Phạm Thị Hoài's Blog, page 6

February 19, 2020

Hứa Chương Nhuận – Khi phẫn nộ vượt qua sợ hãi









Giáo sư luật Hứa Chương Nhuận (Xu Zhangrun) của Đại học Thanh Hoa vừa bị chính quyền quản thúc, cắt internet, xóa tài khoản xã hội, hoàn toàn cô lập sau khi ông công bố bài luận mới, phê phán mạnh mẽ chính quyền Trung Quốc, nhất là Tập Cận Bình, trong việc xử lý dịch bệnh corona. Bài luận “Khi phẫn nộ vượt qua sợ hãi” (bản tiếng Trung: 愤怒的人民已不再恐惧, bản tiếng Anh: Viral Alarm: When Fury Overcomes Fear) vạch ra sự bế tắc và giới hạn cuối cùng của của hệ thống chính trị Trung Quốc, kết thúc bằng lời kêu gọi:





“Tôi thư sinh vô dụng, thở dài một tiếng, chỉ biết lấy bút làm kiếm, bàn công lý, cầu chính nghĩa. Trước đại dịch này, trước cảnh hỗn loạn này, đồng bào tôi, 1,4 tỉ anh chị em, hàng ức vạn người chẳng bao giờ thoát khỏi đất nước này, chúng ta tất cả hãy gầm lên chống trả bất công, hãy đốt cháy mình vì chính nghĩa, hãy chọc thủng màn đêm nghênh tiếp ban mai, hãy dụng lực, dụng tâm, dụng mệnh, ôm lấy vầng thái dương tự do rồi cuối cùng cũng sẽ đến với đất nước này.”





Ông cũng linh cảm rằng đây có thể là bài viết cuối cùng
của mình. Sau khi công bố bài luận nổi tiếng „Những
nỗi sợ và kỳ vọng của chúng ta hiện nay
“ (bản tiếng Trung: 我们当下的恐惧与期待, bản tiếng Anh: Imminent
Fears, Immediate Hopes
) ngày 24/7/2018 phê phán trực tiếp chính sách của Tập
Cận Bình, ông bị hạch tội, điều
tra, đình chỉ chức vụ
và giáng cấp học hàm.





Ngày 07/2/2020, ông đồng ký tên trong một Thư ngỏ gửi Quốc hội, đòi quyền tự
do ngôn luận nhân danh bác sĩ Lí Văn Lượng, người đã cảnh báo dịch bệnh, bị công
an truy bức và qua đời vì nhiễm virus Covid-19.





Một nhà hoạt động khác, luật sư nhân quyền nổi tiếng Hứa Chí Vĩnh (Xu Zhiyong), cũng vừa bị bắt vì chỉ trích sự bất cập và bất lực của chính quyền Tập Cận Bình trong việc chống dịch bệnh corona.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 19, 2020 13:21

February 13, 2020

Sợ quá, đóa hồng môn

Phạm Thị Hoài





Hoa có thể thiết yếu
với phần lớn các nhà thơ, song người viết văn xuôi, kể cả loại trung bình, chẳng
ai bỏ vào hoa một phần ba ý nghĩ nghiêm túc. Nhà văn Việt tả một khoảnh vườn thì
dĩ nhiên có gốc hồng khóm cúc, tả Tết thêm mai đào, tả Hải Phòng hoa phượng, tả
Hà Nội hoa sữa nồng nàn, rồi Tháp Mười hoa sen, nhà chùa hoa huệ, tất cả đều
chính đáng và được áp dụng phổ biến trong truyền thống tả thực được rèn từ tấm
bé đến khi lọt cửa báo Văn nghệ, nhưng không có tiểu thuyết hay thậm chí
truyện ngắn nào lấy hoa lá làm ý tưởng, làm bệ phóng, làm xương sống như trường
hợp các thi phẩm Màu tím hoa sim hay Lá diêu bông.





Rất nhiều lần tôi hạ quyết tâm, để cuối cùng vẫn không thể đọc hết áng văn xuôi nổi tiếng Đi tìm thời gian đã mất. Không phải vì cuộc đời thì ngắn mà Proust lại quá dài như Anatole France phán khi mới lướt qua tập thứ nhất của bộ sách – tập sáu và tập bảy ra mắt thì cả ông và tác giả đều đã là người thiên cổ. Mà đơn giản vì mỗi người có một cái tật, khó giải thích, tôi cứ thấy thấp thoáng hoa lá cành trong văn chương là đang hay cũng bỏ, trong khi Proust, ngoại lệ về mọi phương diện, điềm nhiên dành cả chục trang một lúc để tỉ mỉ chăm chút những hồng và cúc, những anh túc và diên vĩ, những nhài và dẻ, những sen cạn quý tộc và tử đinh hương vương vấn đâu đó giữa giao phối và cầu kinh, chưa kể hoa trên xiêm áo các bà các cô và những thiếu nữ tuổi hoa. Ngoài chiếc bánh madeleine nhúng trà hoa đoạn (tilleul) ở Combray – trong bản dịch tiếng Việt, chúng được “chấm vào nước lá bồ đề” (sic!) – làm chiếc chìa khóa vàng trứ danh mở vào mê cung ký ức, còn một chiếc chìa khóa bạc nữa, sơn tra, hay táo gai, hết trắng lại hồng, nụ hoa nho nhỏ thơm thơm và mùi hương vô hình mà bí ẩn ấy đánh động cả một trời kỷ niệm, để nàng Gilberte hiện ra bên kia bờ dậu, liếc chàng Macel một cái, thèm muốn hay kẻ cả coi thường… Tóm lại, tất cả những gì mà tôi không hạp. Thế giới văn chương chia thành hai phe. Phe không thể sống thiếu Proust và phe không Proust chưa chết.





Tôi vẫn thuộc phe
sau, cho đến ngày tới một sự kiện ở Berlin. Đúng hơn, ở Đông Berlin, người tham
dự chủ yếu từ miền Bắc và hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, khuyến mại một hai gương mặt
miền Nam xưa của giới trí thức cánh tả chống Mỹ. Người Việt Đông Berlin nói
chung dung dị, không có những cách biệt đỉnh cao vực sâu, không có những nhân vật
quá ầm ĩ, hiếm có sự kiện đáng giật tít như lễ kết nạp Đảng ở
Harvard

(cho một nữ tiến sĩ, con gái một trong những gia đình đại tư sản giàu có nhất
Việt Nam trước khi ông bố, tổng giám đốc một nhà băng lớn, bị kết án tù chung
thân
và đang chờ tiếp các bản án khác). Tất nhiên cộng
đồng ấy là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nối dài hay thu nhỏ. Phần lớn các
nhân vật đang và ham lãnh đạo ở đó đều nhuốm màu cán bộ cách mạng, dù sẽ trượt
hết nếu phải làm bài kiểm tra về cách mạng. Phần lớn bà con thì phi chính trị, chế
độ hay dở mặc kệ, miễn làm ăn sinh sống thuận lợi, hàng ngày vẫn xem VTV, cuối
tuần vẫn có lòng lợn, trong tuần vẫn nhận tất cả các ưu việt cộng sản do nhà nước
tư bản dân chủ cung cấp, đồng thời tránh tất cả những phiền hà liên quan đến bọn
phản động, dù cũng sẽ trượt hết nếu phải làm bài kiểm tra về phản động. Tuy vậy
tôi tin rằng bản thân cái trật tự đời sống hàng ngày ở đây, dù chẳng có gì cao
siêu nhưng kéo theo những tập quán khác hẳn ở nhà, một lúc nào đó rồi cũng để lại
dấu vết và những thứ quá đậm đà bản sắc xã nghĩa rồi cũng phôi phai, ngay ở
trong nước người ta cũng nhạt Đảng khô Đoàn hoặc như trái thanh long trắng lòng
đỏ vỏ.





Song khi nhìn lên
sân khấu, tôi bỗng ngộ Proust. Dậu táo gai của tôi ở đó có hình dạng hai kệ hoa
khổng lồ, như hai ông hộ pháp tả hữu, ở giữa thêm một loạt lẵng hoa hồng hồng
tía tía và trên bục phát biểu là một cái gì như cuộc chạy đua vào vòng chung kết
giải hoa nào sặc sỡ nhất, chưa kể những bó hoa lẻ xếp ở chân bục. Quả thực,
toàn bộ đất nước mà mười lăm năm nay tôi chưa tái ngộ vụt hiện trong khoảnh khắc.
Không chỉ màu sắc mà cả âm thanh, hình ảnh, mùi vị và tâm hồn cố hương bỗng
dâng lên, bò dần từ chân, lan đến háng, đến ngực, đến cổ, rồi tôi bị nuốt chửng
vào một khối đặc quánh những cảm xúc, vừa bồi hồi vừa tức anh ách, vừa thân thuộc
vừa lạ lùng, vừa mến thương vừa tuyệt vọng. Lúc tôi vừa trồi khỏi đó thì diễn
giả xuất hiện, và hình ảnh nửa cái đầu nhỏ xíu tóc nhuộm đen kít với đường ngôi
thênh thang và trắng bệnh của ông ấy, thấp bé như phần lớn người Việt, nhô lên
trên nền hoa um tùm, như một tiết mục hí lộng thành công ngoài dự định, một lần
nữa ném tôi trở lại vòng tay hay vòng xoáy của quê hương.





Cái sức sống bản
năng ồn ào ấy. Cái vô tư lạc quan bơi trên đầu mọi lý trí ấy. Cái thẩm mỹ diêm
dúa lòe loẹt ấy. Cái gu xô bồ dễ dãi ấy. Cái thói quen nhảm nhí ấy. Cái khao
khát hoành tráng vĩ đại ấy. Cái máu chứng tỏ phô trương ấy. Cái ngông cuồng sĩ
diện ăn chơi sợ gì đầu rơi ấy. Cái đua đòi quê kệch hợm hĩnh ấy. Cái văn công mậu
dịch hơn hớn ấy. Cái thủ cựu ngu lâu ấy. Cái rập khuôn ngây ngô hay ngây thơ ấy.
Cái hãnh tiến tân thời cấp tốc ấy. Cái phè phỡn vô độ ấy. Cái lố bịch hồn nhiên
ấy. Cái thụ động phó mặc tập quán ấy. Cái bất lực của mất định hướng ấy. Cái đùng
đoàng của mặc cảm và còn đùng đoàng hơn của tự mãn ấy. Cái hoang mang của quá
nhiều và tuyệt vọng của quá ít ấy. Cái rỗng tuếch chênh vênh bởi trống vắng mọi
nền tảng ấy.





Cái cách quanh năm dửng dưng hoa lá, để sát Tết bỗng rầm rập càn quét truy đuổi (khiến tôi luôn bất giác nghĩ đến loạt phim The Purge). Cái cách cố nhét một bình cúc vạn thọ vào cái khe tội nghiệp giữa gốc đào thế và chậu quất cảnh trong căn phòng đã chật ních phụ kiện tài lộc, như rước hoa về nhà để đuổi người ra đường. Cái cách hoa của riêng thì tỉa tót nâng niu, hoa của công thì thản nhiên tranh cướp giẫm đạp. Cái cách dâng hoa lên Facebook như dâng lễ, giáo phái hoa ở Việt Nam áp đảo giáo phái mèo, và đệ tử nào cũng đồng thời là thánh tướng. Cái cách lọ mọ mê man gọt đẽo củ thủy tiên để ồ à thắp hương lạy những cái rễ trắng muốt như vật lạ đến từ hành tinh khác. Cái cách lõa lồ đè ngửa những mùa sen. Cái cách đếm vòng hoa so đám tang. Cái cách rải hoa như rắc vôi sát trùng lên ổ dịch hạch là đám cưới. Cái cách công phu nuôi trồng những chậu cây cảnh quý giá cho một lũ xôi thịt khuân đi làm cỗ cúng một bọn nghênh ngang. Cái cách dàn hàng đánh kẻng tặng hoa, những bó hoa đồng phục, giống nhau như vừa tốt nghiệp cùng một khóa lý luận trung cấp. Cái cách mỗi năm vứt cả ngàn tỉ đồng ngân sách để biến mọi không gian công quyền thành một nhà đám hay một rạp cưới, hành chính công trông lúc nào cũng như chỗ hiếu hỉ. Không một phòng khách, phòng họp, phòng hội nghị nào của hàng chục ngàn hay thậm chí cả trăm ngàn cơ quan đảng, nhà nước và đoàn thể toàn quốc không ngày ngày ngập ngụa hoa tươi. Nhu cầu hoa công một ngày ở Việt Nam bằng cả năm của toàn thế giới. Hoa gọi nhau í ới. Hoa ngồi chình ình. Hoa dàn đội hình. Hoa đứng. Hoa bò. Hoa xòe. Hoa rủ. Hoa tung tóe trên áo dài phụ nữ. Hoa búa xua trên thảm đỏ. Hoa trùng trùng điệp điệp trên phông màn. Song quyết liệt nhất là hoa trên bục phát biểu và quanh tượng “Bác”.





Hai cứ điểm trọng yếu này sử dụng ngôn ngữ hoa chính thống, thuộc hệ thẩm mỹ chủ lưu, dĩ nhiên là bảo thủ. Cái Đẹp ở đó đã tuyên thệ suốt đời chấp hành khuôn khổ, không thách thức đánh đố, không nổi loạn cách tân, không diễn biến hòa bình, không thoái hóa biến chất. Cấu trúc phải hài hòa cân đối, có trên có dưới, có trước có sau, ra tấm ra món, vững vàng, đường bệ, tránh mọi thiết kế quá mạo hiểm. Màu sắc phải rực rỡ tươi sáng, có thể nhàm chán nhưng an toàn. Hoa phải chọn những loại đứng đắn trịnh trọng được số đông ưa chuộng. Tầm thường rẻ tiền như hoa cỏ may, hoa bìm bịp, khó kiểm soát như hoa dâm bụt, hoa đồng tiền, ngoài luồng như hoa cứt lợn, hoa mõm chó, hay nhạy cảm như hoa xương rồng, đều bị cấm cửa. Sen, hồng, hướng dương, lay-ơn, đào, ly, cúc, và nhất là hồng môn được đặc biệt tuyển dụng. Đứng sau bục, diễn giả trông như chú lùn trang trí một góc vườn trong một vở tuồng, còn “Bác” biến thành một búp-bê bàn thờ, mỗi ngày diện một bộ váy áo, ưu tiên màu hồng.





Văn hóa hội hè đình đám lễ lạt của xã hội truyền thống, chủ nghĩa long trọng phô trương hình thức của các nhà nước độc tài và tinh thần màu mè sến súa ở đa số người Việt, một sự kết hợp không thể đặc trưng hơn. Quốc hoa Việt Nam thời đại này nên là hồng môn. Cũng du nhập như quốc đạo Mác-Lê, đầy đủ màu quốc kỳ, bảnh bao bóng nhoáng, nhìn đã thấy thành tích tiến lên toàn thắng, biết hòa đồng tập thể, biết lọc bụi mịn, vừa mũi tất cả vì hữu sắc vô hương.





Trên sân khấu sự kiện ở Berlin vừa kể cũng rất nhiều hồng môn. Thè chiếc lưỡi dài vàng khè. Đỏ và giả rùng rợn.





Tuần báo Trẻ, 13.02.2020

















































































 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 13, 2020 03:00

February 10, 2020

Không thể có an toàn nếu không có tự do ngôn luận – Thư ngỏ của học giả Trung Quốc gửi Quốc hội và Ủy ban Thường vụ

Phạm
Thị Hoài dịch





Trong
số những người đồng ký tên bức thư ngỏ sau đây có hai giáo sư nổi tiếng từ hai
trường đại học danh giá: Trương Thiên Phàm (Zhang Qianfan,
张千帆 ) của Đại học Bắc Kinh, một trong những
học giả đầu đàn về luật hiến pháp tại Trung Quốc, và Hứa Chương Nhuận (Xu
Zhangrun,
许章润 ) của Đại học
Thanh Hoa, người cách đây không lâu đã gây chấn động với bài tiểu luận đặc sắc,
trực tiếp phê phán chính sách của Tập Cận Bình “Nỗi
sợ hãi và niềm hy vọng của chúng ta hiện nay
”. Cả hai ông, cũng như một số
học giả khác, đều nhiều lần thẳng thắn lên tiếng về các vấn đề chính trị xã hội
khi đang thành đạt với sự nghiệp chuyên môn và giữ những cương vị cao trong môi
trường hàn lâm ở Trung Quốc.





Người
dịch    





Ngày 6 tháng 2
năm 2020, bác sĩ Lí Văn Lượng, người thổi còi cảnh báo 2019-nCoV, đã qua đời
giữa ôn dịch ở Vũ Hán. Ông cũng là một nạn nhân của sự áp chế ngôn luận. Người
dân Trung Quốc rất đau lòng và vô cùng thương tiếc.





Virus corona chủng
mới có thể hoành hành ở Vũ Hán và khắp Trung Quốc vì các nhà đương cục đã đàn áp
ngôn luận và sự thật. Giữa mùa lễ hội truyền thống tối hỉ, ức vạn người lâm cảnh
cách li và sợ hãi, toàn dân đang bị quản thúc tại gia. Cả xã hội và nền kinh tế
bị đình đốn. Ít nhất 637 đồng bào của chúng ta cho đến nay đã thiệt mạng và hàng
triệu người ở thành phố Vũ Hán và tỉnh Hồ Bắc bị kỳ thị, xua đuổi, lưu ly thất
sở trong giá lạnh và không nơi nương tựa.





Khi thảm kịch này
mới bùng phát đầu tháng Một, bác sĩ Lí và bảy chuyên viên y tế khác đã bị cảnh
sát cảnh cáo vô căn cứ. Nhân phẩm của họ quá bé mọn trước bạo quyền của cảnh sát
chống lại tự do ngôn luận. Ba mươi năm nay, người Trung Quốc đã từ bỏ tự do để đổi
lấy an toàn, để giờ đây lún vào một cuộc khủng hoảng sức khỏe cộng đồng, bất an
hơn bao giờ hết. Một thảm họa nhân đạo đang cận kề. Toàn bộ phần còn lại của thế
giới đang lùi xa khỏi Trung Quốc với tốc độ nhanh hơn sự lây lan của virus, khiến
Trung Quốc rơi vào tình trạng cô lập toàn cầu chưa từng thấy.





Tất cả những điều
đó là cái giá phải trả cho việc từ bỏ tự do và áp chế ngôn luận. Mô hình Trung
Quốc đang trở thành phao bọt. Song các nhà chức trách vẫn đang lo khóa miệng dân
hơn lo ngăn chặn dịch bệnh. Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan hành chính
đã vượt quyền hạn, thực thi tình trạng khẩn cấp mà không công khai tuyên bố. Họ
đã sử dụng việc kiểm soát dịch bệnh như một cái cớ để tước đoạt bất hợp pháp những
quyền được hiến pháp bảo trợ của công dân như quyền tự do ngôn luận, tự do đi
lại và quyền sở hữu tư nhân.





Đã
đến lúc những điều đó phải kết thúc. Không thể có an toàn nếu không có tự do ngôn
luận. Nhân danh các công dân, chúng tôi đề xuất năm yêu cầu chính sau đây:





1. Chúng
tôi yêu cầu lấy ngày 6 tháng Hai là Ngày Tự do Ngôn luận Quốc gia (Ngày Lí Văn
Lượng).





2. Chúng
tôi yêu cầu, kể từ hôm nay, người dân Trung Quốc phải được hưởng quyền tự do ngôn
luận quy định tại điều 35 trong hiến pháp.





3. Chúng
tôi chủ trương, kể từ hôm nay, không một công dân Trung Quốc nào còn bị bất kỳ một
bộ máy chính quyền hoặc một tổ chức chính trị uy hiếp chỉ vì phát ngôn chính kiến,
và không một thế lực chính trị hay một bộ máy chính quyền nào được phép xâm phạm
quyền tự do hội họp và tự do truyền thông của công dân. Chính quyền phải lập tức
chấm dứt việc kiểm duyệt các mạng xã hội, việc chặn hay xóa các tài khoản tại đó.





4. Chúng
tôi hy vọng, người dân Vũ Hán và Hồ Bắc được đối xử công bằng và mọi bệnh nhân
nhiễm virus corona toàn quốc phải được hưởng sự chăm sóc y tế kịp thời, thích đáng
và hiệu quả.





5. Chúng
tôi kêu gọi Quốc hội triệu tập ngay hội nghị khẩn cấp để ngăn chặn việc phiên họp
dự định vào năm nay có thể bị một thế lực chính trị bãi bỏ phi pháp, và thảo luận
lập tức vấn đề bảo vệ quyền tự do ngôn luận của công dân. Hãy thực thi hiến pháp,
bắt đầu từ hôm nay, bắt đầu từ tự do ngôn luận!





Chúng
tôi hoan nghênh mọi người cùng góp chữ ký, liên tục cập nhật và mãi mãi rộng mở.





Đồng
ký tên:





Cựu
sinh viên Đại học Nhân dân: Lỗ Nan, Ngô Tiểu Quân, Tần Vị, Điền Trọng Huân





Giáo
sư luật, Đại học Bắc Kinh: Trương Thiên Phàm





Giáo
sư luật, Đại học Thanh Hoa: Hứa Chương Nhuận





Học
giả độc lập: Tiếu Thục, Quách Phi Hùng





Cựu
sinh viên Đại học Địa chất: Vương Tây Xuyên





Nguồn:
Bản tiếng TrungBản tiếng Anh

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 10, 2020 15:09

January 2, 2020

Sạch ngữ âm

Phạm Thị Hoài





Nếu bạn ngọng lờ-nờ
và làm nghề đầu bếp, ra chợ hỏi mua cá nóc, cuối cùng vẫn xách cá lóc về nhà, thì
không có gì thật sự đáng báo động. Song nếu bạn kiêm cả bồi bàn tiếp khách thì
câu chuyện đã khác. Trừ khi bạn trưng biển “Ở đây có nói ngọng” mà
quán vẫn đông thì xin chúc mừng, có khi bạn còn được lên CNN và trở thành một địa
chỉ du lịch như bún mắng cháo chửi; đóng góp của Việt Nam cho thế giới là những
ngóc ngách độc đáo như vậy. Còn lại, nếu khách nhất định cá lóc và bạn khăng
khăng cá nóc, rồi lời qua tiếng lại, mày định đầu độc bố mày hử, rồi nước bọt
văng tới đâu dao văng tới đấy, rồi báo chí giật tít “Án mạng vì món cá nhầm
tên” – chậm nhất đến đây, là một cái thây, bạn sẽ muốn kiếp khác đầu thai
thành loài gì cũng chấp nhận, miễn lờ-nờ không lẫn lộn.





Tôi sinh ra và lớn
lên ở Hải Dương, một trong những thánh địa của tôn giáo nờ cao nờ thấp. Bây giờ
người ta phong nó thành sự đa dạng ngữ âm vùng miền, thành phương ngữ, thổ ngữ
gì đó và sẵn sàng tuốt dao bảo vệ nó trong những cuộc thánh chiến nho nhỏ. Cha
mẹ tôi không được cấp tiến, khoan dung như thế. Cấm tiệt con cái a dua môi trường.
Không nghe thì nọc ra giường. Roi chẳng bao giờ chạm vào mông, song sự cương
quyết của phụ huynh khiến đàn con răm rắp học giọng đài phát thanh thay vì giọng
hàng xóm. Tôi đánh mất đặc sản ngữ âm địa phương và không thấy mình nghèo đi,
cũng không thấy những người bảo tồn đặc sản ấy tự hào về một đóng góp nào cho sự
giàu có của tiếng Việt. Ngược lại, họ chỉ khổ sở bởi cái di sản bất đắc dĩ ấy,
tiếng Việt chẳng keo kiệt với những tình huống éo le. Khi họ bảo rằng trời lồm mình
làm lông lên no nắng, hay nâu nâu họ đi nạc, bạn có đủ tế nhị để không kín đáo
nhếch mép? Đủ rộng lượng để chấp nhận một giáo viên môn toán cứ nũy thừa và
nôgarit mà dạy? Một giáo viên môn sử cứ từ Nạc Nong Quân đến Ný Trần Nê? Một
giáo viên môn văn cứ “Cỏ lon xanh tận chân trời“? Chậm nhất, đến
Lao lao dòng lước uốn quanh“, “Dùng dằng lửa ở lửa về
và “Lách tường bông niễu bay sang náng giềng“, bạn sẽ phải lờ
mờ – hay nờ mờ cũng đáng khoan thứ? – nhận ra rằng căn cứ vào vị trí thiêng
liêng – hay thiêng niêng cũng chưa chết ai? – của tác phẩm này, “Truyện
Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn
“, thì ngọng lờ-nờ là
một cách vô tình làm mất nước.    





Đến lượt mình, tôi
còn khắc nghiệt hơn hai đấng sinh thành. Tôi không kết bạn với người mắc cái tật
khốn khổ nói trên. Tình bạn thậm chí có thể sống sót trong đống tro tàn của các
chiến tuyến tư tưởng, song lại dễ cháy rụi bởi một chất xúc tác có vẻ hiền lành
như ngọng lờ-nờ. Thuở trẻ có lần tôi phải lòng một chàng trai. Lỗi duy nhất,
như thể để nêu bật sự hoàn hảo, là chàng lẫn đúng hai cái phụ âm chẳng họ hàng
gì với nhau ấy. Không như mọi cách phát âm lệch chuẩn khác, ngọng lờ-nờ là một đột
biến ngữ âm vô lý mà chức năng duy nhất là làm mất định hướng, làm nhiễu tư
duy, làm hại ngôn ngữ, làm khổ chính tả, làm tội cái lưỡi và làm ô nhiễm môi
trường âm thanh. Tôi đã nhặt nhạnh nhúm lý trí còn lại khi người ta yêu để bỏ
chạy. Tôi có thể sống như thế nào đó cạnh một người biến tất cả lờ cao thành nờ
thấp hoặc ngược lại, dù không chắc cái tai của mình có còn sống không. Ít ra,
đó là người nhất quán. Nhưng với một người lờ nờ bất nhất thì chịu. Nói ngọng, viết
ngọng và nghĩ ngọng là bộ ba khăng khít. Ngôn ngữ là phương tiện và biểu hiện của
tư duy. Làm sao có thể tư duy bằng một ngôn ngữ đầy lẫn lộn, dễ dãi, buông thả,
vô phương hướng, vô tổ chức, vô ý thức, vô nguyên tắc, vô trách nhiệm như vậy?





Lẽ ra toàn bộ công
chức nhà nước cũng như khối viên chức trong các ngành giáo dục đào tạo và truyền
thông phải đạt tiêu chuẩn sạch ngữ âm ở mức không cản trở giao tiếp và không
gây phản cảm, tối thiểu là không nhầm lẫn lờ-nờ. Ở nhà họ lên giường hay nên
giường, ngoài đường họ lái xe hay nái xe Lexus hay Nexus, đi du lịch hay du nịch
họ “hê-lô” hay “hê-nô”, họ diện đồ Louis Vuitton hay Nouis Vuitton, họ khấn vái
thần linh hay thần ninh, chơi ten-nít hay ten-lít trong các câu lạc bộ hay câu nạc
bộ, thích ăn lòng lợn hay nòng nợn, sau mấy ly bia hay ny bia giao lưu hay giao
nưu bạn hữu họ có thể khen hay chửi Tổng thống Đo-nát Tờ-ram hay Đo-lát Tờ-ram,
tưởng nhớ hay oán trách một thời Liên Xô hay Niên Xô, lo ngại hay no ngại cho
thềm lục địa hay thềm nục địa của đất nước hay đất lước…, tất cả những tự do
lựa chọn đó không ai can thiệp. Đa dạng muôn năm. Ở đất nước này, trừ đa dạng
tư tưởng và đa nguyên đa đảng, còn lại ai muốn đa gì thì đa, đa thê thậm chí được
ngưỡng mộ. Song ở cương vị chính thức thì khác. Không thể xuê xoa coi lỗi phát
âm là chuyện nhỏ, bởi tính chính danh của mỗi chức vụ trong bộ máy nhà nước trước
hết được thể hiện bằng sự tôn nghiêm. Tất nhiên công lý có phần hài hước khi thẩm phán nói ngọng. Tất nhiên nền
giáo dục có phần lố bịch khi Bộ trưởng Bộ Giáo dục “nuôn nuôn
nói về “chất nượng“. Và tất nhiên những viễn kiến của ngôi sao
chính trị đang lên, Bộ trưởng Thông tin Truyền thông, khó được coi là nghiêm
túc, khi ông cứ “nời giải Việt Nam” cho bài toán Việt Nam
trong “nàn sóng internet thứ ba” mà diễn thuyết.





Thử hình dung, Hồ
Chủ tịch đọc “Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến

tháng 12 năm 1946 không phải bằng giọng truyền cảm và chuẩn xác – nếu không muốn
nói là lý tưởng về ngữ âm -, mà níu nô: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ
không chịu mất lước, nhất định không chịu nàm nô nệ… Việt Lam độc nập và thống
nhất muôn lăm! Kháng chiến thắng nợi muôn lăm!”
. Tôi tin rằng quốc dân
sẽ bò ra cười, quên cả xách súng, gươm, cuốc, thuổng, gậy gộc đi cứu nước; Điện
Biên Phủ sẽ không xảy ra, lịch sử Việt Nam sẽ là một lịch sử khác. Lịch sử thế
giới cũng sẽ là một lịch sử khác, nếu Quốc vương nước Anh George VI. không dày
công tập luyện, khắc phục tật nói lắp bẩm sinh, để phát đi lời tuyên chiến
hùng hồn với Đức Quốc Xã
tháng 9 năm 1939.





Còn lại câu hỏi,
vì sao dàn lãnh đạo cao cấp hiện nay ở Việt Nam ngọng lờ-nờ như chưa bao giờ được
ngọng, như không có chút sĩ diện nào để mất, như đang đặt nền móng cho ngôn ngữ
hạ đẳng của giới thượng lưu mới? Trong một môi trường bẩn toàn diện, sạch ngữ
âm có lẽ là xa xỉ, thậm chí vô nghĩa.





Tuần báo Trẻ,
2/1/2020

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 02, 2020 04:07

December 18, 2019

Khi thẩm phán đay nghiến và nói ngọng

Phạm Thị Hoài





Trích phiên xử ngày 17.12.2019 vụ AVG:





Bị cáo, cựu bộ trưởng TTTT Nguyễn Bắc Son: Thưa quý tòa, ở
cơ quan điều tra tôi khai đúng như thế nhưng mà sau này tôi mới hiểu được điều
đó. Chứ còn lúc cái thời điểm mà chúng tôi phê duyệt ấy thì chúng tôi nghĩ là…
là chúng tôi đã làm đúng theo quy định rồi. Bởi vì…





Thẩm phán Trương Việt Toàn (cắt lời bị cáo, giọng nhấn nhá
đay nghiến): Ai cũng nói nà tại thời điểm ấy tôi chả hiểu cái gì cả. Nhưng mà
tôi vẫn chỗm chệ ngồi ở cái ghế bộ trưởng với cả chủ tịch hội đồng thành viên.
Ai cũng bảo là tôi chả hiểu gì cả.





Bị cáo, cựu bộ trưởng TTTT Nguyễn Bắc Son:  Vâng.





Thẩm phán Trương Việt Toàn (cao giọng mắng mỏ): Nhưng mà
chả hiểu thì làm bộ trưởng làm gì!





*





Với những phát ngôn dẫn trên, ông thẩm phán rất được lòng dư
luận. Báo chí thì khoái chá, độc giả thì hả hê. Như thể công lí đã bắt đầu dõng
dạc lên tiếng.





Tôi hiểu tâm lí đó, và cái sự chả-hiểu-gì-chả-biết-gì-chả-nhớ-gì
của ông cựu bộ trưởng quả thật phát tởm, song luật pháp không sinh ra để phục vụ
cái vỗ tay của dư luận. Thẩm phán thuộc hội đồng xét xử một phiên tòa trước hết
phải giữ một thái độ tuyệt đối trung lập. Thái độ này gắn liền với một ngôn ngữ
ôn hòa mực thước. Dạy dỗ, đay nghiến, chì chiết, chế giễu, mắng mỏ bị cáo là điều
tối kị với người ngồi ghế quan tòa. Ở Đức, nơi tôi hành nghề phiên dịch từ 25 năm
nay và đã trải qua cả ngàn phiên tòa, những phát ngôn như nêu trên là không thể
hình dung và không thể chấp nhận. Nếu có, sẽ dẫn ngay đến một yêu cầu bác bỏ thẩm
phán hoặc cả hội đồng xét xử từ phía bào chữa. Chỉ cần một biểu lộ rất nhỏ tiết
lộ ác cảm của một trong những thành viên hội đồng xét xử đối với bị cáo là đủ
cho phía bào chữa đệ đơn cáo buộc hội đồng xét xử định kiến, thiếu khách quan, có
thể gây bất lợi cho bị cáo, tức thiên vị, bất công, tức cản trở việc thực thi công
lí.





Tôi cũng hiểu rằng những chuẩn mực như vậy ở các nền pháp
quyền trưởng thành và vững chắc là còn xa lạ với Việt Nam. Song từ nhiều năm nay,
tư pháp Việt Nam đã có những cố gắng cải cách và một số bước tiến. Tuy cốt lõi
gắn liền với thể chế đảng trị và toàn trị hầu như không thay đổi và tiếp tục là
lực cản khó vượt qua nhất cho một cải cách tư pháp thực sự, nhưng khá nhiều chi
tiết cả trong lý thuyết lẫn thực tế pháp lí đã được cải thiện. Ông thẩm phán Trương
Việt Toàn chỉ cần thôi đay nghiến mắng mỏ bị cáo Nguyễn Bắc Son là bộ mặt tư pháp
Việt Nam đã văn minh hơn chút ít mà chế độ vẫn chưa bị đe dọa bởi bóng ma tư pháp
độc lập ở các nước phương Tây.





Và còn văn minh hơn, nếu các thẩm phán không nói ngọng, nhất là ngọng lờ-nờ, lỗi khó thương nhất trong các lỗi nói ngọng. Nói ngọng thì công lí khó mà dõng dạc.





18.12.2019  

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 18, 2019 07:43

November 14, 2019

Một bức tường khác

Phạm Thị Hoài





Con đường trước cửa nhà tôi chạy trục Đông Tây. Sáng sớm
hay tắc về hướng Tây, chiều muộn về hướng Đông. Từ bên Đông người ta sang bên Tây
đi làm buổi sáng, buổi chiều từ bên Tây về nhà bên Đông. Dòng chuyển động ngược
lại không diễn ra, bên Đông không có nhiều vẫy gọi. Sau tròn ba mươi năm đổ tường,
Berlin vẫn là một thành phố chia hai, như nước Đức với các bang bên Tây trước
đây và các bang bên Đông sau này gia nhập. 
 





Sự cách biệt là không thể phủ nhận và ở mọi bình diện. Trước hết là lựa chọn chính trị. Hậu duệ của đảng cộng sản Đông Đức, các thể loại, tất cả đều dân túy cánh tả, cũng như AfD và Pegida, tất cả đều dân túy cánh hữu, bài ngoại, kì thị sắc tộc, đượm màu Tân Quốc xã, chỉ có thể tồn tại và thậm chí thắng lớn ở bên Đông. Như thể phía Đông không có gì lạ, quá khứ 40 năm chuyên chế kinh hoàng chưa nguôi lại bước ngay vào những kịch bản kinh dị khác. Về kinh tế, cả 30 tập đoàn niêm yết trên Chỉ số Dax đều ở bên Tây. Trong 200 chức lãnh đạo chủ chốt tại đây, bên Đông chiếm 3, không ở tầng cao nhất. Trên “sân nhà”, người bên Đông chiếm chưa đầy 20% hàng ngũ lãnh đạo, 14% hiệu trưởng đại học, 25% giám đốc nhà hát. Ở cấp liên bang, bên Đông chiếm 1,7% vị trí lãnh đạo bộ máy nhà nước; 3 trong 60 quốc vụ khanh; 3 trong 120 vụ trưởng; 0% thẩm phán cấp cao; 1% tướng lãnh; 0% tập đoàn truyền thông lớn; 0% hãng hàng không đầu đàn; 0% nhãn thời trang nổi tiếng; 0% hãng bán lẻ toàn quốc; 2 trong 18 câu lạc bộ bóng đá hạng Bundesliga. 5 trong 500 người Đức giàu nhất có địa chỉ bên Đông, song đều là người bên Tây sang lập nghiệp; vài trăm trong 20.000 triệu phú cũng tương tự. Thương hiệu bên Đông duy nhất chiếm thị trường cả nước là một nhãn rượu sủi, nhưng lại thuộc sở hữu của một tập đoàn bên Tây. Thu nhập, tài sản tích lũy, tỉ lệ thất nghiệp, năng suất lao động, phân bố giàu nghèo, phát triển dân số, cơ sở hạ tầng, văn hóa, giáo dục, tỉ lệ học sinh không tốt nghiệp trung học, thể thao, du lịch, thời trang, hoạt động thiện nguyện, xã hội dân sự, internet tốc độ cao, số người sử dụng mạng xã hội, thực phẩm hữu cơ… bên Đông đều đứng cách bên Tây một đoạn, trung bình so với mặt bằng chung Châu Âu và khá hơn so với các nước Đông Âu, song so với bên Tây vẫn rõ ràng chậm tiến.   





Những con số thống kê cũng xác nhận câu chuyện của cảm giác. Ngồi trên tàu nhìn qua cửa sổ, không đọc tên ga, bên Đông bên Tây vẫn hiện ra mỗi bên một thần thái khác. Những mảnh vườn cuối tuần tuy đặc Đức, nhưng Đức bên này và Đức bên kia. Vườn bia, phố xá, nhà cửa, nhìn phòng khách là biết xuất xứ của chủ nhân. Nhất là rèm che và khăn trải bàn, như thể ngoài tua rua và đăng-ten, bên Đông không có định hướng thẩm mĩ nào vững vàng hơn. Có lần vài người bạn và tôi muốn đi ăn tối nhân một dịp đặc biệt. Tôi muốn dẹp định kiến, đề nghị cả nhóm thử một lần sang bên Đông, chẳng lẽ mênh mông bên đó toàn sa mạc ẩm thực. Nhưng tôi đã không đủ sức thuyết phục. Ăn thưởng thức, tìm ý tưởng, chi kha khá tiền, nghe địa chỉ ở trời Đông là các bạn lắc. Cái nhà hàng haute cuisine định chọn ấy chiếm một trong 28 sao Michelin của thành phố, đầu bếp có tiếng, thực đơn kết hợp tinh túy năm châu với sản phẩm địa phương thân thiện môi trường. Chắc chắn chất lượng cao. Chắc chắn tía tô Nhật shiso, quýt Nhật yuzu, nước tương Nhật kamebishi, cá vược Thụy Điển, sò điệp Bretagne, trứng cá Biển Đen, nấm cục Piemont, hạt tiêu Kampot, cà-rốt đen và củ dền Đức như chuẩn mực ở những nơi sang chảnh. Nhưng nó nằm nhầm phía. Ở một ngã tư bên Đông, vỉa hè vắng tanh và xe cộ lao nhanh, chung hệ sinh thái với một Burger King, một tiệm móng tay Việt, một casino Ả-rập, một quầy ăn nhanh Thổ và những ngôi nhà cao tầng, giải pháp đồng phục nhanh nhiều tốt rẻ từng là niềm tự hào của bên Đông và còn dư để đem tặng cho ít nhất hai thành phố Viễn Đông là Vinh và Hà Nội. Kiến trúc lắp ghép vô hồn ấy thậm chí được tuyên bố là chọn lọc từ Bauhaus, khi trường phái này được các nhà văn hóa mác-xít khôi phục chút xíu danh dự sau những thập niên bị dán mác chủ nghĩa hình thức, vị nghệ thuật. Những góc phố như thế có hết, trừ một lít không khí riêng. Một chút gì đó, có thể đô hội hay thậm chí ngược lại; một chút cảnh vẻ hay trần trụi, cường điệu hay dụng ý khiêm nhường; gì cũng được, chỉ một chút, nhưng phải có để thổi hồn, để những chiếc khuôn của phồn vinh đỡ chán ngấy.





Như thường thấy ở kẻ đến sau, nhu cầu cập nhật của người bên Đông rất mạnh mẽ. Tại những quận phía Đông buồn bã nhất thành phố, nơi đa số dân chúng không nói tiếng Anh, người ta đặt tên con là Jason, Cindy, Kevin thay vì những cái tên thuần Đức Hans, Sabine, Gerhard; đàn ông diện áo Camp David chi chít logo và quần bò hầm hố đai kiện; đàn bà tóc tẩy đeo tất cả những thứ leng keng lấp lánh lên người. Dân Đức vốn ăn uống tiết chế, tới mức khiêm tốn hay thậm chí keo kiệt, dầu nhớt cho xe ăn thì dùng loại xịn nhất, dầu chiên trong bếp cho miệng mình thì dùng loại bèo nhất; song bên Tây đã trải qua mấy thế hệ phép màu kinh tế, đã ra vào chán chê ở các thiên đường tiêu thụ, khẩu vị đã được khai phóng đáng kể, Nouvelle Cuisine đã hình thành cả nửa thế kỉ, sự phù phiếm bắt buộc của nghệ thuật – ở đây là nghệ thuật đầu bếp – từ lâu không còn mang tiếng suy đồi, xa hoa không còn là tội lỗi, đạo đức Tin Lành đã qua giai đoạn kiên quyết phát huy nếp sống cần kiệm khổ hạnh để xây dựng thành công chủ nghĩa tư bản. Bếp bên Tây đã vượt ra ngoài vành đĩa cố hữu của dân tộc tính German. Bên Đông, đến muộn, sau bốn mươi năm cố thủ trong sự no đủ sơ đẳng của nền kinh tế kế hoạch xã hội chủ nghĩa, chiếm lĩnh trong chớp mắt những thành tựu ẩm thực bấy lâu khao khát của phương Tây, nhất là khi miếng Hamburger, chai Coca-Cola, bịch ngũ cốc Kellogg nằm ngay dọc đường đến tự do dân chủ. Thế hệ những bà mẹ Đông Đức, thiếu thịt thăn, chế ra món Jägerschnitzel từ khúc dồi bạc nhạc đã lùi vào quá khứ. Bây giờ mỗi thị trấn nhỏ bên Đông đều đã sắm xong hành trang cho công cuộc chinh phục ẩm thực quốc tế, caffellatte, pizza, kebab, tandoori, sushi, cơm rang, vằn thắn, song sau ba mươi năm tự do khẩu vị, khí quyển ẩm thực chốn này vẫn núp quẩn bên trong vành đĩa vốn cao như bức tường Berlin đã đổ. Không hẳn là tù túng nhưng thụ động, thiếu khát vọng và bản lĩnh, thiếu những câu chuyện riêng. Không phải ngẫu nhiên, trừ ngoại lệ Berlin, trong 309 nhà hàng với 357 sao Michelin trên toàn nước Đức, bên Đông chiếm vỏn vẹn 12, tập trung vào một số thành phố lớn và vùng du lịch. Còn lại là thành trì của khoai tây xúc xích, rau nghiền và thịt hầm.





Vài ngày có thể đủ để thay một nếp sinh hoạt. Vài tuần để làm một cuộc cách mạng thời trang. Vài tháng để giáo sư Higgins trong vở kịch của George Bernard Shaw luyện một cô gái bán hoa nói giọng một quý bà. Vài năm để lột xác tư tưởng. Nhưng ít nhất vài thế hệ để chuyển hóa một khẩu vị. Như tín ngưỡng, ẩm thực là lĩnh vực bảo thủ hạng nhất.





Tuần báo Trẻ, 14.11.2019

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 14, 2019 13:55

November 7, 2019

Nhẹ tênh kí ức

Phạm Thị Hoài





Ba mươi năm đổ tường 9/11/1989-9/11/2019





Lúc làm đơn xin xem hồ sơ cá
nhân tại văn khố Bộ An ninh Quốc gia CHDC Đức trước đây (Stasi), tôi không chắc
chắn lắm. Sinh viên Việt Nam được tuyển đi du học nước ngoài thời Chiến tranh Lạnh
là đã qua bể lọc của chế độ mà bản thân họ đa phần không biết; đã tẩy não tư tưởng;
đã khử trùng đạo đức; lại sống trong môi trường khép kín trong sạch, trên có sứ
quán, dưới có hội đoàn; hàng năm chỉnh huấn trong các trại hè; hàng ngày tự động
kiểm soát lẫn nhau trong từng chi tiết sinh hoạt, quần áo đồng loạt, thần thái
giống nhau cả. Với những người ngoại quốc mẫu mực như vậy, mật vụ các nước xã hội
chủ nghĩa anh em không có việc gì phải làm. Song tôi biết trường hợp mình hơi khác.
Nếu không thì một ngày mùa đông đầu năm 1981, trời còn tối thui, hai chú cảnh
sát Đông Đức đã chẳng ập vào phòng tôi ở kí túc xá. Họ không gõ cửa. Tiến thẳng
tới giường tôi nằm. Rọi đèn pin, dù đã bật điện. Hỏi đêm qua tôi ở đâu. Tôi xem
đồng hồ, nhăn nhó, các ông cứ hỏi cái giường này là biết, làm ơn để tôi ngủ tiếp,
mới có 4 giờ sáng. Cho đến khi tôi học xong rồi trở về nước, họ không phá thêm giấc
ngủ nào của tôi nữa, nhưng một lần duy nhất ấy có thể là chỉ dấu rằng ở đâu đó
trong 41 triệu thẻ index
111 km hồ sơ
nguyên
vẹn, hay ít nhất trong 15.500 bao tải hồ sơ đã xé thành giấy vụn của Văn khố
Stasi có vết tích của một sinh viên Việt Nam là tôi, khi ấy đang theo học cũng
chính ngành lưu trữ văn khố, ngành được chế độ ủy thác kí ức.





Sáu tuần sau có thư phúc
đáp, xác nhận tôi có tên trong hệ thống thẻ của Stasi, tức có thể có hồ sơ,
nhưng kết quả thế nào thì cần thêm hai năm là ít nhất. Từ ngày mở kho đầu năm
1992, cả chục triệu cá nhân và tổ chức đã gửi đơn đề nghị xem hồ sơ, trong khi
hơn một nửa số tài liệu lưu trữ ở đó chưa được xử lí. Nói cách khác, mời bà vui
lòng xếp hàng. Hai năm tám tháng sau, tôi nhận được bản sao hồ sơ của mình, đơn
giản chuyển phát qua bưu điện, miễn phí.









Tôi biết phần đời sinh viên
của mình chỉ bám rất hờ vào bề mặt của cuộc sống thật ở đất nước này. Mức tiến
sâu nhất là bỏ kí túc xá, khi tôi ở đó chỉ là để đối phó với gói dịch vụ gồm nựng
nịu, cưỡng bức, đe dọa và hứa hẹn che chở từ chính một người Việt cùng lớp. Như
giới trẻ phá rào tại Đông Berlin, tôi cũng đi chiếm nhà cổ bỏ hoang ở khu Prenzlauer
Berg, nằm mền rách, đốt báo sưởi, hùng hục đi tìm một nhà vệ sinh dơ dáy bên
ngoài và ngồi cầu thang cả ngày chờ người quen cho vào tắm nhờ một bữa. Thực ra
tôi chỉ tận hưởng những hân hạnh của tuổi trẻ muốn và được cơ hội khám phá bản
thân. Không phải là khám phá môi trường, tôi mới chỉ chập chờn nhận ra không
khí nhạy cảm ở khu này đầu những năm 80, nơi giới trí thức văn nghệ sĩ đối lập và
mật vụ Stasi rình rập sống cài răng lược. Làm sao khác được. Tôi sẽ về nước, bỏ
lại tất cả, sáu năm bánh mì đen, những cuộc tình, những tụ tập kín đáo của
phong trào hòa bình trong giới chống đối, những băng nhạc từ phương Tây chép vội,
những cuốn sách luồn tay trước khi bị cấm, những đêm hippie quần bò tự
may thuốc tẩu tự cuốn, và kỷ niệm không thể nào quên về bài học đầu tiên trên
giảng đường, Karl Marx, Dẫn luận, Phê phán triết học luật pháp của Hegel,
mà tôi rõ từng từ và không hiểu gì hết, chỉ lĩnh hội thuộc lòng “tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân”. Nhưng ý tưởng ấy xuất phát từ một bộ óc khác, thi
hào Heinrich Heine.





Rồi có cô sinh viên Đức đến ở
cùng, cũng mền rách, cũng chạy vệ sinh hùng hục, tắm ở đâu thì không biết. Khi
trở lại một nước Đức đã thống nhất, nghe bạn cùng khóa kể cô ấy là mật báo viên
của Stasi, tim tôi rơi bụp khỏi ngực nhưng nhanh chóng rút về vị trí. Lúc chiếu
tướng chiếc phong bì đóng dấu của cơ quan quản lí hồ sơ mật vụ Đông Đức cũng thế,
tôi nhủ tim nằm im, nhưng không tin sẽ chạm phải một quả bom hẹn giờ quá bất ngờ.
Cuộc đời của biết bao người Đức đã tan tành bởi lượng thuốc nổ khui muộn mà
300.000 nhân viên chính thức và cộng tác viên tình nguyện của Stasi kĩ lưỡng thu
thập và khóa kín bốn mươi năm ròng rã. Vợ chồng bỗng tê tái biết kẻ chỉ điểm đâu
phải ai lạ, chính là người hằng đêm đầu ấp tay gối. Kẻ tưởng ta đây lắm chiêu đổ
tội bỗng chết lặng khi biết mình chỉ là quả trứng thối trong túi của những con
thú dữ tợn hơn. Cha mẹ thành nỗi nhục sau thống nhất của con. Hàng xóm nhìn
nhau ghê tởm; té ra không phải thằng cha lỗ đít ở tầng trên mà bác về hưu rất
hiền ở tầng dưới đã miệt mài viết hàng trăm trang báo cáo gửi mật vụ. Bạn bè đồng
nghiệp ngã ngửa, đen trắng trần trụi hiện ra kinh hoàng, nhất là trong giới văn
nghệ sĩ trí thức. Người thành thực phát ngôn cho các nạn nhân trong đó có chính
mình, tiếc thay cũng từng là thủ phạm, như nhà văn nổi tiếng Christa Wolf, mật
danh “Margarete”. Nhân tiện, ông Johannes
Schellenberger, người đã đánh giá cao bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Đức của Irene và 
Franz Faber, không phải là một nhà phê
bình văn học Thụy Sĩ
“sống bên kia bức màn sắt của thời kì chiến tranh lạnh” như được giới
thiệu trong lần tái bản tác phẩm này gần đây. Ông từng là thư ký Hội Nhà văn
CHDC Đức, biên tập viên của một số nhà xuất bản và đồng thời là mật báo viên của
Stasi, mật danh “Hannes”. Nhưng ông cũng từng là một
nạn nhân với 14 tuần ngồi tù. Trong bưng bít mịt mù của một nhà nước mật vụ, ai
cũng có thể tay này là đao phủ xử chính mình, tay kia thọc dao vào kẻ
khác.        





Chuyện của tôi nhẹ nhàng hơn
nhiều lắm. Trong cái đêm bị rọi đèn pin vào giường, bạn trai tôi khi ấy bỏ trốn
qua một lỗ thủng thú vị của bức tường sắt. Tôi đã giúp, nhưng sẽ lố bịch nếu nhận
đó là một hành vi chính trị. Đó đơn thuần là tình yêu và một chút gì như sự vô
úy bản năng của tuổi trẻ. Stasi không tự động vào cuộc, họ được một “đồng chí
Hung” nào đó của phía Việt Nam yêu cầu. Từ ngày 26.1.1981 đến ngày 08.11.1983, Phòng
X – hợp tác với an ninh các nước xã hội chủ nghĩa – liên kết với Phòng XX – phụ
trách an ninh bộ máy nhà nước, thể thao chuyên nghiệp, nhà thờ, văn hóa và giới
đối lập – của Stasi đã tác nghiệp mà tôi không hay biết. Họ bí mật kiểm tra thư
từ và theo dõi giờ sinh hoạt; giao cho một nữ sinh viên Đức cùng kí túc xá nhiệm
vụ báo cáo mật; bám đuôi một bạn châu Phi mỗi lần gặp tôi là chìa một Pink
Floyd mới; lục phòng tìm tài liệu mà có người mách rằng tôi đã đánh cắp từ Viện
Lưu trữ Quốc gia khi đi thực tập; và đưa một người hoàn toàn vô can vào tầm ngắm,
chỉ vì người phụ nữ lịch duyệt ấy, giữ một chức không nhỏ trong Cục Lưu trữ Nhà
nước và là vợ ông giáo sư đầu ngành, thích tám với tôi cô gái khờ, toàn những
chuyện ngoài chuyên môn nhưng đọng lại khi tôi đã quên sạch kiến thức nghiệp vụ
của 5 năm đèn sách. Và ngẫu nhiên bà là người Do Thái. Ra sân bay tiễn, bà giúi
vào tay tôi một lọ nước hoa không thể mua bằng tiền Đông Đức, tôi giúi vào tay
bà bức thư dán kín kể chuyện người bạn trai vượt tường. Phòng trường hợp xấu nhất.
Sau này gặp lại, bà khóc, bảo đã linh cảm.  





Thiệt hại của tôi không đáng
kể. Tôi chỉ bị tống cổ khỏi ngành khi về nước. Tầm nhìn xa của những đồng chí
Hung nào đó và sự cần mẫn khét tiếng của Stasi đã may mắn cứu kí ức của chế độ
khỏi ủy thác vào tôi. Và may mắn của tôi là được nhận một số phận khác. Đọc đến
trang hồ sơ Stasi cuối cùng, phần đời đã sống mà không biết của tôi cũng khép lại,
không còn gì ám ảnh, không gánh nặng của những câu hỏi bất hạnh, không cả oán
trách hay một nỗi buồn. Nhẹ tênh, so với vô vàn câu chuyện khác.   









Đó là một tờ giấy đánh máy ố vàng đề ngày 14.3.1950, báo cáo của đồn công an Dejvice, Praha, số hồ sơ 624/1950-II. Nội dung: Lúc 16 giờ chiều hôm đó, sinh viên Milan Kundera, sinh ngày 1.4.1929 tại Brno, trú tại kí túc xá Kolonka, đã đến đồn công an khu vực này khai báo. Rằng hôm nay, cô sinh viên Iva Militká cùng kí túc xá ngẫu nhiên gặp lại một người quen tên Miroslav Dvořáček. Người này có gửi một chiếc va-li ở phòng cô, hẹn buổi tối sẽ quay lại. Công an ập đến, khám đồ, ngồi chờ và còng tay Dvořáček khi anh xuất hiện đúng hẹn lúc tám giờ tối. Dvořáček là một phi công Tiệp đã trốn sang Tây Đức sau vụ Đảng Cộng sản Tiệp đảo chính tháng Hai năm 1948, hất cẳng và thẳng tay thanh trừng các đảng khác đang chiếm đa số trong quốc hội. Anh nhận nhiệm vụ trở về Tiệp do thám và móc nối tổ chức cho lực lượng đối kháng của Tiệp ở nước ngoài được Mỹ hỗ trợ.





Dvořáček bị kết án 22 năm tù, tội đào ngũ, gián điệp, phản bội Tổ quốc. Cho đến cuối đời ở chốn lưu vong tại Thụy Điển, ông vẫn đinh ninh người tố giác mình là Iva Militká, cô bạn ở kí túc xá. Gia đình Iva Militká lại nghi chồng cô, khi ấy là bạn trai, là kẻ chỉ điểm. Bản thân bà suốt đời dằn vặt, trước khi được chồng tiết lộ rằng hôm đó ông đã đem việc Miroslav Dvořáček định tá túc ở Kolonka kể cho một người bạn. Đó là một sinh viên, một đảng viên cộng sản nhiệt thành, từng làm những bài thơ ngất ngây say chế độ mới. Tên chàng là Milan Kundera.





Năm mươi tám năm sau, một nhà báo thuộc Viện Nghiên cứu
các Chế độ Toàn trị
của Tiệp mới tìm
ra câu chuyện ấy và công bố trên tờ Respekt. Milan
Kundera đã từ lâu trở thành biểu tượng của lương tri nghệ thuật chống cường quyền
toàn trị cộng sản và sống lưu vong tại Pháp. Hàng loạt nhà văn lừng danh thế giới
đứng ra bênh vực đồng nghiệp Tiệp nổi tiếng của mình. Bản thân Milan Kundera thì
khẳng định mình chẳng hề liên quan, ai đó đã mạo danh ông đi chỉ điểm. Chắc người đó đã
cầm nhầm thẻ sinh viên của ông để xuất trình. Mọi chuyện đều có thể xảy ra
trong một chế độ bịt bùng.





Không như chúng ta tin hay mong, lịch sử chưa bao giờ là một chuỗi ánh sáng liên tục của những sự thật trong vắt. Sự thật duy nhất hoàn hảo của câu chuyện này là những năm tù đày của Dvořáček. Còn lại là những khoảng tối trĩu nặng, trong khi kiếp nhân gian thì nhẹ khôn kham. Và nhẹ tênh, nhẹ không chịu nổi, là kí ức, ố vàng trong văn khố.





Tuần báo Trẻ, 7.11.2019

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 07, 2019 02:00

October 17, 2019

Hậu lễ, tiên văn

Phạm Thị Hoài





Nếu ra đời sớm hơn
tròn 70 năm, Giải Nobel Văn chương hẳn phải được trao cho Johann Wolfgang
Goethe, một ca lí tưởng, để một năm sau vị đại thi hào dân tộc của người Đức
này qua đời với trọn vẹn công danh sự nghiệp và những phụ tùng cuộc sống đáng
giá mà một người viết có thể mơ ước. Và để hậu thế phũ phàng báng bổ, như một
tác gia tiếng Đức lừng danh khác đã làm với tất cả khoái lạc. Goethe là cái gai
khổng lồ mà nhà văn Áo Thomas Bernhard đã miệt mài nhổ, như đào tận gốc trốc tận
rễ, lần cuối cùng trong tác phẩm đỉnh cao cuối cùng của ông, Diệt vong. Rằng Goethe là một
kẻ cơ hội trong cuộc đời, một thằng nhóc mút tay và một tiểu thị dân trong triết
học, một gã kê biên sỏi đá, sưu tầm côn trùng và nhặt nhạnh châm ngôn, một tên
thày bói bịp bợm, một tay lang băm hớp hồn dân Đức, một kẻ đóng chai cho món mứt
tâm hồn Đức để người Đức dùng quanh năm. Rằng Goethe là kẻ đào mồ chôn tinh thần
Đức, xén cụt cái tinh thần ấy xuống kích thước trung bình và phản bội nó đến
vài thế kỷ, bởi chính y, lãnh vực nào cũng nhúng tay và lãnh vực nào cũng chỉ đạt
những thành tựu vừa phải. Rằng về văn chương, tác phẩm Faust của Goethe
chỉ là một thử nghiệm vĩ cuồng thất bại toàn tập. Và về tầm vóc, so với
Voltaire, Descartes, Pascal, Kant, Hölderlin, Musil, Kleist thì Goethe bé nhỏ đến
thảm hại. Nếu Shakespeare như loài chó săn cao lớn của vùng núi Thụy Sĩ thì
Goethe như chó lạp xưởng chân lùn một mẩu của vùng ngoại ô Frankfurt. Hãy thận
trọng khi dùng thuốc vạn năng Goethe, rủi ro là rất cao; bạn sẽ bị ù tai, loét
dạ dày, sẽ xơi món rau trộn tầm thường mà cứ tưởng cao lương mĩ vị, sẽ chiêm
ngưỡng mảnh vườn vụn cho thị dân Đức cuối tuần thư giãn mà đinh ninh là kì quan
thế giới: bạn sẽ bị xỏ mũi.  





Không chỉ Goethe. Nhà
văn Trung Quốc Dư Hoa hăng hái chống Lỗ Tấn, như chống tất cả những uy tín quá
lớn và quá lâu đời. Bertolt Brecht gọi Thomas Mann cha chú là thợ viết thuê cho
bọn tư sản, nhạt chết người. Kafka, trẻ măng, phê bậc lão thành Stefan Zweig giỏi
ngụp lặn trên bề mặt nông choèn của cuộc đời. Tác giả của Tướng về hưu vận
hết phép xã giao cũng chỉ có thể nhận xét tác giả của Bỉ vỏ là người chịu
khó viết. Với Nabokov, Balzac là một phóng viên xoàng; Joseph Conrad viết như
bán hàng lưu niệm; Henry James hoàn toàn là của rởm. Còn Dos, đó không phải là
cái mụn mới mọc trên mũi của nền văn học Nga như Turgenev từng kêu ca, mà với
Nabokov, Dos là một tai họa; một ca rẻ tiền, ẩu tả, cuồng chính trị và tôn giáo;
tác giả của những tình huống ắc ơ lãng xẹt, những nhân vật thường xuyên tái mặt,
đỏ mặt hay lảo đảo, những nàng gái điếm tâm hồn lá cải bao la và những chàng sát
nhân suốt ngày đêm trăn trở; một cơn ác mộng về sự đa cảm tầm phào. Và ông đe:
chớ nhầm đa cảm với nhạy cảm. Người
nhạy cảm không bao giờ có thể tàn nhẫn, nhưng bọn đa cảm thì như Lenin,
nghe vở opera La Triviata là khóc rưng rức. Các bạo chúa trong lịch sử
nhân loại quả thật đều lâm li, đa phần đều làm thơ du dương, thích nghe nhạc lay
động và ham tranh tượng nhà cửa vườn tược kích cỡ áp đảo.





Hậu sinh vô lễ với
tiền bối trong văn nghệ là thái độ phổ biến hay thậm chí là tất yếu. Kẻ đến sau
không có bàn đạp nào tuyệt vời hơn chỗ mà hắn cho là bất cập của người đi trước.
May mắn cho hắn, ở đó lễ không có quyền gì đi trước văn. May mắn cho hắn, văn
chương luôn bất cập. Toàn bích chỉ là một hư cấu viễn tưởng. Thiên tài là bất
khả nếu không sinh xuất từ những sở đoản hay điểm mù nhất định. Và vinh dự cho
bậc tiền bối được làm vạch xuất phát của những xung đột mới, được sống lại và sống
tiếp trong mối bận tâm của những đối thủ bất ngờ. Có bao nhiêu người đi trước
được như vậy? Không ai đi tìm chỗ bất cập của một nhà văn trung bình. Hậu thế
chỉ cho rằng người ấy chưa từng viết một trang nào. Sự trung bình không khiến
ai bận tâm, không đáng cho ai vô lễ.





Peter Handke, vừa được trao Nobel Văn chương năm nay, từng chiếm
văn đàn ở tuổi 23 khi chưa hề ra một tác phẩm. Tháng Tư 1966,  Nhóm 47 (Gruppe 47) gồm những tên tuổi
nổi nhất trong văn giới Đức ngữ họp mặt tại Đại học Princeton
danh giá ở Mỹ. Ngày họp cuối cùng, sau tất cả những tác phẩm và nhận định đã
nghe từ các đồng nghiệp kì cựu, toàn những con dấu đỏ chói đóng chi chít lên diện
mạo văn học tiếng Đức đương thời, chàng thanh niên Peter Handke rụt rè, vô
danh, mặt mũi tóc tai như một thiếu nữ ngơ ngác giữa đám đàn ông dày dạn khói lửa
văn trường, lắp bắp mở đầu năm
phút phát biểu
sau này trở thành huyền thoại. Chàng bảo rằng
mình không thể ngửi nổi cái thứ văn chương vớ vẩn này nữa. Đó là một thứ văn chương
liệt dương trong miêu tả, vì chẳng biết làm gì khác ngoài cái cách viết văn dễ
dãi nhất ấy. Chẳng suy tư gì hết, không ngỏng lên một chút sáng tạo nào, chỉ
vin vào cái khái niệm kì quặc là “tân hiện thực” với một triết lí cho
sẵn, một thế giới quan cho sẵn, rồi nhồi một đống chi tiết tẻ nhạt như chép từ
điển. Nó có vẻ cũng tính sổ với một số nhược điểm của văn chương thời trước, chẳng
hạn rất thận trọng với ẩn dụ, nhưng không trình ra được một tư thế nào mới mẻ, chỉ
tự giới hạn trong một tinh thần “tân khách quan” rất sơ đẳng. Nghĩa vụ
của nó với hiện thực Đức là nhét bằng được cái tên Auschwitz xuống đũng quần
hay vào mọi mệnh đề phụ. Hình thức thì nệ quy ước khủng khiếp, cả cấu trúc lẫn hành
văn đều chán ngắt. Và giới phê bình thì sống tốt với thứ văn chương đó, vì cái
công cụ phê bình lỗi thời trong tay họ chỉ đủ dùng cho đối tượng ấy, một thứ
phê bình liệt dương ngớ ngẩn cho một thứ văn chương ngớ ngẩn liệt dương.      





Cú đánh giáp lá cà ấy tất nhiên không phải là liều viagra
cho văn học tiếng Đức, song nó kéo theo ba hệ quả. Một, sự tan rã của Nhóm
47
– với những siêu sao như Günter Grass đang lừng lẫy với thành công của Cái
trống thiếc
, Heinrich Böll sẽ lãnh Giải Nobel không lâu
sau đó, hay nhà phê bình được mệnh danh “Giáo hoàng văn chương”
Marcel Reich-Ranicki. Tao đàn này chỉ còn hội họp miễn cưỡng một lần nữa sau sự
kiện Princeton rồi giải tán. Hai, sự chấm dứt của nền văn học bày tỏ chính kiến
và thanh toán quá khứ Quốc xã suốt hai mươi năm hậu chiến. Những cơn gió thời đại
mới đã nổi lên. Chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Lửa Cách
mạng Văn hóa ở Trung Quốc đã cháy rực trong tim các Hồng Vệ binh. Chỉ hai năm
sau, phương Tây sẽ nằm trọn dưới ảnh hưởng của Thế hệ 68. Và ba, Peter Handke
trở thành một hiện tượng văn học.





Hơn một nửa thế kỷ, từ một enfant terrible nổi loạn chống
các thế hệ trước tới một poeta doctus uyên thâm đầy ảnh hưởng đến các thế
hệ sau, từ một ngôi sao pop chói mắt trong văn chương tới một tác gia
kinh điển nghiêm trang, ông là một vũ trụ rậm rạp của 11.000 trang sách, với độc
giả này là nhiêu khê rối rắm, với độc giả khác là đầy kì thú và cũng lắm bực
mình. Những người tuyên bố đã cai văn ông vẫn nghiện trở lại, những người thề
không đọc ông nữa vẫn bội ước với bản thân. Ông đóng và mở những cánh cửa của bên
trong của bên ngoài của bên trong
; bao giờ
cũng là một kẻ ngược dòng; coi mỗi câu văn chết non, mỗi dấu phẩy đặt sai vị
trí của thiên hạ là xúc phạm cá nhân; coi viết không phải là nghề, càng không
phải là sứ mạng, mà là tồn tại và phương thức tồn tại; người không có gì để nói
và vì thế phải viết, như ông tự nhận; một nhà ảo thuật ngôn ngữ và kiến trúc con
chữ tinh tường, sau một đời viết vẫn chăm bón sự ghê tởm tột cùng với tất cả những
gì sáo mòn và nếu cần thì đơn thương độc mã đi sâu vào một vùng hoang vu để mở
những đường vào lắt léo. Ông cống hiến cho văn chương nhiều hơn so với hàng chục
chủ nhân mà chúng ta đã quên của Giải Nobel. Song ông cũng
người biện hộ nổi tiếng
cho những tội ác diệt chủng của chính quyền Milošević trong Chiến tranh Nam Tư suốt thập niên
90. Nhưng ông không phải là nhà văn sáng giá đầu tiên mù quáng chính trị. Ezra
Pound, Louis-Ferdinand Céline, Knut Hamsun, những tác gia lừng lẫy ấy không
chỉ thụ động biện hộ mà hăng say dấn thân cho lí tưởng phát-xít. Cả ba đều bị kết án, đều được ân xá, đều
không rút lại một phân xác tín khủng khiếp của mình cho đến cuối đời, và đều trụ
vững trong văn chương. Céline đã ngự trong Bibliothèque de la Pléiade từ lâu. Ezra Pound thậm chí được bầu vào American
Academy of Arts and Letters
năm 1938, khi đang hô
hào diệt Do Thái cho Mussolini. Knut Hamsun chỉ mất chiếc huy chương Nobel
đã đem tặng Goebbels để tỏ lòng ngưỡng mộ, nhưng còn nguyên vị trí nhà văn Na
Uy lớn nhất thế kỉ 20. Tác phẩm không bao giờ trùng khít với tác giả, tác phẩm càng
phi thường càng dễ chênh với kích thước bình thường của con người tác giả. Nhà
văn đáng giá nhiều khi không đáng quý và hiếm khi đáng mến.   





Tôi không đọc Peter Handke vì những suy tư hư ảo của ông về các vấn đề bề bộn của vùng Balkan, mà để sống những cảm hứng từ một sự nghiệp văn chương tài hoa, khởi đầu bằng năm phút vô lễ ngoạn mục.





Tuần báo Trẻ (Hoa Kỳ) 17.10.2019

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 17, 2019 02:00

October 7, 2019

Chân dung một văn nô kệch cỡm

Phạm Thị Hoài biên soạn





Lời cảm ơn: Chân dung này được ghép từ
những thông tin và nhận định nghiêm túc của nhiều tác giả, đã công bố trên báo
chí và truyền thông tiếng Việt trong nước và hải ngoại. Tôi mong không bị khép
vào tội đạo văn, vì đã không trực tiếp xin phép từng người khi sử dụng lại sản
phẩm trí tuệ của họ tại đây, song hi vọng họ có thể kiêu hãnh tự nhận ra mình
dù năm tháng đã khiến chúng ta phần nào thay đổi.





Phạm Thị Hoài





Phạm
Thị Hoài sinh năm 1960 tại Gia Lộc, Hải Dương. Cha người Nông Cống, Thanh Hoá,
gọi tên tay sai bán nước Phạm Quỳnh là bác; ông nội làm đốc học tỉnh Thanh từng
cộng tác chặt chẽ với chính quyền thực dân-phong kiến. Mẹ người phố Châu Long,
Hà Nội, nhà chuyên buôn hàng tấm, nhiễm lối sống thị dân sa đọa khi những cô
gái cùng lứa đang đổ máu và mồ hôi trên những nẻo đường kháng chiến. Tuy cả hai
là giáo viên, nhưng uất ức khi bị đầy ải từ cuộc sống ăn trên ngồi trốc của con
nhà quan và con nhà buôn xuống cảnh lầm than ở các làng xóm nghèo của tỉnh Hải
Dương, họ đã mặc cho con mình thất học. Thị Hoài đã phải nhảy cóc qua hai lớp
đầu. Cái lỗ hổng ấy cả đời vốn đã không lấp nổi, lại cộng thêm hành trang rỗng
tuếch của việc học hành loạng quạng đèn dầu nơi sơ tán, tâm trí bị chia cắt bởi
từng gam mì chính trong các ô tem phiếu, khiến sau này, bị ám ảnh bởi mặc cảm
thất học, thị đã gồng mình đào thoát khỏi thành phần xuất thân ấy, trở nên một
học trò hãnh tiến, tìm mọi cách lọt qua kỳ thi tuyển du học ở nước ngoài. Từ
nông thôn Việt Nam, thị nhảy dù xuống trung tâm văn minh Đông Berlin, theo học
ngành lưu trữ ở Đại học Humboldt. Tại đây, thị tiếp tục khỏa lấp nguồn gốc thất
học của mình bằng cách làm một con mọt sách, nốc vội nốc vàng mọi thứ và trở thành
bội thực, tẩu hoả nhập ma, rút cuộc chỉ tiêu hoá nổi những cặn bã của văn minh
phương Tây. Mặt khác, thị dùng thành tích học tủ, với số điểm luôn đạt mức
tuyệt đối của mình, làm sức ép, khiến Đại Sứ quán Việt Nam tại Đông Đức đành
làm ngơ trước lối sống ngày càng tha hoá, dâm loạn, vô tổ chức và ra vẻ nổi
loạn kiểu dê non háu đá của thị. Quá trình mất gốc và bệnh hoạn của Thị Hoài
hình thành trong chính thời gian này.





Trở
về nước, không được trọng dụng, chỉ được giao một chân khiêm tốn là công tác tư
liệu tại Viện Sử học ở Hà Nội, thị ngày càng bất bình. Lợi dụng thời gian nhàn
rỗi, thị chỉ ngồi đọc sách vỡ hàng rổ kính và nhen nhóm ý định trả thù xã hội.
Do quá buồn chán và rảnh việc, thị cũng theo học lỗ mỗ một số ngoại ngữ khác để
dùng những bằng cấp kiếm cơm này làm đường tiến thân, cuối cùng cũng xin xỏ
được vào làm cán bộ nghiên cứu của Viện Tôn giáo thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội
Việt Nam. Nhưng môi trường nghiên cứu hàn lâm đòi hỏi những đức tính mà thị
không thể có nổi, như sự nghiêm túc, chính xác, trung thực và nhất là một nền
tảng kiến thức và học vấn vững chắc, trong khi thị chỉ nổi tiếng với những phát
ngôn bừa bãi đầy cảm tính, sự học mót, học gạo, sự láu cá và những lỗ hổng kiến
thức kinh hoàng. Thấy tương lai khoa học xa vời, lại háo danh, thị quyết định chuyển
sang một nghề có vẻ dễ ăn hơn là viết văn.





Thị Hoài đã gặp may. Bước vào
làng văn gặp ngay phong trào Đổi mới, chỉ cần viết cho có nét một chút, chửi
đời thật nhiều, chửi Đảng thật nhiều là thành anh hùng, được hâm mộ, được dịch
ra tiếng nước ngoài, thị đã không bỏ qua cơ hội này, trình làng cuốn tiểu
thuyết miniThiên sứ. Tuy còn khá nhiều dấu vết của sự bắt chước và làm dáng
trí thức, chủ yếu là bắt chước lối viết của các nhà văn hiện sinh chủ nghĩa đã
cáo chung, cộng thêm một chút triết lý ranh mãnh, những biếm nhẽ đỏng đảnh,
những cảm động nhợt nhạt dễ thương và sự nổi đoá con trẻ, nhưng tác phẩm này ít
nhiều cũng gây được một chút cảm tình ở một số bạn đọc và được nước ngoài chiếu
cố trao tặng giải thưởng và dịch sang một số thứ tiếng. Nếu quả có một chút tài
hoa thì cái tài ấy của thị chậm nhất đến đây là chấm hết, bởi lẽ không cái tài
nào có thể trường thọ nếu thiếu cái tâm, vả lại tài cán của thị chủ yếu là ở sự
cố tình tỏ ra độc đáo, đánh vào thị hiếu thời thượng của lớp trẻ. Sự may mắn
ban đầu đã làm thị loá mắt, coi thường người đọc, tưởng từ nay muốn nhào nặn
văn chương ra những hình thù quái đản gì cũng được.





Trong thời gian này, thị cũng
bỏ việc ở Viện Tôn giáo trước khi cơ quan đành cho thị thôi việc vì lý do thiếu
năng lực và vô kỷ luật. Sau này thị đã trả thù cho giai đoạn nhục nhã này của
đời mình bằng cuốn tiểu thuyết hết sức cường điệu là Marie Sến. Vô cùng hằn học vì việc không được kết nạp vào Hội Nhà văn
Việt Nam, lại bị Hội phê phán rất chính xác là tác phẩm của thị hạ thấp nhân
cách con người, thị bỏ vào Đồng Nai sinh sống, đồng thời tuyên bố rằng cuộc hôn
nhân của thị với người chồng đồng chủng là tù ngục và tìm mọi cách ly dị, để
chạy theo một người đàn ông Đức nhẹ dạ đến Việt Nam du lịch, và có con với anh
ta, khiến anh ta phải kết hôn với thị. Thị còn ép người chồng Đức phải học
tiếng Việt để có thể dịch tác phẩm của thị sang tiếng Đức cho thêm danh giá.
Mặc cảm nhược tiểu đã khiến thị chọn quê chồng làm quê hương, cuống quýt làm
bổn phận của một nàng dâu văn hoá, hết lòng tâng bốc nước Đại Đức mong được
thơm lây, và cũng vì lý do sinh kế, chối bỏ gốc Việt của mình khi bị người Đức
hỏi. Từ khi mợ nó đi Tây, cô Kếu gái tân thời Thị Hoài chỉ còn một việc là nện
guốc vào đầu những nhà văn hoá lỗi lạc của dân tộc, nhổ nước bọt vào văn hoá
phương Đông, mạt sát, sỉ vả không tiếc lời cái đất nước Việt Nam đã trót dại mà
sinh ra thị, nã đại bác vào văn hoá dân tộc, đốt ngôi đền văn hoá dân tộc để
chứng tỏ mình là một tên đao phủ chém giết không ghê tay, một đứa con phản phúc
đến tanh tưởi.





Trong quá trình băng hoại toàn
diện như vậy, văn chương của Thị Hoài mỗi ngày một tha hoá, rơi sâu vào vực
thẳm, dường như đã hết thuốc chữa. Như người nghiện thuốc phiện lâu ngày, liều
lượng chỉ tăng chứ không giảm, văn phong của thị ngày càng mục rữa thối nát,
nét khai phá táo bạo của buổi ban sơ đã biến thành mụn nhọt lở loét mưng mủ,
nhung nhúc giòi bọ, khiến những người từng mến mộ thị nhất cũng đành phải lên
tiếng cảnh tỉnh. Song như một con thiêu thân, thị chỉ dành cho những thiện chí
ấy cái bĩu môi khinh miệt, miệng lưỡi chua ngoa độc địa và càng không coi ai ra
gì. Không có sự trông đợi nào khiến người ta mệt mỏi và thất vọng cho bằng:
cùng với thời gian, qua mỗi trang viết của những tác phẩm sau này như Man Nương, Marie Sến, gần đây nhất là Ám
thị
, Thị Hoài càng đưa người đọc đến sự chán ghét văn chương hiện đại, xô
người đọc vào vũng lầy bế tắc của xã hội bằng một thứ ngôn ngữ kinh tởm khó
chịu, khiến người đọc thấy mình thấp kém y như những nhân vật trong truyện, thật
quá oan ức cho văn chương và quá tội cho độc giả. Vì sao họ lại phải đọc những
tác phẩm sa đọa, thô lỗ, sống sượng như vậy? Con người dưới mắt Thị Hoài là một
loài vật vô ý thức, thô tục, bẩn thỉu và man rợ. Sở trường của thị là dựng nên
một thế giới bỉ ổi, lưu manh, dâm đãng, đểu cáng và hèn hạ, nhằm khinh rẻ, tởm
lợm con người, sỉ nhục và thô bỉ hoá giấc mơ của con người. Thị hoàn toàn đánh mất
khả năng khám phá cái tốt đẹp của thế giới, nghĩa là đánh mất thuộc tính quan
trọng nhất của văn học, vậy mà thị còn cả gan bày tỏ thái độ bỡn cợt, khinh
thị, nhạo báng nền văn học của chúng ta, và công khai biến trang văn thành câu
lạc bộ bệnh hoạn của chứng động kinh phi nhân tính, khinh rẻ và căm ghét con
người, tìm mọi cách thối rữa hoá linh hồn và thể xác đồng loại trong cái nhìn
bệnh hoạn nhẫn tâm. Bị ám ảnh bởi văn hoá giường chiếu, hành hạ bởi những ẩn ức
tình dục của cuộc sống ăn chơi trụy lạc trước đây và phận làm dâu văn hoá đầy
mặc cảm dồn nén sau này, lại chịu ảnh hưởng không tiêu hoá kỹ của phương Tây
như phân tâm học, và bắt chước một số nhà văn Nhật Bản (thị từng lợi dụng danh
tiếng để dịch cuốn tiểu thuyết Nhật cực kỳ vô luân và thối nát nhan đề Chiếc chìa khoá, khiến nhà xuất bản phải
khốn đốn, cũng như thị từng gây tai hoạ cho nhà xuất bản đã quá cả tin mà cho
ra mắt cuốn Man Nương, khiến giám đốc
nhà xuất bản đó phải từ chức), thị không có cách nào khác là thực hành một lối
văn khiêu dâm nhớp nhúa, lập hội quán libido,
núp dưới tên tuổi của những Sartre và Camus, Kafka và García Márquez, Proust và Joyce để triết lý ba lăng
nhăng dung tục nhằm câu khách rẻ tiền, đua đòi bắt chước những phương pháp sáng
tác chợ chiều như Chủ nghĩa Phi lý, Tiểu thuyết Mới và Dã thú Mạt kỳ, tiếp tục
thói làm dáng trí thức bằng khả năng nổi loạn dung tục. Văn chương của thị là
thứ văn chương đù ông đéo bà cho đã cái lỗ mồm. Qua ngòi bút của thị, con
người, đặc biệt là con người Việt Nam, đã bị tụt xuống ngang hàng với loài thú.





Cùng với việc bỏ chạy ra sống
lưu vong ở nước ngoài, Thị Hoài đã tìm cách chơi một trò bi-a láu lỉnh, tấn
công vào những tổ tiên đã chết để gián tiếp tỏ thái độ chính trị với một thể
chế mà thị không dám dương đầu, vừa ăn điểm chính trị ở Hoa Kỳ, vừa an toàn vì
chủ yếu đánh vào những người đã chết, chửi đổng, nói xấu sau lưng, xới tung lên
những hận thù quá khứ mà người ta đang muốn quên đi, để đầu cơ nó. Thị cố khoét
sâu vào những khía cạnh chính trị nhạy cảm để gây ấn tượng, đem mũi dao phi
nhân tính của mình cứa cho quá khứ toé máu tươi ra một lần nữa. Một cô đầm kệch
cỡm, chẳng phải Tây, chẳng phải Việt kiều, cũng chẳng dám gửi trứng vào dạ con
của phụ nữ Tây để đoạn tuyệt đến cùng với dòng máu Việt, một kẻ không phải
người Việt mà chui ở kẽ nẻ lên, một con điên lao theo ảo tưởng, luôn làm điều
trái với đạo lý, ăn phải quá nhiều cặn bã Tây, càng giả vờ suy tư, càng ra vẻ
lý luận dẫn đủ mọi chuyện đông tây kim cổ càng chứng tỏ là một kẻ điên đang bới
trong đống rác thải của nền văn minh nhân loại, nhặt nhạnh đủ mọi thứ, ngồi tỉ
mẩn khâu lại chằng chịt thành một cái quần thủng đít và đính cho nó một cái mác
lý luận văn hoá kiểu Phạm Thị Hoài, một kẻ như vậy không đủ tư cách làm người
mà chỉ là một con quỷ hình nhân, chỉ là một kẻ có tài chửi đổng và láu cá vặt,
chỉ là kẻ bán rẻ mầu cờ sắc áo vì sinh nhai một cách thảm hại, chỉ là đứa trẻ
miệng còn hoi sữa dám lạm bàn chuyện đại sự, nhưng thực ra cũng chỉ là một kẻ
đáng tội nghiệp.





Mất gốc, Thị Hoài cũng đánh
mất sứ mệnh cao cả của nhà văn và tịt luôn cảm hứng sáng tác, nhưng bản chất
háo danh khiến thị chớp cơ hội Việt Nam mở cửa đón nhận cuộc cách mạng internet, lao vào làm chủ báo của trang mạng
mang cái tên tù mù ấm ớ chẳng ai thèm đọc là talawas.
Khi tờ báo này biến thành cái chợ hàng tôm hàng cá thì mụ Tú Bà rận chủ chuyên
nghề buôn phấn son dâm chủ này bỏ chạy, quay
sang viết báo
. Vẫn bằng chất
giọng chua ngoa và quay quắt mùi thịt cầy hạng bình dân pha lẫn rượu đế rẻ tiền,
bằng thứ ngôn ngữ cường điệu cảm
tính không kiêng cữ bất cứ điều gì, thị thường xuyên hắt ra tất cả những lời lu loa phỉ báng,
khinh miệt, giễu cợt, xúc xiểm tất cả mọi đối tượng, kể cả những người
từng dìu dắt thị vào giới cầm bút ở Hà Nội và đỡ đầu tinh thần cho thị một thời. Thực ra thị chỉ
tốt nghiệp chuyên ngành văn khố, làm nhân viên lưu trữ văn thư ở Việt Nam một
thời gian, vậy từ nền tảng học vấn hạn hẹp đó, làm sao thị có thể hiểu được những
vấn đề chính trị, xã hội phức tạp để mà có thái độ đúng đắn? Vậy mà không chỉ
nói sai, thị còn cao giọng phản bác, xổ toẹt tất cả những gì là giá trị liên
quan đến đất nước, vào hùa với bọn người Việt bất lương ngồi sa-lông máy lạnh ở
hải ngoại ném đá tổ quốc mình. Hạng ăn cháo đá bát, bồi bút, văn nô, văn đĩ như Thị Hoài thực ra chỉ là đống rác quên lãng của thời gian, nhưng nếu biết hối cải,
trở về trong vòng tay dân tộc, thị sẽ có cơ hội bồi đắp lại phần nào khả năng
văn chương đã mất mát của mình, lấy lại cảm tình của người đọc. Truyền thống khoan
dung, nhân hậu của dân tộc ta là không bao giờ đánh người chạy lại.





2001-2014





Báo Trẻ, số Xuân 2019

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 07, 2019 14:07

September 26, 2019

Cô ấy làm thơ

Phạm Thị Hoài





Những ngày trước khi Phạm Đoan
Trang được trao Giải Tự do Báo chí 2019, tôi đã
liên lạc với nhiều người trong cộng đồng Việt ở Berlin, định tổ chức một buổi
giới thiệu sách của Trang. Berlin, 30 năm sau ngày bức tường bao bọc tuyến đầu
xã hội chủ nghĩa ở châu Âu sụp đổ. Một cái duyên như nụ cười của lịch sử.





Nhưng khi tôi nói về Trang,
những người ở đây mà tôi tưởng có chút quan tâm đến thời cuộc ở nhà lắc đầu, họ
không nghe nói. “Cô ấy viết sách hả? Tiểu thuyết hay truyện ngắn? Chị thông
cảm, tôi bây giờ ngại đọc truyện lắm.” Tôi bảo, không, cô ấy làm thơ.  





Khi tôi nói về Trang, những
người ở đây mà tôi tưởng nhất định phải biết lắc đầu, họ chỉ nghe loáng thoáng.
Họ thường bốt lên mạng những điều tiến bộ văn minh ở nơi đang sống để ngao ngán
cho tình cảnh xứ Đông Lào. Họ tự hào, thấy mình cũng dũng cảm. Đám mũ ni che
tai, phù phiếm sống ảo nhiều lắm, họ hơn.





Khi tôi nói về Trang, những
người biết rõ lắc đầu, họ tôn trọng quan điểm của các nhà bất đồng chính kiến
nhưng bản thân không chủ trương đối kháng. Họ theo đuổi con đường khai sáng. Nâng
dân trí. Nghiên cứu. Dịch. Văn chương nghệ thuật. Sứ mệnh tri thức. Hợp tác để
chuyển hóa. Lấy trí tuệ làm đòn xoay. Nếu đó cũng là chính trị thì chính trị cao
cấp đặc tuyển. Họ không đọc Chính trị bình dân.





Khi tôi nói về Trang, những
người thực lòng cảm phục cũng lắc đầu, họ có một ngàn lí do để không thể ra
mặt. Họ phải giấu con người thật của mình trước dấu nhập cảnh Việt Nam. Thị
thực là phiếu bé ngoan. Tôi bảo, cô ấy cũng không sợ gì hơn là cấm trở về nên
quyết không ra đi. Nhưng đó là một câu chuyện khác, tôi không xếp hạng những
cái giá phải trả.  





Khi tôi nói về Trang, những
người sốt sắng cũng rất tiếc mà lắc đầu. Tất cả đều bận. Bận là điều rất tốt
cho các phong trào hòa bình: Chiến tranh gọi, nhưng không ai rảnh. Song tự do
dân chủ cũng gọi, và không ai có thời gian. Cuộc đời ta hiện ra như một chuỗi tràn
lan kín mít các sự kiện. Tối mai xem kịch, trước đó còn đi bơi. Ngày kia tiệc
sinh nhật của con của con của một người bạn. Cuối tuần đồng nghiệp mời ra vườn
nướng thịt. Sang tháng du hí ngắn. Năm sau du lịch dài. Ngày này trả sách thư
viện. Ngày này hết hợp đồng thuê một cái nhà kho ngớ ngẩn. Ngày này trực mua vé
Rammstein. Ngày này khai thuế. Ngày này thay lốp xe mùa đông. Ngày này đi nội
soi đại tràng. Cho đến ngày nhập quan, mây Google không còn khe nào cho ta nhét
thêm một cái hẹn trên lịch Google nữa.     





Những người khác, tôi không
hỏi. Hoặc những người cắm nợ như cắm sẵn bia mộ ở quê cha đất tổ, họ sang Đức làm
chui sống giả không phải để phấn đấu cho những giá trị chưa bao giờ nghĩ đến và
có lẽ chẳng bao giờ cần dùng. Hoặc những người thành đạt xông xênh, họ kể
chuyện đánh gôn còn tôi kể chuyện công an nện nhà báo, tốt nhất hai bên đừng đi
chung thang máy. Hoặc những sinh viên cặm cụi cho một tương lai lương cao hãng khủng,
hơi sức đâu bận tâm mấy chuyện chính trị lèo nhèo. Hoặc những anh em Việt kiều yêu
nước mãn tính, khôn nguôi thương nhớ một Cộng hòa Dân chủ Đức của chúng mình và
rình dịp hát ca khúc cách mạng. Hoặc những chị em Việt kiều yêu nước tháo
khoán, diện áo dài rồng phượng ra trước sứ quán Tàu chụp ảnh dan tay bảo vệ
biển đảo. Hoặc những ông bà Việt kiều yêu nước hội kín, sợ cả nhà nước lẫn phi
nhà nước lợi dụng, sợ cả cánh hữu lẫn cánh tả bỏ bom. Hoặc những người chỗ nào
cũng hôn, lên Treptow hôn chân sứ quán, lên mạng hôn lưỡi phản động, đi hướng
Tây hôn cờ vàng, về hướng Đông hôn cờ đỏ, song say đắm nhất là hôn cái trí khôn
rộng háng đáng đồng tiền của chính mình. Tôi cũng không hỏi những nhà văn tị
nạn ở Đức để viết sách xuất bản ở Việt Nam, những nhà báo buôn tin láo nháo trôi
nổi mà cống hiến ngoài ý muốn lớn nhất là cung cấp một ca điển hình rằng không
chỉ riêng chính quyền biết trục lợi từ một đám đông cả tin, thụ động và ít hiểu
biết. Mị dân chính thống ắt sinh ra mị dân đối lập.   





Buổi giới thiệu sách đã không
diễn ra.





Tôi vốn tin mình không có gen
nản, lại may mắn được một công việc bất chấp mọi khủng hoảng của thế gian, trơ
gan trước bi kịch: với người viết, xét cho cùng tất cả đều tích cực. Ngay cả
cái hiện thực mà phần đông người Việt ngao ngán, với người viết cũng là một kho
chất liệu và nguồn cảm hứng vô giá. Song sau những cái lắc đầu vừa kể, thặng dư
văn chương chưa thấy mà đồ thị tâm trạng tôi thì trườn dần xuống đáy.





Đấy không phải lần đầu tiên.
Tất cả những người dấn thân cho tiến trình dân chủ hóa xã hội Việt Nam cho đến
nay đều có lí do để ít nhiều ngã lòng và đều né tránh đề cập. Nhưng cứ trước
một giờ G nào đó, những thông cáo toàn dân xuống đường lại đều đặn xuất hiện. Ngày
tận số của chế độ cộng sản liên tục điểm. Lịch sử thường trực sang trang. Môi
trường chính trị đối lập ngập rác của các nhà tiên tri. Cú giãy chết của chủ
nghĩa cộng sản cũng trở thành chuyện tếu như đã nghe chán về hành động tương tự
của chủ nghĩa tư bản. Tuần tới, nước Trung Hoa cộng sản sẽ kỷ niệm chưa phải
thượng thọ nhưng đã là sinh nhật lần thứ bảy mươi. Bất chấp mọi kịch bản suy
vong, chính thể độc tài lớn nhất hoàn cầu từ trước tới nay ấy đang tiến đến
đỉnh cao của quyền lực và sức mạnh. Chủ nghĩa toàn trị đang trở lại, siêu hiện
đại, siêu hiệu quả.





Tôi thường tự hỏi, nếu Việt
Nam vẫn là một nhà nước đảng trị và công an trị, thậm chí còn hà khắc, vô nhân hơn,
nhưng mọi mặt phát triển thần tốc như Trung Quốc hiện tại, liệu chúng ta có hài
lòng với sự lãnh đạo của đảng cộng sản, có tự hào với vị thế của đất nước như
phần lớn người Trung Hoa Đại lục hiện nay đang kiêu hãnh? Bạn sẽ chọn thất
nghiệp ở một nước tự do hay làm CEO trong một tập đoàn kinh tế do chính phủ bảo
trợ ở một quốc gia độc tài? Câu trả lời thực ra đã rõ với tuyệt đại đa số, song
mọi bất ngờ của lịch sử đều được chuẩn bị bởi một thiểu số của những con người
khác thường. Trang là một người như thế, một may mắn hiếm có của phong trào dân
chủ Việt Nam. Nên mỗi lần tâm trạng chuẩn bị rơi vào vùng trũng, tôi lại nhớ
đến những lời của Trang, khi cô ấy
hỏi giản dị: “Bạn đã chán chưa?” trước những than thở buồn,
nản, thất vọng về phong trào dân chủ, và trả lời: “Bạn làm gì thì làm,
học gì thì học, nhưng để có thể (may ra) thành công chút ít thì bạn nên cố gắng
tìm thấy ở đó sự thú vị và ý nghĩa. Đấu tranh vì tự do, chống độc tài, bảo vệ
dân chủ luôn là một sự nghiệp đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Nhưng nếu bạn không còn
thấy điều đó nữa, bạn chỉ còn toàn những cảm xúc tiêu cực, thì tốt nhất là bạn
nên dừng lại; sẽ chẳng ai trách gì bạn.





Những cảm xúc tiêu cực của tôi
với cộng đồng Việt ở Berlin quả thật chẳng ích gì. Cộng đồng ấy có những lo
toan cũng muôn phần bề bộn của nó mà những gì đang xảy ra ở Việt Nam rốt cuộc rất
phụ, chỉ như một cước chú có ghi mà quên đọc. Phần mình, tôi có tha thiết cũng
chỉ vì là một người viết tiếng Việt. Cuộc đời tôi, hàng ngày, không sứt mẻ mảnh
nào vì một bản án nữa, mười mấy năm tù cho một cây bút ở Việt Nam. Lịch sử quả
thật đã sang trang, nhưng không phải cho trong nước mà cho cộng đồng Việt hải
ngoại. Nó đã thành một cộng đồng rất khác so với khi hình thành. Phần nối dài
của Sài Gòn cạnh phần nối dài của Hà Nội, ở giữa là những tồn tại phi chỉ dẫn
địa lí. Khoảng trống mà những thế hệ nặng lòng với đất nước để lại chỉ còn được
khỏa lấp bằng sự thờ ơ dễ hiểu của các thế hệ sau, những di dân gốc Việt đã mất
khái niệm về một nước mẹ mà họ không can dự. Tiếng Việt trở thành ngoại ngữ. Ưu
thế một thuở cũng không còn nữa, ở kỉ nguyên internet người Việt hải ngoại
không còn là cánh cửa duy nhất mở ra bên ngoài cho một thế giới vốn khép kín. Họ
đã hoặc sắp đóng xong vai trò của mình với quê hương để – muốn hay không – trở
thành một bộ phận của quê hương mới. Một tiến trình hoàn toàn tự nhiên.





Và cũng hoàn toàn rõ ràng, vai
trò chủ động và đi đầu trong công cuộc chuyển hóa Việt Nam nay thuộc hẳn về
người Việt trong nước. Với một thế hệ khác, một diện mạo khác.  Không còn là những văn nghệ sĩ phải gói kĩ sự
thật vào ẩn dụ nghệ thuật rồi đi tìm chỗ nấp. Không còn là lớp lão thành kháng
chiến phải lên tiếng bởi di sản cách mạng bị chà đạp. Không còn là những đảng
viên phản kháng để bảo vệ sự trong sáng của lí tưởng. Không còn là những cán bộ
về hưu liêu xiêu phản tỉnh. Không còn nhập nhằng chính thống bàng thống. Không
còn dùng dằng trong luồng ngoài luồng. Không còn ảo tưởng cải lương. Không còn nỗi
sợ hãi bị xã hội tẩy chay, gia đình ruồng bỏ. Chưa bao giờ trong lịch sử cầm
quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, các hoạt động dân chủ và nhân quyền trong
nước, dù chưa thể lan rộng, lại công khai thách thức bộ máy kiểm duyệt và đàn
áp như thế.





Trang từng kể, đấu tranh
thì dĩ nhiên khổ, nhưng bất hạnh thì không. Vui, buồn, giận dữ, sợ hãi, đau
khổ, thất vọng… đủ hết, nhưng trên tất cả là buồn cười và hạnh phúc. Buồn cười
vì những trò vừa hèn hạ vừa trẻ ranh, về sự ngu muội tối tăm, về thói dối trá
bưng bít và sự lố bịch của guồng máy đàn áp. Hạnh phúc vì được anh chị em trong
phong trào dân chủ lo lắng bảo vệ, được biết bao người công khai hay âm thầm
giúp đỡ, biết bao độc giả nhiệt thành ủng hộ. Hạnh phúc vì yêu ý nghĩa và vẻ
đẹp của công việc mà mình theo đuổi. Tôi đã nói, cô ấy làm thơ. 





Berlin, 23/9/2019





Tuần báo Trẻ, 26/9/2019  

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 26, 2019 01:35

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.