Phạm Thị Hoài's Blog, page 8

December 30, 2014

pro&contra – Lời tạm biệt

Phạm Thị Hoài


Sau mười ba năm đầu viết văn, 1988-2001, tôi đã ngừng hẳn sáng tác văn chương để chuyển sang báo chí. Bây giờ, sau mười ba năm tiếp theo, 2001-2014, giai đoạn làm báo của tôi với talawaspro&contra cũng khép lại [1]. Nó để lại trong cuộc đời tôi dấu ấn quá sâu đậm, khiến một lời kết như thế nào cũng thành bất lực. Nó chấm dứt trong bối cảnh nền báo chí độc lập ở Việt Nam đang mất đi quá nhiều hi vọng, khiến một lời chia tay lúc này u ám hơn tự nó. Tôi chỉ có thể bày tỏ lòng biết ơn không thể diễn tả hết của mình với tất cả những người đã đi cùng tôi trong từng chặng đường và trong suốt cuộc hành trình, đã chia sẻ với tôi từ những việc nhỏ nhất đến những việc lớn hơn, đã góp tài năng, công sức, kiến thức, niềm đam mê, sự kiên trì và lòng can đảm cho một lí tưởng mà tôi phục tòng, đã chịu đựng ngay cả khi tôi vô lối và tin cậy ngay cả khi tôi hoang mang, đã hào phóng với những lời khen mà tôi ít khi biết đáp lại và từ tốn với những lời phê bình mà tôi không luôn dễ dàng tiếp thu, đã giúp tôi trưởng thành và giàu có lên từng ngày, đã cho cuộc đời nhỏ của tôi một ý nghĩa lớn hơn, và đã tặng tôi một số tình bạn bền vững nảy sinh từ trắc trở. Nếu được lùi trở lại, tôi không do dự chọn mười ba năm vừa rồi để làm đúng những việc đã làm. Song từ ngày mai, mở đầu một năm mới, tôi đã bồn chồn cho một giai đoạn mới.


Tạm biệt.


© 2014 pro&contra







[1] Cũng như talawas, tuy ngừng hoạt động nhưng pro&contra vẫn tiếp tục được lưu giữ trên mạng.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 30, 2014 17:10

December 27, 2014

Thư gửi một nhà báo trẻ (6)

Samuel G. Freedman


Lưu Quang dịch và giới thiệu


Xem kì 1kì 2kì 3kì 4, kì 5 và toàn tác phẩm trong bản PDF


LỜI KẾT: THỜ CÚNG TỔ TIÊN


Trong những năm nghiên cứu để viết sách về một nhà thờ của người da đen, tôi đã cùng một mục sư đi Ghana. Chúng tôi đã đi từ thủ đô Accra đến một ngôi làng nhỏ có tên là Asafo, nơi mà nhà thờ đã ủng hộ tiền xây dựng một trường học và một trạm y tế. Một đêm, câu chuyện giữa mục sư và trưởng làng quay sang chủ đề thờ cúng tổ tiên. Làm sao mà ông vừa là tín đồ Thiên Chúa giáo, ông mục sư hỏi, vừa tiếp tục thờ cúng tổ tiên được? Vị trưởng làng đáp rằng người Mỹ không hiểu ý nghĩa tục thờ cúng tổ tiên. Chúng tôi không thờ cúng tổ tiên thay Chúa; chúng tôi thờ cúng tổ tiên với tư cách là những người trung gian giữa chúng tôi và Chúa.


Vào một buổi sáng thứ Hai tháng Mười Hai năm 2004, tôi tham gia vào một nghi lễ thờ cúng tổ tiên phiên bản báo chí. Tôi dự lễ tưởng niệm một phóng viên kỳ cựu của tờ The New York Times tên là Murray Schumach, người qua đời vài tuần trước đó. Tôi không biết Murray – ông nghỉ hưu khoảng lúc tôi được nhận vào làm việc – nhưng chúng tôi có nhiều người bạn chung. Một trong số đó, Arthur Gelb, đã hỏi liệu tôi có thể sắp xếp để lễ tưởng niệm Murray được tổ chức tại Phòng Thế giới của Trường Báo chí Columbia được không. Đó là nơi rất phù hợp, ngôi nhà với các cửa sổ kính màu được lấy từ tòa soạn tờ báo của Joseph Pulitzer, tờ New York World .


Khi nhìn xuống những hàng ghế trong buổi sáng cử hành lễ tưởng niệm, tôi thấy rất nhiều nhà báo mà tôi học hỏi và khâm phục – Arthur Gelb, Anna Quiendlen, Gay Talese, và Sydney Schanberg cùng nhiều người khác. Khi tưởng niệm Murray, họ không tránh khỏi phải nói về nghề nghiệp mà chúng tôi chia sẻ và niềm đam mê chúng tôi có chung. Tôi lấy cây bút trong túi áo khoác và bắt đầu ghi lại lời họ.


Arthur Gelb: “Đừng vội trở thành ngôi sao… Khi bạn không được động viên, hãy nhớ rằng bản thân tôi đã mất bảy năm mới có được bài báo đầu tiên… Hãy nói chuyện với giáo sĩ và thầy tu. Hãy hỏi mọi người xem rác của họ có được thu gom đúng giờ không.”


Anna Quindlen: “Murray đã khiến cho những mảnh đời nhỏ bé của người dân New York lớn hơn bởi ông không nghĩ rằng họ nhỏ bé và không đối xử với họ như thế”.


Gay Talese: “Chúng ta nên hết sức nhã nhặn với những người mà chúng ta không thực sự không đồng tình… Chúng ta phải nhạy cảm với môi trường quanh mỗi người và cảm thông với người ngoài.”


Sydney Schanberg: “Bài học là chúng ta là một phần trong một quá trình liên tục. Chúng ta không sáng tạo ra nghề báo. Nó được truyền lại cho chúng ta”.


Năm sau lễ tưởng niệm Murray Schumach, tôi bước sang tuổi năm mươi. Tôi đã làm phóng viên chuyên nghiệp ba mươi năm, kể từ buổi tối mùa hè mà tôi bắt đầu thực tập ở tờ Courier-News. Tôi đã nhận ra, hoàn toàn không thất vọng, rằng tôi có lẽ chẳng bao giờ đạt được sự vĩ đại mà tôi đã cố kiếm tìm. Có những ngày tôi nộp bài cho biên tập viên bằng nửa tuổi mình, khi mà tôi cảm thấy mình giống như Willy Loman, chống lại sự lạc điệu của mình trước khi nó đến. Có những ngày tôi nghĩ bia mộ của tôi nên đề dòng chữ “VẪN ĐANG CHỜ BƯỚC NGOẶT LỚN.”


Nhưng tôi chưa bao giờ ngừng yêu công việc. Tôi có nhiều ý tưởng cho mục giáo dục của tờ Times hơn số cột báo tôi có để viết. Tôi có đủ ý tưởng viết sách để giữ mình sống tới bảy mươi. Mỗi khi tôi bắt đầu viết, dù chỉ là viết tên mình và tên tắt[1] lên đầu bài, tôi lại cảm thấy một cảm giác hạnh phúc gần như hữu hình chạy từ đầu ngón tay qua cánh tay vào cơ thể, một kiểu “runner’s high”[2] của các ký giả. Không phải tôi hy vọng công việc sẽ dễ dàng, chỉ là tôi biết rằng mình đang làm việc mình sinh ra để làm.


Nếu bạn cũng cảm thấy thế, tôi hy vọng một ngày nào đó chúng ta sẽ gặp nhau. Niềm hạnh phúc lớn nhất là niềm hạnh phúc của người thầy khi ngắm nhìn học trò mình trưởng thành và thành công. Đó chính là điều mà thầy Stevens, thầy giáo hồi cấp ba của tôi, cảm thấy khi ông biết tôi được nhận vào tờ Times. Đó cũng là cảm giác của tôi khi một sinh viên Columbia có bài đăng trang nhất, giành giải thưởng hay ra sách. Nếu lời tôi trong những trang này có thể giúp bạn thực hiện được ước mơ thì chắc chắn sẽ có điều gì đó được truyền lại.


Tác phẩm trích dẫn


Sách và các bài báo


Adams, Lorraine. Harbor. New York: Knopf, 2004


Banks, Russell. Continental Drift. New York: Harper and Row, 1985


Berendt, John. Midnight in the Garden of Good and Evil: A Savannah Story. New York: Random House, 1994


Beresford, David. “Dogged by Haunting Images” (Ám ảnh). Guardian (London). 22 tháng Tám năm 1994.


Bollinger, Lee. “The Value and Responsibilities of Academic Freedom”. Tạp chí Columbia. Mùa xuân 2005


Brennock, Mark. “Staring coolly into Hell”. Irish Times. Ngày 22 tháng Tư năm 1999.


Breslin Jimmy. “The Breslin Report, Honors at Gravesite.” Newsday. Ngày 22 tháng Mười Một năm 1988. (In lại từ bản gốc của Herald Tribune tháng Mười Một năm 1963)


Cahill, Thomas. How the Irish Saved Civilization: The Untold Story of Ireland’s Heroic Role from the Fall of Rome the the Rise of Medieval Europe. New York: Doubleday, 1995.


Capote, Truman. In Cold Blood. New York: Random House, 1965.


Chivers, C.J. “An Agonizing Vigil Leads to Reunion or Despair”. New York Times. Ngày 3 tháng Chín năm 2004


Classical Literacy Criticism: Aristotle/Horace/Longinus. London: Penguin, 1965.


Corrigan, Maureen. Bình luận trên chương trình “Fresh Air”. Ngày 5 tháng Tám năm 2003.


Dowd, Tom. “He play with feathers”. Từ ghi chép trên tàu thuỷ tới Vô địch [quyền anh] hạng nặng: John Coltrane, tổng tập thu âm với hãng Atlantic. Rhino / Atlantic, 1995.


Dufresne, Marcel. “Midnight in the Garden of Fact and Fiction”. Fulton County Daily Report. Ngày 21 tháng Tám năm 1998.


Fass, Horst, và Marianne Fulton. “The Bigger Picture: Nik Ut recalls the Events of June 8, 1972”, www.digitaljournalist.org/issue0008/ng2.htm.


Gavin, Thomas. “The Truth Beyond Facts: Journalism and Literature”. Georgia Review 45, số 1, Mùa xuân 1991.


Gonzalez, David. “Strong New York Ties Bind Families in Grief”.  New York Times . Ngày 14 tháng Mười Một năm 2001


Gornick, Vivian. Fierce Attachments. New York: Farrar, Straus và Giroux, 1987.


Gourevitch, Philip. We Wish to Inform You That Tomorrow We Will Be Killed with Our Families: Stories from Rwanda.-. New York: Farrar, Straus và Giroux, 1998.


Greene, Melissa Fay. The Temple Bombing. New York: Addison Wesley, 1996


Hamill, Pete. A Drinking life. New York: Little, Brown, 1994.


Harper, Timothy, ed. The ASJA Guide to Freelance Writing: A Professional Guide to the Business, for Nonfiction Writers of All Experience Levels.  New York: St. Martin’s Grinffin, 2003


Kakutani, Michiko. The Poet at the Piano: Potraits of Writers, Filmakers, Playwrights, and Other Artists at Work. New York: Times Books, 1988


Kotlowitz, Alex. There are No Children Here: The Story of Two Boys Growing Up in the Other America. New York: Doubleday, 1991


Lemann, Nicholas. “Ordinary People & Exchaordinary Journalism”. Tạp chí Columbia Journalism Review. Số tháng Mười Một và Mười Hai năm 1991


Lippmann, Walter. Liberty and the News. New York: Harcourt, Bcace and Howe, 1920


Lukas, J. Anthony. Common Ground: A Turbulent Decade in the Lives of Three American Families. New York: Knopf, 1985.


Magida, Arthur J. “Probing the Nether World of a Jew Accued of Nazi Crimes”. Baltimore Jewish Times. Ngày 12 tháng Sáu năm 1987.


Malcolm, Janet. The Journalist and the Murderer. New York: Knopf, 1990.


McFadden, Robert D. “After a Dry Summer, Listen to the Rhythm!”. New York Times. Ngày 18 tháng Chín năm 1995.


“Water Main Ruptures, Creating a Huge Sinkhole on Fifth Avenue”. New York Times. Ngày 3 tháng Một năm 1998.


McLean, Bethany. “Is Enron Overpriced?” Fortune. Ngày 5 tháng Ba năm 2001


Mukherjee, Bharati. Jasmine. New York: Grove, 1989.


Orwell, George. “Politics and the English Language”. Xuất bản lần đầu trên tờ Horizon (London). Tháng Tư năm 1946.


Packer, George. The Assassins’ Gate: America in Iraq. New York: Farrar, Straus and Giroux, 2005.


Trung tâm nghiên cứu công luận và báo chí Pew. Xu hướng 2005. Washington, D.C.: Pew Research Center, 2005


Picasso: Une Nouvelle Dation. Paris: Editions de la Reunion des musées nationaux, 1990


Price, Richarch. Clockers. Boston: Houghton Mifflin, 1992.


Freedomland. New york: Broadway, 1998.


Puig, Manuel. Kiss of the Spider Woman. New York: Knopf, 1979


Rosenbalt, Gary. “A Cautionary Tale from the Church”. New York Jewish Week. Ngày 15 tháng Hai năm 2005.


“Lesson from the Lenner Case”. New York Jewish Week. Ngày 7 tháng Bảy năm 2000.


“Stolen Innocence”. New York Jewish Week. Ngày 23 tháng Sáu năm 2000.


Sager, Mike. Scary Monsters and Super Freaks: Stories of Sex, Drugs, Rock ’n’ Roll and Murder. New York: Thunder’s Mouth, 2003.


Schmalz, Jeff. “Covering AIDS and Living It: A Reporter’s Testimony”. New York Times. Ngày 20 tháng Mười Hai năm 1992.


Schudson, Michael. Discovering the News: A Social History of American Newspapers. New York: Basic, 1978


Schwartzman, Myron. Romare Bearden: His life and art. New York: Harry N. Abrams, 1990.


Sheridan, Kerry. Bagpipe Brothers: The FDNY Band’s True Story of Tragedy, Mourning, and Recovery. New Brunswick, N.J.: Rutgers University Press, 2004.


Sterling, Terry Greene. “Confessions of a Memoirist”. Salon. Ngày 1 tháng Tám năm 2003.


Talese, Gay. The Gay Talese Reader: Portraits & Encounters. New York: Walker and Company, 2003.


Winerip, Michael. “Looking for an 11 O’clock Fix”. New York Times Magazine. Ngày 11 tháng 1 năm 1998.


Wolfe, Tom. The New Journalism. New York: Harper and Row, 1973.


“Stalking the Billion-Footed Beast”. Harper’s. Tháng Mười Một năm 1989.


Woodward, Bob. The Secret man. New York: Simon and Schuster, 2005


Woodward, Bob và Carl Bernstein. All the President’s Men. New York: Simon and Schuster, 1974.


Yagoda, Ben. “In cold Facts, Some Books Falter”. New York Times. Ngày 15 tháng Ba năm 1983.


Kịch


Greenberg, Richard. Eastern Standard. Do Seattle Repertory dàn dựng năm 1988.


Hare, David. Via Dolorosa. Do The Royal Court Theater dàn dựng năm 1998.


Smith, Anna Deveare. Twilight: Los Angeles, 1992. Do Diễn đàn Mark Taper dàn dựng năm 1993.


______________


Dịch theo bản gốc tiếng Anh Letters to a Young Journalist (Art of Mentoring)của Samuel G. Freedman, Basic Books, New York, 2005. Bản tiếng Việt của Lưu Quang đăng trên pro&contra không phục vụ mục đích thương mại.




[1] Nguyên văn: Slug – tên ngắn gọn của một bài báo đang được biên tập




[2] Cảm giác hưng phấn của người chạy bộ

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 27, 2014 22:00

December 19, 2014

Thư gửi một nhà báo trẻ (2)

Samuel G. Freedman


Lưu Quang dịch và giới thiệu


Xem kì 1


KHÍ CHẤT NGHỀ BÁO


Trong Thần thoại Ai Cập có một vị thần tên là Thoth. Ông thường được miêu tả với mình người, đầu cò và tay cầm bảng viết cùng cây bút làm từ ống sậy – đó là những vật dụng của một thư ký. Ở thế giới bên kia, Thoth tra hỏi linh hồn người chết để xem họ đã sống ra sao. Trái tim của mỗi người sẽ được đem cân với một chiếc lông chim để đo độ trong sáng; Thoth ghi lại kết quả để quyết định số phận vĩnh cửu của linh hồn sau khi chết.[1]


Người Ai Cập coi Thoth như một vị thần văn chương, phép thuật, thời gian và mặt trăng. Tôi lại coi ông là vị thần của nghề báo. Tôi giữ một bức tượng Thoth cỡ nhỏ trong văn phòng và thường cho sinh viên xem vào buổi học đầu tiên. Vài người trong giới phê bình có thể thấy việc tôi sùng kính Thoth là ngớ ngẩn. Đối với họ, một trong những điều tồi tệ nhất ở nhà báo là cách phóng viên đóng vai thánh thần – vị thần toàn năng nhẫn tâm, lấy nỗi đau làm trò tiêu khiển, dùng quyền lực mà không có trách nhiệm.


Tôi còn tìm thấy ở Thoth một biểu trưng khác. Với tôi, và hy vọng rằng đối bạn cũng vậy, ông đại diện cho sứ mệnh đạo đức của nghề báo và của nhà báo. Thoth quan sát và phỏng vấn, phân tích và đánh giá, làm những việc mà các nhà báo vẫn làm. Ông phải liêm minh và chính xác, bởi ông thực sự có quyền điều khiển số phận. Nếu Thoth sai, trật tự hài hoà sẽ bị phá vỡ. Còn nếu chúng ta sai, nền dân chủ sẽ bị tổn hại.


Tôi không ngại nói rằng nghề báo là một nghề đạo đức – một khuynh hướng thực sự theo đúng nghĩa đen của từ này – vì tôi không ngại gò mình theo các chuẩn mực đạo đức. Tôi không ngại bị coi là ngờ nghệch hay uỷ mị. Có câu châm ngôn rằng người không theo chủ nghĩa xã hội ở tuổi hai mươi thì không có trái tim, người không theo chủ nghĩa tư bản ở tuổi bốn mươi thì không có đầu óc. Tương tự, bất kỳ ai bước vào nghề báo mà không tin rằng đây là một nghề đạo đức thì có thể chuyển thẳng sang kinh doanh ngoại hối hoặc sản xuất chất độc màu da cam. Trong suốt sự nghiệp, sẽ có nhiều lúc bạn phải thất vọng, vì vậy, lý tưởng ban đầu của bạn phải là ánh sáng dẫn đường, đôi khi có thể chập chờn, nhưng không bao giờ được tắt.


Gần đây, tôi có đọc bài trao đổi về nghề báo với tiêu đề Liberty and the News của tác giả Walter Lippmann. Bài được viết cách đây 85 năm[2], rất lâu trước thời Noam Chomsky hay chiến tranh Iraq, trong đó Lippman đã công khai chỉ trích sự “đồng thuận giả tạo” của báo chí, đặc biệt là khi Mỹ bắt đầu tham chiến trong Đệ Nhất Thế chiến, bằng cách phóng đại quá mức chủ nghĩa yêu nước. Ông tiếc cho các nhà báo chỉ được đào tạo qua loa, kiến thức chuyên môn ít ỏi, và cũng không khát khao học hỏi thêm. Vì thế, Lippmann đã không trở thành Pollyanna hay Pangloss. Nhưng ông đủ tư cách gióng hồi chuông cảnh báo, những lời đúng đắn như sau:


Tin tức trong ngày thường đến toà soạn dưới dạng hỗn hợp sự kiện, tuyên truyền, tin đồn, nghi ngờ, manh mối, hy vọng và cả nỗi sợ, và nhiệm vụ lựa chọn, xắp xếp những tin tức đó là một trong những nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả của các toà báo của nền dân chủ. Bởi vì, theo nghĩa đen, báo chí là kinh thánh của nền dân chủ, cuốn sách mà qua đó mỗi người biết được tư cách của mình. Đó là cuốn sách nghiêm túc duy nhất hầu hết mọi người đều đọc. Đó là cuốn sách duy nhất họ đọc mỗi ngày.


Tất nhiên, trong thế kỷ hai mốt nhật báo ngày càng ít được xuất bản, và càng ngày càng ít người Mỹ đọc báo. Tuy vậy, không gì thay đổi được sứ mệnh mà Lippmann đã đặt ra cho nghề báo. Có chăng thì là trong một thế giới hỗn loạn và huyên náo vì số hoá và toàn cầu hoá, nơi sự thật khách quan và quan điểm chủ quan lẫn lộn, nơi ranh giới giữa thông tin và giải trí mập mờ, và nơi mà khai trí đang chuyển dần thành biện hộ, vai trò của báo giới chúng ta trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết.


Có đạo đức không phải là rao giảng đạo đức. Tôi không kêu gọi bạn đứng ngoài mà bới móc và than vãn về tính yếu đuối, bạc nhược của loài người. Tôi kêu gọi bạn chứng kiến. Tôi khuyên bạn ghi nhận thành tựu của con người và phanh phui tính tham lam của họ. Tôi khuyên bạn kể câu chuyện về những gì khám phá được. Tôi khuyên bạn trở nên có trách nhiệm, với công chúng và với bản thân, đối với việc mình làm cũng như cách bạn làm những việc đó. Hôm nay, khi tôi viết cho bạn, trong buổi sáng nắng đẹp tháng Bảy năm 2005 này, bọn khủng bố đã đánh bom đường tàu điện ngầm, và một chiếc xe buýt ở London. Có lẽ thảm kịch này nhắc chúng ta nhớ lại sự thật là dù chúng ta chọn cách nào để tiếp cận ngôn từ, âm thanh hay hình ảnh – qua trang web Guardian, qua kênh CNN, NPR hay qua bản in tờ Times - chúng ta vẫn cần đến phẩm chất chuyên môn của các nhà báo chuyên nghiệp để chuyển những thông điệp có ý nghĩa tới toàn thế giới. Các blogger và những người chụp ảnh bằng điện thoại di động ở London có thể cung cấp dữ liệu thô dưới dạng hình ảnh hay ngôn từ, nhưng họ không thể tổng hợp và cô đọng những dữ liệu đó thành “bản nháp đầu tiên về lịch sử” như báo chí.


Trở thành nhân chứng, nhà quan sát, người kể chuyện; phát triển và rèn luyện các kỹ năng riêng của mỗi vai trò ấy chính là chấp nhận gánh nặng của tư duy độc lập. Đó là để loại bỏ những suy diễn dễ dãi theo tư duy thông thường hay theo giáo điều phổ biến. Đó là để đón nhận những chuỗi sự kiện đầy mâu thuẫn trong cuộc sống và diễn tả những mâu thuẫn đó một cách mạch lạc với phong cách riêng. Tất cả các bài tập đó làm trí óc hưng phấn và tinh thần được nâng cao. Là nhà báo, chúng ta phải tránh thứ ngôn ngữ dễ dãi thông thường ấy và chống lại việc định nghĩa bản thân theo cách đó. Chúng ta muốn cảm thấy giống như người theo chủ nghĩa dân tuý. Vì thế, điều thú vị là một trong những mô tả sâu sắc nhất về đặc tính nghề báo lại không phải do một người làm báo đưa ra, mà do một nhà luật học phát biểu. Lee Bollinger, sau này trở thành hiệu trưởng Đại học Columbia, là đã người viết những dòng dưới đây, không phải để nói về nhà báo mà về các vị giảng viên đại học:


Tôi có thể nói rằng phẩm chất giá trị nhất là có trí tuệ và nghị lực để khám phá tới cùng những vấn đề phức tạp, để gác sang bên niềm tin cũ kỹ để nhìn mọi việc đồng thời từ nhiều góc độ, cho phép mình chấp nhận quan điểm khác khi xem xét vấn đề… Điều quan trọng là thấy được khó khăn, là chuẩn bị để sống đoàn kết trước thực tế khắc nghiệt mà chúng ta luôn luôn bị trói buộc vào… và sẵn sàng bỏ qua kể cả những lợi ích thông thường để thấy được những điều còn ẩn giấu. Chắc chắn là rất khó thành thạo lối tư duy mở như thế và theo nghĩa sâu xa thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ làm được. Bởi vì lối tư duy ấy xung đột với nhiều nhu cầu tự nhiên của chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải luyện tập hàng ngày cũng như cần cả một cộng đồng những người hết lòng duy trì nó.


Khi bạn tìm được nền báo chí như thế, hay tự tạo ra nó, thì lòng bạn không thể không xốn xang. Bạn sẽ lại được biết, mà vẫn có cả sức mạnh khai mở của lần đầu tiên, điều mà báo chí có thể đạt tới. Qua nhiều năm, tôi đã nhận ra ý tứ sâu sắc trong các bài báo về chính trị của Thomas Edsall trên tờ Washington Post khi ông chăm chú lắng nghe và trân trọng trải nghiệm của của các cử tri. Đó chính là giá trị khiến cho cuốn Common Ground của J.Anthony Lukas trở thành biểu tượng của thể loại phi hư cấu đối với tôi; nó trân trọng và đánh giá đúng những trải nghiệm khác biệt – thường là mâu thuẫn – của ba gia đình trong khủng hoảng chống phân biệt chủng tộc trong nhà trường ở Boston. Gần đây, đọc nhiều bài về Iraq, tôi cảm thấy các bài của George Packer đăng trên tờ The New Yorker nổi bật hơn cả nhờ nắm bắt được mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt đối lập – đó là Saddam Hussein là một tên bạo chúa khát máu đáng bị lật đổ và việc Mỹ chiếm đóng Iraq là một tai hoạ vì thiếu quân số và tổ chức (Các bài viết của Packer về Iraq cũng có trong cuốn sách The Assassin’s Gate).


Ngoài tính toàn vẹn, còn có cả kịch tính trong những xung đột về tầm nhìn và quan điểm về sự thật. Bạn có thể đặc biệt hiểu rõ điều đó trong hai tác phẩm truyện truyền miệng được chuyển thể thành kịch nói, Via Dolorosa của David Hare và Twilight: Los Angeles, 1992 của Anna Deveare Smith. Trong mỗi tác phẩm, nhà soạn kịch hóa thân thành nhà báo để phỏng vấn rất nhiều người tham gia được xác định trước trong một tình tiết gây tranh cãi sâu sắc – với Hare là xung đột giữa người Israel với người Palestine; còn với Smith là cuộc bạo động ở Los Angeles vì một cảnh sát da trắng được trắng án dù đã hành hung một người da đen không có vũ khí tên Rodney King – sau đó biên soạn lại để độc diễn trên một sân khấu không trang trí. Những tác phẩm sân khấu này, cũng như những tác phẩm báo chí đáng nhớ nhất, khiến khán giả đồng tình, hay ít nhất là chấp nhận, các ý kiến đối lập và chấp nhận thực tế khó khăn của cuộc sống.


Ở đây, tôi tán thành những điều sâu sắc và mới mẻ hơn là việc đưa tin theo công thức mặt-này-và-mặt-khác. Mở rộng tư duy báo chí, chấp nhận những quan điểm trái chiều, thậm chí hoàn toàn đối lập, về thế giới không phải là đầu hàng thuyết tương đối. Ví dụ, trong phiên toà xử tội giết người của O.J. Simpson, tại sao người da đen và người da trắng lại đánh giá cùng một bằng chứng khác nhau đến vậy? Dù có giải thích được vì sao đối với người Mỹ gốc Phi, những lời biện hộ của một người da đen bị cảnh sát da trắng bắt lại đúng đắn đến thế thì cũng chẳng giúp Simpson nhẹ tội đi (theo quan điểm của tôi). Thực ra, nếu trò hề tại tòa đó có ý nghĩa gì lớn hơn, tương xứng với mức độ đưa tin của các phương tiện truyền thông, thì chỉ là phiên tòa đã thành vũ đài cho “thực tế ngược” của người Mỹ da trắng và người Mỹ da đen.


Hãy cùng xem xét điều này kỹ hơn. Tìm hiểu hành động và động cơ của bọn khủng bố không phải là chuyện biện hộ cho chúng. Tác giả James Baldwin hiểu sự khác biệt này khi ông từng cho rằng cuốn tiểu thuyết hay nhất về nạn phân biệt chủng tộc ở Mỹ có thể được viết theo quan điểm của đám đông da trắng. Tôi cũng đã nhiều lần viết về những người có hành vi bạo lực chính trị − một người Thiên Chúa giáo cực đoan đặt bom các bệnh viện nạo phá thai ở New York, một người lính Do Thái đã cố gắng ám sát cựu Thủ tướng Israel Shimon Peres vì vai trò của ông trong hiệp định hòa bình Oslo. Mục đích của tôi không phải là lên án những hành động tàn ác mà là giúp người đọc hiểu điều gì đã khiến những người này, những người hoàn toàn có thể cư xử hiền lành, trở thành kẻ sát nhân. Nền báo chí mà chúng ta cần trong thời đại đẫm máu này phải giải thích được phong trào thánh chiến của Hồi giáo, không phải để bào chữa cho nó mà để nhận thức thấu đáo nó.


Sự công bằng có thể che giấu sai lầm mà cũng có thể là một đức tính cơ bản. Trước đây không lâu, mạng truyền hình cáp C-SPAN quyết định chỉ phát sóng một bài phát biểu của sử gia chuyên nghiên cứu Holocaust Deborah Lipstadt với điều kiện ngay sau đó phải là bài phát biểu của David Irving, người phủ nhận Holocaust và từng kiện bà Lipstadt xúc phạm danh dự nhưng bị thua. Ngụ ý ở đây là việc thảm sát không phải sự thật mà chỉ là một vấn đề được đưa ra tranh luận. Khi Charles Murray viết cuốn sách The Bell Curve có nội dung chứng minh rằng những người da đen, về di truyền học, kém thông minh hơn người da trắng, rất ít nhà báo nỗ lực kiểm tra xem những bằng chứng khoa học của ông ta có đúng đắn hay không. Thay vào đó, họ đã coi chủ đề dòng giống chủng tộc thấp kém có thể dễ dàng được giải quyết bằng công thức ông-ấy-nói/bà-ấy-nói. Gần đây nhất, khi đưa tin chiến dịch chống thuyết sinh học tiến hoá của thành viên của phong trào “thiết trí luận”[3], quá nhiều nhà báo đã trình bày cùng một lúc hai quan điểm cùng có giá trị tương đương theo đúng mô hình ở-mặt-này và ở-mặt-khác. Trên thực tế, ngoại trừ với một số nhà khoa học, thuyết tiến hoá vẫn là lời giải thích được chấp nhận, còn “minh định” là thuật ngữ mà Kinh Thánh dùng để chỉ việc Thượng đế sáng tạo ra thế giới.


Thách thức là bạn phải học và làm chủ điều mình chưa biết chứ không phải là nấp sau sự thiếu hiểu biết của mình. Linh hoạt khác với dễ dãi; còn người được gọi là “học nhanh” thực ra đang bị “khen đểu”. Cần có thời gian để thành thạo chuyên môn. Cần có thời gian để hiểu sự thật sâu kín trong tâm hồn của mỗi con người. Cần lòng kiên nhẫn và sáng suốt dù chỉ để nghĩ tới việc phán xét.


Nhà báo với tư cách con người


Để trở thành một nhà báo có đạo đức, bạn phải giữ được lòng nhân đạo. Bạn có thể nghĩ tôi đang nói điều hiển nhiên. Tuy nhiên, lý tưởng khách quan kêu gọi nhà báo viết một cách vô tư dù họ viết về ai, thái độ khách quan được xem là sự đảm bảo cho công bằng. Về phần mình, tôi luôn nghĩ rằng “khách quan” là một từ không chính xác bởi vì con người không thể không chủ quan. Những gì chúng ta cố gắng làm với tư cách nhà báo nên được gọi là “công bằng”, và chủ đề này đáng để chúng ta thảo luận riêng sau. Dù bạn gọi nó là khách quan hay công bằng hay bất cứ tên gì khác thì nghề báo cũng không thể và không nên lấn át bản chất con người của chúng ta. Báo chí là để truyền tải cảm xúc chứ không phải để tiêu diệt cảm xúc. Trong một số trường hợp đặc biệt và hiếm khi xảy ra, nghề báo đã phá bỏ rào cản – mà giới kịch nghệ gọi là “bức tường thứ tư”[4] – ngăn cách chúng ta với những người và sự kiện mà chúng ta tường thuật. Nếu bạn không thể là một con người thì cuối cùng bạn cũng chẳng thành nhà báo.


Câu chuyện về hai bức ảnh đoạt giải và hai tác giả dưới đây thể hiện đúng quan điểm của tôi. Nếu bạn đã học về Chiến tranh Việt Nam, có thể bạn đã thấy bức ảnh một cô bé người Việt – nạn nhân của đợt ném bom napalm của quân đội Mỹ – trần truồng vừa chạy vừa kêu khóc kinh hoàng trên đường. Hình ảnh đau thương về cô bé đã góp phần không nhỏ làm gia tăng dư luận phản đối chiến tranh ở Mỹ và nó cũng đem lại giải thưởng Pulitzer cho phóng viên ảnh Nick Út của hãng thông tấn Associated Press (AP). Rất ít người biết rằng sau khi chụp ảnh cô bé, cô Phan Thị Kim Phúc,  Nick Út đã đưa cô lên chiếc xe buýt nhỏ, yêu cầu xe chở cô đến bệnh viện và xin bác sĩ cứu chữa cho cô ngay lập tức. Chỉ sau khi Kim Phúc lên bàn phẫu thuật Út mới về văn phòng AP để nộp cuộn phim ông chụp. Hai mươi tám năm sau, trong một buổi lễ có mặt Nữ hoàng Anh, Kim Phúc nói về Út, “Ông ấy đã cứu mạng tôi”. Tôi có thể nói thêm rằng ông cũng đã cứu chính tâm hồn mình.


Một bức ảnh khác đoạt giải thưởng chụp cảnh nạn đói ở Sudan năm 1993. Bức ảnh ghi lại khoảnh khắc một em bé tuổi mới chập chững đang gục xuống trong khi đang cố lết tới trạm phân phát lương thực, một con kền kền đang chờ sẵn phía sau. Giống như Nick Út, Kevin Carter, người phóng viên tự do đã chụp bức ảnh, làm dấy lên làn sóng công luận mạnh mẽ. Điều đó khiến Tổng thống Bill Clinton đưa quân đội Mỹ đến thực hiện sứ mệnh nhân đạo tại Sudan. Cũng giống Nick Út, Kevin Carter được vinh danh bằng giải Pulitzer. Tuy nhiên, không như Út, anh đã không can thiệp để cứu đứa bé trong bức ảnh. Một người bạn thân của Carter, David Beresford ở báo The Guardian (Anh), nhớ lại khi hỏi nhà báo này: “Anh đã làm gì với đứa bé?” Carter trả lời: “Chẳng làm gì cả, ở đó có hàng ngàn đứa như vậy”. (Những lần khác khi được hỏi, Carter trả lời rằng anh đã đuổi con kền kền đi và khóc hàng giờ liền sau khi chụp bức ảnh). Carter tự sát chưa đầy bốn tháng sau ngày đoạt giải. Bạn không bao giờ biết chính xác người ta nghĩ gì khi tự sát, nhưng sau này, nhiều đồng nghiệp của Carter sẽ vẫn nhớ về cái ngày anh để cho gã phóng viên bên trong lấn át nhân tính mình.


Tôi hiểu, với bạn, người mới vào nghề và cố gắng để có tính cách phù hợp với công việc, sẽ khó khăn thế nào khi phải phân tích những đòi hỏi đối lập như thế với lương tâm mình. Tôi hiểu nhờ dạy lớp nhập môn báo chí ở Trường Báo chí Columbia hồi tháng Chín năm 2001. Vào buổi sáng Al-Qaeda tấn công toà Tháp Đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới, sinh viên của tôi mới chỉ bắt đầu chương trình đào tạo báo chí được chưa đầy một tháng. Tuy còn đang chật vật học những kỹ thuật sơ đẳng nhất của nghề báo nhưng họ đã ngay lập tức lao vào câu chuyện gây chấn động nhất kể từ sau Đệ Nhị Thế chiến. Không giống như một số đồng nghiệp trong khoa báo chí, tôi đã không cử sinh viên đến Ground Zero vì lo cho sự an toàn của họ nhưng tôi đã phân công họ đưa tin về hậu quả của vụ khủng bố ở các khu vực lân cận trong thành phố. Khi hồi tưởng lại, tôi có thể nói chính trải nghiệm đó đã giúp họ vượt lên chính mình. Sinh viên của tôi đã viết về những người gác cổng, vốn là người Dominica nhập cư, chết khi Tháp Đôi sụp đổ; về những người Sikh phải chịu tiếng là gây tội vì bị nhầm với người Ả Rập; về những người làm dịch vụ tang lễ chuẩn bị chôn cất những phần thi thể vương vãi; về đội kèn túi của Cục Cứu hỏa phải chơi trong hàng trăm đám tang và lễ truy điệu, và hai người trong số họ cũng thiệt mạng.


Trong quá trình tường thuật những sự kiện này, các sinh viên của tôi cũng vấp phải những câu hỏi đau đớn nhưng cần thiết. Nếu người em phỏng vấn khóc thì sao? Em có thể chạm vào họ không? Em có thể ôm họ không? Nếu như em khóc thì sao? Nếu em làm như vậy em có phải là một nhà báo tồi không? Người trợ giảng của tôi, cô Mirta Ojito của báo The New York Times đã dần dần trả lời những câu hỏi như vậy. Mirta viết “Chân dung thảm họa” cho báo Times trong suốt nhiều tuần liền sau vụ khủng bố; chùm bài tập hợp thông tin về tất cả các nạn nhân đã được xác định danh tính trong vụ tấn công của Al-Qaeda. Nói cách khác, cô dành toàn bộ thời gian làm việc để phỏng vấn những người sống sót. Cô kể với cả lớp cô đã khóc ra sao khi nói chuyện qua điện thoại với cha của hai cô gái chết ở Tháp Đôi. Cô nhớ lại khi bước vào nhà vệ sinh nữ ở tòa báo Times và thấy một đồng nghiệp đang thổn thức vì căng thẳng. Mirta hiểu rằng nước mắt không làm tổn hại tư cách nhà báo của cô. Không cảm nhận và truyền tải nỗi đau của những người vợ mất chồng, những người chồng mất vợ, những đứa trẻ mất cha mẹ và cha mẹ mất con − sự vô nhân đạo đó mới là thất bại của nhà báo.


Một trong số những sinh viên của Mirta và tôi mùa Thu năm đó là Kerry Sheridan. Những bài báo của Kerry về đội kèn túi của Cục Cứu hoả giúp cô viết nên một cuốn sách đặc biệt về họ, cuốn Bagpipe Brothers. Hơn hầu hết các nhà báo ở mọi độ tuổi, Kerry đã lao vào ranh giới mơ hồ giữa nhà báo và con người và cố gắng xác định rõ cả quy tắc đạo đức và những quy tắc nghề nghiệp. Cô muốn viết một cuốn sách lớn nhưng cũng muốn được yên giấc mỗi đêm. Gần đây, tôi hỏi cô muốn nói gì với bạn. “Trong thảm kịch, ranh giới bị xóa mờ và lời khuyên tốt nhất tôi có thể cho một nhà báo trẻ về việc giữ nhân tính là hãy nương theo chiều gió”, Kerry nói. “Chú ý quan sát, bằng lòng với hoàn cảnh, hãy giúp đỡ nếu bạn có thể nhưng đừng coi việc đó là ưu tiên. Hãy nghĩ xem bạn sẽ cảm thấy như thế nào nếu gia đình mình ở trong hoàn cảnh đó. Và hãy mang khăn tay.”


Lời thề trung thành


Tôi muốn lưu ý các bạn về những lời thề trung thành. Tôi không đề cập đến những lời thề trung thành theo nghi thức mà nhân viên chính phủ buộc phải tuyên thệ trong suốt thời đại McCarthy, kiểu lời thề hủy hoại cuộc sống và sự nghiệp bằng cách chụp mũ cộng sản cho bất kỳ ai đủ dũng cảm để từ chối tuyên thệ. Tôi đang nghĩ về những lời thề trung thành không nói ra, đặc trưng cho thời đại của chúng ta, với tình cảm mạnh mẽ cho dân tộc, sắc tộc, hay cội rễ tôn giáo và nhiệt huyết dành cho chính trị bản sắc[5]. Bạn càng cảm nhận mình là một phần trong một cộng đồng, hay một cộng đồng nào đó càng tuyên bố bạn là thành viên của họ, thì sẽ càng có nhiều áp lực buộc bạn phải phục vụ cho những mối quan tâm theo nhận thức của cộng đồng đó. Bạn được kỳ vọng sẽ bưng bít những “tin xấu” – dù nó có được cắt nghĩa ra sao – hay sẽ cổ vũ bất kỳ điều gì được coi là thuộc về tư tưởng của cộng đồng.


Nhiều năm trước, khi mới bắt đầu làm phóng viên của Times, tôi được mời dự Passover seder[6]. Khi nghe nói tên họ của tôi và báo New York Times, một vị khách khác đã kịch liệt chỉ trích việc tôi là “một tên Do Thái tồi tệ nhất, kẻ tự căm ghét bản thân”, và khăng khăng cho rằng Times chống Israel và bài Do Thái. Sau một khoảnh khắc ngỡ ngàng, tôi nhận ra người phản đối đã nhầm tôi với Thomas L. Friedman. Về phần mình, tôi không thể tưởng tượng ra lời khen nào hơn thế. Vào thời điểm ấy, Friedman sắp đoạt giải Pulitzer đầu tiên trong sự nghiệp nhờ tường thuật cuộc xâm lược Lebanon của Israel. Lúc đó, tôi đang theo dõi vụ tranh cãi xoay quanh việc thu dọn và xử lý rác không đúng thủ tục ở vùng ngoại ô Connecticut. Lần tôi đến gần người giống tên nổi tiếng ấy nhất là khi tôi lấy nhầm tạp chí College Hockey gửi cho Friedman trong hòm thư cơ quan. Không gì có thể xoa dịu người chỉ trích tôi. Dù tôi không phải là Friedman thì tôi vẫn là Freedman, một thành viên của dân tộc, và gốc gác Do Thái đáng ra phải cao hơn mọi thứ khác.


Tôi có thể hiểu rõ tâm trạng thất vọng của những người cảm thấy họ bị ống kính của cơ quan báo chí vốn chẳng thèm nhớ tới sự hiện diện của họ chèn ép. Người gốc Mỹ La Tinh, phụ nữ đồng tính, người theo đạo Tin Lành, bất kỳ nhóm nào mà bạn có thể nghĩ ra − nhóm nhận ra thành viên của mình từ bên trong, với khả năng tiếp cận tất cả những cần gạt và nút bấm màu nhiệm[7], và theo lẽ tự nhiên, muốn người đó bấm nút vì lợi ích của nhóm. Bản thân các nhà báo cũng không miễn nhiễm với cám dỗ. Tôi biết nhiều phóng viên và biên tập viên người da đen bị giằng xé giữa việc theo dõi những vấn đề của người da đen – bởi vì họ tin rằng họ có thể theo dõi những sự kiện đó một cách nhạy cảm hơn, khác biệt hơn với người da trắng – với mong muốn không bị rập khuôn vào việc chỉ có khả năng đưa tin các sự kiện về những người có cùng màu da với họ. Phóng viên theo dõi chiến dịch tranh cử hàng tháng trời, phóng viên tham gia vào một đơn vị quân đội, phóng viên dành trọn cả một mùa với cùng một đội thể thao − họ cũng tuân theo lý tưởng về lòng trung thành.


Tuy vậy, cuối cùng thì nhà báo phải luôn luôn tự do, có trách nhiệm với tác phẩm, hệ thống giá trị và độc giả (hay thính giả hoặc khán giả). Bạn không bao giờ được để lòng trung thành với nhóm, hay các mối quan hệ, kiểm duyệt tâm hồn mình. Tình bạn và tình cảm gia đình của bạn có thể căng thẳng, thậm chí đổ vỡ. Vị ứng cử viên, ngài chỉ huy quân đội, người đội trưởng đội thể thao có thể gọi bạn là kẻ phản bội. Nghề báo luôn luôn mang tính xã hội, về phương diện này, bạn phải chuẩn bị đối diện với nỗi cô đơn, kiểu này hay kiểu khác.


Một số nhà báo đồng nghiệp của tôi đã thể hiện đặc tính này với những lời hùng biện đặc biệt và bạn có thể học được nhiều từ trường hợp của họ. Một trong những biên tập viên giỏi nhất và là người cố vấn giàu kinh nghiệm của tôi là Jeff Schmalz. Anh chỉ hơn tôi vài tuổi, nhưng khi còn chưa tốt nghiệp đại học ở Columbia anh đã khởi nghiệp bằng cách đưa báo và làm việc vặt ở tòa soạn Times, đến khi mới ngoài hai mươi tuổi anh đã phụ trách biên tập các sự kiện đô thị. Trong số những người đồng tính ở Times, vào những năm 1980, khi xã hội còn khá thành kiến với người đồng tính, Jeff là người hiếm hoi sẵn sàng cởi mở về giới tính của mình. Trong lúc cống hiến hết mình để xây dựng Times, anh không ngừng góp ý về cách đưa tin, đôi khi không đưa, về các vấn đề đồng tính. Tôi nghĩ anh đã thấy một vài phóng viên trẻ của mình có khả năng mang đến thay đổi. Năm đầu tiên tôi làm việc ở Times, anh đã cử tôi đi tường thuật Gay Pride Parade; ở đó, tôi bất ngờ gặp một người bạn cùng lớp trung học, và đã trích dẫn lời anh bạn đó trong bài báo của mình. Jeff phân công Mike Norman, một cựu binh Thủy quân Lục chiến không đồng tính, đưa tin về những cộng đồng đồng tính New York; anh thậm chí còn gợi ý Mike về những câu lạc bộ và nhà tắm công cộng nên đến tìm hiểu.


Khi Jeff chuyển từ việc biên tập sang làm phóng viên và sau đó chiến đấu với bệnh AIDS, các bạn có thể kỳ vọng anh là người mẫu mực, là tấm gương, và tin tưởng vào cuộc chạy đua của anh. Nhưng Jeff đánh giá bản thân mình vẫn cần rèn luyện để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. Vào cuối năm 1990, kỹ năng nghề nghiệp của Jeff đã được nâng cao hơn. Jeff bị ngất ở tòa soạn, khi khám tìm nguyên nhân anh mới biết mình mắc AIDS giai đoạn cuối. Anh còn rất ít tế bào bạch cầu, anh đáng ra đã chết. Jeff hồi phục được một thời gian và anh trở lại làm việc. Anh dễ động lòng trắc ẩn hơn, ít tự mãn hơn với những người anh phỏng vấn và sẵn sàng chia sẻ vòng tay cùng nước mắt với họ. Nhưng Jeff vẫn phải chịu sức ép dữ dội từ những nhóm ủng hộ người đồng tính mà anh kể lại chi tiết trong một bài tiểu luận đáng nhớ được công bố năm 1992, một năm trước khi anh mất ở tuổi ba mươi chín:


“Anh là ai?” một phóng viên truyền hình hỏi tôi trong tang lễ một lãnh đạo Act-Up mất vì bệnh AIDS ở Greenwich Village. Phóng viên đó biết rõ tôi là ai: một gã mắc bệnh AIDS ở báo Times.


Nắp quan tài đã được dỡ ra, chiếc quan tài được khiêng trên vai đi trong mưa, những người đưa tang cầm đuốc đi trong bóng tối, chỉ có tiếng trống dẫn nhịp cho nghi thức này, một đám tang trở thành sự phản đối phương thức đấu tranh với AIDS của Tổng thống Bush.


“Anh ở đây với tư cách một phóng viên hay một người đồng tính mắc bệnh AIDS?” phóng viên truyền hình kiên trì bám theo, đưa micro ra trước mặt tôi. Đèn trên chiếc camera của anh ta bật sáng.


Tôi không trả lời. Mọi người trong đám đông tiến lại gần hơn, họ muốn biết câu trả lời. Cả tôi cũng muốn biết. Cuối cùng, tôi đáp: “Phóng viên”. Một vài người lắc đầu phẫn nộ, họ la lên:“Chú Tom!” Họ muốn một người ủng hộ chứ không phải một phóng viên. Vậy là tôi đứng đó, một gã đồng tính mắc AIDS lạc lõng giữa một đám tang người mắc AIDS, tôi là người ngoài trong thế giới của chính mình.


Tôi đi bộ trở về cơ quan trong cơn mưa, suy nghĩ trên suốt quãng đường qua 30 toà nhà xem sẽ khó khăn thế nào khi người da đen viết về người da đen, phụ nữ viết về phụ nữ. Nhưng đưa tin kiểu đó mới là nghề báo. Ai đó nghĩ rằng chính nền báo chí mới chịu thiệt hại, rằng chính sự khách quan mới bị vứt bỏ. Nhưng họ nhầm. Nếu phóng viên không trung thực thì chính họ sẽ phải chịu đựng, bị mắc kẹt giữa hai lòng trung thành… 


Tôi không viết bài về tang lễ vì cho rằng chỉ cần một bức ảnh và lời chú thích là đủ. Trong cơn mưa chiều đó, tôi đã vượt qua thử thách của nghề báo bằng cách thất bại trước thử thách của hoạt động xã hội. Trở thành một nhà hoạt động xã hội có nghĩa là sẽ được biết đến vì bệnh AIDS chứ không phải vì làm báo.


Ở một khía cạnh nào đó, Jeff đã may mắn. Là phóng viên của Times, Jeff được một cơ quan lớn đầy quyền lực bảo vệ, một cơ quan bền vững có khả năng đương đầu với những áp lực bên ngoài, ít nhất là cho tới vụ tai tiếng Jayson Blair. Không phải nhà báo nào cũng đạt tới vị trí cao như vậy, và hiếm có nhà báo ở tuổi của bạn khởi nghiệp ở vị trí ấy. Tôi chắc chắn là không. Nếu bạn giống như hầu hết chúng tôi, khởi đầu sẽ là ở một hãng tin nhỏ hơn hoặc có chuyên ngành hẹp hơn, vốn dễ bị tổn hại hơn Times khi bị công chúng phản đối hay thậm chí tẩy chay về kinh tế, chính điều đó sẽ giúp bạn tìm ra thế mạnh của mình. Điều này khiến tôi nhớ đến một biên tập viên tên là Gary Rosenblatt.


Chúng tôi gặp nhau lần đầu với tư cách đối thủ. Vào năm 1987, Times cử tôi viết bài về người Do Thái đầu tiên bị cáo buộc phạm tội ác chiến tranh chống người Do Thái. Tên ông ta là Jacob Tannenbaum, ông ta sống ở Brooklyn và là thành viên của một giáo xứ Do Thái ở đó, ông ta bị cho là đã đánh đập và hành hạ những người tù Do Thái ở cùng trong trại lao động khổ sai ở Görlitz, Đức. Tôi thú nhận rằng tôi đã viết một câu chuyện nghèo nàn, buồn tẻ, xây dựng hình ảnh một người hàng xóm được yêu mến, rõ ràng có ý nói ông ta đã bị buộc tội sai. Nói về sự trung thành với cộng đồng, hồi tưởng lại, tôi nghĩ rằng là một người Do Thái, tôi không thể chấp nhận sự thật là người Do Thái cộng tác với Quốc xã. Không lâu sau khi bài báo của tôi xuất hiện, một tuần báo Do Thái từ Baltimore đã có bài viết về chủ đề này. Phóng viên của tờ báo đó đã làm được việc mà tôi không làm được. Anh ta đã lần theo những mâu thuẫn trong phát ngôn của Tannenbaum trước đó, anh ta tìm những người sống sót ở Görlitz, họ đã mô tả  những gì mắt thấy tai nghe về việc Tannenbaum cưỡng bức phụ nữ, tra tấn đàn ông, và được Đức Quốc xã đối xử rất thiên vị. (Về sau Tannenbaum nhận tội và bị tước quyền công dân). Tôi phải thừa nhận là đã thua trắng và tôi tò mò muốn biết người đã làm tôi phải hổ thẹn. Người phóng viên đó là Arthur Magida và biên tập viên của anh ta là Gary Rosenblatt.


Sáu hay bảy năm sau đó, Gary chuyển về miền Bắc đảm nhận vai trò biên tập viên và chủ báo New York Jewish Week, một tờ có truyền thống cổ vũ cộng đồng, ca ngợi thành công của người Do Thái và lờ đi những bằng chứng cho thấy điều ngược lại. Gary rõ ràng không định trở thành loại bồi bút như thế. Tuy nhiên, anh đồng thời thực sự lúng túng với cộng đồng mà anh đã hứa sẽ đưa tin không nao núng. Anh sống ở nơi có đông người Do Thái, vùng ngoại ô Teaneck, New Jersey và tham gia một giáo xứ địa phương. Các con anh cũng học trung học, đại học ở trường dòng Do Thái. Thậm chí hơn cả Jeff Schmalz, Gary ngay lập tức phải trực tiếp nghe mọi lời phàn nàn, cảm nhận mọi áp lực. Và nếu như bạn khởi nghiệp ở một tờ nhật báo địa phương, như tôi đã làm, hay ở một đài phát thanh, truyền hình địa phương, bạn sẽ có những kinh nghiệm cực kỳ tốt. Bạn sẽ sống cùng độc giả, ngẫu nhiên gặp họ ở hiệu giặt là, quán bar, hay hiệu bánh ngọt.


Tháng Sáu năm 2000, Gary viết một bài trang nhất về một giáo sĩ trường dòng nổi tiếng bị cáo buộc đã lạm dụng thân thể hay lạm dụng tình dục các thiếu niên nam và nữ trong thời gian lên tới hơn ba mươi năm. Đây không phải là một cuộc điều tra dựa trên những bằng chứng vô căn cứ từ những nguồn tin nặc danh. Gary đã rất cẩn thận, yêu cầu mọi nạn nhân được anh trích dẫn dùng tên thật và cho ghi âm. Anh đã mô tả cố gắng của những nạn nhân này để giáo sĩ phạm tội, Baruch Lannar, bị trường dòng trừng phạt. Tuy nhiên, những nỗ lực không ngừng đó lại giúp giáo sĩ Lannar được bảo vệ và được cho phép tiếp tục việc giáo dục và truyền đạo cho lớp trẻ. Gary thậm chí đã tiến hành biện pháp đặc biệt, trước khi công bố bài báo, anh đã tìm một giáo sĩ trường dòng, người có uy tín về đạo đức tôn giáo, để hỏi xem liệu có nên công bố những phát hiện chấn động này hay không. Vị giáo sĩ đã nói với Gary những phát hiện ấy là lời kêu gọi của lương tri.


Sau khi bài báo được đăng, nó đã bị phản đối kịch liệt. Một giáo sĩ kêu gọi tờ Jewish Week sa thải Gary. Hai người khác đã buộc tội Gary phạm vào điều cấm kị của Do Thái giáo, loan truyền những tin đồn ác ý. Hàng trăm e-mail và thư đổ lên Gary, chia đều cho hai phe, ủng hộ hoặc kịch liệt chỉ trích anh. Gary đã bôi nhọ tất cả các giáo sĩ Do Thái; vạch áo cho người xem lưng; khiến người Do Thái xấu hổ trước những người dân tộc khác. “Tôi bảo họ công việc của chúng tôi là mô tả cộng đồng người như nó vốn có, chứ không phải theo cách chúng ta muốn,” Gary nói. “Đôi khi người ta không muốn nhìn vào gương”.


Có lẽ lời xác nhận cuối cùng về quyết định của anh đã được đưa ra một năm rưỡi sau, khi vụ một linh mục lạm dụng thân thể trẻ em ở một nhà thờ Công giáo bị phanh phui. Mặc dù quy mô lớn hơn trường hợp Lannar nhưng sự kiện ở nhà thờ Công giáo cũng có nhiều yếu tố tương tự − kẻ lạm dụng thân thể trẻ em quen biết các bậc bề trên; tôn ti tôn giáo đã bác bỏ hoặc lờ đi những oán trách của trẻ em và các bậc phụ huynh; và các phóng viên điều tra bị chỉ trích là đưa tin quá nhạy cảm và bài tôn giáo. Gary đã liên hệ với một trong số các ký giả như thế, Rod Dreher của National Review và chỉ ra những điểm tương đồng. Dreher đã phúc đáp, “Tôi không biết liệu anh có theo đạo hay không nhưng tôi là một tín đồ Công giáo ngoan đạo và tôi coi việc vạch trần những sự thật kinh khủng này là trách nhiệm tôn giáo. Một vài linh mục cấp cao, có cả một tổng giám mục, đã khuyên tôi nên rút lui như một ‘con chiên ngoan đạo’. Tôi nói với họ rằng họ đã hiểu nhầm tôi: tôi viết về vụ việc này không phải để chống lại Công giáo mà là để ủng hộ nó.”


Khi Gary đăng những lời nói của Dreher trên tờ Jewish Week, anh đã thêm một câu kết của mình. Và tôi sẽ nhắc lại ở đây: Amen[8].


Chúng ta có phản bội không?


Tôi kể cho bạn những chuyện này để bạn mạnh mẽ hơn. Bạn sẽ nghe nhiều điều ngược lại, vậy, hãy chuẩn bị tinh thần. Bạn sẽ nghe các giáo sư say sưa giảng về giải cấu luận, rằng chẳng có gì là thực tế, chẳng có gì là sự thật, chẳng có gì là lịch sử, chỉ có những câu chuyện được kẻ áp bức tạo ra nhằm kiểm soát người bị áp bức. Bạn sẽ nghe về mọi thất bại của nghề báo từ blogger và các nhà phê bình truyền thông, những người chưa bao giờ rời xa máy vi tính đủ lâu để đưa tin một vụ hỏa hoạn hay một buổi họp của hội đồng thành phố. Bạn sẽ nghe độc giả, thính giả, khán giả xỉ vả người đưa tin đem đến những tin không tốt. Đôi khi những người này đúng. Bạn chỉ có thể biện hộ bằng chất lượng bài viết của mình. Bạn cần phải sẵn sàng và thực sự hăng hái, bảo vệ từ những chi tiết nhỏ nhất trong bài viết.


Sớm hay muộn, bạn cũng phải đối mặt với một lời chỉ trích đặc biệt, nhắm thẳng vào mục tiêu đạo đức của nghề báo. Nó được đưa ra dưới dạng một cuốn sách của tác giả Janet Malcolm, The Journalist and the Murderer, được rất nhiều nhà báo đọc và được phổ biến rộng rãi trong các trường dạy nghiệp vụ báo chí. Trong lời mở đầu cuốn sách, Malcolm viết: “Mỗi nhà báo không quá ngớ ngẩn hay quá tự mãn để nhận biết những điều đang diễn ra đều biết việc mình làm là không thể biện hộ về phương diện đạo đức. Nhà báo là người tự tin, nhận ra tính phù phiếm, sự dốt nát hay nỗi cô đơn của mọi người, chiếm lấy lòng tin của họ để rồi phản bội họ một cách không thương xót.”


Lời buộc tội của Malcolm làm báo giới nhức nhối. Nó gây chấn động vì, nghịch lý thay, nó nói về phẩm chất mà tác giả rõ ràng tin rằng nhà báo còn thiếu: lương tâm. Nhà báo tìm cách khiến mọi người hài lòng, giành lấy lòng tin của họ bằng cách chiều theo, hay vờ chiều theo, đánh giá theo ý kiến của mọi người. Khi phỏng vấn, phóng viên là người chăm chú và kiên nhẫn lắng nghe nhân vật nói hơn bất cứ ai trong đời người đó − ông chủ, vợ hoặc chồng, hàng xóm, họ hàng. Nhiều người sẽ nhầm việc sẵn sàng lắng nghe với lời hứa hẹn một tình bạn, và một số nhà báo không có uy tín chỉ làm tăng thêm hiểu lầm. Mối quan hệ giữa nhà báo với nguồn tin, mỗi người đều tìm kiếm một vài lợi ích từ bên kia, là rất nhập nhằng. Bạn có thể thấy quá trình lợi dụng lẫn nhau này được miêu tả sinh động qua mối quan hệ giữa Mel Gibson trong vai một phóng viên người Úc và Linda Hunt đóng vai nguồn tin ở Indonesia thời cách mạng trong bộ phim của Peter Weir, The Years of Living Dangerously, dựa trên tiểu thuyết của Christopher J. Koch. Thật ra, chính là bởi nhiều nhà báo biết cân nhắc hậu quả của việc mình làm nên họ mới thấy cắn rứt vì lời chỉ trích của Malcolm.


Tuy nhiên, tự đánh giá bản thân và tự hổ thẹn là rất khác nhau. Bạn nên biết vài điều về Malcolm và luận điểm này trước khi hao tâm tổn trí vì nó. Malcolm công kích mạnh mẽ mọi nhà báo và cả nền báo chí bằng cách tập trung vào một phóng viên tồi, Joe McGinnis. Cuốn sách của Malcolm phanh phui một cách không khoan nhượng việc McGinniss khéo léo lấy lòng một sĩ quan Mũ Nồi Xanh[9] bị buộc tội giết người, Jeffrey MacDonald. McGinnis tuyên bố tin tưởng MacDonald vô tội để tiếp cận được nghi phạm và gặp luật sư bào chữa nhưng trên thực tế, anh ta đã kết luận là MacDonald có tội. McGinniss tiếp tục với nhiều mưu mẹo để thu thập tài liệu đủ để viết thành một cuốn sách bán chạy, cuốn Fatal Vision. Nhưng việc MacDonald, khi ấy đã bị buộc tội giết người, kiện McGinniss xúc phạm danh dự mình cho thấy McGinniss đã thiếu đạo đức như thế nào. Như để nhấn mạnh quan điểm này, McGinniss đã tiếp tục viết một cuốn sách về Thượng nghị sĩ Edward Kennedy, mà về sau bị phát hiện có nhiều chi tiết bịa đặt. Vì vậy, Joe McGinniss không còn đại diện cho báo giới cũng như Jeffrey MacDonald không còn đại diện cho giới sĩ quan quân đội nữa.


Nhà báo giống với McGinniss nhất có lẽ chính là Janet Malcolm. Malcolm cũng có một phần cuốn Fatal Vision của riêng mình khi viết tiểu sử nhà phân tâm học Jeffrey Masson, giám đốc cơ quan Lưu trữ Freud ở London, cho tờ New Yorker. Bài viết dài dòng miêu tả Masson như một kẻ khoác lác kiêu căng và trích dẫn trực tiếp lời Masson nói rằng ông từng treo cổ tự tử. Masson đã kiện Malcolm phỉ báng vì bà này đã sáng tác ra một số lời nói và gán cho ông. Thú vị thay, một số lời trích dẫn gây tranh cãi đã biến mất khỏi băng ghi âm cuộc phỏng vấn của Malcolm. Năm 1993, một thẩm phán liên bang xử Masson thắng khiện; ông xác định Malcolm đã bịa đặt năm câu trích dẫn, hai trong số đó có tính chất phỉ báng. Malcolm thắng ngược sát nút khi kháng án một năm sau nhưng thẩm phán vẫn xác định rằng bà ta bịa đặt hai câu trích dẫn. Một năm nữa trôi qua, thế rồi − ái chà − cháu gái của Malcolm lấy vài cuốn sách từ giá sách tại nhà nghỉ của ký giả này và tình cờ tìm thấy cuốn sổ với tất cả những lời trích dẫn còn thiếu. Bạn có thể tự quyết định xem câu chuyện này đáng tin đến mức nào.


Malcolm không phải kẻ tội đồ đầu tiên, mà cũng không nhẹ tội hơn bằng cách nói rằng mọi người đều làm thế. Nhà báo nào cũng có thể phạm lỗi – vào lúc này hay lúc khác – khi bỏ mặc cho nguồn tin cảm thấy lo lắng, không được bảo vệ, bị bỏ rơi. Nhưng thừa nhận có sai sót trong hệ thống khác xa với khẳng định rằng mọi cuộc gặp gỡ báo chí đều không thể không dẫn tới phản bội.


Mỗi lần phản bác luận điểm của Malcolm, tôi lại nghĩ đến một tác giả tạp chí mà tôi ngưỡng mộ nhất, Mike Sager. Tôi đã đọc tác phẩm của Mike ít nhất được 15 năm, kể từ khi tình cờ đọc bài viết lôi cuốn trên tạp chí Rolling Stone về nhóm cựu binh chiến tranh Việt Nam “rửa tay gác kiếm” ở Thái Lan sau chiến tranh và không bao giờ quay trở lại Mỹ. Lúc ấy tôi không biết đó là bài viết đầu tiên của Mike trên một tạp chí lớn. Ông khởi nghiệp với tư cách phóng viên mục đô thị của báo Washington Post. Trong nhiều năm làm việc cho tạp chí Rolling Stone, GQ, và Esquire, Mike chuyên viết về những hành vi cực đoan − những băng đảng ma túy, công chức nghiện heroin, người viết sách báo khiêu dâm, người tân thời, võ sĩ hiếu chiến hay trùm mafia. Bản thân Mike cũng có vẻ bề ngoài cực đoan; anh mặc toàn đồ đen và là người da trắng đầu tiên cạo trọc đầu mà tôi biết. Nhưng sự nghiệp của anh cũng là một công trình nghiên cứu về đạo đức. Anh là một nhà báo thiên tài, luôn luôn phát hiện được điều phi thường trong những người bình thường và phẩm chất thực của những người dường như lầm đường lạc lối, để rút ngắn khoảng cách về tâm hồn giữa Họ và Chúng Ta. Để làm được như vậy, Mike thường dành nhiều tuần để cùng sống với đối tượng, trở nên thân thiết và được họ tin tưởng, sau đó, tất nhiên là anh kể với thế giới về những điều anh phát hiện ra. Nhưng anh thì không chơi trò nói một đằng làm một nẻo như Janet Malcolm thú nhận. Gần đây, Mike chia sẻ quan điểm của anh với tôi như sau:


Khi một người đồng ý cho phỏng vấn, công việc của chúng ta là khám phá hệ thống giá trị của người đó mà không định kiến. Tôi gọi đó là sự tin tưởng. Nếu bạn không thể gác thành kiến sang bên, bạn sẽ không thể thấy những sắc độ làm cho báo chí và cuộc sống tuyệt vời đến thế. Chúng ta phải ngồi xuống và lắng nghe. Thông cảm và đồng cảm. Hãy cố gắng hiểu.


Sau đó, bạn về nhà, nghe lại những thông tin đó và lọc ra sự thật. Nếu người đó nói dối, bạn sẽ nhận rõ. Bằng cách lắng nghe, bằng cách để mọi người lên tiếng, bằng cách cố gắng thấu hiểu họ, bạn sẽ học được rất nhiều. Thế rồi, bạn ngồi vào bàn viết, việc bạn hiểu sâu sắc hơn giúp bạn kể lại sự thật một cách sâu sắc hơn.


Một lần, tôi được phân công viết một phóng sự dài về một anh chàng tên là Charlie nặng gần 700 cân Anh [10] . Chúng tôi sống cùng nhau vài tuần lễ. Chúng tôi đi lang thang, đến nhiều nơi, dù rất chậm. Tôi cư xử như một người bạn của anh ấy. Qua thời gian, tôi quan tâm đến anh như một con người. Cảm nhận được điều này, anh ấy cởi mở với tôi hơn.


Đến lúc viết câu chuyện, tôi đã cố gắng không chê bai. Ý tôi là anh chàng này béo tới mức không thể tự rửa ráy khi đi vệ sinh. Anh ấy phải dùng một thiết bị phun nước đặc biệt gắn vào bồn cầu. Tất nhiên tôi đã viết về chuyện đó. Thật hài hước. Nhưng tôi biết được chuyện ấy là bởi tôi đã trở nên gần gũi với Charlie với tư cách của một con người. Và tôi viết về điều đó, khi gần gũi hơn với Charlie như con người với con người, tôi viết bằng cả tấm lòng.


Khi Charlie đọc câu chuyện về mình, bài dài khoảng 7000 từ với những chi tiết riêng tư, anh nói qua điện thoại, bằng giọng của một cậu bé,“Tớ cảm thấy mình bị phơi bày”. Nhìn vào câu chuyện chi tiết về đời mình cũng như đứng soi gương, điều mà anh ấy chưa bao giờ làm.


Nhưng sau đó, anh đăng lại bài viết trên trang web cá nhân. Anh gửi nó cho tất cả bạn bè mình. Bài viết rất thành công. Người gầy ngạc nhiên với những chi tiết quá tỉ mỉ trong bài. Người béo ngạc nhiên trước cảm xúc của câu chuyện. Mọi chi tiết đều ở đó, nhưng không hề ác ý.


Charlie và tôi hiện vẫn giữ liên lạc với nhau.


Có một điều trong câu chuyện này, một điều lớn hơn việc vạch mặt Janet Malcolm, và nó đưa chúng ta trở lại với Thoth. Tất cả các nhà báo đều đóng vai Thoth, đánh giá trái tim và ghi lại số phận. Một nhà báo tốt, một nhà báo có đầy đủ cả đạo đức nghề nghiệp và sự cảm thông, mẫu nhà báo mà tôi mong bạn trở thành, phải chuẩn bị cho cái ngày mà chính anh ta hoặc cô ta phải đước trước Thoth để được phán xét.


(Còn tiếp 4 kì)


Dịch theo bản gốc tiếng Anh Letters to a Young Journalist (Art of Mentoring) của Samuel G. Freedman, Basic Books, New York, 2005. Bản tiếng Việt của Lưu Quang đăng trên pro&contra không phục vụ mục đích thương mại.




[1] Có lẽ tác giả nhầm lẫn, vị thần có nhiệm vụ cân trái tim là Thần Chết Anubis, thường được mô tả là có mình người và đầu chó rừng – Thoth chỉ giám sát chứ không trực tiếp tham gia việc cân tim.




[2] Tính theo thời điểm tác giả viết cuốn sách này, khoảng năm 2005.




[3] Nguyên văn: Intelligent design




[4] Bức tường ảo ngăn cách khán giả với sân khấu




[5] Nguyên văn: identity politics hoặc politics of identity  




[6] Tiệc bắt đầu Lễ Quá hải (Passover) của người Do Thái, xuất phát từ truyền thuyết Thánh Moses dẫn người Do Thái vượt biển Hồng Hải, thoát khỏi sự thống trị của đế chế Ai Cập.




[7] Ám chỉ những khả năng và lợi thế của cá nhân – chúng tôi cố gắng giữ nguyên cách dùng của tác giả.




[8] Từ gốc Tiếng Do Thái được Thiên Chúa giáo du nhập nguyên dạng, thường dùng khi kết thúc lời cầu nguyện, đôi khi mang ý tán thành điều gì đó – ở đây, Gary đã khéo léo dùng một từ có cùng ý nghĩa trong hai tôn giáo khác nhau để tỏ ý đồng tình và cảm ơn Dreher.




[9] Ở đây là lực lượng đặc nhiệm của Mỹ, không phải quân gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc.




[10] Khoảng gần 320kg

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 19, 2014 23:00

December 18, 2014

Thư gửi một nhà báo trẻ (1)

Samuel G. Freedman


Lưu Quang dịch và giới thiệu


MỤC LỤC


Lời dẫn

Truyền thống cấp tiến

Tình trạng nền báo chí của chúng ta


Khí chất nghề báo

Nhà báo với tư cách con người

Lời thề trung thành

Chúng ta có phản bội hay không?


Làm báo

Có mặt

Giày rách

Trở buồm

Về những nguồn tin ẩn danh

Đánh máy và suy nghĩ


Viết

Các bước của quá trình viết

Thể loại và chức năng

Tôn trọng từ ngữ, đề cao ngôn ngữ

Về sách

Gắn bó và cách ly


Nghề nghiệp

Giữ vững lập trường

Ca ngợi phương pháp tiệm tiến

Làm điều bạn sợ

Thất bại trước công chúng


Lời kết: Thờ cúng tổ tiên

Tác phẩm trích dẫn


_________


LỜI DẪN


Cách đây 30 năm, khi còn giống hệt các bạn bây giờ, tôi say sưa bắt đầu sự nghiệp với tư cách phóng viên báo in. Tính đến buổi tối tháng Năm năm 1975 ấy, tôi đã viết cho các tờ báo sinh viên được gần nửa đời, bắt đầu từ lúc vào trung học cơ sở. Kỳ thực tập hè tại Courier – News, tờ báo báo phát hành 45.000 bản mỗi kỳ đóng ở ngoại ô New Jersey, là lần đầu tiên tôi thực sự được trả lương để làm công việc mình yêu thích. Suốt những năm tháng sau này, tôi cố gắng không quên niềm hân hoan tối đầu tiên đó.


Tôi mới qua tuổi mười chín được vài tháng và thậm chí còn không có nổi một chiếc áo sơ mi trắng hay chiếc blazer màu xanh biển thẫm[1] để diện trong dịp ấy. Nếu tôi không nhớ nhầm thì tôi đã mượn bố tôi một bộ leisure suit chứ không phải thứ gì khác và bởi ông thấp hơn tôi ba inch nên bộ đồ không được vừa vặn cho lắm. Tóc tôi xoã tràn xuống vai thành từng mớ thô thiển bên bộ râu quai nón không đều mà tôi mới để từ chuyến du lịch “bụi” tới Oregon. Chắc trông tôi giống hệt một anh hề.


Dù sao tôi cũng có những thứ thiết yếu cho công việc: chiếc bút bi cùng cuốn sổ tốc ký, và những thứ ấy quan trọng hơn nhiều so với bộ cánh xoàng xĩnh. Tôi đến bãi đậu xe của báo Courier – News ngay trước ca trực của mình, bắt đầu từ sáu giờ rưỡi tối và kết thúc lúc hai giờ rưỡi sáng hôm sau. Không có tín hiệu gì cho thấy tôi sẽ được đào tạo hay định hướng. Tôi được tuyển vì những bài tôi viết trên báo trường đã thuyết phục các biên tập viên rằng tôi có khả năng. Thế là họ ném tôi vào nhóm phóng viên chuyên đưa tin về chính quyền địa phương. Mỗi khi ai đó đi nghỉ, tôi sẽ là người lấp chỗ trống. Tôi vẫn nhớ buổi tối mình được cử đi viết bài về hội đồng quận của một nơi được gọi là Branchburg. Tôi nộp bài đúng hạn và thậm chí còn dùng cả động từ “to assuage”[2] trong đoạn mở đầu của mình, biên tập viên trực đêm đã phải khịt mũi thán phục.


Viết xong bài tôi mới có cơ hội để lần đầu tiên thật sự quan sát khung cảnh xung quanh mình. Courier-News sở hữu một toà nhà hiện đại ít tầng xây bằng gạch màu trắng với cửa sổ kính tối màu. Người ta có thể dễ dàng lầm tưởng tòa nhà này với khu văn phòng của công ty bảo hiểm hay với các cửa hàng nội thất gần Quốc lộ 22. Trong phòng làm việc, đèn huỳnh quang phủ ánh sáng ban ngày thường trực lên những dãy bàn giả gỗ đặt máy đánh chữ cơ. Các biên tập viên ngồi ở dãy đầu tiên trong phòng. Cạnh họ là những lọ keo cao su để dán các bản thảo thành những tờ lớn khi mang đến xưởng in. Còn có cả một chồng toàn những bài bị loại. Tiếng máy điện tín lách cách dọc theo bức tường sau lưng họ. Phía xa, cạnh hai cái cửa đu là phòng sắp chữ và nơi để máy in do những người thợ vạm vỡ và lấm lem mực quản lý. Họ lúc nào cũng nghĩ rằng cánh phóng viên là bọn chết nhát. Đi xuống phía hành lang nhỏ hẹp là “quán ăn tự phục vụ” của chúng tôi, với sáu hay bảy máy bán hàng tự động. Một trong những máy này có thể làm bánh tráng bằng sóng viba.


Ngay từ đêm đầu tiên, tôi đã biết về báo chí đủ để hiểu rằng đó không phải là thế giới huyền ảo của Trang Nhất[3]. Chúng tôi không ở thành phố lớn. Chẳng ai đội mũ phớt mềm hay lén uống rượu giấu trong ngăn kéo bàn làm việc hoặc gào lên những câu kiểu như “viết lại đi, cưng”. Tờ Courier-News từng là một nơi như thế, đóng trụ sở ở trung tâm Plainfield, bang New Jersey, một thành phố sống giản dị bằng tiền lương từ nhà máy Mack Truck. Khi những người da đen ở đây nổi loạn vào năm 1967 và giết chết một cảnh sát da trắng thì tờ Courier-News bắt đầu lên kế hoạch chuyển ra ngoại ô.


Các phóng viên mà tôi quen biết trong những tuần sau đó dường như chẳng buồn quan tâm đến gì cả. Có một vị cổ lỗ tên Forrest thường trốn dưới gầm bàn mỗi khi bị phân công viết cáo phó. Một đồng nghiệp của ông, Maggie, đôi khi ngủ gật trên bàn đến nỗi làm rơi mái tóc giả. Phil, biên tập viên, thích nhai xì gà. Nhưng tôi không thể bỏ qua cả thế hệ họ vì trong đó còn có Jack Gill, một người theo chủ nghĩa hoài nghi rất lịch lãm, phụ trách khu vực Plainfield, và Hollis Burke, một người duy tâm từng phục vụ trong Peace Corp. Họ không chỉ có kinh nghiệm mà còn giàu tri thức.


Nhưng theo lẽ tự nhiên, tôi nghiêng về nhóm trẻ, những phóng viên và biên tập viên tuổi đôi mươi, được đào tạo bài bản và có tham vọng. Ann Devroy, biên tập viên trang đô thị, thường hút thuốc và ăn bánh sandwich kẹp thịt với phó mát trong khi nghiền ngẫm các bản thảo qua cặp kính phi công đã ngả màu. Sam Meddis, thuộc nhóm phóng viên điều tra, được nhận vào tòa soạn nhờ hàng đống thơ anh làm từ hồi còn chưa tốt nghiệp trường Rutgers. Về sau, Ann phụ trách Nhà Trắng cho tờ Washington Post, Sam thành phóng viên phóng sự ở USA Today; những người khác trong tòa soạn này thì “hạ cánh” xuống Baltimore Sun, Newsday, The New York Times. Nhưng vào mùa hè ấy, những đích đến này dường như xa xôi không tưởng.


Dù sao thì, ít nhất là với tôi, kiếm được những 130 đôla mỗi tuần là quá đủ. Tôi tham gia vào rất nhiều cuộc họp thị trấn – hội đồng thành phố, phòng giáo dục, ủy ban vùng – ngày nào tôi cũng gọi điện tới cả nửa tá sở cảnh sát để chuẩn bị mục tin vắn về tội phạm địa phương. Tôi đánh bạn với người giữ mục phê bình văn nghệ của tờ báo nên được ông nhường cho viết vài bài về các vở kịch mùa hè[4]. Tôi thích thú được là một phần trong cộng đồng phóng viên ấy, được chia sẻ với họ món ziti trong bữa tối trước khi tản về các ban riêng, nhận cuộc gọi cuối cùng từ Ambers trước khi lái xe về nhà. Những đêm oi bức ở Jersey ấy dường như không thể hấp dẫn hơn.


Đến cuối mùa hè, tôi được cử đi thay phóng viên phụ trách South Bound Brook, một thị trấn lao động quá đỗi yên bình ngay cả với những tiêu chuẩn dễ dãi nhất của chúng tôi. Có người gọi cho tôi báo tin, thông tin trung thực duy nhất trong suốt cả mùa hè ấy, là có một đống lổn nhổn khả nghi bên bờ con kênh đào trong địa phận thị trấn. Tôi lái xe tới đó, hình như vẫn mặc bộ đồ “lười”, và thấy đúng là có một đống đất bẩn cao chừng mười lăm feet. Khi xem xét kỹ hơn, tôi phát hiện nó được phủ một thứ gì đó trắng xốp. Thứ đó khiến tôi cảnh giác. Hãng sản xuất amiăng Johns Manville có nhà máy chính đóng cách đó chỉ vài dặm và hàng mấy trăm công nhân đã và đang làm việc cho họ mắc một chứng ung thư hiếm gặp do hít phải bụi. Tôi viết bài mở đầu về những phát hiện gây tò mò trên dòng kênh. Bài viết kéo được một chuyên gia từ cơ quan bảo vệ môi trường của bang tới kiểm tra thành phần chất bẩn. Đó chắc chắn là amiăng. Chuyện này thành tin thứ hai của tôi. Người chủ con kênh phản ứng bằng cách thuê một học sinh trung học kê tràng kỷ lên đỉnh đống đất và ngồi canh trên đó. Bài tiếp nối kèm theo một tấm ảnh trang nhất là bài thứ ba. Có đêm, khi tôi đi qua Forrest trong tòa soạn, ông thì thầm với tôi, “Amiăng. Cậu là người hùng. Phải, chính là cậu. Với cái thứ amiăng đó.” Tôi chẳng bao giờ biết được ông càu nhàu thế là có ý khen hay chê. Đến cuối tháng Tám, tôi nhận ra rằng tốt nhất là để cho Forrest viết về Bob Marley, đó là đam mê chưa thành hiện thực của ông.


Thật ra, không thể nói rằng tôi đã quyết làm nhà báo khi viết những bài về chất amiăng ấy, vì có thể tôi đã quyết chí từ lúc còn học lớp tám, khi xung phong làm tổng biên tập cho tờ báo trường. Nhưng có điều gì đó rất chắc chắn trong trải nghiệm ấy (viết bài về chất amiăng). Nó làm tôi cảm thấy, nghe có vẻ hơi nhàm, rằng công việc của tôi có thể có ích. Nó làm tôi cảm thấy mình thuộc về nhóm người như Jack Gill và Hollis Burke và Ann Devroy và Sam Meddis, và rằng tôi không phải kẻ theo đóm ăn tàn.


Ca trực cuối cùng mùa hè ấy kết thúc cũng như ca đầu tiên, tôi gọt giũa lại bài về chính quyền địa phương rồi đợi bài lên trang. Charlie Nutt, biên tập viên trực đêm, có lẽ chỉ hơn tôi bảy hay tám tuổi, nhưng có khuôn mặt cau có như người ở tuổi thất tuần. Không phóng viên nào được rời tòa soạn trước hai giờ ba mươi phút sáng trừ khi Charlie nói “chúc ngủ ngon”. Và anh ấy có vẻ rất khổ sở khi nói thế, cứ như thể về sớm vài phút sẽ là phạm tội lười biếng và làm hại tâm hồn chúng tôi vậy. Tôi thấy anh nói “chúc ngủ ngon” với giọng đều đều nghiêm nghị và không bao giờ rời mắt khỏi bất kỳ thứ gì đang biên tập. Chúng tôi sẽ chuồn vội ra như một lũ gián. Nhưng tôi thấy tiếc nuối khi nhận lời chúc ngủ ngon cuối cùng của mùa hè ấy, tiếc nuối vì điều gì đó thật nhiệm màu đã kết thúc.


Tôi kể cho bạn chuyện này vì chẳng hại gì khi bắt đầu từ đầu, và tôi kể vì bạn muốn tôi gợi ý, và bạn nên được biết ít nhiều về người đang khuyên bảo mình. Tôi không thể làm bạn chết khiếp với chuyện chiến tranh, kiểu như tránh đạn ra sao và tranh luận với tướng lĩnh thế nào, vì tôi chưa bao giờ đưa tin trận mạc cả. Tôi cũng không thể hù doạ bạn bằng tin mật từ Nhà Trắng, vì tôi chưa từng vào đó ngoài mục đích tham quan. Tôi đã viết các loạt bài điều tra về người nghèo, tham nhũng và lừa đảo ở Medicaid, nhưng tôi không thể tự giới thiệu mình là người chuyên phanh phui tiêu cực như Wayne Barrett hay Lowell Bergman. Dù viết báo hay viết sách, tôi đều dành phần lớn thời gian tìm hiểu những chủ đề vốn không được coi là khêu gợi hay hoành tráng – như văn hóa, tôn giáo, giáo dục, người nhập cư. Nếu được chọn, tôi sẽ luôn luôn muốn viết về những con người bình dị hơn là về ai đó có tiếng tăm. Và càng tiếp xúc với các đồng nghiệp làm báo, qua tiệc tùng hay ở tòa soạn, tôi lại càng cảm thấy mình có lỗi nếu bắt gặp ai đó trong số họ viết về cùng một đề tài với mình.


Theo cách riêng, tôi đã có được một sự nghiệp mà bạn cũng có thể có, hoặc ít nhất là loại sự nghiệp phổ biến trong nghề của chúng ta. Tôi đã chuyển từ một tờ báo nhỏ (Courier-News) tới một tờ báo cỡ vừa (Suburban Trib) rồi tới một tờ báo lớn (The New York Times), và tôi đã viết sáu cuốn sách, tính cả cuốn này. Tôi cũng đã giảng dạy báo chí ở Đại học Columbia từ mười lăm năm nay, còn học trò tôi đã tự viết được sách hoặc làm tin cho các cơ quan báo chí như National Public Radio, The New York Times, Los Angeles Times, NBC, Rolling Stone BusinessWeek.


Việc dạy học, bên cạnh việc làm báo, thúc đẩy tôi nghĩ về những điều cần có để trở thành nhà báo cũng như ý nghĩa của việc là một nhà báo. Trên giảng đường, và giờ đây là trong những trang viết này gửi tới bạn, tôi sẽ phải dùng ngôn ngữ giáo huấn. Khi mới nhận việc trợ giảng tại Đại học Columbia, tôi vẫn giữ quan điểm bất khả tri trong vấn đề có thể truyền dạy được nghề báo hay không[5]. Các lớp báo chí mà tôi theo học ở Đại học Wisconsin – trừ một vài ngoại lệ – hoàn toàn là lãng phí. Tờ báo trường, tờ Daily Cardinal, chính là lớp học của tôi, và kinh nghiệm là người thầy. Cố vấn tôi gặp trên đường làm báo chính là các biên tập viên và phóng viên kỳ cựu chứ không phải giảng viên ở bất kỳ khoa nào trong trường đại học. Dù vậy, tôi vẫn nói với những sinh viên đầu tiên của mình ở Columbia rằng trường học có sức mạnh thay đổi tư duy tôi, và nhà trường đã thực sự làm được điều đó. Tôi nhận ra mình có thể học được rất nhiều khi đối chiếu bài viết của sinh viên với phần biên tập của tôi. Tôi tin chắc rằng để tiến bộ thì lòng ham học hỏi và kỷ luật công việc nghiêm khắc quan trọng hơn rất nhiều so với năng khiếu.


Qua năm tháng, tôi cũng nhận ra một số yếu tố khiến đào tạo báo chí thất bại, đó là khi để cho một đám sinh viên sùng bái anh hùng đắm đuối với những câu chuyện chiến tranh của một ký giả ngôi sao. Tôi còn nhớ sinh viên học yếu nhất trong lớp đầu tiên của tôi ở Columbia đã hỏi liệu cậu ta có thể nghỉ một buổi học để đi nghe David Halberstam diễn thuyết hay không. “Nếu bạn đi nghe Halberstam,” tôi nói, “bạn sẽ không bao giờ trở thành Halberstam.” David Halberstam thật khởi nghiệp ở một tờ báo tại West Point, Mississippi, với lượng phát hành chỉ bốn ngàn bản. Nay, ở tuổi bảy mươi[6], ông vẫn làm việc năng nổ với hai bài phỏng vấn dài mỗi ngày dù đang nghiên cứu để viết sách. Còn về cậu sinh viên kia, người đã bỏ học đi nghe diễn thuyết, tôi không thể nói rằng đã từng nhìn thấy tên cậu ta đâu đó trên báo.


Tất nhiên là tôi không thể biên tập[7] bài vở cho bạn qua một cuốn sách như thế này, nhưng tôi hy vọng những điều tôi viết ở đây có thể giúp bạn tự biên tập bài mình tốt hơn. Cũng có những điều mà cuốn sách này không hề nhắm tới. Đây không phải là một cuốn sách giáo khoa hay lịch sử, hay công trình phê bình truyền thông dù các yếu tố của tất cả các loại sách ấy có thể xuất hiện lúc này hay lúc khác. Không một cuốn sách nào, dù là của tôi hay của bất kỳ ai khác, có thể chỉ dẫn cụ thể, chính xác từng tình huống cho phóng viên trẻ như một biên tập viên tài năng. Tôi đã có may mắn được làm việc với nhiều biên tập viên giỏi và tôi chúc bạn cũng có may mắn và cơ hội ấy.


Vậy, tôi có thể làm gì cho các bạn? Tôi hy vọng tôi có thể hướng dẫn bạn cách một nhà báo đối mặt với thế giới – với tư cách phóng viên, ký giả[8] và công dân. Tôi hy vọng truyền được cho bạn một số thói quen tư duy và tạo cảm hứng để phát triển cả kỷ luật làm việc cũng như tư cách đạo đức. Tôi đã dành hầu như toàn bộ sự nghiệp cho báo in nhưng những gì tôi có thể chia sẻ về nghiệp vụ, tính chính trực, lòng ham hiểu biết cùng sự quan tâm tới đời sống con người hoàn toàn có thể áp dụng được với những ai đang làm phát thanh, truyền hình hoặc báo điện tử. Và nếu như tôi nói với bạn về hội họa hoặc âm nhạc hay sân khấu, mà chắc chắn tôi sẽ nói, thì đó là vì tôi muốn giới thiệu với bạn những nghệ thuật có thể nâng tầm văn hóa và thậm chí cải thiện cuộc sống của bạn, nếu tôi có quyền mạnh miệng nói vậy. Những nhà báo giỏi nhất không bao giờ chỉ tập trung đọc hay xem hay nghe về báo chí; họ tìm kiếm hình mẫu và xúc tác từ văn chương, điện ảnh, nhạc jazz và mọi loại hình nghệ thuật tuyệt vời khác.


Tôi hình dung bạn là phóng viên báo trường như tôi ngày trước, là những sinh viên tôi đang dạy hiện nay, những phóng viên trẻ mà tôi làm việc cùng khi mới vào nghề. Tôi còn nhớ sự khát khao, ước vọng, sự nôn nóng và mong muốn tiến bộ. Tôi thích tài năng và tôi chỉ muốn dạy những người biết nỗ lực để trở nên xuất sắc. Đôi khi, tôi bực bội nói với các sinh viên, “Tôi trân trọng bài của các bạn. Câu hỏi là liệu các bạn có nghiêm túc với bài của mình hay không.” Tôi hứa sẽ khen ngợi các bài viết tốt. Tôi coi mình như một người đi trước chứ không phải cấp trên của bạn. Tôi xây dựng uy tín từ thất bại nhiều hơn là từ thành công. Tôi đã mắc tất cả các loại lỗi mà tôi sẽ cảnh báo bạn. Như một mục sư tôi quen biết từng nói với giáo đoàn của mình: “Nhà thờ không phải bảo tàng của bậc thánh thần mà là bệnh viện cho kẻ tội đồ.”


Vì vậy, tôi chào đón bạn. Tôi lấy làm vui sướng khi được bạn quan tâm. Cuối cùng, tôi muốn bạn tin, như tôi vẫn tin, rằng mình đã chọn một nghề có ảnh hưởng và có ích, một nghề không cần hối lỗi, một nghề có thể khiến bạn hạnh phúc.


Truyền thống cấp tiến


Tôi không có cách nào để nhận ra được điều ấy vào mùa hè năm 1975, nhưng văn hóa báo chí mà tôi đang hòa nhập khi đó qua đi rất nhanh. Máy chữ, hồ dán, máy điện báo, những người thợ in, phòng tư liệu đầy phong bì chứa bài cắt từ các báo, báo buổi chiều – với bạn, tất cả những thứ ấy đều xa lạ và cổ lỗ như thời đại Trang Nhất đối với tôi. Vài năm trước, khi tôi lái xe đưa gia đình về nhà sau bữa tối ngày Lễ Tạ ơn, con trai tôi cứ nhõng nhẽo đòi mua máy vi tính đời mới nhất (và đắt kinh khủng). Khi tôi từ chối, nó càu nhàu, “Bố già quá rồi, bố hết thời rồi.” Con gái tôi lại thích véo những thớ thịt nổi cộm ở cùi tay tôi. Tôi đã có tóc bạc và phải đeo kính hai tròng. Nhưng khi đánh máy, tôi nhìn đôi tay mình, gầy và đầy gân và mạch máu nổi rõ, như thể việc viết lách giữ chúng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, dù những bộ phận khác trong tôi đã già cỗi đến đâu.


Vì vậy, xin đừng kỳ vọng tôi bàn nhiều về xu hướng báo chí ngày nay. Tôi đã sống qua thời của băng tám rãnh, máy quay dùng băng beta và đĩa laser; tôi đã được nghe rằng không chung thủy giúp hôn nhân có thêm sức sống còn cocaine thì không gây nghiện. Việc chạy theo mốt được quá coi trọng khi nó không quá sai. Tôi thì quan tâm tới truyền thống. Vì tôi là sản phẩm của hai lò đào tạo giàu truyền thống: The New York Times và Trường Báo chí Columbia. Tôi không nói tới truyền thống theo nghĩa những phản ứng bắt chước, những công thức lặp đi lặp lại vô tận, càng không phải một lời ngụy biện cho thói lười biếng. Tôi nói về truyền thống như những gì bạn gặp trong các ca khúc của Muddy Waters hay Hank Williams, không nhất thiết phải là cái gì đó cổ xưa mà là những điều đáng trân trọng, đã được kiểm nghiệm, có sức sống bền bỉ và chân thật.


Hệ thống giá trị trong tư duy tôi – theo đó, một phóng viên là một người môi giới thông tin thật thà, cần mẫn đưa những tin tức đã được kiểm chứng và được viết ra không thiên vị, không vì lợi ích của đảng phái nào – là sản phẩm của thế kỷ trước, như Michael Schudson đã chỉ rõ trong tác phẩm không thể bỏ qua về lịch sử báo chí Mỹ, Discorvering the News. Nền báo chí Mỹ ban đầu là một ngành kinh doanh bị chính trị hóa quá mức và đầy định kiến, một kiểu blog và talk show[9] nhưng với công nghệ sơ khai. Bước tiến quan trọng của báo giới thời những năm 1900 là thực sự nhận thức được rằng công việc họ làm là để phục vụ cộng đồng, không bị quan điểm cá nhân ảnh hưởng chứ không giống như bào chữa. Họ đã tiến một bước căn bản khi tin rằng có thể vượt qua các định kiến của bản thân và điều chỉnh quản điểm cá nhân cho phù hợp với những thông tin thu được trong lúc đưa tin.


Khi tôi bắt đầu làm báo, những nguyên tắc này đã được thừa nhận từ vài thập kỷ và gần như đã trở thành chân lý không thể bị thách thức. Tôi cùng đám bạn học làm việc ở những tòa soạn theo đuổi lý tưởng khách quan nhưng về đến nhà thì lại đọc các tạp chí đang góp phần hình thành nền Báo Chí Mới[10], đầy đam mê, có tính cá nhân và phản biện – đó là Rolling Stone, Village Voice, New York trong thời hoàng kim của Clay Felker. Nỗ lực không mấy hiệu quả; chúng tôi phải tuân thủ các quy định về thẩm quyền, phỏng vấn người ở cả hai phía (đồng tình và phản đối vấn đề), và cố nhớ chữ viết tắt tên đệm của họ. Đôi khi, dường như chúng tôi tin rằng nếu mình không nói thì độc giả chẳng biết gì cả. Ở tờ Suburban Trib, những người biên tập ngôn ngữ[11] có lệ thêm vào bài định nghĩa của mọi thuật ngữ mà họ cho là đặc biệt hoặc không thông dụng. Hitler được chú thích là “tên độc tài khét tiếng thời Đệ Nhị Thế chiến” để mọi người hiểu rõ. Còn Đạo Hồi là “tôn giáo của người Hồi giáo”[12].


Nhưng ngày nay, nếu chỉ so sánh với chủ nghĩa hoài nghi và tính chất dễ bị mua chuộc thì truyền thống của nghề báo mang đậm tính đột phá. Như tác giả (và cũng là chủ nhiệm khoa ở Columbia) Nicholas Lemann chỉ ra, báo chí chính luận chưa bao giờ có tầm quan trọng lớn hơn đối với truyền thông đại chúng. Giữa blog, talk-radio và thế giới rộng lớn của Internet và truyền hình cáp, chẳng ai cần đối mặt với một thực tế hay phân tích nào đó để phủ nhận niềm tin mà mình hằng ấp ủ. Tôi nghe nói có những người xem kênh Fox News nhiều đến mức logo của hãng này in luôn lên màn hình TV của họ[13]. Thay vì để mọi người tự do nêu ý kiến như ở ngoài chợ, chúng ta có các kênh phát ngôn riêng. Rush Limbaugh một kênh và Air America một kênh khác. Nền báo chí được định hình qua việc sàng lọc một cách trung thực các sự kiện thời sự và những chuyện hài hước của cánh Tả và cánh Hữu. Họ còn tạo ra chữ viết tắt MSM cho từ mainstream media. Với khẩu hiệu “công bằng và cân bằng”, Fox đã biến những phẩm chất chính yếu trong nghề nghiệp của chúng ta thành trò đùa.


Còn câu đùa cay đắng của riêng tôi là tôi vẫn nhớ thời tờ New York Post còn đăng những bài phi hư cấu. Ý tôi là tôi nhớ về tờ báo trước khi nó bị Rupert Murdoch mua lại. Về cơ bản, tôi không tin vào Thuyết Vĩ nhân Lịch sử, nhưng trong trường hợp Murdoch, tài năng độc đoán của ông ta đã lây nhiễm những căn bệnh nguy hiểm nhất sang nền báo chí đương đại Mỹ. Ông ta biến tờ Post nghiêm túc và can đảm thành mớ giấy lộn giật gân nhảm nhí, tạo ra thể loại truyền hình “khổ nhỏ”[14] với các chương trình như Current Affair và cấp vốn cho kênh Fox News, một phong trào chính trị đội lốt cơ quan báo chí. Không có một cá nhân nào phải chịu trách nhiệm nhiều hơn Murdoch về việc làm suy đồi nghề nghiệp tôi theo đuổi và trân trọng. Và dù Murdoch có là kẻ mị dân thuộc cánh Tả chứ không phải cánh Hữu thì tôi cũng không thấy có gì khác. Chắc chắn là sẽ vẫn có đủ ý kiến phản đối của độc giả và chuyên gia từ phía đối lập.


Tôi tin rằng bạn sẽ tham gia trận chiến này. Tôi hiểu bạn còn quá trẻ để nhớ được báo chí khi nó chưa trở nên thảm hại như hiện nay. Hãy để tôi ví dụ cho bạn thấy báo chí đã từng ra sao và có thể trở lại như thế bằng cách nào, ít nhất là khi bạn làm báo. Phát thanh và truyền hình từng tuân thủ một đạo luật liên bang, được biết đến với tên “thuyết công bằng”. Về cơ bản, luật này quy định rằng Chính phủ đòi hỏi họ phải nỗ lực với thiện ý nhằm đảm bảo cân bằng chính trị trong các chương trình. Đổi lại, họ được phát sóng miễn phí[15]. Các đài cũng phải dành một tỷ lệ nhất định trong thời lượng phát sóng mỗi ngày cho các chương trình dịch vụ công. Một số chương trình có vẻ nghiêm túc; vài chương trình – tôi phải thừa nhận – thì quá nực cười. Lúc giới thiệu hai cuốn sách đầu, tôi phải ghi âm theo chương trình công của các đài chuyên phát nhạc rock-and-roll. Họ sẽ phát chúng vào một giờ trống[16] nào đó, chẳng hạn như sáu giờ sáng Chủ nhật.


Nhưng dù có thiếu sót gì đi nữa thì “thuyết công bằng” và toàn bộ tính nhạy cảm báo chí mà nó đại diện vẫn tốt hơn nhiều những gì đã thay thế nó. Khi “thuyết công bằng” bị Ủy ban Truyền thông Liên bang bãi bỏ năm 1987 và yêu cầu phát chương trình công không còn được củng cố trong xu thế giảm dần các quy định, một lượng lớn đài phát thanh thương mại biến thành công cụ vận động tranh cử và tuyên truyền của Đảng Cộng hòa. Không còn tồn tại tiếng nói nào khác, trừ một vài người đồng dẫn chương trình có tư tưởng tự do nhưng chỉ có tác dụng làm “bao cát” cho khán giả trút giận. (Và tôi không mấy nghi ngờ rằng nhiều đảng viên Dân chủ ước sao họ cũng phát hiện ra công thức này.)


Vì thế, thật là liều lĩnh khi tin – như tôi vẫn tin – rằng báo chí phải làm được nhiều hơn là thỏa mãn những định kiến. Cũng là liều lĩnh khi để cho thái độ và hành vi của bản thân đi ngược lại thực tế bất lợi. Và càng liều lĩnh hơn khi chấp nhận trách nhiệm nghề nghiệp, chứng minh bản thân bằng chính năng lực của mình, rằng làm báo không chỉ là mở một trang web để nói “tôi là nhà báo đấy”.


Chúng ta sẽ bàn kỹ hơn về những vấn đề này sau, tôi xin cam đoan như vậy, còn lúc này, tôi chỉ muốn khuyên bạn rằng truyền thống là điều đáng để các bạn rèn luyện. Tôi không có ý nói mọi nhà báo đều nên làm việc cho các cơ quan [báo chí] chính thống. Dù sao thì trong sự nghiệp, tôi cũng đã viết nhiều bình luận và pha trộn vào sách của mình chất chủ quan vốn bị cấm đối với tin tức trên nhật báo[17]. Nhưng tôi có ý rằng truyền thống là nền tảng không thể thay thế; truyền thống là điểm khởi đầu. Tôi nghĩ khi nhìn ra ngoài cửa sổ, chúng ta sẽ học được nhiều hơn là khi nhìn vào trong gương; ta sẽ học được bằng cách lắng nghe người khác nhiều hơn là bằng cách nói với chính mình. Như một cựu đồng nghiệp của tôi ở Columbia – một biên tập viên nổi tiếng hà tiện, người có một cây roi da dài treo trên tường văn phòng và mang cái tên rất hợp là Dick Blood – từng nói với sinh viên của mình, “Đấy gọi là đưa tin. Lúc nào đó các bạn nên thử xem sao.”


Tình trạng nền báo chí của chúng ta


Tôi ước gì có thể nói với bạn rằng bạn đang bước vào một thế giới sẽ chào đón, tôn trọng và yêu quý bạn. Tôi ước gì có thể kể với bạn về những nhà báo được tôn vinh anh hùng như họ đã từng là khi tôi bước vào đại học năm 1973. Bob Woodward và Carl Bernstein, Tom Wolfe và Seymour Hersh – họ làm cho nghề báo không chỉ có vẻ dũng cảm mà còn thú vị nữa. Tôi và đám bạn trong ký túc xá phải tranh giành những số báo New Times mới, tờ tạp chí đã phanh phui trường hợp Karen Silkwood và nhiều vấn đề khác. Không một người bạn nào của tôi theo học ngành kinh tế cả.


Sáng hôm qua, ngay trước khi bắt đầu viết cho bạn, tôi đang lướt qua tờ Times thì thấy dòng tít “Điều tra cho thấy phần lớn công chúng không hài lòng với các phương tiện truyền thông đại chúng”. Bài báo thông tin kết quả mới nhất của một chùm nghiên cứu về sự thất vọng trong công chúng đối với các phương tiện truyền thông. Nghiên cứu này do Trung tâm Nghiên cứu Con người và Báo chí Pew thực hiện và họ thấy rằng sự phân chia ra các bang-đỏ và bang-xanh đang lan sang cả quan điểm báo chí. Hơn bốn mươi phần trăm người ủng hộ Đảng Cộng hòa tham gia điều tra của Pew nói rằng các hãng tin đang làm tổn hại nền dân chủ; trong khi đó, năm mươi tư phần trăm người ủng hộ Đảng Dân chủ nói rằng truyền thông quá nhẹ nhàng với Tổng thống Bush.


Phát hiện này được công bố chỉ vài tháng sau một báo cáo còn chấn động hơn, Trends 2005, vốn cũng dựa trên điều tra của Pew. Điều tra đó phát hiện ra rằng một nửa số người được hỏi nói họ “ít tin hoặc hoàn toàn không tin vào nhật báo mình đọc” – con số này vào năm 1985 chỉ là mười sáu phần trăm. Niềm tin của công chúng dành cho báo chí, vốn đạt khoảng tám mươi lăm phần trăm vào năm 1973, đã tụt xuống dưới sáu mươi phần trăm chỉ trong một thập kỷ qua. Phần đông người được hỏi cho rằng báo chí không thể nói thẳng ra sự thật và lại còn thiên vị về chính trị.


Bước vào nghề báo dưới thời Nixon, khi mà rất nhiều nhà báo có tên trong danh sách kẻ thù chính thức của Nhà Trắng, tôi đã quen với mối quan hệ thù địch giữa Chính phủ với truyền thông. Nhưng cũng chẳng có gì là lạ khi nhà cầm quyền cố gắng định hướng tin tức theo ý mình. Franklin D. Roosevelt bị buộc tội “tung hứng” từ trước khi có người dùng từ này để chỉ việc thao túng truyền thông. John F. Kennedy tác động tới bạn bè làm báo để họ ỉm các bài về cuộc tấn công Vịnh Con Lợn. Nhưng trước thời Bush, tôi chưa bao giờ thấy chính quyền chủ động tìm cách phá hoại nghề báo – bằng cách thuê các nhà báo “dỏm” như Armstrong Williams đăng hàng loạt bài ca ngợi chính sách của Bush; bằng cách tuyển những gã lừa đảo như Jeff Gannon vào bộ phận phụ trách báo chí của Nhà Trắng để đặt câu hỏi tung hứng trong các buổi họp báo của Tổng thống; hoặc bằng cách quản lý các đài truyền hình công cộng và tìm cách làm điều tương tự với phát thanh. Một cuộc điều tra của bồi thẩm đoàn liên bang về rò rỉ thông tin ở CIA dẫn tới việc phóng viên của tờ New York Times, Judith Miller, bị bỏ tù vì không chịu tiết lộ danh tính nguồn tin, và còn rắc rối hơn nữa là việc tạp chí Time thỏa hiệp khi phóng viên Matt Cooper của họ bị đòi ra làm chứng trước bồi thẩm đoàn.


Cuối cùng thì Miller cũng khai báo với tòa khi được nguồn tin đồng ý – đó là phụ tá Phó Tổng thống Lewis Libby. Libby nay đã bị buộc tội khai man và một số tội khác; phiên tòa xử ông này hẳn sẽ có nhiều nhà báo ra làm chứng để truy tố một nguồn tin chính phủ, và như vậy là từ bỏ lời hứa bảo vệ nguồn tin. Những sự kiện này tạo ra điều gì đó thật bất thường, căng thẳng, các quyền lực hợp pháp xung đột với nhau, giữa Washington với đẳng cấp thứ tư[18]. Không khí nghi ngờ sẽ còn tiếp tục làm cho công việc của bạn thêm thách thức rất lâu sau khi mọi người – trừ những ai mê chuyện tầm phào – không còn nhớ nổi tên các nhân vật liên quan.


Hãy đối mặt với sự thật rằng nhà báo chúng ta có đủ lý do để bi quan. Tình trạng của chúng ta hiện nay ít nhất cũng là một phần kết quả của đất nước chúng ta đang sống. Dan Rather rời CBS để về hưu trong tủi hổ sau khi một phần của chương trình 60 Minutes – nói về thành tích chói sáng của George W. Bush khi tham gia lực lượng Vệ binh Quốc gia trong chiến tranh Việt Nam – bị phát hiện là dựa trên các tài liệu giả. Tạp chí Newsweek  đã rút lại một bài báo nói các nhân viên thẩm vấn Mỹ tại nhà tù Vịnh Guantanamo vứt tập bản sao kinh Koran[19] xuống toilet để làm nhục tù binh Hồi Ggiáo. Sai lầm này được chính quyền Bush tận dụng triệt để nhằm làm xói mòn nỗ lực đưa tin về hành vi ngược đãi tù nhân của sĩ quan Mỹ ở nhà tù này. Những năm gần đây đã chứng kiến nhiều phóng viên có tiếng bị buộc tội đạo văn và bịa đặt như vụ Jayson Blair và Michael Finkel của The New York Times, Jack Kelly của USA Today, Ruth Shalit và Stephen Glass của New Republic, Mike Barnicle và Patricia Williams của Boston Global và David Brock của American Spectator.


Trong khi các cơ quan báo chí liên quan mải tự hỏi họ đã phạm sai lầm gì thì bản thân các thủ phạm lại biến tội lỗi của họ thành một bước chuyển khủng khiếp về sự nghiệp. Janet Cooke của tờ Washington Post bị tước giải Pulitzer hai mươi lăm năm trước vì đã “tưởng tượng” ra bài phóng sự đoạt giải về một cậu bé tám tuổi nghiện heroin. Khi ấy, chị ta ít nhất cũng còn biết điều mà rút lui, chuyển sang làm nhân viên bán hàng cho một siêu thị. Nhiều kẻ đạo văn và bịa đặt thế hệ sau này lại kiếm được hợp đồng xuất bản sách tới sáu chữ số. Glass thì được đưa lên phim. Brock thành con cưng của cánh Tả nhờ phủ nhận các bài công kích theo quan điểm cánh Hữu của chính mình nhắm vào Anita Hill và Bill Clinton. Cá nhân tôi thì thấy có lý do chính đáng để chặt tay tất cả bọn họ.


Công chúng có vai trò riêng dù vai trò ấy đang mờ nhạt dần. Từ những chỉ trích đang lan rộng nhắm vào giới truyền thông trong các điều tra của Pew, bạn có thể nghĩ rằng khán giả và độc giả đang khao khát và ước ao một nền báo chí hạng nhất. Bạn có lẽ sẽ muốn đọc một bài của Michael Winerip đăng trên Tạp chí The New York Times mang tên “Looking for an 11 O’clock Fix”, hoặc thuê bộ phim tài liệu của David Van Taylor mang tên “Local News”. Từ Orlando (trong bài của Winerip) tới Charlotte (trong phim của Van Taylor), họ chỉ kể cùng một câu chuyện. Một đài truyền hình địa phương trong cuộc cạnh tranh gay gắt quyết định từ bỏ chương trình tội phạm ăn khách – mà như một châm ngôn trong ngành truyền hình là “cứ có máu sẽ có khách” – và thay bằng loại chương trình nghiêm túc, có cảm xúc, hướng tới các vấn đề mà công chúng lúc nào cũng nói là họ muốn xem. Kết quả là số người xem giảm mạnh ở cả hai thành phố.


Chúng ta đang sống trong thời đại mà trình độ chuyên môn thì bị gièm pha còn phẩm chất chuyên môn thì bị nghi ngờ. Hầu như chẳng ai còn nhớ rằng thuật ngữ “quan liêu” ban đầu là một lời khen, nói về những công chức được tuyển dụng vì có năng lực chứ không vì quan hệ chính trị. Trong những năm qua, nhờ viết bài cho mục Giáo dục của tờ Times hàng tuần mà tôi đã nhận ra rằng một trong những phẩm chất hàng đầu của hiệu trưởng hay chủ tịch hội đồng quản trị một trường lớn là chưa hề có kinh nghiệm quản lý lớp học. Vì thế, tôi không ngạc nhiên, và bạn cũng không nên ngạc nhiên, khi thấy rằng các cơ quan truyền thông chuyên nghiệp, có kinh nghiệm và đội ngũ được đào tạo bài bản bị chê là kém thân thiện và hung hăng. Khi chúng ta kém thân thiện và hung hăng thì chúng ta đáng bị chê trách. Khi chúng ta làm tốt việc của mình với chất lượng hơn hẳn những người nghiệp dư hay những người chỉ làm việc theo sở thích thì không cần phải hối lỗi vì tài năng của mình.


Không phải tôi dọa bạn. Tôi chỉ hy vọng bạn có chút cảm hứng với thử thách. Thời tôi ở tuổi bạn, đặc thù nghề báo đã thu hút rất nhiều người ưa trưng diện. Điều bạn có thể nói về sự thất sủng của báo chí hiện nay là nó đã loại bỏ tất cả những ai không có đam mê. Nếu bạn thực sự tin rằng báo chí là công việc của đời mình thì không ai và không điều gì có thể lay chuyển được bạn. Thậm chí ngay trong những ngày đen tối nhất, bạn sẽ vẫn thấy dấu hiệu phát triển – NPR lớn mạnh đáng kinh ngạc, SalonSlate lên mạng Internet, USA Today vốn lá cải trở nên nghiêm túc và thành công trên cả nước, truyền hình cáp phát sóng hai mươi tư giờ từ thành thị đến thôn quê.


Vậy, đừng nghĩ nghề báo sẽ lụi tàn. Hệ thống phát hành có thể chuyển từ giấy sang máy tính, phóng viên có thể được đổi tên thành “nhà cung cấp nội dung”. Các ấn phẩm từng được yêu thích và tôn sùng có thể biến mất khi hàng loạt chương trình truyền hình thực tế phát triển mạnh mẽ. Nhưng lòng ham hiểu biết, những khảo cứu mạch lạc, những phân tích sắc sảo và văn chương thanh nhã sẽ không bao giờ lỗi mốt. Có chăng thì chỉ là khi nguồn cung hạn chế thì những phẩm chất ấy lại càng thêm giá trị.


Nhiều năm trước, khi viết cuốn sách về người Mỹ gốc Do Thái, tôi tìm được một tiểu luận chỉ trích người Do Thái vì họ lúc nào cũng lo bị tuyệt chủng; nó được đặt tên một cách gượng gạo là “The Ever-dying People”. Trong suốt những năm làm phóng viên của Times, tôi theo dõi Broadway, những nhà hát mà trong nhiều thập kỷ cứ nghĩ rằng mình sắp sập tiệm đến nơi và được gán cho biệt danh “Người bệnh hoang tưởng”[20]. Một trong những vở diễn hay thời tôi còn phụ trách – vở “A Chorus Line”, có một cảnh gây xúc động mà có thể bạn sẽ thích. Một vũ nữ tên là Bebe vừa được phân vai trong vở diễn và lẽ tự nhiên là cô thấy hân hoan. Tuy nhiên, những thành viên còn lại trong dàn hợp xướng đều phàn nàn rằng “nghề vũ công không có gì đảm bảo”, “không có thăng tiến và phát triển”, “không còn việc mà làm nữa”. Bebe gào lên phản ứng lại, “Tôi không muốn nghe chuyện Broadway đang chết dần ra sao. Bởi vì tôi đã đến được đây”.


(Còn tiếp 5 kì)


Dịch theo bản gốc tiếng Anh Letters to a Young Journalist (Art of Mentoring) của Samuel G. Freedman, Basic Books, New York, 2005. Bản tiếng Việt của Lưu Quang đăng trên pro&contra không phục vụ mục đích thương mại.




[1] Bản dịch này sẽ giữ nguyên dạng tiếng Anh những từ ngữ và khái niệm không có trong tiếng Việt.




[2] Tác giả có ý nói mình dùng từ hoa mỹ nên chúng tôi giữ nguyên văn tiếng Anh để độc giả tiện theo dõi.




[3] Ám chỉ môi trường báo chí cạnh tranh gay gắt, đôi khi bất chấp thủ đoạn nhưng cũng vô cùng sôi nổi – đây vốn là tên một vở hài kịch nổi tiếng của hai phóng viên ở Chicago là Ben Hecht và Charles MacArthur; vở kịch được trình diễn lần đầu năm 1928.




[4] Ở miền Đông Bắc nước Mỹ trước đây có khá nhiều đoàn kịch chỉ công diễn vào mùa hè (thường từ tháng Bảy tới tháng Mười) để tận dụng sân khấu và phục trang của các đoàn kịch lớn. Diễn viên trong các đoàn này thường là trẻ tuổi, mới bắt đầu nghề diễn. Ở đây, tác giả có ý nói mình được giao công việc không quan trọng.




[5] Tác giả cố tình diễn đạt cầu kỳ vì ở trên đã nói sẽ dùng ngôn ngữ giáo huấn – chúng tôi giữ nguyên lối diễn đạt này.




[6] Khi tác giả viết cuốn sách này thì Halberstam vẫn còn sống.




[7] Nguyên tác dùng từ line-editor, nghĩa là biên tập dòng – công nghệ máy tính thời kỳ đầu chỉ cho phép người ta sửa chữa từng dòng một, thay vì biên tập toàn bộ văn bản cùng lúc.




[8] Tác giả dùng hai từ reporter writer để phân biệt người đưa tin (news) với người viết phóng sự (features).




[9] Chương trình truyền hình mà trong đó một nhân vật nổi tiếng trả lời trực tiếp các câu hỏi của khán giả hoặc của người dẫn, còn được gọi là Chat show ở một số nước.




[10] Phong cách nổi lên ở Mỹ trong thập niên 1960-1970, sử dụng các thủ pháp văn học vào tác phẩm báo chí, được gọi theo tên tuyển tập các tác phẩm của một số nhà báo danh tiếng đương thời như Tom Wolfe, Truman Capote,…




[11] Nguyên văn: Copy editor




[12] Trong tiếng Anh, Hồi giáo là Islam nhưng người theo đạo Hồi lại được gọi là Muslim.




[13] Trong TV sử dụng công nghệ LCD, các điểm ảnh (pixel) sẽ mở hoặc đóng khi có ánh sáng đi qua để tạo ra hình ảnh. Nhưng công nghệ này có nhược điểm là các điểm ảnh có thể bị “chai” hoặc “chết”, tức là luôn luôn ở trạng thái đóng hoặc mở. Nếu một người chỉ xem chương trình của Fox News thì màn hình sẽ liên tục hiển thị logo của kênh này và các điểm ảnh ở vị trí logo chỉ hiện thị một màu trong thời gian rất dài rồi dần dần bị “chai”, đến khi chuyển sang kênh khác thì các điểm ảnh ấy không hoạt động bình thường nữa, tạo ra một cái bóng logo của Fox News trên màn hình. Ở đây tác giả chỉ có ý ám chỉ rằng có những người mê một kênh truyền hình nào đó quá mức.




[14] Ý nói nội dung lá cải vì các báo lá cải đều in khổ nhỏ.




[15] Các đài phát thanh và truyền hình (mà phần lớn thuộc sở hữu tư nhân) không phải trả tiền thuê các kênh sóng (thuộc sở hữu quốc gia).




[16] Nguyên tác dùng từ black hole, có nghĩa là “lỗ đen”, ám chỉ giờ không có ai nghe đài.




[17] Tác giả dùng từ “chính thống” để chỉ các cơ quan báo chí theo đuổi tính khách quan.




[18] Một cách gọi đùa báo giới. Nguồn gốc thuật ngữ này vẫn chưa thống nhất nhưng nó thường được cho là do Edmund Burke, một nghị sĩ Anh gốc Ireland, sáng tạo vào năm 1787 và dùng lần đầu trong một bài diễn thuyết trước Nghị viện Anh. Nó bắt nguồn từ hệ thống đẳng cấp của Vương quốc Anh, gồm Tăng lữ (Lord Spiritual), Quý tộc (Lord Temporal) và Thứ dân (Commons). Ở Mỹ, người ta dùng thuật ngữ này với hàm ý báo chí là một lực lượng độc lập với chính quyền – báo giới là một đẳng cấp riêng.




[19] Còn được viết là Qu’ran, kinh của Hồi giáo – bản dịch giữ nguyên cách viết của tác giả.




[20] Nguyên văn: Fabulous Invalid

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 18, 2014 11:00

December 16, 2014

Nghĩ gọn về Anh Ba Sàm

Phạm Hồng Sơn


Theo một nguồn khả tín, Tướng Tô Lâm, một ngôi sao đang lên nhanh của Bộ Công an, đồng môn thuở C500 của Anh Ba Sàm, từng gặp trực tiếp Anh Ba Sàm để khuyên nhủ. Nhưng, Anh Ba Sàm, cho đến khi bị bắt, hẳn chưa một ngày rời  Ba Sàm. Có lẽ chỉ có những người đã ấp ủ, trăn trở và rất tha thiết với Tự do hơn tất cả mọi thứ mới có ứng xử như Anh Ba Sàm đã thể hiện: tiếp tục tình bạn nhưng “anh đường anh tôi đường tôi” dù “anh” đã dốc bầu tâm giao và dù “anh” là một chỉ huy quyền uy của lực lượng chuyên chính hiện hành. Chắc chắn tâm giao đó, khuyên nhủ đó phải được hiểu theo hai mặt, là những cam kết, hứa hẹn, tưởng thưởng, viễn cảnh không nhỏ về vật chất và ở mặt kia là một đe dọa của thì tương lai gần cùng những tương lai xa hơn đầy tai ương, uy hiếp.


Chắc chắn nhiều người đã từng hoài nghi, nghi ngờ Anh Ba Sàm. Việc bắt Anh Ba Sàm đã làm chỉ số tín nhiệm và tin tưởng nơi anh tăng vọt, nhưng, tôi tin, sự thận trọng, nghi ngờ chưa hẳn đã hết. Song, tôi cũng tin những người khó tính nhất, thận trọng nhất phải thừa nhận bản kết toán về truyền thông do Anh Ba Sàm tạo ra có số dư dương rất lớn thuộc về khai trí giúp nhận chân lịch sử, xóa đi những ảo tưởng về lãnh tụ, xua đi những huyễn hoặc về chính trị nhằm “phá vòng nô lệ” cả Tàu và ta. Càng thấy giá trị và ấn tượng ghê gớm nếu ta lại đặt số dư đó ở giữa hai vật, một bên là tấm thẻ Đảng đỏ thẫm của một cố Ủy viên Trung ương, cựu đại sứ tại Liên Xô (cái nôi của toàn trị cộng sản) còn bên kia là bộ quân phục sĩ quan an ninh màu cỏ tối đã bạc. Nhưng hình ảnh này không còn thuộc riêng cá nhân và gia đình Anh Ba Sàm nữa, nó đã thành một biểu tượng chung cho đặc tính hấp dẫn, khơi gợi thiện tính trong con người của Dân chủ Tự do. Bất kỳ hốc tối, khoảng băng giá nào của xã hội cũng có thể sẽ bén hoặc bắt tia lửa Dân chủ.


Xem thế, những hoài nghi, nghi kị đã và đang tồn tại có điều gì đó thật nhẫn tâm. Nhưng tình trạng lòng người hoang mang, chao đảo như vậy không phải là điều mới hay là trường hợp đầu tiên. Cách đây chừng 15 năm, khi ấy các “nhà hoạt động” còn hiếm hơn “lá mùa Thu”, bản thân tôi, người có ít kinh nghiệm, đã chứng kiến ít nhất một trường hợp tương tự. Tình trạng mù mờ, hoài nghi xót xa và không dễ chia sẻ, không thể lý giải được ngay một cách thấu đáo như thế vừa là hệ quả tất yếu vừa là một bi kịch không chỉ của đương sự, nghề nghiệp cá nhân, lịch sử gia đình mà còn là của lịch sử một dân tộc đã phải chịu nhiều tráo trở, là hệ lụy rất khó rời ngay được của một xã hội đã phải vượt thoát, sống còn bằng luồn lách với gần như mọi thủ đoạn trên nửa thế kỷ. Nhưng đó cũng là thách thức, là thử thách đối với tất cả những người muốn tiến bộ. Mọi sự nghi ngờ theo năm tháng dai dẳng đến đâu cuối cùng chỉ làm tăng thêm giá trị, niềm tin, ngưỡng phục, phẩm hạnh cho cái thật, dĩ nhiên chỉ khi cái thật đó không bải hoải, không bị giết chết bởi nghi ngờ.


Những chi tiết trình bày như thế không thể tránh được hệ quả gợi lên trong tâm trí nhiều người về nỗi cô đơn, lẻ loi của Anh Ba Sàm. Tuy nhiên, dù chúng ta không thích, đó vẫn là một thực tế hiển hiện của thân phận những người tranh đấu cho nhân quyền, tự do, dân chủ tại Việt Nam từ nhiều thập niên qua cho tới tận hôm nay, dù đã có những cải thiện. Đã có nhiều trăm người ký tên thật vào các thỉnh nguyện đòi trả tự do cho Anh Ba Sàm (và nhiều người khác) – một vượt bực so với chỉ 5 năm trước. Nhưng đã có bao nhiêu người có hành động mang tính rời xa thực sự cái Đảng, cái chính thể đang trấn áp Anh Ba Sàm (cùng nhiều người khác), như trả thẻ Đảng, bỏ ngành công an, tuyên bố rời những chức vị chẳng danh giá cho lắm, v.v., vì Anh Ba Sàm? Hiện thực này khiến tôi không thể không liên tưởng tới một hoạt cảnh múa đôi:


Bên này, nhà độc tài ngày càng phát ra những ngôn từ, những động tác, hình thái mới gần hơn với dân chủ nhưng quyết không để cái gì làm tổn hại tới các thiết chế độc tài, bên kia, người bị trị cũng ngày càng xướng ra những phát ngôn ủng hộ dân chủ, biểu tỏ phản đối trấn áp tự do nhưng cũng quyết không làm điều gì tổn hại tới danh vị, đặc quyền bản thân do độc tài ban phát.


Song, nói như thế không có nghĩa cố tình không biết đến những tấm lòng thơm thảo, những con tim đang trăn trở, nhức nhối, những chuyển động âm thầm trong lòng người. Nhưng nếu trung thực và mạnh dạn, chúng ta phải thấy rằng độc tài từ bao năm qua luôn đưa tay ghìm bớt tiếng cười khi liếc mắt nhìn những thỉnh nguyện có những lập luận rằng “người ấy” là “người yêu nước”, “không vi phạm pháp luật”, “không phải bất đồng chính kiến”, “không muốn làm anh hùng”, “đang đầy bệnh tật”, “rất ôn hòa”, “vì sự thật”, “đã có công với Đảng”, “thuộc gia đình cách mạng”, “chỉ vì lợi ích của Đảng” v.v.


Tuy nhiên, chúng ta cũng nên nhớ cái sự “một mình” (alone), chứ không phải “cô đơn” (lonely), luôn là một thuộc tính bất biến của mọi khai phá, sáng tạo.


Tôi đã từng có lần yếu đuối rất đáng trách thốt ra lời “Thương anh” với người vì tự do mà bị lao tù. Nhưng nghĩ thêm, đối với những người bị lâm nạn vì đã khát khao tự do thực sự, cái “tình thương” đó không phải là điều họ cần nhất.


(Bảy tháng và 11 ngày sau khi Anh Ba Sàm cùng đồng sự bị bắt. Cuối ngày thứ Mười, ngày đã hết lệnh tạm giữ – tối đa 09 ngày – phải chuyển sang lệnh tạm giam,tức có “khởi tố”- thủ tục tố tụng tối thiểu để giam giữ lâu dài và đưa đến các thủ tục khác: truy tố, xử án, kết án – sau khi nhà văn Nguyễn Quang Lập, chủ blog Quê Choa bị bắt.)


© 2014 Phạm Hồng Sơn & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 16, 2014 08:07

December 14, 2014

Chủ tịch hoàng đế Trung Hoa: Tập Cận Bình thắt chặt quyền kiểm soát

Elizabeth C. Economy


Trần Ngọc Cư dịch


Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra một viễn kiến đơn giản nhưng quyết liệt: phục hưng nước Trung Hoa. Đó là tiếng gọi thúc đẩy hành động yêu nước, lấy cảm hứng từ quá khứ vàng son của các đế chế Trung Hoa và các lý tưởng xã hội chủ nghĩa hiện tại để củng cố sự đoàn kết chính trị trong nước và tăng cường ảnh hưởng ở nước ngoài. Chỉ sau hai năm tại chức, Tập đã tiến lên phía trước như một lãnh đạo có khả năng thay đổi đất nước, theo đuổi một nghị trình để cải tổ, nếu không muốn nói cách mạng hóa, các quan hệ chính trị và kinh tế không những trong nước mà còn với phần còn lại của thế giới.


Bệ đỡ cho viễn kiến của Tập là một ý thức ngày càng trở nên bức thiết về tình trạng khẩn cấp. Tập tiếp nhận quyền lực vào một thời điểm mà Trung Quốc mặc dù thành công về kinh tế, nhưng bấp bênh về chính trị. Đảng Cộng sản Trung Quốc, bị băng hoại do tham nhũng và thiếu hẳn một ý thức hệ hấp dẫn, đã mất uy tín trước dân chúng, trong khi bất ổn xã hội ngày một lan rộng. Kinh tế Trung Quốc, dù vẫn còn tăng trưởng ở một tốc độ đầy ấn tượng, nhưng bắt đầu để lộ những dấu hiệu căng thẳng và bấp bênh. Còn trên mặt trận quốc tế, mặc dù với địa vị của một cường quốc kinh tế toàn cầu, Trung Quốc không có những thành tích lớn. Bắc Kinh không đáp ứng có hiệu quả các cuộc khủng hoảng tại Libya và Syria và đã đứng bên lề khi các biến chuyển chính trị làm rúng động hai trong những đối tác thân cận nhất của mình, Myanmar (còn gọi là Miến Điện) và Bắc Hàn. Đối với nhiều nhà quan sát, hình như Trung Quốc không có một chiến lược đối ngoại bao quát toàn diện nào cả.


Tập đã phản ứng lại ý thức vô vọng này bằng một cuộc chiếm đoạt quyền hành – cho bản thân, cho Đảng Cộng sản, và cho Trung Quốc. Ông từ bỏ truyền thống lãnh đạo tập thể của Đảng Cộng sản và thay vào đó tự khẳng định mình như một lãnh đạo tối cao trong một hệ thống chính trị trung ương tập quyền chặt chẽ. Ở trong nước, những cải tổ kinh tế do ông đưa ra sẽ nâng cao vai trò của thị trường, tuy nhiên chúng vẫn cho phép Nhà nước giữ quyền kiểm soát đáng kể. Ở ngoài nước, Tập đang tìm cách nâng cao địa vị của Trung Quốc thông qua việc bành trướng thương mại và đầu tư, tạo ra các định chế quốc tế mới, và tăng cường sức mạnh của quân đội. Nhưng viễn kiến của Tập mang trong mình một nỗi sợ hãi ngấm ngầm: rằng một chính sách mở cửa đối với các tư tưởng chính trị và kinh tế phương Tây sẽ xói mòn quyền lực của Nhà nước Trung Quốc.


Nếu thành công, các cải tổ của Tập có thể đưa đến một quốc gia độc đảng, mạnh về kinh tế, cố kết về chính trị và không có tham nhũng: một Singapore khổng lồ. Nhưng không có gì đảm bảo rằng những cải tổ này sẽ thay hình đổi dạng Trung Quốc như Tập hi vọng. Các chính sách của Tập đã tạo ra những ổ bất mãn sâu sắc ở trong nước và kích động  một phản ứng quốc tế quật lại Trung Quốc. Nhằm dập tắt các tiếng nói bất đồng chính kiến, Tập phát động một cuộc đàn áp chính trị, gây bất mãn cho nhiều công dân Trung Quốc có tài năng và tháo vát, thành phần mà các cải tổ của ông muốn khuyến khích. Những biện pháp kinh tế thử nghiệm của ông đã nêu lên nhiều nghi vấn về viễn tượng tăng trưởng kinh tế bền vững của Trung Quốc. Não trạng thắng-là-hưởng-hết [winner-take-all mentality] của Tập đã gây tổn thương cho các nỗ lực để ông có thể trở thành một lãnh đạo toàn cầu.


Mỹ và phần còn lại của thế giới không thể chờ xem các cải tổ của Tập sẽ diễn ra như thế nào. Mỹ nên sẵn sàng chấp nhận một số sáng kiến của Tập như những cơ hội hợp tác quốc tế, đồng thời phải coi các nỗ lực khác của Tập là những xu thế đáng lo ngại cần phải chặn đứng trước khi chúng được củng cố.


MỘT ĐỢT ĐÀN ÁP TRONG NƯỚC


Viễn kiến của Tập về một nước Trung Hoa phục hồi sức sống [a rejuvenated China] trước hết dựa vào khả năng thực hiện thương hiệu đặc biệt về cải tổ chính trị của ông: củng cố quyền lực cá nhân bằng cách tạo ra các định chế mới, dập tắt các tiếng nói đối lập chính trị, và hợp thức hóa quyền lãnh đạo của ông và quyền lực của Đảng Cộng sản trong mắt người dân Trung Quốc. Từ khi nhậm chức, Tập đã nhanh chóng thu tóm quyền lực chính trị và trở thành, không phải là người đứng đầu trong tập thể đứng đầu [first among equals], mà giản dị là người đứng đầu của giới lãnh đạo Trung Quốc. Ông đứng đầu Đảng Cộng sản và Quân ủy Trung ương, hai cột trụ truyền thống của ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, cũng như đứng đầu các nhóm lãnh đạo về kinh tế, cải tổ quân đội, an ninh mạng, vấn đề Đài Loan, và cả Ủy ban An ninh Quốc gia. Khác với các Chủ tịch nước tiền nhiệm, vốn cho Thủ tướng của mình có thẩm quyền nhà nước trong lãnh vực kinh tế, Tập nắm giữ luôn vai trò này. Ông còn nắm giữ vai trò Tổng Tư lệnh quân đội Trung Quốc theo một phong cách cá nhân cao độ: mùa Xuân vừa qua, Tập công khai nhận lời tuyên thệ trung thành từ 53 quan chức quân đội cao cấp. Theo một cựu tướng lãnh, lễ tuyên thệ trung thành theo cung cách này chỉ diễn ra ba lần trước đó trong lịch sử Trung Quốc.


Trong nỗ lực ráo riết nhằm củng cố quyền lực của mình, Tập còn tìm cách triệt tiêu các tiếng nói chính trị ngoài luồng, đặc biệt trên mạng lưới Internet sinh động trước đây của Trung Quốc. Chính phủ đã bắt giữ, bắt giam, hay công khai nhục mạ những blogger nổi tiếng như các doanh nhân tỉ phú Phan Thạch Ngật [Pan Shiyi] và Tiết Tất Quần [Charles Xue]. Những nhà bình luận này, có đến hàng chục triệu người theo dõi trên mạng xã hội, thường xuyên thảo luận một loạt vấn đề từ ô nhiễm môi trường, chế độ kiểm duyệt đến nạn buôn bán trẻ em. Mặc dù tiếng nói của họ không hoàn toàn bị dập tắt, nhưng họ không còn dám đi lạc vào lãnh vực chính trị nhạy cảm. Thật vậy, Phan, một nhân vật trung tâm trong chiến dịch đòi chính phủ Trung Quốc cải thiện chất lượng không khí tại Bắc Kinh, bị buộc phải tự phê trên truyền hình quốc gia năm 2013. Sau đó, ông phải dùng Weibo, một dịch vụ microblog phổ biến tại Trung Quốc để cảnh báo một tỉ phú địa ốc khác không nên chỉ trích chương trình cải tổ kinh tế của chính phủ: “Hãy thận trọng, nếu không ông có thể bị bắt.”


Dưới chế độ Tập Cận Bình, Bắc Kinh còn đưa ra một loạt qui định Internet mới. Trong đó có cả một điều luật đe dọa trừng phạt đến ba năm tù giam về tội đăng lên mạng bất cứ điều gì mà nhà cầm quyền coi là một “tin đồn,” nếu thông điệp mạng [post] này được hơn 5000 người đọc hoặc trên 500 lượt chia sẻ. Dưới những luật lệ nghiêm khắt mới nhất này, nhiều công dân Trung Quốc đã bị bắt giữ chỉ vì đăng các giả thuyết về sự biến mất của Chuyến bay 370 của Malaysia Airlines. Trong một giai đoạn bốn tháng liên tục, Bắc Kinh đã đình chỉ, xoá bỏ, hoặc trừng phạt hơn 100.000 tài khoản trên Weibo vì vi phạm một trong bảy “điều cốt lõi” [bottom lines] được định nghĩa một cách khái quát tiêu biểu cho những giới hạn của quyền bày tỏ được cho phép [the limits of permissible expression]. Những hạn chế này đã giảm thiểu 70 phần trăm số post trên Weibo từ tháng Ba 2012 đến tháng Mười Hai 2013, theo một cuộc nghiên cứu dựa vào ý kiến của 1,6 triệu người sử dụng mạng Weibo được báo The Telegraph ủy nhiệm. Và khi các công dân mạng Trung Quốc tìm các phương tiện khác để trao đổi thông tin, chẳng hạn thông qua diễn đàn đưa tin nhanh WeChat, nhân viên kiểm duyệt của chính phủ vẫn còn theo dõi họ. Tháng Tám 2014, Bắc Kinh đưa ra những qui định mới về dịch vụ đưa tin nhanh, đòi hỏi người sử dụng phải đăng ký bằng tên thật của mình, hạn chế việc chia sẻ tin tức chính trị, và thực thi một qui tắc ứng xử [dành cho công dân mạng]. Thật không đáng ngạc nhiên chút nào khi trong bản xếp hạng mức độ tự do Internet trên toàn thế giới năm 2013, tổ chức vô vị lợi Freedom House có trụ sở tại Mỹ đặt Trung Quốc vào vị thứ 58 trong số 60 nước – đồng hạng với Cuba, và chỉ trên Iran.


Trong nỗ lực thúc đẩy thống nhất ý thức hệ trong nước, Tập còn chụp mũ các tư tưởng du nhập từ ngoài vào và thách thức chế độ chính trị Trung Quốc là phản lại tình yêu nước và thậm chí là nguy hiểm. Theo đường lối này, Bắc Kinh đã cấm nghiên cứu và giảng dạy bảy đề tài tại các đại học: đó là các giá trị phổ quát, xã hội dân sự, các quyền của công dân, tự do báo chí, các sai phạm của Đảng Cộng sản, các đặc quyền của chủ nghĩa tư bản, và tính độc lập của ngành tư pháp. Mùa Hè vừa qua, một quan chức Đảng đã công khai đả kích Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, một cơ quan nghiên cứu của chính phủ, với cáo buộc là viện này “bị các thế lực nước ngoài xâm nhập.” Việc đả kích này gặp phải sự chế giễu của nhiều trí thức Trung Quốc nổi tiếng bên ngoài Viện Khoa học Xã hội, kể cả nhà kinh tế Mao Vu Thức [Mao Yushi], giáo sư luật Hạ Vệ Phương [He Weifang], và nhà văn Lưu Dật Minh [Liu Yiming]. Tuy vậy, những cáo buộc này có thể gây ra những hậu quả đáng sợ cho công việc nghiên cứu và hợp tác quốc tế của các học giả.


Đợt đàn áp này có thể xói mòn sự gắn bó chính trị [political cohesion] mà Tập đang theo đuổi. Cư dân Hồng Kông vàMacao, vốn có truyền thống hưởng nhiều quyền tự do chính trị hơn dân chúng lục địa, đã theo dõi những động thái này của Tập với một nỗi lo ngại ngày càng sâu sắc; nhiều người đã lên tiếng kêu gọi cải tổ dân chủ. Đối với một xã hội dân chủ có nhiều tiếng nói đa nguyên như Đài Loan, khuynh hướng đàn áp của Tập không thể tạo điều kiện để thúc đẩy việc thống nhất với lục địa. Và tại vùng Tân Cương, vốn bị phân hóa sắc tộc, những chính sách của Bắc Kinh nhằm hạn chế sinh hoạt chính trị và văn hóa đã đưa đến các cuộc biểu tình bạo động.


Thậm chí trong tầng lớp thượng lưu kinh tế và chính trị Trung Quốc, nhiều người tỏ ra lo lắng về hành động gia tăng kềm kẹp chính trị của Tập và họ đang tìm kiếm một chỗ giữ chân [foothold] ở nước ngoài. Theo nguyệt san Hurun Report có trụ sở tại Trung Quốc, 85 phần trăm những người có tài sản trên 1 triệu Mỹ kim muốn gửi con ra học nước ngoài, và hơn 65 phần trăm những công dân Trung Quốc có tài sản từ 1,6 triệu Mỹ kim trở lên đã di cư hoặc có kế hoạch di cư ra nước ngoài. Việc các nhóm tinh hoa Trung Quốc bỏ nước ra đi không những gây bối rối chính trị mà còn là một bước thụt lùi đáng kể đối với các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm chiêu dụ các khoa học gia và học giả hàng đầu đã bỏ nước ra đi trong nhiều thập niên trước trở về.


MỘT THẨM QUYỀN ĐẠO LÝ?


Đặc điểm quan trọng nhất trong các cải tổ chính trị của Tập là nỗ lực phục hồi thẩm quyền đạo lý của Đảng Cộng sản. Ông lập luận rằng nếu không giải quyết được vấn đề tham nhũng đang lan tràn trong Đảng, việc này có thể dẫn đến sự sụp đổ không những của Đảng mà còn của nhà nước Trung Quốc. Dưới sự giám sát chặt chẽ của Vương Kỳ Sơn [Wang Qishan], ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị, việc chống tham nhũng trong giới quan chức đã trở thành một vấn đề mang dấu ấn của Tập. Mặc dù các lãnh đạo Trung Quốc trước đây cũng từng thực thi các chiến dịch bài trừ tham nhũng, nhưng Tập đã đưa vào mục tiêu này một năng lượng mới, một thái độ nghiêm túc mới: hạn chế ngân quĩ dành cho các bữa tiệc chiêu đãi quan chức, việc sử dụng ô tô, và các bữa ăn khi đi công tác; theo dõi các nhân vật nổi tiếng trong báo giới, chính quyền, quân đội, và khu vực tư; và nhanh chóng gia tăng số vụ tham nhũng được đem ra tra xét chính thức. Năm 2013, Đảng đã trừng phạt hơn 182.000 viên chức về tội tham nhũng, cao hơn con số trung bình của 5 năm trước đến 50.000. Hai vụ tai tiếng bùng nổ vào mùa Xuân vừa qua cho thấy phạm vi rộng lớn của chiến dịch này. Trong vụ thứ nhất, chính quyền trung ương bắt giữ một trung tướng trong quân đội Trung Quốc về tội bán hàng trăm chức vị trong quân đội, đôi khi để đổi lấy những món tiền khổng lồ; cái giá để trở thành một thiếu tướng, chẳng hạn, có thể lên tới 4,8 triệu Mỹ kim. Trong vụ thứ hai, Bắc Kinh bắt đầu điều tra hơn 500 quan chức chính quyền khu vực tỉnh Hồ Nam vì đã tham gia một đường dây mua phiếu bầu lên tới 18 triệu Mỹ kim.


Cuộc thánh chiến chống tham nhũng của Tập chỉ là một phần của một kế hoạch rộng lớn hơn để phục hồi thẩm quyền đạo lý của Đảng Cộng sản. Ông cũng đã công bố các cải tổ nhằm đối phó một số vấn đề bức thiết nhất của xã hội Trung Quốc. Dưới sự lèo lái của Tập, lãnh đạo Trung Quốc đã phát động một chiến dịch cải thiện chất lượng không khí tại Trung Quốc; cải tổ chính sách một con; duyệt lại chế độ hộ khẩu vốn ràng buộc nơi ăn chốn ở, phúc lợi y tế, và việc học hành của con cái với nơi cư ngụ chính thức của người dân, dành nhiều ưu đãi cho cư dân thành thị hơn vùng quê; và đóng cửa hệ thống trại “lao cải”, vốn cho phép chính phủ giam giữ người dân vô cớ. Chính phủ còn công bố các kế hoạch làm cho hệ thống tư pháp minh bạch hơn và loại bỏ sự can thiệp của các quan chức địa phương vào công việc của toà án.


Mặc dù nhịp độ và phạm vi của các nỗ lực cải tổ do Tập đưa ra gây được nhiều ấn tượng, nhưng người ta vẫn chưa rõ chúng là khởi điểm của một sự thay đổi dài hạn hay chỉ là những biện pháp hời hợt nhằm mua chuộc lòng dân nhất thời. Dù thế nào chăng nữa, một số cải tổ của Tập đã châm ngòi cho một cuộc chống đối mãnh liệt. Theo tờ Thời báo Tài chính [Financial Time], cả hai cựu lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào đã khuyến cáo Tập phải hạn chế chiến dịch chống tham nhũng lại, và chính Tập cũng nhìn nhận các nỗ lực của mình đã gặp phải sự chống đối đáng kể. Chiến dịch này đã gây ra những tổn thất kinh tế thật sự. Theo Ngân hàng America Merrill Lynch, GDP của Trung Quốc trong năm nay đã giảm bớt 1,5 phần trăm do hậu quả các hàng hóa và dịch vụ xa xỉ bị ế ẩm, vì các quan chức ngày càng lo ngại rằng các tiệc tùng lãng phí, các cuộc mua quan bán chức và sắm sửa đắt tiền sẽ thu hút sự chú ý ngoài ý muốn của họ. (Dĩ nhiên, nhiều người Trung Quốc vẫn tiếp tục mua sắm; nhưng họ chỉ làm việc này ở nước ngoài.) Và thậm chí những người hậu thuẫn mục tiêu chống tham nhũng cũng đặt nghi vấn về các phương pháp của Tập. Thủ tướng Lý Khắc Cường, chẳng hạn, vào đầu năm 2014 đã kêu gọi tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong chiến dịch chống tham nhũng của chính phủ; nhưng tuyên bố của ông nhanh chóng bị xóa bỏ khỏi các website.


Lập trường của Tập về vấn đề tham nhũng cũng có thể gây rủi ro cho tư thế cá nhân và địa vị chính trị của ông: gia đình Tập được xếp vào hạng giàu có nhất trong giới lãnh đạo Trung Quốc, và theo tờ New York Times, Tập đã thúc đẩy thân nhân sang nhượng bớt tài sản, nhằm giảm bớt nguy cơ ông có thể bị đả kích. Ngoài ra, ông hoàn toàn bác bỏ những lời kêu gọi gia tăng tính minh bạch, bằng cách bắt bớ những nhà hoạt động đòi quan chức nhà nước phải kê khai tài sản và trừng phạt các hãng tin phương Tây đã điều tra tài sản của các lãnh đạo Trung Quốc.


NHÀ NƯỚC TIẾP TỤC GIỮ QUYỀN KIỂM SOÁT KINH TẾ


Trong khi Tập ra sức củng cố quyền lực chính trị và phục hồi chính nghĩa của Đảng Cộng sản, ông còn phải tìm cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hơn nữa. Nói rộng ra, các mục tiêu của ông gồm việc chuyển hóa Trung Quốc từ một trung tâm gia công của thế giới thành một trung tâm phát kiến của thế giới, tái quân bình kinh tế Trung Quốc bằng cách đặt ưu tiên tiêu thụ cao hơn đầu tư, và nới rộng không gian cho doanh nghiệp tư. Các kế hoạch của Tập gồm cả cải tổ định chế lẫn cải tổ chính sách. Chẳng hạn, ông đã có lịch trình cải tổ quan trọng cho chế độ thuế má: thu nhập của chính quyền địa phương sẽ phát xuất từ nhiều loại thuế khác nhau thay vì chủ yếu từ các vụ bán đất, thường dẫn đến tham nhũng và bất ổn xã hội. Ngoài ra, chính quyền trung ương, vốn có truyền thống hưởng khoảng một nửa lợi tức thuế quốc gia nhưng chỉ trả một phần ba các chi phí phúc lợi xã hội, sẽ gia tăng ngân sách dành cho các dịch vụ xã hội, giảm bớt phần nào gánh nặng cho các chính quyền địa phương. Hàng chục sáng kiến mới về chính sách cũng đang ở các giai đoạn thử nghiệm, gồm việc khuyến khích tư nhân đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước và giảm bớt thù lao của các giám đốc xí nghiệp, thiết lập các ngân hàng tư để đưa vốn đến các công ty nhỏ và trung bình, và cắt ngắn thời gian chờ đợi phê chuẩn hành chính của các công ty mới được thành lập.


Nhưng khi các chi tiết trong kế hoạch kinh tế của Tập được triển khai, thì rõ ràng là, mặc dù Tập nhấn mạnh vai trò của thị trường tự do, nhưng nhà nước sẽ tiếp tục giữ quyền kiểm soát phần lớn nền kinh tế Trung Quốc. Việc cải tổ đường lối quản trị các công ty nhà nước sẽ không xói mòn vai trò nổi bật của Đảng Cộng sản trong việc ra quyết sách của những công ty này; Tập giữ nguyên các rào cản quan trọng đối với đầu tư nước ngoài, và thậm chí trong khi chính phủ hứa hẹn giảm thiểu sự lệ thuộc của tăng trưởng kinh tế dựa vào đầu tư, các nỗ lực kích thích kinh tế của chính phủ vẫn tiếp tục, do đó làm cho số nợ của các địa phương càng ngày càng tăng. Thật vậy, theo Hoàn cầu Thời báo, số nợ đáo hạn không sinh lợi trong sáu tháng đầu của năm 2014 đã vượt quá số nợ mới không sinh lợi cho cả năm 2013.


Ngoài ra, Tập còn đưa vào nghị trình kinh tế của mình cùng một thứ tinh thần dân tộc chủ nghĩa – thậm chí bài ngoại – vốn đã xâm nhập vào nghị trình chính trị của ông. Các chiến dịch chống tham nhũng và chống độc quyền kinh tế của Tập nhắm vào các tập đoàn đa quốc làm ra các sản phẩm như sữa bột, dụng cụ y khoa, dược phẩm, và phụ tùng xe hơi. Thật vậy, vào tháng Bảy, 2013, Ủy ban Phát triển và Cải tổ Quốc gia của Trung Quốc đã triệu tập đại diện của 30 công ty đa quốc với ý đồ buộc họ phải nhìn nhận đã có hành vi sai phạm. Lắm khi, Bắc Kinh hình như đang cố tình phá hoại các công ty cung cấp hàng hóa và dịch vụ nước ngoài: báo chí nhà nước dồn mọi chú ý vào điều mà họ cho là những sai phạm tại các công ty đa quốc trong khi tương đối giữ im lặng trước những vấn đề tương tự tại các công ty Trung Quốc.


Cũng như chiến dịch chống tham nhũng, việc Tập cho điều tra các công ty nước ngoài nêu lên những nghi vấn về ý đồ thầm kín của ông. Trong một cuộc tranh luận được phổ biến rộng rãi trên truyền hình nhà nước Trung Quốc, giữa Chủ tịch Phòng Thương mại Liên Âu và một quan chức của Ủy ban Phát triển và Cải tổ Quốc gia, viên chức châu Âu này đã đưa người đồng nhiệm Trung Quốc vào thế phải chống chế bênh vực những sự khác biệt giữa cách chính phủ Trung Quốc đối xử với các công ty nước ngoài và các công ty trong nước. Cuối cùng, vị quan chức Trung Quốc có vẻ nhượng bộ khi nói rằng thủ tục chống độc quyền của Trung Quốc là một thủ tục “mang đặc tính Trung Quốc.”


Như vậy, những hứa hẹn cải tổ ban đầu của Tập vẫn chưa được thực hiện. Một tập báo cáo dày 31 trang về cuộc cải tổ kinh tế Trung Quốc, được Hội đồng Thương mại Mỹ-Trung công bố vào tháng Sáu 2014, nêu ra hàng chục nhiệm vụ chưa hoàn thành. Nó chỉ coi ba sáng kiến chính sách sau đây của Tập là thành công: cắt giảm thời gian đăng ký công ty mới, cho phép các tập đoàn đa quốc sử dụng đồng Nhân dân tệ để bành trướng công ty của mình, và cải tổ chế độ hộ khẩu. Tuy nhiên, nếu muốn xúc tiến những biện pháp cải tổ sâu rộng hơn nữa, có khả năng Tập cần phải gây một cú sốc cho cả hệ thống, đưa đến sự sụp đổ của thị trường địa ốc, chẳng hạn. Hiện nay, rất có thể Tập là kẻ thù tệ hại nhất của chính mình: việc hô hào một vai trò nổi bật của thị trường không thể đi đôi với tham vọng giữ quyền kiểm soát kinh tế của ông.


ĐÁNH THỨC CON SƯ TỬ


Những nỗ lực cải tổ chính trị và kinh tế ở trong nước của Tập gắn liền với những nước cờ sinh động không kém nhằm khẳng định địa vị của Trung Quốc như một cường quốc toàn cầu. Nhưng, gốc rễ chính sách đối ngoại của Tập đã có sẵn trước khi ông trở thành Chủ tịch nước. Giới lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu công khai bàn đến sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc thế giới tiếp theo sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Vào lúc đó, nhiều học giả Trung Quốc lập luận rằng Mỹ đã bắt đầu một cuộc xuống dốc không thể tránh và việc này sẽ dành chỗ cho Trung Quốc nắm vai trò lãnh đạo tối cao trên toàn cầu. Trong một diễn văn đọc tại Paris vào tháng Ba 2014, Tập nhắc đến những suy niệm của Napoleon về Trung Quốc: “Napoleon nói rằng Trung Quốc là một con sư tử đang ngủ, và khi nó thức dậy, cả thế giới sẽ run sợ.” Con sư tử Trung Quốc, Tập trấn an cử tọa của mình, “đã thức dậy, nhưng đây là một con sư tử hiền lành, vui vẻ, và văn minh.” Tuy nhiên, một số hành động của Tập vạch trần những lời trấn an này. Ông đã thay thế câu kinh nhật tụng của cựu lãnh đạo Đặng Tiểu Bình được lặp đi lặp lại hàng chục năm nay – “Thao quang dưỡng hối” — bằng một chính sách đối ngoại khác hẳn, theo chủ nghĩa bành trướng và phô trương cơ bắp.


Đối với Tập, mọi con đường đều dẫn đến Bắc Kinh, nghĩa bóng cũng như nghĩa đen. Tập làm sống lại quan niệm xa xưa về Con đường Tơ lụa – từng nối liền đế quốc Trung Hoa với Trung Á, Trung Đông, và thậm chí với châu Âu – bằng cách đề xuất một mạng lưới rộng lớn gồm đường sắt, ống dẫn dầu, xa lộ, và kinh đào theo địa hình của con đường cổ đại. Hạ tầng cơ sở này, một dự án mà Tập tin chắc các ngân hàng và công ty Trung Quốc sẽ tài trợ và xây dựng, nếu được thực hiện sẽ cho phép các hoạt động mậu dịch giữa Trung Quốc và nhiều phần còn lại của thế giới phát triển hơn nữa. Bắc Kinh còn cân nhắc việc xây dựng một đường sắt cao tốc liên lục địa dài khoảng 8.100 dặm Anh [hay gần 13.500 km] để nối Trung Quốc với Canada, Nga, và Hoa Kỳ đi qua Eo biển Bering. Ngay cả Bắc Băng Dương cũng trở thành một sân sau của Trung Quốc: các học giả Trung Quốc mô tả nước mình như một quốc gia “cận Bắc Băng Dương.”


Cùng với cơ sở hạ tầng mới, Tập còn muốn thiết lập các định chế quốc tế mới để hậu thuẫn địa vị của Trung Quốc như một cường quốc lãnh đạo khu vực và toàn cầu. Ông đã giúp thành lập một ngân hàng phát triển mới, được điều hành bởi các nước BRICS – Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, và Nam Phi – nhằm thách thức địa vị đứng đầu của Quĩ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới. Ông còn đề nghị thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á, một dự án có thể giúp Trung Quốc trở thành nhà tài trợ hàng đầu của việc phát triển khu vực. Hai nỗ lực này là những dấu hiệu cho thấy Tập muốn khai thác những bức xúc đối với việc Mỹ không chịu thúc đẩy các tổ chức kinh tế quốc tế phản ánh nguyện vọng của các nước đang phát triển hơn nữa.


Tập còn đưa ra các sáng kiến về an ninh khu vực. Ngoài Tổ chức Hợp tác Thượng Hải đã thành hình, một định chế an ninh do Trung Quốc lãnh đạo gồm Nga và bốn quốc gia Trung Á, Tập còn muốn xây dựng một cơ cấu an ninh châu Á-Thái Bình Dương sẽ không có sự tham gia của Mỹ. Nói chuyện tại một hội nghị vào tháng Năm 2014, Tập nhấn mạnh chủ điểm: “Phải để cho người châu Á điều hành công việc nội bộ của châu Á, giải quyết các vấn đề châu Á, và củng cố an ninh của châu Á.”


Xu thế của Tập nhắm tới một chính sách khu vực dùng sức mạnh cơ bắp bắt đầu biểu hiện rõ nét trước khi ông trở thành Chủ tịch nước. Năm 2010, Tập đứng đầu nhóm lãnh đạo chịu trách nhiệm về chính sách biển Hoa Nam của Trung Quốc, một chính sách nới rộng việc định nghĩa quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc để bao gồm các đòi hỏi chủ quyền lãnh hải rộng lớn trong biển Hoa Nam [Biển Đông]. Kể từ đó, Tập đã sử dụng mọi phương tiện từ hải quân Trung Quốc đến tàu đánh cá dân sự để ra sức củng cố những đòi hỏi này – những đòi hỏi đang bị các quốc gia khác tiếp giáp Biển Đông bác bỏ. Vào tháng Năm 2014, xung đột giữa Trung Quốc và Việt Nam bùng nổ khi Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc đưa một giàn khoan vào một vùng tranh chấp trong Biển Đông; căng thẳng tiếp tục gia tăng cho đến khi Trung Quốc rút giàn khoan vào giữa tháng Bảy. Nhằm giúp việc thực hiện chủ quyền của Trung Quốc trong biển Hoa Đông, Tập đã tuyên bố một “vùng nhận diện phòng không” trên một phần của biển này, chồng lấn với các vùng nhận diện phòng không của Nhật và Nam Hàn. Không một nước láng giềng nào của Trung Quốc nhìn nhận bất cứ biện pháp nào trong chuỗi hành động này là hợp pháp. Tuy thế, Bắc Kinh thậm chí còn vẽ lại bản đồ Trung Quốc và cho in lên hộ chiếu Trung Quốc gồm cả những vùng đang tranh chấp với Ấn Đô, cũng như với các nước Đông Nam Á, gây nên một trận bão lửa chính trị trong khu vực.


Những thao diễn chính trị này của Tập đã nhen nhúm tình yêu nước của người dân Trung Quốc nhưng cũng khơi dậy chủ nghĩa dân tộc độc hại không kém tại các nước khác. Các lãnh đạo mới có tinh thần dân tộc chủ nghĩa tương tự tại Ấn Độ và Nhật Bản đã bày tỏ mối quan ngại về các chính sách của Tập và do đó đã sử dụng các biện pháp nâng cao hình ảnh an ninh của nước mình. Thật vậy, trong cuộc vận động tranh cử chức Thủ tướng Ấn Độ vào đầu năm 2014, Narendra Modi đã lên tiếng chỉ trích các xu thế bành trướng chủ nghĩa của Trung Quốc, và kể từ đó, Modi và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã nâng cấp các quan hệ quốc phòng và an ninh giữa hai nước. Nhiều nỗ lực mới về an ninh khu vực đang được tiến hành không có sự tham dự của Bắc Kinh (cũng như Washington). Chẳng hạn, Ấn Độ đã và đang huấn luyện một số lực lượng hải quân Đông Nam Á, gồm hải quân Myanmar và ViệtNam. Nhiều quân đội trong khu vực – như quân đội Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, Singapore, và Nam Hàn – đã có kế hoạch diễn tập phòng thủ hỗn hợp.


MỘT PHẢN ỨNG MẠNH MẼ


Đối với Mỹ và phần còn lại của thế giới, sự tỉnh dậy của nước Trung Hoa dưới quyền lãnh đạo của Tập đã kích động hai phản ứng khác nhau: một mặt là sự hào hứng về những điều mà một Trung Quốc hùng mạnh hơn, ít tham nhũng hơn có thể đạt được; và mặt khác là sự lo lắng đáng kể về những thách thức mà một Trung Quốc độc tài quân phiệt có thể đặt ra cho trật tự tự do mà Mỹ bảo trợ.


Về mặt tích cực, những kế hoạch của Bắc Kinh về một Con đường Tơ lụa hiện đại sẽ đặt cơ sở trên ổn định chính trị tại Trung Đông; việc này có thể khuyến khích Bắc Kinh hợp tác với Washington để đảm bảo hòa bình trong khu vực này. Một cách tương tự, việc các công ty Trung Quốc ngày càng muốn đầu tư ở nước ngoài có thể tạo cho chính quyền Washington một thế đòn bẩy lớn hơn khi họ đẩy mạnh một hiệp ước đầu tư song phương với Bắc Kinh. Mỹ còn phải khuyến khích Trung Quốc tham gia Quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định tự do mậu dịch khu vực quan trọng đang trong thời kỳ đàm phán. Cũng như những cuộc đàm phán của Trung Quốc trước đây để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới trong thập niên 1990 đã thúc đẩy các nhà cải tổ kinh tế Trung Quốc đưa ra những thay đổi nội bộ, những cuộc đàm phán để gia nhập TPP ngày nay có thể sẽ mang lại hậu quả tương tự.


Ngoài ra, mặc dù Trung Quốc đã có một vai trò đáng kể trong hệ thống quốc tế, Mỹ cần phải ra sức giữ Trung Quốc ở lại trong hệ thống này. Chẳng hạn, Quốc hội Mỹ phải phê chuẩn những tu chính được đề xuất cho hệ thống bầu cử nội bộ của Quĩ Tiền tệ Quốc tế để cho phép Trung Quốc và các nước đang phát triển khác có một tiếng nói lớn hơn trong việc quản lý quĩ này và do đó làm giảm quyết tâm của Bắc Kinh trong việc thành lập các tổ chức cạnh tranh mới.


Về mặt tiêu cực, luận điệu dân tộc chủ nghĩa và lập trường quân sự quyết đoán của Tập đặt ra một thách thức trực tiếp đối với lợi ích của Mỹ ở trong khu vực và đòi hỏi một phản ứng mạnh mẽ. Chiến lược “tái quân bình lực luợng” hoặc “xoay trục” hướng về châu Á của Washington không phải chỉ là một phản ứng đối với hành vi ngày một quyết đoán hơn của Trung Quốc. Nó còn phản ánh những giá trị thiết thân nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ: tự do trên biển, trên không, và trong không gian; tự do mậu dịch; chế độ pháp trị; và các quyền cơ bản của con người. Nếu thiếu một chiến lược xoay trục mạnh mẽ, vai trò của Mỹ như một cường quốc khu vực sẽ suy yếu, và Washington sẽ bị từ chối những lợi ích phát sinh từ việc hợp tác sâu sắc hơn với đa số trong những nền kinh tế năng động nhất của thế giới. Vì thế, Mỹ phải hậu thuẫn việc xoay trục chiến lược bằng một sự hiện diện quân sự hùng hậu trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương để chặn đứng hay chống lại chủ trương xâm lược của Trung Quốc; đạt được sự đồng thuận và phê chuẩn Hiệp định TPP; và tăng cường các chương trình của Mỹ nhằm hậu thuẫn các định chế dân chủ và xã hội dân sự tại các nước như Cambodia, Malaysia, Myanmar, và Việt Nam, là những nơi dân chủ mới manh nha nhưng đang phát triển.


Đồng thờiWashingtonphải biết rằng có thể Tập sẽ không thành công trong việc chuyển đổi Trung Quốc theo đúng đường lối ông đưa ra. Tập vạch ra cho mình một viễn kiến, nhưng các sức ép từ bên trong lẫn bên ngoài Trung Quốc sẽ ảnh hưởng lên con đường trước mặt của nước này trong nhiều cách rất bất ngờ. Một số nước giàu về hàng hóa đã ngần ngại khi giao dịch với các công ty Trung Quốc, vì họ không yên tâm về hồ sơ trách nhiệm xã hội yếu kém của chúng, khiến Bắc Kinh phải thăm dò các đường lối mới để tiến hành việc kinh doanh. Các nước láng giềng của Trung Quốc, hoảng hốt trước thái độ ngang ngược của Bắc Kinh, đã bắt đầu hình thành những quan hệ an ninh mới. Thậm chí những chuyên gia nổi tiếng về chính sách đối ngoại hiện sống tại Trung Quốc, như Vương Tập Tư [Wang Jisi] thuộc Đại học Bắc Kinh và Đại sứ nghỉ hưu Ngô Kiến Dân [Wu Jianmin], đã bày tỏ do dự về nội dung chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Tập.


Sau cùng, mặc dù gần như không có một yếu tố nào trong chính sách đối nội và đối ngoại của Tập tỏ ra khuyến khích một sự hợp tác sâu đậm hơn với Mỹ, nhưng Washington phải chống lại việc hình thành quan hệ với Trung Quốc dưới hình thức cạnh tranh. Coi Trung Quốc như một đối thủ hay kẻ thù chỉ nuôi dưỡng lập trường chống phương Tây của Tập, và chẳng đóng góp gì cho việc đẩy mạnh hợp tác song phương mà chỉ làm suy yếu thêm địa vị của Mỹ mà thôi. Thay vào đó, Nhà Trắng phải đặc biệt theo dõi những diễn biến trong các chính sách của Tập, vận dụng những chính sách nào có thể tăng cường quan hệ với Trung Quốc và đẩy lùi những chính sách làm xói mòn các lợi ích của Mỹ. Đối diện với sự bấp bênh về tương lai của Trung Quốc, các nhà làm chính sách của Mỹ phải giữ thái độ linh động và nhanh nhạy.


ELIZABETH C. ECONOMY là Nhà Nghiên cứu cao cấp [trong chương trình vinh danh C.V. Starr] và là Giám đốc Ban Nghiên cứu châu Á tại Council on Foreign Relations


Nguồn: “China’s Imperial President. Xi Jinping Tightens His Grip”, Foreign Affairs tháng Mười Một/ tháng Mười Hai 2014


Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 14, 2014 05:10

December 12, 2014

Nhà báo và nhà kiểm duyệt (4)

Phạm Thị Hoài


Bài liên quan:


Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Những chỗ bị kiểm duyệt sửa đổi và cắt bỏ trong bản dịch cuốn “Điệp viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” của Thomas A. Bass
Bản dịch trọn vẹn: Thomas A. Bass – Điệp viên yêu chúng ta. Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn
Trao đổi lại với ông Thomas A. Bass về phần biên tập ban đầu cuốn sách của ông mà tôi tham gia 
Thomas A. Bass – Phản hồi độc giả nhân lần xuất bản tại Berlin 
Thomas A. Bass – Rừng Sát: hiện tượng kiểm duyệt tại Việt Nam (Bản dịch mới – Kỳ 1) 
Thomas A. Bass – Rừng Sát: hiện tượng kiểm duyệt tại Việt Nam (Bản dịch mới – Kỳ 2)
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (1) 
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (2) 
Nhà báo và nhà kiểm duyệt (3)
Đọc toàn bài trong bản PDF
 

The captive mind


Kiểm duyệt có phải là một chủ đề bất ngờ với chúng ta không? Hiển nhiên là không. Sự tồn tại của kiểm duyệt ở đất nước này là một bí mật ngang với sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chỉ khác là nó chưa được đảm bảo bằng hiến pháp. Chưa, không có nghĩa là không, hay không bao giờ. Vậy vì sao những người đang thực hiện tốt chức năng kiểm duyệt của mình, các nhà kiểm duyệt Việt Nam trong phóng sự của ông nhà báo Mỹ, bỗng lo ngại, bỗng thấy mình có thể bị phiền phức? Thậm chí đã vang lên câu hỏi, ai sẽ chịu trách nhiệm nếu họ phải vào tù?


Có ở đâu nhà tù xuất hiện trong trí tưởng tượng của người ta nhanh như thế không? Chắc là không. Chắc chỉ có ở Việt Nam. Ăn đi con, ngủ đi con, nín đi con. Không ăn mẹ gọi công an. Không ngủ bố gọi công an. Không nín tao gọi công an. Nỗi sợ có con ám ảnh tôi rất lâu, cũng như hình dung về một nhà tù đầy nhóc lũ trẻ bất trị, không ăn, không ngủ, ngoặc mồm khóc chảy rãi cả ngày. Chúng sẽ trở thành những bậc thầy của van xin, dỗ dành, dọa nạt, trừng phạt và mãi mãi là những đứa trẻ hay khóc.


Dù không thể nực cười hơn, tôi đã thử đặt mình vào vị trí của một quan chức an ninh xuất bản và truyền thông, hay thậm chí một quan chức an ninh quốc gia, để truy tìm những hành vi đáng trừng phạt của các nhân vật trong câu chuyện của Thomas A. Bass. Kết quả tương đối đáng thất vọng. Tương đối, vì sự linh động của quyền lực tuyệt đối là vô tận. Nó đổi ý nhanh hơn chúng ta có thể uốn lưỡi. Tương đối, vì chứng hoang tưởng của quyền lực tuyệt đối là vô biên. Nó nghe tiếng kẻ thù thì thầm, khi chúng ta, tất cả, đã tự khâu kín miệng.


Bằng cặp mắt cú vọ của một người canh gác chế độ, tôi đi dò từng cái bóng của những nghĩa bóng trong các trao đổi được tác giả phóng sự Rừng Sát thuật lại. Song tôi chỉ thấy các nhân vật liên quan trong giới xuất bản Việt Nam là những người cần mẫn, đầy trách nhiệm, làm đúng phần việc của mình. Trong khi tránh cho các nhà chức trách khỏi bẩn tay, họ cũng giữ được cho mình một thanh danh trong sạch ở mức đáng ngưỡng mộ giữa một môi trường ô nhiễm thảm hại. Trong khi thực hiện cái quyền chính đáng là tự bảo vệ sự nghiệp và doanh nghiệp xuất bản của mình, họ cũng góp phần củng cố chế độ xuất bản tại Việt Nam. Trong khi nhận phần tự kiểm duyệt về mình, họ cũng xác quyết quyền tự do xuất bản mà luật pháp Việt Nam bảo đảm de jure trên mặt giấy. Họ không yêu Stasi Việt Nam và Stasi Việt Nam cũng không yêu họ, song cuộc hôn phối đó đã dày dạn kinh nghiệm kiểm soát những xung đột của nó. Nó ổn định, thậm chí phát triển tích cực ở một số bình diện, không phải bất chấp mà chính vì thiếu vắng sự lãng mạn của tình cảm hay sự nhiệt thành của lí tưởng. Những phiền phức nào đó, nếu có, do các tiết lộ của họ với ông nhà báo Mỹ, khó có thể thực sự chia rẽ cuộc cộng sinh đó. Stasi Việt Nam không khờ khạo tới mức phải chờ một ông nhà báo Mỹ kể thông thống mọi chuyện mới biết điều gì đang diễn ra trong đế chế của mình. Stasi Việt Nam có lẽ còn cảm thấy bị xúc phạm nếu chúng ta cho rằng nó không còn việc gì đáng làm hơn là tống những người biết hợp tác thông minh như vậy vào tù. Nhà tù đang dành cho những ca hoàn toàn khác, những người từ chối hợp tác với chế độ đã đẻ ra nền kiểm duyệt, như chúng ta đã biết, trong quá khứ và trong chính những ngày này.


Vậy thì vì sao lo ngại? Tôi không thực sự biết câu trả lời. Dường như nỗi lo ngại đó có phần là một sự khó chịu. Khi hậu trường bỗng biến thành sân khấu, người ta thấy mình bị phơi trần trong ánh sáng tất nhiên là quá chói. Khi rác thải từ nhà bếp bỗng bày lên mâm, người ta thấy nghệ thuật nấu nướng của mình bị phanh phui. Không ai thích thú khi xuất hiện trong vai những nhà tự kiểm duyệt lỗi lạc, dù thời đại của tự kiểm duyệt vẫn hoàng kim, chưa kể như những kẻ tiếp tay cho chế độ kiểm duyệt de facto. (Tôi đã có lần chứng kiến một điều tương tự: Một quan chức cao cấp của nhà nước Việt Nam, trong một hội nghị quốc tế ở nước ngoài, bực bội tránh mọi câu hỏi liên quan đến vai trò của Đảng. Ông ta chỉ muốn hội nghị nhìn mình như một nhà quản lí nhà nước đơn thuần.) Tất nhiên hình ảnh những anh hùng tranh đấu cho tự do xuất bản đáng yêu hơn, nhưng hẳn là họ cũng không muốn xuất hiện như thế. Họ ở đâu đó trong khoảng giữa. Một khoảng giữa đủ rộng song có thể cũng rất hẹp. Một khoảng giữa đủ an toàn nhưng cũng có thể chạm nhẹ vào bất trắc. Một khoảng giữa đủ cố định để giữ luật chơi nhưng cũng có thể co giãn để thỉnh thoảng xê dịch vài giới hạn. Một khoảng giữa đầy hấp dẫn.


Đó chính là cái không gian mà Czesław Miłosz miêu tả trong The Captive Mind, với những hình mẫu thật của giới trí thức Ba Lan thời cộng sản, Alpha – Nhà đạo đức (nhà văn nổi tiếng Jerzy Andrzejewski), Beta – Người tình bất hạnh (nhà văn tự sát Tadeusz Borowski), Gamma – Nô lệ của lịch sử (nhà thơ và nhà lãnh đạo văn nghệ Jerzy Putrament) và Delta – Kẻ hát rong (nhà thơ và dịch giả Konstanty Ildefons Gałczyński), những người đã miệt mài tu luyện ketman, nghệ thuật đóng vai chính thống trơn tru để bảo lưu xác tín thực của mình trong tâm khảm. Đó là “một cuộc chơi lớn, với những nhượng bộ, những cam kết trung thành đầu môi, những luồn lách thủ đoạn với bao nhiêu biện pháp rầy rà để bảo vệ những giá trị nào đó. Cuộc chơi không phải là không nguy hiểm ấy cho những người trong cuộc một cảm giác gắn bó” của đồng đội ngầm chung chiến tuyến. Czesław Miłosz thú nhận, ông cũng bị cuộc chơi ấy quyến rũ, cũng thấy mình có bổn phận đoàn kết với các đồng nghiệp đang cuốn theo luật chơi, cũng ngần ngại một sự đoạn tuyệt công khai, như thể đó là chơi xấu, là phản bội. Song cuối cùng ông đã bỏ đi, chọn cuộc đời lưu vong, cô đơn giữa những trí thức cánh tả phương Tây bái phục Đông phương hồng và những trí thức cánh hữu phương Tây hình dung bên kia bức tường sắt không có gì ngoài địa ngục với những linh hồn chết. Ông đoạn tuyệt bằng cuốn sách viết năm 1953 về sự cám dỗ của cuộc chơi giam hãm tinh thần giới trí thức Đông Âu gần một nửa thế kỉ.


Hơn sáu mươi năm sau, tôi vẫn mơ hồ nhận ra tất cả các nhân vật của cuộc chơi mê hoặc ấy, những nhà đạo đức và những người tình bất hạnh, những nô lệ của lịch sử và những kẻ hát rong, qua câu chuyện Rừng Sát. Tôi cũng từng có mặt một thời gian đủ dài trong cuộc chơi sống chung với kiểm duyệt tư tưởng ấy; từng kiêu hãnh là người trong cuộc, từng khổ sở và sướng âm ỉ, bướng bỉnh và thuần phục, suy sụp và hân hoan, tưởng mình khôn ngoan, tin chắc ở lẽ phải rồi lại khoanh tay nghe ngu dốt giảng bài, và bất lực, và mệt mỏi, và ngây ngất trước một hai chiến thắng nho nhỏ; một lúc nào đó sự hồi hộp thần tiên nhất kéo dài vô tận cũng trở thành nhạt phèo. A supposedly fun thing I’ll never do again, như nhan đề một tác phẩm của David Foster Wallace.


Mọi câu chuyện liên quan đến Phạm Xuân Ẩn nếu đều có ít nhất hai mặt thì không có gì phải cân nhắc, tôi đứng về phía nhà báo Thomas A. Bass với bài phóng sự miêu tả không thể thật hơn chế độ kiểm duyệt tại Việt Nam.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 12, 2014 08:51

December 10, 2014

Chủ nghĩa xã hội, vì sao?

Albert Einstein


Phạm Hải Hồ dịch


Albert Einstein (sinh năm 1879 tại Đức, mất 1955 tại Hoa Kỳ) được xem là một trong những nhà vật lý lớn nhất từ trước tới nay. Công trình chính của ông, thuyết tương đối (1905/1915), là xương sống của ngành vật lý hiện đại. Năm 1922, ông nhận Giải Nobel vì những đóng góp quan trọng cho vật lý học lý thuyết, nhất là việc khám phá định luật về hiệu ứng quang điện. Tháng 12-1932 ông sang Mỹ rồi không trở về nước khi Đức Quốc xã giành chính quyền vào đầu năm sau. 


Không những là một nhà khoa học vĩ đại, Einstein còn hoạt động tích cực chống chiến tranh, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa quân phiệt. Trước nỗi khổ của dân tộc Do Thái, ông góp phần đáng kể vào việc thành lập và xây dựng nước Israel.


Nhiều lần Einstein tự giới thiệu mình là người theo chủ nghĩa xã hội. Nhưng ít ai biết đến bài báo “Why Socialism?” đăng trong số đầu tiên của tạp chí Monthly Review của Mỹ (số tháng 5-1949). Trong đó, ông đề cập đến những vấn đề của cả chế độ tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp v.v. vẫn tồn tại như cách đây 65 năm, nhưng ở các nước tư bản phát triển, đời sống người dân được cải thiện đáng kể nhờ phúc lợi xã hội và các quyền tự do dân chủ rộng rãi. Trong khi đó, những nước gọi là xã hội chủ nghĩa thật ra lại có một nền kinh tế tư bản lạc hậu với một đảng lãnh đạo độc tài và sự giới hạn tối đa các quyền con người và quyền công dân.


Phạm Hải Hồ


____________


Sự khác nhau giữa khoa học và kinh tế  [1]


Một người không phải là chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế – xã hội có nên bày tỏ quan điểm về chủ nghĩa xã hội hay không? Một loạt lý do khiến tôi nghĩ rằng nên làm việc ấy.


Trước hết, chúng ta hãy xem xét vấn đề từ quan điểm khoa học. Bề ngoài có vẻ như không có sự khác biệt đáng kể nào về phương pháp giữa thiên văn học và kinh tế học: Các nhà khoa học thuộc hai ngành ấy đều cố gắng khám phá những quy luật được chấp nhận rộng rãi cho một nhóm hiện tượng để hiểu càng rõ càng tốt về mối liên kết giữa chúng với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế lại có những khác biệt về phương pháp. Việc khám phá những quy luật chung trong lĩnh vực kinh tế gặp khó khăn, bởi vì các hiện tượng kinh tế chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố rất khó được đánh giá riêng biệt. Hơn nữa, như đã biết, kinh nghiệm tích lũy từ đầu giai đoạn gọi là “văn minh” chủ yếu bị ảnh hưởng và giới hạn bởi những vấn đề không chỉ có tính chất kinh tế. Chẳng hạn như đa số các thực thể quốc gia lớn trong lịch sử đều tồn tại nhờ xâm lăng nước khác. Các dân tộc xâm lược đã củng cố vị thế của mình  ̶  về pháp lý và kinh tế  ̶  là giai cấp có đặc quyền đặc lợi ở nước bị xâm chiếm. Họ nắm giữ độc quyền sở hữu đất đai và cử những người từ tầng lớp của mình vào chức linh mục. Trong vai trò quản lý hệ thống giáo dục, các linh mục đã thể chế hóa tình trạng phân chia giai cấp của xã hội và tạo ra một hệ thống giá trị ảnh hưởng tới hành vi xã hội của người dân mà những người này hầu như không nhận thức được điều đó.


Mặc dù truyền thống lịch sử ấy có thể nói là thuộc về quá khứ nhưng chúng ta chưa thực sự vượt qua cái mà Thorstein Veblen [2] gọi là “giai đoạn cướp bóc” ở nơi nào cả. Các dữ kiện kinh tế quan sát được thuộc về giai đoạn đó và cả những quy luật mà chúng ta có thể rút ra từ chúng cũng không thể áp dụng cho những giai đoạn khác. Vì mục tiêu thực sự của chủ nghĩa xã hội chính xác là để khắc phục và vượt qua giai đoạn nói trên, khoa học kinh tế hiện nay chỉ có thể giúp chúng ta hiểu một ít về xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai.


Lý do thứ hai là, chủ nghĩa xã hội hướng tới mục tiêu đạo đức – xã hội. Nhưng khoa học lại không thể tạo ra những mục tiêu, nó càng không thể gợi cho con người những mục tiêu ấy; trong trường hợp tốt nhất, khoa học chỉ có thể cung cấp phương tiện để đạt tới những mục tiêu nào đó. Trái lại, các mục tiêu lại được những nhân vật có lý tưởng đạo đức cao cả nghĩ ra và  ̶  nếu không chết non mà mạnh mẽ, đầy sức sống  ̶   chúng sẽ được nhiều người tiếp nhận, phổ biến và quyết định, tuy có phần không chủ ý, sự tiến hóa chậm rãi của xã hội.


Bởi những lý do ấy, chúng ta nên thận trọng, không đánh giá quá cao khoa học và phương pháp khoa học khi xem xét các vấn đề của con người; chúng ta không nên cho rằng chỉ các chuyên gia mới có quyền phát biểu về những vấn đề liên quan đến tổ chức của xã hội.


Quan hệ giữa cá nhân và xã hội


Từ lâu nay, vô số tiếng nói khẳng định rằng xã hội loài người đang trải qua một cuộc khủng hoảng và sự ổn định xã hội bị phá hủy. Đặc điểm của một tình trạng như thế là những cá nhân có thái độ bàng quan, thậm chí đầy ác cảm đối với tập thể lớn hay nhỏ của họ. Để giải thích điều tôi muốn nói, tôi xin kể một kinh nghiệm cá nhân. Cách đây không lâu, tôi thảo luận với một người đàn ông thông minh và thân thiện về hiểm họa của một cuộc chiến tranh mới mà theo tôi, nó đe dọa nghiêm trọng sự sống còn của nhân loại và chỉ một tổ chức quốc tế mới có thể bảo đảm sự an toàn trước hiểm họa ấy. Đáp lại, người khách của tôi  ̶  rất bình thản, lãnh đạm  ̶  nói: “Tại sao bạn hết sức chống lại sự biến mất của loài người như vậy?”


Tôi chắc rằng chỉ trước đây một thế kỷ thôi, không ai có thể phát biểu một cách nông nổi như thế. Đó là phát biểu của một người đã nỗ lực tìm sự thăng bằng nội tâm nhưng vô ích và đã mất ít nhiều hy vọng thành công. Đó là biểu hiện của nỗi cô đơn, cách biệt khiến bao người phải đau khổ trong lúc này. Đâu là nguyên nhân của nó? Có lối thoát nào không?


Không khó đặt ra những câu hỏi ấy, nhưng trả lời chúng với một chút chắc chắn là điều khó khăn. Tuy vậy, tôi phải cố gắng hết sức, mặc dù biết rõ những cảm nghĩ và nỗ lực của chúng ta thường trái ngược nhau và khó hiểu vì không thể được diễn tả bằng những công thức đơn giản, dễ dàng.


Con người vừa là một cá thể vừa là thành viên của xã hội. Là một cá thể, con người cố gắng bảo vệ sự sống của mình và người thân cũng như tìm cách thỏa mãn nhu cầu cá nhân, phát triển năng khiếu bẩm sinh của mình. Là thành viên xã hội, con người cố tìm sự tôn trọng và yêu mến của đồng loại, chia sẻ niềm vui với họ, an ủi họ khi đau buồn và giúp họ cải thiện điều kiện sống. Chỉ sự hiện hữu của các nỗ lực đa dạng, thường trái ngược nhau ấy mới làm nên tính cách riêng của một người và sự kết hợp đặc thù của chúng quyết định mức độ một cá nhân có thể đạt tới trạng thái cân bằng nội tại và góp phần giúp ích cho xã hội. Hoàn toàn có thể là sức mạnh tương đối của hai động lực ấy chủ yếu phụ thuộc vào di truyền. Nhưng rốt cuộc rồi nhân cách vẫn thường được tạo nên bởi môi trường mà một người tình cờ lạc vào trong thời gian phát triển của mình, bởi cấu trúc xã hội mà trong đó anh ta lớn lên, bởi các truyền thống và sự phán đoán của xã hội về những hành vi khác nhau. Đối với con người cá thể, khái niệm “xã hội” trừu tượng có nghĩa là toàn thể các mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp của người ấy với những người đồng thời và tất cả những người thuộc các thế hệ trước. Con người cá thể có khả năng tư duy, cảm xúc, phấn đấu và làm việc độc lập; nhưng trong đời sống thể chất, lý trí và tình cảm của mình, cá nhân phụ thuộc vào xã hội đến nỗi không thể nào nghĩ đến và hiểu cá nhân  bên ngoài khung cảnh xã hội. Chính “xã hội” là cái đem lại cho con người quần áo, chỗ ở, công cụ lao động, ngôn ngữ, các hình thức tư duy và đa số nội dung tư tưởng; con người sống được là nhờ công sức và thành tựu của nhiều triệu người trong hiện tại và quá khứ, tất cả đều ẩn sau cái từ nhỏ nhoi “xã hội”.


Vì thế, sự phụ thuộc của cá nhân vào xã hội là một quy luật tự nhiên, một quy luật  ̶  cũng như loài kiến và loài ong   ̶  con người không thể xóa bỏ được. Tuy nhiên, trong khi cả quá trình sống của các loài ong kiến bị ràng buộc cho tới từng chi tiết nhỏ bởi bản năng di truyền bất biến, các mẫu hình xã hội và các mối quan hệ tương hỗ của con người dễ biến đổi và nhạy cảm với sự đổi thay. Ký ức, khả năng tạo ra cái mới và năng khiếu giao tiếp bằng lời nói là điều kiện cho con người có những phát triển không chịu sự chi phối của các nhu cầu sinh học. Các phát triển như thế hiện rõ qua những truyền thống, thiết chế và tổ chức; qua văn chương; qua những thành tựu khoa học kỹ thuật; qua những tác phẩm nghệ thuật. Điều ấy giải thích vì sao con người, trong một ý nghĩa nào đó, có thể tự tác động đến đời sống của mình và vì sao trong quá trình này, tư duy và ý chí có thể giữ một vai trò.


Qua đường di truyền, con người khi sinh ra đã có một cơ sở sinh học phải được xem là vững chắc, không thể thay đổi. Nó bao gồm cả các bản năng tự nhiên vốn đặc trưng cho loài người. Ngoài ra, trong cuộc đời mình con người còn tiếp nhận từ xã hội một nền tảng văn hóa qua việc giao tiếp và nhiều loại ảnh hưởng khác. Chính cái nền tảng văn hóa ấy phải chịu thay đổi theo thời gian và chi phối mạnh mẽ các mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Với những nghiên cứu đối chiếu các nền văn hóa gọi là “sơ khai”, ngành nhân chủng học hiện đại chỉ rõ rằng hành vi xã hội của con người có thể rất khác nhau và tùy thuộc vào những mẫu hình văn hóa, những cách thức tổ chức chiếm ưu thế trong xã hội. Đây chính là điều mà những ai mong muốn thay đổi số phận con người có thể đặt hy vọng vào: Không phải bởi nền tảng sinh học của mình mà con người buộc phải tiêu diệt lẫn nhau hay cam chịu những điều bất hạnh do con người tự gây ra cho mình.


Nếu chúng ta tự hỏi nên sửa đổi cơ cấu xã hội và quan điểm về văn hóa như thế nào để con người càng hài lòng với đời sống của mình càng tốt, thì chúng ta phải luôn luôn ý thức rằng có những hoàn cảnh không thể nào thay đổi được. Như đã đề cập trước đây, trạng thái sinh học của con người, trên thực tế, không chịu ảnh hưởng của sự thay đổi. Hơn nữa, những phát triển công nghệ và dân số học trong một vài thế kỷ gần đây đã tạo ra những điều kiện vững bền. Với một mật độ dân số tương đối cao và những vật dụng không thể thiếu cho sự tồn tại của họ, thì một sự phân công tối đa và một bộ máy sản xuất tập trung cao độ là hết sức cần thiết. Thời kỳ mà những cá nhân riêng lẽ hay những nhóm nhỏ có thể hoàn toàn tự cung tự cấp, thời kỳ có vẻ bình dị, yên ả khi hồi tưởng ấy đã vĩnh viễn qua rồi. Chỉ hơi cường điệu nếu khẳng định rằng nhân loại ngay bây giờ đã tạo thành một cộng đồng sản xuất và tiêu dùng toàn thế giới.


Bản chất cuộc khủng hoảng trong thời đại chúng ta


Đến đây, tôi có thể trình bày ngắn về vấn đề đối với tôi là bản chất cuộc khủng hoảng trong thời đại của chúng ta. Nó liên quan đến mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Hơn bao giờ hết, con người nhận thức về sự lệ thuộc của mình vào xã hội. Nhưng con người không trải nghiệm sự lệ thuộc ấy như một điều tích cực, một quan hệ hữu cơ, một sức mạnh che chở mình, mà như một mối đe dọa các quyền lợi tự nhiên hay ngay cả đời sống kinh tế của mình. Hơn nữa, con người có một vị trí trong xã hội cho phép các bản năng ích kỷ luôn luôn được nhấn mạnh, trong khi các bản năng xã hội vốn đã yếu thì ngày càng suy yếu hơn. Tất cả mọi người  ̶  cho dù họ có vị trí nào trong xã hội đi nữa  ̶  đều cảm thấy khổ sở vì quá trình ấy. Vô tình bị trói buộc bởi tính tự kỉ trung tâm, họ cảm thấy bất an, cô độc và mất đi niềm vui chân chất, giản dị và tự nhiên. Con người chỉ có thể tìm thấy ý nghĩa cuộc sống ngắn và đầy nguy hiểm của mình qua sự cống hiến cho xã hội.


Theo quan điểm của tôi, tình trạng vô chính phủ về mặt kinh tế hiện nay là nguồn gốc của sự tha hóa. Trước mắt chúng ta là một cộng đồng sản xuất khổng lồ mà các thành viên không ngừng tìm cách tước đoạt lẫn nhau các thành quả lao động tập thể  ̶  không bằng bạo lực nhưng thường bằng sự nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ. Về phương diện này, điều quan trọng là nhận thức rằng các phương tiện sản xuất  ̶  tức là toàn bộ khả năng sản xuất cần thiết để làm ra hàng tiêu dùng cũng như tư liệu sản xuất mới   ̶  về mặt pháp lý có thể thuộc về tài sản cá nhân và đa số trường hợp cũng là như thế.


Để đơn giản hóa, sau đây tôi sẽ gọi “công nhân” là những người không sở hữu phương tiện sản xuất  ̶  mặc dù đó không hẳn là nghĩa thông thường của từ “công nhân”. Chủ sở hữu phương tiện sản xuất giữ một vị trí trong xã hội cho phép ông ta mua sức lao động của công nhân. Với các phương tiện sản xuất, người công nhân làm ra những sản phẩm mới và những sản phẩm này trở thành tài sản của nhà tư bản. Điểm chính yếu trong quá trình ấy là tỉ lệ giữa giá trị thực mà người công nhân tạo ra và tiền công anh ta thực sự nhận được. Nếu như hợp đồng lao động “để ngỏ”, tiền công của người công nhân không được định bởi giá trị thực của sản phẩm mà bởi nhu cầu tối thiểu của anh ta và yêu cầu về sức lao động của nhà tư bản so với số công nhân cạnh tranh việc làm với nhau. Điều quan trọng là nên hiểu rằng ngay cả trong lý thuyết, lương công nhân cũng chẳng được định bởi giá trị sản phẩm do anh ta làm ra.


Tư bản tư nhân có khuynh hướng tập trung vào tay một số ít người  ̶  một phần do sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản, phần khác do phát triển công nghệ và sự mở rộng phân công lao động đã thúc đẩy quá trình hình thành những đơn vị sản xuất lớn, làm thiệt hại những đơn vị nhỏ hơn. Kết quả của những tiến trình ấy là một tập đoàn tư bản đầu sỏ với quyền lực to lớn mà ngay cả một tổ chức chính trị có cấu trúc dân chủ cũng không kiểm soát được. Thật vậy, các đại biểu của cơ quan lập pháp được bầu bởi những đảng phái chủ yếu nhận tài trợ hoặc ít nhất cũng chịu tác động của những nhà tư bản tư nhân, những người trên thực tế tách biệt cử tri với ngành lập pháp. Hậu quả là các đại biểu nhân dân không bảo vệ đầy đủ quyền lợi của các bộ phận dân chúng thiệt thòi về mặt xã hội. Hơn nữa, trong điều kiện hiện hữu, tất nhiên các nhà tư bản kiểm soát trực tiếp hay gián tiếp các phương tiện thông tin chính yếu (báo chí, đài phát thanh, hệ thống giáo dục). Vì thế nên công dân khó có thể, trong đa số trường hợp gần như không thể rút ra những kết luận khách quan và sử dụng các quyền chính trị của mình một cách khôn ngoan.


Tình trạng phổ biến trong một nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư bản được mô tả bởi hai nguyên lý chính: thứ nhất, các phương tiện sản xuất (tư bản) thuộc sở hữu tư nhân, chủ sở hữu được tùy nghi sử dụng; thứ hai, hợp đồng lao động là hợp đồng để ngỏ. Dĩ nhiên không có xã hội tư bản nào là thuần túy theo đúng nghĩa. Đặc biệt cần lưu ý rằng sau những cuộc đấu tranh chính trị gay gắt và dai dẳng, công nhân đã thành công trong việc đảm bảo một hình thức sửa đổi đôi chút của “hợp đồng lao động để ngỏ” cho một số bộ phận công nhân nào đó. Nhưng nhìn chung, nền kinh tế hiện nay không khác gì chủ nghĩa tư bản “thuần túy” cho lắm.


Sản xuất vì lợi nhuận, không vì lợi ích. Không có một bảo đảm nào để những ai có khả năng và sẵn sàng làm việc đều có thể tìm được việc làm; gần như lúc nào cũng có một “đạo quân thất nghiệp”. Người lao động luôn luôn sợ mất việc làm. Vì những công nhân thất nghiệp và lương thấp không tạo thành một thị trường mang lại lợi nhuận nên việc sản xuất hàng hóa bị giới hạn và hậu quả là tình trạng nghèo khổ. Tiến bộ công nghệ thường khiến số người thất nghiệp tăng thêm thay vì làm giảm gánh nặng công việc cho tất cả mọi người. Cùng với sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản, động cơ lợi nhuận là nguyên nhân của sự bất ổn trong quá trình tích lũy vốn và đầu tư, khiến cho ngày càng có nhiều đợt suy thoái nặng nề hơn. Cạnh tranh vô giới hạn khiến lao động bị lãng phí rất nhiều và làm bại liệt ý thức xã hội của những cá nhân mà tôi đã đề cập tới.


Tôi cho rằng tình trạng bại liệt ấy là tai họa lớn nhất của chủ nghĩa tư bản. Cả hệ thống giáo dục của chúng ta phải chịu tổn thất vì nó. Sinh viên bị nhồi sọ là phải nỗ lực cạnh tranh với nhau, họ được tập luyện để tôn thờ sự thành công hám lợi như là bước chuẩn bị cho đường công danh của họ.


Vấn đề tập trung quyền lực trong chủ nghĩa xã hội


Tôi tin chắc rằng chỉ có một phương cách loại trừ tai họa nặng nề đó, ấy là thiết lập một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa kèm theo một hệ thống giáo dục hướng tới những mục tiêu xã hội. Trong một nền kinh tế như thế, các phương tiện sản xuất thuộc về xã hội và được sử dụng theo kế hoạch. Một nền kinh tế kế hoạch điều tiết sản xuất theo nhu cầu sẽ phân phối công việc cho tất cả những ai có khả năng lao động và bảo đảm sinh kế cho mọi đàn ông, đàn bà cũng như trẻ con. Ngoài việc giúp con người khai thác năng khiếu bẩm sinh của mình, hệ thống giáo dục còn cố gắng phát triển trong con người một ý thức trách nhiệm đối với đồng loại, thay vì ca tụng quyền lực và sự thành công như trong xã hội hiện tại của chúng ta.


Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng một nền kinh tế kế hoạch chưa phải là chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế kế hoạch theo cách hiểu thông thường có thể kèm theo một sự nô dịch hóa cá nhân hoàn toàn. Thành tựu của chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có giải đáp cho vài vấn đề chính trị – xã hội vô cùng khó khăn: Xét đến việc tập trung hóa cao độ những lực lượng chính trị và kinh tế, làm thế nào để có thể ngăn ngừa một bộ máy quan liêu có quyền lực tuyệt đối, vô hạn? Làm thế nào để các quyền lợi của cá nhân được bảo vệ và nhờ đó mà một đối trọng dân chủ của bộ máy quan liêu được bảo đảm?


Nhận thức về các mục tiêu và vấn đề của chủ nghĩa là vô cùng quan trọng trong thời kỳ quá độ của chúng ta. Trong điều kiện hiện nay, việc thảo luận các vấn đề ấy một cách cởi mở, tự do là điều cấm kị [3] nên tôi cho rằng sự sáng lập tạp chí này là một dịch vụ công quan trọng.


Nguồn: Albert Einstein, Why Socialism? Monthly Review May 2009 [May 1949]


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Hải Hồ & pro&contra




[1] Các tiểu đề và lời chú thích là của người dịch.




[2] Thorstein Veblen (1827-1929): nhà kinh tế học và xã hội học Hoa Kỳ, nghiên cứu về sự hình thành chủ nghĩa tư bản độc quyền của Mỹ, lý thuyết về xã hội, những quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng v.v. Ông có ảnh hưởng lớn trong giới khoa học kinh tế quốc dân và xã hội học ở Mỹ.




[3] Chắc hẳn Einstein muốn nói đến chính sách chống cộng cực đoan ở Mỹ trong “thời kỳ McCarthy” (1947-1956).  Không kể nhiều đảng viên cộng sản và lãnh tụ phái tả, những người bị tình nghi âm mưu lật đổ, phá hoại, hoạt động gián điệp đều là đối tượng của chính sách này. Trong số đó, có nhiều nhà khoa học (ví dụ như Edward Condon, Robert Oppenheimer, Albert Einstein) và nhiều văn nghệ sĩ danh tiếng (Charlie Chaplin, Thomas Mann, Bertold Brecht, Arthur Miller v.v.). Họ bị theo dõi, thẩm vấn điều tra, cách chức hay trục xuất, thậm chí bị án tù. Nặng nề nhất là trường hợp hai vợ chồng Julius và Ethel Rosenberg bị kết án tử hình vì tội cung cấp tài liệu làm bom nguyên tử cho Liên Xô, chủ yếu chỉ dựa trên lời khai của một em trai của Ethel. Năm 1953, hai người bị tử hình, bất kể sự phản đối dữ dội trên khắp thế giới.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 10, 2014 15:05

December 8, 2014

Một con thuyền

Phạm Thị Hoài


Năm ngoái, anh Lập đề nghị tôi đứng tên phụ trách Quê Choa. Đó là thời điểm Nghị định 72 chuẩn bị có hiệu lực. Quê Choa đã tự điều chỉnh, như nhiều lần trước đó. Lúc chỉ đăng bài của chính Bọ. Lúc tạm đóng phần bình luận của độc giả, rồi mở lại, rồi đóng hẳn. Lúc thêm chế độ đánh giá bài, rồi lại bỏ. Lúc tạm dừng đăng bài, chỉ điểm tin từ báo chí nhà nước và một số hãng tin lớn quốc tế. Lần này, chủ trang thận trọng kèm lời ghi xuất xứ: “Bài của tác giả gửi Quê Choa” và tin cậy vào sự ủng hộ của bạn bè. Trang của anh, ngoài nội dung thông tin, còn có thể coi là một hàn thử biểu đo thời tiết chính trị ở Việt Nam. Thời tiết thoáng đãng hơn, không khí cởi mở hơn, Quê Choa xông pha hơn, đăng lại cả bài của những tác giả bị nhà nước Việt Nam khóa chặt trong danh sách đen. Mây mù bắt đầu kéo lên, Quê Choa nhẹ nhàng lui lại một bước, hai bước, có khi cả ba bước. Anh Lập là tất cả, chỉ trừ cực đoan.


Tôi thật sự thấy vinh dự, nhưng đã từ chối. Quê Choa sẽ không còn là nó, nếu do một người khác điều hành, nhất là điều hành từ hải ngoại, dù chỉ trên danh nghĩa. Thành công của trang tin này gắn với chủ nhân của nó, một nhà văn nổi tiếng, sống trong nước, có một sự nghiệp sáng tác thuộc hàng đầu trong văn chương đương đại nước nhà. Tác phẩm của anh đứng trong dòng chính. Sách của anh bán chạy. Kịch của anh đắt hàng. Anh viết sinh động, hóm hỉnh, thiên về hướng dân dã mộc mạc, gần đây pha đậm chất khẩu văn tếu táo, vốn không phải sở thích lâu dài của tôi, song ở những trang xuất sắc nhất tôi có cảm giác rằng các mẩu kí ức vụn của anh về những mảnh đời đen trắng trong cái thời màu xám của chúng ta có thể diễn đạt nhiều hơn bao nhiêu nhận định, phân tích, nghiên cứu, tuyên ngôn hùng biện… Nếu tôi không nhầm, anh cũng là đảng viên và giao du thân mật với một số nhân vật trong chính quyền. Một chức quan văn kha khá trong vô số các hiệp hội văn học nghệ thuật ở Việt Nam là chuyện trong tầm tay, ở đó anh hoàn toàn có thể trở thành một Mạc Ngôn trừ đi phần huyễn giác huyền ảo thêm vào phần hài hước, một lúc nào đó cũng trúng cơ cấu Giải thưởng Nhà nước rồi bước vào sách giáo khoa, thêm vài giải thưởng trong khu vực nữa là mãn nguyện một sự nghiệp. Nhưng ngay từ đầu, trong những buổi trò chuyện đầy cảm hứng ở thời Đổi Mới hai mươi lăm năm trước, tôi đã nhận ra không lầm rằng anh sẽ chẳng bao giờ trở thành một quan chức văn nghệ, dù chỉ quan chức hờ chờ phát biểu lấy lệ và sổ hưu. Anh trở thành một blogger.


Chuyển Quê Choa sang Berlin thì vô nghĩa, dù hai phần ba người Việt ở đây nói giọng bọ, tôi đùa. Chuyển Ba Đình sang Boston hợp lí hơn, giới quý tộc đỏ – hoặc đã chuyển màu huyết dụ – nhập hộ khẩu ở duyên hải miền Đông Hoa Kỳ ngày càng đông đảo. Nhưng giọng người bạn cách nửa vòng trái đất thì đầy lo ngại. Chỉ cần nó phạt hành chính, hôm nay vài chục triệu, ngày mai vài chục triệu, mình viết văn chứ có buôn cổ phiếu đâu. Rồi nó gọi lên gọi xuống, mình chân tay người ngợm thế này, đứng lên ngồi xuống còn vất vả, rồi làm khổ cả gia đình… Tôi gợi ý, thuê máy chủ bên này, kĩ thuật viên bên này, lỡ có sự cố gì thì Quê Choa vẫn tồn tại. Song lại nhận ra rằng đề nghị đó cũng vô nghĩa nốt. Quê Choa gắn với bọ Lập. Không có tác nhân hội tụ là anh, Quê Choa chỉ còn là cái xác trên một server an toàn. Tôi bảo, trăm triệu thì không có ngay, chứ chục triệu chẳng lẽ mấy trăm ngàn độc giả của anh không góp được để trả tiền phạt? Rồi cũng lại nhận ra, đó là chuyện không tưởng. Chúng ta có thể chờ đợi tất cả ở người Việt – và ở đây đang nói đến những người còn quan tâm đến thế sự thời cuộc -, chỉ trừ sự đóng góp cụ thể và bền bỉ về tài chính. Tất cả, dù chia rẽ trong mọi quan điểm, đều đồng thuận trong tinh thần hưởng thụ miễn phí. Tự do, dân chủ, nhà nước duy pháp quyền là những thứ rất tốn kém. Vấn đề đầu tiên của một nền báo chí độc lập cho Việt Nam là tiền đâu. Chừng nào còn né tránh nó, chúng ta còn giầm chân trong giới hạn cuối cùng mà những thành tựu thiện nguyện và tài tử có thể đạt tới. talawas trước kia đã đi hết giới hạn đó.


Phương án này, phương án kia. Song chúng tôi biết rằng cuối cùng vẫn không có gì khác. Anh biết rằng tôi không thể nhận lời. Tôi biết rằng anh không thể không tiếp tục. Ừ, để mình tính, dám làm thì dám chịu, hi vọng tình hình khá lên, anh Lập kết thúc vụ âm mưu xuyên biên giới, giọng thì cười nhưng người thì không.


Tình hình có vẻ khá lên, với sự ra đời liên tiếp trong một thời gian ngắn của Ban Vận động thành lập Văn đoàn Độc lập Việt Nam và trang Văn Việt, Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam và trang Việt Nam Thời báo. Cũng liên tiếp trong một thời gian ngắn, các nhà báo và nhà hoạt động dân chủ nổi tiếng Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Tiến Trung, Vi Đức Hồi, Đỗ Thị Minh Hạnh, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và một số người khác được trả tự do trước thời hạn. Quê Choa dường như bình an. Anh Lập còn tuyên bố rút hẳn khỏi tất cả các hội văn nghệ mà anh là thành viên, để tập trung vào trang blog đã trở thành địa chỉ truy cập hàng đầu của báo chí tự do, làm một cá nhân độc lập, một “người lái đò nhỏ chở con thuyền sự thật”, vẫn ôn hòa và thận trọng như xưa.


Gần hai tháng nay, tôi để ý thấy Quê Choa chủ yếu đăng lại tin từ báo chí nhà nước và các hãng tin quốc tế, thỉnh thoảng có bài từ các blogger và Facebooker danh tiếng, song là những người không hề bị coi là persona non grata đối với chính quyền. Từ khi blogger Hồng Lê Thọ bị bắt, Quê Choa càng kiềm chế hơn. Song điều duy nhất có thể đoán trước ở một chế độ chuyên chế là sự không thể đoán trước của nó, kể cả sự sụp đổ. Và điểm tích cực duy nhất, nếu có thể dùng từ này, trong sự kiện anh Lập bị bắt, là nhận thức – vâng, nhận thức miễn phí cho tất cả, chỉ rất đắt cho anh và gia đình – rằng mọi bí quyết để an toàn tương đối trong một nhà nước chuyên chế là tuyệt đối vô nghĩa.


Chúng ta lại đoán già đoán non vì sao người này bị bắt, người kia không. Chúng ta lại lần mò ranh giới an toàn giữa một bãi mìn. Chúng ta lại đi tìm tín hiệu từ những hộp đen. Chúng ta lại nghe ngóng thế cuộc trên thượng tầng quyền lực. Chúng ta lại đổ tất cả lên đầu Trung Quốc và đặt tất cả hi vọng vào Hoa Kỳ. Chúng ta lại cảm thán, bằng cả văn vần, về một con người đầy khí phách vừa lâm nạn. Và tất nhiên chúng ta cầu cho anh bình an. Vâng, bình an, nghe mà phát điên, nhưng chúng ta vẫn không thôi nói như thế. Điều duy nhất chúng ta không làm là những hành động cụ thể, ở quy mô đủ rộng để có một tác động thực. Hàng trăm nghìn độc giả của anh sẽ quen rất nhanh khoảng trống anh để lại trên không gian ảo, như hàng trăm nghìn độc giả của Anh Ba Sàm.


Con thuyền của anh Lập, dập dìu sóng vỗ khi nào, là một con thuyền lẻ loi. Lật bởi sự tồi tệ của thể chế chính trị. Chìm bởi sự đơn độc của chính nó giữa vài ba con thuyền đơn độc khác. Đắm bởi sự bạc bẽo của phần lớn chúng ta.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 08, 2014 17:34

December 5, 2014

Tử tù Claude Gueux (2)

Victor Hugo


Phạm Hồng Sơn dịch và chú thích


Xem kì 1toàn văn trong bản PDF


Nơi diễn ra những việc vừa nói là một căn buồng hình chữ nhật có các cửa sổ trổ dọc theo hai bức tường dài và có hai cửa ra vào ở hai đầu. Các máy cùng các bệ vừa để nằm vừa để ngồi làm việc được bố trí ở hai bên gần các cửa sổ, vuông góc với tường, tạo thành một khoảng trống ở giữa làm thành một lối đi hẹp thẳng tắp từ đầu này tới đầu kia của căn buồng. Lão giám xưởng sẽ đi trên con đường dài và hẹp đó khi đi tuần. Lão sẽ vào từ cửa Bắc, đánh mắt sang hai bên và ra bằng cửa Nam. Thường lão đi khá nhanh, không dừng bước.


Claude đã trở về bệ của gã bắt đầu làm việc riêng của mình giống như người tù bên cạnh, kẻ đã từng ra tay giết hụt một viên công chức vô lại [1], đang bắt đầu bài nguyện hàng ngày.


Tất cả chờ đợi. Giờ khắc quyết định đến gần. Bỗng một tiếng chuông vang lên. Claude buột miệng: 15 phút nữa. Xong, Claude đứng lên, xuống lối đi về phía bệ nằm đầu tiên bên trái cạnh ngay cửa vào. Claude đứng chờ, nét mặt hoàn toàn điềm tĩnh, nhân từ.


Chuông điểm chín giờ. Cửa mở ra. Lão giám xưởng đi vào. Cả căn buồng lặng băng như một nhà chứa tượng.


Giám xưởng vẫn đi một mình như mọi khi.


Lão đi vào với dáng vui tươi, mãn nguyện, dứt khoát. Lão không nhìn thấy Claude lúc đó đang ở bên trái, bàn tay phải đút trong quần, đang đi rất nhanh ra phía trước khu bệ đầu tiên, đầu gật gật, lẩm nhẩm điều gì trong miệng, nhìn đâu đó bằng con mắt vô hồn, không biết mọi con mắt đều đang dán vào gã với một ý nghĩ ghê rợn.


Bỗng giám xưởng bật quay người lại vì có tiếng chân bước phía sau.


Claude đã lặng lẽ đi sau lão được mấy bước.


“Mày làm gì ở đấy đấy?” Giám xưởng nói, “Sao không ở chỗ của mày?”


Một con người sẽ bị coi không bằng con chó nếu không còn được coi là con người nữa.


Claude vẫn từ tốn trả lời:


“Thưa ông, vì tôi muốn được nói với ông.”


“Gì?”


“Trắng.”


“Vẫn thế à!”


“Vâng.”


“Thế đấy,” lão giám vẫn rảo bước. “Hai mươi bốn tiếng trong ca-sô đối với mày chưa đủ sao?”


Claude vừa lẽo đẽo phía sau vừa nói:


“Thưa ông giám, hãy trả lại bạn cho tôi.”


“Không đượ..c.”


“Thưa ông,” sự rờn rợn thấy lạc trong giọng Claude. “Tôi van ông đấy, trả Trắng về cho tôi rồi ông sẽ thấy tôi làm việc tốt hơn. Ông đang được tự do, cũng đúng thôi, ông không hiểu ý nghĩa của một người bạn đâu. Nhưng tôi, chỉ có bốn bức tường cao chót vót. Ông có thể đến rồi về. Tôi chỉ có mỗi Trắng thôi. Hãy trả cậu ấy cho tôi đi. Trắng đã nuôi tôi, ông biết rõ mà. Làm thế ông chỉ mất có mỗi câu ‘Ừ’ thôi. Tất cả những cái ông cần làm chỉ là để cho một kẻ tên Claude được sống cùng buồng với một kẻ tên Trắng thôi, không hơn đâu. Thưa ông giám xưởng, ông D. tốt bụng của tôi, nhân danh trời xanh, tôi van xin ông đấy!”


Có lẽ chưa bao giờ Claude nói nhiều như thế với một cai tù. Sau đó, gã im lặng vẻ kiệt sức. Lão giám xưởng gằn giọng:


“Không được. Đã nói rồi. Đừng lải nhải lại chuyện này nữa. Mày đang quấy rầy tao đấy.”


Vẻ vội vã, lão giám rảo bước nhanh hơn và Claude cũng rảo theo. Cả hai cùng tiến đến gần chiếc cửa ra ở phía Nam. Tám mươi mốt đôi mắt không bỏ sót một cử chỉ nào của hai người và bằng ấy đôi tai cố bắt hết những âm thanh phát ra từ họ, tất cả hổn hển vì căng thẳng.


Claude giơ tay giữ nhẹ vào áo giám xưởng:


“Nhưng ít nhất tôi cũng phải được biết tại sao tôi lại bị kết vào đường chết như thế chứ. Cho tôi biết tại sao ông lại chia li chúng tôi?”


“Tao đã nói rồi,” lão giám trả lời. “Vì.”


Rồi hất lưng về Claude, lão giám đưa tay ra trước với vào quả đấm cửa.


Lão cai dứt lời, Claude lùi lại một bước. Tám mươi mốt đôi mắt nhìn bàn tay phải Claude rút khỏi quần, rìu giơ lên cao và trước khi lão cai rú lên một tiếng, ba nhát bổ xuống cùng một điểm vào đầu lão cai, sọ toác ra. Khi cái thân đang bổ ngửa ra sau, nhát thứ tư chẻ ngay vào giữa mặt. Theo đà lưỡi rìu phăng thêm một nhát vào đùi, thành nhát thứ năm, nhát vô ích. Lão giám đã chết rồi.


Xong, Claude ném rìu xuống, hét lên: Nào, giờ đến thằng kia! Thằng kia, chính là gã. Mọi người thấy gã rút từ trong áo khoác ra cái kéo nhỏ của “vợ gã” và, không ai kịp nghĩ gì, gã cắm phập chiếc kéo vào ngực mình. Nhưng lưỡi kéo quá ngắn so với vồng ngực. Gã ngoáy kéo điên loạn trên ngực vừa rống: “Tim ơi, đồ chết tiệt, mày đâu rồi!” rồi ngã đổ xuống vũng máu tràn trên sàn, bất động.


Kẻ nào là nạn nhân của kẻ nào trong hai thân người đang nằm đó?


Khi tỉnh lại, Claude thấy mình đang nằm trên một chiếc giường được phủ khăn trải đàng hoàng với đầy bông băng và sự quan tâm. Gần đầu giường có mấy xơ vẻ thánh thiện đang túc trực và một viên dự thẩm [2] đến để lập hồ sơ, người này lên tiếng sốt sắng:


Anh thấy trong người thế nào?


Gã đã mất nhiều máu, nhưng chiếc kéo mà gã rất tin tưởng đã phụ công gã, không gây ra cú chí mạng nào cho gã như gã đã làm cho M.D.


Cuộc thẩm vấn bắt đầu. Người ta hỏi có đúng gã đã giết ông giám xưởng của nhà tù Clairvaux không, gã trả lời: Đúng. Hỏi tại sao. Gã trả lời: .


Có lúc các vết đâm bị tấy lên gây ra những cơn sốt hầm hập cơ hồ gã sẽ chết.


Tháng Mười Một, Mười Hai, Một và Hai đều trôi qua trong sự săn sóc và chuẩn bị. Thầy thuốc và các viên dự thẩm thay nhau vây quanh gã. Một phía cố chữa lành các vết thương của gã, còn phía kia chuẩn bị dựng đoạn đầu đài cho gã.


Ngày 16/3/1832, Claude, với sức khỏe hoàn toàn hồi phục, bị đưa ra tòa đại hình tại Troyes. Dân của thị trấn nô nức đến xem, tất cả ai đi được đều thấy có mặt ở tòa.


Claude trông rất đàng hoàng trước tòa. Râu được cạo rất cẩn thận. Đầu trọc nhẵn thín, khoác bộ đồng phục phẳng phiu màu ghi buồn của nhà tù Clairvaux.


Ông công tố viên đã cho cả toán lính bộ binh của quận vào choán trong phòng xử, ông nói với cử tọa là “để trông chừng những tên tội phạm sẽ phải ra làm chứng trong vụ này”.


Trong phần tranh tụng đã xảy ra một chuyện đặc biệt. Tất cả những người đã chứng kiến những việc xảy ra trong cái tối 4 tháng Mười Một đó đều từ chối khai báo. Ông chánh thẩm đã phải đe cả bọn tù làm chứng phải lên tiếng, nếu không ông sẽ dùng đến quyền chuyên quyết [3], nhưng cũng vô dụng. Chỉ đến khi Claude ra hiệu, tất cả lũ tù mới động đậy miệng, rồi từng người kể lại những gì đã trông thấy.


Claude nghe hết sức chăm chú. Mỗi khi có người quên hoặc cố ý bỏ sót tình tiết bất lợi cho bị cáo, Claude lên tiếng bổ sung ngay.


Các nhân chứng lần lượt dựng lại trước tòa tất cả những sự kiện chúng ta đã thấy ở trên.


Có lúc tất cả đàn bà con gái trong khán phòng đều khóc. Rồi đến lượt Trắng bị gọi ra. Liêu xiêu bước vào tòa và khóc nấc lên khi trông thấy Claude. Trắng chạy đến ngã vào lòng Claude trước sự sững sờ không kịp trở tay của các hiến binh. Claude ôm lấy Trắng, mỉm cười và hướng về công tố viên: “Đây, đây chính là kẻ khốn khổ đã chia bánh của hắn cho những kẻ đói rét hơn đấy.” Claude nâng bàn tay của Trắng lên, từ từ chạm môi vào.


Khi mọi nhân chứng đã nói hết, ông công tố viên đứng lên trịnh trọng: “Thưa các quí vị phụ thẩm, xã hội ta chắc chắn sẽ bị quấy đảo tận gốc rễ nếu pháp luật của nhà nước không trừng trị những tên thủ phạm nghiêm trọng như kẻ phạm tội này…”


Hết bài luận tội nhớ đời này là đến lượt luật sư của Claude. Ông luật sư tuần tự trình bày các căn cứ kết tội và gỡ tội để làm cho đủ các thủ tục mà người ta vẫn gọi là các qui định tố tụng hình luật.


Nhưng Claude cho rằng mọi điều vẫn chưa được nói hết. Tới phiên mình gã đứng dậy. Tất cả cử tọa kinh ngạc vì cách trình bày sáng sủa, khúc chiết của gã. Người ta có cảm tưởng gã thợ đáng thương này có tố chất của một nhà hùng biện hơn là của một tên sát nhân. Đầu ngẩng cao, lưng thẳng, giọng truyền cảm, mạch lạc và hết sức chủ động, đôi mắt sáng, chân thành, cả quyết, với một cử chỉ gần như không đổi nhưng đầy uy lực. Phần thuật của gã toát lên sự mộc mạc, nghiêm túc và chính xác đúng như sự việc đã diễn ra, không thêm không bớt. Gã thừa nhận tất cả rồi đưa mắt nhìn vào cuốn Hình luật có Điều 296  “Tội giết người có chủ ý” để ngay phía trước, rồi đầu hơi ngả ra sau làm nhiều người hình dung ra tư thế của kẻ đang đưa đầu vào máy chém. Đám đông dự khán nhiều lúc lặng đi vì xúc động và vì những câu gã nói có lúc cứ vang lên trong đầu họ nhiều lần. Tiếng rì rầm của cử tọa thỉnh thoảng rộ lên giúp gã thêm được mấy giây lấy hơi và ném ánh mắt dõng dạc vào đám nhân viên tòa. Có những lúc kẻ vô học mù chữ đó còn có dáng nhã nhặn, lịch lãm đặc biệt của hạng thức giả. Gã còn sải chân bước, đi đi lại lại trong khu tranh tụng một cách từ tốn, tiết chế, chăm chú và độ lượng khi nhìn các thẩm phán. Chỉ duy nhất có một lúc gã đã để cho cơn giận trào lên. Đó là khi ông công tố viên, người đã phát ra bản luận tội đáng nhớ mà chúng ta đã thấy đầy đủ ở trên nói rằng, Claude đã đang tay giết viên giám đốc xưởng tù mà không hề có bạo hành hay bạo lực từ phía nạn nhân, nghĩa là hoàn toàn không có khiêu khích.


“Sao!” Claude gằn lên. “Không kẻ nào khiêu khích tôi! À, mà đúng đấy. Chính xác. Tôi đã hiểu quí ngài. Một kẻ say đấm vào mặt tôi, tôi giết chết hắn thì tôi sẽ được ngài cho hưởng ân huệ vì bị khiêu khích. Nhưng một kẻ, không say, hoàn toàn tỉnh táo, cố tình bóp nghẹt tim tôi trong suốt bốn năm, nhục mạ tôi trong suốt bốn năm, nhạo báng tôi hàng ngày, hàng giờ, hàng đêm, không phút nào ngưng bằng sự chế giễu, châm chọc bất kỳ lúc nào thì không phải là khiêu khích, hả! Tôi chỉ có một người đàn bà yêu thương, hắn xúc xiểm người đàn bà ấy. Tôi chỉ có một đứa con yêu dấu, hắn phỉ báng đứa con ấy. Tôi không đủ bánh để sống và được một người bạn cho ăn, hắn cướp luôn người bạn cùng miếng bánh. Tôi xin hắn trả lại bạn, hắn cho tôi vào ca-sô. Tôi thưa hắn là ông, hắn gọi tôi là mày. Tôi nói tôi đang đau lòng lắm, hắn bảo tôi đừng làm phiền. Vậy các ngài muốn tôi phải làm gì, làm gì? Tôi giết hắn. Đúng thế. Tôi là một con quái vật, tôi đã giết chết thằng người đó mà không hề bị khiêu khích hay chọc ghẹo, vậy các ngài hãy chặt đầu tôi đi. Chặt đi!”


Cơn giận đỉnh điểm bỗng chốc làm người ta nhớ lại ngoài những thứ khiêu khích bằng tay chân mà pháp luật thường xem xét một cách phiến diện để ân giảm tội trạng còn có một kiểu khiêu khích khác nữa, khiêu khích tinh thần.


Phần tranh tụng chấm dứt. Ông chánh thẩm đứng lên đọc bản kết luận vụ án với những từ ngữ khách quan và minh xác như thế này: sống lông bông, hung dữ, Claude Gueux đã bắt đầu tội lỗi bằng việc chung chạ với một con điếm, rồi đi ăn trộm, và cuối cùng là giết người.


Tất cả những điều đó đúng.


Khi đưa các phụ thẩm vào nghị án, ông chánh thẩm hỏi bị cáo có điều gì muốn nói thêm về vụ việc không.


“Ít thôi.” Claude nói. “Chẳng hạn, tôi là một tên ăn trộm, một kẻ giết người. Tôi đã ăn trộm, tôi đã giết người. Nhưng tại sao tôi lại phải ăn trộm? Tại sao tôi lại phải giết người? Hãy thêm hai câu hỏi này vào phần cân nhắc của các vị, thưa các ông.”


Sau mười lăm phút bàn bạc, mười hai cư dân trong vùng, mà người ta gọi là các quí ông phụ thẩm, tuyên bố án phạt dành cho Claude Gueux: tử hình.


Ngay từ lúc tranh tụng nhiều người đã ngạc nhiên vì tên của bị cáo – Gueux –  kẻ khốn cùng.


Mọi người đều hiểu Claude đã có phán quyết riêng của gã:


Được thôi. Nhưng tại sao kẻ đó lại đi ăn trộm, tại sao kẻ đó lại phải giết người? Đó, họ không trả lời được.”


Trở lại hầm giam, gã thở phào: 36 năm đã xong!


Gã không muốn kháng án. Có một xơ, người đã từng chăm sóc gã trước đây, đến gặp gã, xin gã hãy làm đơn kháng cáo. Xơ khóc. Cuối cùng gã chiều lòng xơ nhưng đã khước từ tới tận giây cuối cùng vì khi gã điểm chỉ vào lá đơn đề nghị phá án thì thời hạn 3 ngày theo luật định đã trôi qua từ nhiều phút trước. Người xơ hiền từ để tỏ lòng biết ơn đã đưa tặng gã đồng 5 franc. Gã cầm lấy tiền và cảm ơn.


Trong suốt thời gian chờ đợi phá án, các tù trong vùng đều giục giã và nhiệt tâm gợi ý sẵn sàng giúp Claude đào thoát. Gã từ chối. Ở bên ngoài đã ném vào ca-sô của gã lần lượt ba thứ: một chiếc đinh, một đoạn dây thép và một quai xô. Chỉ một trong ba thứ đó đã đủ cho một người tháo vát như gã phá tan cùm và song cửa. Nhưng gã đã đưa cả ba thứ đó cho lính canh.


Ngày 8 tháng Sáu năm 1832, sau bảy tháng và bốn ngày, quyết định cuối cùng cũng bò được tới nơi. Hôm đó, 7h sáng, một nhân viên của tòa vào tận ca-sô của Claude thông báo gã chỉ còn một giờ đồng hồ nữa để sống. Kháng án đã bị bác.


“Nào đi thôi, đêm qua mình đã có một giấc rất ngon mà không ngờ đêm mai còn ngon hơn.” Claude thản nhiên nói.


Lời nói của những kẻ can trường lúc cận kề tử thần hình như luôn phải lãnh một sứ mệnh chứng thực cho một chân lý nào đó.


Linh mục rồi đao phủ lần lượt đến. Claude đón người đầu bằng sự kính cẩn và tiếp người sau bằng sự nhã nhặn. Gã không chối bỏ con người gã, cả phần xác lẫn phần hồn.


Gã vẫn giữ được nguyên vẹn sự tự do toàn hảo của tinh thần. Trong khi ngồi để cắt tóc [4] gã nghe thấy có người nói về dịch tả đang đe dọa cả vùng, gã mỉm cười: Tôi bây giờ còn sợ gì tả.


Nhưng gã hết sức chú tâm khi nghe linh mục nói, gã thú nhiều tội lỗi và tỏ ra hối tiếc đã không được học đạo.


Thể theo ý gã, người ta đã trả lại gã cái kéo gã đã dùng để giết gã nhưng không thành. Cái kéo thiếu mất một lưỡi vì đã phải nằm lại trong ngực gã. Gã xin cai tù trao cái kéo đó cho Trắng. Gã cũng muốn mọi người giúp gã chuyển thêm cho Trắng một món quà là suất bánh của gã trong ngày hôm đó.


Ngoài ra, Claude đề nghị những người trói tay gã hãy đặt đồng 5 franc vào bàn tay phải của gã. Đây là số tiền gã đã nhận từ một xơ và cũng là tài sản duy nhất còn lại của gã.


Tám giờ kém mười lăm, Claude bước ra khỏi nhà tù, theo sau là đoàn tù đưa tiễn, im lặng, u buồn. Chân trần, da xanh xao, mắt nhìn vào cây thập tự phía trước trong tay linh mục, Claude tiến thẳng bằng những bước chắc chắn.


Ngày ấy đã được chọn để hành quyết Claude là vì đó là phiên chợ, để càng nhiều người thấy vụ hành quyết càng tốt. Nước Pháp vẫn còn nhiều nơi mông muội, người ta reo hò nhảy múa khi thấy xã hội giết đi một con người.


Claude đĩnh đạc đặt chân, bước lên đoạn đầu đài nơi để chiếc máy chém, mắt không rời cái giá đóng đinh Chúa. Gã tỏ ý muốn vòng tay ôm linh mục để cảm ơn và ôm đao phủ để tỏ sự thông cảm. Đáp lại, người đao phủ nhẹ nhàng đẩy lại gã vào vị trí. Khi người phụ đã chằng xong gã vào cỗ máy gớm ghiếc, gã làm dấu để vị linh mục cúi xuống cầm lấy đồng 5 franc đang nằm trong bày tay phải:


Dành cho những người nghèo, Cha ạ.”


Ngay lúc đó đồng hồ điểm tám giờ, âm vang từ tháp chuông tỏa trùm lên tiếng nói của gã, vị linh mục nói rằng ngài không nghe thấy gì. Claude chờ, đón đúng vào điểm lặng giữa hai tiếng chuông, nhỏ nhẹ:


Cho người nghèo.


Tiếng chuông thứ tám chưa kịp ngân, đầu Claude đã rơi.


Những cuộc hành quyết nơi công cộng gây ra những tác động thật đáng phục! Ngay chính hôm đó, khi chiếc máy chém vẫn còn dựng đứng, còn nguyên chưa chùi rửa, những người mua bán quanh đó đã tụ tập nhau lại để ca cẩm về một loại thuế và mưu toan giết đi người thu thuế. Đó, pháp luật nào dân chúng đấy.


Chúng tôi đã thấy cần phải kể lại từng chi tiết trong câu chuyện về Claude Gueux là vì mỗi phần của câu chuyện có thể làm thành đầu đề cho một chương trong cuốn sách nhằm giải quyết cái vấn nạn gay go của chúng ta trong thế kỷ XIX này.


Trong cuộc đời đáng thương vừa kể, chúng ta thấy có hai phần quan trọng, trước và sau khi sa tội. Trong mỗi phần đó đều có hai câu hỏi lớn: giáo dục và hình phạt. Và giữa hai câu hỏi đó là toàn thể xã hội của chúng ta.


Con người đã bị chém đầu đó, chắc chắn đã được sinh thành một cách tốt đẹp, đã được thiên nhiên tạo tác một cách chu đáo và hào phóng. Vậy, anh ta còn thiếu cái gì? Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ.


Đấy chính là bài toán lớn về sự phân bổ tỷ lệ mà lời giải vẫn đang phải tìm để giúp con người chúng ta có một cân bằng hoàn chỉnh: Rằng xã hội cũng phải quan tâm, chăm chút con người như thiên nhiên đã quan tâm, chăm chút.


Hãy nhìn lại Claude Gueux. Một bộ não được cấu tạo tuyệt vời, một trái tim được tạo tác nhân hậu. Nhưng số phận lại đưa anh ta vào một xã hội được chế tác dở tới mức anh ta phải kết thúc bằng việc ăn trộm. Rồi xã hội lại đẩy anh ta vào một nhà tù tồi đến mức anh ta phải cáo chung bằng việc giết người.


Ai là thủ phạm thực sự? Anh ta? Hay chúng ta?


Những câu hỏi nghiêm trọng, đau lòng này đang khẩn nài tất cả những bộ óc, đang vật nài quan tâm của tất cả chúng ta dù chúng ta là ai, và một ngày nào đó chúng sẽ chặn đứng chúng ta lại, bắt chúng ta phải đối diện và trả lời những yêu cầu của chúng.


Kẻ đang viết những dòng này sẽ thử cố đưa ra một cách giải quyết có thể khả dĩ cho những câu hỏi đó.


Khi chúng ta cùng trông thấy những nghịch cảnh giống nhau, khi chúng ta cùng lo lắng về sự khốn khổ do những nghịch cảnh đó gây ra, chúng ta phải tự hỏi chính quyền sinh ra để làm gì nếu chính quyền lại không quan tâm, lo lắng tới những vấn đề đó.


Nhưng chắc chắn rồi, cả hai Viện của Quốc hội vẫn tất bật quanh năm suốt tháng đấy chứ. Quốc hội cần phải loại bớt đi những chức vụ “ăn không, ngồi rồi”, cắt đi những khoản chi vô ích cho ngân sách quốc gia và cũng rất cần phải làm ra những bộ luật để những kẻ như tôi phải đóng bộ quần áo lính để đi gác cửa nhà cho quí ông bá tước vùng Lobau [5] mà tôi không quen biết và cũng chẳng muốn quen biết, hoặc buộc phải tham gia vào đoàn diễu hành ở sân Marigny [6] dưới sự điều khiển độc đoán của anh hàng mắm mà người ta đã tâng anh ta lên thành vị chỉ huy của tôi.[7]**


Các ông bộ trưởng hay các vị đại biểu Quốc hội cũng cần phải lục lọi, rà soát, xem xét, huy động cho bằng hết mọi thứ, mọi ý tưởng của đất nước này trong những cuộc thảo luận, tranh cãi về những kế hoạch hời hợt và tầm phào. Ví như họ sẽ phải dựng ngành nghệ thuật thế kỷ XIX lên để cật vấn, xét hỏi nhưng lại chẳng biết người khác đã nói gì, bình phẩm gì về kẻ “bị cáo” nghiêm túc và lừng lẫy đó – kẻ đã không đáp lời, chỉ lẳng lặng làm ra những tác phẩm tuyệt vời. Rồi các vị quản lý, các nhà lập pháp cũng phải thấy có lợi cho việc tiêu khiển thời gian bằng các cuộc hội thảo mà những thầy giáo ở thôn quê của chúng ta cũng phải nhún vai và quay mặt đi. Các vị công bộc đó cũng thấy thật hữu ích khi tuyên bố hùng hồn rằng chính nghệ thuật sân khấu hiện đại [8] đã sinh ra các thói loạn luân, ngoại tình, phản phúc, giết con, đầu độc và qua đó lại tự chứng tỏ rằng bản thân chẳng biết gì về Phèdre, Jocaste, Œdipe, Médé hay Rodogune [9]. Rồi những nhà hùng biện chính trị của xứ sở này sẽ dành trọn ba ngày, lẽ ra là dành cho vấn đề ngân sách, để thao thao về Corneille, Racine [10] một cách lẫn lộn và ba hoa về văn chương để tự làm lộ ra cho nhau những lỗi ngớ ngẩn về tiếng Pháp.


Tất cả những vấn đề vừa kể quả là quan trọng nhưng chúng tôi tin rằng còn có những vấn đề khác quan trọng hơn.


Quốc hội sẽ nói gì nếu giữa những cuộc cãi vã vô bổ và loạn ẩu giữa các phe phái đối nghịch nhau bỗng xuất hiện một người đứng thẳng lên và phát ra những lời nghiêm túc như sau:


“Các vị hãy im đi, dù quí vị là ai, hãy im đi những người đang lớn tiếng phát biểu ở đây![11] Các vị tưởng đang nói trúng vấn đề nhưng thực ra không phải. Vấn đề là đây: cách đây chừng một năm Công lý đã đến nhay đầu một người đàn ông ở Palmiers bằng một con dao cùn và phải hơn năm lần chặt kẻ đáng thương đó mới được chết cho hẳn. Ở Dijon nó đã tới giựt đầu một mụ đàn bà. Còn ở Paris nó đã hành quyết âm thầm không biết bao người [12]. Vấn đề là đó. Các vị hãy xem xét vấn đề này rồi hẵng cãi cọ về chuyện cúc áo của lính dân phòng nên màu đỏ hay màu vàng hoặc phải chăng đảm bảo có phải là từ đẹp hơn chắn chắn không [13].


“Thưa các quí ông phái trung, thưa các quí ông phái tả và phái hữu, phần lớn dân chúng đang lầm than đấy! Dù các vị có gọi nước ta là cộng hòa hay quân chủ thì sự thật nhân dân vẫn đang phải khốn khổ. Đó là một sự thật.


“Nhân dân đang đói, đang rét. Sự cùng khổ đang đẩy họ vào các tội lỗi và suy đồi tùy theo khả năng của họ là đàn ông hay đàn bà, các vị ạ. Hãy thương xót họ, những người đang bị nhà tù cướp mất con trai và nhà thổ nẫng mất con gái. Các vị quả có quá nhiều tù khổ sai, quá nhiều gái điếm rồi. Hai vết thương này đã thành vết loét mất rồi. Còn cái cơ thể xã hội của quí vị cũng đã bị bệnh tật ăn vào tận xương tủy rồi. Quí vị đã ở ngay bên cạnh con bệnh rồi, xin hãy tập trung vào chứng bệnh để chữa đi.


“Chứng bệnh đó, quí vị chữa tồi quá. Cần phải xem xét kỹ hơn nữa. Những pháp luật mà các vị làm, nếu thực là các vị làm, thì cũng chỉ là những thứ thuốc xoa, những món đối phó thôi. Một nửa số luật các vị đã làm thuộc những loại tầm thường, còn nửa kia thì thuộc loại thiếu cơ sở nghiên cứu. Loại hình phạt đóng dấu lửa vào người trước đây thì chẳng khác gì chữa vết thương ngoài da bằng cách đốt cho nó loét thêm. Đó là hình phạt ngu xuẩn, tạc tội, đóng chặt tội lỗi vào con người! Làm cho tội lỗi và con người luôn song hành, như hình với bóng, không thể rời nhau. Còn nhà tù lại là một cách chữa bệnh vô lý, tồi tệ hơn: định thu lấy hết các chất độc vào một chỗ rồi trả lại cơ thể những chất còn độc hơn. Án tử hình thì rõ là một loại tước đoạt thân thể con người quá man rợ.


“Tuy nhiên, trong ba loại đó, quí vị đã bỏ đi được cách chữa bằng đóng dấu lửa rồi[14]. Nếu sáng suốt, các vị hãy loại hết những cách chữa vô lý còn lại đi. Thanh sắt nung đỏ, xiềng chân và con dao chặt đầu, ba phần của một tam đoạn luận [15]. Quí vị đã bỏ được phần đầu thanh sắt nung đỏ thì những phần sau đâu còn ý nghĩa gì để tồn tại. Ngài Farinace xưa kia cũng hung bạo nhưng ngài không phải là người vô lý [16].


“Xin các ngài hãy phá giúp tôi cái thước định lượng tội phạm và hình phạt đã cũ rích, đã khập khiễng ấy đi và hãy làm lại cái mới. Hãy làm lại hình phạt, làm lại các luật, làm lại nhà tù và làm lại cả các thẩm phán nữa. Hãy giúp luật pháp có thêm đức hạnh.


“Thưa các quí ông, hàng năm nước Pháp đã chặt quá nhiều đầu người. Chẳng phải các vị đang phải tiết kiệm sao, hãy tiết kiệm những cái đầu đó. Chẳng phải các vị đang muốn cắt giảm nhân sự sao, hãy giảm bớt các đao phủ. Lương của tám mươi đao phủ của các vị bằng lương của sáu trăm thầy cô giáo đấy.


“Hãy quan tâm tới dân chúng, tới trường học cho trẻ em, tới công xưởng của thợ thuyền. Quí vị có biết nước Pháp là một nước châu Âu có ít người biết đọc nhất không? Trời! Thụy Sĩ, Bỉ, Đan Mạch biết đọc, Hy Lạp, Ái Nhĩ Lan cũng biết đọc hết, chỉ mỗi Pháp là mù chữ. Thật xấu hổ.


“Rồi quí vị hãy vào nhà tù mà xem những con người đang bị luật pháp của con người đày đọa. Hãy nhìn kỹ họ, nói chuyện với họ, sờ nắn trán họ rồi các vị sẽ thấy những con người đã bị trượt ngã đó đều là một tác phẩm đặc biệt của thiên nhiên, mỗi con người đều là điểm giao giữa nhân tính và thú tính nào đó mà thôi. Người này là mèo, người kia là chó giữ nhà thì kẻ kia nữa lại là vượn, là chó sói hoặc kền kền. Vậy nếu họ có tướng mạo xấu xí, có những cái trán thấp nhỏ hay có những thú tính xấu xa thì trước tiên đó phải thuộc về lỗi của thiên nhiên và sau nữa là lỗi của giáo dục. Vậy nếu thiên nhiên đã thiếu sót thì cớ sao giáo dục lại còn tiếp thêm sai sót nữa cho họ? Đó chính là chỗ các vị phải chú tâm. Phải tạo ra một nền giáo dục tử tế, quảng đại cho người dân. Giáo dục phải làm sao cho trí não trong những cái đầu đáng thương đó lớn được lên. Các dân tộc cũng thế thôi, lớn lên hay nhỏ đi, vầng trán rộng thêm hay hẹp đi, cũng là do giáo dục tốt lên hay tồi đi thôi. La Mã và Hy Lạp đã từng có những vầng trán cao. Quí vị phải cố gắng làm sao để vầng trán của dân tộc ta cũng sẽ lớn rộng như thế.


“Nhưng biết đọc chưa đủ. Đừng để cho trí não quí vị đã khai mở lại lầm lạc trong những chữ nghĩa sai lầm. Đó là cái hại của biết chữ. Không, ngàn lần không, thà mù chữ còn hơn là biết chữ để bị lôi theo, bị trói vào những khoa học bất nhân. Không. Quí vị nhớ cho rằng có ít nhất một cuốn sách thông thái hơn cuốn Compère Mathieu [17], giá trị hơn cuốn Constitutionnel [18] và vĩnh cửu hơn Hiến chương 1830 [19]. Đó là các sách thánh. Lời giải thích xin hãy nghe dưới đây.


Dù quí vị làm gì xin hãy nhớ số phận của nhiều người, của phần lớn dân chúng, của đa số, vẫn sẽ luôn luôn còn nghèo, còn bất hạnh và còn u buồn. Đa số đó luôn phải gánh công việc nặng nhọc, phải đẩy, phải kéo, phải mang những gánh đời nặng nề. Quí vị hãy xem kỹ cái cán cân này: tất cả những vui thú của người giàu một bên và tất cả những thống khổ của người nghèo ở bên kia. Phải chăng hai phần không bằng nhau? Phải chăng cái thế cân bằng đó không cần thay đổi? Và bây giờ trong cái số phận của kẻ nghèo, trong cái bàn cân của thống khổ, hãy ném vào thêm sự chắc chắn của một tương lai huy hoàng, đặt thêm vào đó nỗi khát khao về hạnh phúc vĩnh hằng hay cho thêm vào đó một thiên đường. Những đối trọng kỳ diệu! Quí vị sẽ lập được thế quân bình mới: phần của kẻ nghèo cũng phong phú, đầy đủ y như phần của người giàu. Đó là những điều Chúa Jésus đã biết cả, biết xa hơn Voltaire. [20]


Hãy cho những người đang làm lụng vất vả, đang chịu khổ đau, cho những người đang thất vọng về thế giới hôm nay một niềm xác tín vào một thế giới tốt đẹp hơn sẽ tới với họ. Và họ sẽ bình tâm hơn, kiên trì hơn. Kiên trì là đức của hy vọng.


Vậy hãy phát sách Phúc âm cho các làng xã. Hãy mang cho mỗi túp lều một cuốn Thánh kinh. Sách và cánh đồng rồi sẽ cùng nhau sinh ra con người lao động đức hạnh.


“Cái đầu của người dân, trí khôn của dân tộc, đó mới chính là vấn đề. Cái đầu đó vẫn còn đầy tiềm năng và hữu ích. Hãy làm cho cái đầu đó được trưởng thành, được sáng suốt hơn, được rèn rũa tốt hơn trong đức hạnh. Khi đó một kẻ dù có là sát nhân cướp của cũng sẽ thành một công dân trách nhiệm mẫu mực. Hãy chăm sóc, hãy quan tâm, hãy khai sáng, hãy đức hóa, hãy sử dụng cái đầu của người dân và quí vị sẽ thấy không cần phải chặt nó đi làm chi nữa.”


Nguồn: Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: Claude Gueux, Le livre de Poche, Libretti, Paris 2012. Các chú thích của người dịch có tham khảo chú thích của sách vừa dẫn. Độc giả có thể xem bản tiếng Pháp điện tử: Claude Gueux


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Hồng Sơn & pro&contra




[1] Nguyên văn Victor Hugo lấy tên Jacques Clément (1567-1589), người đã ám sát vua Pháp Henri III năm 1589 vì lý do chính trị. Cuộc ám sát thành công nhưng Jacques Clément cũng phải bỏ mạng ngay lập tức. Hành động của Jacques Clément thường được những người Công giáo đương thời ủng hộ và cái chết của ông được coi như một hành động tử vì đạo.




[2] Juge d’instruction: một ngạch viên chức thuộc hệ thống tư pháp có chức năng như một nhân viên điều tra thu thập chứng cứ theo yêu cầu của bên công tố hoặc của nạn nhân, không có thẩm quyền phán xét.




[3] Pouvoir discrétionnaire: thẩm quyền dành riêng cho thẩm phán trong một số trường hợp được tự quyết định theo ý riêng.




[4] Cắt tóc tử tội để làm lộ phía sau đầu chỗ gáy, nơi lưỡi máy chém bập xuống.




[5] Lobau: một đảo nhỏ nằm trên sông Danube đoạn chảy quaVienne của Áo. Vị bá tước mà Victor Hugo nói đến ở đây là ông Georges Moulon, bá tước vùng Lobau (1770-1838), cũng là thống chế của Đế chế Pháp đương thời, đứng đầu lực lượng phòng vệ quốc gia ở Paris năm 1830. Ông này là đối tượng chỉ trích của dư luận và báo chí đương thời do có quyết định giải tán một cuộc biểu tình bằng cách dùng các máy bơm nước của lính cứu hỏa phun vào người biểu tình.




[6] Một tòa nhà dành cho các tụ họp công cộng, nằm trên đại lộ Champs-Elysée hiện nay ởParis.




[7] ** Ở đây chúng tôi không có ý công kích những việc làm hữu ích của đội quân tuần tra đô thị như giữ gìn bình yên cho phố xá, đảm bảo an ninh cho các gia đình, chúng tôi chỉ phản đối những chuyện vô ích và kỳ cục như tổ chức diễu binh, sắm trang phục lòe loẹt xa xỉ, tạo thêm những danh vị hão và những hoạt động ầm ĩ cho quân đội – những điều chỉ tổ làm cho giới tư sản muốn trở thành quân nhân một cách phù phiếm. (Ghi chú của Victor Huygo. Ông chĩa phê phán vào lực lượng phòng vệ quốc gia – la garde nationale –  được thành lập năm 1789 thời Cách mạng Pháp, một dạng phòng vệ dân sự có chức năng chính nhằm duy trì trật tự và bảo vệ tài sản cho công dân, cùng các giá trị dân chủ. Nhưng lực lượng này đã nhanh chóng tha hóa thành một tổ chức của giới tư sản nhằm khoe khoang và tìm kiếm danh tiếng là chính.)


[8] Thời Victor Hugo tại Pháp đang có những phê phán, chỉ trích xu hướng cách tân của nghệ thuật trong đó có lĩnh vực sân khấu theo xu hướng lãng mạn. Chính quyền thậm chí đã ra qui định về kiểm duyệt sân khấu vì lý do ảnh hưởng xấu đến đạo đức, phong tục.




[9] Đây là những nhân vật có tính kinh điển trong thần thoại Hy Lạp mà giới trí thức Pháp (phương Tây) thường phải biết: Phèdre từng có ham muốn ân ái với con trai (Hippolyte) của người chồng thứ hai của mình; Œdipe đã giết chính cha đẻ mà không biết đó là cha của mình, rồi lại lấy Jocaste mà không biết đó chính là mẹ của mình; Médé đã giết các con của chính mình để trả thù chồng vì ghen; Rodogune: tên một vở kịch của Corneille trong đó có nói đến vấn nạn đầu độc, Rodogune cũng là tên một nhân vật lịch sử vùng Ai-cập cổ đại nhưng không liên quan gì đến đầu độc.




[10] Hai nhà viết kịch nổi danh của Pháp Pierre Corneille (1606-1684), Jean Racine (1639-1699).




[11] Trong lần xuất bản đầu tiên (năm 1834) Victor Hugo nêu rõ tên hai vị đại biểu Quốc hội nổi tiếng đương thời: François Muguin (1785-1854) và Adolphe Thiers (1797-1877). Cả hai cùng là luật sư giỏi, có tài hùng biện, nhưng có quan điểm đối lập nhau một cách triệt để, François Muguin có quan điểm chống,  còn Adolphe Thiers lại ủng hộ chính thể chế độ tháng Bảy (le régime de Juillet) – một chính thể quân chủ lập hiến của Pháp được lập ra sau chính biến tháng Bảy năm 1830. Trong những lần xuất bản sau Victor Hugo không nêu lại tên hai người này nữa và thay bằng cách biểu hiện chung chung như thể hiện trong bản dịch ở đây.




[12] Đây là những vụ hành quyết rất thương tâm do lưỡi dao của máy chém cùn hoặc có lỗi nên không làm đương sự chết được ngay, người (ở Palmers) thì bị chém đến 6 lần mới chết và đầu mới rời được khỏi thân, còn người phụ nữ (ở Dijon) thì chặt lần đầu chỉ đứt được một nửa, sau đó đao phủ và người trợ giúp phải kéo chân đương sự cho đầu đứt rời ra. Những trường hợp này được báo chí đương thời thuật lại và chính Victor Hugo cũng thuật lại trong một tác phẩm khác, Derniner jour d’un condamné (Ngày cuối cùng của tù nhân) năm 1832.




[13] Victor Hugo chế giễu một biểu quyết ngập ngừng của Quốc hội Pháp ngày 15/04/1831 về việc nhận định tình hình nghiêm trọng ở Ba Lan lúc đó bằng việc chọn lựa từ ngữ kiểu nước đôi.




[14] Một đạo luật của Pháp ra ngày 28/04/1832 đã bãi bỏ hình phạt đóng dấu lửa lên người tội phạm.




[15] Tam đoạn luận (syllogisme), phương pháp suy luận do Aristote (384-322 Tr. CN) nghĩ ra để xác định chân lý theo nguyên tắc ba bước (phần): bước 1 gọi là tiểu tiền đề, bước 2 là đại tiền đề và bước 3 là kết luận. Ví dụ: (1) Mọi động vật phải chết. (2) Con người là động vật. (3) Vậy con người cũng phải chết. Ngoài ra còn có nhiều biến thể tam đoạn luận khác.




[16] Prosper Farinace (1554-1613) là một thẩm phán hà khắc và một nhà luật học của La Mã, người có quan niệm luật pháp phải có tính logic chặt chẽ.




[17] Tác phẩm trào phúng của tu sĩ Henri-Joseph Dulaurens xuất bản năm 1765, ban đầu không có tên tác giả và được dư luận cho rằng là của Voltaire vì có nội dung chế giễu, phê phán tôn giáo.




[18] Tên của một tạp chí nổi tiếng đương thời của giới trí thức Pháp ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến chế độ tháng Bảy. (Xin xem thêm chú thích số 11.)




[19] Tức bản Hiến pháp của chế độ tháng Bảy.




[20] Victor Hugo có ý phê phán Voltaire (1694-1778) – một hình tượng có tính đại diện cho những triết gia Khai sáng của Pháp – đã thất bại trong việc mang tới những tiến bộ cho xã hội đương thời của Pháp.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 05, 2014 02:23

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.