Phạm Thị Hoài's Blog, page 2

August 18, 2022

Ngôn ngữ bá quyền

Phạm Thị Hoài

Trong một tiểu luận trên The New York Times Book Review năm 1985, Milan Kundera kể rằng ngay sau Mùa Xuân Praha ông bị treo bút. Một đạo diễn muốn giúp ông mưu sinh bằng cách đứng tên để ông chuyển thể tiểu thuyết Chàng ngốc của Dostoyevsky thành kịch bản sân khấu. Song khi đọc lại tác phẩm ấy, ông từ chối, dù chết đói cũng không thể bước vào “cái vũ trụ đầy những điệu bộ quá khích, những vực thẳm u ám và sự mùi mẫn hung bạo” của Dos. Không phải ông bài Nga từ tâm thế công dân của một quốc gia đang bị Liên Sô cưỡng chiếm. Ông vẫn giữ trọn tình yêu Chekhov, nhưng vô cùng dị ứng với thứ khí hậu trong các tác phẩm của Dos. Ở đó tất cả đều bị cảm xúc hóa và cảm xúc trở thành tiêu chí của chân lý, có thể biện minh cho mọi hành động. Tình cảm dân tộc cao quý nhất sẵn sàng biện minh cho tội ác khủng khiếp nhất và người ta nhiệt thành ưỡn ngực thực hiện những hành vi tàn bạo nhất nhân danh tình yêu. Quý vị cứ giết người đi, xong thì đấm ngực, phanh trái tim nồng nàn ra là được. Là trật tự đạo đức lại vãn hồi. Viên sĩ quan Sô-viết khám xe ông xong cũng tuyên bố rất yêu người Tiệp, tiếc rằng người Tiệp không chịu hiểu, không chịu chung sống với tình yêu đó, vì thế Liên Sô buộc phải dùng xe tăng để dạy Tiệp bài học về tình yêu. Tâm hồn Nga thừa cảm xúc mà thiếu lý trí và đại diện đáng ngại nhất là Dos. Đối trọng của nó là lý tính phương Tây, lên ngôi với Phong trào Phục Hưng, mở đường cho khu vực này bứt phá lên một tầm văn minh dẫn dắt thế giới.

Không lâu sau, một bài viết phê phán Kundera kịch liệt và nồng nhiệt bênh vực Dos xuất hiện, cũng trên trang Book Review của tờ Times, tác giả là một đại diện danh tiếng khác của văn giới Đông Âu lưu vong ở phương Tây: Joseph Brodsky.

Tôi vốn thích Brodsky hơn Kundera nhiều. So với nhà thơ Nga chói chang, giễu cợt, ngạo nghễ và tráng lệ ấy thì nhà văn Tiệp thâm trầm quảng bác kia luôn có chút gì như một công chức văn hóa quá mực thước. Lần này tôi cũng thích lập luận của Brodsky hơn, rằng không thể đơn giản đem thời cuộc vận vào nghệ thuật như thế, bởi lẽ nghệ thuật lâu đời và tất yếu hơn tất cả những thứ trọng đại, nào chính trị, nào tín điều, nào phe phái và hình thái tư tưởng. Và nếu Kundera đã quyết trộn cả Dos, Liên Sô, phương Đông, chủ nghĩa duy cảm vào cùng một bản cáo trạng thì cũng nên rà lại cái phương Tây văn minh kia, vì rốt cuộc thì bộ Tư bản được dịch từ tiếng Đức sang tiếng Nga, và bóng ma cộng sản đậu xuống phương Đông sau khi đã lang thang khắp phương Tây duy lý. Một lần nữa trí tuệ riết róng của Brodsky phân tích, rằng cặp phạm trù Tốt-Xấu của chúng ta nguyên ủy là sự phân biệt Đẹp-Xấu, là cảm quan mỹ thuật trước khi phái sinh thành cảm quan đạo đức phân biệt Thiện-Ác. Mỹ học quyết định nhân cách, đạo đức và tư tưởng chứ không ngược lại. Một sự cẩu thả nhỏ nhất trong chữ nghĩa có thể kéo theo một quyết định sai lầm trong cuộc đời. Người có thẩm mỹ vững chắc, nhất là trong phong cách, khó rơi vào cái bẫy của những điệp khúc thô thiển và những bùa chú rộn ràng đặc trưng cho mọi hình thức chính trị mị dân.

Brodsky vẫn cực đoan như thường lệ, song lần này sự võ đoán của ông không ngoạn mục như những khi nó thuần túy là vũ khí để chàng hiệp sĩ cuối cùng của nghệ thuật ngôn từ ấy bảo vệ thánh địa thơ ca. Lần này nó xông ra, khá dữ tợn, để nhiếc móc Kundera và những ai không ưa Dos, tất nhiên không chừa cả Nabokov – người đồng hương lừng lẫy mà những phán xét thậm tệ về Dos đã thành huyền thoại -, và để giương cao ngọn cờ Dos còn thì văn hóa Nga còn. Văn hóa Nga còn thì đế chế Nga còn. Brodsky sống đời cầm bút như một mệnh lệnh tuyệt đối về tinh thần duy mỹ của cá nhân người nghệ sĩ, đứng ngoài mọi hệ lụy của thể chế và thời cuộc. Song nhà thơ đã đối đầu không khoan nhượng với đế chế Sô-viết ấy lại nuối tiếc một Tổ quốc là đế chế Nga hay đế chế văn hóa Nga mênh mông, nơi tiếng Nga yêu dấu của ông là ngôn ngữ bá quyền và cùng với nó là sự bá chủ của văn học Nga. Điểm mù ấy của ông rồi sẽ kéo theo một khoảng tối bất ngờ, một vết nhơ trên ve áo tuyệt đẹp của một bản lĩnh nghệ thuật khác thường.

Xung đột của ông với Kundera không ngẫu nhiên. Trước vụ hạ bệ Dos nói trên, trong tiểu luận vang dội “Un Occident kidnappé, ou la tragédie de l’Europe centrale trên tạp chí Le Débat năm 1983, Kundera đã nêu bật sự khác biệt giữa Trung Âu và Nga, miêu tả “bi kịch của Trung Âu” trong sự giằng xé giữa phần hồn là cội nguồn văn hóa vốn thuộc về châu Âu và phần xác là hệ thống chính trị đã bị Nga đô hộ, và đưa ra luận điểm: Trung Âu là phần phương Tây “bị bắt cóc, phải lưu vong, chịu tẩy não nhưng vẫn luôn kiên trì bảo vệ căn tính của mình“. Một hội thảo văn học vài năm sau ở Lisbon chứng kiến chiến tuyến giữa phe Nga với sự tham gia của Brodsky và phe Trung Âu với sự ủng hộ của các nhà văn phương Tây có mặt như Susan Sontag, Salman Rushdie, Derek Walcot, phê phán chủ nghĩa thực dân của nhà nước Sô-viết, đặc biệt là chính sách Nga hóa ngôn ngữ và văn hóa của mọi dân tộc trong đế chế cộng sản đó. Brodsky kiên quyết bác bỏ quan điểm mà ông cho là bài Nga mù quáng và vô dụng ấy của các nhà văn Tiệp, Ba Lan, Hungary và Nam Tư, trong đó có người bạn vong niên thân thiết Czesław Miłosz. Nhưng đó chưa phải điểm dừng của một mê lộ.

Khi Ukraine tuyên bố độc lập, rời Liên bang Sô-viết năm 1991, Brodsky viết tác phẩm đặc biệt nhất trong sự nghiệp của mình, bài thơ “Về nền độc lập của Ukraine” (На независимость Украины). Nhà thơ từng tuyên bố, cứ chống Sô-viết là đứng về phía lẽ phải, bỗng giận tím tái vì bọn nhãi Cô-dắc đầu trọc tóc mào dám hỗn hào bước khỏi quỹ đạo khổng lồ của nền văn minh Nga. Ông thấy mình và dân tộc Nga bị sỉ nhục bởi một lũ ly khai thô tục đang hí hởn đòi dựng một quốc gia Ukraine vốn chưa từng tồn tại. Ông mạt sát bằng những lời cay độc. Ông muốn nhổ một bãi xuống sông Dnepr cho nó chảy ngược về Nga. Ông đe, này đồ cặn bã, đồ chui ra từ lỗ nẻ, tưởng thế là ngon hả? Bỏ ta thì ta buồn năm phút, nhưng bọn Ba Lan hay bọn Đức sẽ cho mi nhừ đòn, rồi sẽ biết thế nào là ác mộng nhé. Mi muốn tàn đời trong u mê tăm tối hay sớm muộn sẽ rập đầu bó gối về với nước mẹ Nga thiêng liêng, hỡi đám nông nô vô ơn? Và ông tiên đoán: này lũ khốn, phút đau đớn cào giường cấu chiếu lìa đời, rồi mi sẽ quên sạch Taras (Shevchenko, thi hào Ukraine) nhảm nhí để thầm thì những áng thơ thứ thiệt của Alexander (Pushkin, thi hào Nga).

Có thể Pushkin xuất sắc hơn Shevchenko hay ngược lại, song xung đột dân tộc không phải là một cuộc tranh tài thơ phú. Hãy hình dung, một nhà thơ Trung Quốc mỉa vào mặt người Việt rằng này lũ mọi, chống Tàu thì cứ việc, ta chẳng chấp, nhưng lúc chết thì mi sẽ quên phắt Nguyễn Du nôm na để ngẩn ngơ ngâm Đường thi Đỗ Phủ!  

Đôi khi tôi biết ơn lịch sử đã không để tiếng Việt có cơ hội thành một ngôn ngữ bá quyền. Ngoài sự thống trị tuyệt đối với ngôn ngữ của 53 sắc tộc khác trong phạm vi bờ cõi – tiếng nói của người Kinh đương nhiên bá chủ – nó chưa bao giờ là một công cụ của quyền lực mềm, theo chân người Việt đi chinh phục thế giới. Ở hải ngoại hiện tại với 4 triệu người sử dụng, nó không thực sự truyền bá văn hóa Việt Nam, có chăng chỉ mong làm phần nước sốt rưới lên một món đồng hóa toàn cầu nào đó cho phảng phất mùi vị Việt. Chỉ số ảnh hưởng của nó không đáng kể, song chỉ số hòa bình có lẽ cao.

Tôi đoán rằng Joseph Brodsky sẽ chẳng bận tâm nếu lãnh thổ hay quyền lực chính trị của đế chế Nga chỉ còn bằng kích thước con búp bê Matryoshka bé nhất khi lớp trong lớp ngoài đã tháo hết. Song sự nuối tiếc quyền lực của cái ngôn ngữ mà ông say đắm, trong một cơn đau mù quáng, đã biến một nhà thơ tận cùng duy mỹ thành một chiếc loa phóng thanh chính trị, dù bài thơ về Ukraine ấy vẫn đậm thi pháp Brodsky. Nó được truyền thông Nga bình chọn là bài thơ xuất sắc nhất năm 2014, sau vụ sáp nhập Bán đảo Krym. Và trong cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine từ gần nửa năm nay, nó cũng nổi tiếng như một sản phẩm ngôn ngữ khác: chữ Z. Một thứ không hề có trong bảng chữ cái tiếng Nga. Một thứ xiển dương tiếng Nga bá quyền. Ngôn ngữ có thể dã man. Tình yêu có thể sát thương. Tình yêu ngôn ngữ có thể hủy diệt.

Tuần báo Trẻ, 18.08.2022

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 18, 2022 23:22

July 14, 2022

Buồn ơi, nhẹ thôi

Phạm Thị Hoài

Bạn vừa công bố một nỗi buồn. Xen chút dỗi hờn, khi gặp lại một tác phẩm bạn dịch, bản đề tặng tôi, từ hàng sách cũ. Về chuyện này, có lẽ chỉ cần nói rằng gần hai mươi năm nay tôi xa Việt Nam là đủ. Tôi đã không tính đến kịch bản bị cấm cửa ở quê hương. Ở nơi ấy tôi không còn và không còn là một hiện hữu vật chất nào nữa. Những thứ tưởng như chết mang theo còn buông bỏ, huống hồ đồ đạc sách vở và cả những kỷ vật vô giá dù vô danh. Bạn ạ, có những mất mát không thể đong đếm bằng nỗi buồn.

Tôi không thuộc trường phái tắm táp liếm láp những mất mát. Con xúc xắc gieo vào tôi đủ ngửa ra những mặt hào phóng để chốn lưu vong không biến thành nhà tù của dĩ vãng, nơi người ta mãi múc từ ao ký ức này đổ sang vũng hoài niệm kia, tát qua tát lại cho đến khi tất cả đều khô kiệt. Tiếng Việt mắc cạn ở đó, chưa đủ chết để hóa kiếp tử ngữ cho bảo tàng, không đủ sống để làm một sinh ngữ cho sáng tạo – một ngôn ngữ sống dở chết dở, như tình trạng của nhiều người viết buộc phải xa xứ. Họ có thể đổi đời, no ấm hơn, chắc chắn là an toàn hơn, về căn bản là tự do hơn, chưa kể con cái được hưởng một nền giáo dục tiến bộ hơn và bản thân về già được lắp răng giả chất lượng hơn. Nếu không cọ xát với ngôn ngữ ở quốc gia đang sống, có lẽ họ cũng hài lòng với vốn liếng tiếng Việt mang theo, yên ổn trong đó như trong hầm trú, nơi cố thủ cuối cùng của cái mà họ định nghĩa là hồn Việt.

Song lưu vong trước hết là một đứt gãy ngôn ngữ không thể hoặc rất khó bù đắp. Tiếng Việt của tôi ở đây là một sinh thể yếu thế, thiếu dưỡng khí, suy giảm trí nhớ, trầm lặng, bị động, cô độc, hàng ngày bị tiếng Đức thách thức và thường trực đối diện nguy cơ xơ cứng, xói mòn, cổ hủ và bảo thủ, bệnh thoái hóa tất yếu của một ngôn ngữ ở ngoại biên. Sức sống tự nhiên của một cộng đồng ngôn ngữ trăm triệu thành viên, tôi buộc phải hấp thụ gián tiếp. Việc ấy vất vả, nhưng khi biết cái giá phải trả cho một từ có thể mất, một thanh điệu có thể quên, một cái tên có thể bỏ đi để chẳng bao giờ làm ơn quay về, khi nhúng tiếng mẹ đẻ vào chiếc vạc dầu của ngôn ngữ toàn cầu, khi nhìn chữ rụng xuống để không còn mọc lên trên một thổ nhưỡng khác, tôi thấy quan hệ giữa mình và tiếng Việt nghiêm ngặt hơn nhưng cũng tự do hơn. Một quan hệ định mệnh tự nguyện. Nó không đòi tôi phụng sự vô điều kiện. Tôi không đòi nó đảm bảo vô tận chuỗi cung ứng. Hai bên đều trở nên khiêm nhường và tương kính, thay phiên phục vụ lẫn nhau; tôi là công cụ trong tay nó và nó là công cụ trong tay tôi; tôi sở hữu nó và nó sở hữu tôi. Nếu không lưu vong, có lẽ tôi đã phạm nhiều khinh suất hơn trong ứng xử với tiếng Việt. Ngôn ngữ không phải là một tập hợp có tổng bằng không, cái được chẳng hoàn trả cái mất, song ngay cả cái tổn thất lớn nhất cho một người viết là bị đánh bật khỏi môi trường ngôn ngữ ấy của tôi cũng nhẹ thôi, so với nhiều bi kịch khác.  

Thời làm thư viện sách xuất bản tại miền Nam trước 1975 cho Tủ sách talawas, tôi đã gặp những chữ ký và dòng đề tặng mà bình thường chỉ là thủ bút đáng sưu tập của những nhân vật danh tiếng. Song hành trình lưu lạc của những ấn bản ấy kể về số phận cay đắng của bao người cầm bút, đồng nghiệp của tôi, ở nửa kia đất nước. Họ chết trong tù, tan nát trong giông bão hậu chiến, vùi thây dưới lòng biển, cô đơn tàn tạ trong một tồn tại xa lạ nơi xứ người. Joseph Brodsky hình dung lưu vong là cú ném vọt một nhà văn qua đêm đến chỗ mà bình thường mất cả đời may ra mới tới: đến sự cô đơn tuyệt đối, nơi chỉ còn mình và con chữ, không ai và điều gì có thể xen vào giữa. Song thực tế tầm thường hơn nhiều. Trước khi đủ bản lĩnh để hưởng thụ vụ tăng tốc tuyệt diệu đó, phần lớn các tác giả lưu vong đã tê liệt vì bị tước đoạt điều kiện thiết thực để có thể theo đuổi nghề văn: tên tuổi và độc giả. Họ bị ném vọt qua đêm đến chỗ vô danh để viết vào một chốn vô tăm tích. Cô đơn là người thầy tốt và người bạn tồi.

Mới đây trên eBay tôi thấy ấn bản vở kịch Eine Königin Esther năm 1918 của Max Brod với dòng “Für Heinrich Mann mit verehrenden Grüßen” (“Trân trọng đề tặng Heinrich Mann”), giá bán 680 Euro. Người tặng và người được tặng, cả hai từng bỏ lại tất cả để đào thoát khỏi đất nước không dung họ và chẳng bao giờ gặp lại quê hương nữa. Heinrich Mann ra đi với một chiếc va-li nhỏ, Max Brod với chiếc cặp đựng bản thảo nhiều tác phẩm chưa xuất bản của Franz Kafka, trong đó có tiểu thuyết Vụ án. Thời viết luận văn tốt nghiệp đại học, tôi được làm việc với Phông Lưu trữ Heinrich Mann tại Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin. Tủ sách riêng của ông chỉ còn rất ít, phần lớn đã thất lạc hoặc rải rác khắp các nẻo đường lưu vong. Dù sao ông vẫn còn khá may mắn. Walter Benjamin – từng coi đời mình về chi tiết là thành công, về tổng thể là thất bại – bất hạnh hơn. Ông chạy sang Paris khi đế chế Quốc xã ở Đức hiện hình. Một phần tủ sách của ông bỏ lại ở Berlin được bạn bè giữ giúp, lúc đầu tại nhà của Bertolt Brecht lưu vong ở Đan Mạch, sau chuyển được sang Pháp. Khi Paris thất thủ, ông chạy trốn một lần nữa, mang theo duy nhất một cặp xách với bản thảo tác phẩm mà ông cho là quan trọng nhất của mình. Trong cơn tuyệt vọng vì cầm chắc sẽ bị trục xuất trở lại nước Pháp của chính quyền Vichy, ông quyên sinh. Bản thảo cuối cùng trong chiếc cặp xách ấy biến mất, cũng như toàn bộ tủ sách 3000 cuốn trong căn hộ bị Gestapo lục soát của ông ở Paris.

Tôi chỉ thấy biết ơn và cả ngưỡng mộ những tiệm sách cũ đã âm thầm cất giấu để một phần nhỏ tác phẩm của văn học miền Nam trước 1975 vẫn còn lại ở đó. Như một phản kháng lặng lẽ, một lần nữa của những Guy Montag trong Fahrenheit 451. Phần lớn đã làm mồi cho những chiến dịch thu hồi, cấm lưu hành, bài trừ, “quét sạch nọc độc” văn hóa văn nghệ “phản động, đồi trụy, bất hợp pháp”. Sau này những ấn bản ấy được bán chui, giá “khá chát“- để dùng lại lời của bạn – song tôi thấy hoàn toàn xứng đáng. Các nhà buôn sách cũ không bán cân giấy lộn. Đam mê sách và tình yêu lợi nhuận của họ – cái nào quyết định, không quan trọng – là bộ lọc sáng suốt hơn hẳn sự thẩm định của phần lớn giới nghiên cứu và phê bình chủ lưu. Thị trường tỉnh táo hơn những yêu ghét dỗi hờn và đáng tin hơn những tiêu chuẩn đạo đức thường đầu lưỡi và những tiêu chí văn hóa thường bất nhất của chúng ta. Tủ sách của Kafka được cô em út trông nom cho đến khi bà bị dồn vào trại tập trung và cuối cùng bị giết ở Auschwitz. Tưởng đã vĩnh viễn thất lạc, cho đến khi được một nguồn ẩn danh, rất có thể là một hậu duệ Quốc xã hay một kẻ trộm am hiểu văn chương, bán cho một tiệm sách cũ ở Munich và tiệm này lại đem bán cho Đại học Wuppertal. Giới nghiên cứu Kafka ăn mừng. Viện Lưu trữ Văn học Đức ở Marbach cũng ăn mừng khi mua được bản thảo viết tay cuốn Vụ án của ông, giá 2 triệu dollar. Kafka giao bản thảo ấy cho người bạn thân Max Brod để đốt; Max Brod không đốt mà xuất bản, rồi tặng lại cho Esther Hoffe, thư ký và người tình của mình. Bà đem bán. Giá rất “chát”. Ở thế giới bên kia, tôi tin là cả Kafka lẫn Max Brod đều chẳng buồn tiếc gì hết. Họ không phải những bạo chúa xây lăng tẩm hoành tráng để chôn sống những cuốn sách yêu dấu theo mình.

Vậy nếu phải buồn, chúng ta nên thực lòng buồn, nhẹ thôi, vì những ấn bản có thủ bút đáng nâng niu của mình chỉ được bán với cái giá không đủ mơn trớn lòng sĩ diện. Không nhiều thì ít, văn nghệ sĩ là chủng loại tồn tại nhờ khai thác lòng tự ái của bản thân. Song cái Tôi lưu vong dường như biết tiết chế và tự khoanh vùng hơn. Biết rằng phần lớn các cuộc đời lưu vong không phải những con lắc chao đảo mà là những quỹ đạo một chiều, theo hình dung của nhà thơ lưu vong không ngừng chất vấn trạng thái lưu vong, vẫn Joseph Brodsky. Lần này ông không nói quá. Ông không trở về Nga khi Liên Sô đã sụp đổ: người ta không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông, dù đó là sông Volga, hai lần trong cùng một vùng biển, dù đó là Biển Đen. Người ta thay đổi, tách ra, rời xa và bỏ lại chính mình, để một lúc nào đó trở thành một vật thể tự do, một phi thuyền trong khoảng không, lúc đầu còn bị trọng lực ở nơi xuất phát níu kéo, nhưng rồi sẽ tiến vào một trường hấp dẫn khác, với những lực hút chưa hề biết đến ở bên ngoài.

Tôi không thể đem theo gì nhiều trong khoang chứa bé nhỏ của cái phi thuyền đó. Vì thế xin bạn đừng làm theo Bernard Shaw. Gặp ở hàng sách cũ một ấn bản cuốn sách của mình với lời đề tặng một người bạn, ông mua lại, viết thêm: “Một lần nữa trân trọng đề tặng“, rồi đem gửi cho người bạn ấy.

Tuần báo Trẻ, 14/7/2022

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 14, 2022 06:43

May 13, 2022

2 câu, 77 chữ

Phạm Thị Hoài

Sau 47 năm, bên thắng trận đã hoàn thành đáp án cho câu hỏi còn bỏ ngỏ, liên quan đến sự kiện kết thúc cuộc chiến tranh định mệnh ở Việt Nam. Ngày 14 tháng Ba vừa rồi, cơ quan lãnh đạo cao nhất trong quân đội, gồm Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ và 20 vị tướng, ra về việc “Ai soạn thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh”, “khẳng định tính khách quan và sự thật lịch sử” rằng cả ông đại úy Phạm Xuân Thệ đến trước lẫn ông trung tá Bùi Văn Tùng đến sau đều là đồng tác giả. Không có Thạch Sanh Lý Thông nào cả. Chấm dứt cãi cọ. Chuyện nhân sự đến đây là hết.

Hàng chục năm sau ngày 30 tháng Tư vang dội ấy, năm nào cũng được lịch sử đến hẹn lại ủy nhiệm, năm nào phe chiến thắng cũng tranh cãi – ít nhiều dữ dội và thậm chí nhuốm màu “phản động” ngoài ý muốn – về những chi tiết tưởng như quá dễ xác định: xe tăng nào tiến vào Dinh Độc lập đầu tiên, chiến sĩ nào lao lên nóc dinh cắm cờ giải phóng, và như nêu trên, ai soạn thảo lời tuyên bố đầu hàng. Nghe như đùa, song thực ra dễ hiểu và có truyền thống. 55 năm sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, người cắm cờ trên cứ điểm Him Lam mới được xác nhận đúng danh tính, trước đó hoặc một anh hùng khác hoặc một nhân vật “dâu ông nọ chăn tằm bà kia” được gọi tên. Rồi lá cờ trên nóc hầm de Castries ngày 7/5/1954 có thực hay chỉ là cảnh dàn dựng trong bộ phim của đạo diễn Liên Sô Roman Karmen? Toàn những chuyện không khiến tôi phải nhảy vội lên chuyến tàu về một ga lẻ của quá khứ. Lịch sử tự nó có một lớp patina quyến rũ, cho các thế hệ sau. Song nó mệt mỏi nhạt phèo, nếu các thế hệ trước vẫn múa may mãi trên sân khấu của dĩ vãng. Có gì lạ đâu. Rốt cuộc thì hạ sĩ Meliton Kantaria người Gruzia, đồng hương của Stalin, vẫn chính thức là nhân vật cắm cờ trên nóc Nhà Quốc hội Đức ngày 2/5/1945, nhận Huân chương Lenin và danh hiệu Anh hùng Liên bang Sô-viết, cả đời hưởng lộc của chế độ, trong khi tác giả của bức ảnh dàn dựng lừng lẫy ấy cho biết một sự thật hoàn toàn khác – kể cả việc ông phải dùng kim để tẩy chiếc đồng hồ ở cổ tay phải của người lính đứng yểm trợ cho đồng đội cắm cờ: chiến sĩ Hồng quân này đeo mỗi tay một chiếc đồng hồ, chiến lợi phẩm mà lính Nga ham sưu tập, trước khi biết cướp bóc điện thoại, TV, tủ lạnh, máy giặt, máy gặt, bồn cầu và dâu tây như bây giờ ở Ukraine. Tuy nhiên đó vẫn chưa là sự thật nguyên thủy. 50 năm sau, khi Liên bang Sô-viết đã là quá khứ, trung sĩ Mikhail Minin chẳng ai biết đến mới được ghi nhận là người đầu tiên cắm cờ chiến thắng đêm 30/4/1945 ở Berlin.

Song điều tôi quan tâm là nội dung lời tuyên bố đầu hàng ấy. Một văn bản lịch sử trọng đại đánh dấu một thời khắc lịch sử trọng đại, khiến các phe phải khốc liệt tranh giành bản quyền soạn thảo và giới lãnh đạo cao nhất của quốc gia phải vào cuộc. Công phu “soạn thảo” nó như thế nào?

Toàn văn lời tuyên bố ấy như sau: “Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn chính quyền từ trung ương đến địa phương lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.” [1]

Hai câu, 77 chữ, một bình diện ngôn ngữ bất cập và những lỗi nhẹ ra phải gọi là ngớ ngẩn.

Ông Dương Văn Minh không phải là “Tổng thống chính quyền Sài Gòn” mà Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, cũng như ông Hồ Chí Minh không phải là Chủ tịch chính quyền Hà Nội mà Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bà Thái Anh Văn trong ngôn ngữ của dư luận viên Hoa lục có thể là “Tổng thống chính quyền Đài Bắc”, nhưng danh xưng chính thức và chính xác của bà chỉ có thể là Tổng thống Trung Hoa Dân quốc. Một tuyên bố đầu hàng không phải là một lời kêu gọi hay yêu cầu. Khi đầu hàng, Tổng thống đồng thời là Tổng Tư lệnh quân đội ở cương vị phải tuyên bố rõ ràng lệnh ngưng bắn và giải tán chính quyền chứ không thể “kêu gọi” quân đội hạ vũ khí và yêu cầu chính quyền “phải giải tán“. Và làm thế nào để giao một chính quyền vừa bị giải tán cho một chính quyền khác, nhất là khi ngay trước đó Quân Giải phóng đã từ chối không nhận bàn giao, vì “Các ông không còn có gì để bàn giao“.[2]

Phần lớn các cuộc chiến hay xung đột vũ trang chậm nhất từ thời cận hiện đại đến nay thường kết thúc bằng những cam kết đình chiến và đàm phán về hậu chiến; tuyên bố đầu hàng rất ít xảy ra và đầu hàng vô điều kiện càng hiếm; song hình thức nào cũng phải được chuẩn bị kĩ lưỡng, diễn đạt thận trọng, từ những cấp quyết định cao nhất và ở bình diện ngôn ngữ cao nhất: bình diện quốc gia. Song đó chỉ là phần mở đầu của một quá trình với những thủ tục phức tạp, có thể kèm theo cả nghi thức trang trọng, như trong lễ ký kết văn kiện đầu hàng của Nhật ngày 02/9/1945 trên Chiến hạm USS Missouri. Các khía cạnh pháp lý và chính trị liên quan lại càng phức tạp. Quân Pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ, song Cộng hòa Pháp (Đệ Tứ) lại tham gia quyết định số phận của Việt Nam trong Hội nghị Ngoại trưởng Berlin 1954 và Hiệp định Genève cùng năm. Sự đầu hàng vô điều kiện của Đức trong Thế chiến II không phải là hành vi của Deutsches Reich, Đế chế Đức với tư cách quốc gia, mà là hành vi của Wehrmacht, quân đội Đức Quốc xã. Vì thế, trừ những điều luật mang tính chính trị, Bộ Luật Hình sự của Đế chế Đức vẫn tiếp tục có hiệu lực một thời gian dài, hiện nay Đức còn áp dụng trên 20 điều luật từ thời Quốc xã. Quân đội có thể ngưng bắn, song những hoạt động mà phần lớn là dân sự của một bộ máy nhà nước không thể ngay lập tức bị đình chỉ, chưa kể thời gian cần thiết để giải quyết các hệ lụy với những bên thứ ba liên quan. Cả phía Miền Nam Quốc gia (Việt Nam Cộng hòa) lẫn Miền Nam Việt cộng (Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) và Miền Bắc Cộng sản (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) rõ ràng đều không có những chuẩn bị nhất định cho các vấn đề này. Hoặc không thấy có gì cần chuẩn bị. “Chính quyền Sài Gòn” đơn giản bị xóa sổ là xong. 

Thế là rất đặc trưng Việt Nam, văn kiện lịch sử trọng đại đánh dấu thời khắc lịch sử trọng đại lúc 13:30 giờ ngày 30/4/1975 cuối cùng do một – hoặc hai? – sĩ quan cấp úy và cấp tá ít nhiều vô danh của bên thắng trận chấp bút, ở tình thế gấp gáp thiếu thốn và có phần lúng túng, phải nhanh trí ứng biến tại chỗ[3], thậm chí phải nhờ vào chiếc máy ghi âm duy nhất dùng được của nhà báo phương Tây duy nhất chứng kiến và ngẫu nhiên trở thành thư ký của sự kiện ấy. Nhà báo Börries Gallasch của tờ Spiegel thuật lại: “Chính ủy Tùng dùng một tờ giấy màu xanh đặt lên đầu gối, thảo lời tuyên bố để Tướng Minh đọc trên đài. Thỉnh thoảng ông nghĩ ngợi xem nên viết thế nào, gạch chữ này, thêm chữ kia. Mặt ông không hề biểu lộ một cảm xúc. Vậy là giờ đây, ở phút giây chiến thắng, những con người đã chiến đấu cả 30 năm để giải phóng đất nước lại không biết diễn đạt lời tuyên bố đầu hàng ra sao.” Tướng Minh đọc xong, chính ủy Tùng vò bản thảo và đút vào túi quần. Chiến tranh thế là kết thúc.     

Tôi thật sự thông cảm với chính ủy Tùng. Ông chỉ là một sĩ quan bậc trung, thấm nhuần một ngôn ngữ và tư duy chính trị mà trong đó Miền Nam không bao giờ hiện ra như một quốc gia riêng, có tên gọi riêng với những chủ quyền riêng, mà chỉ là phần lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt và bị “chính quyền Sài Gòn“, “tay sai của đế quốc Mỹ”, cai trị. Có lẽ ông cũng không biết đến tên gọi chính thức của quốc gia này. Người lính chất phác trong ông không được huấn luyện cho những việc nằm ngoài tầm đạn pháo[4]. Có lẽ ông đã hình dung rất giản dị sáng tỏ về việc đánh đổ cái “chính quyền Sài Gòn” của “địch” ấy và thay thế bằng chính quyền mới của “ta“; song tư duy và ngôn ngữ của ông không cho phép phân biệt giữa chính quyền, một chủ thể cụ thể, và quyền lực nhà nước, một chủ thể trừu tượng[5], nên cuối cùng chỉ thành tựu trong một câu vừa luộm thuộm với cụm “từ trung ương đến địa phương“ lặp lại như để chắc ăn – một trong những đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ chính thống ở Việt Nam là lặp lại lặp lại vô tội vạ, tôi xin trở lại đề tài này ở dịp khác – vừa lộn xộn kỳ quặc về nghĩa lý. Với tất cả lòng tôn trọng, tôi phải tiếc rằng ông đã không đủ tầm vóc để diễn đạt một tuyên bố đầu hàng cho tổng thống một quốc gia và tổng tư lệnh một quân đội với nội dung và ngôn ngữ thích đáng.

Lời tuyên bố ấy có thể sửa lại không quá khó khăn, chẳng hạn: “Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, tuyên bố: Một, từ giờ phút này Quân lực Việt Nam Cộng hòa ngưng bắn, hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Hai, giải tán chính quyền Việt Nam Cộng hòa từ trung ương đến địa phương. Ba, giao quyền lực nhà nước trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.” 

Tôi có mười lăm năm gắn bó với ngành sử, ở Đông Đức cũ và Việt Nam, để hiểu phát ngôn khô khốc của Lenin khi từ chối thỉnh cầu của Maxim Gorky xin tha mạng sống cho sử gia Nicholas Mikhailovich Romanov, Chủ tịch Hội Sử học Nga, đồng thời là một Đại Công tước thuộc dòng họ Nga hoàng cuối cùng: “Cách mạng không cần đến sử gia“. Song có lẽ cách mạng cần người biết soạn thảo một văn kiện lịch sử.

Tuần báo Trẻ, 12.05.2022

[1] Khi ghi âm, ông Dương Văn Minh đã đọc câu thứ hai hơi khác, còn tối nghĩa hơn, như sau: “Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, từ trung ương đến địa phương giao lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.

[2] Ít nhất 4 nhân vật đã khẳng định chính mình nói câu đó ở Dinh Độc lập: đại tá Bùi Tín, đại tá Lê Văn Minh, trung tá Bùi Văn Tùngđại úy Phạm Xuân Thệ.

[3] Ông Bùi Văn Tùng kể lại: “Sẵn tập pơ-luya xanh nhạt để trên bàn, tôi lấy một tờ. Tôi lấy bút ra rồi nhưng mà tôi cũng chưa nghĩ ra điều kiện (đầu hàng) thế nào. Nhưng vài phút suy nghĩ thì té ra vấn đề nó dễ òm, có khó gì đâu. Cách mạng đề ra vấn đề cơ bản, quân đội và chính quyền. Thế là tôi thảo ra cho ông Minh. Thảo vài phút thì xong.”

[4] : Sau khi tôi đã sang sinh sống ở nước ngoài, mỗi lần về Việt Nam thăm ba, những lúc tinh thần minh mẫn ba đều hỏi thăm tôi người Việt mình sống ở bên đó thế nào, có thành công và thích nghi với nước sở tại hay không? Và cuối câu chuyện bao giờ ba cũng thắc mắc hỏi tôi mỗi một câu: “Ti sao M li đánh nhau vi mình thế h con?”

[5] Bảo Đại không mắc lỗi ấy. Ông tuyên bố trong Lễ Thoái vị ngày 30/8/1945: “Trẫm cũng quả quyết thoái vị nhường quyền điều khiển quốc dân cho một chính phủ dân chủ cộng hòa.” Song dĩ nhiên ông không bị địch thủ nhét chữ vào mồm ở phút nước đã dâng đến cổ, và người thảo Chiếu thoái vị cho ông là vị đổng lý ngự tiền văn phòng triều đình, luật sư danh tiếng Phạm Khắc Hòe.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 13, 2022 13:17

April 14, 2022

Khi nhà thơ không hoàn toàn cưỡng dâm

Phạm Thị Hoài

Ông nhà thơ, người vừa bị một nữ đồng nghiệp tố cáo tội cưỡng dâm, trả lời báo chí rằng ông “không có ý kiến gì, vì cũng chưa biết việc này sẽ đi đến đâu và làm như thế nào“, hơn nữa “theo quan điểm cá nhân thì những lời viết này không phải đúng hoàn toàn đâu“, nhưng “như thế nào thì chưa nói vội“. Vài câu mà thâu tóm một chân dung. Ngôn ngữ tiết lộ hết. 

Ông không có ý kiến vì “chưa biết việc này sẽ đi đến đâu“. Chờ đã. Hạ hồi phân giải. Như thể tùy tình thế mà ông sẽ có ý kiến phù hợp. Như thể việc này “đi đến đâu” thì ý kiến đến đó. (Nhân tiện, tôi không thể nghe nổi cái điệp khúc “sai đến đâu, xử đến đó“, một công thức luật pháp rất nôm na, rất phổ biến và rất được ưa chuộng ở Việt Nam. Nó giả định một sự trùng khớp thô thiển giữa tội ác và hình phạt. Nó cụ thể hóa đến mức ngô nghê nhất những nguyên tắc tất yếu trừu tượng của luật pháp trong một xã hội hiện đại. Nó vỗ về một dân chúng khát khao công lý bằng kiểu ngôn ngữ dân dã dễ nhớ, để che lấp sự bất lực hệ thống của guồng máy luật pháp Việt Nam hiện tại. Xử “đúng người, đúng tội” chỉ là bước đầu tiên trên hành trình công lý. Toàn bộ những chặng đường phức tạp còn lại là kiến tạo những cơ sở, điều kiện và phương tiện để thỏa đáng câu hỏi: Xử như thế nào.) Nhưng vụ việc này không thể có diễn tiến nào khác, kể cả về khía cạnh luật pháp với thời hiệu tố tụng đã hết. Chỉ có những lời cáo buộc nghiêm trọng của một phụ nữ, khác với ông, đã lên tiếng, bất chấp những tổn thương mới. Chỉ có một dư luận sẽ nhanh chóng hóng một tin nóng khác để tung hứng và nhấn chìm. Vụ việc này dĩ nhiên không “đi đến đâu“. Cứt trâu đã hóa bùn. 

Dĩ nhiên ông có quyền im lặng. Và cả quyền im lặng về sự im lặng của mình, song không có ý kiến vì “chưa biết làm như thế nào” thì thảm hại. Chẳng lẽ có một cách “làm” nào khác ngoài hai lựa chọn: Hoặc bác bỏ lời cáo buộc. Hoặc công khai nhận tội, xin lỗi, từ chức. Không có “con đường thứ ba” để tính toán “làm như thế nào“. Chúng ta không ở trong một truyện cổ tích để thi dù là trí khôn vặt lưu truyền cho đời sau.     

Chúng ta cũng không ở một cuộc họp cơ quan, chẳng hạn ở báo Văn nghệ mà ông hiện là Phó Tổng Biên tập, một chức vụ không mấy thực danh và lại càng ít thực quyền song cũng đủ để gắn với một kiểu ngôn ngữ mà tôi gọi là ngôn ngữ cán bộ nhà nước. Mùi cán bộ nhà nước ở bất kỳ ai từng sa vào chốn đó dù chỉ dăm ba tháng thật khó lẫn. Nó xộc ra từ điệu ngồi dáng đứng, từ cách hất mặt chỉ tay, từ sự loay hoay thu vén đầu tóc, từ trang phục không đi chệnh đường lối thẩm mĩ quốc doanh, và trước hết từ một tổng thể ngôn ngữ của không chỉ nội dung mà còn là từ vựng, công thức diễn đạt, thậm chí thói quen mở đầu và điều chỉnh tiết tấu một câu. Cán bộ nhà nước có một bộ nhiễm sắc thể đặc biệt, xoắn vào duỗi ra không hề giống phần đồng loại còn lại. Họ chỉ cần mở miệng là tôi biết nói chuyện với người ngoài hành tinh còn dễ hơn. Họ có thể phát ngôn trôi chảy một câu như “Theo quan điểm cá nhân thì cá nhân tôi không có quan điểm cá nhân” mà không nhất thiết là những nhà trào phúng vi hành hay những ca rối loạn nhân cách. Vợ bảo, mồm anh hôm nay thối quá. Ông chồng cán bộ có thể đáp, theo quan điểm cá nhân thì không hoàn toàn thối. Ông cán bộ nhà thơ báo Văn nghệ cũng “theo quan điểm cá nhân” mà đánh giá vụ bê bối của chính cá nhân mình.

Rằng lời tố cáo cưỡng dâm “không hoàn toàn đúng đâu“. Như thể ngoài cưỡng dâm hay không cưỡng dâm còn một khả năng nữa là không hoàn toàn cưỡng dâm. Có lẽ nạn nhân của vụ không hoàn toàn cưỡng dâm cũng không hoàn toàn có thai. Trong mô thức vận hành thi ca, tư duy dường như không đóng vai trò đáng kể; thậm chí phần lớn nhà thơ Việt quan niệm rằng tư duy cản trở cảm xúc mà cảm xúc mới là nhất, ăn nhau ở dạt dào cuồn cuộn, ở thiết tha nhức nhối, khắc khoải se lòng hoặc xé lòng. Chưa ai khen Nguyễn Du thông minh, có lập luận sáng tỏ vững chắc. Tôi không là người duy nhất bỏ phiếu cho thi ca hưởng quy chế tối huệ, ưu đãi đặc biệt, thiết nghĩ tuy có chút mê muội nhưng nhìn chung nó vô hại, rốt cuộc thì nhân loại đâm đầu vào những thứ kinh hoàng và mất thời gian hơn nhiều. Nhưng trước một nhà thơ không hoàn toàn cưỡng dâm thì xã hội nên đặt thơ ca sau rào chắn, đó là chỗ quá nguy hiểm cho lý trí thông thường. Song thực ra ông cũng là nạn nhân hay sản phẩm của một môi trường, nơi người dân thì đơn giản phạm tội, trong khi cán bộ chỉ “sai phạm” vì “thiếu trách nhiệm” – tức không vô trách nhiệm mà không hoàn toàn có trách nhiệm – hay “buông lỏng quản lý” – tức vẫn có quản lý nhưng không hoàn toàn. Tôi đã định đề nghị xử lý vụ nhà thơ cán bộ không hoàn toàn cưỡng dâm này là sai phạm do thiếu trách nhiệm giám sát dục tính và buông lỏng quản lý khuy quần. Song Ban Chấp hành Hội Nhà văn – mà ông nhà thơ là ủy viên! – vừa quyết định vô can, lý do là không có thẩm quyền và không đủ cơ sở.

Tôi đã khó nín cười trước những lời “không có ý kiến” của ông nhà thơ, song đến lời cuối, khi ông lấp lửng “như thế nào thì chưa nói vội” thì hết cười mà lạnh người. Như thể ông đang có tất cả thời gian trên đời để ngồi đó rung đùi, chờ thời điểm thích hợp sẽ tung ra ngón chí tử để dư luận ngã ngửa và đối phương cứng họng. Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào nhé. Xem hồi sau sẽ rõ. Tiếng Việt quả thật kỳ diệu. Ba chữ “chưa nói vội” dựng nên một diện mạo, một không khí, những liên tưởng và hình dung kịch bản khác hẳn “chưa nói được”, “chưa thể nói” hay thậm chí “chưa vội nói”. Thực ra chỉ một chữ “vội“, ở chính xác một vị trí, đã bóc trần một tính cách. Những người đàn ông như thế sẽ làm tất cả để nạn nhân của họ phải chùn lòng.   

(Tuần báo Trẻ, 14/4/2022)    

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 14, 2022 14:00

March 17, 2022

Có hẹn với Pushkin

Phạm Thị Hoài

Moskva, tình yêu của tôi“, tên bộ phim mà có lẽ mọi người Việt miền Bắc thế hệ tôi đều biết đã giúp tôi chịu đựng thủ tục du lịch Mạc Tư Khoa hơn mười năm trước. Với Nga, tấm hộ chiếu quyền lực của Đức chỉ là tếp giấy lộn in chìm hình đại bàng. Bạn không thể là một thường dân vui chân ghé đại sứ quán Nga ngự trên 1.500 mét vuông lãnh thổ Liên Sô cũ tại đại lộ trọng yếu nhất Berlin cách Cổng Brandenburg chưa đầy 300 mét, bảo mình có hẹn với Pushkin là được đóng cộp một thị thực. Nước Nga thích làm khó, bạn phải chứng tỏ mình xứng đáng bị hành hạ. Yêu thì phải trả giá, tình cho không biếu không là tình dối trá, tình vứt đi. Nhưng khi tôi hạ quyết tâm hoàn thành cả chục điều kiện thị thực, trước hết là xin gấp một giấy mời từ Pushkin, thì té ra không có gì là thật và mọi thứ đều có thể, đúng như tên cuốn sách của Peter Pomerantsev về nước Nga triều đại Putin. Hãy trả một khoản lệ phí đủ lớn cho một văn phòng cò mồi nào đó là tất cả xong hết, ngay trong ngày, nếu Pushkin không ký giấy mời thì Tolstoy. Проблем? Нет!

Đây là cuộc hò hẹn đầu tiên của tôi với Moskva. Lần chạm mặt thứ nhất không chủ định. Tôi thuộc lứa du học sinh có lẽ cuối cùng sang châu Âu bằng tàu liên vận. Chặng đầu Hà Nội – Đồng Đăng, đường sắt quê hương sau chiến tranh, như đã biết. Chặng thứ hai tàu Trung Quốc, toa hạng nhất, chăn gối phẳng phiu thơm phức, bàn ăn trải khăn trắng, đồ sứ mỏng, nhân viên mặc đồng phục nghiêm chỉnh, mặt lạnh như băng nhưng phục vụ hoàn hảo, chúng tôi là khách quốc tế. Chặng thứ ba tàu Liên Sô, chúng ta là bạn bè vô sản. Buồng vệ sinh xin mời tự dọn, giường chiếu tự thu xếp, ăn xong tự rửa chén rồi ra nghe nhân viên hát Ka-chiu-sa với Ka-lin-ka đệm ghi-ta sôi nổi. Trước chặng cuối đi Đông Âu, chuyển tàu ở Moskva, anh trai một bạn cùng nhóm, sinh viên Lomonosov, đón chúng tôi về ký túc xá ăn cơm với bắp cải luộc và xúc xích mỡ cắt nhỏ. Tôi tự nhủ, thiên đường cũng chỉ thế thôi, sau những ngày ăn món Tàu ngập dầu và món Nga súp, bánh mì, súp. Mạc Tư Khoa như thế nào, tôi không biết. Hình như cả nhóm có ra Quảng trường Đỏ. Hình như có xem tượng ông này ông nọ, tháp chuông này tháp chuông kia.

Lần này tuổi tôi đã gấp ba lần trước, nước Nga đã qua hai thập niên giã từ quá khứ Sô-viết và thế hệ người Việt học khóa cuối ở đó đã giã từ quá khứ bán mì gói để bước vào Danh sách Forbes. Ở thời điểm tôi đến, Moskva đã vượt qua New York để trở thành thủ phủ của tỉ phú và sánh vai 5 thành phố đắt đỏ nhất thế giới. Tiệm ăn xuất sắc và cắt cổ không thiếu, phần lớn là haute cuisine, có cả vài nhà hàng avant-garde biểu diễn ẩm thực phân tử cho loại khách không còn trưng Lacoste nhưng đeo Hublot. Song lựa chọn còn lại là những quán xá nặng nề ngao ngán hoặc những căng-tin thiếu tất cả nhưng thừa phũ phàng. Nên màu vàng chữ M của McDonald’s chưa bao giờ và ở đâu lại rực rỡ trong mắt tôi như nhìn từ Tượng đài Pushkin với dòng thơ khắc “Giữa thời tàn khốc, tôi hát khúc tự do“, điểm hẹn truyền thống của giới đối kháng ở Moskva xã hội chủ nghĩa, Moskva “dân chủ định hướng” và Moskva “chuyên chế hậu hiện đại”.

Chi nhánh McDonald’s hoành tráng nhất quả đất ấy khai trương ngày 31/1/1990, như một cử chỉ vuốt mắt cho Liên Sô đang hấp hối, với sức chứa gần 1.000 khách trên tổng diện tích 2.200 mét vuông, 28 quầy phục vụ, 630 nhân viên tuyển từ 27.000 đơn xin việc, ngày mở hàng bán hết 31.000 suất Big Mac với khoai tây chiên và Coke, giá 5 rúp, tức nửa ngày lương công nhân. Trong giá rét xám xịt của mùa Đông nước Nga, chữ M vàng rực ấy còn chấn động người Moskva hơn sự kiện Bức tường ở Berlin xa xôi sụp đổ. Tôi thuộc phe chống đối công cuộc McDonald’s hóa nhân loại; hễ có dịp là tôi đay nghiến những cục bột mềm oặt kẹp thịt tiệt trùng tha hóa đến gai vị giác cuối cùng trên lưỡi, túi khứu giác cuối cùng trong mũi, sợi thần kinh lang thang cuối cùng ở thực quản và giọt dịch vị cuối cùng của dạ dày con người. Song trong năm ngày ở Moskva tôi cho thành phố này một ngoại lệ. McDonald’s ở đây thuộc về nhân quyền, hơn cả thiên đường là bữa cơm với bắp cải luộc và xúc xích mỡ cắt nhỏ ở ký túc xá Lomonosov 34 năm trước.

Tôi cũng được thưởng thức bếp hoài niệm Sô-viết trong một quán thiết kế bằng các toa tàu cũ, bàn ghế đĩa chén và thức ăn thẳng thừng chửi vào mặt khách, rằng đã ngu đến mức tự tìm vào chốn này thì gắng chịu: Bạn xứng đáng bị hành hạ. Dịch vụ tưởng nhớ một quá khứ còn chưa xa ấy ở cạnh ga Kurskaya, không thuộc những bến metro tráng lệ nhất nhưng cũng đủ là một cung điện nguy nga dưới lòng đất. Vừa cải tạo nâng cấp xong, dòng chữ “Stalin dạy chúng ta trung thành với nhân dân, truyền cảm hứng cho chúng ta làm việc và hành động” trên vòm tiền sảnh, lời trong Quốc ca Liên bang Sô-viết nguyên thủy, thời khử Stalin bị tiêu hủy, lại hiện ra huy hoàng. Người Nga rồi sẽ quên Lenin, quên luôn cả lăng mộ xấu xí của ông trên Quảng trường Đỏ. Tôi đến đó chỉ thấy lèo tèo vài du khách, vào cửa miễn phí. Còn Stalin, như Ivan bạo chúa, sẽ sống mãi, cho một nước Nga vĩ đại trở lại. Song nhân viên các nhà ga metro, thành tựu vĩ đại bất tử của đế chế Sô-viết, không được Stalin truyền nhiều cảm hứng. Họ phần lớn là những phụ nữ luống tuổi, phờ phạc mệt mỏi và cáu kỉnh. Bạn đừng mong họ thân thiện. Toàn bộ dáng vẻ của họ đã xác định: Không có phép màu. Như toàn bộ kiến trúc trường phái Stalin, nhất định phải đồ sộ hùng vĩ, biểu thị sức mạnh và sự ưu việt, những cung điện phi thường dành cho nhân dân này không chờ ở bạn một tình yêu, mà đòi sự thần phục. 

Ở Bảo tàng Pushkin, cũng những phụ nữ luống tuổi mệt mỏi nói năng nhát gừng ấy. Họ gác ngôi đền nghệ thuật lừng danh như đứng quầy mậu dịch ban phát hàng quốc doanh phân phối thuở trước. Đàn ông Nga hình như không làm việc, còn job của các cô gái trẻ là trang điểm thật kĩ, mặc đầm thật bó, đi giày thật cao và tỏa thật đậm mùi nước hoa ngọt ngào mà người Nga ưa thích. Dọc những bức tường ở đường vào các trung tâm thương mại, nhiều lần tôi gặp hình vẽ một thiếu nữ Nga như vừa bước ra từ ca-ta-lô, tóc lượn sóng vàng óng, chót vót quyền lực cạnh một quý ông thấp bé cau có, tóc rất hói. Từ chiều cao thời đại, nàng dễ dàng vòng tay này qua vai chàng, hai ngón kiều diễm mơn man hạ xuống, nhón chiếc thẻ tín dụng từ túi áo ngực bạn quý, tay kia không còn chỗ cho những LV, Dior, Chanel, Hermès. Ở nước Nga không có gì là thật và mọi thứ đều có thể, nữ quyền là tự do quyết định có một tấm thân ngà ngọc mà lại biết trích dẫn Pushkin hay chỉ vỏn vẹn trông vào nhan sắc, nghe nói là tài nguyên dồi dào nhất ở đất nước mênh mông này. Ngoài khí đốt và dầu hỏa. Chiếc lò sưởi trong căn phòng thuê qua Airbnb của tôi cũng khẳng định nhận thức ấy, nó tuyệt đối đáng tin cậy vì chỉ cung cấp một lựa chọn: bạn có thể mở cửa sổ cho bớt nóng. Tiền sưởi tính trọn gói, rẻ như biếu không, chẳng việc gì phải mất công thay thế một hệ thống đã tận tụy cống hiến từ Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại.

Để hoàn thiện một trải nghiệm, tiếp viên trưởng trong chuyến bay của tôi về Berlin với Aeroflot cũng là một phụ nữ Nga đứng tuổi mà mọi cử chỉ đều lấy lệ, đều bất đắc dĩ, đều như ra giá rằng mình chỉ làm đủ gói phận sự cơ bản, thêm chút niềm nở phải nâng hạng. Muốn thân ái thì trả giá.

Tôi không upgrade lên thương gia. Moskva, tình yêu không của tôi. Trước Đại sứ quán Nga ở Berlin những ngày này tràn đầy người biểu tình. 850 tiệm McDonald’s ở Nga đã đóng cửa. Không sao cả, Điện Kremlin tuyên bố ngay kế hoạch triển khai thương hiệu Nga thay thế: дяди вани, Cậu Vanya. Lần sau tôi xin hẹn với Chekhov.

Tuần báo Trẻ,  17/3/2022

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 17, 2022 11:30

March 11, 2022

Cuộc chiến quỷ ám

Cuộc chiến quỷ ám

Phạm Thị Hoài

Trong câu chuyện vô tận về mối quan hệ phức tạp giữa Nga và phương Tây, các nhà văn Nga ngoài vai trò đồng tác giả còn là những nhân vật tiêu biểu. Sa hoàng, Sô-viết, hậu Sô-viết, Putin hay hậu Putin, thời nào chiến tuyến cũng và cũng sẽ hằn sâu giữa giới trọng Nga (russophile) hay trọng Slav (slavophile) và giới thân phương Tây.

Biểu tượng quyến rũ nhất của khuynh hướng thân phương Tây cho đến nay vẫn là Ivan Turgenev: Tài năng, danh tiếng, quảng giao, học thức, thành thạo sáu ngoại ngữ, chưa kể giàu sang quý tộc và một ngoại hình nổi bật với chiếc mũi hoàn hảo trên gương mặt khả ái và chiều cao gần hai mét. Đối trọng của ông về mọi phương diện là Dostoyevsky, xuất thân trong khốn khó, vóc dáng khắc khổ, râu thưa, tóc mỏng, da thiếu nắng, má hóp, mắt nhìn bất an, thần thái bồn chồn và thường xuyên chạy nợ. Hành trình của Dos là từ cực tả đến bảo thủ và thậm chí cực hữu, của Turgenev là từ hư vô đến cấp tiến rồi phóng khoáng ôn hòa. Dos thậm mộ đạo, Turgenev ít nhiều vô thần. Dos táo tợn cực đoan, Turgenev khoan dung điềm tĩnh. Dos cục cằn đầy kịch tính, Turgenev lịch lãm nhẹ nhàng. Dos cường độ, Turgenev sâu lắng. Dos khinh bỉ phong cách, bất chấp kỹ thuật, coi ngôn ngữ chỉ là phương tiện và nếu đang cháy túi thì viết ào ào, miễn bán được bản thảo. Turgenev kỹ lưỡng từng câu chữ, khổ sở mãi về một chiếc bàn tròn ở câu trước bỗng có hình bầu dục ở câu sau trong một tác phẩm của Dos. Dos sục xuống tầng hầm của tâm hồn Nga, tìm ra đầu dây cháy chậm của những quả bom người – những thân phận bị đọa đày và châm ngòi nổ. Turgenev mở cánh cửa sổ Nga ra thế giới, phối hiện thực với trữ tình và cho nét u buồn đặc trưng của Nga một vẻ bi quan hiện đại. Song xung đột bất hủ giữa hai vì tinh tú thuộc hàng rực rỡ nhất trên bầu trời văn chương Nga này đến từ câu hỏi “Con đường nào cho nước Nga?”, vấn đề thiêu đốt và chia rẽ giới tinh hoa Nga chậm nhất từ giữa thế kỷ 19.

Trong tác phẩm Khói (1867), Turgenev để nhân vật Potugin của mình phát biểu: “Người Anh gặp nhau thì thảo luận về thuế trước bạ hoặc cáp điện ngầm dưới biển, người Đức bàn về Schleswig-Holstein và tiến trình thống nhất nước Đức, người Pháp không thể không đề cập chuyện tình ái, còn người Nga thì lập tức tranh cãi về ‘Vai trò và tương lai của nước Nga’. Họ gặm, họ mút, họ nhai cái vấn đề bất hạnh này như trẻ con ăn cao su – và luôn dẫn đến cùng một kết quả.” Song Dostoyevsky thì khác, ông đã trả lời câu hỏi đó bằng hai đáp án trái ngược.

Chàng thanh niên Dos bị bắt, kết án tử hình, ân xá vào phút chót trên pháp trường và lưu đày ở Siberia. Tội của ông là đã đọc bức thư nổi tiếng của Belinsky gửi Gogol trong một buổi họp mặt của Nhóm Petrashevsky, gồm các trí thức trẻ chống đối chế độ Sa hoàng. Belinsky, nhà phê bình văn học sáng chói những năm bản lề ấy thất vọng sâu sắc về bước ngoặt bảo thủ của Gogol sau thành công của Những linh hồn chết mà ông từng nhiệt thành ngưỡng mộ. Toa thuốc mà Gogol kê cho con bệnh là nước Nga, với những thảo dược Nga truyền thống như thần bí, khổ hạnh và sùng tín, theo Belinsky là chẳng những vô tác dụng mà độc hại, bởi nước Nga cần được điều trị bằng liệu pháp Âu hóa, bằng văn minh, khai sáng và nhân văn. “Nước Nga không cần những bài giảng đạo (nó đã nghe quá đủ!), không cần những lời cầu nguyện (nó đã tụng quá nhàm!), mà cần sự đánh động ý thức của người dân về phẩm giá con người bị chôn vùi trong rác rưởi và ô uế suốt nhiều thế kỷ – nước Nga cần và phải áp dụng thật nghiêm khắc những thứ quyền và luật phù hợp với lẽ công bằng và lý trí lành mạnh chứ không phải phù hợp với giáo lý nhà thờ. Nhưng tiếc tay, nước Nga chỉ trình ra bộ mặt ghê tởm của một quốc gia không có đảm bảo nào cho cá nhân, danh dự và sở hữu của con người, một trật tự cảnh sát cũng không có nổi, chỉ thuần túy là một nhà nước trong tay đám sai nha trộm cắp và cướp bóc!“.

Mươi năm sau, qua những khổ sai, quân dịch, bệnh tật, túng quẫn, chờ đợi một cú huých cho sự nghiệp, Dos đoạn tuyệt với các lý tưởng cực tả thời trẻ để tốt nghiệp bước ngoặt bảo thủ của số phận mình, có phần ít thần bí hơn Gogol, nhưng cũng triệt để quay lưng với các trào lưu khai sáng, cải cách và hiện đại hóa xã hội, chỉ còn cố thủ ở những “giá trị Nga” ăn sâu trong đời sống chất phác, tâm hồn trong sáng và đức chịu đựng vô tận của nông dân Nga, kết tinh trong Giáo hội Chính thống Nga mà ông giao phó sứ mệnh cứu rỗi không chỉ dân tộc mà toàn nhân loại. Dos nhiều lần thăm thú các kinh thành châu Âu, lần cuối hơn bốn năm lang thang trốn nợ, sống ở phương Tây mà như chưa bao giờ rời khỏi nước Nga, không ngoại ngữ, không giao lưu, không hội nhập, không hiếm khi thua trắng ở các sòng bạc và chỉ sống bằng nước trà. Cảm tình ban đầu của ông với phương Tây chuyển dần thành ác cảm, rồi ác cảm trở thành nỗi ghê tởm để củng cố niềm tin về con đường riêng của nước Nga, luận thuyết về đặc cách Nga, một kiểu Russian Exceptionalism mà sau này các nhà lập thuyết của Chủ nghĩa Putin, từ Aleksandr Solzhenitsyn, Aleksandr Dugin đến Vladislav Surkov, sử dụng như một nền tảng nhận thức. Phương Tây trong quan niệm ngày càng bảo thủ của Dos là hiện thân của chủ nghĩa vật chất suy đồi hời hợt, của sùng bái tiến bộ mù quáng, của tự do vô luân và vô đạo. Nước Mỹ xa xôi mà ông không thực sự tiếp cận cũng trở thành đối tượng căm ghét, chưa kể thái độ bài Do Thái, bài Ba Lan và bài Thổ không giấu diếm – để bài Do Thái giáo, Cơ-đốc giáo và Hồi giáo, ba tôn giáo lớn mà ông phỉ nhổ vì kình địch với Chính thống giáo Nga.   

Đối tượng căm ghét tất yếu của ông cũng là Turgenev, người đồng nghiệp lẫy lừng có tất cả những gì Dos không sở hữu và hiện thân của tất cả những gì Dos dị ứng. Họ chia tay nhau không đội trời chung sau lần Dos, cháy túi như thường lệ, đến biệt thự của Turgenev ở Baden-Baden vay tiền đánh bạc và giận dữ vì chỉ mượn được một số tiền quá nhỏ. Chín năm sau ông mới trả khoản nợ ấy, nhưng trong Lũ người quỷ ám, tác phẩm lớn cuối cùng của mình, đã kịp dựng một chân dung Turgenev kệch cỡm qua nhân vật Karmazinov, một nhà văn ăn phải bả phương Tây nay đã hết thời, đạo đức giả và mù tịt về những biến động chính trị xã hội tại Nga. Song Turgenev vẫn rơi nước mắt ôm hôn kẻ thù của mình sau những lời đấu dịu đôi chút với phương Tây của Dos trong diễn văn khánh thành tượng đài Pushkin ở Moskva, bởi ngoài Pushkin, ông là “thiên tài mực thước” duy nhất của một nước Nga đầy những vụ tự thiêu và các thái cực hoang dã như nhận định của Dmitry Merezhkovsky. Vài tháng sau Dostoyevsky qua đời.

Tôi cũng đã say sưa đọc những tiểu thuyết đầy nhân vật lạ lùng, tình tiết gay cấn và giáo huấn mạnh mẽ của Dos đúng như lời Joseph Conrad, rằng ở chốn hội chợ văn chương, đám đông chỉ đổ xô đi xem một con chim sơn ca hai mỏ hay một gã quái thai khổng lồ, cổ chằng dây nịt ngựa, cười toe toét với khán giả. Chậm nhất, với Nabokov trong hành trang, tôi dễ dàng bỏ lại Dos trên sân ga. Song trong những ngày của cuộc chiến quỷ ám này, tôi lại buộc phải nghĩ về Dos và sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử từ Sa hoàng, Sô-viết, hậu Sô-viết, Putin hay hậu Putin, thời nào câu hỏi nước Nga đi về đâu dường như cũng và cũng sẽ nghiêng về câu trả lời của Dos. Rốt cuộc, một đồng nghiệp nổi tiếng khác của ông, Aleksandr Solzhenitsyn, sau hai mươi năm lưu vong ở phương Tây, cũng trở về để cảnh báo hiểm họa một nước Nga trên bờ vực thẳm nếu tiếp tục con đường thân phương Tây của Yeltsin, và – một lần nữa – đề xướng một viễn cảnh Toàn cõi Nga, Toàn cõi Slav, Đại Á-Âu, với nhà thờ Chính giáo và sứ mệnh cứu rỗi một nhân loại đã sa đọa bởi một phương Tây tham lam, tha hóa, dối trá, ẻo lả, phù phiếm, suy tàn. Cho đến khi qua đời năm 2008, nhà văn cựu ly khai trở thành vị minh sư mà viên cựu sĩ quan KGB Vladimir Putin một lòng ngưỡng mộ. Cuộc chiến ở Ukraine hôm nay theo đúng chương trình hành động mà tác giả của Quần đảo ngục tù đề nghị trong hàng loạt bài viết về việc tái thiết một đế chế Nga, ít nhất gồm Đại Nga, Tiểu Nga (Ukraine) và Bạch Nga (Belarus).

Ở cõi bên kia, Dos hẳn đẹp lòng. Càng ngày tôi càng thấm nỗi bi quan u buồn của Turgenev.

Berlin, 07/3/2022  

(Việt Báo, 11/3/2022: https://vietbao.com/a311417/cuoc-chie...)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 11, 2022 01:17

February 21, 2022

Mưa Thuận Thành

Phạm Thị Hoài

Tôi có thể giữ được chủ quan về Mưa Thuận Thành [1] hay không, sau tất cả những huyền thoại đã nghe về Hoàng Cầm? Ông là tác giả của Về Kinh Bắc, tập thơ cho đến bây giờ vẫn tiếp tục mang vầng hào quang riêng của những tác phẩm nằm lâu trong ngăn kéo [2] mà chỉ cái tên của nó đã hứa hẹn, và hơn cả hứa hẹn: đã thiết lập hẳn một không gian tinh thần đặc trưng, là điều mà đa số các tập thơ hiện nay không làm nổi. Nhiều người sành điệu rỉ tai nhau, rằng ông là một trong số hiếm hoi những thi sĩ thực thụ còn tồn tại. Tên ông, ngay sinh thời, dường như đã được nối vào danh sách không dài lắm của những tên tuổi được mụ thời gian tính khí rất thất thường đồng ý lưu lại. Nhưng tác phẩm của Hoàng Cầm lại đến với công chúng muộn mằn, và phải chở trên lưng một quá khứ nguy hiểm. Nguy hiểm cho chính ông đã đành, cho người đọc cũng nguy hiểm chẳng kém. Tôi có giữ được lòng mình, hay cũng vì đủ thứ lý do nằm ngoài bản thân tác phẩm mà phải chi ra một vài món tình cảm và nhận thức nào đó cho những huyền thoại ấy, cho quá khứ ấy? Nguy cơ là lớn. Nhưng tôi hy vọng vào khoảng cách giữa các thế hệ. Hoàng Cầm và tôi là người cùng thời, nhưng ông có trước tôi một thời đại không lặp lại nữa, hay dùng chữ của ông: một gia phả tinh thần mà dù đã được rũ bụi thì tôi cũng không thể đơn giản làm quen.

Trước ông ít lâu, những người trẻ tuổi đang háo hức nhóm dậy một cuộc cách mệnh về thi ca đã tấn công không thương tiếc kể cả thi sĩ sáng danh Tản Ðà, người đại biểu chính thức cho nền thơ cũ [3], nhân danh một hồn thơ mới của một thời đại mới, bất chấp ngọn roi quật lại cũng phũ phàng của một chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng đầy uy tín. Ðã qua lâu rồi cuộc nội chiến vĩ đại, kéo theo những hậu quả ăn chặt vào lòng ngôn ngữ Việt và chiếm một vị trí có thể gọi là bành trướng trong lịch sử thơ Việt ấy. Những người trẻ tuổi của các thế hệ tiếp theo không khởi xướng – hoặc không có cơ hội khởi xướng – một phong trào thơ ca nào tương tự về tầm vóc như thế nữa. Chúng ta đành ghi nhận tính khoan dung giữa các trào lưu và phong cách trong lịch sử thơ Việt từ đó đến nay, nếu quả thật nửa thế kỷ qua thơ Việt – ở miền Bắc trước và ở cả nước sau thống nhất – đã có nhiều hơn là một trào lưu duy nhất, một phong cách duy nhất. Tuy nhiên, khoảng cách giữa các thế hệ vẫn có thật, và hơn nữa: khoảng cách giữa các thời đại.

Vậy thì trước hết, tôi thấy Hoàng Cầm đẹp và xa cách. Thật lạ lùng, thực ra hầu hết những gì tạm gọi là chất liệu làm nên thế giới thơ ông đều còn nguyên, thực ra không xa vời, không siêu nhiên hoang đường gì hết, mà hồn thơ ông vẫn là một người khách xa, không dễ cho tôi bày tỏ đúng cách lòng trân trọng, chứ chưa nói đến việc cởi mở tâm tình. Trong khi đó, chẳng hạn cái thế giới Chiêm Thành mộng mị ma ảo của họ Chế đã điêu tàn từ lâu, nhưng Chế Lan Viên thuở ấy với tôi lại là gần gũi. Không phải là vấn đề ngôn ngữ, dù Hoàng Cầm có một hệ lời tinh vi và lắt léo, đôi khi lắt léo tới mức người biết đọc thơ ông cũng không nhất thiết phát hiện ra những lỗi in sai trầm trọng, vì cái lý thông thường của các con chữ, cái lý của một nghĩa gói trong một chữ, ở trường hợp ông rất nhiều khi chẳng giúp được gì. Cái hệ lời ới hời vi vút sấp ngửa khép nép nghiêng ngửa mê và tê tê vời vợi ấy lại đi đôi với một âm vận rất riêng, dường như đã được gọt rũa tính toán cho không còn một chút ngẫu nhiên nào lọt lưới, đồng thời cũng dường như chỉ cảnh vẻ thế thôi, chẳng mấy bận tâm, nên lắm chỗ cứ ngang phứa lên, phá kỷ lục của cả những tay chơi ngang thượng thặng, nhưng khác xa loại thơ xuôi tai, loại thơ có đổi thanh đổi vận, có xuống hàng và có thu xếp hòm hòm một số lượng từ ngữ nào đó cho một tiết tấu nào đó. Tất nhiên là Hoàng Cầm cầu kỳ. Ðấy có vẻ như một phản ứng trước xu thế giản dị hoá, giản đơn hoá, bình dân hoá, rồi thô thiển hoá trong thơ Việt từ nhiều chục năm nay, sau khi nền thơ ca bác học đầy điển tích sâu xa và niêm luật khe khắt bị chôn bởi thơ tiền chiến, rồi đến lượt mình, thơ tiền chiến lại bị lấp đến thắt lưng bởi thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa. Bất kỳ câu nào của ông cũng tiêu tao yểu điệu, tuy nhiều chỗ chỉ là một kiểu chơi không thấm thía và thuyết phục lắm, không làm người đọc bàng hoàng bởi một sự phi thường nào đó phát lộ qua vài con chữ, một kiểu chơi thường gặp ở những nghệ sĩ không nhất thiết chủ trương nghệ thuật buộc phải tải một cái gì đó ngoài chính nó và đương nhiên, người làm ra nó: 

Ðón chị hồn chênh/lệch bóng đêm… 

Vùi trong trắng-xoá vĩnh hằng thơ ngây… 

Ở Yên Kỳ sao con vẫn thiếu/Một nơi nằm yên/Mấy kỳ nguôi quên

Và cũng không phải cái thường được gọi một cách bí ẩn và hàm hồ là những ẩn ức nào đó ở Hoàng Cầm. Xem ra đấy có vẻ như một liên hệ dễ dãi với quê hương Kinh Bắc của ông. Như đã nói, thực ra Kinh Bắc ấy, với những chùa chiền hội hè lăng miếu dân ca huyền thoại và những người nam người nữ tương đối rụt rè trong nhục cảm, không xa lạ gì với phần đông người Việt còn sống đến hết thế kỷ hai mươi này. Những sản phẩm tinh thần thuần túy thành phố lớn chưa thống trị chúng ta. Còn đô thị cổ với không khí đặc trưng của nó như trong thơ Hoàng Cầm, chứ không phải làng quê Việt Nam truyền thống, thì chưa lùi xa vào dĩ vãng đến thế. Vậy mà sao ông vẫn mang một vẻ đẹp xa cách, mặc dù ba phần tư Mưa Thuận Thànhđược viết trong thời gian gần đây, có bài thậm chí cuối năm ngoái.

Hoàng Cầm không phải một thi sĩ thời thế để người đọc có thể tìm kiếm tức thì sự cảm thông gần gũi qua những bày tỏ tâm huyết về xã hội và cuộc đời. Ông không đơn giản tới mức cứ đau đời từ trang này sang trang khác. Ông cũng không chỉ bảo cho ai, rằng thực ra cái Đẹp trốn ở đâu. Không hùng tráng, không khắc nghiệt, không cười cợt, rất ít triết lý, không có chính kiến. Song thật dễ chịu khi thi sĩ không nhảy bổ ra từ mỗi góc thơ để thét vào mặt tôi hoặc thầm thì sâu sắc vào tai tôi, rằng cuộc đời thì đầy rẫy điều đáng phàn nàn, kết cục chỉ riêng tác giả là biết đau đớn, hoặc căng thẳng hơn: biết đau đớn một cách thẩm mĩ nhất. Không như vậy. Thế giới tình cảm của Hoàng Cầm trong Mưa Thuận Thành, dù gồm nhiều mảng rất khác nhau, chỉ xót xa, phiền muộn, yểu điệu, yếu ớt, tinh vi, nhiều mặc cảm, nhiều nữ tính. Có một cậu thiếu niên cầm lá diêu bông, lá hy vọng hờ, lá hư không, đi suốt cuộc đời thơ ông, cậu thiếu niên xưng Em, em đứng nhìn theo, em gọi đôi cho một đời lẽo đẽo cô đơn đa tình, dẫu sau này, cũng trong cùng một tập thơ, ngôi thứ và các đại từ nhân xưng có được phân bổ lại, phù hợp với các quy ước chung hơn. Ở Hoàng Cầm không có dấu hiệu gì của phản kháng, tức giận, bùng nổ, hiếu chiến. Trí thông minh không được huy động để đối phó với những nỗi buồn. Bản năng cũng được kìm nén. Chỉ êm dịu một lẽ chấp nhận thoáng chút xót xa. Thế giới ấy, tôi khó chia sẻ.

Ðiều duy nhất có thể giúp tôi cắt nghĩa câu hỏi nêu ở phần trên là trường liên tưởng rất đặc trưng Hoàng Cầm. Em thì Em ngắt quãng tân hôn/Theo chị lùa mưa đuổi nắng buồn/ Hai đứa lung linh lơi yếm áo/Thuyền trăng dềnh/sã cánh cô đơn… Với tôi, những lung linh lơi, trăng dềnh, sã cánh cô đơn, biếc thời gian, cõi mưa nhung, sạm màu cô đơn, điệu kèn hư vô… là những thứ không còn mấy sức gợi cảm. Chúng đã mất tia sáng tạo loé lên ở một thuở ban đầu nào đó từ lâu. Nhiều câu thơ khác của ông cũng đứng chênh vênh giữa ranh giới của khám phá và sáo mòn, làm đau tim và đau đầu chính độc giả của riêng ông, thậm chí làm những người ngưỡng mộ ông vô điều kiện có thể rối loạn khả năng cảm thụ: Luỹ tre gầy nhuốm sương… Nến khuya loang vũng máu… Chuông sớm có nghiêng về mộng cũ…, rồi khói tím, hương tím, hoa tím, bóng tím, chuông buông tím… Những tín hiệu đó xa lạ với lớp trẻ ngày nay, vẫn hiếu kỳ như mọi lớp trẻ, nhưng ưa tốc độc cao, thích sòng phẳng, chuộng hiệu quả và ghét mùi mẫn. Lần đầu đọc thơ ông, tôi hơi bối rối trước những từ ngữ không ngờ có thể đặt cạnh nhau, những hình ảnh không ngờ có thể tiếp nối nhau để xuất hiện những thi tứ không ngờ và một nhạc điệu không ngờ. Tôi không bắt được cái cơ chế hoạt động trong ông để sản sinh ra những điều ấy. Tiếp tục đọc ông, tôi vẫn bối rối, nhưng lần này vì không dám chắc tất cả những thứ độc đáo bất ngờ đó có được hình thành trên cơ sở của một trường liên tưởng khác thường, với khả năng hấp thụ và đàn hồi lớn, hay một phần đáng kể nào đó có thể chỉ là một lối chơi công phu, quá công phu nữa so với hiệu quả, vì rất có thể người chơi đã quan niệm hiệu quả theo cách khe khắt nhất của riêng mình. Nếu quả như vậy, vẻ đẹp xa cách của ông sẽ được chiêm ngưỡng như người ta thường chiêm ngưỡng các vị cao thủ miên man bên những ván cờ mà đường đi nước bước ít ai có đủ tâm trí và thời gian để hiểu.

Nhưng bất kể thế nào, khả năng liên tưởng kỳ lạ của Hoàng Cầm vẫn là điều đáng quan tâm hơn cả so với những phẩm chất khác. Chính nó đã quyết định từng câu từng chữ có vị Hoàng Cầm. Ở những chỗ không có nó, tôi không nhận ra Hoàng Cầm, mặc dù cũng chẳng có gì để chê hay khen: Có nét buồn khôi nguyên/Chìm sâu vào đằng đẵng/Có tiếng ca ưu phiền/Chìm sâu vào lẳng lặng… Nhưng ngay lập tức, ở khổ sau, liên tưởng xuất hiện, tuy không xuất sắc lắm: Và dai dẳng em ơi/Là cơn say khát lá/Cứ thon mềm xanh lả/Trong men quê bồi hồi… Chính nó đã gọi về cho ông những cảm xúc đang lang thang ở đâu đó, đã xâu chuỗi những hình ảnh, đã lảy ra những từ ngữ, nhạc điệu không thể có nổi ở một trường liên tưởng nông cạn, nghèo nàn, hoặc tầm thường hơn. Không có nó thì những bài thơ tuyệt vời của ông: Cây tam cúc, Lá diêu bông, Theo đuổi, Về với ta, Chùa Hương… sẽ chỉ là những câu chuyện rời rạc, không xứng đáng với tâm trạng đằng sau. Nhưng đấy là một mạch liên tưởng khó nắm bắt, lắt léo, đột ngột nhảy cóc, đột ngột mất hút rồi lại vụt trở về như không có gì cần giải thích. Tôi có lẽ nằm ở một mạch liên tưởng khác, trong đó những đường ngang ngõ tắt của cảm xúc và suy tư vẫn được chỉ dẫn bằng một tấm bảng nào đó của lô-gích. Bởi thế, chưa tìm được đường gần gũi với thơ Hoàng Cầm hơn chăng?

Có thể say mê thơ Hoàng Cầm, cũng có thể khó chịu, hoặc cả hai một lúc. Cảm giác nước đôi ấy không có đối với số đông thi phẩm Việt Nam. Cũng có thể thuần tuý thán phục tài thơ ông, học ở ông, thậm chí chịu ảnh hưởng của ông mà vẫn giữ được một khoảng cách với ông. Ông cũng là người đi một mình, chẳng choán đầy ai, chẳng ai choán đầy ông, và bất chấp tất cả sự đa cảm đa mang, vẫn cô độc.

Xuân Diệu, Tố Hữu… có những bài thơ và câu thơ hay, nhưng không dựng nổi một không gian tinh thần, một vương quốc thơ dẫu bé nhỏ đến mấy nhưng là của riêng mình. Chế Lan Viên với thật nhiều hứa hẹn và ân sủng cũng chỉ chớm làm được điều ấy. Cùng với Hàn Mặc Tử, Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu, có thể phần nào Nguyễn Bính… trước ông, và Trần Dần, Ðặng Ðình Hưng, nửa sau của Lê Ðạt… cùng thời, Hoàng Cầm là một trong số không nhiều lắm những người lập được cho mình một vương quốc thơ riêng, với nền móng, bản sắc và các nghi thức không thể trộn lẫn. Tập Mưa Thuận Thành không cần đề tên tác giả, vì chắc chắn đó là Hoàng Cầm.

Có những tác giả mà ai cũng kính trọng và không ai đọc, trừ những người có việc phải đọc. Có những tác giả chỉ bất tử bằng các huyền thoại bên ngoài tác phẩm. Tôi hy vọng đấy không là trường hợp Hoàng Cầm. Tác phẩm của ông càng rũ đi được những hào quang phụ càng tốt. 

Hà Nội, tháng Tư 1991 

(Hiệu đính cho bản đăng trên Việt Báo ngày 18 tháng Hai 2022, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hoàng Cầm)

[1] Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, 1991

[2] Về Kinh Bắc (1959-1960) được chính thức xuất bản lần đầu năm 1994, Nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội.

[3] Hoài Thanh, Một thời đại trong thi ca (1941)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 21, 2022 12:20

February 19, 2022

Heinrich Heine – Lòng ái quốc của tôi

Phạm Thị Hoài dịch

Heinrich Heine (1797-1856) là một trong những tác giả quan trọng và gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử văn học Đức. Sinh thời, nhiều tác phẩm của ông bị cấm hoặc kiểm duyệt tại Đức; bản thân ông bị truy bức và sống lưu vong 25 năm tại Pháp cho đến khi qua đời. Tác phẩm trụ cột của ông, trường ca “Nước Đức. Một cổ tích mùa Đông” phê phán sắc bén và giễu cợt sâu cay một nước Đức trước Cách mạng 1848, ngủ kĩ trong khuôn khổ chính trị, văn hóa và xã hội chật hẹp, tỉnh lẻ, thủ cựu của một quá khứ đã lỗi thời so với một nước Pháp đầy không khí tự do của một thời đại mới. Bị coi là tác phẩm gây hấn của một kẻ lang thang mất gốc phản bội Tổ quốc, một kẻ chuyên báng bổ và bôi đen bằng miệng lưỡi độc địa, trường ca này lập tức bị thu hồi, cấm phổ biến và tác giả bị lệnh truy nã. Đoản văn sau đây là “Lời nói đầu” của tác giả cho ấn bản mà ông đã lường trước là sẽ bị kiểm duyệt hủy diệt nhiều đoạn.

Phạm Thị Hoài

_______

Tác phẩm thơ này tôi viết tháng Giêng năm nay tại Paris, và ngọn gió tự do ở nơi đây đã ùa vào một số khổ thơ mạnh hơn mức tôi mong muốn. Ngay sau đó tôi đã giảm bớt hoặc loại bỏ những thứ khó thích hợp với khí hậu Đức. Vậy mà tháng Ba, khi gửi bản thảo đến nhà xuất bản ở Hamburg, tôi vẫn bị yêu cầu xem lại hàng loạt chỗ cần cân nhắc. Buộc phải làm cái việc khốn khổ là chỉnh sửa, nên một số âm điệu nghiêm khắc chắc đã bị nén xuống hơn mức cần thiết hoặc đã bị những tiếng chuông của sự hài hước có thể quá vui nhộn át đi. Trong cơn vội vã bức bối, tôi lại xé đi những chiếc lá vả che vài ý tưởng trần trụi, và có lẽ đã khiến tai ai đó quá nhạy cảm dễ vỡ bị tổn thương.

Thật đáng tiếc, nhưng tôi tự an ủi rằng nhiều tác giả tầm vóc lớn hơn cũng từng phạm những lỗi tương tự. Về chuyện phẫu thuật chỉnh sửa, tôi khỏi nhắc đến Aristophanes, vì ông ấy là kẻ ngoại đạo mù dở, và công chúng thành Athens tuy được hưởng một nền giáo dục kinh điển nhưng ít hiểu biết về luân thường. Cervantes và Molière dễ cho tôi dựa vào hơn; ông trước viết cho giới quý tộc của cả hai vương quốc, ông sau viết cho vua và triều đình Versailles! À, tôi quên, chúng ta đang sống ở một thời rất tư sản, và đáng tiếc tôi đã thấy trước rằng bài thơ tội nghiệp của tôi sẽ khiến vô khối thiếu nữ con nhà có học ở vùng sông Spree hay thậm chí sông Alster phải nhăn những chiếc mũi ít nhiều đều khoằm cả!

Nhưng tôi còn thấy trước một điều đáng tiếc hơn nữa, đó là sự la ó từ đám cầm cờ đạo đức[1] của dân tộc, những kẻ đang sát cánh chia sẻ những ác cảm của chính quyền, hưởng trọn tình yêu và sự kính trọng của kiểm duyệt và nắm quyền định đoạt trên báo chí, nơi để tấn công đối thủ, mà đối thủ của họ lại chính là đối thủ của các ông chủ cao nhất của họ. Chúng ta sẵn lòng chống lại mối hiềm thù của đám đầy tớ hăng hái mặc chế phục đen đỏ vàng đó. Tôi đã nghe cái giọng thắm mùi bia của họ: “Ngươi lại còn chế nhạo cả màu sắc của dân tộc, thằng khinh rẻ Tổ quốc, thằng thân Pháp, ngươi định biếu không sông Rhein cho bọn Pháp chắc!”. Các vị hãy yên tâm. Tôi sẽ coi trọng và tôn kính màu sắc của các vị nếu chúng xứng đáng, nếu chúng không còn là một trò rỗi hơi hay rập đầu khúm núm. Hãy cắm lá cờ ba màu đen đỏ vàng đó lên đỉnh cao của tư tưởng Đức, biến nó thành cờ hiệu của nhân loại tự do là tôi sẵn sàng dâng trọn tâm huyết mình cho nó. Hãy yên tâm, tôi yêu Tổ quốc cũng không thua các vị. Vì tình yêu ấy, mười ba năm qua tôi đã sống đời lưu vong, và cũng vì chính tình yêu ấy tôi lại trở về chốn lưu vong, có lẽ sẽ vĩnh viễn, mà chắc chắn chẳng khóc than hay cắn răng chịu đựng. Tôi làm bạn với người Pháp cũng hệt như làm bạn với tất cả những ai miễn là tốt và có lý trí, và vì bản thân tôi không ngu và tệ đến mức phải mong cho đồng bào Đức của tôi và người Pháp, hai dân tộc tinh tuyển của cõi nhân văn, ghè đầu nhau để Anh và Nga hưởng lợi và toàn thể đám lãnh chúa và thày tu trên trái đất này cười thầm.

Các vị hãy yên tâm, không bao giờ tôi cắt sông Rhein cho Pháp, đơn giản vì sông Rhein là của tôi. Vâng, là của tôi, trên cơ sở quyền tự nhiên bất khả chuyển nhượng, tôi là đứa con còn phơi phới tự do hơn của sông Rhein tự do, chiếc nôi thơ ấu của tôi đặt bên bờ, và tôi không thấy vì sao sông Rhein lại thuộc về ai khác ngoài những đứa con của vùng sông nước ấy. Còn Elsaß và Lothringen[2] thì tất nhiên tôi không dễ cho sáp nhập vào Đế chế Đức như ý các vị, vì dân hai vùng ấy gắn chặt với Pháp bởi các quyền được hưởng từ sự chuyển đổi thể chế nhà nước, bởi các quyền bình đẳng và thiết chế tự do rất dễ chịu với tâm trí tư sản song vẫn còn nhiều điều khó tiêu hóa cho bao tử của đám đông. Dẫu thế nào, dân Elsaß và Lothringen sẽ trở về với Đức, nếu chúng ta hoàn thành công cuộc mà người Pháp đã mở ra, nếu chúng ta vượt qua họ trong hành động như đã vượt qua trong ý nghĩ, nếu chúng ta vươn đến những hệ quả cuối cùng của công cuộc đó, nếu chúng ta đập tan sự nô dịch ở tận nơi ẩn náu cuối cùng của nó là thiên đường, nếu Chúa Trời ngụ bên trong con người nơi trần thế được chúng ta giải thoát khỏi sự hạ nhục, nếu chúng ta trở thành cứu tinh của Chúa, nếu chúng ta đem phẩm giá trả lại cho dân nghèo bị truất gia tài hạnh phúc, cho thiên tài bị nhạo báng và cho cái Đẹp bị ô uế, như các bậc thầy vĩ đại của chúng ta từng nói và hát lời tụng ca và như mong muốn của chúng ta, học trò của họ – nếu được như vậy thì không chỉ Elsaß và Lothringen mà toàn nước Pháp sẽ ngả về ta, toàn châu Âu, toàn thế giới – toàn thế giới sẽ thành Đức! Những khi dạo bước dưới rặng sồi, tôi thường mơ về sứ mạng ấy và quyền năng phổ quát như thế của nước Đức. Đó chính là lòng ái quốc của tôi.   

Tôi sẽ trở lại chủ đề này trong cuốn sách sắp tới, bằng quyết tâm tuyệt đối, bằng sự triệt để không nhân nhượng, và chắc chắn bằng sự trung thành. Tôi sẽ biết tôn trọng lời phản biện quyết liệt nhất nếu nó xuất phát từ một xác tín. Cả sự thù hằn thô lỗ nhất, rồi tôi sẽ kiên nhẫn tha thứ; thậm chí tôi sẽ đáp lại sự ngu ngốc nếu nó thành thực. Nhưng tôi dành toàn bộ sự khinh bỉ im lặng cho hạng tôm tép vô lại, vì khổ sở đố kị hay độc địa bẩn thỉu cá nhân mà tìm cách hủy hoại danh tiếng tôi trước công luận, bằng cách dùng chiếc mặt nạ của lòng yêu nước hay thậm chí của tôn giáo và đạo đức. Ở khía cạnh này, tình trạng vô chính phủ của giới báo chí văn chương và chính trị Đức đôi khi được khai thác tài tình đến mức tôi phải hết lòng thán phục. Quả thật, nhân vật Schufterle[3] không hề chết mà còn nguyên đó và từ nhiều năm nay đứng đầu một băng đảng được tổ chức chặt chẽ của đám giặc cướp văn chương, hoành hành trong những khu rừng Bayern là làng nhật báo của chúng ta, ẩn núp trong mỗi bụi cây, sau từng chiếc lá và tuân theo tiếng huýt khẽ nhất của tên chỉ huy xứng đáng.

Cuối cùng, xin lưu ý rằng “Cổ tích mùa Đông” là phần cuối trong bộ “Những bài thơ mới” mà Hoffmann & Campe vừa phát hành. Nhưng để ra một ấn phẩm riêng, nhà xuất bản phải gửi bản thảo cho các cơ quan giám sát soi thật kĩ, những sửa đổi và hủy diệt mới là kết quả của sự thẩm định bất khả kháng này.  

Hamburg, ngày 17 tháng Chín 1844

(Tuần báo Trẻ, 17/02/2022)

[1] Tiếng Đức trong nguyên bản: Pharisäer, tương đương trong tiếng Việt là Pharisêu.

[2] Tên tiếng Pháp là Alsace và Lorraine, hai vùng lãnh thổ trải qua nhiều tranh chấp giữa Đức và Pháp, phần lớn thuộc về Pháp sau Cách mạng Pháp 1789.

[3] Schufterle là một tên cướp hết sức đốn mạt trong vở kịch Lũ cướp (Die Räuber) của Friedrich Schiller.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 19, 2022 07:01

February 6, 2022

Gốc

Phạm Thị Hoài

Mỗi lần nghe nhắc, mất gốc là nghệ sĩ mất nguồn sáng tạo, tôi lại có cảm giác không yên ổn. Như thể mình đang là một công dân đứng đắn của quốc gia nghệ thuật mà thỉnh thoảng đội bảo vệ cứ gõ cửa, hỏi mình có cần họ giúp gì không. Cũng gần giống cảm giác như khi bị nhắc, rằng nghệ thuật muốn thế nào cũng phải phát sinh từ hiện thực. Tôi vô cùng biết ơn gốc rễ, hiện thực, mọi quê hương và căn cứ địa khác của nghệ thuật, cũng như biết ơn đội bảo vệ sốt sắng, song trong thâm tâm thì mong các quý vị đó đừng ở chơi quá ba ngày. Phần đông các nghệ sĩ không sáng tạo gì hết. Một số ít sáng tạo trong một giai đoạn ngắn. Một số vô cùng ít sáng tạo tương đối lâu dài. May ra đếm trên đầu ngón tay được những nghệ sĩ suốt đời sáng tạo trong lịch sử nhân loại. Như vậy tìm ra nguồn cơn của sáng tạo thì khó và điều đó mãi mãi là bí ẩn, chứ một lần nữa cho sự không sáng tạo thêm một nguyên cớ nào có ích gì. Nhà văn Việt ở bên ngoài có thể cho rằng mình không viết nổi, vì thiếu nước Việt chẳng hạn. Nhà văn Việt ở bên trong, nếu viết cũng không nổi, có lẽ vì quá thừa nước Việt chăng?

Tôi vốn tin rằng theo bất kỳ một nghĩa nào người ta cũng không thể mất gốc. Nếu không có, chưa bao giờ có một gốc rễ nào đó, thì mất nó khác nào mất con cá ở ngoài lưới, một con cá thật to. Những thế hệ con cháu chúng ta ở hải ngoại, tuy được mệnh danh là người Mỹ, người Pháp, người Đức… gốc Việt, nhưng chữ gốc này cùng lắm chỉ tiết lộ những đặc trưng chủng tộc nào đó chứ không phải đặc trưng văn hoá. Những thế hệ ấy bắt rễ trong văn hoá của các  quốc gia mà họ sinh trưởng, họ không thể đánh mất văn hoá Việt, là thứ họ không thực sự sở hữu. Cái gốc thứ hai này mới đáng kể. Thậm chí cái gốc thứ nhất, vận vào họ, tôi cho là đã khiên cưỡng. Chẳng những bản năng thứ hai mà bản năng tự nhiên ở những thế hệ ấy cũng đã thay đổi. Da họ phản ứng với ánh nắng và độ ẩm nhiệt đới khác da người Việt, răng họ mắc hay không mắc những bệnh khác răng người Việt. Họ không rung đùi. Không lê dép loẹt quẹt. Không nhai chóp chép. Không ngồi xổm. Không xỉa răng tung tóe và kháo chuyện ầm ĩ nơi công cộng. Không chen lấn. Không sợ công an. Không mang những cái gene thuần Việt như vậy. Chúng ta thường cảm động trước những cố gắng tìm hiểu về Việt Nam của họ và gọi đó, một cách đầy thiện cảm và cũng đầy mơ hồ, là những cố gắng “tìm về cội nguồn” và lại càng nhiệt tình khích lệ họ viết tiếng Việt. Trong phần lớn các trường hợp ăn giải khuyến khích như vậy, phẩm chất văn chương – mà biểu hiện hiển nhiên nhất là ở chất lượng ngôn ngữ – xếp hàng cuối cùng. Tôi không muốn làm kẻ phá đám khuyến Việt, song thương tiếng Việt như thế cũng khổ cho tiếng Việt lắm.

Quyết định viết bằng một ngôn ngữ nào là kết hôn với nó cả đời, hưởng nó mà cũng chịu đựng nó, thậm chí cắn răng mà chịu, đúng theo nghĩa đến chết mới chia ly. Cuộc hôn nhân thủ cựu, hà khắc, trói buộc này dĩ nhiên không phải là phòng thí nghiệm hay chuyến du lịch. Ở đa số những tác giả thử viết bằng tiếng Việt nói trên, tôi có cảm tưởng đôi bên còn chưa cầm tay nhau, trong khi rất có thể họ đã ăn nằm như thế nào đó với một bản ngữ khác. Cảm giác chưa cầm tay nhau đương nhiên rất phỉnh nịnh và quyến rũ, khiến người chưa vỡ tiếng Việt có thể lâng lâng bay như trên lưng ngựa Phù Đổng, trong khi người dày dạn lại như bò lê dưới gánh nặng mà ngôn ngữ ấy có thể trút xuống mỗi thành viên đơn lẻ của mình. Không cần phải quẩy trọn gánh ấy mới là mang quê hương theo, tôi biết vô số người đã trút quá nửa gánh ấy xuống dọc đường di tản mà vẫn còn nguyên là người Việt. Nhưng cưỡi ngựa mà xem hoa như nói trên thì ít liên quan đến việc tìm về cội nguồn Việt. Cách đây không lâu tôi đọc bản dịch một truyện ngắn của một tác giả gốc Việt viết tiếng Anh. Bản tiếng Việt chỉ cho thấy đấy là văn dịch, không tiết lộ một văn phong riêng tư gì đã đành, mà cố hình dung bản gốc tôi cũng chẳng tìm được một điều gì nhất thiết liên quan đến Việt tính, song truyện ngắn đó được giới thiệu đại loại là nghệ thuật của một thế hệ tuy đã dùng ngôn ngữ khác, nhưng vẫn “man mác tâm hồn dân tộc”. Tôi hy vọng dân tộc Nga không soi Lolita để tìm dấu vết tâm hồn mình. Còn Kafka? Tiệp, Áo, Đức hay Do Thái giành được bản quyền tâm hồn dân tộc ở đó?

Nếu một gốc rễ nào đó từng tồn tại thì đánh mất nó cần công phu vất vả lắm. Vốn liếng của một cộng đồng văn hoá cấp cho mỗi người khi vào đời khác với món gia tài của cha mẹ để lại. Khả năng hoàn toàn phá sản ở trường hợp thứ hai có thể xảy ra qua đêm, nhưng không dễ gì thành trắng tay ở trường hợp thứ nhất. Người ta tự nhiên có nó, ít nhất như mang mẩu ruột thừa sót lại từ thuở tổ tiên gặm cỏ. Lắm người phải cắt đi mới sống được, còn lại không mấy ai dành cho nó một nửa ý nghĩ. Như các vua Hùng trong mỗi ngày đi làm, đóng thuế, kẹt xe, nghe tin bạn bè trong nước vừa bị bắt và viết vô vọng vài trang vô tăm tích của một người Việt nơi đất khách. Tôi mang nó, biết rõ nó nằm ở chỗ nào, và hài lòng rằng nó chưa bao giờ viêm. Nhưng tôi không hình dung được con đường “tìm về” mẩu ruột thừa ấy.

Lấy ví dụ một người sinh trưởng trong tiếng Việt. Là ngôn ngữ của một xứ phương Nam, nơi hoả vượng mà vạn vật khuếch trương hương vị như cách lý giải của người xưa, tiếng Việt giàu vốn từ chỉ tỉ mỉ từng sắc thái, cấp độ của muôn loại mùi chẳng hạn. Hẳn cũng vì hoả vượng, mà những mùi khó chịu cũng được cơ hội bành trướng. Mùi phân mèo thì chua, phân gà hôi, phân trâu hắc, phân lợn nồng, phân trẻ con thum thủm, phân người lớn thối, còn mồm ai đó thì thối hoắc. Mùi và tình trạng thực phẩm hỏng trong bếp Việt mới thực đa dạng. Cá thì tanh, thịt thì ôi, cơm thì khê, rau thì oi khói, dưa thì khú, mắm thì khắm, gạo thì hẩm, trứng thì ung, khoai thì ủng, cháo thì vữa, canh thì thiu, lạc thì mốc, mỡ thì khét lẹt… Sau này người ấy sống hẳn ở một xứ lạnh, hoả chẳng vượng, vạn vật không phát hết mùi, mũi xứ người chắc cũng nhạy không kém mũi xứ ta, nhưng tiếng nước người cho chân thối, cá thối, tiền thối, chính trị cũng thối cả loạt, muốn phân biệt phải dùng thêm từ mô tả, không có chữ nào, chỉ bằng chính nó, thoả mãn cái biết của khứu giác như trong tiếng ta. Một lúc nào đó, người ấy thậm chí có thể quên cái vỏ âm thanh của những từ Việt chỉ mùi, nhưng bản thân những mùi đã từng có một tên riêng ấy, từng là những thực thể đặc thù ấy, trong sâu thẳm không dễ gì hoà chung làm một với thối và chỉ thối. Giữ được mùi quê như thế, thụ động và ở tít một nơi ẩn khuất nào đó trong lòng, theo tôi đã là bảo quản gốc gác. Với người viết, ai biết giữa một mùi mong manh đã mất tên và một nền tảng nhận thức được mệnh danh chắc nịch, cái gì nhiều sức khuấy động hơn?

Cộng đồng Việt nhỏ bé ở bên ngoài lại có một phẩm chất đặc biệt: nó bảo tồn rất nhiều khía cạnh văn hoá Việt mãnh liệt và cuồng nhiệt hơn ở chính quốc. Một lúc nào đó, tôi e rằng các học giả muốn truy tìm dấu tích lịch sử dân tộc Việt, thay vì đi Hà Nội có lẽ phải đến Quận Cam. Cội rễ có thể bị bật tung tại chính chỗ phát sinh, nhưng lại dai dẳng sống sót ở những vùng biên xa xôi nhất. Việt Nam hải ngoại là một vùng biên như thế. Xin lấy già nửa thế kỷ lưu lạc của văn chương tiền chiến làm ví dụ. Lấy lời than năm 1917 của Phạm Quỳnh, một trong những nhà khuyến Việt nhiệt thành mà bi đát nhất, làm mốc, rằng Quốc ngữ khi ấy còn sài đẹn ấu trĩ như tiếng bi be của đứa lên ba, khiến bậc cao sĩ “ngồi hầu chuyện các văn-nhân thi-sĩ nước Tàu nước Tây vẫn còn sướng hơn“, và “trong khi họp-tập năm ba anh em ngồi với nhau, bàn những chuyện thiết-tha, nói những điều tâm-sự, mà đương câu chuyện phải pha một hồi tiếng Tây hay điểm mấy câu tiếng Tàu“, thì tiếng Việt không đầy hai thập kỷ sau của văn chương tiền chiến là một thành quả vĩ đại. Hai thập niên sau nữa nó đã ngắc ngoải, và chậm nhất là sau Hiệp định Genève, miền Bắc đã kết thúc thời kỳ quá độ ngôn ngữ, để các thế hệ sau đó có thể yên tâm mà nói giọng hiện thực xã hội chủ nghĩa thuần khiết. Thế hệ tôi quả là miệng không uống giọt sữa nào, bút không chấm giọt mực nào của tiền chiến. Lại hai thập niên sau, nếu nước Việt không tái thống nhất, có lẽ tôi chẳng có dịp thử nếm mùi vị của một quá khứ không xa ấy. Cả một nền văn hoá tiền chiến theo chân người-Bắc-54 di cư mà cố thủ trong lòng hồi cổ, và sinh sôi trên mảnh đất Nam bộ vốn không quá khắt khe. Rồi lại hai thập niên sau nữa, Nam bộ ấy đã đổi khác, muốn gặp văn chương tiền chiến phải tiếp tục di tản, giạt mãi tới vùng chót, bám gót người Việt hải ngoại. Ở tít nơi hạ nguồn này, một thành quả từng là vĩ đại mãi mãi là vĩ đại. Một nửa thế kỷ chen vào giữa xua đuổi không có giá trị gì. Tôi từng ngẩn ngơ, khi đọc thơ của một tác giả hải ngoại cùng lứa, thấy xuân mộng, hồn mơ, cõi tiên, quan san, tống biệt, hận thu, đêm liêu trai, trăng mất ngủ, gió về đâu, sầu mấy kiếp, lệ vơi, tình rơi, đời ơi, trời hời…, như lạc vào bảo tàng văn học. Như vậy cũng có thể phỏng đoán, chẳng hạn tiếng Việt hiện thực xã hội chủ nghĩa nếu có mất mát tại chính quốc, chắc còn chỗ trú lâu dài nơi người Bắc tị nạn đời mới tại Đông Âu. Bảo hoàng hơn vua là tính cách muôn thuở của tỉnh lẻ. Càng xa nguồn càng bị trói không giãy nổi khỏi nguồn. Như thể văn chương Việt hải ngoại đau ruột thừa triền miên mà không dám cắt phăng cái mẩu nợ nần ấy.

Vào chính lúc này, khi xã hội Việt Nam ở bên trong đang lên cơn truyền thống dân tộc, như nó đã từng lên những cơn kích động kỳ lạ khác mà không sẵn rơ-le tự ngắt, liệu một nhà văn Việt ở bên ngoài có nên mạnh dạn vứt đi chiếc cân tiểu ly thường thủ sẵn trong tay áo, bên này là dân tộc, bên kia là thế giới, hay không. Cái dụng cụ tinh tế ấy chưa từng dùng được cho một tác phẩm nặng cân nào của văn học Việt đương đại. Vả lại, cái đầu của nhà văn Việt thì hoan nghênh một sự hài hoà kết hợp, mà lòng thì nghiêng về truyền thống hơn. Văn chương Việt ra ngoài nước ắt có sứ mệnh làm một nền-văn-học-đau-lòng-con-cuốc-cuốc, lại càng viết bằng bụng nhiều hơn bằng đầu, yêu cái đã có hơn đam mê cái chưa có, ngoái nhìn cội rễ xa ngái hơn khao khát những vùng đất lạ ở sát nách, chăm bẵm những lý tưởng nghệ thuật của cha ông mình để lại như con đẻ, còn lý tưởng của cha ông kẻ khác là con ghẻ, bằng mặt mà không bằng lòng. Tôi không dám cho thế là dở. Nếu cái đã có đủ đồ sộ thì ở tù trong đó chắc cũng được sung sướng. Có lẽ nhiều người mãn nguyện như thế hơn tôi tưởng. Khi đọc D. H. Lawrence chẳng hạn, tôi không bất giác coi ông là nhà văn Anh dù ông viết tiếng Anh về nước Anh, sau này vỡ lẽ rằng ông cả đời lưu lạc. Còn khi đọc một số đồng nghiệp Việt ở hải ngoại, tôi bất giác cho rằng họ chưa bao giờ rời nước Việt, mặc dù các nhân vật của họ đi gần khắp thế giới, chỉ trừ đi Phi đen. Văn học Việt hải ngoại không thiếu Việt Nam. Mà thiếu thế giới.

Ngay cả sự thiếu thốn tiếng Việt ở bên ngoài, theo tôi cũng là một trở ngại cần thiết. Chúng ta đáng được cái handicap này thử thách hơn những chướng ngại khác từng biết. Mỗi người cầm bút đều hơn một lần than thầm, hoặc kêu ầm, về sự bất lực của ngôn ngữ, rằng cái gì mà ngôn bất tận ý với bất tòng tâm tòng tình. Như thể điều mình muốn diễn đạt vượt quá sức tải của ngôn ngữ. Tôi không công nhận cái bi kịch nghề nghiệp đó. Ngôn ngữ cũng như thời gian, là vô cùng và vô lường, nhưng ai cũng có một phông thời gian và một kho từ vựng ít nhất là vừa vặn cho chính mình. Vốn liếng ấy không thể bất cập nhu cầu của bản thân, mà chỉ bất cập nhu cầu của kẻ khác. Nếu chỉ thuần túy sống trong môi trường ngôn ngữ Việt, dù có là một thiên tài cũng chỉ đi đến hết cái giới hạn của tiếng Việt hiện có, hay nói cách khác, lên đến đỉnh cao của những nhu cầu diễn đạt hiện tại của dân tộc. Những nhu cầu ấy, có trời chứng giám, tự biết chừng mực của mình. Trong suốt lịch sử văn học và lịch sử tư tưởng Việt Nam, không một nhà lập ngôn quan trọng nào của chúng ta không cùng một lúc đứng vững cả hai chân, một trong tiếng Việt, và một trong ít nhất một ngôn ngữ khác. Chính sự bất lực tạm thời và tất yếu của tiếng Việt trước nội dung cần diễn đạt của một cộng đồng ngôn ngữ khác như chúng ta hằng chứng kiến trong cuộc sống lưu lạc, vâng, chính nó là cái may trong cái rủi của nhà văn Việt xa xứ. Ta hãy xem hắn có những cơ hội gì.

Hắn có thể vừa bị cuốn theo ông chủ ngôn ngữ mới, vừa trung thành trong giới hạn cho phép với bà chủ cũ, là vốn liếng tiếng Việt mang theo. Trong trường hợp này, sớm muộn hắn cũng rời bỏ văn chương tiếng Việt. Mỗi năm viết dăm bảy trang là cố gắng cuối cùng của hắn, để chăm sóc một kỷ niệm về tiếng Việt hơn thực sự dùng tiếng Việt. Rồi hắn sẽ thử viết bằng ngôn ngữ mới. Bằng một ngoại ngữ. Và có cảm tưởng mình cũng không tồi. Dường như sự tầm thường của hắn trong tiếng Việt có thể biến mất trong ngoại ngữ, chí ít hắn trở nên khúc chiết và ít bay bướm hơn. Tuy mỗi khi trở về với tiếng Việt hắn lại xoàng như cũ, nhưng điều đó không quan trọng, vì chẳng cộng đồng văn chương nào thiếu bóng những thành viên như thế. Quan trọng là, hắn không còn đặt kỳ vọng ở tiếng Việt, và đấy là sự giải phóng: giải phóng hắn, để hắn tự do đi tìm một ngôn ngữ khác. Và giải phóng tiếng Việt. Khỏi một mối tình hờ. Công cuộc giải phóng này không thể xảy ra ở Việt Nam.

Hoặc hắn quyết liệt tẩy chay cái ngôn ngữ lạ mặt kia ngay từ đầu, và trong thế phòng thủ đơn độc cũng có thể kiêu hãnh mà đi hết giới hạn đã định của mình. Văn giới Việt Nam hải ngoại biết không ít những cuộc đi nhẵn nẻo đường cùng như vậy. Giãy chết cũng có thể hùng tráng, và tang lễ hoàn toàn có thể đẹp.

Hoặc hắn phải nhảy vọt. Vượt khỏi một lãnh thổ ngôn ngữ, một giai đoạn ngôn ngữ, một số phận ngôn ngữ cho trước. Tôi tin rằng, sinh lực của Việt ngữ phụ thuộc vào những thành tựu vượt rào như vậy, chứ không nhất thiết còn hay mất ở việc vốn từ bên ngoài có bị tiêu lẹm, có kém cập nhật chút ít so với ở Việt Nam.

Tiếng Việt trong nước hiển nhiên có những cách nảy nở ngoạn mục của nó, và công trình ngôn ngữ của một tập thể cả trăm triệu người nhất định là trên tầm cỡ của một cố gắng cá nhân. Ngôn ngữ chính thống không mấy tiến bộ, vẫn nhiệt liệt quán triệt đẩy mạnh phát huy như đã biết đến hết tập cuối, song phần còn lại rực rỡ hơn bao giờ. Tôi có cảm giác, người Việt chưa từng ăn nói lắm kiểu sinh động, hấp dẫn, khôi hài, giàu liên tưởng và mắc những lỗi ngôn ngữ tuyệt vời như trong vòng vài thập niên vừa rồi. Nôm hiện đại đang ở đỉnh cao, tuy vẫn không phải là ngôn ngữ lý tưởng để suy tư trừu tượng hay thúc đẩy luận lý, nhưng dồi dào để diễn đạt những tâm tình và kinh nghiệm trực quan của con người và thời đại. Nếu muốn thì gần như bất kỳ nhà văn Việt hải ngoại nào cũng có thể mỗi năm về nước để vỗ béo tiếng Việt đã gầy guộc chút ít của mình. Song nhu cầu Việt ngữ của văn giới hải ngoại xem ra không cấp thiết đến mức như vậy. Tiếng Việt của miền Nam trước bảy lăm mang theo đến giờ còn dùng đủ và thậm chí là chốn cố thủ cuối cùng cho một ý thức phản kháng nào đó. Nếu ngày mai, lý do lưu vong của chúng ta không còn nữa, liệu có bao nhiêu nhà văn Việt đang sống ở hải ngoại, chỉ vì cái nghiệp của tiếng Việt, chỉ vì e “mất nguồn sáng tạo”, e “mất gốc” mà quyết định trở về?

Phần mình, tôi ra khỏi Việt Nam vài năm trước, công việc cho phép gặp vô số nhà văn sống lưu lạc, đến mức tôi có cảm tưởng rằng du mục là một trong những điều kiện nghề nghiệp của một nhóm văn sĩ càng ngày càng đông đúc. Quê hương họ là những cuộc hành trình. Phản bội quê hương là dừng lại quá lâu một chỗ.

(Đăng lần đầu trong tạp chí Việt do Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc-Tuấn chủ biên, số 2/1998, phát hành tại Úc. Hiệu đính tháng 2/2022.)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 06, 2022 07:06

February 3, 2022

Các vua Hùng đã có công

Phạm Thị Hoài

Trong các món Tết, tôi ngại nhất bánh chưng. Ẩm thực và văn chương có nhiều tương đồng, bánh chưng là một thứ văn xuôi thô, nặng, dềnh dàng, xơi một góc đã nghẹn và hứa hẹn từ phần còn lại là bội thực. Lá gói lạt buộc hì hục, nấu như kháng chiến trường kỳ, song công phu vất vả thế vẫn chưa hết. Cái kiệt tác của ẩm thực dân tộc ấy đầy nguy cơ nhão nhoét, thiu, mốc, sống, sượng, chưa kể động thái lại gạo khét tiếng, cộng thêm bước bóc bánh nên gọi chân thành là tra tấn và thực tế chắc chắn là chỉ sau một đũa xắn nó sẽ mất trắng tổng thể nghệ thuật và mỗi phút một hết cả xanh lẫn rền để cuối bữa chỉ còn là một di tích lạnh lẽo, xám xịt, tả tơi trên mâm cỗ. Văn bánh chưng là văn to nhưng không lớn, rắc rối nhưng không phức tạp, lớp trong lớp ngoài nhưng không đa tầng, nghiêm nhưng không cẩn. Đã thế lại là văn cúng cụ, nhất định phải đặt lên bàn thờ. Bao nhiêu nhân chi sơ tính bản hiếu, thiên văn, địa lý, hiền triết và biện chứng phương Đông, âm dương, ngũ hành, tâm linh, nhân sinh, văn minh lúa nước…, nhồi cả vào một món bánh, biểu tượng ẩm thực cổ truyền của người Việt.

Tôi vừa ghét biểu tượng vừa lãnh đạm với truyền thống, nhất là mấy thứ đã trở thành chứng chỉ bắt buộc để tốt nghiệp những chương trình ôn cố tri tân, xướng danh dân tộc. Dân tộc nào? Lang Lèo – sau này là Hùng Chiêu vương, ở ngôi 200 năm, như để nêu bật hàm lượng sự thật trong huyền sử – tức vua Hùng thứ bảy của chúng ta có một sở trường: nghe thần nhân mách bảo. Thần linh ban thơ dẫn lối, chính xác hơn hoa tiêu Google thời mới, cho ông đi Tam Đảo tìm tiên nữ về làm vợ. Trước đó ông đã thành công rực rỡ với một sự giúp đỡ siêu nhiên khác: Thần cũng báo mộng, bảo làm một cái bánh hình vuông tượng trưng cho đất, một cái bánh hình tròn tượng trưng cho trời. Thì ông làm. Cứ thế mà theo và thắng lớn. Khỏi cần phân tích, cân nhắc, phản biện. Không hỏi lại, dù chỉ một câu đơn giản: Trời tròn thì còn dễ hiểu, nhưng xin lỗi, đất vuông là thế nào? Đời sau cũng cứ thế mà ăn theo ào ào, trời tròn đất vuông. Các vua Hùng đã có công nói thế. Thời miệt mài theo đòi Thi vân Tử viết rồi dĩ nhiên lút cổ trong Dịch, một lúc nào đó tôi cũng gặp những dòng như “Tròn mà ở ngoài là Dương, vuông mà ở trong là Âm, tròn thì động mà là trời, vuông thì tĩnh mà là đất“, “Trời tròn mà xoay, bao bọc ngoài đất, đất vuông mà đứng im, bị nhốt trong trời” trong bản dịch của Ngô Tất Tố và được ông lưu ý rằng vuông tròn ở đây không phải cái hình kỷ hà, mà là cái tinh thần, cái đức tròn của Càn, cái đức vuông của Khôn. Hay cái đạo của đất trời, như lời Tăng Tử: “Thiên đạo viết viên, địa đạo viết phương, phương viết u nhi viên viết minh” (Đại đái lễ ký, Tăng Tử thiên viên). Thiên viên địa phương, trời tròn đất vuông, rõ ràng có một xuất xứ sâu, xa và trừu tượng hơn những hình hài cụ thể trong quan niệm dân gian Việt Nam. Song tranh đua xuất xứ là môn thể thao rất được người Việt ưa chuộng. Những vận động viên cừ khôi nhất của chúng ta không ngừng nâng cao thành tích bảo hộ chỉ dẫn địa lý Lạc Việt cho các sản phẩm bị phương Bắc chiếm đoạt, san định rồi công cụ hóa, từ Nghiêu Thuấn, Thương Chu đến Dịch lý, Tam tài, Âm dương, Nho giáo… Không nghi ngờ gì nữa, người Việt đã phát minh ra phương Đông.

Song vuông tròn thế nào thì chiếc bánh tét hình ống dài cũng không kém bản sắc dân tộc và rốt cuộc chẳng ai khen một miếng bánh ngon vì đậm đà hồn nước. Tôi không hề biết có thứ gia vị tên gọi như vậy trong nồi bánh chưng thuở nhỏ, nhưng đã bồn chồn khổ sở, quyết không đi ngủ vì lo nếp, đậu, thịt đang sôi lụp bụp kia chỉ là một giấc mơ, chúng là những cao lương mỹ vị quá phi thường để có thể cứ thế mà thành hiện thực. Vài chục năm sau, chúng là những bom tấn cholesterol mà tôi ngần ngại hơn thương nhớ. Tôi chỉ dành hoài niệm cho một bát phở chó. Ở một quán lá, ven thị xã Hải Dương đầu thập niên bảy mươi. Trong ba lần tôi gãy tay – vì nhảy dây, trèo cây và tập đi xe đạp của người lớn – trạm xá huyện đầu hàng lần cuối. Cha tôi nẹp cẳng tay hình chữ U của con gái bằng lá chuối và hai chiếc đũa cả, lót ba-ga xe đạp bằng khăn mặt và mo nang, đèo tôi lên bệnh viện tỉnh. Ba tiếng đồng hồ trên con đường lở loét gập ghềnh, mưa thì trơn, nắng thì bụi. Rồi ông dừng lại, đưa tôi vào một quán lá ven đường. Ông ngồi nuốt nước bọt, hút thuốc vấn, nhìn con ăn. Sự kỳ diệu của bát phở đầu tiên trong đời khiến tôi ước ao lại gãy tay vượt tuyến thêm lần nữa, lại ba tiếng đồng hồ ngồi sau lưng bố đến thiên đường. Những nhà hàng Michelin tôi đã đặt chân có thể để lại vài gợi ý, nhất là về các món khai vị, và cảm giác chủ đạo là vừa cắt phăng một góc thẻ nhà băng, nhưng thiên đường ẩm thực gồm toàn mì chính yểm trợ cho một nồi xương chó đã phôi pha đến phân tử protein cuối cùng trong cái quán ăn lùng bùng lốp xe thải trên mái đã vĩnh viễn neo vào ký ức, dù tôi thường tránh những bến cảng quá an toàn của kỷ niệm, vì những lần làm đau người khác lẽ ra ta nên đóng khung treo vào hồi ức, song phần mềm bộ nhớ của trí óc thường xóa hết, chỉ giữ chặt những lần người khác làm ta đau.

Từ lúc phở có chút danh ở năm châu, mỗi người Việt lập tức thành một vệ binh phở trong cuộc thánh chiến phở, rủa xả chỉ trích không thương tiếc những kẻ dám xúc phạm phở, xúc phạm văn hóa ẩm thực truyền thống, xúc phạm dân tộc, xúc phạm con người và đất nước Việt Nam, như thể các vua Hùng đã có công nấu phở. Người ta hay đi tìm tiêu chí phân biệt các dân tộc. Phương Bắc duy lý, phương Nam duy tình. Phương Tây cá nhân, phương Đông tập thể. Dân tộc thâm thúy và dân tộc hời hợt. Dân tộc èo ợt và dân tộc cương cường. Dân tộc thấp hèn và dân tộc thượng đẳng. Tôi chỉ nhìn ra tiêu chí quan trọng nhất: những dân tộc thường xuyên thấy mình bị xúc phạm và những dân tộc biết lúc nào đáng bị tổn thương. Bát phở cháo lòng ở Palawan với tôi không hề là một sỉ nhục. Trái lại, là một sự mở lòng tuyệt đẹp của người dân hòn đảo hồn hậu ấy trước thảm cảnh của thuyền nhân Việt Nam. Phở, hủ tiếu, mỳ, hay bất kỳ món gì mang tên cháo lòng sẽ gia nhập văn hóa ẩm thực Philippines và là niềm tự hào ở đó, như bản thân phở đã từng là Tàu, là Pháp, hay là cả hai trước khi là niềm tự hào của người Việt. Như cà phê sữa, bánh mỳ và tà áo dài, những gì nổi tiếng nhất gắn với lifestyle Việt ngày nay đều thành công khi kính nhi viễn chi các vua Hùng. Truyền thống giàu sức sống nhất của người Việt là hỗn dung, sáng tạo và hư cấu truyền thống.

Khác với phở, bánh chưng chưa bao giờ cần bảo hộ. Các dân tộc Đông Nam Á đều dùng lá để gói nếp, đậu, thịt và nhiều thứ khác rồi cũng chưng cũng luộc, không có nhu cầu xâm phạm và xúc phạm chiếc bánh Lang Lèo. Ở tiệm ăn Việt khắp năm châu nó không xuất hiện, như mặc định rằng mình khó chinh phục người ngoài. Bánh chưng là kỳ vọng của thời lo thiếu ăn đang nhường chỗ cho thời sợ thừa cân. Là hiện thân của một nền ẩm thực với kỹ thuật nấu nướng đơn giản, quy trình chế biến thuần tuyến tính, nguyên vật liệu thông dụng, khẩu vị bỗ bã đại trà và tập quán sinh hoạt đơn sơ, chưa bao giờ phát triển đến đỉnh cao để có thể decadent, sành điệu và đồi trụy, như nghệ thuật nấu ăn của Pháp và Trung Hoa, hai cường quốc ẩm thực đã đô hộ bếp Việt để cho nó những tiềm năng lý tưởng nếu nó biết tự giải phóng.

Trong các món Tết, bánh chưng ít cơ hội tự giải phóng nhất. Người anh em song sinh của nó, bánh giầy, đã từ lâu được giải linh, bỏ gánh nặng biểu tượng trời tròn sau lưng mà vui sống kiếp nhẹ tênh món ăn vặt hàng ngày đầu ngõ. Tôi đã thử giải phóng bánh chưng bằng cách giải cấu trúc, giải huyền thoại, xếp đặt lại, gửi một lời ngưỡng mộ đến tâm hồn ẩm thực Ý-Nhật và cảm ơn công nghệ nấu sous vide. Không có gì kỳ bí. Văn chương và ẩm thực đều chỉ là thấu hiểu bản chất từng vật liệu và sử dụng chính xác. Tôi không cần một lần nữa phát minh ra phương Đông và không cần thỉnh ý các vua Hùng.

(Ảnh: Bánh chưng của tác giả)

Tuần báo Trẻ, 3/2/2022

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 03, 2022 10:38

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.