằng sự thật là phạm trù triết học, không phải phạm trù luật học, cũng như
công lý là phạm trù đạo đức, không phải phạm trù luật pháp. Ai muốn phức tạp
hơn, xin mời đọc Kant. Dù quan niệm sự thật đơn giản thế nào, xác định sự thật
luôn là một sứ mệnh không hẳn bất khả, nhưng kết quả là tái hiện được một nửa sự
thật vẫn tốt hơn một phần ba. Trong trường hợp may mắn nhất, sự thật tư pháp chỉ
có thể phản ánh sự thật khách quan như những giọt mưa có thể định nghĩa đám mây
sau quá trình ngưng tụ.
Ít nhất cả nửa kho công cụ phụng sự sự thật của một
nhà nước pháp quyền là để chống chính các thủ kho lạm dụng, trong đó vũ khí
sáng chói nhất là sự độc lập của tư pháp. Viên kim cương đính trên đó là sự độc
lập của thẩm phán, tuyệt đẹp nhưng không dễ thưởng ngoạn. Thẩm phán ở Đức là những
công chức duy nhất trong bộ máy nhà nước không chịu sự chỉ đạo của bất kỳ ai
hay bất kỳ thẩm quyền nào ngoài luật pháp, trên đầu chỉ có trời xanh, sau lưng
là một biên chế suốt đời và phía trước là sổ lương hưu đầy đặn hơn chín phần mười
dân chúng. Cơ quan chủ quản có thể yêu cầu một thẩm phán không lấy buồng ngủ
làm phòng xử, không diện quần xà lỏn ra tòa, hay không nhai xúc xích phết mù-tạt
trong lúc xét hỏi, nhưng chỉ đến đó là hết giới hạn quản lý. Còn lại, thẩm phán
toàn quyền định đoạt từ năng suất, thời khóa biểu – có thẩm phán nhất định xử
vào ngày 11 tháng 11 lúc 11 giờ 11 phút -, đến mọi chi tiết nhân sự, kỹ thuật,
nội dung, thủ tục, trình tự tiến hành các phiên tòa, thậm chí cả hình thức và
phong cách tuyên án – có thẩm phán viết bản án như một bài tường thuật bóng đá
mà kết quả là đôi bên cùng hòa; có thẩm phán trình bày quyết định của mình bằng
thơ hay văn vần; thỉnh thoảng dư luận lại được cười lăn vì thất bại nghệ thuật
của các quan tòa đã cố gắng trữ tình trong khuôn khổ duy lý của luật pháp.
Không sao hết, miễn là các yêu cầu của tố tụng được thỏa mãn, các bên liên quan
không cảm thấy bị giễu cợt và sự hài hước không biến tòa án thành trò cười.
Tôi từng đem băn khoăn của kẻ ngoại đạo hỏi một thẩm
phán: ông tự tung hoành, một mình một cõi không ai giám sát, vậy nếu ông làm bậy
thì ai chịu? Người được hỏi kêu oai oái, bà không đùa đấy chứ? Trên đầu chúng
tôi đúng là chỉ có Thượng đế mà ngài lại thường đi vắng, nhưng ngay sát nách là
165.000 ngàn luật sư, 5.500 công tố viên và 150.000 nhà báo, xử láo thế nào được.
Chúng tôi không phải thánh mà con người thì khó tránh cám dỗ, nhưng hệ thống đã
trù liệu sẵn sự yếu đuối của con người. Luật pháp đủ rắn để không dễ gì bẻ
cong. Cơ hội lạm quyền của chúng tôi có chăng chỉ bằng của trọng tài trên sân cỏ.
Phương tiện giám sát thì nằm trong chính hệ thống, đó là thủ tục kháng án,
không hơn không kém. Sau quyết định chung thẩm, nếu không có sai phạm trong thủ
tục tố tụng để xử lại hay đủ cơ sở để mở vụ xét xử mới thì bản án có hiệu lực
và chấm hết ở đó.
Tôi nhăn nhó, chấm hết mà vẫn oan sai thì làm thế nào?
Trả lời, trong tiếng Đức có khái niệm Rechtsfrieden, điểm dừng sau khi
đã sử dụng mọi công cụ luật pháp cho phép để giải quyết xung đột. Chấp nhận điểm
dừng đó là xác quyết một niềm tin. Cuối cùng, cốt lõi của mọi hoạt động tư pháp
là gây dựng sự tin cậy và tôn trọng luật pháp. Nếu nước Đức là một cộng hòa chuối
thì không còn gì để nói nữa, có đem tất cả thiên thần, ác quỷ và các liên minh huyền
bí tròng vào cổ thẩm phán chúng tôi để giám sát, vẫn vô ích.
Trở lại với cố hương, Việt Nam rất khó có đáp án cho
bài toán tư pháp độc lập. Một mặt, đó là xu hướng không thể đảo ngược của tiến
trình chuyển hóa xã hội, là điều kiện bắt buộc để khắc phục hiện trạng vừa đá
bóng vừa thổi còi và bán cá độ với những chánh án vòi tiền bị can, những tướng
công an bảo kê các đường dây tội phạm, những kiểm sát viên chạy án, những chấp
hành viên chiếm đoạt tài sản và hàng loạt các cơ chế đặc biệt để giằng co, chồng
chéo, bao biện và bảo hiểm lẫn nhau. Mặt khác, bản chất độc quyền và tập quyền
của chế độ chính trị hiển nhiên xung khắc với mọi nguyên tắc phân chia quyền lực.
Trước sau như một, chế độ ấy vẫn kiên định lập trường toàn tu từ mù mịt “quyền
lực thống nhất thuộc về nhân dân” để bác bỏ một mô hình như tam quyền phân lập, thậm chí coi đó là “lá bài cổ xúy bất ổn chính trị, xung đột quyền lực”. Tiến không được, lùi không xong, cải cách tư pháp Việt
Nam đành dùng dằng trong những mâu thuẫn nền tảng giữa một bên là nhu cầu
chuyên môn và yêu cầu của thời đại và bên kia là đòi hỏi của chế độ chính trị. Một
số tiến bộ đạt được hoặc dừng trên mặt giấy, hoặc chỉ cho thấy những cố gắng vá
víu một manh chiếu đã nát như lâu đài cát của ý thức hệ đương quyền. Vụ án Hồ
Duy Hải cho thấy tất cả sự trì trệ bất lực ấy.
Thẩm quyền xét xử cao nhất ở Việt Nam thuộc về Tòa án
Nhân dân Tối cao. Song đó chưa phải là điểm dừng cuối cùng cho những “án đụng
trần” trong nền tư pháp trống vắng mọi niềm tin này, nên Điều 404 Luật TTHS hiện
hành phát minh thêm một tối cao hơn cho tối cao, lại một thiết chế đặc biệt, để
Quốc hội, cơ quan lập pháp, điềm nhiên can thiệp vào tư pháp. Nhưng Quốc hội rõ
ràng không cao nhất theo Điều 4 Hiến pháp, tức cuộc đua tối cao của các tối cao
có thể vô tận. Rồi những Ban Nội chính, những Ban Thanh tra của những nhánh quyền
lực không thể định nghĩa nào đó cũng điềm nhiên vào cuộc, chưa kể vị trí kỳ quặc
của Viện Kiểm sát, một thiết chế siêu đặc biệt, chỉ có ở Việt Nam. Việc chia thủ
tục kháng án thành kháng cáo và kháng nghị với những hệ lụy độc
nhất vô nhị cũng chỉ có ở Việt Nam. Hàng loạt cơ chế đặc biệt xúm vào truy đuổi
sự thật, khiến nó bỏ chạy thục mạng để chỉ có thể tìm trên Facebook chốn nương
thân. Và toàn dân, trui rèn trong địa ngục của những cơ quan điều tra bất nhân
và những tòa án bù nhìn, hôm trước khao khát cháy bỏng một nền tư pháp độc lập,
hôm sau gửi tất cả hi vọng vào hành động kết liễu sự độc lập đó. Công lý nếu có
cho Hồ Duy Hải phải đi kèm nghịch lý ấy, với cái giá không biết bao giờ mới trả
hết là sẽ còn nhiều cơ chế đặc biệt nữa được phát minh và kiện toàn để giám sát
chồng lên giám sát của giám sát, vô tận, vô nghĩa và vô ích, bởi cốt lõi của mọi
hoạt động tư pháp ở một cộng hòa chuối là phá hủy sự tin cậy và tôn trọng luật
pháp.
Tuần báo Trẻ, 16.7.2020
July 9, 2020
Sáu mươi
Phạm Thị Hoài
Tết Vũ Hán, tôi kịp tròn sáu mươi để gia nhập nhóm tương
đối dễ chết, tiếng Việt hội nhập gọi là nhóm rủi ro tương đối cao, bởi một con
virus lạ lùng.
Thường tôi chỉ sực nhớ tuổi khi lại có ai đó hỏi sao
tóc bà vẫn đen thế. Tóc là chứng chỉ khó giả mạo về tuổi tác. Bao nhiêu hóa
chất tưới lên đầu, làm màu cho một sinh lực quan lộ tràn trề hay để tự vỗ về trấn
an, mua chuộc bản thân và gợi ý với thiên hạ, đều vô ích. Đều bất lực trước những
mảng da trắng bệch như hề hoặc trắng bợt như xác chết dưới những chân tóc phản
chủ. Song những mái đầu bạc rạng rỡ đã lỗi thời, nhân loại chưa bao giờ già hơn
và sùng bái tuổi trẻ hơn, vậy người Việt hiện đại đầu tư vào thuốc nhuộm. Tôi
không nhuộm tóc. Khối bê tông đen nhức và trời ơi còn uốn lượn trên nóc những cơ
thể cao niên tuyên ngôn một nỗi sợ, một sự hoảng loạn ăn mòn tư cách. Nếu không
sống được hơn tuổi thật, ít nhất tôi muốn bình đẳng chứ không chịu kém nó. Không
đắp điếm dấu vết của thời gian. Không tẩy nhăn. Không giấu cổ. Không làm khổ
vùng bụng: sau bao nhiêu năm hành động cho một trật tự khe khắt như Khổng tử
yêu cầu, nay vành đai phẩm giá đó ngả theo Lão tử, mỗi centimet một vô vi hơn.
Thường xuyên chiêm ngưỡng tôi chỉ là người trong gia đình. Con trai tôi tuyên bố
là hằng số tuổi giữa chàng và mẹ cũng đẹp như các hằng số toán học, không nếp
nhăn nào có thể làm chàng thay lòng. Chồng tôi không làm nghề bảo tàng để trân
quý cổ vật, song không sao cả, tôi chỉ là một hiện vật đương đại với lớp men thời
gian hoàn toàn tự nhiên. Lúc tứ tuần, tôi thấy bốn mươi là tuổi đẹp nhất. Ngũ
tuần, cuộc đời bất ngờ đẹp hơn. Bây giờ tôi khẳng định lục tuần mới thật hoàn hảo.
Nếu con virus vô tâm, vô tính, vô tình, vô hình này, kẻ
đi gieo mầm chết bất luận lý tưởng và lý lịch, khí hậu và biên cương, giai tầng
và chủng tộc, tín ngưỡng và thể chế, lội được qua bãi nhầy đầy hắc ín trong hai
buồng phổi của 40 năm tôi hút thuốc để lần lượt đánh chiếm các phần còn lại, từ
não đến ngón chân, tôi sẽ thừa nhận chiến thắng của nó. Không có gì hậm hực. Cũng
không có gì cam chịu nhẫn nhục. Chẳng có một triết luận, một thông điệp, một mệnh
lệnh siêu hình nào khi từng tế bào kiêu hãnh của tôi, con thú alpha, thủ lĩnh
loài linh trưởng, lần lượt thành vật chủ cho những phân tử hạ cấp ký sinh. Chẳng
qua là một động thái của tự nhiên. Nhìn từ một kích thước khổng lồ, con người
cũng không khác một loài virus, sau trái đất nó sẽ xâm nhập và tàn phá các bộ
phận khác của cơ thể vũ trụ, thuần túy theo bản năng sinh tồn.
Tức là tôi sẽ thọ hơn James Joyce 1 năm – loét tá
tràng, hơn Gustave Flaubert cũng 1 năm – xuất huyết não, hơn Charles Dickens 2
năm – đột quỵ, hơn Đỗ Phủ cũng 2 năm – hen suyễn, hơn Dante 4 năm – sốt rét, hơn
Emily Dickinson 6 năm – viêm cầu thận, hơn Nguyễn Du cũng 6 năm – dịch tả Canh
Thìn, hơn Shakespeare 8 năm
– thương hàn, hơn Marcel Proust 9 năm – viêm phổi, hơn Rilke cũng 9 năm – ung
thư máu, hơn Balzac cũng 9 năm – viêm phúc mạc, hơn Tản Đà 10 năm – viêm gan,
hơn Raymond Carver cũng 10 năm – ung thư phổi, hơn Roberto Bolaño cũng 10 năm – xơ gan, hơn Mikhail
Bulgakov 11 năm – hoang tưởng và cao huyết áp, hơn Nguyễn Bính 12 năm – thổ huyết,
hơn George Orwell 13 năm – lao, hơn Baudelaire 14 năm – giang mai, hơn Oscar
Wilde cũng 14 năm – viêm màng não,
hơn Schiller 15 năm – lao, hơn D. H. Lawrence 16 năm – lao, hơn Chekhov
cũng 16 năm – lao, hơn Đoàn Thị Điểm 17 năm – cảm cúm, hơn Gogol cũng 17 năm –
điên loạn, hơn Jane Austen 18 năm – suy tuyến thượng thận, hơn Maupassant cũng
18 năm – giang mai, hơn Kafka 19 năm – lao phổi, hơn Edgar Alan Poe 20 năm – rất
nhiều bệnh, hơn Charlotte Brontë
21 năm – yếm thực, hơn Hàn Mặc Tử 22 năm – cùi, hơn Apollinaire cũng 22 năm – cúm Tây Ban Nha, hơn Rimbaud 23 năm – ung thư, hơn Tú Xương cũng 23 năm – cảm lạnh, hơn
Lord Byron 24 năm – hạ thân nhiệt, hơn Alfred Jarry 26 năm – viêm màng não mủ, hơn
Emily Brontë 30 năm – viêm
phổi, hơn Thạch Lam 32 năm – lao, hơn Vũ Trọng Phụng 33 năm – lao, hơn George
Büchner 36 năm – thương hàn, và bằng đúng tuổi đời của người mà tôi vốn đinh
ninh từ khi sinh ra đã là một bậc cao niên đáng kính: cụ Ngô Tất Tố. Cụ
Dostoevsky
cũng qua đời lúc tròn sáu mươi – ung thư phổi.
Tức
là trong vòng sinh lão bệnh tử muôn thuở, với tôi số phận đã nói lời hào phóng,
song nó cũng nhắn rằng đời viết không tính bằng chiều dài. Thiên tài có hạn sử
dụng khắc nghiệt. Kiệt tác hiếm khi tuôn ra từ một ngòi bút quá lục tuần. Tay
nghề có thể điêu luyện hơn, tư duy già dặn hơn, cảm xúc chín chắn hơn và tầm
nhìn rộng hơn, nhưng không còn nữa sức bật bất ngờ, bất chấp, bất tuân, không
còn nữa tốc độ và cường độ sáng tạo cũng như sự nhẹ dạ của riêng tuổi trẻ. Mỗi
kinh nghiệm tích tụ là một tảng đá hãm phanh những khát khao bột phát. Năm
tháng chồng lên, những vách đá dựng nên. Quá sáu mươi, người ta cầm tù bản thân
trong nhà đá bình yên của kinh nghiệm. May lắm thì thành một củ gừng già. Cay
hơn, và hết nhựa.
Dĩ
nhiên có ngoại lệ. Borges là một ngoại lệ lớn. Và tất nhiên không thể tránh Goethe.
Như thể hàng loạt chuyên khảo về màu sắc, cây cỏ, sỏi đá, những công trình dịch
thuật và nghiên cứu ngôn ngữ, những nhật ký và tự truyện, những chuyến du hành
và sách du ký, những vụ phải lòng và cầu hôn các thiếu nữ đôi mươi chưa đủ
choán hết hai mươi năm cuối cuộc đời rất dài và viên mãn của mình, Goethe còn dư
vốn cho những áng thơ xuất sắc và nhân tiện thêm Faust II cho trọn vẹn.
Miguel de Cervantes hoàn thành Don Quijote II trước khi nhắm mắt ở tuổi
69. Đường cong tuổi tác được làm phẳng từ rất sớm ở Thomas Mann, Ivan Bunin, Philip
Roth hay cả Haruki Murakami, những tác giả của vài thập niên mà sự nghiệp từ đầu
đến cuối hầu như không thăng trầm. Song những tác giả của vài thế kỷ như Lev
Tolstoi, như Louis-Ferdinand Céline, ai còn nhớ trước tác cuối đời họ? Chiếc lò
rực lửa của Gabriel García Márquez lúc xế chiều chỉ còn vài thanh lẻ tẻ, nổ
lách tách vui vẻ, rồi cũng tàn. Ngay cả cuộc chơi văn phi thường của Nabokov,
mười lăm năm chót vẫn nguyên vẹn cực đoan, song đã bớt hẳn ngoạn mục.
Tức
là từ nay tôi thoát khỏi áp lực khủng khiếp nhất ở nghề viết: áp lực của đỉnh
cao. Nguy cơ ỷ lão mãi lão thì rất nhỏ, tôi thậm chí chẳng có một chương cuối
phản tỉnh để bán, như nhà văn ở những thời toàn trị độc đoán thường dày công xếp
đặt, lời cuối đắng chát hơn mức cần thiết cho những cuộc tình đã rất ngọt ngào.
Ngưỡng tiếp thế nào, tôi không vội biết, nhưng quyết không theo cái gì mà tòng
tâm sở dục nhi bất du củ. Đó là chữ nghĩa ru ngủ. Phần thưởng ảo tưởng sau
một đời gò vào khuôn phép và ham muốn theo ý thiên hạ. Với người viết, đó là ý
độc giả, giới phê bình, Ủy ban Nobel, những đồng tiền nhuận bút.
Trong
những ngày này, khi chiếc đồng hồ đếm xác có Covid tháp tùng mỗi phút lạnh lùng
cộng thêm dăm ba mạng, khi toàn nhân loại vừa chết vừa học cách sống với con
virus lạ lùng – learning by dying, khi trí tưởng tượng của tròn một hoa
giáp tuy thôi bay bổng nhưng cựa quậy trên mặt đất dữ dội hơn, tôi nhớ lời Lỗ Tấn
trước lúc ra đi ở tuổi 55 bởi bệnh lao và hen phế quản: “Hạ huyệt, chôn nhanh, không điếu văn tưởng niệm gì hết.
Ai quan tâm tới tôi thì tự chịu trách nhiệm, nhưng quay về mà lo cho đời mình thì
tốt hơn.” Ý nguyện cuối cùng của ông là con cái sau này nếu bất tài thì tìm việc
vừa tầm mà sống, chớ trở thành nhà văn hay nghệ sĩ xoàng.
Lục tuần, cả nỗi lo là một nhà văn xoàng cũng vơi mà cuộc chơi vẫn đầy. Sáu mươi quả thật hoàn hảo.
2020
(Tuần báo Trẻ, 09.07.2020)
May 8, 2020
Nhiều Tổ quốc vẫn thích hơn
Phạm Thị Hoài trả lời phỏng vấn của Trần Vũ
Trần Vũ: Từng sống dưới tầng
hầm của Viện Sử học Hà Nội nhiều năm tháng, Phạm Thị Hoài thời sinh viên đã đón
mùa Xuân dưới nền xi-măng lịch sử này ra sao? Có phải trong căn hầm này Phạm Thị
Hoài quan sát và thâu nạp chất liệu cho tiểu thuyết Marie Sến? Những mùa
Xuân tự do đầu tiên tại Bá Linh, khám phá Thomas Mann và tiểu thuyết Bác sĩ
Faustus, Phạm Thị Hoài tin như Thomas Mann từng viết: “Chúng tôi là một dân
tộc ưa chuộng định mệnh và mang linh hồn thảm khốc mãnh liệt.”? Thomas Mann khi
lưu vong tại Hoa Kỳ cũng từng trả lời Dr. Joseph Goebbels: “Tôi ở đâu, đó là nước
Đức. Tôi mang theo mình nền văn hóa Đức của tôi”… Còn Phạm Thị Hoài?
Phạm Thị Hoài: Các cơ quan
nghiên cứu khoa học xã hội ở Việt Nam thường là những thành trì tư tưởng bảo thủ.
Người ta có thể trú trọn cuộc đời công chức hàn lâm ở đó mà không hề trải qua một
biến động nào lớn hơn sự lần hồi lão hóa của chính mình. Tuy vậy, đối với tôi,
Viện Sử học thời gian ấy là một cơ quan hào phóng. Nó không đòi hỏi gì ở tôi
ngoài việc ngày nào cũng có mặt, còn lại thì gần như tuyệt đối tự do. Thủ trưởng
trực tiếp của tôi, ông Dương Trung Quốc, và Viện trưởng, ông Văn Tạo, cũng như
chuyên gia cao cấp, ông Hồng Phong, đều không hề phản đối việc tôi ăn biên chế
của Viện mà lại ngồi cả ngày ở đó để dịch truyện và viết văn chứ không đóng góp
gì vào công cuộc nghiên cứu lịch sử nước nhà. Có lẽ vì lịch sử nước nhà đã được
viết xong, đâu vào đấy cả rồi, để những người như tôi đụng vào không có lợi gì,
mà bản thân tôi cũng không có một tham vọng nào về hướng đó. Tôi còn được Viện
cấp giấy giới thiệu đi học một khóa Hán-Nôm. Giữa những năm tám mươi, học tiếng
Tàu là việc bị kiểm soát khắt khe, lớp tôi học gồm toàn các nhà sư và vài người
mà tôi nghe các vị nhà chùa rỉ tai là mật vụ. Rồi khi lâm vào cảnh vô gia cư,
tôi lại được cấp ngay chỗ ở tạm dưới tầng hầm. Đấy là một tòa biệt thự kiểu
Pháp, tầng hầm cũng kiên cố và khá khô ráo, ra vào thì phải lom khom chui qua một
khung vuông, mỗi bề chừng tám mươi phân, nhưng bên trong thì người nhỏ bé như
tôi có thể đứng thẳng, trần vẫn cách đầu vài phân. Dĩ nhiên là tôi chung sống với
tất cả những cư dân thường gặp ở tầng hầm; bây giờ nghĩ lại thì ghê, nhưng quả
thật khi đó tôi không thấy bất bình khi phải mời mấy bác chuột sang một góc xa
hơn, hay xua các em gián, các em thằn lằn đi chơi chỗ khác. Tuổi trẻ đúng là kì
diệu, mùa nào cũng là mùa Xuân, ngày nào mặt trời cũng ghé xuống cả nơi thấp nhất.
Marie Sến là một hommage cho thời gian ấy. Sống ngay tại trụ sở 38 Hàng Chuối của Viện,
tôi lại được cái thú là chiều tối thỉnh thoảng ngồi hàng nước góc phố Phạm Đình
Hổ xem ông Đỗ Mười mặc pyjama kẻ sọc
như quần áo tù ra trước cửa hóng mát và chuyện gẫu với lính gác, lời lẽ thô sơ
hơn cả mặt mũi, tăm ngậm miệng, tác phong rất là nhân dân.
Với
các tác phẩm của Thomas Mann, phải nói ngay là tôi không thấy gắn bó nhiều lắm.
Có thể vì ông ấy là một tác giả bắt buộc, là hiện thân của văn học Đức, như
Goethe, và cả hai đều theo đuổi chủ đề nghệ sĩ bán linh hồn cho quỷ, như thể nó
cũng là bắt buộc trong văn học Đức. Điều tuyệt đối giống nhau giữa văn chương
và tình yêu là cả hai dựa trên sự tự nguyện. Dĩ nhiên chẳng có tình yêu nào là
thuần túy, rất nhiều khi cái mà chúng ta tưởng là cảm xúc lãng mạn bay bổng của
trái tim thực chất lại là cảm giác sung sướng tột đỉnh trước kết quả mĩ mãn của
một phép tính đầy lí trí trên thị trường tình cảm. Nhưng cơ sở vẫn phải là sự lựa
chọn tự nguyện. Trong các tác giả của dòng họ văn chương Mann danh tiếng, tôi
chỉ tự nguyện đọc Klaus Mann, mà lại đọc đúng vào Mephisto, cũng một tác phẩm về nghệ sĩ bán linh hồn cho quỷ. Một vấn
đề nữa của Doktor Faustus là nó ôm rất
nhiều câu hỏi lớn của văn hóa, chính trị và lịch sử Đức tính đến khi Chiến
tranh Thế giới II kết thúc, vì thế bạn không cần tự đọc một dòng nào trong cuốn
tiểu thuyết rất dày, rất khó đọc trọn vẹn này, nhưng vẫn có thể có cảm giác đã
biết về nó. Nó được trích dẫn, phân tích, được nhắc đến trong vô số ngữ cảnh.
Tôi hoàn toàn không có thiên hướng về âm nhạc, nhưng vẫn cứ tự động biết đến những
suy tư, lập thuyết, thậm chí cả những chi tiết nhầm lẫn về âm nhạc rất thú vị
trong tác phẩm này. Nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết, một nhà soạn nhạc,
cuối cùng sẽ sáng tạo một tác phẩm âm nhạc 12 cung, trước khi mất trí. Cả
Arnold Schönberg, cha đẻ của lý thuyết âm nhạc này lẫn Theodor Adorno, tác giả
của chuyên luận Philosophie der neuen
Musik (Triết học của tân nhạc) bàn về hai trường phái sáng tác, Schönberg
và Strawinsky, mà Thomas Mann sẽ trích dẫn nguyên văn nhiều đoạn trong Doktor Faustus, cũng như ông, đều lưu
vong, là láng giềng của nhau, gặp gỡ nhau trong ngôi biệt thự khang trang của
Thomas Mann tại San Remo Drive, California,
do hai kiến trúc sư từ Berlin sang tị nạn thiết kết, theo phong cách Bauhaus.
Quan hệ phức tạp và đầy xung đột của bộ ba này là đề tài mầu mỡ cho cả truyền
thông lẫn giới nghiên cứu.
Chính
phần đời lưu vong này của Thomas Mann, người được coi là tiếng nói của nước Đức
dân chủ ở hải ngoại, khiến tôi quan tâm đặc biệt, nhất là cuộc tranh luận về
“lưu vong tại nội” (innere Emigration),
bùng lên ngay sau khi chính quyền Hitler sụp đổ. Một nhà báo Đức, Frank Thiess,
chỉ trích Thomas Mann rằng ông đã bỏ rơi đất nước và ngôn ngữ Đức để ung dung
tranh đấu từ chốn lưu vong sang trọng đầy ánh nắng bên bờ Thái Bình Dương, ông
chẳng biết gì về thực trạng nước Đức dưới chế độ Quốc xã và chẳng đóng góp được
điều gì, trong khi chính các nhà văn, nghệ sĩ, trí thức tuy đối lập với chế độ
nhưng vẫn bám trụ ở trong nước để thầm lặng tác động và tìm cách thay đổi chế độ,
những người “lưu vong tại nội” ấy, lưu vong trên chính quê hương mình hay lưu
vong trong tâm tưởng, đối lập với “lưu vong xuất ngoại” (äußere Emigration), mới thực sự là những nhân tố mà một nước Đức mới
đang cần. Về phần mình, Thomas Mann nổi giận với những người tự mệnh danh là
“lưu vong tại nội” đó, gọi họ là “những kẻ rúc xó lò sưởi của bất hạnh” (Ofenhocker des Unglückes). Nếu quả có một
trường phái “lưu vong tại nội” thì đại diện của nó khá thưa thớt và ảnh hưởng của
nó còn ít hơn cả thầm lặng. Cuối cùng Thomas Mann đã quyết định không trở về
quê hương, mà chọn Zürich, Thụy Sĩ, cho phần đời còn lại. Ông phải ghi nhận là
nước Đức đã trở nên lạ lẫm với mình.
Dù có
một số tương đồng, nhưng hoàn cảnh hiện tại của các nhà văn viết tiếng Việt tại
hải ngoại khác với các nhà văn Đức lưu vong hơn ba phần tư thế kỉ trước. Chúng
ta đang sống trong một thế giới mà những khái niệm “quê hương”, “đất nước” đã
thay đổi cả về nghĩa và ý nghĩa. Cá nhân tôi thấy dễ sống hơn khi không bị ràng
buộc vào một quê hương nào. Nếu phải có Tổ quốc, tôi thích được nhiều Tổ quốc
hơn duy nhất chỉ có một. Và chừng nào còn viết tiếng Việt, hiển nhiên là tôi
mang theo mình một phần nền văn hóa Việt. Nền văn hóa Việt của tôi, vì đó là tiếng
Việt của tôi, kết quả của sự cọ xát thường trực với ngôn ngữ thứ hai mà tôi làm
chủ, tiếng Đức.
(Báo
Trẻ, Xuân Ất Mùi 2015)
April 29, 2020
Những nỗi đau riêng vẫn còn nguyên
Phạm Thị Hoài trả lời phỏng vấn của Diễn đàn Thế kỷ
Diễn đàn Thế kỷ: Sau
biến cố 30 tháng Tư 1975, dần dà chị có dịp
tiếp xúc với đời sống miền Nam. Xin chị cho biết cảm tưởng chung của mình
về đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng trên mảnh đất trước kia gọi là
Việt Nam Cộng hòa.
Phạm Thị Hoài: Tôi
thuộc thế hệ lớn lên trong “chân lý không bao giờ thay đổi” rằng
“nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, chỉ có Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội và Chủ tịch Hồ Chí Minh là quốc gia hợp pháp duy
nhất trên toàn bộ mảnh đất hình chữ S. Chính quyền Sài Gòn là bù nhìn. Rất lâu
sau này tôi mới nghe danh xưng Việt Nam Cộng hòa.
Lần đầu tiên tôi đến Sài Gòn là năm 1984, đi phiên dịch
cho một đoàn khách Đông Đức sang dự hội thảo khoa học. Điều duy nhất của miền
Nam mà tôi còn nhớ là khi xe dừng trước khách sạn Bến Thành, một bác vận giày
da và đồng phục rất đẹp tiến tới mở cửa xe. Tôi chui ra, ríu rít “Cảm ơn
bác ạ”, nhưng chưng hửng trước một gương mặt đóng băng. Tôi tiện tay đóng
cửa xe sau lưng. Lớp băng trên gương mặt ấy thoáng rạn thành hai vệt lông mày
nhíu lại, nhưng cặp môi vẫn lịch sự nói “Xin bà nhẹ tay”, rồi lông
mày lại giãn ra, lớp băng lại đóng kín. Chiếc xe êm ru ấy không cần tôi dùng hết
sức lực của một cơ thể chưa đầy 40 ký để đóng cửa. Ngoài Bắc, cửa xe như tôi biết
khi ấy thường cần thêm một cú đạp. Ngoài Bắc, gác cổng cơ quan nào cũng có thể
vênh mặt rất chân đất hách dịch, nhưng không băng giá lịch thiệp. Ngoài Bắc, người
đáng tuổi cha chú không gọi một cô gái là bà.
Lần tiếp theo là năm 1989, môi trường tôi tiếp xúc là giới
báo chí và xuất bản, toàn bộ nằm trong tay một đội ngũ cán bộ hoặc từ miền Bắc
vào, trong đó có nhiều người miền Nam tập kết ra Bắc rồi lại từ Bắc phái vào
Nam, hoặc là người miền Nam có lý lịch và thành tích cách mạng, phần lớn từng
là những gương mặt nổi bật của phong trào đô thị. Những người được coi là cấp
tiến trong số đó, dù cởi mở thế nào vẫn là những cán bộ cộng sản tiếp quản một
thành phố đã Bắc hóa về nền tảng. Sài Gòn khi đó khấm khá hơn, sôi động trẻ
trung hơn Hà Nội, song phần lớn di sản của Việt Nam Cộng hòa thì đã di tản, đã
thành tro bụi, hoặc đã tàn lụi trong các trại cải tạo. Trầm tích còn lại thì ẩn
sâu. Tôi chỉ thực sự tiếp cận một phần di sản ấy sau này, từ khi định cư ở Đức.
Diễn đàn Thế kỷ: Xin
chị cho biết đánh giá của chị về di sản ấy.
Phạm Thị Hoài: Bản thân người trong cuộc, tức các thế hệ từng sống trong những thể chế
khác nhau của Việt Nam Cộng hòa và con cháu họ, cho đến nay vẫn tiếp tục tranh
cãi, thường là rất gay gắt, đầy nghi kị thù hận, đến mức thóa mạ, nguyền rủa,
thậm chí như sẵn sàng làm thịt nhau về cái di sản ấy. Điều đó dễ hiểu. Định mệnh
của Việt Nam Cộng hòa gắn liền với Chiến tranh Việt Nam, một chương sử đau
thương vô hạn và cũng chia rẽ vô hạn của người Việt. Trong khi miền Bắc cùng thời
là một khối duy nhất, đúc bằng ý chí sắt thép máu lửa của chủ nghĩa cộng sản thời
chiến, không có gì để và có thể bàn cãi, thì miền Nam, ở mọi thời điểm của cuộc
chiến, là một tổng thể phức tạp của nhiều phân mảnh đối kháng nhau mạnh mẽ.
Cả hệ thống quốc gia chống cộng lẫn Việt cộng và những
người được coi là “thành phần thứ ba” cũng như khối dân chúng chao đảo
giằng xé giữa các bên đều thuộc về miền Nam ấy. Cả ấp chiến lược lẫn vùng giải
phóng cũng như cả Tổng thống Ngô Đình Diệm lẫn Hòa thượng Thích Quảng Đức; cả
thảm sát ở Huế lẫn thảm sát ở Mỹ Lai; cả Nguyễn Văn Trỗi đặt mìn lẫn Phạm Phú
Quốc và Nguyễn Văn Cử ném bom; cả tà áo dài tân thời của Đệ nhất Phu nhân Trần
Lệ Xuân lẫn tấm áo bà ba của Phó Tư lệnh Mặt trận Nguyễn Thị Định; cả tướng
Nguyễn Ngọc Loan lẫn đại úy biệt động Nguyễn Văn Lém; cả tướng Nguyễn Cao Kỳ,
tướng Nguyễn Khoa Nam lẫn tướng Dương Văn Minh, tướng Phạm Xuân Ẩn; cả linh mục
Cao Văn Luận lẫn linh mục Chân Tín; cả luật gia Nguyễn Văn Bông lẫn luật sư
Nguyễn Hữu Thọ; cả thầy Tuệ Sỹ, thiền sư Lê Mạnh Thát lẫn Phật giáo Hòa Hảo, thiền
sư Thích Nhất Hạnh; cả nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam lẫn nhà hoạt động Trương
Như Tảng; cả nhân sĩ Hồ Hữu Tường lẫn nhân sĩ Lý Chánh Trung; cả học giả Nguyễn
Hiến Lê lẫn nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng; cả triết gia Phạm Công Thiện lẫn giáo
sư triết Nguyễn Văn Trung; cả nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lẫn nhạc sĩ Lưu Hữu Phước;
cả thi sĩ Bùi Giáng lẫn nhà thơ Lê Anh Xuân; cả nhà văn Mai Thảo lẫn cây bút Vũ
Hạnh; và cả triệu người từ miền Bắc di cư vào Nam năm 1954 lẫn triệu người từ
miền Nam di tản năm 1975…
Tất cả những nhân vật, sự kiện, hiện tượng, khuynh hướng
ấy đều thuộc về di sản của Việt Nam Cộng hòa, và chỉ riêng điều đó đã là một
thành tựu vô tiền khoáng hậu. Không một quốc gia nào trên lãnh thổ Việt Nam từng
trải qua một lịch sử đa tầng và nén chặt như vậy. Hai mươi năm là một khoảnh khắc
rất ngắn trong lịch sử, chỉ đủ cho người Việt ngủ rồi thức dậy vẫn trong giường
chiếu cũ, vươn vai hít thở không khí cũ, khề khà xỏ chân dép cũ, ra hiên cũ ngắm
mây cũ đọng vuông trời cũ. Phần lớn là như thế suốt mấy ngàn năm. Nhưng hai thập
niên Việt Nam Cộng hòa là một chuyến tốc hành lao vào những xung đột trung tâm
của một thế giới luôn kề cận một cuộc đại chiến mới. Không phải miền Bắc tuyệt
đối một lòng và vì thế phiến diện, mà miền Nam đa diện bỗng trở thành đấu trường
nóng bỏng của những lý tưởng và trào lưu thời đại nổi bật. Lần đầu tiên, và cho
đến nay là lần duy nhất, người Việt có mặt ở đỉnh cao của tinh thần thời đại,
dù đó là một thời đại kinh hoàng. Là người ngoài cuộc, tôi có thể dễ dàng chọn
cách nhìn nhận gia tài “hai mươi năm nội chiến từng ngày” của miền
Nam từ tổng thể ấy. Song với người trong cuộc thì khó hơn nhiều, họ phải sống với
những sự thực khác nhau mà những nỗi đau riêng vẫn còn nguyên. 45 năm không ngắn
nhưng chưa đủ dài.
Diễn đàn Thế kỷ: Chị đã biết hiện tượng đốt sách và việc bắt giam một số khá lớn các
nhà văn nhà báo miền Nam của phe thắng trận. Chị đánh giá việc này ra sao?
Phạm Thị Hoài: Đó là cách hành xử của nhiều chính quyền độc tài, không riêng gì cộng
sản. Thời Minh thuộc, sách vở văn tự An Nam bị đốt sạch phá sạch để dọn đường
cho văn minh Bắc triều. Hà Nội cũng làm thế với miền Bắc sau 1954 để dọn đường
cho văn minh cộng sản: sách vở báo chí tiền chiến bị bài trừ; bia đình chùa miếu
mạo biến thành đá lót; nông dân đốt sổ sách văn tự trong Cải cách Ruộng đất; và
Hà Nội tiếp tục chính sách thay máu tàn khốc nhưng hiệu quả này với miền Nam
sau 1975. Miền Nam không phải là ngoại lệ, mà chỉ đi sau cả nước trong công cuộc
thay máu đó. Nhiều cây bút miền Bắc thậm chí còn chịu số phận cay đắng hơn. Chế
độ chính trị hiện hành đã vượt qua hai cuộc chiến tranh nóng và kỷ nguyên Chiến
tranh Lạnh với sự sụp đổ của hệ thống; đã trải qua nhiều hình thái, từ giáo điều
đến cải cách, từ khép kín đến mở cửa, từ cộng sản chiến khu đến cộng sản bao cấp,
từ cộng sản ảo mộng đến cộng sản vỡ mộng, từ cộng sản trong tim đến cộng sản
ngoài da, từ cộng sản cần lao đến cộng sản đại gia, từ cộng sản đào mồ chôn tư
bản dân tộc đến cộng sản ôm chân tư bản toàn cầu. Chế độ ấy vững tin ở sự bất
diệt của bản thân, như thể nó sẽ trụ lại ngay cả khi dân tộc này qua đi. Nhưng
lịch sử không có điểm dừng cuối cùng. Một hay nhiều vụ thay máu văn hóa khác,
cũng sẽ dã man và ngu xuẩn không kém, không phải là không thể diễn ra nữa trên
mảnh đất Việt Nam. Chúng ta luôn nhắc nhở rất hoa mỹ về những bài học của lịch
sử, nhưng con người nói chung chỉ lắng nghe quá khứ khi đã muộn.
Diễn đàn Thế kỷ: Sau này chị đã làm công việc sưu tầm và số hóa các tác
phẩm văn học của miền Nam và đưa lên Website có tên talawas để mọi người có thể tiếp cận. Chị có thể cho biết động
lực, cách thức và thời gian để chị thực hiện việc này?
Phạm Thị Hoài: Một trong các trọng tâm của talawas là đối thoại đa chiều, song điều
đó là bất khả nếu cơ hội cho các bên không bình đẳng. Tôi rất ngạc nhiên vì cộng
đồng hải ngoại của “Việt Nam Cộng hòa nối dài” khi ấy chưa hề có một
thư viện online cho sách báo miền Nam trước 1975, mặc dù có thẩm quyền và nhiều
nguồn lực nhất để làm việc đó. Vậy thì chúng tôi, toàn những người xuất xứ từ
“bên thắng cuộc”, phải bắt tay vào mà làm thôi, không có gì phải dài
dòng cân nhắc. Chúng tôi giao cho một số cộng tác viên ở trong nước tìm và chọn
tác phẩm, cho đánh máy và sửa bản thảo cũng ở trong nước rồi gửi bản điện tử đến
tòa soạn. Khá thủ công, tốn kém và vất vả, nhưng khi đó tốc độ internet cũng
như các công cụ hỗ trợ cho phép những giải pháp kỹ thuật khác chưa phát triển như
hiện nay.
Diễn đàn Thế kỷ: Nhiều thế hệ Việt Nam trong và ngoài nước nhờ talawas
mà đã tìm đọc, thưởng thức và nghiên cứu lại cả một nền văn học có cơ bị xóa bỏ
hẳn bởi phe thắng trận. Thế nhưng, công việc đẹp đẽ này bỗng dưng phải
ngừng lại. Chị có thể cho biết lý do?
Phạm Thị Hoài: “Sách xuất bản tại miền Nam trước 1975“chỉ là một trong nhiều nội dung
của talawas. Chúng tôi hoạt động ở giai đoạn bước đệm, khi internet vừa mở ra
cơ hội cho một môi trường truyền thông độc lập của người Việt, song trước thời
điểm mạng xã hội bùng nổ. Chúng tôi quyết định dừng lại khi nhận thấy talawas
đã đi hết giới hạn cuối cùng khả dĩ ở quy mô và chất lượng mà nó đã đạt được.
Mô hình làm việc tự nguyện, tay trái, ngoài giờ, không lương, của ban biên tập và
sự đóng góp bài vở cũng tự nguyện, không thù lao, của các tác giả, tuy đẹp và
thậm chí lãng mạn nhưng rốt cuộc chỉ là giải pháp tạm thời của tình huống bất đắc
dĩ. Nếu hình dung trước là sự tạm thời đó kéo dài đến 9 năm, có lẽ tôi đã không
đủ can đảm để bắt đầu.
Một mô hình chuyên nghiệp, với một tòa soạn chuyên
nghiệp và một đội ngũ cộng tác viên chuyên nghiệp đòi hỏi một nguồn tài chính
và nhân lực lâu dài, ổn định. Chúng tôi không thể có điều đó, dù được cảm tình
của một lượng độc giả khá đông đảo. Ngoài ra, cuối thập niên 2000 các blog cá
nhân trên nền tảng Yahoo, rồi WordPress, Google nở rộ và không lâu sau đó, đầu
thập niên 2010, mạng xã hội Việt Nam hình thành và bùng nổ với Facebook. Nếu tiếp
tục với mô hình cũ, talawas sẽ chỉ là cái bóng lay lắt của chính nó cho đến khi
tắt hẳn. Chúng tôi muốn tiết kiệm cho mình và độc giả cái kết cục đó. Một mạng
lưới truyền thông độc lập, có uy tín, chất lượng và độ lan tỏa lớn; có khả năng
xây dựng một công luận tự do và có trách nhiệm; có thể thực sự làm đối trọng với
truyền thông “lề phải” do chính quyền Việt Nam quản lý; hình thành từ
ý chí và nguồn lực của chính cộng đồng Việt chứ không phải là một chi nhánh của
những hãng truyền thông nước ngoài như BBC, RFA, VOA, RFI… cho đến nay vẫn chỉ
là một trong những ước mơ miễn phí của chúng ta, còn thực tế thì chúng ta phó
thác hết cho vị cứu tinh đáng ngờ là Facebook.
Tôi không phủ nhận vai trò khai phóng của Facebook đối
với những xã hội chuyên chế như Việt Nam, song nó là con dao hai lưỡi, có thể
thúc đẩy nhưng cũng có thể đe dọa hay đầu độc tiến trình dân chủ và văn minh
hóa một quốc gia độc tài chậm tiến. Mọi con vật đều bình đẳng trên mạng xã hội,
song sự phát triển ở Nga, Trung Quốc và các nước độc tài Trung Đông cho thấy một
số con vật rõ ràng bình đẳng hơn những con khác. Tự do trên Facebook được định
nghĩa bởi chính Facebook và nhà cầm quyền. Hai thế lực này, dù khác biệt đến
đâu và sau một thời gian dè chừng lẫn nhau, cuối cùng sẽ phải câu kết để duy
trì lợi nhuận cho bên này và quyền lực cho bên kia hay thậm chí cả hai lợi ích gộp
lại cho đôi bên; vụ Facebook chấp nhận kiểm duyệt ở Việt Nam mới đây chỉ là một trong chuỗi những mở đầu mà chúng
ta ghi nhận để rồi bỏ qua như chưa hề xảy ra. Chúng ta là những con ếch trong bình
nước đang nóng dần. Khi chính quyền học được cách sử dụng và chế ngự mạng xã hội
cho chính sách tuyên truyền của mình – trấn áp, lung lạc, chia rẽ, mị dân – thì
tiếng nói riêng lẻ của các nhà báo công dân sẽ chỉ còn hồi thanh trong những
phòng cách âm rải rác trên không gian ảo. Mạng xã hội lại hình thành trong bối
cảnh người Việt tuy bập rất nhanh vào công nghệ hiện đại, ào ào lướt mạng,
thoăn thoắt bấm phím, hội chứng Facebook thành chứng chỉ chất lượng sống, nhưng
phần lớn đều kém cả kiến thức lẫn nhận thức về môi trường mới này, vì vậy vừa dễ
làm mồi ngon cho tin giả, đủ thứ trào lưu mù quáng và những cạm bẫy đổi đời – lấy
đời ảo thay đời thực, vừa hăng hái kết nối lan tỏa những căn bệnh khủng khiếp của
mạng xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà năm nay Việt Nam lọt top 5 cộng đồng mạng kém văn minh nhất theo đánh giá của Microsoft. Thú thật, tôi thấy may mắn
cho talawas là đã đình bản đêm trước, khi sáng hôm sau Facebook tiến vào và chiếm
lĩnh không khói súng cả trái tim, khối óc lẫn tâm hồn người Việt.
Diễn đàn Thế kỷ: Theo chị, gia tài văn hóa nghệ thuật 20 năm đó của miền
Nam có đóng vai trò gì trong lịch sử tinh thần của dân tộc Việt Nam?
Phạm Thị Hoài: 451 độ F là câu chuyện nổi tiếng nhất về đốt sách, xóa sạch dấu
vết của tư tưởng và nghệ thuật, những thứ nguy hiểm hoặc vô dụng đối với một xã
hội không cần động não vì tất cả đã có chính quyền lo hết, dân chúng chỉ việc
sinh sống và xem TV. Trớ trêu là tác phẩm này chính thức được xuất bản bằng tiếng
Việt từ mấy năm trước, không hề bị truy bức như trường hợp Chuyện ở nông trại
(Animal Farm), song rơi tõm vào sự thờ ơ của độc giả Việt Nam, tức cũng ít nhiều
chung số phận của những cuốn sách bị đốt mà nó miêu tả. Tác giả Ray Bradbury lập
ngôn bằng viễn kiến, nhưng chắc chắn không tính đến viễn cảnh về ngày mình bị
ra rìa trong một xã hội như Việt Nam hiện tại, không phải vì bị ngăn cấm mà đơn
giản bị đào thải. Bây giờ chính quyền có thể vững tin rằng dân chúng chẳng buồn
quan tâm đến những thứ rách việc và vô bổ như văn chương nghệ thuật, kiểm duyệt
làm gì cho mệt mà có thể còn gây hiệu ứng ngược. Tôi e rằng, ngay cả hiệu ứng
ngược cũng đã tắt ngóm. Những năm gần đây, một số tác phẩm của các tác giả miền
Nam trước 1975 đã được xuất bản trở lại, song trong môi trường văn hóa hiện tại,
với cuốn sách vĩ đại duy nhất là Facebook của 60 triệu tác giả đồng độc giả tiếng
Việt, mọi thành tựu văn học bất kể miền Bắc, miền Nam hay thế giới đều vô
nghĩa. Dĩ nhiên đó là trên bề mặt rộng. Ở sâu bên dưới, các chuyển động tinh thần
như nước ngầm, thấm vào những tầng và tụ về những phương mà mắt thường không xuyên
tới. Trong văn giới, trước hết ở các tác giả ngoài luồng, hai mươi năm văn học
miền Nam ít nhất đã để lại cảm hứng tự do và những phong cách đa dạng. Đời sau
sẽ khai quật những báu vật ấy để bảo tàng hay chỉ bận đi tìm những mỏ vàng; lịch
sử tinh thần của dân tộc này sẽ thăng trầm hay sẽ phẳng lì; và chúng ta sẽ làm
gì với gia tài văn hóa của mình, tôi hoàn toàn không biết. Nhưng tôi dự cảm, rằng
với công cuộc phây hóa ngày càng thắng lợi như hiện nay, người Việt sẽ
quẳng mọi gánh nặng văn học nghệ thuật đi để vui sống.
Diễn đàn Thế kỷ: Xin cảm ơn chị về cuộc trò chuyện này.
Nguồn: Diễn đàn Thế kỷ, 29.04.2020
February 20, 2020
Trương Thiên Phàm – Cộng hòa Liên bang Trung Hoa rồi sẽ đến
Người thực hiện: Maximilian
Steinbeis
Người dịch: Phạm Thị
Hoài
Học giả Trương
Thiên Phàm (Zhang Qianfan, 张千帆), giáo sư luật của Đại học Bắc
Kinh, giám đốc Hội Luật Hiến pháp thuộc Hội Pháp học Trung Quốc, là chuyên gia
hàng đầu về luật hiến pháp và hành chính. Ông cũng nổi tiếng là người thường xuyên
và công khai bảo vệ các quyền hiến định của công dân Trung Quốc. Gần đây nhất, khi bác sĩ
Lí Văn Lượng qua đời vì nhiễm virus Covid-19, ông đã đồng ký tên trong Thư ngỏ gửi
Quốc hội và Ủy ban Thường vụ yêu cầu thực thi tự do ngôn luận theo điều
35 Hiến pháp Trung Quốc. Đầu năm 2019, trong chiến dịch thanh lọc ảnh hưởng của
các tư tưởng dân chủ, nhân quyền, pháp quyền và lập hiến phương Tây khỏi các trường
đại học Trung Quốc do Tập Cận Bình phát động, cuốn giáo trình Luật Hiến pháp do ông
chủ biên bị
rút khỏi mọi hiệu sách toàn quốc.
Phỏng vấn sau đây do nhà báo, người sáng lập và chủ biên Blog Hiến pháp, Maximilian Steinbeis
thực hiện, đăng trong tạp chí trực tuyến Nhân vật và Ý tưởng của Học viện Khoa
học Berlin. Bản dịch được sự đồng ý của Học viện Khoa học Berlin.
Người dịch

Maximilian Steinbeis: Thưa giáo sư Trương, ông
đến Học viện Khoa học để nghiên cứu cách hoạt động của mô hình liên bang tại
Đức, trước đây ông cũng từng sang Hoa Kỳ nghiên cứu đề tài này. Trung Quốc có
trên 2000 năm kinh nghiệm cai quản một lãnh thổ khổng lồ với hàng trăm triệu cư
dân từ một trung tâm quyền lực duy nhất. Vì sao sau một thời gian dài như vậy,
mô hình liên bang lại thú vị đối với Trung Quốc?
Trương Thiên Phàm: Tôi chỉ có thể nói
rằng mô hình liên bang được một số trí thức Trung Quốc quan tâm nghiêm túc,
trong khi chính quyền thì chưa bao giờ chấp nhận. Nhưng một lúc nào đó trong
tương lai, rồi Trung Quốc sẽ ra một hiến pháp liên bang và áp dụng thể chế liên
bang, vì hệ thống hiện nay không thể hoạt động. Vì vậy, kinh nghiệm của Đức với
thể chế liên bang rất quan trọng với Trung Quốc.
Chính quyền Trung Quốc
lúc nào cũng có vấn đề, nhưng trong những năm gần đây thì ngày càng nhiều, do các
chuyển đổi kinh tế và xã hội thời đại này. Tần Thủy Hoàng, vị hoàng đế đầu tiên
thống nhất Trung Quốc vào khoảng năm 220 TCN, chấm dứt thời Chiến quốc trường
kỳ và tàn bạo, đã áp dụng một mô hình tập quyền rất đơn giản mà thực ra cho đến
nay vẫn tiếp tục tồn tại. Thời đó Trung Quốc đã là một đất nước khổng lồ, tuy
dân số ít hơn nhiều. Mô hình cai trị đó hết sức tập quyền, nhưng không thật
hiệu quả vì những giới hạn vật chất. “Thiên cao, hoàng đế viễn”, như
thành ngữ của chúng tôi đã nói, tức địa phương có đủ sân chơi để tự tung tự
tác. Nếu mọi chuyện ổn thỏa thì giới chức địa phương cứ việc bình chân, nhưng
khi có sự cố và chính quyền trung ương phải để mắt đến thì họ bị trừng phạt.
Kết quả là ở bên dưới, chúng tôi tương đối có đa dạng, nhưng chẳng qua chỉ vì
trung ương không đủ sức với tay tới từng vụ việc cụ thể ở địa phương mà thôi.
Maximilian Steinbeis: Có nghĩa là ngoài
trung tâm quyền lực, chưa bao giờ có một cơ cấu thẩm quyền khác được hợp thức
hóa?
Trương Thiên Phàm: Cách trở trong
giao thông và truyền thông đã cho phép một không gian đa dạng nhất định và một
tinh thần đa nguyên nào đó tồn tại ở tầng dưới, nhưng điều đó chưa bao giờ được
định chế hóa – cho đến nay cũng vậy, vì cơ cấu định chế của chúng tôi về cơ bản
hầu như không thay đổi suốt bao nhiêu thế kỷ. Chúng tôi vẫn giữ một chính quyền
trung ương có quyền ra luật vô giới hạn. Trung ương ra một chỉ thị và cả nước
phải thống nhất chấp hành, bất kể có phù hợp hay không. Ở Trung Quốc, chúng tôi
gọi đó là “nhất đao thiết”, một con dao thái mọi thứ, to nhỏ lớn bé
gì thì chúng tôi cũng thái hết thành cùng một kích cỡ. Thí dụ: Ô nhiễm môi
trường ở Trung Quốc rất trầm trọng, vì thế chính phủ quyết định không cho dùng
than sưởi mùa đông nữa. Hệ thống cung cấp than bị đình chỉ, thay bằng khí đốt.
Nhưng ở nhiều nơi, các biện pháp cho mùa đông chưa hề được tiến hành. Chính
quyền trung ương không biết nơi nào có khả năng thi hành, nơi nào không. Chính
quyền địa phương thì có thể biết, nhưng việc duy nhất mà họ có thể làm trong một
nhà nước tập quyền đơn nhất là chấp hành chỉ thị từ trung ương.
Maximilian Steinbeis: Nhưng đó thậm chí chưa phải
là câu chuyện về quyền tự quản và sự khác biệt giữa các địa phương. Không bị
chết cóng trong mùa đông là một nhu cầu phổ quát. Vì sao chính quyền trung ương
không cho phép địa phương linh động để đáp ứng nhu cầu đó?
Trương Thiên Phàm: Không phải là trong thực
tế không có điều kiện để linh động. Điều kiện thì có thừa, và quả thực vấn đề
chính là ở chỗ đó. Giới chức địa phương vi phạm luật pháp và nhân quyền rất
nhiều. Tham nhũng rõ ràng là một vấn nạn hết sức phổ biến và thường là ở địa phương,
trong khi chính quyền trung ương nhiều khi không có đủ cả thông tin lẫn nhân sự
và quyết tâm diệt tham nhũng. Về nguyên tắc, trung ương đưa ra mọi quyết định
chính trị quan trọng và địa phương phải thi hành. Nhưng khi chính sách đi ngược
lợi ích riêng của địa phương thì địa phương thừa khả năng ngăn cản. Ngay cả những
chính sách của nhà nước có lợi cho dân chúng cũng không được thi hành, chừng
nào chưa có áp lực từ bên dưới. Thí dụ, cứu trợ từ trung ương cho những vùng
gặp tai họa. Nhưng mọi quan chức liên quan đều xà xẻo, mỗi người “vặt một
cái lông con chim”, nên khi đến được tay người cần nhận thì khoản cứu trợ
chẳng còn là bao.
Maximilian Steinbeis: Không có cách nào tạo áp
lực từ bên dưới? Người dân không khiếu nại hay sao?
Trương Thiên Phàm: Có chứ, nhưng vi phạm quá nhiều,
khiến chính quyền trung ương thật sự không còn biết phải bắt đầu từ đâu. Từ cổ
xưa đến nay chúng tôi đã áp dụng một hệ thống thỉnh cầu. Ai muốn khiếu nại về
một việc gì oan ức do một quan chức địa phương gây ra thì thỉnh cầu lên cấp
trên. Nhưng cấp trên lại là người đã bổ nhiệm chính thuộc hạ trung thành đang
bị khiếu nại – vậy là ông ta sẽ miễn cưỡng, sẽ đùn đẩy sự vụ, vì giải quyết thì
khác nào chỉ ra rằng ông ta đã mắc lỗi vì bổ nhiệm nhầm cán bộ. Vậy là người
khiếu nại phải thỉnh cầu lên cấp trên của cấp trên, nhưng cái lô-gic vừa nói
vẫn còn nguyên, thế là lại leo thêm một nấc cấp trên nữa, cứ thế mãi, đến tận
trên cùng khi lên đến Bắc Kinh. Chính quyền trung ương rất bối rối, vì tất cả
những người dân oan đó đều kéo nhau lên thủ đô. Họ xếp hàng vài cây số trước
cửa Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương mà thực tình không có bất kỳ cơ hội nào
để được giải quyết. Từ quê nhà lên được đến đó, họ phải qua bao nhiêu gian nan
khổ ải và bị đối xử tàn tệ, đôi khi kinh khủng hơn bản thân cái vụ việc mà vì
nó họ phải đi thỉnh cầu. Cuối cùng đều công cốc. Phí biết bao tiền bạc, thời
gian, năng lượng. Tôi thấy nhiều người theo đuổi thỉnh cầu 20 năm, 30 năm ròng
rã, tiêu tan cả cuộc đời. Nhưng nhiều người vẫn tiếp tục bám vào đó. Có thể gọi
đó là văn hóa thỉnh cầu của chúng tôi. Họ còn biết làm gì khác trong một hệ
thống như thế?
Maximilian Steinbeis: Vậy hệ thống tư
pháp thì sao? Ở nước Đức cái-gì-cũng-phải-theo-luật này, chúng tôi rất tin
tưởng rằng quan chức phạm luật ắt bị các thẩm phán buộc phải chịu trách nhiệm.
Trương Thiên Phàm: Đây cũng vẫn là
vấn đề trung ương/ địa phương. Chúng tôi có một tòa án nhân dân tối cao cho
toàn quốc. Tòa án đó không thể giám sát mọi quyết định của các tòa án địa
phương. Và các thẩm phán địa phương thì lại phụ thuộc vào giới chức địa phương.
Theo hiến pháp xã hội chủ nghĩa thì tòa án chịu sự “giám sát dân
chủ”, tức Đại hội Đại biểu Nhân dân địa phương giám sát bộ máy tư pháp địa
phương. Trong thực tế, tất nhiên Đảng quyết định tất cả, Đại hội Đại biểu Nhân
dân chỉ tán thành thông qua. Các chính quyền địa phương quyết định về nhân sự
lãnh đạo tòa án cũng như cấp kinh phí và nguồn lực cho tòa án. Nếu bị tòa xử
thua trong một vụ kiện, chính quyền địa phương có nhiều phương tiện để chống
lại. Từ đó dẫn đến tình trạng tòa án thiếu độc lập, địa phương thì tha hồ bảo
hộ vây cánh và tư pháp thì thông đồng với tham nhũng. Đây quả thực là lĩnh vực
cần tăng cường tập quyền. Dân chúng chấp nhận nhiều khổ ải như vậy để lên Bắc
Kinh thỉnh cầu, một phần cũng vì họ không thể tin rằng quyền lợi của họ được
tòa án bảo vệ.
Maximilian Steinbeis: Định hướng tập
quyền hay phân quyền đòi hỏi những tiêu chí để phân biệt cấp thẩm quyền nào
chịu trách nhiệm ra những quyết định nào, đó là những tiêu chí được quy định
trong hiến pháp. Nhưng tôi tự hỏi, một hiến pháp theo chế độ liên bang hay
không liên bang thì có gì khác nhau, nếu mọi chuyện đều phụ thuộc vào một đảng
chính trị có địa vị vững chắc, độc quyền sở hữu quyền lực và có một hệ thống tổ
chức chặt chẽ.
Trương Thiên Phàm: Ông nói đúng. Luật
pháp ở Trung Quốc tuyệt đối là thứ yếu, nhất là luật hiến pháp. Muốn giải quyết
vấn đề luật và luật hiến pháp thì trước hết phải giải quyết vấn đề chính trị.
Tất cả những vấn đề đó đều có thể quy về một chỗ, là thiếu những cải cách chính
trị dân chủ. Nếu người dân được quyền bầu giới chức ở địa phương thì họ nắm
phương tiện buộc giới chức đó phải chịu trách nhiệm. Tuy chúng tôi có bầu cử
định kỳ năm năm, nhưng vô nghĩa vì bị thao túng. Số phận của các quan chức
không phụ thuộc vào kết quả bầu cử, mà do cấp trên quyết định. Không có bầu cử
thực chất thì các quan chức cũng không có bổn phận gì với cử tri, mà chỉ có bổn
phận với cấp trên. Trong một hệ thống như vậy, quan hệ thực sự giữa trung ương
và địa phương cũng không có. Toàn bộ, chỉ có quan hệ cá nhân giữa quan trên và
thuộc hạ. Phải thay đổi điều đó trước khi quan hệ trung ương/địa phương có được
một ý nghĩa nào đó.
Maximilian Steinbeis: Có nghĩa là Đảng
Cộng sản Trung Quốc sẽ phải chấp nhận và cho phép các đảng phái khác cạnh tranh
với mình?
Trương Thiên Phàm: Đúng, nếu không có
một hệ thống đa đảng công khai thì ít nhất phải có một sự cạnh tranh nghiêm túc
trong nội bộ đảng cầm quyền. Về khía cạnh này, chúng tôi có thể học Nhật Bản và
các nước châu Á khác. Châu Á có truyền thống chuyên chế có lẽ lâu đời nhất trên
thế giới. Ngay cả một số nước về danh nghĩa thì dân chủ nhưng sự thực thì cũng
không dân chủ lắm. Chúng tôi gần gũi với hoàn cảnh của họ hơn và có thể tiếp
thu kinh nghiệm của họ. Hồi thập niên 80, cao trào của các cải cách tiến bộ ở
Trung Quốc, có một thảo luận về việc tách Đảng và nhà nước. Năm 1982-1983 đã có
những vận động tranh cử nghiêm túc trong cuộc bầu cử đầu tiên sau hiến pháp mới,
có hiệu lực từ đó đến nay. Tận bây giờ người ta vẫn nhắc đến những sự kiện
tranh cử sôi nổi trong khuôn viên Đại học Bắc Kinh, khi ứng viên các đảng khác
nhau ngồi cùng một bục tranh luận. Một trong số đó, ông Lý Khắc Cường, sau này
trở thành Thủ tướng. Những người khác, như Hồ Bình và Vương Quân Đào, hoạt động
dân chủ và ra nước ngoài. Nhưng sau đó giới lãnh đạo Đảng thận trọng hơn và
thắt chặt kiểm soát trở lại. Sau 1989, chúng tôi chứng kiến một tiến trình giật
lùi trầm trọng, tới khi bầu cử thành hoàn toàn vô nghĩa.
Maximilian Steinbeis: Giới lãnh đạo Đảng
coi các nghiên cứu của ông là hữu ích hay là thách thức? Ông có thể bị rắc rối
vì phê phán thể chế không?
Trương Thiên Phàm: Cuối năm 2011, khi
tôi công bố một chương trình cải cách hiến pháp nhân kỷ niệm 100 năm cuộc cách
mạng dẫn tới việc thành lập nền cộng hòa Trung Hoa đầu tiên, đề tài này ngày
càng trở thành nhạy cảm hơn đối với tôi. Là một trí thức đứng trong công luận,
mỗi năm tôi thường viết nhiều bài phân tích. Nhưng công bố trên báo chí ở Trung
Quốc thì gần như không thể được nữa. Bốn thập niên nay, tự do ngôn luận ở Trung
Quốc đã được mở rộng rất nhiều, đặc biệt với sự phát triển của internet, nhưng
điều đó chỉ diễn ra trong thực tế chứ không phải như một quyền được hiến pháp
đảm bảo. Bất kỳ lúc nào chính quyền cũng có thể giới hạn cái tự do ngôn luận đó
nếu muốn, kể cả trên mạng. Cho đến nay không có gì ngăn được điều đó. Chẳng hạn
họ có có thể lệnh cho các nhà cung cấp dịch vụ internet xóa tài khoản của bạn;
như họ đã xóa blog và tài khoản của tôi trên Vi Bác khi Hội nghị lần thứ 3 Ban
Chấp hành Trung ương khóa 18 diễn ra năm 2013. Tất nhiên họ cũng thể đưa bạn
vào danh sách đen, tức bị cấm xuất bản, vì thực tế là tất cả các nhà xuất bản,
báo và tạp chí đều thuộc nhà nước. Có tin đồn là tôi và nhiều tác giả cởi mở
khác từng có tên trong danh sách đen đó. Tôi đã hỏi một số nhà xuất bản và nhận
được những câu trả lời rất mâu thuẫn. Nhưng tóm lại là nhiều nhà xuất bản đã sợ
và từ chối in sách của tôi, kể cả những quyển thuần túy khoa học và không đụng
chạm gì đến chính trị. Xuất bản bằng tiếng Anh dễ hơn, vì họ không thể kiểm
soát các nhà xuất bản ngoại quốc. Mà họ cũng không quan tâm, vì quan trọng đối
với họ trước hết là tác động đối với độc giả Trung Quốc. Nhưng như vậy không
nhất thiết là cá nhân họ không ưa hay không đồng ý với những điều tôi nói. Khá
nhiều người “trong hệ thống” rất quan tâm đến các nghiên cứu của tôi.
Về đề tài Hồng Kông chẳng hạn. Đó là một ví dụ cho thấy cái hệ thống được coi
là thống nhất của đất nước khổng lồ này rốt cuộc cũng không lấy gì làm thống
nhất lắm. Từ khi được Anh trao trả hai mươi năm trước, Hồng Kông đã hưởng một
mức độ tự trị rất cao theo nguyên tắc “một quốc gia, hai chế độ”. Mãi
những năm gần đây, chính quyền trung ương mới tìm cách vươn tầm kiểm soát sang
Hồng Kông. Điều này kéo theo một tác động nghịch lý: Cách đây mười năm, người
Hồng Kông chỉ muốn được tự trị; bây giờ, phản ứng lại việc bị cắt bớt tự trị và
bị tước quyền bầu chính quyền đặc khu, họ đòi thêm cả độc lập. Có nghĩa là
chính quyền trung ương muốn kiểm soát nhiều hơn nhưng cuối cùng sẽ được ít hơn.
Vì thế tôi đề nghị một giải pháp ngược lại: ít kiểm soát hơn, cho phép tự trị
nhiều hơn, và sẽ được nhiều hơn. Quan trọng là Trung Quốc giữ vững chủ quyền
quốc gia ở Hồng Kông, nhưng như thế không có nghĩa là chính quyền trung ương
phải vơ thêm việc quản lý thành phố đó vào mình. Đó là việc của người Hồng
Kông, họ sẽ cảm ơn sự phóng khoáng của chính quyền trung ương. Những người
không bị định kiến trong giới lãnh đạo rất hoan nghênh các đề nghị của tôi,
nhưng không có tạp chí nào dám công bố.
Maximilian Steinbeis: Trong lịch sử, những
quốc gia liên bang như Đức hay Hoa Kỳ hình thành từ các nhà nước độc lập liên
kết lại. Các quốc gia đơn nhất thường phải đối phó với phân quyền và những
khuynh hướng ly khai cục bộ. Trong chừng mực nào có thể đem hai mô hình này ra
so sánh?
Trương Thiên Phàm: Có nhiều hình thức liên bang khác nhau, và những quốc gia đơn nhất như Vương quốc Anh hay Pháp còn khác nhau nhiều hơn. Nhưng từ góc nhìn của chúng tôi thì những sự khác nhau đó không đáng kể. Phân quyền trong một quốc gia đơn nhất khác với chế độ liên bang ở chỗ nó không được quy định hợp thức bằng hiến pháp, mà chỉ trên cơ sở luật pháp quốc gia và về nguyên tắc thì quốc hội có thể hủy bỏ bất kỳ lúc nào. Nhưng vấn đề của chúng tôi cốt lõi hơn. Không có dân chủ thì phân quyền không nhất thiết là tốt: nó có thể hàm chứa nguy cơ lạm dụng quyền lực tản quyền. Vì chính quyền địa phương không phải chịu trách nhiệm trước dân chúng địa phương, nên tình hình dễ mất kiểm soát nếu trung ương lỏng tay. Phân quyền ở mức độ tương đối đã dẫn đến một thảm họa khổng lồ, đó là nạn đói lớn cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60, hậu quả của “Đại Nhảy vọt”. Tên chính thức của nó là “Ba năm thiên tai”, nhưng sự thực đó là một thảm họa bắt nguồn từ cơ chế. Khi đó Trung Quốc thực hành một nền kinh tế kế hoạch hà khắc và chính quyền trung ương buộc nông dân phải nộp sản cho nhà nước. Thời gian này, các chính quyền địa phương được giao nhiều quyền quản lý kinh tế hơn, trong khi hệ thống chính trị tất nhiên vẫn tuyệt đối theo tôn ti trật tự. Cấp dưới do cấp trên đề bạt, nên công chức các cấp bên dưới ra sức làm vừa lòng trung ương. Sản lượng thu hoạch năm 1959 không cao bằng năm 1952, nhưng các địa phương vẫn báo cáo những con số rất lạc quan lên cấp trên, vì thế trung ương đưa ra định mức thu sản đầy hoài bão nhưng phi thực tế. Và các địa phương lại ra sức thực hiện lệnh của trung ương – thậm chí còn tìm cách vượt định mức, bất chấp việc nông dân không còn gì cho mình sau khi bị cưỡng bức nộp quá nhiều cho nhà nước. Kết quả là là hàng vạn người chết đói. Điều đó không thể xảy ra trong một hệ thống dân chủ. Nhà kinh tế Amartya Sen đã chỉ ra rằng Ấn Độ là nước rất nghèo, nhưng không bao giờ phải chứng kiến một nạn đói quy mô lớn như vậy, vì Ấn Độ theo thể chế dân chủ.
Maximilian Steinbeis: Berlin, trung tâm chính trị của Đức, có đáp ứng mong đợi của ông không? Tôi rất yêu Berlin, nhưng cũng phải thừa nhận rằng khá nhiều người Đức, nhất là những người đến từ các thành phố lâu đời hơn, kiêu hãnh hơn, hay thịnh vượng hơn, như München, Köln, Frankfurt hay Hamburg, đánh giá khá là tệ về cái thủ đô nghèo xác và thường kém chức năng hoạt động này…
Trương Thiên Phàm: Nhưng đó là một
điểm rất đặc trưng của thể chế liên bang, đúng không nào? Chính việc Berlin
không thật giàu có và không được nhiều ưu đãi cho thấy là nền dân chủ và thể
chế liên bang ở đất nước này hoạt động tốt. Bắc Kinh thì hoàn toàn khác. Hiện
nay người ta đang nỗ lực đuổi hết những người nghèo đến Bắc Kinh sinh sống,
những người bị gọi là “ngoại địa nhân” hay “dân công”, ra
khỏi thành phố. Ở khía cạnh này cũng thế, nhìn kĩ hơn một chút thì Trung Quốc
hoàn toàn không “xã hội chủ nghĩa” hay “thống nhất” gì cả.
Chúng tôi có muôn vàn rào cản nhân tạo ngăn người ngoài. Rất nhiều “hàng
rào định chế”. Tôi nói thực sự theo nghĩa đen đấy. Ở Berlin, nếu bạn muốn
đến Đại học Humboldt thì cứ việc đến và bước vào thôi. Nhưng Đại học Bắc Kinh
thì khác, có một bức tường cao bao bọc, muốn vào phải trình chứng minh thư.
Chúng tôi tìm mọi cách biến Bắc Kinh thành thủ đô tuyệt vời nhất, chúng tôi tạo
ra đủ kiểu đặc quyền cho nó, khiến nó tất nhiên hấp dẫn người tỉnh khác và cả
nước. Nhưng để có hộ khẩu Bắc Kinh thì vô cùng khó. Một vị khách Đức nổi tiếng
đã rất xác đáng khi gọi hộ khẩu là hộ chiếu, vì người ta cần hộ khẩu như một thứ
giấy phép đặc biệt để nhập cảnh một quốc gia khác và hưởng vô số ưu đãi ở đó.
Chỉ xin lấy một ví dụ: sinh viên có hộ khẩu Bắc Kinh dễ được nhận vào các
trường đại học danh tiếng hơn, vì phần lớn các đại học đó nằm ở Bắc Kinh, mà chỉ
tiêu cho mỗi tỉnh thì có hạn và chỉ tiêu cho Bắc Kinh tất nhiên cao hơn hẳn. Thi
đại học ở Bắc Kinh thậm chí cũng khác ở quá nửa các tỉnh khác, và điều kiện để
được nhập học đại học cũng là để bảo hộ người có hộ khẩu Bắc Kinh. Nhân tiện,
đó là một phần hệ thống “duy trì ổn định” của chúng tôi đấy. Chúng
tôi muốn người Bắc Kinh hoàn toàn hài lòng và không nghĩ đến phản kháng. Họ
(trong đó có gia đình tôi) được một tấm vé miễn phí trong cái hệ thống bất bình
đẳng và tập quyền cao độ này.
Nhưng, như tôi đã nói ban đầu, hệ thống này sẽ phải thay đổi. Trung Quốc đã chứng kiến nền cộng hòa thứ nhất (1912) và nền cộng hòa thứ hai (1949), dù đó chỉ là những chế độ ngụy cộng hòa. Nền cộng hòa thứ ba rồi sẽ đến, và đó sẽ là một nền dân chủ chân chính theo thể chế liên bang như Đức.
Nguyên bản tiếng Đức: “Die dritte – föderale – Republik China wird irgendwann kommen“, Köpfe und Ideen, Ausgabe 13, Januar 2018, Wissenschaftskolleg zu Berlin
Tuần báo Trẻ, 20.02.2020
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers

