Phạm Thị Hoài's Blog, page 40
May 7, 2013
Đĩ thúi (3)
Nguyễn Viện
Tiểu thuyết
8.
Nhà tù vốn là một chung cư cho nhân viên Mỹ trước 1975, được cải tạo thành trại giam. Nguyễn và Mã Kiều Nhi bị tống vào đây sau một đêm nằm trong đồn công an phường. Họ ở hai phòng khác nhau.
Chuyện kể của Nguyễn:
Tôi bị còng tay và ép ngồi giữa chiếc xe gắn máy. Nhìn phố phường nhấp nhô, tôi biết không còn mấy phút nữa những hình ảnh này sẽ thành xa ngái. Qua cổng trại giam, tôi được bàn giao cho một công an quản giáo, rồi được tháo còng. Thủ tục nhận người cũng đơn giản, tôi khai sơ qua lý lịch, nhưng đến phần lý do bị bắt thì tôi phân vân. Làm tình là một tội? Tôi viết: “Làm tình trong phòng trọ.” Mã Kiều Nhi có thể là đĩ với tất cả mọi người, nhưng với tôi thì không. Quản giáo dẫn tôi lên lầu ba. Đi hết một hành lang dài, những người tù trong phòng nhìn ra, tôi muốn mỉm cười với họ thay cho một lời chào, nhưng không nhếch mép nổi. Trước phòng cuối dãy, người quản giáo đứng lại mở cửa. Tôi bị đẩy vào. Cánh cửa nhà tù khép lại.
Tôi cúi chào mọi người. Chưa biết phải như thế nào, may mắn tôi nhìn thấy một người lớn tuổi nhất vẫy tay. Tôi bước đến và ngồi xuống bên cạnh ông ta. Mọi người nhìn tôi chăm chú. Tôi e ngại một thủ tục nhập phòng của giới giang hồ. Tôi nói: “Xin chào mọi người.” Ông già hỏi: “Tội gì?” Trong cách hỏi của ông ta, tôi cảm thấy thân thiện. Tôi ngập ngừng. Nếu tôi nói đi chơi gái, chắc chắn tôi sẽ nhận được một tràng cười cùng lúc tôi sẽ bị đánh. Tôi nhớ đến tấm bảng treo trước ngực khi bị dẫn đi diễu hành, tôi trả lời: “Dạ, tàn dư Mỹ ngụy”. Thời đó, tàn dư Mỹ ngụy bị bắt không phải ít và với những tội danh khác nhau, trốn tránh trình diện cải tạo, hoặc bị tố cáo làm gì đó trong chế độ cũ. Ông ta hỏi tiếp: “Làm gì?” Tôi nói: “Viết văn.” Ông ta mỉm cười. Tôi cũng thở ra nhẹ nhõm. Ông ta giới thiệu người trưởng phòng. Một thanh niên trẻ, tên A, không có vẻ gì khỏe mạnh nhưng khôn lanh. Anh ta hỏi tôi: “Tình hình bên ngoài thế nào?” Tôi nói: “Rất nhiều nhà văn, nhà báo bị bắt.” Anh ta hỏi: “Có thăm nuôi không?” Tôi bảo chắc có nếu gia đình biết tin. Anh ta nói sẽ giúp tôi báo tin cho gia đình.
9 giờ tối, tôi được gọi đi làm việc.
Quản giáo dẫn tôi ra khỏi phòng giam. Tôi đi lơ lửng chênh vênh trên mặt đất. Một cảm giác giống như ảo cảnh. Đầu óc lơ mơ. Phòng làm việc chỉ có một cán bộ chấp pháp. Anh ta nói: “Ngồi đi.”
Tôi ngồi xuống. Cán bộ hỏi: “Anh làm gì trong phòng trọ?”
Tôi nói: “Tôi ngủ với bạn gái.”
Cán bộ hỏi: “Có hôn thú không?”
Tôi nói: “Thưa, không.”
Hắn hỏi: “Nghề nghiệp?”
Tôi nói: “Dạ, đang thất nghiệp.”
Cán bộ hỏi: “Không thất nghiệp thì làm gì?”
Tôi đáp: “Có thể làm một số nghề như viết thuê hoặc làm văn phòng.”
Cán bộ hỏi: “Có được thuê viết truyền đơn không?”
Tôi toát mồ hôi: “Da, không.”
Cán bộ hỏi: “Vậy thường viết cái gì?”
Tôi đáp: “Dạ, viết cái người ta thuê.”
Cán bộ hỏi: “Người ta thuê viết cái gì?”
Tôi đáp: “Dạ, viết về một cuốn sách, hoặc một tiếng hát, hay một cuốn phim.”
Cán bộ hỏi: “Anh là nhà văn hay nhà báo?”
Tôi đáp: “Có khi là nhà văn, có khi là nhà báo. Hiện nay thì không là nhà gì cả.”
Cán bộ hỏi: “Anh thích ở nhà thổ hay nhà tù?”
Tôi lại toát mồ hôi, không thể đùa trong trường hợp này, tôi không biết nói sao. Im lặng. Cán bộ hỏi: “Sao anh im lặng?”
Tôi đáp: “Vì tôi không biết nói sao.”
Hắn đưa cho tôi mấy tờ giấy, bảo: “Anh viết tự khai.”
Xong, hắn đi ra.
Tôi ngồi một mình. Tôi không biết khai cái gì. Kể chuyện tình của tôi với Mã Kiều Nhi à? Tôi đang thất nghiệp, ăn bám Kiều Nhi. Tôi nói về những giấc mơ của mình chăng? Tôi chẳng có giấc mơ nào ngoài ước mong được yên ổn. Cách mạng đang đùng đùng ngoài kia. Tôi sợ cách mạng. Cách mạng là chấm dứt mọi mơ mộng. Cách mạng chỉ là lao động sản xuất, là kinh tế mới. Và cách mạng là trấn áp. Tôi không thể nói những suy nghĩ của mình. Tôi để tờ giấy trắng.
Cán bộ chấp pháp quay trở lại. Anh ta nhìn tờ giấy trắng. Anh ta bỏ đi. Người quản giáo đến đưa tôi về phòng giam.
Tôi được nhường chỗ bên cạnh ông già, một người tù chính trị. Ba viên gạch bông, mỗi viên hai tấc. Tôi lấy đôi dép làm gối. Cố ngủ.
Giữ đúng lời hứa, sáng hôm sau trưởng phòng đưa tôi một miếng giấy bao thuốc lá và cây bút chì. Tôi viết cho Vương viên ngoại: “Con và Mã Kiều Nhi bị bắt. Đang ở trại giam TB. Phòng 315”, bên dưới tôi ghi địa chỉ nơi đến. Lá thư được quấn quanh miếng gạch nhỏ bằng một sợi thun, rồi được bắn qua hàng rào cũng bằng mấy sợi thun.
Qua lối truyền thông tin bằng miệng từ phòng này qua phòng khác, tôi cũng biết được tin của Mã Kiều Nhi.
Hai tuần sau tôi có quà thăm nuôi.
Việc nấu nướng trong tù là một kỳ công có thể sánh ngang với việc con người leo lên mặt trăng. Và một ngụm cà phê nóng có thể ví như vào thiên đàng. Nhưng đường đến thiên đàng lại chính là những phút giây ngắn ngủi đi gặp người thân và nhận quà tiếp tế. Mặc dù vẫn là trong nhà tù, nhưng thoát ra khỏi bốn bức tường và đi trong một khoảng sân rộng hơn đã là một phần của tự do.
Con người trở nên hèn mọn vì một vài nhu cầu nhỏ nhặt. Trong tù, phạm vi suy tưởng dường như cũng co hẹp lại trong bốn bức tường. Làm thế nào để giữ gìn sức khỏe và tồn tại là điều quan trọng nhất. Tôi thường tập thể dục sát ngay song sắt để có thêm khí trời.
Cả phòng bị ghẻ. Tôi đã nhìn thấy những con cái ghẻ trong suốt dưới làn da của mình. Và tôi cũng nhìn thấy con người chỉ là những con cái ghẻ trong cuộc sống của nhau. Cũng như tôi không thấy có sự khác biệt nào giữa những con người bị coi là cặn bã như móc túi, cướp giật, lừa đảo, ma cô, đĩ điếm… trong nhà tù với những kẻ được coi là đáng kính ngoài xã hội, bởi trong trại giam cũng không thiếu những người vốn từng được kính trọng. Tôi không nhìn thấy có ranh giới nào giữa kẻ phạm tội và người chưa phạm tội.
Đêm giao thừa, cả phòng đã đón chào năm mới bằng bài quốc ca của chế độ cũ. Tôi thấy điều này thật tự nhiên, không phải vì họ có lập trường chống cộng hay chế độ, mà đó chỉ là một biểu hiện của trạng thái đối nghịch trong hoàn cảnh. Kẻ bị tù và chế độ bỏ tù họ.
Đại diện chế độ đáp trả bằng một món quà xuân đặc trưng, cùm chân tập thể cả phòng nguyên một ngày đầu năm.
Nếu như không có niềm tin rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn, tôi không thể tưởng tượng mình có thể sống. Nhưng cuộc sống tốt đẹp là như thế nào, tìm kiếm ở đâu lại là những câu hỏi không có lời giải đáp. Tôi không có tham vọng trở thành một cái gì. Nhưng tôi vẫn cứ hy vọng vào cuộc sống. Tôi không tin chế độ này sẽ đem lại điều gì có ý nghĩa, nhưng tôi vẫn cứ phải ngụp lặn trong nó. Sống là một nhu cầu tự thân, một bản năng nằm ngoài những toan tính. Tôi không có ý nghĩ trả thù. Tôi cũng không có ước muốn cống hiến cuộc đời mình cho một lý tưởng nào đó. Tôi cần tự do. Và tự do tự nó là một ý nghĩa không cần biện minh hay lý giải.
Sau gần một năm, tôi và Mã Kiều Nhi được đi lao động cải tạo.
Bầu trời lúc nào cũng bao la, nhưng kỷ luật và nội qui làm cho con người bị biến thành con vật. Công việc hàng ngày là đào đất lên liếp rửa phèn theo chỉ tiêu. Sức khỏe của tôi không đủ khả năng đáp ứng với sự nặng nhọc này. Tuy nhiên, những người trong đội đã chia sẻ, họ để cho tôi làm được đến đâu thì làm. Không thể trông cậy mãi vào lòng thương hại của người khác, tôi chủ động đề nghị với ban quản giáo cho tôi được dạy học cho những trại viên chưa biết chữ.
Lớp học được hơn chục người, đa phần là dân móc túi vô gia cư. Họ không cần chữ. Vì thế, lớp học rơi rụng dần trước khi họ có thể đọc hay viết được một lá thư.
Tôi cũng nhận ra, việc bắt bớ và trừng phạt mình chẳng theo một thứ pháp luật nào. Vậy thì tại sao tôi phải tôn trọng nó?
Tôi bắt đầu có ý nghĩ trốn trại, mặc dù trước đó tôi đã lạnh người chứng kiến cảnh các quản giáo đánh đập tàn nhẫn một người trốn trại vào ban đêm bằng cây tre. Tôi đã cảm nhận cây tre khi bị dập sẽ trở nên ghê rợn như thế nào khi nó quất vào da thịt.
Cho dù thế nào, con người vẫn cần phải tin vào nhau. Nhưng đặt niềm tin vào người khác lại là chuyện rất may rủi. Tôi đã có may mắn khi ngỏ ý muốn trốn trại với người bạn nằm bên cạnh. Anh vốn là một thày giáo và là một cựu đảng viên Quốc dân Đảng, bị bắt vì tội vượt biên. Anh bảo tôi: “Nếu không thật sự cần thiết thì quên chuyện ấy đi.”
Tôi không có điều gì cấp thiết hay quan trọng để phải trốn trại, nhưng ý nghĩ bị trói buộc làm tôi cùng quẫn, khó thở. Đêm không ngủ được, sáng dậy vật vờ như con ma. Rồi tôi ăn uống cũng không được. Tôi đổ quỵ. Y tá trại cho tôi uống thuốc. Tôi vất thuốc đi. Càng lúc tôi càng suy sụp. Tôi không muốn sống nữa, bởi tôi không biết sống để làm gì. Mặc dù khi ấy, câu nói phổ biến nhất làm căn bản đạo đức cho một xã hội nghèo đói và nô dịch lạc hậu là “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”, không phải không làm cho tôi cần nhìn lại cuộc sống của chính mình theo lý tính thuần túy. Nhưng tôi cũng đủ trải nghiệm để biết thực chất của nó chỉ là sự sáo rỗng của tuyên giáo trong một xã hội hoàn toàn giả dối và tàn ác. Những chính sách mù quáng và khắc nghiệt không mang lại cho bất cứ ai biết suy nghĩ độc lập một niềm hy vọng nào. Nhưng cái kinh tởm nhất đối với tôi không phải ở những sai lầm có tính điên rồ như thế của nhà cầm quyền, mà chính là cái thái độ của bọn nịnh thần bợ đỡ khắp mọi nơi, đặc biệt trong giới văn nghệ sĩ, trí thức. Một tình trạng vô liêm sỉ phổ quát. Tôi không muốn sống chung với dòi bọ.
Y tá trại đưa tôi về thành phố cấp cứu.
May mắn, tôi không bị còng tay vào giường và tôi đã ra khỏi nhà thương ngay khi có thể bước đi được.
Chuyện kể của Mã Kiều Nhi:
Tôi lúc nào cũng chỉ muốn sướng. Vì thế, chẳng có lý do gì tôi lại phải chịu khổ khi ở trong tù.
Khi chấp pháp kêu tôi lên làm việc, tôi đã rất nghiêm chỉnh khai báo tất cả những gì cán bộ muốn tôi khai báo. Tôi chẳng có gì phải che giấu, nhưng tôi cũng không dành cho cán bộ cái quyền giáo dục tôi.
Tôi nói với cán bộ: “Sự thật về em rất đơn giản, khi bị bắt em không làm đĩ, mặc dù em có làm tình. Còn lý do vì sao em làm tình cũng rất đơn giản, vì em thích. Anh có muốn làm tình với em không?” Rồi tôi cởi nút áo khoe vú. Tôi nói: “Vú em đẹp. Cho anh nhìn miễn phí.”
Cán bộ hét lên: “Cô kia! Đây là phòng làm việc.”
Tôi bảo: “Phòng làm việc thì làm tình cũng đâu có sao.” Rồi tôi cười: “Em không tố cáo anh đâu. Em thích vui. Anh cứ vui đi, chẳng việc gì phải tự làm khó mình. Nếu anh không dám làm thì cứ nhìn cũng không sao. Em đẹp mà phải không?” Anh cán bộ hỏi: “Cô muốn gì?”
Tôi nói: “Em nói rồi. Em muốn vui.” Rồi tôi nựng vú tôi, nói: “Anh cứ tự nhiên, em không la làng đâu.”
Cán bộ nói: “Thôi, cô mặc áo lại cho tử tế rồi về phòng.”
Tôi nói: “Nếu có thể được thì anh tiếp tế đồ ăn cho em, mai mốt ra tù em sẽ trả ơn.”
Tuy không được thả, nhưng tôi vẫn nhận được quà thăm nuôi của Đạm Tiên do quản giáo mang đến tận phòng.
Khi bị đưa đi lao động cưỡng bức, tôi cũng tìm được cách cho quản giáo biết tài năng của một phụ nữ tiết hạnh khả phong công dung ngôn hạnh. Tôi nấu ăn giỏi và hát hay, vì thế tôi được chọn làm phụ bếp và tham gia ban văn nghệ của trại. Tôi chỉ thiếu mỗi danh hiệu áp trại phu nhân thôi, tuy nhiên thỉnh thoảng tôi cũng cho các anh cai tù bóp vú một cách kín đáo.
9.
Không ai nghĩ tôi là ma, Đạm Tiên nói, bởi những cảm giác thật tôi mang đến cho người khác. Không một ai biết tôi chỉ là sự ngưng tụ của một ảo ảnh, ảo tưởng và những gì người khác thấy và cảm nhận chỉ là một ảo tượng. Vương Thúy Kiều hay Mã Kiều Nhi tưởng tôi là một người bất tử như họ. Tôi hiện hữu như một sinh linh và như một khát vọng, tôi có thật trong cuộc đời này với những tác động hiển nhiên vào cuộc sống những người liên hệ với tôi. Nhưng thật ra tôi chỉ là ma. Bởi là ma, tôi sống trong bóng tối của con người. Tôi biết tường tận mọi sâu kín. Và tôi đến để những sâu kín được hiển lộ. Vì tôi là đàn bà, tôi cũng là ham muốn của trần gian, nhưng đừng vội bảo tôi là tội lỗi, bởi thật ra tôi là cái đẹp, hạnh phúc và viên mãn. Tôi là đầu tiên và cuối cùng của một hành trình trong đời của mỗi một đàn ông. Tôi không phải bất tử nhưng tôi hằng có. Tôi là động lực của sự sống vì thế không một đàn ông nào có thể từ chối tôi khi tôi muốn. Tôi biết cách làm thỏa mãn bất cứ người đàn ông nào bởi vì tôi biết họ cần gì. Cái kinh nghiệm mang tính nhân loại đã nâng tôi lên thành thần. Dân gian gọi là “Thần Lồn”. Tôi dâng hiến và ban phát. Tôi phục vụ và được tôn thờ. Thật ra, ma hay thần cũng không khác gì nhau. Cũng không phải vấn đề đẳng cấp. Thế giới của sự thật hay chân lý chỉ là một. Rồng hay rắn cũng chỉ là một. Sự sướng tuyệt đỉnh không phân biệt giả hay thật, già hay trẻ, thơm hay thối. Tôi có mùi của sự chết. Và đến với tôi không một ai mà không chết. Chỉ có cái chết con người mới đạt được sự toàn mãn. Bởi vì đụ là một quá trình của cái chết. Ai không biết điều ấy chẳng bao giờ đạt được cái sướng tuyệt đỉnh. Tiếc thay cho những kẻ thay vì phiêu dật vào cái vô cùng lại biến nó thành lầm than và tủi nhục của sự giới hạn.
Nguyễn nói với Đạm Tiên: “Em có khả năng biến đổi một người đàn ông tầm thường trở thành vĩ đại.”
Đạm Tiên cười: “Không dám. Anh đã đụ em cả ngàn lần mà anh có khá lên được tí nào đâu.”
Nguyễn nói: “Vì thật sự em chưa bao giờ yêu anh.”
Đạm Tiên bảo: “Cũng có thể vì anh chưa bao giờ buông thả mình thật sự.”
Nguyễn tự đặt cho mình một loạt câu hỏi: Thế nào là dấn thân? Thế nào là hết mình? Đâu là những trở ngại và cách vượt qua trở ngại? Để làm gì? Rồi thế nào là cân bằng? Có cần thiết phải cân bằng không? Cái tối hậu là gì? Nhưng Nguyễn không bao giờ muốn có câu trả lời, bởi vì chàng biết mình không đủ sức để sống với câu trả lời, đích thực.
Nguyễn bất ngờ thấy mình đang ở trên đỉnh núi. Nhìn xa về phía đông là biển. Sau lưng chập chùng những ngọn núi khác. Nguyễn bảo: “Anh không tưởng tượng được mình có thể leo lên được tới đây.”
Đạm Tiên cười: “Bởi vì anh không tin vào chính mình. Nhưng bây giờ thì anh đã ở trên đỉnh núi.”
Nguyễn hỏi: “Có thể giải thích điều này thế nào? Mộng du hay ma giấu?”
Đạm Tiên bảo: “Anh hiểu sao cũng được.”
Nguyễn hỏi: “Đây là đâu?”
Đạm Tiên đáp: “Núi Chà Bang. Anh nghe đến nó rồi phải không?”
Nguyễn xao xuyến: “Ừ. Ninh Thuận.”
Đạm Tiên hỏi: “Anh thấy thế nào?”
Nguyễn nói: “Anh thấy tiền kiếp.”
Đạm Tiên bảo: “Đừng xạo nhé.”
Nguyễn nói tiếp: “Anh thấy cả vị lai.”
Đạm Tiên bảo: “Anh đừng phét lác kiểu văn chương triết học thế. Em là ma đấy.”
Nguyễn nói: “Ngày xưa anh đã chăn dê dưới chân núi này.”
Đạm Tiên bảo: “Coi chừng em quăng anh xuống núi cho chăn dê tiếp.”
Nguyễn nói: “Có vài lần anh đã thử leo lên núi.”
Đạm Tiên hỏi: “Để làm gì?”
Nguyễn đáp: “Xem có gì linh thiêng.”
Đạm Tiên hỏi: “Anh thấy gì?”
Nguyễn nói: “Anh thấy tiền kiếp.”
Đạm Tiên hỏi: “Lần khác anh thấy gì?”
Nguyễn nói: “Cũng chỉ thấy tiền kiếp.”
Đạm Tiên hỏi: “Tiền kiếp anh là gì?”
Nguyễn nói: “Một thằng bé chăn dê.”
Đạm Tiên hỏi: “Còn vị lai của anh?”
Nguyễn nói: “Một nhà văn.”
Đạm Tiên hỏi: “Cảm giác của anh bây giờ?”
Nguyễn bảo: “Anh sợ mình không thể xuống núi được.”
Đạm Tiên cười: “Em sẽ giúp anh bay xuống. Nhưng quên chuyện ấy đi. Hãy sống với cái mình đang có.”
Nguyễn nói: “Khí trời, mây, gió, độ cao và gái?”
Đạm Tiên nói: “Chỉ có gái”.
Gái là một thực tại nhãn tiền. Và Đạm Tiên phô bày một thực thể huy hoàng tiên nữ. Không phải cung đình diễm lệ kiểu phim Tàu, mà porno Hollywood siêu thực. Gió làm cho thực thể ấy sóng. Cây cỏ làm cho thực thể ấy đa dạng mông lung. Chim hót làm cho thực thể ấy dậm dật mê cuồng. Nhưng mây và thanh khí lại làm cho thực thể ấy trở nên hư ảo. Nguyễn thấy mình căng phồng như một quả bóng. Nhục dục và siêu thoát. Chàng kêu lên đáo bỉ ngạn sa tràng thọ tiễn. Úm ba la mật. Trong một chớp lóe sáng lòa của ý thức, Nguyễn thấu cảm ngẫu tượng tôn giáo của Linga và Yoni.
Sau này, Nguyễn nhất định cho rằng mình là người gốc Chăm.
Những cuộc tấn công của Chiêm Thành vào Đại Việt trong khoảng từ năm 1360 đến 1390 hẳn đã để lại nhiều hậu duệ hung hãn và lãng mạn.
10.
Hơn ba mươi năm sau lần đi tù vì tội làm tình trong nhà trọ không có hôn thú, Nguyễn lại vào tù bởi một chuyện vớ vẩn khác. Chàng bị bắt vì giúp đỡ dân oan mất đất viết đơn thưa kiện.
Tòa án khép tội Nguyễn xúi giục dân oan làm loạn và viết blog chống phá chế độ. Bốn năm tù.
Nguyễn đã từ chối nói lời sau cùng. Chàng phủ nhận toàn bộ cái phiên tòa giả hình, lố bịch không phải bằng những lời lẽ anh hùng mà bởi sự im lặng. Chàng không muốn thừa lời với những kẻ bất xứng.
Từ Hải nói với Thúc Sinh: “Thật lạ, ông Nguyễn vẫn còn tính nhân văn. Lẽ ra, ông ta phải biết mình đang ở thời đại nào.”
Thúc Sinh trầm ngâm: “Biến thái như cậu là thức thời. Nhưng cũng có thể vì thế, tôi chưa bao giờ coi cậu là nhà văn. Nói cậu đừng buồn.”
Từ Hải: “Tôi cần một chỗ đứng dưới ánh mặt trời. Và tôi nghĩ là tôi đã làm được điều đó.”
Thúc Sinh bảo: “Phải. Cậu đã làm được tất cả những gì cậu muốn. Và tôi biết, đến một lúc nào đó, cả ông Nguyễn cũng sẽ phải biến thái như cậu. Vì đó là guồng máy, không cho phép bất cứ ai có bản sắc cá biệt.”
Từ Hải nói: “Khi chọn nghề viết văn và làm báo, tôi tưởng mình vẫn có thể làm cách mạng theo một cách khác, dù lắt léo, kín đáo. Nhưng càng sống lâu, tôi càng biết mình ngụy tín. Vì thế, tôi theo anh. Không làm gì được cho sự công bằng giữa con người thì ít nhất tôi cũng không muốn làm cho mình bị thiệt thòi.”.
Hồ Tôn Hiến cho gọi Thúc Sinh đến. “Hãy tìm cho tôi một người giỏi đoán điềm giải mộng.”
Thúc Sinh đưa Đạm Tiên vào gặp Hồ Tôn Hiến.
“Tôi có thể giúp gì được cho vương phủ?” Đạm Tiên hỏi.
Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi nghe nói cô thông suốt âm dương. Vì thế, nhờ cô vài việc.”
Đạm Tiên bảo: “Tôi sẵn sàng nghe ngài đây.”
Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi có những giấc mơ giữa ban ngày. Đại thể, đó là những sinh linh, không, không phải những sinh linh, mà là những ngọn cỏ. Trên đầu ngọn cỏ có những cái miệng. Những cái miệng đó phun ra máu làm đỏ cả bầu trời. Vâng, cỏ non xanh rợn chân trời và máu tươi chói lọi tầng không. Còn ban đêm thì lại khác cô ạ. Đêm trắng. Trắng không có bất cứ cái gì hiện hữu. Tôi không an tâm.”
Đạm Tiên hỏi: “Ngài có tin tôi không?”
Hồ Tôn Hiến đáp: “Tôi mời cô đến mà.”
Đạm Tiên nhắc lại: “Ngài có tin tôi không?”
Hồ Tôn Hiến buộc phải nói: “Thưa cô, tôi tin.”
Đạm Tiên: “Vậy ngài sẵn sàng làm theo lời tôi chứ?”
Hồ Tôn Hiến: “Thưa cô, sẵn sàng.”
Đạm Tiên: “Việc thứ nhất: Ngài cho lập ngay một bàn thờ, chỗ nào cũng được nhưng nhất thiết phải ở hướng Bắc. Trên bàn thờ ấy, ngài đặt một tượng thần Bạch Mi. Mỗi ngày ngài cúng bốn lần, sáng, trưa, chiều và trước khi đi ngủ trong vòng đúng một trăm ngày. Mỗi lần cúng, ngài đốt 4 cây nhang và thắp 16 ngọn nến. Không cần khấn vái gì, chỉ cần lòng thành hướng đến vô lượng kiếp của mình. Việc thứ hai: Sau một trăm ngày, ngài cho chuẩn bị lễ vật gồm một cô gái đồng trinh và một bình rượu Minh Mạng cúng cho thần Bạch Mi. Bản thân tôi sẽ lên đồng gọi hồn cho ngài hỏi han.”
Hồ Tôn Hiến: “Tôi sẽ làm theo lời cô.” Và Hồ Tôn Hiến đưa cho Đạm Tiên một cái séc tạm ứng 20.000 USD.
Một trăm ngày sau, trước bàn thờ Bạch Mi là Vương Thúy Kiều lõa thể nằm trên tấm thảm có in hình trống đồng Đông Sơn. Rượu Minh Mạng 14 ly đặt xung quanh. Đạm Tiên đứng thắp hương vái lạy thần tổ, rồi nàng dùng khăn riêng lau trên mặt vị thần theo nghi thức truyền thống của lầu xanh, cầu mong luôn được khách chơi yêu thương.
Xong, Đạm Tiên ngồi xuống xếp bằng, lấy khăn đỏ trùm kín đầu.
Thúc Sinh đưa cho Hồ Tôn Hiến bốn cây nhang đã cháy và một tờ giấy. Hồ Tôn Hiến khom người vái ba vái rồi lẩm nhẩm đọc những lời trong giấy. Đọc xong lại vái ba vái rồi mới cắm nhang vào lư hương. Bất thần, Đạm Tiên hét lên. Nàng giãy đành đạch như bị cắt tiết. Miệng phát ra âm thanh của một ông già: “Ta là Bạch Mi, cụ tổ của Vương Thúy Kiều đoạn trường tân thanh. Thiện nam muốn biết điều gì?”
Hồ Tôn Hiến thưa: “Thế lực thù địch rộ lên khắp nơi, thiện nam phải làm sao?”
Bạch Mi phán: “Phải nói cụ thể mới xử lý hiệu quả được. Gần hay xa, trong hay ngoài, bên trái hay phải, Đông Tây Nam Bắc ở đâu?”
Hồ Tôn Hiến thưa: “Trong cũng có, ngoài cũng có, gần cũng có mà xa cũng có, trái hay phải đều có.”
Bạch Mi phán: “Thế là thập diện mai phục, tứ bề thọ địch. Phải dùng kế ‘Không thành’ của Gia Cát Lượng mà hành động.”
Hồ Tôn Hiến thưa: “Làm thế nào để bảo toàn gia nghiệp?”
Bạch Mi phán: “Cất giữ vàng thật, phát hành tiền giả.”
Hồ Tôn Hiến thưa: “Làm thế nào để tiêu diệt kẻ thù?”
Bạch Mi phán: “Muốn tiêu diệt thù ngoài thì phải củng cố nội lực. Muốn tiêu diệt thù trong thì phải gia tăng âm phúc. Muốn làm được cả hai việc đó thì trước hết phải xây dựng lại tổ đình xã tắc.”
Hồ Tôn Hiến thưa: “Còn muốn bảo toàn tính mạng?”
Bạch Mi phán: “Bồi dưỡng chân khí bằng miên trường âm hộ của trinh nữ thuần Việt. Muốn hỏi gì nữa không? Đã đến giờ ta thượng hưởng.”
Đạm Tiên ngã người lên Thúy Kiều và hai người ôm chặt lấy nhau.
Trước khi đưa ra dự án xây dựng lại tổ đình xã tắc, Hồ Tôn Hiến cho xây mới nhà thờ tổ dòng họ. Họ Hồ sai người về quê Tích Khê, tỉnh An Huy mua đất, cùng đi có một thày địa lý phong thủy. Việc chọn thế đất và thiết kế xây dựng hoàn toàn do ông thày quyết định theo tôn chỉ “đời đời bền vững”.
Hồ Tôn Hiến cũng ra một nghị quyết độc quyền thương hiệu vàng, đồng thời cho phát hành một loại tiền mới bằng giấy nhôm theo hệ cửu phân nhằm ghi dấu ấn thời đại của mình. Không nói ra, nhưng nhân dân đều biết chín nút là chắc cú. Đại Việt ta ắt phải thành rồng.
Riêng việc bồi dưỡng chân khí, Hồ Tôn Hiến vẫn giao cho Thúc Sinh lo liệu. Vốn là một người kỹ lưỡng, nhưng biết thụ hưởng, Thúc Sinh đều casting tất cả các em trước khi dâng cho thủ trưởng.
Có lẽ tử vi của Hồ Tôn Hiến không được tốt về hai cung thê, tử. Truyện kể rằng khi làm Án sát Chiết Giang, Hồ Tôn Hiến được Tể tướng của Gia Tĩnh chủ hôn cưới một hoa hậu ở địa phương, nhưng khi sang An Nam công cán, triều đình nhà Minh nhất quyết không cho họ Hồ mang vợ con theo, vì sợ họ Hồ cát cứ phản nghịch. Khi ở An Nam, họ Hồ được cống tiến một hoa khôi Tây Bắc. Cô này để lại cho họ Hồ một truyền nhân, trước khi cô bị giết để bảo toàn thanh danh cho Hồ Tôn Hiến. Thúc Sinh biết rõ việc này vì ông ta đã hưởng thừa cái vinh quang của thủ trưởng. Hồ Tôn Hiến có ý muốn thay đổi khẩu vị, Thúc Sinh tiến cử một chân dài Nam bộ. Trong kiệu màn che trướng rủ, Thúc Sinh động tà tâm hiếp cô này ngay giữa đường tiến cung. Cô mang dòng máu phản bội trong người về với Hồ Tôn Hiến. Có người bảo, Thúc Sinh buôn vua theo cách của Lã Bất Vi. Nhưng người con này đã tự sát khi anh ta vừa đến tuổi trưởng thành không biết vì lý do gì. Còn người con thứ hai với hoa khôi Tây Bắc chọn cách sống ẩn dật vô danh để cố giữ lấy cái mạng cùi. Người vợ đầu tiên và đứa con chính thống không ai biết số phận ra sao. Còn người con gái và con rể vẫn được coi là chính thức hiện đang sống với Hồ Tôn Hiến thật ra chỉ là bọn tình báo được triều đình nhà Minh cài cắm nhằm giám sát kẻ gian hùng này.
Nguyễn vùi mình trong bóng tối của nhà tù. Chàng tuyệt vọng như sau những ngày vừa giải phóng 1975. Cái cảm giác của sự chấm dứt giày vò chàng. Đối với việc viết văn, sự chấm dứt lại càng trở nên khốc liệt hơn. Nó giống như sự băm vằm. Nguyễn phải sống một cuộc đời khác, nếu muốn tồn tại. Chưa bao giờ ý nghĩ thỏa hiệp có trong đầu chàng. Cái thôi thúc của một nhà văn không phải là tìm kiếm danh vọng, lại càng không phải miếng cơm manh áo. Trong điều kiện bắt buộc của chữ nghĩa nô lệ, thì việc trở thành nhà văn chỉ là một hành động tự phỉ báng về nhân cách. Vì thế, Nguyễn đã sống như không sống. Đã chết mà vẫn lay lắt. Vả lại, cũng chẳng có bất cứ điều gì buộc Nguyễn phải viết, thế thì cớ gì chàng phải khom lưng làm một kẻ xu nịnh viết những điều dối trá?
Mã Kiều Nhi không bỏ rơi Nguyễn. Nàng tiếp tế thực phẩm cho chàng và an ủi linh hồn chàng bằng cách dùng những tờ giấy báo có in những bài thơ dịch gói quà cho chàng.
Nhưng người cứu vớt Nguyễn thực sự lại là một nhà sư. Bị giam chung với Nguyễn, nhà sư dạy chàng tập thiền, dạy chàng cách ngồi, cách hít thở và cách buông xả. Quan trọng hơn, nhà sư dạy chàng cách yêu cuộc đời, yêu những vạt nắng hiếm hoi nhìn thấy và yêu cái không gian chung quanh mình.
Rồi Nguyễn rơi vào một trạng huống tinh thần vô xứ. Chàng không còn coi điều gì là quan trọng hay đáng kể. Làm hay không làm bất cứ điều gì đều là những khả thể vô nhiễm, mặc dù chàng vẫn ý thức được tính nghiệp của nó. Một trong những hệ quả của tình trạng tinh thần này đã giúp chàng thoải mái trong việc sử dụng ngôn ngữ, nó thể hiện một tâm thái tự tại vượt qua cái hàng rào văn hóa ước lệ. Chính danh trong ngôn ngữ là chính tâm trong hành động và tư duy, nó cũng giải nghiệp và làm sáng tỏ hành động và tư duy, nó tác động ngược trở lại chính ngôn ngữ và tạo ra sức sống mới cho ngôn ngữ. Nguyễn cảm thấy mình linh hoạt hơn. Chữ nghĩa với chàng trở nên trần trụi mà cũng tràn trề sắc độ phong nhiêu hơn. Đầy ngẫu hứng và chạm đến cốt tủy. Thay vì câm lặng, Nguyễn nhảy múa. Thay vì dâng một đóa hồng, Nguyễn đã cầm lên cây búa. Chàng hủy diệt và luôn luôn hủy diệt.
Đấy là cách Nguyễn thoát ra khỏi nhà tù.
11.
Thúc Sinh hoàn toàn nhận thức được cái hệ thống thù địch với con người vẫn đang vận hành và đúc khuôn cuộc sống mà ông đã thích nghi, thậm chí có khả năng điều khiển nó phục vụ cho lợi ích của mình, đến một lúc nào đó tất yếu sẽ đổ vỡ. Bởi hệ thống ấy được thiết lập và điều hành dựa trên các nguyên lý áp đặt của ý chí sai lầm. Vì thế, ông đã dự bị cho tương lai ở một xứ sở khác, nơi ông sẽ tận hưởng thành quả của mình một cách an toàn nhất. Nhưng ông cũng không muốn trở thành người trắng tay với lịch sử. Ông đặt cục gạch giữ chỗ cho lương tâm của mình với nhân gian bằng cách cho Từ Hải phục hồi nhân phẩm. Ông bảo Từ Hải cần phải trở lại là chính mình. Biết bất bình và biết phản kháng.
Thúc Sinh nói với Từ Hải: “Chúng ta cần có một phương án cho những biến cố lịch sử. Tình thế hiện nay cho thấy, không có bất cứ một lực cản nào có thể ngăn được xu thế dân chủ đang đi tới. Sự thay đổi sẽ là tất yếu dù muốn hay không muốn. Vấn đề là thời gian và lực lượng nào sẽ làm chủ được sự thay đồi đó. Đây là thời cơ của cậu.”
Từ Hải thận trọng: “Anh không gài để bắt tôi chứ?”
Thúc Sinh nói: “Nếu cậu không làm thì cũng sẽ có người khác làm. Tôi cần kiểm soát được mọi tình huống. Trong trường hợp của tôi và cậu, tôi nói thật, chúng ta đặt cược cả hai cửa. Kiểu gì chúng ta cũng thắng. Cậu hiểu chứ?”
Từ Hải: “Vâng, tôi hiểu”. Tuy nói thế, Từ Hải thừa biết mình có thể trở thành tốt thí bất cứ lúc nào. Nhưng từ chối Thúc Sinh không phải là điều đơn giản. Cũng có thể điều này còn là gợi ý của Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bỗng nhận ra mình chỉ là một con bài.
Từ Hải nói: “Tôi thật sự không còn dũng khí. Vả lại, tôi chỉ muốn trung thành với anh cũng như với Hồ Tôn Hiến.”
Thúc Sinh cười lớn: “Nếu cậu không muốn thì thôi. Sau này đừng trách tôi không chia sẻ với cậu.”
Từ Hải bảo: “Guồng máy đã nhào trộn tôi thành bã và bản thân tôi cũng đã tự gọt giũa cho vừa với cuộc sống này. Tôi đã quen phục tùng. Biết bất bình và biết phản kháng vượt quá sức tôi.”
Thúc Sinh: “Cậu vẫn còn ý thức và nhận diện được mình thì chưa phải là hỏng hết. Nếu cậu bảo cậu đã quen phục tùng, thì hãy nghe đây: Chúng ta chơi cờ và chúng ta tự biến thành quân cờ. Một cuộc chơi đến tận cùng số phận. Chúng ta chỉ có một trả giá duy nhất là trở thành tay chơi thứ thiệt. Đấy là điều tôi muốn, tôi và cậu không phải là dũng sĩ giác đấu. Chúng ta là những con buôn, có thể bỏ vốn bằng máu nhưng không chấp nhận thua lỗ.”
Từ Hải nghĩ, chẳng có điều gì chắc chắn, nhất là lại đầu cơ vào chính trị. Tuy nhiên, chàng vẫn nói với Thúc Sinh: “Nếu anh cũng chơi thì tôi theo.”
Khi ấy có nhiều người chính thức ra khỏi Đảng của Hồ Tôn Hiến, hoặc tiêu cực hơn thì lẳng lặng không sinh hoạt chi bộ nữa. Đạm Tiên nói với Từ Hải: “Để phù hợp với bản chất của anh, anh không thể bó thân mãi trong cái đảng ẩm ương ấy, vào Hội Bạch Mi với chúng em, anh tha hồ tung hoành. Sự nghiệp của anh sẽ bền vững muôn đời cùng với sự bất biến của đĩ nghiệp chúng em.”
Từ Hải trừng mắt hỏi: “Sao lại gọi là ẩm ương?”
Đạm Tiên nói: “Một cái đảng độc tôn, độc tài toàn trị, nhưng lại lãnh đạo tập thể. Không ai chịu trách nhiệm. Cứ một thằng làm thì hai thằng phá, bọn ngu dốt còn lại thì ỡm ờ ăn theo. Vì thế đảng của anh suốt bao năm nay chỉ biết loay hoay tự sướng, vơ vét và làm khổ nhân dân.”
Từ Hải hỏi: “Cô không sợ bạo chúa à?”
Đạm Tiên nói: “Bạo chúa mà được việc thì vẫn còn hơn cái lũ ham hố quyền lực mà không biết làm gì ngoài việc bắt nạt dân chúng. Em nói cho anh biết nhé, không phải chỉ có Đảng của Hồ Tôn Hiến mới theo đuổi quyền lực. Bọn đĩ điếm chúng em cũng muốn thực thi công lý theo cái cách phổ quát nhất, anh cứ nhìn kỹ xem.”
Từ Hải cười lớn: “Công lý ở chỗ nào?”
Đạm Tiên: “Ăn bánh phải trả tiền. Có phải là công lý không?”
Từ Hải đáp: “Phải.”
Đạm Tiên: “Bọn anh vơ vét của nhân dân, có đền bù gì xứng đáng?”
Từ Hải: “Em không thấy đất nước tiến bộ à?”
Đạm Tiên: “Anh so sánh với cái gì?”
Từ Hải: “Hôm qua.”
Đạm Tiên: “Thối. Các anh chỉ so sánh theo chiều dọc mà không so sánh theo chiều ngang.”
Từ Hải: “Dù sao vẫn là tiến bộ.”
Đạm Tiên: “Có rất nhiều cái thụt lùi đấy. Cần em chứng minh không?”
Từ Hải im lặng.
Đạm Tiên chua chát: “Chưa bao giờ chúng ta độc lập, cũng như tự do và hạnh phúc.”
Vào Sài Gòn công tác, Hồ Tôn Hiến được Thúc Sinh chiêu đãi một thực đơn châu Phi hoang dã từ thức ăn đến các em phục dịch đẳng cấp văn học khiêu dâm Mã Kiều Nhi, Đạm Tiên và Vương Thúy Kiều.
Thúc Sinh nói với Hồ Tôn Hiến: “Chúng ta đang ở bên bờ vực phá sản. Nếu không quyết liệt xóa bàn làm lại, chúng ta sẽ mất hết, kể cả mạng sống.”
Hồ Tôn Hiến bảo: “Trung Quốc đang có tham vọng tranh giành địa vị bá chủ thế giới. Manh động lúc này có thể dẫn tới việc quân Trung Quốc mang xe tăng tràn qua biên giới như thảm kịch của Hungary 1956, Tiệp Khắc 1968…”
Thúc Sinh nói: “Nếu Mỹ hậu thuẫn đưa Hạm đội 7 vào Biển Đông thì không sợ. Nhưng dù sao cũng phải tạo ra một bối cảnh hợp lý.”
Hồ Tôn Hiến bảo: “Tình báo Hoa Nam có mặt ở khắp nơi. Không qua mặt bọn chúng được.”
Thúc Sinh: “Chẳng lẽ chúng ta buông xuôi chờ ngày nhân dân đến treo cổ?”
Hồ Tôn Hiến: “Không, phải hành động. Chúng ta cần có một quần chúng của mình bên cạnh một đồng minh đáng tin cậy.”
Thúc Sinh: “Chúng ta chỉ có một quần chúng bất mãn. Bên ngoài không ai tin chúng ta.”
Hồ Tôn Hiến: “Trước hết cần giải quyết càng nhanh càng tốt bọn cơ hội trong Đảng.”
Thúc Sinh giật mình sợ Hồ Tôn Hiến giao việc cho mình. Ông không muốn là kẻ thù của bất cứ ai. Nhưng Hồ Tôn Hiến đã nói tiếp: “Ông gọi Sở Khanh cho tôi.”
Thúc Sinh đáp: “Ngày mai tôi sẽ cho nó trình diện anh.”
Rối Thúc Sinh bảo Vương Thúy Kiều chơi đàn. Những khúc dân ca Trung Quốc được Mã Kiều Nhi và Đạm Tiên thay nhau hát. Nước sông Tiền Đường chảy về phương Nam hoài cảm trong tâm hồn họ.
Hôm sau, Thúc Sinh đưa Sở Khanh ra mắt Hồ Tôn Hiến tại Đền Hùng Sài Gòn. Hồ Tôn Hiến hỏi: “Anh biết việc tôi cần chứ?”
Sở Khanh nhanh nhẩu: “Tìm cho ngài một cô gái?”
Hồ Tôn Hiến hỏi như không nghe Sở Khanh nói gì: “Anh vẫn còn khả năng lừa tình chứ?”
Sở Khanh: “Vâng, đấy là nghề của tôi.”
Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi muốn anh lừa cả bầy cừu.”
Sở Khanh: “Thưa được ạ. Nhưng tôi cần chính danh.”
Hồ Tôn Hiến nói: “Thúc Sinh sẽ làm thủ tục cho anh.”
Ban Huấn giáo trực thuộc Văn phòng Hồ Tôn Hiến được thành lập do Sở Khanh làm trưởng ban. Ban này có trách nhiệm chính thức là tư vấn chính phủ về các lĩnh vực thông tin, văn hóa và giáo dục.
Thế giới có hình tam giác. Ta – Địch – Bọn không phải ta, không phải địch. Trong thế tam phân ấy, không cái nào đối đầu trực tiếp với cái nào, chúng nương nhau mà thành. Không có địch thì phải tạo ra địch, vì không có địch thì không có ta. Có ta mà không có “bọn không phải ta, không phải địch” thì không thể có vận hành, cai trị. Mà cai trị thì không chỉ có đàn áp, cai trị cũng cần tung hô. Đàn áp là biện pháp. Cứu cánh là tung hô. Thần thánh trên trời và ma quỉ dưới đất cũng chỉ là một hệ thống. Sở Khanh trình bày dự án hành động dựa trên các nguyên lý mâu thuẫn và đồng nhất. Theo đó, thúc đẩy mâu thuẫn để tạo nên sự đồng nhất. “Thế lực thù địch” và “phản động” trở thành sách lược qui phục quần chúng. Và “sở hữu toàn dân” hay “thế giới đại đồng” sẽ là chiêu bài xuyên suốt cuộc vận động lịch sử. Mục tiêu lừa tình do Hồ Tôn Hiến đề ra được Sở Khanh thi hành triệt để. Tất cả nghệ thuật lừa gái đều được Sở Khanh áp dụng để chinh phục quần chúng. Bầy cừu nhắm mắt đưa chân. Bọn chăn cừu muốn cắt lông và làm thịt nhưng không muốn vỗ béo bầy cừu. Bầy cừu đói muốn làm loạn nhưng vốn bản chất là cừu nên không bao giờ cừu biến thành sói.
Thế giới có hình vuông. Dân gian gọi là tứ trụ triều đình. Sự mất cân bằng của quyền lợi và tham vọng làm xô lệch cái hình vuông ấy. Thúc Sinh bí mật giao nhiệm vụ cho Sở Khanh thúc đẩy cái mâu thuẫn đa phương ấy lên cao với mục đích đồng nhất thế giới chỉ còn một đường thẳng. Đường thẳng ấy dẫn tới đâu không ai biết. Điều quan trọng là quyền lực phải được quy về một mối.
Bầy cừu nằm mơ có một ngày trời mới đất mới, nên Sở Khanh lại có nhiệm vụ cho một dự án lừa tình khác.
Thay vì một đường thẳng, thế giới biến thành hai đường đối nghịch chà xát nhau. Cả những kẻ đứng bên lề phải hay lề trái đều điêu đứng. Xác ruồi muỗi nhiều như cát.
Hoàng đế Gia Tĩnh cho sứ giả sang gặp Hồ Tôn Hiến.
Sứ giả nói: “Xét vì tình đồng hương, trên cơ sở đồng văn, hàng xóm láng giềng tốt, Thiên triều ủng hộ đồng chí trong cuộc tranh chấp quyền lực hiện nay.”
Hồ Tôn Hiến cúi đầu đa tạ, hô vang: “Gia Tĩnh vạn vạn tuế, vạn vạn tuế.”
Sứ giả tiếp: “Tuy nhiên, đồng chí không được quên sự cưu mang của Thiên triều với đồng chí. Vì thế đồng chí cần phải nêu cao tấm gương thần phục Thiên triều cho cả thế giới thấy. Vì cả thế giới này sẽ phải thần phục Thiên triều như đồng chí đã thần phục.”
Hồ Tôn Hiến đáp: “Tôi biết việc mình phải làm.”
Khi sứ giả vừa ra về, Hồ Tôn Hiến nhổ ra một búng máu, chửi: “Địt mẹ chúng mày.”
(Còn 2 kì)
© 2013 Nguyễn Viện & pro&contra
May 6, 2013
Đĩ thúi (2)
Nguyễn Viện
Tiểu thuyết
6.
Năm Gia Tĩnh thứ 35, Hồ Tôn Hiến làm Án sát Chiết Giang vận động Thúy Kiều xúi Từ Hải qui hàng triều đình. Sau vụ dẹp giặc Từ Hải và các đầu mục khác, Hồ Tôn Hiến muốn được thăng chức xứng đáng với công lao của mình đã tìm cách móc nối với Thúc Sinh. Thúc Sinh bảo mỗi chức 3000 lạng. Đến năm Gia Tĩnh thứ 39, Hồ Tôn Hiến được thăng một hơi ba chức và làm đến Thượng thư Bộ Binh kiêm Đô sát Viện Hữu đô Ngự sử. Vẫn chưa hài lòng, Hồ Tôn Hiến muốn mua chức Tể tướng. Thúc Sinh bảo được. Hồ Tôn Hiến hỏi bao nhiêu. Thúc Sinh đáp: “Chỉ có vàng thì không đủ.” Bởi vua đâu có thiếu vàng. Hồ Tôn Hiến năn nỉ. Thúc Sinh rỉ tai Hồ Tôn Hiến: “Tôi muốn được an dưỡng ở An Nam với Vương Thúy Kiều, Mã Kiều Nhi và Đạm Tiên.” Hồ Tôn Hiến siết chặt tay Thúc Sinh thay lời cam kết.
Minh sử không ghi chép Hồ Tôn Hiến làm Tể tướng vào lúc nào, nhưng trong dân gian đã truyền tụng nhiều câu chuyện khác nhau để giải thích việc làm thế nào Hồ Tôn Hiến có thể làm đến chức Tể tướng.
Có người bảo Tể tướng Hồ Tôn Hiến là con rơi của Gia Tĩnh, nên được vua chiếu cố. Có người bảo Hồ Tôn Hiến có công trong việc tuyển gái cho vua. Thật ra, ai làm Tể tướng thì cũng không quan trọng. Dân gian quan tâm đến các lời tố cáo Tể tướng gian tham và có âm mưu cấu kết với An Nam làm chuyện thoán nghịch. Minh sử đã ghi chép việc Hồ Tôn Hiến tự vẫn trong ngục thất vào năm Gia Tĩnh thứ 43. Nhưng trong thực tế, Hồ Tôn Hiến đã chạy sang An Nam tá túc nhà Thúc Sinh. Và Hồ Tôn Hiến không bao giờ từ bỏ giấc mộng làm Tể tướng. Lịch sử thế giới cũng như lịch sử An Nam không thiếu trường hợp Tể tướng cướp ngôi làm vua. Vì thế không loại trừ giả thiết Hồ Tôn Hiến có thể đã từng là Tể tướng hoặc làm Vua ở Việt Nam.
Hồ Tôn Hiến hỏi Thúc Sinh: “Làm thế nào thoát được việc luận tội của lịch sử?”
Thúc Sinh bảo: “Thì cứ bỏ tù lịch sử.”
Hồ Tôn Hiến lại hỏi: “Làm sao bỏ tù được lịch sử?”
Thúc Sinh hỏi lại: “Ông có thu xếp cho tôi được an dưỡng ở Dubai cùng với các em gái không?”
Hồ Tôn Hiến nói: “Chuyện nhỏ.”
Thúc Sinh cười bảo: “Cũng đơn giản thôi, hãy bỏ tù mấy thằng viết sử. Chúng là các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà báo ngoài lề, các nhân sĩ, trí thức phản kháng…”
Hồ Tôn Hiến nói: “Bọn chúng đông như ruồi. Bắt đứa này nó đẻ ra đứa khác.”.
Thúc Sinh bảo: “Phải chuyên chính thôi đồng chí ạ.”
Nhưng Hồ Tôn Hiến chợt đổi giọng: “Tại sao ông muốn bỏ chạy?”
Thúc Sinh cũng trở nên nghiêm trang: “Tôi có thằng cháu làm trong ngành công an, nó muốn tôi giúp mua chức thiếu tướng để được gia hạn tuổi về hưu. Tôi bảo nó, trước khi chơi canh bạc chót, với một số tiền lớn có thể về hưu non mà không phải bận tâm, mày nên đi coi thày xem sao. Nó nghe lời đi coi bói, thày bảo, cuối mùa rồi rút lui đi. Phải, ông ạ, có những thứ cần được chôn vùi, bôi xóa.”
Hồ Tôn Hiến hỏi: “Ông cũng khuyên tôi rút lui?”
Thúc Sinh vội nói: “Tôi không nói vậy. Ở địa vị ông, có nhiều cách để chọn lựa.”
Chỉ có bậc thánh mới có khả năng từ bỏ danh vọng và quyền lực. Vì thế, người cháu của Thúc Sinh vẫn điên cuồng chạy chức và Hồ Tôn Hiến bằng mọi cách giữ chức.
Chưa bao giờ Thúc Sinh lại có lắm mối xin chạy chức và chạy dự án đến thế. Từ Hải được chia việc. Cấp trung ương do Thúc Sinh nhận lãnh. Từ Hải phụ trách các địa phương. Ân huệ và tiền bạc của họ lai láng.
Đạm Tiên nói với Thúc Sinh và Từ Hải: “Các anh chớ dại chạy theo các em hoa hậu, người mẫu mà quên chúng em nhé.”
Cả Thúc Sinh và Từ Hải đều biết cái giá của sự được, mất.
Thúc Sinh nói: “Anh chẳng bao giờ quên anh là Thúc Sinh.”
Tuy nói thế, không phải Thúc Sinh không mơ màng đến cái quyền lực vô hạn như Hồ Tôn Hiến.
Từ Hải bảo Thúc Sinh: “Anh chỉ nên hưởng nhàn tao nhã với tiếng đàn của Thúy Kiều thôi. Bon chen quyền lực không phải cái tạng của anh. Vả lại buôn vua như anh nói có phải vĩnh cửu hơn không.”
Thúc Sinh nói: “Cậu vẫn còn cay đắng với kinh nghiệm của vụ đầu hàng Hồ Tôn Hiến năm xưa à?”
Từ Hải bảo: “Tôi nghiệm ra, tiền và gái mới là tất cả hiện thực lý tưởng của mọi thời đại. Nó cho chúng ta cái chức của tất cả mọi chức.”
Vương Thúy Kiều nói với Thúc Sinh: “Thật ra, hồi đó anh Từ Hải qui hàng triều đình không phải chỉ vì em. Anh ấy nghĩ có thể làm điều gì đấy tốt hơn cả Hồ Tôn Hiến. Nhưng ảnh không phải là con người chính trị. Vì thế ảnh phải chết đứng.”
Đạm Tiên bảo: “Trong cuộc sống, chỉ có người thắng hoặc người thua. Đàn ông hay ảo tưởng.”
Từ Hải nói: “Có thể Hồ Tôn Hiến cũng không nhận ra điều ấy, mặc dù ông ta đã tự vẫn trong ngục.”
Mã Kiều Nhi nói: “Em lại thích những người ảo tưởng. Vì những người ảo tưởng cũng thường phóng túng.”
Nhìn lại mình, quả thực Thúc Sinh thấy không thể lươn lẹo như Hồ Tôn Hiến. Không đạp được người thì hay nhất là bợ người. Vả lại, bợ Hồ Tôn Hiến không phải là mối lợi vô tận của ông sao? Gạt bỏ dự án quyền lực, Thúc Sinh lập dự án kinh tế. Ông muốn là người giàu nhất.
Thúc Sinh nói với Từ Hải: “Gái là nhu cầu muôn thuở của đàn ông. Bởi vậy, cái nghề nghiệp vững bền nhất chắc chắn phải là nghề chăn gái. Cậu cho người làm cho tôi cái dự án kinh doanh tình dục thật hoành tráng, với khả năng giải quyết việc làm cho hàng triệu phụ nữ. Đặc biệt chú ý tới vấn đề thời vụ của các chị em nông thôn. Đồng thời giải quyết vấn đề an sinh xã hội.”
Từ Hải nói: “Ý tưởng hay. Nhưng liệu Hồ Tôn Hiến có chấp nhận khi ông ta đang đòi hỏi chính quyền các cấp phải xây dựng được các cộng đồng văn hóa từ cấp tổ dân phố tới cấp tỉnh?”
Thúc Sinh bảo: “Nền tảng kinh tế quyết định thượng tầng văn hóa. Tôi sẽ thuyết phục Hồ Tôn Hiến chấp nhận dự án này như một mũi đột phá cho nền công nghiệp du lịch nước nhà, vượt qua Thái Lan.” Tự sướng với sáng kiến của mình, Thúc Sinh nói tiếp: “Thật ra, không khó đâu. Phần cậu, sai đệ tử nghiên cứu làm luận chứng kinh tế cũng đừng quên yếu tố thuần phong mỹ tục và truyền thống dân tộc. Cần phải mang Truyện Kiều ra làm dẫn chứng. Vấn đề Hồ Tôn Hiến chỉ là bao nhiêu phần trăm lợi nhuận thôi.”
Dự án được triển khai tại tất cả 64 tỉnh thành trên cả nước để tránh tình trạng ăn chia không đều gây bất ổn nội bộ. Quỹ đất dành cho dự án của mỗi tỉnh thành do chính quyền địa phương và các nhà đầu tư quyết định, tùy theo mức độ cung ứng lao động của địa phương đó. Đối chiếu và đánh giá hiệu quả dự án dựa trên sự bất mãn của người mất đất và sự hài lòng do lợi ích kinh tế mang lại cho ngân sách nhà nước và các bên liên quan là tốt đẹp. Cái gọi là dân oan và những cuộc biểu tình kêu đòi công lý của họ hoàn toàn không đáng kể.
Thúc Sinh nói với Hồ Tôn Hiến: “Tể tướng Quản Trọng của nước Tề không phải là nhân vật xuất chúng sao? Chính ông ta đã cho xây 700 nhà chứa giúp cho nhà Tề có kinh phí xây dựng binh lực tranh hùng với thiên hạ. Ngày nay, để đất nước có thể hóa rồng, chúng ta cũng cần tận dụng sức mạnh và nhan sắc chị em. Hiện có khoảng 25 triệu phụ nữ trong tuổi lao động, trong đó 80% sống ở nông thôn, nhưng lao động nữ nông thôn chỉ chiếm khoảng 58%. Cái dự án mà tôi muốn nói với ông chính là để giải quyết phần 32% còn lại thất nghiệp. Mà việc này cũng không cần ông phải nhúng tay vào. Tôi sẽ đứng ra bán dự án này cho các tỉnh.”
Hồ Tôn Hiến bảo: “Tôi đồng ý trên nguyên tắc. Những vấn đề khác ông làm việc với con rể tôi.”
Trong cuộc nhậu, Từ Hải nâng ly mời Thúc Sinh: “Phụ nữ Việt Nam – Điểm đến của thế giới.”
“Theo số liệu tổng hợp của Thanh tra Chính phủ, từ năm 2003 đến năm 2010, các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp nhận và xử lý 1.219.625 đơn thư khiếu nại, tố cáo trong đó đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai bình quân các năm chiếm 69,79%. Cũng từ năm 2004 đến năm 2011, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiếp nhận được 59.751 lượt đơn của 29.671 vụ việc, trong đó khiếu nại hành chính về đất đai là 17.711 vụ chiếm 58,59%, có 5.966 vụ việc khiếu nại quyết định hành chính trong giải quyết tranh chấp đất đai chiếm 20,11%, có 4.639 vụ đòi lại đất cũ chiếm 15,63% và 1.355 vụ việc tố cáo chiếm 4,57%. Trong lĩnh vực tư pháp, số lượng các vụ án hành chính liên quan đến việc khởi kiện của công dân đối với các quyết định hành chính về quản lý đất đai cũng có xu hướng gia tăng. Từ năm 2004 đến năm 2011, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý sơ thẩm 3.994 vụ, giải quyết 2.857 vụ chiếm 71,5%, người khởi kiện là cá nhân chiếm 2.715 vụ, khởi kiện là cơ quan, tổ chức chiếm 142 vụ.”
(Cổng Thông tin Điện tử Thanh tra Nghệ An)
Các vụ xuống đường biểu tình của dân oan từ các tỉnh kéo về Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội gần như mỗi ngày. Lời kêu cứu của họ không được ai lắng nghe, kể cả những tâm hồn nhạy cảm như nhà báo và nghệ sĩ các loại. Đã có những cái chết và những bản án tù cho nạn nhân và những ai bênh vực họ.
7.
Từ Hải nói với Thúc Sinh: “Tôi đã đủ tiền mua nhà ở Dubai và bảo đảm một cuộc sống vương giả ở đó. Xét cho cùng, cuộc đời không phải cứ chống đối là hay.”
Thúc Sinh cười: “Cậu giác ngộ cách mạng rồi đấy.”#
Từ Hải hỏi: “Khi nào anh đi Dubai?”
Thúc Sinh: “Khi nào không còn kiếm tiền được nữa mới dzọt.”
Từ Hải cười: “Có lẽ chúng ta còn phải phấn đấu nhiều mới có thể tranh hùng với các anh hai dầu lửa ở Trung Đông.”
Thúc Sinh nói: “Đúng.”
Từ Hải đắc ý: “Phụ nữ thế giới – Điểm đến của Việt Nam.”
Thúc Sinh nói: “Có lẽ chưa bao giờ cậu nghĩ đến việc bán các dự án cho Trung Quốc?”
Từ Hải hỏi: “Khai thác nguyên liệu thô?”
Thúc Sinh bảo: “Cái đó ồn ào mà lợi nhuận không bao nhiêu. Vũ khí hoặc công nghệ cao. Nhẹ nhàng, kín đáo mà tiền khẳm. Trung Quốc không thể mua được các vũ khí hiện đại của Tây Âu hay Israel, hoặc linh kiện công nghệ cao của Mỹ. Chúng ta sẽ làm việc này thay cho họ.”
Từ Hải hỏi: “Ai sẽ làm cầu nối cho chúng ta với thế giới bên ngoài?”
Thúc Sinh: “Vợ cũ của tôi, Hoạn Thư. Bà ấy đang ở Mỹ.”
Hoạn Thư vượt biên năm 1978 theo diện bán chính thức dành cho các Hoa kiều với giá 4 lượng.
Từ Hải nói: “Tôi lúc nào cũng là chân tay của anh.”
Thúc Sinh giao cho Từ Hải móc nối với cảng Hải Phòng làm trạm trung chuyển. Hoạn Thư thu gom hàng hóa dưới dạng các phụ tùng và linh kiện rời. Phần ông, bán kế hoạch này cho tình báo Hoa Nam.
Thúc Sinh nói với Từ Hải: “Chúng ta là những nhân vật tiểu thuyết, bởi thế chúng ta có thể làm bất cứ điều gì nghĩ ra được mà không sợ ở tù.”
Từ Hải nói: “Giả dụ nếu bị ở tù thật thì cũng đâu có sao. Ra tù, lại tiếp tục. Chúng ta không bao giờ chết.”
Họ không biết rằng, dù là nhân vật tiểu thuyết, họ vẫn có thể bị vùi dập.
Nhiều năm sau, một số nhân vật liên quan ở cảng Hải Phòng bị bắt. Từ Hải và Thúc Sinh vẫn là những người vô can. Sau vụ này, mỗi người trong số họ mua một biệt thự ở New York.
Từ Hải nói: “Tôi vẫn bị ám ảnh bởi cái chết đứng. Tôi sợ đến lúc mình chạy không kịp.”
Thúc Sinh bảo: “Người ta biết thì sống. Cái biết của chúng ta là gì? Đấy là không bao giờ đặt cuộc đời mình vào một cửa. Chủ nghĩa tư bản là gì? Đấy là ở đâu có lợi thì chơi. Chỉ có kẻ ngu muội mới tin vào chính nghĩa. Chân lý là tiền. Chúng ta theo người mạnh, nhưng chúng ta cũng cần tỉnh táo để biết kẻ mạnh cũng đến lúc chết.”
Từ Hải hỏi: “Anh nghĩ Hồ Tôn Hiến còn sống được bao lâu?”
Thúc Sinh: “Hắn sống bao lâu không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta phải đánh hơi được người nào sẽ thay thế hắn.”
Từ Hải tâng bốc: “Anh lúc nào cũng sáng suốt.”
Thúc Sinh nói: “Cái lão Hồ Tôn Hiến B cũng đáng để chúng ta bỏ vốn đầu tư đấy. Cậu mang Thúy Kiều đến cúng cho lão.”
Vương Thúy Kiều được cải thiện chiều cao bằng cách cưa ống chân độn thêm một khúc xương mới. Nàng trở thành người đẹp chân dài. Nàng cũng được tân trang lý lịch lên đời người mẫu thời trang. Chiến dịch PR cho Kiều được Từ Hải xúc tiến một cách qui mô và bài bản. Kiều bỗng là “hot girl”. Các đại gia săn đón nàng, nhưng nàng săn đón Hồ Tôn Hiến B.
Hồ Tôn Hiến B sập bẫy. Thúc Sinh và Từ Hải trở thành nhà tài trợ chính cho Hồ Tôn Hiến B để đáp ứng các nhu cầu của người đẹp.
Bí mật quốc gia nằm trong tay Từ Hải, Thúc Sinh. Họ không đầu cơ chính sách, nhưng họ bán chính sách ăn huê hồng. Họ bảo 30% là thuế của cuộc chơi.
Mỗi lần thay đổi nhân sự, chính sách lại đảo chiều. Nhân sự và chính sách là một cuộc chơi bất tận. Nạn nhân và những kẻ thủ ác, tất cả đều là những con rối.
Mã Kiều Nhi hỏi Thúy Kiều: “Mày đã mua được mấy cái nhà?”
Kiều đáp: “Mỗi thành phố một cái. Còn mày?”
Mã Kiều Nhi nói: “Tao chỉ mua một căn thôi. Đường Lê Duẩn, Hòn Ngọc Viễn Đông. Dành để nghỉ ngơi. Còn khi làm việc tao vẫn thích vào khách sạn.”
Thúy Kiều hỏi: “Làm gì cho hết tiền?”
Mã Kiều Nhi bảo: “Bao giai và đánh bạc.”
Thúy Kiều hỏi tiếp: “Thằng nào tốt phước thế? Ra mắt chị em chứ?”
Mã Kiều Nhi bảo: “Có lạ gì mà ra mắt. Nguyễn đấy.”
Thúy Kiều lại hỏi: “Vẫn còn tình yêu à?”
Mã Kiều Nhi: “Làm gì có tình yêu. Sở thích thôi. Nuôi một thằng làm thơ là làm đẹp cho cuộc đời, huống gì nó lại làm thơ ca tụng mình.”
Kiều bảo: “Tao không làm từ thiện được.”
Sáng cà phê, chiều nhậu. Ngày nào cũng là một ngày đẹp đối với Nguyễn. Những dân oan khiếu kiện, biểu tình vất vưởng ngoài phố lướt qua mắt chàng như những bóng ma. Thơ là cái đẹp vĩnh cửu. Cái đẹp cứu rỗi thế giới. Những dân oan rách rưới lê lết sẽ làm thơ nhiễm bẩn. Thơ cần sự tinh khiết và tính nhân văn của gái và rượu.
Chữ nghĩa của Nguyễn là hoa hồng và mật ong.
Từ Hải bảo: “Ông viết giùm tôi một bài cho tập thơ sắp in nhé.”
Nguyễn bảo: “Được.”
Từ Hải hỏi: “Ông muốn lấy tiền hay vui chơi?”
Nguyễn bảo: “Vừa tiền vừa vui chơi.”
Từ Hải nói: “Chiều ông luôn.”
Nguyễn hỏi: “Ông muốn viết cho báo hay làm bài tựa?”
Từ Hải bảo: “Cả hai.”
Nguyễn nói: “Thế thì vui chơi cả tháng được.”
Từ Hải bảo: “Cả năm luôn. Bất cứ lúc nào ông muốn, cứ gọi.”
Nguyễn nhậu và gọi Từ Hải đến trả tiền. Đời lúc nào cũng đẹp.
Từ Hải nói với Thúc Sinh: “Tôi thích một giải thưởng văn chương quốc gia.”
Thúc Sinh bảo chuyện nhỏ. “Nếu cậu muốn, tôi có thể lo cho cậu cả cái giải văn chương ASEAN với điều kiện cậu đừng viết hay làm bất cứ điều gì mích lòng Đảng.”
Nguyễn nói với Từ Hải: “Tôi cũng có thể dịch thơ ông sang tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp.”
Từ Hải: “OK. Tôi sẽ cho in tập thơ bằng 4 thứ tiếng.”
Nguyễn bảo: “Thơ ông nên dát vàng.”
Từ Hải hỏi: “Còn kiểu gì sang trọng hơn nữa không?”
Nguyễn nói: “Mời Hồ Tôn Hiến viết tựa.”
Thúc Sinh nói: “Ý kiến hay. Tựa Hồ Tôn Hiến. Bạt Nguyễn. Thơ cậu đoạt giải văn chương cuối năm là cái chắc.”
Từ Hải nói: “Để tôi gọi các em đến nhậu cho vui.”
Nguyễn nói: “Kiếm cho tôi một em người mẫu nhé.”
Từ Hải hỏi: “Thích hoa hậu không?”
Nguyễn nói: “Á hậu thôi. Hoa hậu để anh Thúc Sinh.”
Từ Hải đọc thơ. Các em bảo thơ anh Từ Hải thâm sâu quá bọn em không hiểu. Nguyễn đọc thơ. Các em bảo thơ anh Nguyễn làm tụi em muốn khóc. Thúc Sinh đọc thơ. Các em cười nắc nẻ.
Thế giới có cần thơ không? Không, chỉ có các nhà thơ tự huyễn hoặc thơ cần mình, vì thế các nhà thơ vẫn tồn tại.
Đạm Tiên hỏi: “Em có tồn tại không?”
Nguyễn bảo: “Em tồn tại.”
Đạm Tiên hỏi tiếp: “Vì sao?”
Nguyễn nói: “Bởi chính câu hỏi của em.”
Đạm Tiên cười: “Lẽ ra một người như anh phải nói khác.”
Nguyễn hỏi: “Chẳng hạn?”
Đạm Tiên bảo thôi. Em không muốn giả dụ. Em thích thấy anh thực tế hơn là có vẻ triết gia-triết lý-triết học như thế.
Rồi Nguyễn cười. Lẽ ra, chàng phải nói: “Em làm anh rất nứng.”
Mã Kiều Nhi cầm ly rượu nói: “Có ai muốn làm chuyện đồi trụy, đồi bại, xúc phạm thuần phong mỹ tục không hè?”
Không ai trả lời. Mã Kiều Nhi đứng lên làm vài điệu bộ khiêu khích. Nhưng các ông thánh lim dim uể oải. Mã Kiều Nhi sờ vào đũng quần từng ông, tri hô: “Thế giới hòa bình.” Nàng cười sằng sặc.
Vương Thúy Kiều ôm cây đàn gẩy vài tiếng báo bão rồi bất ngờ buông tuồng một cơn mưa. Nhân gian nhão nhoẹt. Nguyễn ôm Đạm Tiên như thiên cổ.
Năm 1976 ở thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn bị bắt quả tang đang làm tình với Mã Kiều Nhi trong nhà trọ bởi một tổ công tác hỗn hợp ban ngành, đoàn thể các loại…
Họ bị bêu riếu ngoài phố như hai con chó phá hoại thành quả cách mạng. Người ta khoác vào cổ Nguyễn tấm bảng “Ma cô tàn dư Mỹ ngụy”, với Mã Kiều Nhi là “Đĩ điếm”. Bọn trẻ con reo hò đi theo như một đám rước, trong lúc loa phóng thanh phát đi những lời lên án tàn dư văn hóa đồi trụy phản động.
Cũng trong thời gian đó tại Hà Nội, Từ Hải được thủ trưởng gọi lên hạch hỏi: “Có dư luận nói đồng chí hủ hóa với Vương Thúy Kiều. Đồng chí phải tự kiểm điểm về hành vi xấu xa này.”
Từ Hải viết kiểm điểm: “Tôi nhận thức sâu sắc việc yêu Vương Thúy Kiều là xuất phát từ sự tiêm nhiễm tư tưởng và thói quen phong kiến tiểu tư sản, thực dân đế quốc, không phù hợp với nếp sống mới trong sáng của giai cấp vô sản. Tôi thành khẩn nhận khuyết điểm và hứa khắc phục sai lầm, xa lánh Vương Thúy Kiều mãi mãi.”
Từ Hải nộp một bản cho cơ quan, một nộp cho chi bộ, một nộp công đoàn.
Mãi sau này, Từ Hải mới biết thủ trưởng đã thế chỗ của mình trên giường Vương Thúy Kiều. Anh ta nói với Thúy Kiều: “Anh không tin Từ Hải khỏe hơn anh.”
(Còn 3 kì)
© 2013 Nguyễn Viện & pro&contra
May 4, 2013
Con người đích thực của Karl Marx
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
pro&contra – Đã có bao nhiêu cuốn sách viết về Karl Marx? Không đếm xuể. Còn có gì để khám phá nơi cuộc đời đã được nghiên cứu tường tận từng chi tiết của nhà tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất thế kỉ hai mươi này? Đúng dịp kỉ niệm 130 năm ngày mất và 195 năm ngày sinh của Marx, với cuốn tiểu sử Karl Marx: Một cuộc đời thế kỷ mười chín (Karl Marx: A Nineteenth-Century Life) tác giả Jonathan Sperber, Giáo sư Sử học tại Đại học Missouri, tìm một cách tiếp cận mới: nhấc Karl Marx khỏi những lí thuyết và biến động xã hội sau khi ông qua đời, đặt ông trở lại bối cảnh của thời đại ông ở thế kỉ mười chín. Sau đây là bài của triết gia John Gray, nguyên Giáo sư Lịch sử Tư tưởng châu Âu tại Học viện Kinh tế Chính trị London, điểm cuốn sách này trên The New York Review of Books.
_______________________
Về nhiều phương diện, Jonathan Sperber nhận xét, Marx là “một nhân vật nệ cổ”, với viễn tượng về tương lai dựa trên những hoàn cảnh khác hẳn so với bất kỳ hoàn cảnh nào phổ biến hiện nay:
Quan điểm xem Marx như một người đương thời với những tư tưởng đang định hình thế giới hiện đại đã hết thời, và đã đến lúc cần có cách hiểu mới về ông, xem ông như một nhân vật của một kỷ nguyên lịch sử quá vãng, một kỷ nguyên ngày càng xa xôi với kỷ nguyên của chính chúng ta: thời đại của Cách mạng Pháp, của triết học Hegel, của những năm đầu thời kỳ công nghiệp hóa của Anh Quốc và nền kinh tế chính trị xuất phát từ đó.
Mục đích của Sperber là giới thiệu con người thực sự của Marx – một nhà tư tưởng thế kỷ mười chín bận tâm với những tư tưởng và sự kiện vào thời của ông. Nếu ta nhìn nhận Marx theo cách này, nhiều tranh luận trong những cuộc tranh luận bùng lên xung quanh di sản của ông trong thế kỷ vừa qua dường như sẽ chẳng còn ích lợi gì, thậm chí chẳng còn phù hợp. Nhận định rằng Marx có phần “chịu trách nhiệm về mặt tri thức” tạo nên chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ hai mươi dường như sẽ là một nhận định hoàn toàn lầm lạc; nhưng nếu biện hộ Marx là một nhà dân chủ cấp tiến thì cũng sai lầm, vì cả hai quan điểm này “quay trở ngược lại những cuộc tranh luận hồi thế kỷ mười chín về các thời đại sau đó”.
Hẳn nhiên Marx hiểu các đặc điểm chủ yếu của chủ nghĩa tư bản; nhưng đó là “các đặc điểm của chủ nghĩa tư bản tồn tại trong những thập niên đầu của thế kỷ mười chín”, chứ không phải cái chủ nghĩa tư bản rất khác biệt tồn tại vào đầu thế kỷ hai mươi mốt. Vả lại, khi ông nhìn về tương lai hướng tới một loại hình mới của xã hội loài người sẽ hình thành sau khi chủ nghĩa tư bản sụp đổ, Marx không có khái niệm dứt khoát hình thái xã hội như vậy sẽ ra sao. Theo tác giả Sperber, nếu muốn nhờ ông giúp ta thấy được tương lai của ta, thì cũng sai lầm hệt như đổ tội cho ông về quá khứ của ta.
Dùng ấn bản mới công bố của tuyển tập Marx and Engels, thường được gọi bằng tên viết tắt trong tiếng Đức là MEGA [i], Sperber khắc họa hình ảnh về chính trị của Marx có nội dung khác hẳn hình ảnh lưu giữ trong những tư liệu thông thường. Các quan điểm của Marx ít khi chịu ảnh hưởng của bất cứ cam kết lý thuyết nào đã có về chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa cộng sản. Chúng thường phản ánh các thái độ của ông đối với các thế lực cầm quyền ở Châu Âu và những xung đột của họ, các mưu toan và những cuộc đối đầu mà ông can dự khi hoạt động chính trị.
Có lúc thái độ thù địch của Marx đối với các chế độ phản động của Châu Âu đã đưa ông đến những hành động cực đoan kỳ lạ. Là người kịch liệt chống đối chế độ chuyên quyền Nga và đã vận động cho một cuộc chiến tranh cách mạng chống Nga trong các năm 1848-1849, ông bất mãn về cách Anh Quốc xử lý thiếu quyết đoán Chiến tranh Crimea. Lên án việc giới cấp tiến hàng đầu ở Anh phản đối cuộc chiến này, Marx đi xa đến mức tuyên bố rằng các chính sách đối ngoại không kiên định của Anh là do Thủ tướng Anh, Lord Palmerston, làm điệp viên ăn lương của Nga Sa hoàng, một trong những kẻ phản bội nối tiếp nhau nắm giữ các vị trí quyền lực ở Anh Quốc trong hơn một thế kỷ – ông lặp lại lời cáo buộc này nhiều năm trong một loạt các bài báo được Eleanor, con gái ông, in lại thành cuốn Lịch sử ngoại giao bí mật của thế kỷ mười tám.
Tương tự, cuộc đấu tranh của ông với đối thủ người Nga Mikhail Bakunin để giành quyền kiểm soát Hội Liên hiệp Công nhân Quốc tế [ii] đã phản ánh lòng căm thù của Marx đối với chế độ quân chủ Phổ và nỗi nghi ngờ của ông về việc Bakunin là người có chủ trương ủng hộ phong trào đoàn kết toàn khối Slav với các mối liên hệ bí mật với Sa hoàng, hơn là phản ánh thái độ thù địch của ông đối với loại hình chủ nghĩa vô chính phủ mang tính chuyên chế của Bakunin. Chính các niềm đam mê và thái độ thù địch như vậy vào thế kỷ mười chín, chứ không phải những xung đột về ý thức hệ theo kiểu thường gặp của thời đại chiến tranh lạnh, đã định hình đời sống chính trị của Marx.
Cách nhìn mang tính xét lại khá tinh tế của Sperber mở rộng sang những gì từ trước đến nay thường được xem là các cam kết ý thức hệ đặc trưng của Marx. Ngày nay cũng như trong suốt thế kỷ hai mươi, Marx không thể tách rời khỏi tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản, nhưng ông không luôn luôn gắn kết với nó. Ngay trong bài viết đầu tiên vào năm 1842 sau khi ông đảm nhận vai trò chủ biên tờ Tin tức Rhineland, Marx mở một cuộc bút chiến gay gắt chống lại tờ báo hàng đầu của Đức, Tin tức tổng hợp Augsburg, vì đã đăng những bài cổ xúy chủ nghĩa cộng sản. Mũi dùi tấn công của ông không dựa trên bất cứ lập luận nào về tính phi thực tế của chủ nghĩa cộng sản: ông công kích chính cái tư tưởng [chủ nghĩa cộng sản] đó. Ta thán rằng “những đô thị thương mại một thời từng phát đạt của chúng ta không còn phồn thịnh nữa”, ông tuyên bố rằng sự truyền bá những tư tưởng cộng sản sẽ “tiêu diệt trí tuệ của chúng ta, chế ngự quan điểm của chúng ta”, một quá trình âm thầm [hủy hoại] vô phương cứu chữa. Ngược lại, bất kỳ nỗ lực nào nhằm biến chủ nghĩa cộng sản thành hiện thực có thể dễ dàng bị chặn đứng bằng vũ lực: “các nỗ lực thực tiễn [nhằm du nhập chủ nghĩa cộng sản], kể cả các nỗ lực đồng loạt, có thể được đáp trả bằng đại bác”. Như tác giả Sperber viết, “Người sẽ soạn Tuyên ngôn Cộng sản chỉ năm năm sau đó lại đang cổ xúy dùng quân đội để trấn áp một cuộc nổi dậy của giới công nhân cộng sản!”
Đây cũng không phải là một trường hợp khác thường cá biệt. Trong một bài phát biểu đọc trước Hội Dân chủ Cologne vào tháng 8 năm 1848, Marx gọi nền chuyên chính cách mạng bởi một giai cấp duy nhất là “vô nghĩa” – một ý kiến vô cùng đối lập với những quan điểm mà Marx đã bày tỏ chỉ mới sáu tháng trước đó trong Tuyên ngôn Cộng sản đến nỗi về sau những người Marxist-Leninist tuyển chọn các bài phát biểu của ông đã sai lầm khi không chịu chấp nhận tính xác thực của nó – và hơn hai mươi năm sau, vào lúc bùng nổ Chiến tranh Pháp-Phổ, Marx cũng gọi bất cứ ý niệm nào về Công xã Paris là “vô nghĩa”.
Marx-kẻ-chống-cộng là một hình ảnh lạ lẫm; nhưng rõ ràng có những lúc ông đã chia sẻ quan điểm của những người có tư tưởng tự do vào thời của ông và về sau; mà theo quan điểm đó, chủ nghĩa cộng sản (giả sử có thể đạt được cái gì đại loại như thế) sẽ có hại cho sự tiến bộ của con người. Đây chỉ là một ví dụ về một sự thật lớn hơn. Bất chấp những khát vọng của chính ông và các nỗ lực của các thế hệ môn đồ của ông kể từ Engels trở đi, các tư tưởng của Marx chưa bao giờ tạo thành một hệ thống thống nhất. Một nguyên nhân của điều này là cuộc đời làm việc của Marx không được liền lạc. Tuy chúng ta xem Marx là một nhà lý luận an vị trong thư viện của Bảo tàng Anh Quốc, lý luận chỉ là một trong những thú tiêu khiển vụn vặt, chứ ít khi là hoạt động chủ yếu của ông:
Thường thì những thú vui đeo đuổi lý luận của Marx phải được chèn vào lịch sinh hoạt bề bộn với các hoạt động mất nhiều thời gian hơn: chính trị lưu vong, báo chí, Hội Liên hiệp Công nhân Quốc tế, trốn chủ nợ, và những căn bệnh hiểm nghèo hay chết người hành hạ vợ con ông, và của chính Marx, sau lúc khởi phát bệnh da của ông. Những nỗ lực lý luận của ông rất thường bị gián đoạn hàng tháng trời hoặc phải để dành cho những lúc đêm hôm khuya khoắt.
Nhưng nếu hoàn cảnh cuộc sống của Marx chẳng thích hợp cho nỗ lực liên tục đòi hỏi phải có để xây dựng hệ thống, tính chất chiết trung của lối tư duy của ông tạo ra một rào cản lớn hơn. Việc ông vay mượn các tư tưởng từ nhiều nguồn đã quá quen thuộc trong giới học thuật. Tác giả Sperber góp thêm vào câu chuyện thường nghe về phép chiết trung của Marx bằng cách tìm hiểu mối xung đột giữa việc ông liên tục trung thành với niềm tin của Hegel cho rằng lịch sử có một lôgic cố hữu về sự phát triển, và sự cam kết với khoa học mà Marx tiếp thu được từ phong trào thực chứng.
Bằng cách chỉ ra vai trò tri thức mang tính định hình của chủ nghĩa thực chứng vào giữa thế kỷ mười chín, Sperber tự chứng tỏ mình là người dẫn đường đáng tin cậy đến thế giới của những tư tưởng là môi trường vận động của Marx. Chủ nghĩa thực chứng lâu nay đã bị các sử gia tri thức sao lãng, rõ ràng một phần là do hiện nay nó dường như trở nên phản động đáng hổ thẹn về một số phương diện. Tuy nhiên nó đã tạo nên một khối tư tưởng có ảnh hưởng vô cùng lớn. Chủ nghĩa thực chứng xuất phát từ nhà xã hội người Pháp Henri de Saint-Simon (1760–1825) nhưng được Auguste Comte (1798–1857), một trong những nhà sáng lập môn xã hội học, phát triển trọn vẹn nhất. Chủ nghĩa thực chứng cổ xúy một viễn tượng về tương lai mà đến ngày nay vẫn còn thịnh hành và có ảnh hưởng mạnh. Khẳng định rằng khoa học là mô hình cho bất cứ loại tri thức thực thụ nào, Comte hướng tới một thời đại khi các tôn giáo truyền thống đã biến mất, các giai cấp xã hội của quá khứ đã được bãi bỏ, và chủ nghĩa công nghiệp (thuật ngữ do Saint-Simon đặt ra) tái tổ chức trên cơ sở duy lý và đại đồng – một biến đổi sẽ diễn ra trong một chuỗi các giai đoạn tiến hóa tương tự như các giai đoạn mà các nhà khoa học phát hiện trong thế giới tự nhiên.
Sperber cho chúng ta biết rằng Marx xem hệ thống triết lý của Comte là “rác rưởi thực chứng”; nhưng có nhiều điểm tương đồng giữa quan điểm của Marx về xã hội và lịch sử và những quan điểm của giới thực chứng:
Dù Marx cố tách mình ra khỏi các học thuyết [thực chứng] này, cách nhìn của chính ông về sự tiến bộ qua các giai đoạn riêng biệt của sự phát triển xã hội và cách chia lịch sử loài người thành hai phần gồm một thời kỳ ban đầu không có lý trí và một thời kỳ về sau có tính công nghiệp và khoa học chứa đựng những yếu tố thực chứng rõ rệt.
Sperber cảm nhận khá sắc sảo về những điểm tương đồng căn bản giữa cách nhìn của Marx về sự phát triển của loài người và cách nhìn của Herbert Spencer (1820–1903), người (chứ không phải Darwin) đã phát minh ra cụm từ “sự sinh tồn của loài thích nghi nhất” (“survival of the fittest”) và dùng nó để biện hộ cho chủ nghĩa tư bản với thị trường và các thành phần tham gia được toàn quyền tự do. Chịu ảnh hưởng của Comte, Spencer chia các xã hội loài người thành hai loại: “loại ‘tham chiến’ để chỉ toàn bộ quá khứ trước thời kỳ công nghiệp và khoa học, và loại ‘công nghiệp’ để đánh dấu một kỷ nguyên mới trong lịch sử thế giới”.
Thế giới mới của Spencer là một phiên bản lý tưởng hóa của chủ nghĩa tư bản thời Victoria giai đoạn đầu, trong khi thế giới mới của Marx được cho là sẽ xuất hiện chỉ sau khi chủ nghĩa tư bản đã bị lật đổ; nhưng hai nhà tư tưởng này thống nhất với nhau ở chỗ “kỳ vọng một kỷ nguyên khoa học mới, một kỷ nguyên khác căn bản so với quá khứ loài người”. Như Sperber kết luận: “Ngày nay, ai đến thăm Nghĩa trang Highgate ở Bắc London cũng thấy mộ của Karl Marx và Herbert Spencer nằm đối diện nhau – dù giữa hai người có những khác biệt về tri thức, vị trí gần nhau như vậy không phải là hoàn toàn không thích hợp”.
Marx tiếp thu được từ các nhà thực chứng không chỉ cách nhìn về lịch sử như một quá trình tiến hóa đạt đến tột đỉnh ở một nền văn minh khoa học. Ông còn hấp thụ ít nhiều từ những lý thuyết của họ về các loại chủng tộc. Việc Marx nghiêm túc đón nhận các lý thuyết như vậy có thể đáng ngạc nhiên; nhưng ta cần nhớ rằng nhiều nhà tư tưởng hàng đầu thế kỷ mười chín – nhất là Herbert Spencer – là những người mê tướng số, và các nhà thực chứng từ lâu đã tin rằng để đạt được tính khoa học trọn vẹn, tư tưởng xã hội rốt cuộc cũng phải dựa trên sinh lý học.
Comte đã xác định chủng tộc (cùng với khí hậu) là một trong những yếu tố vật chất quyết định đời sống xã hội, và tác phẩm Luận về tính bất bình đẳng của các chủng tộc loài người (1853–1855) của Arthur de Gobineau, một lời biện hộ có ảnh hưởng rộng lớn về các thứ bậc chủng tộc vốn có, lấy một phần cảm hứng từ triết lý của Comte. Marx có phản ứng khinh miệt với cuốn sách của Gobineau, và không hề có dấu hiệu tin rằng chủng tộc của ông ưu việt trong mối quan hệ với người con rể Paul Lafargue gốc Châu Phi. (Lý do chính khiến ông phản đối cuộc hôn nhân đó là Lafargue thiếu nguồn thu nhập ổn định.) Đồng thời Marx không tránh được những lối suy nghĩ rập khuôn về chủng tộc vào thời của ông. Lời ông mô tả nhà xã hội Đức gốc Do Thái Ferdinand Lassalle, mà Sperber gọi là “một cơn trút giận xấu xa, ngay cả theo chuẩn mực của thế kỷ mười chín”, minh họa ảnh hưởng này:
Bây giờ tôi đã hoàn toàn thấy rõ, như hình dạng cái đầu của hắn và kiểu mọc tóc của hắn chứng minh, hắn [Lassalle] xuất phát từ những người da đen đã tham gia đoàn người của Moses ra khỏi Ai Cập (nếu mẹ hắn hoặc bà nội của hắn đã không ăn nằm với một tên mọi đen). Chính sự kết hợp giữa chất Do Thái và chất Đức với cái bản chất da đen này chắc hẳn tạo ra một sản phẩm dị thường. Thói hung hăng của tay này cũng giống bọn da đen.
Sperber nhận xét rằng đoạn văn này thể hiện “cách hiểu không mang tính chủng tộc về người Do Thái” của Marx. “‘Sự kết hợp giữa chất Do Thái và chất Đức’ mà Marx thấy ở Lassalle có tính văn hóa và chính trị”, chứ không có tính sinh học. Tuy nhiên, như Sperber tiếp tục mô tả, Marx cũng nhắc đến các loại chủng tộc này bằng những cách cho thấy những loại này được căn cứ vào các nòi giống sinh học. Ca tụng tác phẩm của nhà dân tộc học và nhà địa chất học người Pháp Pierre Trémaux (1818–1895), tác giả của cuốn sách Nguồn gốc và sự biến đổi của con người và các sinh vật khác mà ông đọc năm 1866, Marx khen gợi lý thuyết của Trémaux về vai trò của địa chất học trong sự tiến hóa của động vật và con người là “quan trọng hơn nhiều và phong phú hơn nhiều so với Darwin” trong việc cung cấp một “nền tảng tự nhiên” cho tính chất dân tộc và chứng tỏ rằng “loại [chủng tộc] da đen thông thường chỉ là dạng thoái hóa của một dạng cao cấp hơn nhiều”. Với những nhận xét này, Sperber bình luận,
Marx dường như đi theo hướng dùng sinh học hay địa chất học để giải thích những khác biệt về tính chất dân tộc – dù gì đi nữa cũng là lối giải thích gắn kết tính chất dân tộc với nòi giống, lý giải theo khoa học tự nhiên… một ví dụ khác cho thấy tầm ảnh hưởng đối với của những tư tưởng thực chứng về ưu tiên tri thức của các môn khoa học tự nhiên.
Lòng ngưỡng mộ của Marx đối với Darwin là điều ai cũng biết. Theo một huyền thoại phổ biến, Marx ngỏ ý đề tặng cuốn Tư bản cho Darwin. Sperber mô tả đây là “một huyền thoại xưa nay nhiều lần bị phản bác nhưng dường như không thể xóa hẳn được”, vì chính Edward Aveling, người yêu của Eleanor, con gái Marx, đã thất bại khi xin phép Darwin đề tặng một tập sách nổi tiếng mà ông đã viết về tiến hóa. Nhưng không có gì nghi ngờ về chuyện Marx hoan nghênh công trình của Darwin, xem đó (theo lời của Sperber) là “một cú đấm tri thức nữa có lợi cho chủ nghĩa duy vậy và thuyết vô thần”.
Những bất đồng sâu sắc giữa Marx và Darwin thì ít người biết hơn. Nếu Marx xem công trình của Trémaux là “một bước hoàn thiện rất quan trọng so với Darwin”, lý do là “sự tiến bộ, mà theo quan điểm của Darwin là hoàn toàn tình cờ, ở đây là cần thiết trên cơ sở các thời kỳ phát triển của vật thể trái đất”. Gần như tất cả các môn đệ của Darwin thời đó tin rằng ông đã dùng khoa học chứng minh sự tiến bộ trong tự nhiên; nhưng mặc dù chính Darwin đôi khi có phần dao động về luận điểm này, đó chưa bao giờ là quan điểm căn bản của ông. Thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin chẳng bàn gì về kiểu cải thiện nào cả – như Darwin có lần từng nhận xét, xét từ góc độ của chính loài ong, con ong là một cải thiện so với con người – và tầm hiểu biết sâu sắc của Marx được chứng tỏ qua việc, khác với đại đa số những người cổ xúy tư tưởng tiến hóa, Marx hiểu rằng học thuyết Darwin thiếu tư tưởng về sự tiến bộ. Thế nhưng, cũng như những người đó, về mặt tình cảm ông không đủ khả năng chấp nhận cái thế giới ngẫu nhiên mà Darwin đã khám phá.
Như cố triết gia Leszek Kołakowski thường nói, “Marx là một triết gia Đức”. Cách Marx lý giải lịch sử không xuất phát từ khoa học, mà là cách giải thích siêu hình của Hegel về sự bộc lộ của tinh thần (Geist) trong thế giới. Khẳng định cơ sở duy vật của thế giới ý tưởng, Marx đã ngoạn mục đảo ngược triết lý của Hegel; nhưng trong quá trình đảo ngược này, niềm tin của Hegel cho rằng lịch sử thực chất là một tiến trình tiến hóa duy lý tái hiện thành quan niệm của Marx về một chuỗi các biến đổi mang tính cách mạng tiến bộ. Tiến trình này có thể không hoàn toàn tất yếu; luôn có khả năng quay trở lại với tình trạng man rợ. Nhưng sự phát triển trọn vẹn các năng lực của con người, theo Marx, vẫn là ở điểm cuối cùng của lịch sử. Điều mà Marx và rất nhiều người khác muốn từ thuyết tiến hóa là một nền tảng cho niềm tin của họ về bước tiến đến một thế giới tốt đẹp hơn; nhưng thành tựu của Darwin là ở chỗ chứng minh sự tiến hóa vận hành không có một phương hướng hay trạng thái cuối cùng nào cả. Không chịu chấp nhận khám phá của Darwin, Marx bèn xoay sang vận dụng những lý thuyết viển vông và nay đã bị lãng quên rất xứng đáng của Trémaux.
Lần đầu tiên đặt Marx trọn vẹn trong thế kỷ mười chín, tiểu sử mới của tác giả Sperber có thể là tư liệu đáng tin cậy nhất trong nhiều năm sắp đến. Viết bằng giọng văn dễ hiểu và thanh thoát, cuốn sách này chứa đầy những hiểu biết sâu về tiểu sử và các giai thoại đáng nhớ, được khéo léo đan quyện với một bức tranh có sức thuyết phục về Châu Âu thế kỷ mười chín và cách kiến giải đáng suy gẫm về các tư tưởng của Marx. Các mối quan hệ của Marx với cha mẹ ông và di sản Do Thái của ông, thời sinh viên, câu chuyện bảy năm tìm hiểu rồi kết hôn với con gái của một quan chức chính phủ Phổ không thành đạt lắm, và cuộc đời dài sống trong nghèo khổ nhưng vẫn giữ kiểu cách thanh cao và hệ quả là tình trạng không ổn định rày đây mai đó được minh họa sống động.
Sperber mô tả nhiều sự nghiệp của Marx – trong đó, theo nhận xét của Sperber, Marx thành công khi là một nhà báo cấp tiến sáng lập một tờ báo hơn là khi cố gắng tập hợp giai cấp cần lao – và tác giả phân tích kỹ các thái độ tri thức và chính trị thường xuyên thay đổi của Marx. Rõ ràng Sperber thành công khi khắc họa Marx là một nhân vật phức tạp và hay thay đổi đắm chìm trong một thế giới hoàn toàn cách biệt với thế giới của chính chúng ta hiện nay. Liệu như vậy có nghĩa là tư tưởng của Marx hoàn toàn không can hệ gì đến các xung đột và những tranh luận của thế kỷ hai mươi và thế kỷ hai mươi mốt lại là một chuyện khác.
Có người nhận định rằng các tư tưởng của Marx chịu trách nhiệm một phần về các tội ác của chủ nghĩa cộng sản, nhưng cũng có người tin rằng Marx lĩnh hội các khía cạnh của chủ nghĩa tư bản mà hiện nay vẫn có ý nghĩa quan trọng. Cả nhận định lẫn niềm tin đó đều không thể được bác bỏ một cách dễ dàng như tác giả Sperber mong muốn. Có lẽ Marx đã chưa bao giờ có chủ đích tạo ra một hình thái giống như nhà nước toàn trị được tạo nên ở Liên Xô – thực ra một nhà nước như vậy rất có thể là không thể tưởng tượng nổi đối với ông. Tuy vậy, cái chế độ trỗi dậy ở Liên Xô là kết quả của việc cố gắng hiện thực hóa một viễn tượng rõ ràng mang màu sắc chủ nghĩa Marx. Marx không hề hiểu biết gì cái xã hội mới mà ông kỳ vọng sẽ vươn lên từ tàn tích của chủ nghĩa tư bản. Như Sperber ghi nhận, “Cuối đời, Marx thay thế một viễn tượng không tưởng về việc bãi bỏ hoàn toàn sự phân công lao động bị thù ghét bằng một viễn tượng khác, viễn tượng nhân loại toàn tâm toàn ý mưu cầu nghệ thuật và học thuật”. Tuy nhiên, Marx thực sự tin rằng một thế giới khác và tốt đẹp hơn không thể sánh được sẽ hình thành sau khi chủ nghĩa tư bản bị tiêu diệt, dựa niềm tin của mình về khả năng của một thế giới như vậy trên cơ sở một mớ hỗn độn rời rạc của triết lý duy tâm, sự suy đoán tiến hóa mơ hồ, và cách nhìn thực chứng về lịch sử.
Lenin theo chân Marx khi tạo ra một phiên bản mới của niềm tin này. Không có lý do gì để rút lại nhận định, do Kołakowski và những người khác đưa ra, rằng tính xác định siêu hình và khoa học giả hiệu mà Lenin hấp thụ từ Marx đóng một vai trò hệ trọng trong việc tạo nên chủ nghĩa toàn trị cộng sản. Theo đuổi một viễn tượng không thể hiện thực hóa được của một tương lai đại đồng sau khi chủ nghĩa tư bản sụp đổ, các môn đồ Leninist của Marx đã tạo ra một xã hội áp bức và vô nhân đạo mà chính nó đã sụp đổ, trong khi chủ nghĩa tư bản – dù đầy rẫy những vấn đề của riêng nó – tiếp tục phát triển.
Tuy Marx không thể tránh bị dính líu đến một số tội ác trong những tội ác kinh khủng nhất của thế kỷ vừa qua, cũng đúng là ông làm sáng tỏ một số trong những tình trạng tiến thoái lưỡng nan của chúng ta hiện nay. Sperber thấy không có gì đáng chú ý ở đoạn văn nổi tiếng trong Tuyên ngôn Cộng sản mà qua đó Marx và Engels tuyên bố:
Tất cả những gì rắn chắc đều tiêu tan thành mây khói; tất cả những gì thiêng liêng đều bị ô uế, và rốt cuộc con người buộc phải đối diện với các hoàn cảnh sống thực sự của mình và các quan hệ với đồng loại, bằng con mắt tỉnh táo. [iii]
Theo Sperber, cái ý tưởng cho rằng “sự khẳng định về biến đổi không ngừng và đa dạng” này báo trước tình cảnh của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ hai mươi và đầu thế kỷ hai mươi mốt xuất phát từ cách dịch sai bản gốc tiếng Đức, mà có thể diễn đạt một cách chính xác hơn là:
Tất cả mọi thứ đang tồn tại một cách chắc chắn và mọi yếu tố của xã hội có giai cấp sẽ tan biến, mọi thứ thiêng liêng biến thành phàm tục và con người rốt cuộc cũng buộc phải nhìn nhận vị thế của họ trong đời sống và những quan hệ giữa người với người bằng con mắt tỉnh táo.
Tuy phiên bản của Sperber rõ ràng nghe kém mượt mà hơn (như ông công nhận), tôi chẳng thấy có gì khác biệt thực sự về nghĩa giữa hai phiên bản. Bất luận được dịch ra sao, đoạn văn đó chỉ ra một đặc điểm trọng tâm của chủ nghĩa tư bản – đó là tự thân nó có xu hướng cách mạng hóa xã hội – mà phần lớn các nhà kinh tế học và chính khách vào thời của Marx và về sau đã làm ngơ hoặc đánh giá quá thấp.
Các chương trình của “giới bảo thủ thị trường tự do” nhằm xóa bỏ các gọng kềm của quản lý nhà nước đối với sự vận hành của các lực thị trường trong khi bảo tồn hoặc khôi phục các mẫu hình truyền thống của đời sống gia đình và trật tự xã hội, phụ thuộc vào giả định rằng tác động của thị trường có thể được hạn chế trong phạm vi nền kinh tế. Nhận định rằng các thị trường tự do phá hủy và tạo nên các hình thức của đời sống xã hội khi chúng sản xuất và tiêu hủy các sản phẩm và các ngành công nghiệp, Marx chứng minh rằng giả định này sai lầm rất lớn. Trái với kỳ vọng của ông, chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo đã không phai tàn và không hề có dấu hiệu phai tàn trong tương lai trước mắt; nhưng khi ông cảm nhận cách thức mà chủ nghĩa tư bản đang phá hoại đời sống tư sản, ông đã lĩnh hội một chân lý quan trọng.
Nói như vậy không có nghĩa là Marx có thể chỉ cho chúng ta cách thoát ra khỏi những khó khăn kinh tế hiện nay của chúng ta. Ta có thể hiểu nhiều hơn về xu hướng chủ nghĩa tư bản gặp những cuộc khủng hoảng thường tái diễn qua những trước tác của John Maynard Keynes hay một môn đồ chịu phê bình Keynes chẳng hạn như Hyman Minsky hơn là qua tác phẩm của Marx. Do xa rời với bất cứ hoàn cảnh xã hội nào hiện có hoặc có thể hình dung được một cách thực tế, cái “tư tưởng cộng sản” do các nhà tư tưởng như Alain Badiou và Slavoj Žižek khôi phục cũng chẳng khác gì những ảo tưởng về thị trường tự do được phái hữu hồi sinh. Cái ý thức hệ do nhà kinh tế học người Áo F.A. Hayek và các môn đệ của ông cổ xúy, trong đó chủ nghĩa tư bản giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh sinh tồn giữa các hệ thống kinh tế khác nhau, có nhiều điểm tương đồng với phiên bản kém chất lượng hơn về sự tiến hóa do Herbert Spencer truyền bá cách đây hơn một thế kỷ. Nhắc lại các ngụy biện đã bị đập tan từ lâu, những lý thuyết tân Marxist và tân tự do này chỉ càng minh họa sức mạnh bền bỉ của các tư tưởng hứa hẹn sự giải thoát kỳ diệu khỏi xung đột của con người.
Việc Marx lại được ưa chuộng là một sự tình cờ của lịch sử. Nếu Chiến tranh Thế giới thứ nhất không xảy ra và làm sụp đổ chế độ Sa hoàng, nếu phe Bạch vệ thắng lợi trong Cuộc Nội chiến Nga như Lenin nhiều lúc đã e sợ như vậy và nếu lãnh tụ Bolshevik đã không thể cướp chính quyền và duy trì quyền lực của mình, hoặc nếu bất cứ sự kiện nào trong vô vàn sự kiện đã không xảy ra như trên thực tế, thì hiện nay Marx là cái tên mà hầu hết những người có học thức phải vắt óc mới nhớ nổi. Thực tế là chúng ta chỉ còn thừa hưởng những sai sót và lầm lẫn của Marx. Marx hiểu sức sống trong trạng thái hỗn loạn của chủ nghĩa tư bản sớm hơn và rõ hơn có lẽ bất cứ ai khác. Nhưng cái viễn tượng về tương lai mà ông tiếp thu từ chủ nghĩa thực chứng, và chia sẻ với nhà tiên tri kia cùng thời Victoria có ngôi mộ đối diện với mộ của ông ở Nghĩa trang Highgate, một viễn tượng mà ở đó các xã hội công nghiệp đang cận kề một nền văn minh khoa học trong đó các tôn giáo và xung đột của quá khứ sẽ phai tàn, là viễn tượng thiếu cơ sở duy lý – một huyền thoại mà, cũng như chuyện Marx muốn đề tặng tác phẩm quan trọng của mình cho Darwin, đã bị đập tan nhiều lần nhưng dường như không thể xóa bỏ được.
Rõ ràng là nếu tin rằng nhân loại đang tiến hóa đến một trạng thái đại đồng hơn, thì nhiều người sẽ cảm thấy an tâm. Song, chúng ta sẽ chuẩn bị tốt hơn để đương đầu với những xung đột của mình nếu ta có thể gác lại cách nhìn của Marx về lịch sử, cũng như niềm tin thời thế kỷ mười chín của ông về khả năng có một xã hội khác hẳn bất cứ xã hội nào đã từng tồn tại.
Nguồn: John Gray, “The Real Karl Marx”, The New York Review of Books, 9/5/2013
Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra
_________
Ảnh: Karl Marx và con gái Jenny, một nhà báo cánh tả và thư ký cho Marx, năm 1869. Jonathan Sperber viết: ‘Chiếc thánh giá bà đang đeo không phải dấu hiệu sùng đạo, mà là biểu tượng của cuộc khởi nghĩa Ba Lan năm 1863.’ (Nguồn: Bundesarchiv Berlin-Lichterfelde)
[i] Marx-Engels-Gesamtausgabe (N.D.)
[ii] Tức Đệ nhất Quốc tế (N.D.)
[iii] So sánh với ở tàng thư Marxist Internet Archive: “Tất cả những gì mang tính đẳng cấp và trí tuệ đều tiêu tan như mây khói; tất cả những gì là thiêng liêng đều bị ô uế, và rốt cuộc, mỗi người đều buộc phải nhìn những điều kiện sinh hoạt của họ và những quan hệ giữa họ với nhau bằng con mắt tỉnh táo.” Tiếng Anh: “All that is solid melts into air, all that is holy is profaned, and man is at last compelled to face with sober senses his real conditions of life, and his relations with his kind.” Tiếng Đức: “Alles Ständische und Stehende verdampft, alles Heilige wird entweiht, und die Menschen sind endlich gezwungen, ihre Lebensstellung, ihre gegenseitigen Beziehungen mit nüchternen Augen anzusehen.” (N.D.)
May 2, 2013
Đĩ thúi (1)
Nguyễn Viện
Tiểu thuyết
Trong cuốn tiểu thuyết phản lịch sử, phản hư cấu, phản hiện thực và phản tiểu thuyết này, các nhân vật chính của tác phẩm văn học Việt Nam nổi tiếng nhất, Truyện Kiều, và cả tác giả của nó, Nguyễn Du, bước thẳng ra từ hư cấu và lịch sử để lăn lộn trên một bàn cờ thế sự quái đản mà tất cả chúng ta dường như đều có mặt.
Bạn có thể thích hay ghét, rất thích hay rất ghét, khen hay chê tác phẩm Phản Kiều, hay Tân Đoạn trường tân thanh này, nhưng tôi tin rằng bạn sẽ không thể dửng dưng với nó. Tôi hân hạnh giới thiệu tác phẩm mới nhất của nhà văn Nguyễn Viện, đăng thành 5 kì trên pro&contra.
Phạm Thị Hoài
_______________
Gặp Mã Kiều Nhi trong một lầu xanh tại Bắc Kinh nhân chuyến đi sứ năm 1813, Nguyễn đã chới với. Đó là một kiều nữ tài hoa. Cầm kỳ thi họa đủ món ăn chơi vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề, đặc biệt là món thổi kèn điêu luyện theo đúng tinh thần Karma Yoga không phân biệt đối xử của nàng. Dẫu sao, Nguyễn cũng không tránh được cái mặc cảm của người tiểu quốc đi trả thù dân tộc. Vì thế, hành động vô cầu bất phân rất lương tâm chức nghiệp của Kiều Nhi khiến cho Nguyễn cảm động. Và chàng muốn chiếm lấy nàng, theo một cách nào đó tương tự như Từ Hải trong một giả định hóa giải oan nghiệp. Tất nhiên, khoản được gọi là “bo” của Nguyễn không thể so sánh với các hào phú bản địa, nhưng Mã Kiều Nhi thượng thừa bản lĩnh và thâm hậu nhân sinh hiểu được đây là cơ hội nàng bước vào một thế giới khác, mà ngay cả một hảo hán như Từ Hải cũng không thể làm nổi. Thế giới của ảo tượng văn chương.
Mã Kiều Nhi trốn theo Nguyễn về Việt Nam năm 1814.
Cho đến sau năm 1820, không còn ai ở Việt Nam biết Mã Kiều Nhi là ai nữa. Nàng đã có một khai sinh mới được gọi là Vương Thúy Kiều. Tôi chưa bao giờ ngưỡng mộ Truyện Kiều, nhưng tôi thích cái hệ lụy của Truyện Kiều.
Vì thế, có một Mã Kiều Nhi trở thành nhân vật văn chương và cũng có những Mã Kiều Nhi khác vẫn quanh quẩn đâu đó trong các lầu xanh. Nàng đi xuyên suốt dòng lịch sử từ những kỹ viện đầu tiên do Quản Trọng, Tể tướng nước Tề sáng lập khoảng 2700 năm trước đến các khu đèn đỏ đương đại. Đĩ là vĩnh cửu.
Sau khi vượt ải Nam Quan, Mã Kiều Nhi đã rũ bỏ bộ đồ hóa trang làm tên lính hầu của Nguyễn. Nàng trở lại là một cô gái xinh đẹp. Xinh đẹp và e lệ thì cũng đến lúc phải đi tiểu. Tiết tháng ba ở rừng biên cương mát mẻ và phong quang, vì thế nàng đã phải đi hơi xa để tìm một chỗ kín đáo. Kiều Nhi nhìn thấy một gò đất. Và nàng ngồi xuống. Cỏ vàng hiu hiu. Bỗng nhiên, Kiều Nhi nghe thấy tiếng nói sau lưng mình: “Cô đã đánh thức tôi dậy.” Nàng quay lại thấy một cô gái dường như rất quen. Đoán được điều ấy, cô gái nói: “Tôi là Đạm Tiên, cũng từng ở lầu xanh như cô ở Bắc Kinh. Tôi theo Mạc Đĩnh Chi sang đây.” Kiều Nhi hỏi ngay: “Sao chị không về Tràng An mà lại ở chốn hoang vu thế này?” Đạm Tiên bảo: “Chuyện dài lắm, không có thì giờ để nói đâu. Em hãy đi theo chị.” “Tại sao?”, Kiều Nhi hỏi lại. Đạm Tiên nói: “Vương phủ không phải là chỗ của chúng ta. Chị đã đến đó và chị đã quay về.” Kiều Nhi lại hỏi: “Chị muốn đưa em về?” “Không, không phải trở lại Bắc Kinh, mà là trở về con đường của mình”, Đạm Tiên giải thích.
Thấy Mã Kiều Nhi đi lâu, Nguyễn đích thân cùng vài tên lính đi tìm. Trong vòng vài dặm, không thấy một bóng nhà. Khi tối trời vẫn không thấy nàng đâu, Nguyễn và đoàn tùy tùng đều cho rằng Kiều Nhi có thể đã bị thú hoang ăn thịt.
1.
Mã Kiều Nhi đến một trong những trang trại ở khu vực rừng biên giới được các nhà đầu tư Trung Quốc thuê của Việt Nam. Đạm Tiên dặn Kiều Nhi: “Em không được nói tiếng Hoa.” Kiều Nhi thắc mắc: “Ở đây toàn là người Trung Quốc không mà?” Đạm Tiên bảo: “Tất cả bọn đàn ông đều thích của lạ. Bởi vậy em hãy nói tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc nào ở Việt Nam cũng được.”
Chính sách mỗi gia đình chỉ có một con của Trung Quốc dẫn đến tình trạng đàn ông khó tìm được vợ. Đến Việt Nam không phải chỉ là lời mời gọi của miếng cơm manh áo mà còn bởi cơn quẫn bách thèm khát giống cái của lao động giống đực Trung Quốc đòi được giải quyết. Giống cái Việt vừa đẹp vừa nhiều vừa rẻ. Việt Nam trở thành thị trường giống cái của thế giới.
Kiều Nhi và Đạm Tiên mở quán nhậu bán rượu Mao Đài. Mái tôn vách lá sơ sài. Nhưng chiều tối nào quán cũng đông nghẹt. Công nhân Trung Quốc cũng không khác Việt Nam, lao động cật lực rồi uống rượu. Rượu lên cơn thì gái nào cũng là gái, kể gì hàng dạt hàng xịn. Kiều Nhi thường tiếp khách suốt đêm, sáng ngủ bù. Khô rát âm đạo, để đỡ đau Kiều Nhi phải dùng gel bôi trơn. Bọn Trung Quốc bảo nàng không có chút biểu cảm.
Kiều Nhi từng là ngôi sao của vũ trường Kit ở Sài Gòn. Trong số những khách quen của nàng có Thiếu tá Việt Nam Cộng hòa tên Tùng. Tuy không oai phong ngang tàng như các sĩ quan Dù, Biệt động Quân hay Thủy quân Lục chiến, nhưng Tùng hào hoa đẹp trai và nhiều tiền nhờ bán hàng quân tiếp vụ cho Việt cộng. Tùng yêu và chiều Kiều Nhi. Nàng thích chàng không phải vì tiền mà ở những bước nhảy bay bướm cũng như thái độ sùng tín gái đẹp của chàng. Nhưng có một người đàn bà khác không cho đó là mối tình đẹp. Vợ Tùng đánh ghen bằng một lon acid và một bản án chung thân máng vào cổ nàng: “Hồng nhan bạc phận”. Sau này, Kiều Nhi đã giải phẫu thẩm mỹ khuôn mặt nhưng bản án “Hồng nhan bạc phận” nàng khắc vào miếng lắc đeo ở tay. Từ đó, không ai thấy được cảm xúc của nàng trên khuôn mặt nữa. Bù lại, thân thể của nàng càng ngày càng đẹp và quyến rũ. Kiều Nhi trở thành đĩ tinh ròng.
Vào đầu những năm 2000, khi nền kinh tế thị trường trong nước phát triển, những cô gái sở hữu một thân hình chuẩn có vơ vàn cơ hội kiếm tiền. Họ làm người mẫu trình diễn hoặc quảng cáo và được các đại gia theo đuổi. Những giá trị mới được xác lập. Kiều Nhi được một đại gia bao trong căn biệt thự tuy không lộng lẫy nhưng cũng đủ danh giá. Nàng tân trang lại trinh tiết. Thỉnh thoảng bán trinh tìm cảm xúc mới. Nàng phát biểu, nhận tiền từ tay những người đàn ông đi mua trinh nó khác hẳn làm điếm chuyên nghiệp. Không hẳn vì những số tiền lớn lao, mà nàng nhận được cả niềm tin thiêng liêng của người mua trinh về cái lộc của tạo hóa. Nàng bảo “lộc trời bao la, sao nỡ hẹp với mọi người”.
Đôi khi nhớ tới Nguyễn, nàng cũng muốn tặng chàng “chữ trinh còn một chút này” để cảm tạ tấm lòng tri kỷ. Nhưng dường như Nguyễn không quan tâm đến điều ấy. Chàng vẫn nói: “Lần nào đụ em, anh cũng tìm thấy cảm giác của sự trinh bạch.” Lần nào cũng là lần đầu tiên. Kiều Nhi cũng không hiểu được lòng mình, tại sao với Nguyễn, nàng luôn luôn trinh bạch. Nguyễn bảo “anh vẫn nhìn thấy khuôn mặt thật của em dưới lớp da nhân tạo.”
Hoài niệm vẫn là một khuynh hướng tự nhiên của con người. Thời kỳ chuyên chính vô sản xã hội chủ nghĩa, ai cũng khổ như chó. Kiều Nhi sống bằng cách tham gia đoàn văn công thành phố. Nàng có nhiều khách. Nhưng họ chỉ trả bằng tem phiếu hoặc nhu yếu phẩm. Không huy hoàng, nhưng vẫn được sống tiện nghi hơn người. Nguyễn có rượu ngoại uống và thuốc lá thơm hút cũng nhờ Mã Kiều Nhi từ bi nhân hậu chia sẻ.
Thơ mộng nhất trong cuộc đời Kiều Nhi có lẽ phải kể đến giai đoạn hưng thịnh của cô đầu. Phẩm chất nghệ sĩ hoang đường với cây tì bà của nàng cùng nhịp phách tiếng hát đa tình của Nguyễn Công Trứ quả là một cặp đôi hoàn hảo, anh hùng và mỹ nhân kinh điển cho mọi thời đại. Trong số những người tình của Mã Kiều Nhi, không kể Nguyễn Du, thì Nguyễn Công Trứ làm nàng say đắm nhất.
Không như Từ Hải, Trứ phụng sự triều đình tận tụy theo cốt cách của một quân tử. Và Trứ cũng trở thành một hình tượng đối nghịch với bọn văn nô nịnh thần trong thời đại của ông. Cùng với một đức hạnh ngay thẳng như Nguyễn Công Trứ, nhưng Kiều Nhi vẫn chan hòa với bọn văn nô dịch vật, bởi vì với nàng “tiền nào cũng là tiền” và nàng phục vụ theo đúng nghĩa vụ công bằng mà thiên hạ đã mua nàng. Kiều Nhi bảo “Em tam giáo đồng nguyên, vô vi theo Lão giáo, hành động mà không làm gì cả. Phục tùng ước muốn của đàn ông mọi lúc mọi nơi theo kinh tế thị trường định hướng Khổng Nho nên em đòi hỏi ăn bánh trả tiền. Đời là ảo tượng vô thường, vì thế không bám níu chấp trước để giải phóng oan nghiệp theo lời Phật dạy.”
Không hối tiếc. Đàn ông hay tiền bạc cũng là một thứ nhu cầu. Cũng chẳng thấy đâu là ngu muội hay minh triết. Nàng bảo “không có tiền thì cạp đất mà ăn à”. Vì thế, khi Nguyễn mang cho nàng đọc Truyện Kiều, nàng chỉ nói “em không biết mình có thiện căn hay không, nhưng em tin rằng em luôn sống thành thật.” Nguyễn biết điều ấy, chính vì thế Vương Thúy Kiều trở thành bất hủ. Sau 200 năm ngày sinh, Nguyễn Du được Hội đồng Hòa bình Thế giới phong tặng “Danh nhân văn hóa”.
Năm 2012, nhà văn đồng hương của Mã Kiều Nhi đoạt Giải Nobel Văn chương. Dư luận không thống nhất về kết quả này bởi thái độ chính trị của Mạc Ngôn đối với một chế độ toàn trị như Trung Quốc. Văn tài và nhân cách trở thành một vấn nạn thời đại. Bất cứ nhà văn nào cho rằng mình đứng ngoài chính trị đều là ngụy biện cho sự ẩn náu trước cái ác.
Kiều Nhi viết một status trên Facebook: “Nếu anh Mạc Ngôn muốn, em sẵn sàng chiêu đãi miễn phí món phong nhũ phì đồn đặc sản thiên nhiên của em để tưởng thưởng cho tinh thần đồng văn đề huề giữa đĩ hiện đại và truyền thống thập thành của Trung Quốc cố cựu.”
Tin Giải Nobel cho Mạc Ngôn tuy đến được với xóm lao động Trung Quốc trong rừng sâu đầu nguồn của Việt Nam, nhưng không ai quan tâm, ngoại trừ Mã Kiều Nhi. Đêm đó, nàng tiếp gần hai chục khách. Lần đầu tiên, nàng cảm nhận một cách khác thường về những con cu Trung Quốc. Tất cả đều vội vã. Tất cả đều tột đỉnh. Nhưng cũng tất cả tinh dịch đều khô như bột. Mã Kiều Nhi hỏi Đạm Tiên về hiện tượng này, Tiên cũng chỉ phỏng đoán: “Có lẽ đó là kết quả của một chính sách về toàn cầu hóa của người Trung Quốc. Chị ngờ rằng, đàn bà chỉ ngửi bằng mũi cũng có thể thụ thai.”
Tinh khí bay mù mịt. Những cô gái người dân tộc thiểu số sống ở quanh vùng đều mang bầu khống. Bụng của họ càng ngày càng to ra nhưng rỗng tuếch. Nỗi hoang mang lan tỏa khắp rừng núi. Nhưng hơn chín tháng sau, bụng của họ tự xẹp xuống như chưa có chuyện gì. Tuy nhiên, cái tai nạn kỳ cục đó đã để lại những vết nhăn di chứng không những trên bụng họ mà còn trên bụng của tất cả những bé gái sinh ra sau này. Các thày cúng đều cho rằng đó là hội chứng “thiên triều”.
Một trong số những cô gái từng mang bầu khống đã theo anh chàng buôn gỗ lậu về miền xuôi nói với Kiều Nhi: “Em hoàn toàn mất cảm giác về chuyện ấy. Nhưng em muốn theo chồng để phục hồi chức năng. Chị giúp em được chứ?”. Kiều Nhi bảo: “Không cần đâu. Cảm giác chỉ là sự bịa đặt của mấy ông nhà văn. Em muốn thế nào thì nó sẽ là như thế.” Cô gái không hiểu. Nhưng cô ta có bản năng của một thú rừng, vì thế sự hoang dã có bài học của riêng nó.
Những ngày hành nghề trong rừng với lao động đồng hương Trung Quốc, Mã Kiều Nhi không cảm thấy bị tổn thương như Nguyễn đã thương cảm một cây quế cao quí để cho mán mường trèo leo. Ngược lại, nàng hoàn toàn sống an vui với truyền thống “thập nữ viết vô” trong sự tồn tại của mình. Một cách nghịch lý, nó giải thoát nàng bằng thân phận một con đĩ. Đậm đà bản sắc Nho giáo.
Chính Nguyễn cũng đã không nhìn thấy tính phản động của tinh thần Nho giáo trong cuộc đời mình. Vì thế đã có lúc, Nguyễn muốn chạy vào Gia Định theo phò Nguyễn Ánh chống giặc Tây Sơn. Nhưng Nguyễn không bao giờ cảm thấy được hóa giải nghiệp chướng như con đĩ toàn phần Mã Kiều Nhi. Nguyễn lúc nào cũng là một hàng thần lơ láo thân phận trí thức.
Cuộc đời Mã Kiều Nhi không có biến cố, kể cả việc nàng phải bán mình chuộc cha và trở thành Vương Thúy Kiều như Thanh Tâm Tài Nhân hay Nguyễn Du đã mô tả. Từ trước khi nàng có mặt trên cõi đời, Mã Kiều Nhi đã là đĩ. Và cho đến muôn đời sau, Mã Kiều Nhi vẫn là đĩ.
Bản thân Khổng Tử hay Nguyễn Du cũng chỉ là những kẻ chạy theo quyền lực và phò quyền lực. Khổng giáo là tập đại thành của sự sa đọa trí thức.
Năm 1862, Hòa ước Nhâm Tuất được ký, tỉnh Gia Định được nhượng quyền cho Pháp cùng với Biên Hòa và Định Tường. Lúc ấy Mã Kiều Nhi đang sống trong Chợ Lớn. Trải nghiệm với lính Tây là một cảm giác rất kỳ quặc. Khi lính Tây xông vào nhà, Mã Kiều Nhi đang ngồi đan áo, nàng vội vàng đứng lên định cởi quần dâng hiến ngay, nhưng dường như bọn Tây không biết thế nào là phụ nữ Á Đông toàn tòng, xông vào với tất cả khí thế của kẻ đi chinh phục thuộc địa. Kết quả là Tây không tìm được sự thỏa mãn khai hóa, mà Ta cũng mất cơ hội thống khoái của thứ đức hạnh nhẫn nhục. Tây nằm bất tỉnh nhân sự thượng mã phong trên cái ngổn ngang giao lưu văn hóa. Tay vẫn còn cầm cây đan, Kiều Nhi đâm vào khúc xương cùng anh Tây, giải cứu chàng thoát khỏi nỗi ô nhục văn minh súng đạn.
Tỉnh dậy, Tây nhìn ra Tây và cũng nhìn thấy Ta. Từ đó, có kỹ nghệ lấy Tây và Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng.
Năm 1975. Mã Kiều Nhi bất chợt cảm thấy mình trở thành nhân vật trung tâm của toàn bộ cuộc cách mạng do Karl Marx khởi xướng. Bản thân nàng là một tuyên ngôn “vô sản thế giới hãy đoàn kết lại” trong mọi góc độ, chủ thể và đối tượng. Khám phá này nâng tầm Mã Kiều Nhi thành một thương hiệu toàn cầu và mang tính phổ quát. Chưa bao giờ Mã Kiều Nhi lại nhận được một thứ tình cảm tương lân như thế với tất cả nhân dân khi trên giường cũng như ngoài đường phố.
Không có quần áo đại cán hay công nhân lao động. Cũng không có linh hồn hay bản sắc. Mọi thứ trở nên đơn giản lạ kỳ.
Và đến khi bước vào thế kỷ 21, Mã Kiều Nhi đã trở thành đĩ quốc tế.
Có lúc nàng phải đến tận Hà Khẩu của Trung Quốc hay các khu đèn đỏ ở Campuchia, Singapore và Malaysia kiếm ăn. Hộ chiếu Việt vẫn có sự hấp dẫn riêng của nó.
2.
Chuyện ở Hà Khẩu.
Có anh nông dân muốn mua nàng mang về quê. Kiều Nhi bảo anh: “Em là đĩ, không làm vợ được.”
Anh nông dân khẩn khoản: “Anh cần có con nối dõi, em đẻ cho anh một thằng con trai, sau đó tùy em.”
Tuy nhiên, Kiều Nhi bảo anh nông dân đồng hương: “Nếu em chỉ có thể đẻ cho anh toàn con gái thì sao?”
Anh nông dân điềm nhiên: “Thì em sẽ phải tự biết cách xử lý. Anh cần một thằng con trai.”
Kiều Nhi hỏi: “Em sẽ được đền bù ra sao?”
Anh nông dân vẫn bình thản: “Đủ để cho em có một kỹ viện ở Bắc Kinh hoặc Hà Nội.”
Kiều Nhi bảo: “Cho em vài ngày suy nghĩ và thu xếp công việc.”
Anh nông dân nói: “Không, đi ngay bây giờ. Mọi thứ anh đã chuẩn bị rồi. Em có thể ra khỏi đây mà không sợ phiền hà gì.”
Kiều Nhi hiểu ngay mình đã gặp một tay anh chị thứ thiệt. Có thể là Sở Khanh, cũng có thể là Từ Hải. Hoặc hai trong một, vì thế có thể gọi anh nông dân này là Sở Từ.
Sở Từ đưa Kiều Nhi ra xe hơi. Đi nửa ngày đường, họ đến một thị trấn trên núi và đi qua cái cổng cầu kỳ vào một biệt thự thuộc vào loại đẹp nhất khu vực. Sở Từ nói với Kiều Nhi: “Hoặc em là bà chủ của ngôi biệt thự này, hoặc em sẽ là một con nha đầu mãn kiếp ở đây.”
Ở trong nhà thì tuyệt đối sung sướng, muốn gì cũng được, nhưng bước ra khỏi cổng đều có người đi theo. Kiều Nhi buộc phải trở thành cái máy đẻ. Rồi nàng cũng mang thai. Sinh con gái, Kiều Nhi không kịp thấy mặt con. Nó bị bóp cổ chết và ngâm rượu. Đó là loại rượu chỉ dành cho các đại gia muốn tẩm bổ quả thận và cầu mong ân sủng của vận hạn. Lần đẻ con thứ hai, may sao là con trai. Sở Từ giữ đúng lời hứa, Mã Kiều Nhi được giải phóng. Nàng ôm một đống tiền về Hà Nội mở quán bia ôm.
Mã Kiều Nhi nhờ Đạm Tiên tuyển tiếp viên và giao Đạm Tiên làm má mì quản lý các em. Không ai xuất sắc hơn Đạm Tiên trong việc này. Các anh giai muốn chân quê hay hiện đại đều được đáp ứng. Các kiểu cung đình phương Đông hay quái dị bạo lực phương Tây cũng đều được phục vụ chu đáo. “Tất cả thế giới trong tầm tay”, đó là slogan của nhà hàng đặc sản Kiều Tiên.
Sự thành công của Kiều Tiên khiến các bà Hoạn Thư trong Hội Liên hiệp Phụ nữ ganh tị và phản ứng quyết liệt. Kiều Nhi và Đạm Tiên phải vào trường phục hồi nhân phẩm với quyết định cấm hành nghề mại dâm vĩnh viễn.
Kinh tế thị trường với qui luật cung cầu tự nhiên, mặc dù được định hướng xã hội chủ nghĩa cũng không thể ngăn cản Kiều Nhi và Đạm Tiên tiếp tục hành nghề. Bởi xét cho cùng, xã hội phong kiến Khổng Nho cũng như xã hội xã hội chủ nghĩa đương đại, trong bản chất luôn tiềm ẩn những ức chế nội tại một cách nóng bỏng nhất. Vì thế nhu cầu về sự phóng thể trở thành tất yếu đối với toàn xã hội. Thực hiện hành vi tình dục là một giải pháp thuận tiện và đơn giản để giải phóng năng lượng và an ủi bản thân mang tính cá nhân. Đồng thời nó cũng là một hòa giải với căn tính đĩ mang màu sắc xã hội.
Kiều Nhi không bao giờ chết. Nàng tồn tại vừa như một bản thể vừa như một hiện tượng. Ngay chính Vương Thúy Kiều cũng không thể vượt thoát được cái mệnh bạc mà tráng lệ ấy khi tìm đến với cái chết trên sông Tiền Đường.
Để trốn tránh chế độ quản thúc tại địa phương, Kiều Nhi và Đạm Tiên lên rừng đầu nguồn phục vụ các anh giai đồng hương Trung Quốc. Nhưng tình trạng mang bầu khống liên miên do tinh trùng bột của niềm kiêu hãnh Hán hóa rơi vãi vô tội vạ khiến Kiều Nhi và Đạm Tiên phải bỏ chạy. Các em lại về trong vòng tay âu yếm của anh trai Việt. Kể từ khi gặp Nguyễn, Mã Kiều Nhi đã là người tình muôn thuở của tâm hồn Việt. Nàng vẫn dzin trên từng cây số. Vẫn mẫu mực trâm anh văn hóa thuần Việt.
3.
Mã Kiều Nhi có phải là tín đồ của Linga không? Nàng chẳng bao giờ thắc mắc về điều ấy. Nàng có cái vốn tự có và để cho Linga có thể là Linga như nó phải thế, cái Yoni của nàng tung tóe từ ngõ hẻm đến đại lộ như nó vốn là thế. Nhân phẩm của nàng. Dâng hiến và bị hãm hiếp.
Từ sâu thẳm, tất cả đều tôn thờ nàng. Nhưng tất cả đều miệt thị nàng. Vì thế, để xác lập quyền tồn tại và mưu cầu hạnh phúc, thậm chí mang hạnh phúc đến cho người khác, nàng luôn bành hai chân dạng háng uy nghi trước mọi nền văn minh nhân loại.
Mã Kiều Nhi kéo đầu từng người áp dí vào hĩm nàng. Nàng bảo đấy là niềm ân sủng vĩ đại nhất mà con người từng biết đến. Chẳng có lãnh tụ nào muôn năm như nàng. Thế nhưng Nguyễn vẫn bảo nàng mệnh bạc. Cái hạnh phúc thật của con người không phải vì đám đông, cho đám đông. Lẽ ra Vương Thúy Kiều phải thuộc về Nguyễn, hay Mã Kiều Nhi phải thuộc về tôi chẳng hạn. Nhưng cả Vương Thúy Kiều và Mã Kiều Nhi đều là người của bá tánh, vì bá tánh và cho bá tánh. Hồng nhan đa truân.
Cả Vương Thúy Kiều và Mã Kiều Nhi đều không có quyền chọn lựa.
Vì thế, Vương Thúy Kiều lại từ phong tình cổ lục lặng lẽ bước ra phong trần. Thúy Kiều đi theo Kiều Nhi và Đạm Tiên mở quán cà phê ôm, hớt tóc massage trên mọi nẻo đường quê hương của Nguyễn.
Cả ba vừa trực tiếp hành nghề, vừa tuyển thêm đào nương khi họ làm ăn phát đạt. Đạm Tiên vốn là ma nên nàng biết đi đâu để tìm các cô gái có nhu cầu muốn làm gái báo hiếu song thân. Sau khi được Vương Thúy Kiều phỏng vấn, nhiệm vụ dạy nghề cho các cô là của Mã Kiều Nhi.
Thúy Kiều hoàn toàn thất vọng vì tấm gương báo hiếu bán mình chuộc cha của nàng đã trở thành một lý do chính đáng biện minh cho sự xả thân của các cô. Không một cô gái nào bày tỏ ý muốn làm gái vì vinh quang của nghề hay bản chất đĩ tính của mình. Tất cả vì hoàn cảnh.
Mã Kiều Nhi nói: “Không một ai nhận trách nhiệm do mình và vì mình.” Vì thế việc dạy nghề của nàng cũng trở nên khó khăn hơn. Các cô gái không nhận biết được cái phẩm chất và lương tâm nghể nghiệp là phục vụ một cách bình đẳng tất cả mọi khách chơi, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ.
Đạm Tiên cũng bảo: “Không một cô gái nào nhìn ra làm gái là con đường duy nhất của mình.”
Nghề làm gái mất đi chất hồng nhan bạc mệnh và cái tài tình công phu của nghề, mà chỉ còn là một thứ lao động giản đơn thuần túy kinh tế thị trường. Vì thế, gái bán dâm cũng không còn là một cảm hứng thi ca như các nàng kỹ nữ xưa kia.
Nhưng nó vẫn là một quá trình văn hóa hình thành bởi các cuộc cách mạng công nghệ và ý thức hệ.
Vương Thúy Kiều, Mã Kiều Nhi và Đạm Tiên không những hành nghề bán dâm mà còn luôn đi cùng và đi trước thời đại, các em có mặt trong mọi thứ văn hóa phẩm từ phim XXX dị tính, đồng tính và lưỡng tính đến quảng cáo sex toy đủ loại để quảng bá và tạo nên một thị hiếu nghệ thuật sống mang tính xã hội hài hòa theo tinh thần triết lý chính trị của Hồ Cẩm Đào tiên sinh.
Tứ hải giai huynh đệ của Khổng Tử là chuyện vặt.
4.
Trong lúc đó, Kim Trọng vẫn yên bề gia thất và trung quân ái quốc, bất kể vật đã đổi sao đã dời. Tuy thỉnh thoảng chàng cũng tìm cách mua vui với Vương Thúy Kiều một vài trống canh. Lỡ khi Thúy Kiều kẹt trong mùa kinh nguyệt thì chàng tìm Mã Kiều Nhi. Và để cho có ý vị nhân sinh cao cả, chàng cũng thường thoát tục với Đạm Tiên trong cõi thiền. Tóm lại, còn vua còn mình, chàng đề huề sinh thái.
Thật ra, chỉ có Mã Kiều Nhi mới biết Kim Trọng thực hư thế nào. Vương Thúy Kiều không phải không biết, nhưng nàng vẫn cố giữ thể diện cho chàng. Vì thế, Kim Trọng cho đến muôn đời sau vẫn là một anh trí thức mà Mao Trạch Đông coi không bằng cục phân. Những cục phân ấy luôn tự an ủi mình trong cõi ta bà rằng “ăn cây nào rào cây ấy” theo đúng đạo nghĩa Nho gia.
Những gì Mã Kiều Nhi biết về Kim Trọng chỉ là vấn đề chất lượng đàn ông. Cái mà Đạm Tiên biết về Kim Trọng mới thực là con người và niềm tin của chàng.
Bí thư Tỉnh ủy là một trong các chức vụ không phải cao nhất của Kim Trọng nhưng lại mang đến cho chàng sự viên mãn nhất. Với chức vụ này, chàng đủ điều kiện để hủ hóa mang tính chất mặt trận tổ quốc, đồng thời thu vén được cả một gia tài cho con cháu hưởng lộc đến muôn đời sau. Sử sách ghi chép về giai đoạn này không kể xiết, thế hệ độc giả thời Google.com có thể truy cứu tài liệu với các từ khóa như “dự án”, “đất đai”, “mua quan bán chức”, “tham nhũng”, “lợi ích nhóm” hoặc “đảng”…
Nhưng để đạt được vinh quang, Kim Trọng đã phải nhờ đến Đạm Tiên.
Cứ mỗi cuối tháng âm lịch, Kim Trọng cùng Thúy Vân đều đến trước mộ Đạm Tiên cúng vái và cầu cơ. Nể tình Vương Thúy Kiều, Đạm Tiên giúp Kim Trọng tất cả những gì chàng muốn với một điều kiện duy nhất, Kim Trọng phải tự làm hình nộm khỏa thân của mình và hóa vàng xuống âm phủ cho nàng. Không ai biết ở thế giới bên kia Kim Trọng và Đạm Tiên có làm gì với nhau không, nhưng con người còn lại của Kim Trọng trên dương thế hoàn toàn bị bất lực trong vòng nửa tuần trăng mỗi lần như thế. Vương Thúy Vân không ghen, bởi vì nàng cần những thứ khác cũng không kém tình yêu của Kim Trọng.
Giải thích về điều này, Đạm Tiên chỉ bảo: “Nếu không vong thân tuyệt đối, anh ta sẽ không thể thành công trên cõi đời.” Riêng Vương Thúy Kiều lại nhìn nhận vấn đề cách khác: “Thật ra, Kim Trọng cũng chẳng vong thân tha hóa gì cả, con người chàng nó vậy.” Mã Kiều Nhi thì đơn giản hơn, nàng nói: “Anh Kim Trọng lúc nào cũng bo rất đẹp.”
Trong lúc Kim Trọng vẫn là một kẻ sĩ mẫu mực phục vụ chế độ hết mình hết trí khôn, vợ đẹp con ngoan, lợi dụng chức quyền vun vén tài sản; thì Từ Hải đã trở thành nạn nhân trong các vụ cướp cạn giữa ban ngày của đám vua quan như Kim Trọng.
Không sống được ở Trung Quốc, Từ Hải trốn qua Việt Nam cũng chung thân bất mãn. Trải qua nhiều triều đại, từ vô sản bần cố nông chàng đã đổi đời thành trí thức tiểu tư sản. Karl Marx, Lenin, Mao Trạch Đông và công an nhân dân không biết xếp chàng vào loại giai cấp nào để xử lý cho đúng. Về bản chất, Từ Hải vẫn là kẻ vô sản về mặt kinh tế xã hội, nhưng thái độ chính trị của chàng lại có những biểu hiện của kẻ ngang ngược và bất định của tên trí thức tiểu tư sản thành thị.
Từ năm 1956, cùng với phong trào Nhân văn – Giai phẩm, Từ Hải đã làm những bài thơ mang tính phản kháng và giễu cợt, nhưng thơ của chàng chỉ được đọc trong những lúc rượu vào lời ra, vì thế Đảng không chấp. Cũng nhờ thế, thơ của chàng trở thành một thứ tài sản chung được truyền tụng từ bàn nhậu này tới bàn nhậu khác. Đó là những năm tháng cùng quẫn nhất của đời chàng. Bất cứ một ý tưởng hay hành vi nào mang tính khác thường đều bị qui kết là chống chế độ. Mà chàng vốn là con người mang mầm mống chống đối từ trong máu. Giữ cho dòng máu ấy không vọt ra là một cực hình. Sự phẫn uất của chàng biến thành thơ và nỗi cay đắng của chàng biến thành sự u mặc. Cơm áo gạo tiền biến chàng thành ma cô của Thúy Kiều. Chưa bao giờ chàng lại cảm thấy số phận mình và Thúy Kiều hòa trộn vào nhau đến thế.
Càng nghĩ đến tình cảnh của mình, Từ Hải càng u uất. Chàng chìm đắm trong rượu. Nhưng để có rượu uống không phải lúc nào cũng hào hùng.
Năm 1970. Sau khi từ chiến trường miềnNamtrở về, Từ Hải lấy một cô bạn cùng khóa ở Đại học Sư phạm làm vợ. Nhờ gia thế nhà vợ và cũng nhờ cái lý lịch cựu chiến binh, Từ Hải xin được một chân biên tập của Thông tấn Xã. Cũng từ đây, chàng bắt đầu viết văn theo đúng tinh thần cán bộ chiến sĩ thi đua người tốt việc tốt và sinh hoạt chi bộ Đảng. Chàng quên hết những bài thơ châm biếm xưa kia, phục vụ Đảng tận tụy. Chàng dễ dàng có một chỗ đứng trong hàng ngũ Hội Nhà văn Việt Nam. Mọi chuyện thật tốt đẹp và tiếp tục tốt đẹp cho đến cả sau khi thống nhất đất nước.
Năm 1976 chàng chuyển vào Sài Gòn công tác. Được tận mắt và tiếp xúc với hàng đống sản phẩm văn hóa đồi trụy của miền Nam bày bán ở khu chợ trời đường Đặng Thị Nhu, Từ Hải hoa mắt vì các tựa sách mà trước đó ở miền Bắc có mơ cũng không thấy. Càng đọc càng choáng váng. Từ Hải nhìn thấy ánh sáng của tự do. Chàng mơ hồ nhận ra con người thật của mình đã ngủ quên bao năm. Nhưng chàng biết không thể đánh thức nó bởi cái con người thật ấy có thể sẽ làm chàng mất tất cả.
Bà cô bên vợ chàng vốn di cư từ 1954 đón tiếp chàng nồng hậu. Biết chàng thiếu thốn vì mới chân ướt chân ráo vào miền Nam, bà cho vợ chồng chàng tất cả những thứ cần thiết, từ quần áo, giày dép đến giường tủ, thậm chí cả một chiếc xe đạp, quạt máy và cái TV. Đó là một gia tài vĩ đại.
Khi nhà nước cho phép cán bộ, công chức được quyền tham gia hoạt động kinh tế, Từ Hải liền cải biến căn nhà của mình thành khách sạn cho thuê giờ. Cả Mã Kiều Nhi, Vương Thúy Kiều và Đạm Tiên đều dẫn khách đến khách sạn của Từ Hải. Vừa là chỗ thân tình, vừa cũng là để giữ mối, giá thuê phòng của ba nàng được Từ Hải bớt 20%. Tuy nhiên, mỗi lần dẫn mối cho họ, Từ Hải đòi ăn chia 40% tiền cò.
Vốn trải nghiệm của Từ Hải về cuộc sống đặc biệt phong phú, nhất là với giới hồng nhan. Vì thế, Từ Hải vẫn ôm giấc mộng viết một tác phẩm lớn về cái gọi là Vina-đĩ như một biểu tượng văn hóa người Việt. Nhưng mỗi lần cầm bút, Từ Hải lại nhớ đến Hồ Tôn Hiến, nhớ đến cái nhục chết đứng của mình, chàng mượn rượu chém gió.
Năm 1972. Không biết từ nỗi ghen ăn tức ở nào, Từ Hải bị vu cáo đã hợp tác với địch khi cùng đồng đội chiếm đóng Huế năm 1968.
Tất cả bạn bè đều sợ hãi xa lánh chàng. Chi bộ Đảng họp kiểm điểm. Công đoàn họp kiểm điểm. Chi Hội Nhà báo họp kiểm điểm. Chi Hội Nhà văn họp kiểm điểm. Ai cũng cố tìm một điều gì đó để kết án chàng. Ai không phát biểu thì được yêu cầu phát biểu, nếu không có ý kiến sẽ bị qui kết thành đồng lõa.
Từ Hải không nhớ mình đã phải viết bao nhiêu bản tự kiểm. Từ Hải không biết phải chống đỡ kiểu gì. Chàng suy sụp. Nguy cơ bị đuổi ra khỏi cơ quan đã ở trước mắt, không kể chàng có thể bị bắt.
Từ Hải ngủ không được, nuốt không vô. Những ảo ảnh bay lượn. Hệ thống phản xạ của cơ thể bị tê liệt. Đàm rãi nhổ không ra, mỗi lần như thế chàng phải há miệng cho sự kinh tởm tự động rớt xuống đất. Chàng cũng không thể đứng đái. Nước tiểu chỉ có thể thoát được khi chàng ngồi xuống như đàn bà.
Tuyệt vọng và liều mạng, Từ Hải không đến cơ quan nữa. Chàng đến nhà Thúc Sinh tìm sự cứu giúp. Bấy giờ Thúc Sinh đã là một ông lớn trong Ban An ninh Nội chính. Bà Hoạn Thư tiếp đãi chàng ân cần như người nhà. Thuở ấy, gia đình bà có tiêu chuẩn vào cửa hàng mậu dịch quốc tế. Từ Hải biết bọn ở cơ quan chỉ là một lũ thượng đội hạ đạp, nên chàng bảo Hoạn Thư cần gì chàng đi mua giùm, rồi chàng mang đống đồ của Họan Thư mua theo chế độ đặc biệt đến vất trên bàn mình ở cơ quan. Bọn chúng nhìn thấy đống đồ xa xỉ và cao cấp ấy đều chóa mắt và xanh mặt, dù đó chỉ là mấy thước vải ni-lông, chai mật ong và dăm ổ bánh mì. Chúng hiểu thông điệp của chàng. Và rồi chúng biết chàng là chỗ quen biết với Thúc Sinh. Thế là án oan quan hệ với CIA của chàng tự nhiên chìm vào quên lãng.
Mọi mối quan hệ của chàng trở nên tốt đẹp hơn bao giờ hết.
Năm 1968, Từ Hải có mặt ở Huế. Không như những nhà văn, nhà báo ngồi ở Hà Nội thêu dệt về những người dân Huế mặc áo mới hân hoan đón đoàn quân giải phóng, dân Huế đã sợ hãi bỏ chạy như tất cả những nơi có chiến sự. Cho dù chỉ chạy loanh quanh. Nhưng quan trọng hơn, Từ Hải thấy dân chúng sợ Việt cộng, sợ mình. Hiện thân của súng đạn và tử thần. Rồi Từ Hải ngỡ ngàng. Chàng đâm ra trắc ẩn. Và chàng đã chia sẻ. Từ Hải nhường phần ăn của mình cho một gia đình đang đói. Chẳng may gia đình ấy là một gia đình “ngụy quyền”. Một đồng đội báo cáo cho cấp trên. Sự nhân đạo được suy diễn và nâng thành quan điểm. Nó trở thành một vết đen trong lý lịch của chàng. Và trở thành cái cớ cho những kẻ thù trong Đảng đánh chàng.
Không những thế, Từ Hải còn bị rắc rối vì một chuyện khác. Cũng năm 1968 ở Huế, chàng báo công đã cứu một anh cán bộ rất nổi tiếng trong phong trào đấu tranh của sinh viên Huế bằng việc dùng dao lam cạo râu mổ an toàn lấy viên đạn ra khỏi chân anh ta. Sau này, anh cán bộ nằm vùng cũng ra Bắc. Anh ta lại báo cáo một người khác đã cứu mình trong chiến dịch Mậu Thân ở Huế. Đó chính là thủ trưởng của anh ta. Từ Hải nghe, chỉ còn biết chửi thề.
Từ Hải vẫn nhớ mãi tâm trạng hụt hẫng của mình khi rút khỏi Huế. Một số đồng đội của chàng rời hàng ngũ “hồi chánh” theo địch. Chính chàng cũng đã nhìn thấy một phần của một sự thật khác về cái miền Nam trong “kìm kẹp Mỹ ngụy” không như mình vẫn tưởng. Lá cờ Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam trên kỳ đài Ngọ Môn bị máy bay trực thăng của quân “ngụy” bắn tơi tả.
Từ đó, khi Thúc Sinh nhờ chàng đưa các em Mã Kiều Nhi, Vương Thúy Kiều, Đạm Tiên đến phục vụ các loại thủ trưởng, chàng đã rất thản nhiên.
5.
Mã Kiều Nhi nói với tôi: “Em tuổi gà và cũng như gà, em đi tìm giun, không thấy giun mà chỉ thấy dây thun. Biết là dây thun nhưng vẫn nuốt.”
Tôi nói: “Anh cũng chỉ là một thứ dây thun thôi. Nuốt vào thắt ruột chết đấy.”
Kiều Nhi bảo cũng chả sao. Nàng khoe vú: “Hàng chuẩn.”
Tôi nhìn-cười-bảo: “Tuyệt.”
Kiều Nhi nói: “Cho hôn đấy.”
Thúy Kiều bất ngờ xuất hiện: “Hàng của nó chỉ là thứ phẩm thôi. Đây mới là hàng xịn.” Rồi nàng cũng vạch vú ra.
Tôi bảo: “Siêu phẩm.”
Nhưng khi Đạm Tiên khoe hàng, ngôn ngữ bỗng trở nên ú ớ. Đạm Tiên dịu dàng: “Nếu anh không đủ đức tin thì cứ bóp thử.”
Tôi không phải Tô-Ma của Chúa Giêsu, nên tôi tin. Đây là thứ ảo tượng ma quái, nó chỉ tùy thuộc vào cái cảm thức tiên thiên về bản chất của hiện tượng. Vì thế, bóp hay không bóp cũng không khác gì nhau. Tôi nói: “Anh chỉ bóp khi biết chính xác nó là thật. Và vì anh biết nó là thật nên không cần bóp thử.”
Đạm Tiên hỏi: “Vậy thì anh muốn gì?”
Tôi nói như một người đàn ông chân chính: “Anh muốn nó là của riêng anh.”
Đạm Tiên cười: “Không bao giờ. Nó là của riêng em và em muốn phân phát nó một cách rộng rãi nhất. Nếu anh muốn, anh cũng có phần.”
Tôi lắc đầu: “Anh ăn bánh trả tiền.”
Đạm Tiên lại cười: “Anh là đồ dây thun. Nhưng em không xài tiền âm phủ.”
Bất ngờ, Thúy Kiều xen vào: “Em biết anh hợp với tuổi gà. Em cũng tuổi gà đấy.”
Đạm Tiên nói: “Em cũng là gà thích nuốt dây thun.”
Cái dây thun của tôi bị kéo căng ra. Ba con gà mái dầu mổ tôi gãy xương sườn.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm dưới đất trong một căn nhà trống trơn. Nhưng tôi lại nghe thấy những âm thanh kỳ lạ phát ra từ bốn bức tường, trên trần và dưới nền nhà. Đó là tạp âm không thể phân biệt giữa những tiếng rên sung sướng và đau khổ. Tôi cũng ngửi thấy mùi hiu hắt của đất thó, mùi tanh tưởi của tinh trùng, mùi nếp chín nồng nồng của âm hộ. Tôi có cảm giác như trong âm ty, nhưng ánh sáng bình minh đang rực rỡ chiếu qua khung cửa. Tôi đã qua một đêm hay nhiều đêm cũng không thể kiểm chứng. Tôi thử cử động chân tay. Rồi tôi xoay người ngồi dậy. Đây là thực tại. Những bức tường trắng vẫn rầm rì những âm thanh của thống khoái và đọa đày. Và tôi nhìn thấy những bức tường oằn oại. Không phải ảo giác.
Mã Kiều Nhi hỏi: “Anh nuôi em được không?”
Tôi nói: “Nếu em độ cho anh trúng số.”
Kiều Nhi nói: “Em chỉ có thể độ cho anh giải thoát thôi.”
Tôi bảo: “Nhưng anh còn muốn tục lụy.”
Kiều Nhi nói: “Vậy thì anh nên sống với Thúy Kiều.”
Tôi bảo: “Anh không thích tính cách của Thúy Kiều. Mặc dù Thúy Kiều là một mẫu đàn bà nhân hậu.”
Thúy Kiều bước ra khỏi bức tường. Tôi không còn nghe thấy những âm thanh rầm rì nữa. Thúy Kiều nói: “Em vẫn luôn là một người yếu đuối.”
Tôi nhìn Kiều. Giống như lúc Kiều ngồi ở lầu Ngưng Bích. Mặt nàng nhợt nhạt. Sương khói. Tôi cảm thấy ái ngại. Nhưng tôi có thể làm gì? Tôi không phải Thúc Sinh, Sở Khanh hay Từ Hải. Tôi không thể đeo mang số phận người khác. Tôi là kẻ nhìn ngắm. Kẻ chơi chạy. Kẻ phá hủy.
Đạm Tiên ở dưới đất chui lên. Nàng như lửa. Tôi nói: “Em biến anh thành kẻ tham lam.”
Nhưng Đạm Tiên cười: “Anh không biết lượng sức mình.” Ừ, có lẽ tôi chỉ nói cho sướng miệng. Tuy thế, Đạm Tiên vẫn đốt tôi bừng bừng cháy. Đạm Tiên là ân huệ, nàng đẩy tôi tới một cảnh giới trừu tượng mê hoặc. Không còn biết mơ hay thực. Và tôi không phân biệt được ai là Mã Kiều Nhi, ai là Vương Thúy Kiều, ai là Đạm Tiên. Tôi bơi trong một không gian lỏng. Mất trọng lực.
Thúc Sinh bảo sân khấu chính trị bây giờ chỉ toàn bọn sâu bọ và ngu dốt, thằng nào có tư cách một chút thì lại mê gái. Mã Kiều Nhi bảo: “Đàn ông mê gái mới là người có tư cách.”
Thúc Sinh nói thêm: “Thế nhưng, những người đàn ông đích thực ấy lại bị bọn âm binh biến thành nhơ bẩn.”
Đạm Tiên hỏi: “Anh không phải là phù thủy của bọn âm binh sao?”
Thúc Sinh nói: “Anh về hưu rồi.”
Đạm Tiên bảo: “Các bác về hưu đều rách chuyện.”
Thúc Sinh cười trừ: “Đấy là vấn đề thuộc về cơ chế em ạ.”
Đạm Tiên nói: “Em là ma nên em đi guốc trong bụng tất cả các anh. Các anh chỉ khác nhau ở chỗ thật hay giả.”
Thúy Kiều xen vào: “Em không quan tâm chuyện thật hay giả. Em tin tất cả những ai đến với em, cho dù họ cứng hay mềm.”
Tôi thường xuyên mất trọng lực.
Thúc Sinh quàng tay ôm vai Thúy Kiều, nói: “Nếu như có thể bắt đầu lại, chắc chắn tôi sẽ làm khác, sống khác.”
Từ Hải hỏi: “Anh biết sai từ bao giờ?”
Thúc Sinh đáp: “Ngay sau khi vào Đảng.”
Từ Hải lại hỏi: “Đảng sai từ bao giờ?”
Thúc Sinh đáp: “Ngay sau khi thành lập.”
Từ Hải hỏi tiếp: “Người thành lập Đảng sai từ bao giờ?”
Thúc Sinh im lặng một lúc rồi nói: “Từ Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp tại Tours tháng 12.1920, gia nhập Cộng sản Quốc tế thứ ba và trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp.”
Từ Hải nói: “Đáng lẽ chúng ta chỉ nên vui chơi.”
Thúc Sinh nói: “Cách mạng cũng là một cuộc chơi.”
Từ Hải bảo: “Chúng ta mất quá nhiều.”
Vương Thúy Kiều nói: “Cả hai anh đều không còn giống như hồi mới gặp em.”
Đạm Tiên nói: “Nếu không có Mao Trạch Đông thì các anh vẫn phong kiến.” Thúc Sinh cười: “Thời đại Mao Trạch Đông chỉ là bình mới rượu cũ. Vẫn là một thứ trung quân ái quốc vô điều kiện. Chuyên chính hơn vì thế cũng ít nhân tính hơn.”
Mã Kiều Nhi nói với tôi: “Từ Hải đã biến thái. Thúc Sinh cũng biến thái.”
Tôi bảo: “Anh cũng biến dạng.”
Mã Kiều Nhi cười: “Anh từ xấu giai đến xấu lão.”
Tôi cũng cười: “Lẽ ra, đàn ông khi về già thường đẹp hơn nhờ từng trải và tự tại.”
Mã Kiều Nhi nói: “Anh xấu vì lúc nào cũng thảng thốt.”
Tôi bảo: “Anh tưởng mình nham nhở.”
Mã Kiều Nhi xoa đầu tôi: “Thực ra, anh rất dở hơi.”
Tôi ngả đầu vào lòng Mã Kiều Nhi: “Đó là những vết thương. Những cơn đau bất chợt. Và ám ảnh bởi cái chết.”
Mã Kiều Nhi hỏi: “Tại sao lại có những vết thương. Chiến tranh ư?”
Tôi nói: “Không. Nạn nhân của hòa bình.”
Mã Kiều Nhi nói: “Em không hiểu.”
Tôi bảo: “Giết người hay phủ nhận người khác trong hòa bình bao giờ cũng tàn nhẫn hơn thời chiến, bởi nó vô lý và vô nhân tính. Chúng ta bị giết mỗi ngày. Điều này không phải ai cũng nhận ra.”
Mã Kiều Nhi lắc đầu: “Em không quan tâm. Nhưng em lo nghĩ về anh.” Nàng nói thêm: “Anh cần được thoải mái.”
Tôi không nói nữa. Và tôi nằm xuống.
Bốn bức tường xung quanh tôi lại rầm rì.
Tôi nghe những tiếng đàn ông huyên thuyên. Đè lên nhau. Đan xéo nhau. Mỗi lúc một dày hơn. Và rồi không còn những bức tường xi măng nữa, chỉ là những tiếng nói dựng lên, bao kín. Những bức tường tiếng nói che khuất tôi, hay che khuất chung quanh. Và rồi nó trở nên quá mức chịu đựng. Tôi muốn hét lên. Nhưng tôi hét không ra tiếng. Đúng lúc ấy, tôi thấy Mã Kiều Nhi đè lên tôi.
Rồi tôi nghe những tiếng chạy thình thịch trên mặt đất. Người tôi nẩy lên. Tôi cần thoát ra khỏi chỗ này. Tôi nghĩ thế, nhưng tôi bất lực. Mã Kiều Nhi vẫn đè trên tôi. Mùi của nàng thiên cổ.
Tôi mở mắt. Đạm Tiên đứng trên đầu tôi. Ở tư thế nằm, tôi thấy Đạm Tiên sừng sững và đang trút xuống, như thác.
Tôi muốn nói: “Em đừng biến đi”, nhưng tôi nói không thành lời. Rồi người tôi bỗng nhẹ hẫng.
Mã Kiều Nhi nói: “Anh cứ nằm nghỉ đi.”
Thế giới quanh tôi như không có, chưa có. Khởi thủy chỉ có lời. Nhưng lời không hiện diện. Tôi há miệng cho lời tuôn ra. Nhưng chỉ có gió. Gió thông suốt từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong. Tôi xoay người nằm nghiêng. Vẫn chỉ thấy gió.
Từ Hải hỏi Thúc Sinh: “Làm thế nào để sửa sai?”
Thúc Sinh nói: “Có hai cách. Một là ra khỏi Đảng. Hai là xóa bỏ Đảng.”
Từ Hải lắc đầu. Ý nghĩ ấy chưa bao giờ có trong đầu chàng. Từ Hải hỏi: “Không có cách thứ ba sao?”
Thúc Sinh nói: “Tất cả các cách còn lại đều vô ích.”
Từ Hải hỏi tiếp: “Anh chọn cách nào?”
Thúc Sinh nói: “Không chọn cách nào cả.”
Từ Hải hỏi mà dường như không nhắm vào ai: “Vậy thì chúng ta đang vui chơi, hay làm cách mạng?”
Thúc Sinh cười, nói: “Chúng ta đang kiếm ăn.”
Từ Hải bỗng tràn ngập một mối hoài cảm về cái ngày chàng đầu hàng Hồ Tôn Hiến. Niềm tin chỉ dành cho bọn ngây thơ. Cùng lúc, Thúc Sinh có một niềm hưng phấn khác, bảo: “Bất kể thời đại nào, buôn thần bán thánh, hoặc mua quan bán chức đều rất ngon ăn. Cậu nên theo tôi.”
Từ Hải nhớ lại việc Vương Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha, chàng quyết định theo Thúc Sinh. Họ môi giới buôn bán từ một chỗ làm nhỏ mọn đến những địa vị cao sang nhất. Họ ăn tiền cò cả bên bán và bên mua. Và họ còn được cả ơn nghĩa.
(Còn 4 kì)
© 2013 Nguyễn Viện & pro&contra
May 1, 2013
Karl Marx, một nhà nhân văn lãng mạn
Terry Eagleton
Phạm Thị Hoài dịch
Kỉ niệm 130 ngày mất (14-3-1883) của Karl Marx đã qua và kỉ niệm 195 ngày sinh (05-5-1818) của ông sắp đến, lặng lẽ, trong quốc gia lấy chủ nghĩa Marx làm nền tảng tư tưởng hiến định là Việt Nam. Không ở đâu Marx bị phá giá như ở những nơi chủ nghĩa mang tên ông bị áp đặt bằng mọi giá. Sự “thấm nhuần” chủ nghĩa Marx có lẽ đã khiến các học giả marxist chính thống ở Việt Nam bội thực tư tưởng và không thể nói gì về Marx ngoài tuyên truyền đãi bôi.
Bài viết sau đây cũng của một học giả marxist, nhà nghiên cứu văn học người Anh, ông Terry Eagleton, với tác phẩm gần đây nhất là Why Marx Was Right (Vì sao Marx có lí), Yale University Press, 2011.
Người dịch
______________
Ca ngợi Karl Marx có lẽ cũng khó lọt tai như nói một điều gì dễ thương về Thiền vu Hung Nô Attila. Chẳng phải những ý tưởng của Marx là đầu mối của độc tài, giết chóc quy mô lớn và tàn phá kinh tế đó sao? Còn có gì để bênh vực cha đẻ của những học thuyết từng dẫn thẳng đến các trại cải tạo và tệ sùng bái một gã nông dân Gruzia hoang tưởng, được biết đến với cái tên Stalin? Chẳng phải một học trò khác của Marx, Mao Trạch Đông, là thủ phạm gây ra vụ tàn sát dân chúng có lẽ lớn nhất trong lịch sử hiện đại đó sao?
Nhưng bắt Marx phải chịu trách nhiệm về Mao thì đại loại cũng giống như nhè đầu Jesus mà đổ cho tội của các Tòa án Dị giáo La Mã. Tay của nền văn minh Thiên chúa giáo cũng vấy máu biết bao nhiêu nạn nhân vô tội. Nhưng chúng ta không đem những điều kinh hoàng đó ra để cáo buộc các tác giả của Kinh Tân ước, cũng hệt như chúng ta không lấy nạn đói khổng lồ ở Ái Nhĩ Lan hay Đại chiến Thế giới I để quy trách nhiệm cho các nhà tư tưởng cấp tiến vĩ đại đã góp công lí giải xã hội tư bản hiện đại. Có nằm mơ Marx cũng không nghĩ rằng nên dùng chủ nghĩa xã hội để bẩy những quốc gia nghèo mạt rệp, lạc hậu về kinh tế, vọt lên xã hội hiện đại. Ông đã cảnh báo: Làm kiểu đó thì rốt cuộc ta chỉ được thêm một lần nữa đống phân cũ mà thôi. Hậu quả sẽ là cái mà Marx gọi là sự nghèo túng phổ cập.
Muốn tạo dựng các quan hệ xã hội chủ nghĩa, phải tận dụng những ưu thế của chủ nghĩa tư bản, chế độ mà Marx đã nhiệt liệt biểu dương. (Khác với một người hậu hiện đại, một người marxist bao giờ cũng đầy lòng kính trọng di sản cách mạng của các giai cấp trung lưu.) Chủ nghĩa xã hội đòi hỏi những nguồn vật chất, những thiết chế dân chủ, một xã hội dân sự đua nở, những truyền thống khai sáng cởi mở cũng như một đội ngũ công nhân được đào tạo tốt và có tay nghề cao. Tất cả những điều đó không thể có được, nếu dân chúng đói ăn, thất học và bị cai trị bởi những kẻ chuyên quyền. Tất nhiên những quốc gia như vậy cũng có thể theo con đường xã hội chủ nghĩa, như những người Bolshevik Nga đã chọn. Nhưng họ chỉ có thể thành công nếu được những nước giàu mạnh hơn trợ giúp. Song ở trường hợp những người Bolshevik, các nước giàu lại tràn vào xâm lăng nước Nga và dìm cuộc cách mạng vừa mới lọt lòng trong một biển máu.
Tác phẩm của Marx quy về một vấn đề duy nhất. Vì lẽ gì mà những nền văn minh thịnh vượng nhất trong lịch sử nhân loại lại đi liền với nhiều nghèo đói, bất công, lao động rẻ mạt và lầm than như vậy? Đấy thuần túy chỉ là một sự bất hạnh đáng tiếc, hay nó nói lên một điều gì đó về những mâu thuẫn mang tính cơ cấu của những chế độ xã hội này? Như Freud, người đã khám phá hẳn một châu lục mới và đặt tên khai sinh cho nó là “Vô thức”, Marx đã lột trần và đặt tên cho sự vận hành của các hệ thống, đã nghiên cứu những nguồn gốc lịch sử của chúng và miêu tả những điều kiện khiến chúng có thể suy vong. Kẻ Do Thái tị nạn rách rưới ấy, người đàn ông có lần tự nhận rằng không ai viết nhiều về tiền mà hiếm khi trong túi có tiền như mình, đã đưa bộ động cơ biến tốc ẩn khuất của cái hình thái sinh tồn mà phần lớn chúng ta coi là đương nhiên ra ánh sáng. Sau Marx, người ta không thể lẫn lộn hình thái sinh tồn ấy với một sự phổ quát có tên là bản chất tự nhiên của con người nữa. Ngày nay, thậm chí các nhà tư sản cũng băn khoăn về chủ nghĩa tư bản. Đã đến mức ấy thì người ta biết rằng hệ thống này đang lâm vào vấn nạn. Sự khủng hoảng nội tại đã tước đoạt tính chất tự nhiên của nó và khiến nó trần trụi hiện ra đúng là mình.
Theo suy luận của Marx, không một hệ thống xã hội nào trong lịch sử chứng tỏ tính cách mạng như hệ thống mà chúng ta đang sống. Chỉ trong vòng vài thế kỉ, các giai cấp trung lưu châu Âu đã tích lũy của cải vật chất và tinh thần, đã lật nhào các nhà độc tài, giải phóng nô lệ, phá tan các đế chế, đem lại cho chúng ta dân chủ và nhân quyền và đặt nền móng cho một hình thái nhân văn thực sự mang tính toàn cầu. Với những ai ủng hộ giai cấp này, lịch sử là một tự sự hấp dẫn về tiến bộ; nhưng với những ai phê phán nó thì đó không là gì khác hơn một lịch sử của suy vong.
Marx thấy cả hai mặt đó. Với ông, lịch sử hiện đại là một câu chuyện của giải phóng xã hội, nhưng đồng thời cũng là một cơn ác mộng dài và khủng khiếp. Thêm vào đó, lại không thể kể câu chuyện này tách khỏi câu chuyện kia. Marx cho rằng cả hai đều xuất phát từ cùng những cơ chế xã hội ấy. Ông không hề phản đối những lí tưởng tư sản mạnh mẽ về tự do chính trị, bình đẳng, tự do cá nhân và tự định đoạt. Đó cũng là những lí tưởng của ông. Ông chỉ muốn tìm ra nguyên nhân vì sao những lí tưởng ấy, cứ khi nào được thực hiện, lại có xu hướng gây ra bạo lực, đàn áp, bất công và chủ nghĩa cá nhân tiêu cực. Chủ nghĩa tư bản đã giúp con người vươn đến những sức mạnh và năng lực vượt quá mọi thước đo từng biết. Nhưng nó không dùng những sức mạnh ấy để giải phóng con người khỏi ách lao công. Con người trong những xã hội thịnh vượng nhất địa cầu vẫn phải làm quần quật, chẳng khác tiền bối của mình thời đồ đá mới. Lí tưởng của Marx không phải là nhọc nhằn, mà là nhàn hạ. Nếu ông đã quá tập trung vào các vấn đề kinh tế thì chẳng qua chỉ nhằm bẻ gãy quyền lực độc đoán của nó với chúng ta.
Marx là một nhà đạo đức theo nghĩa đẹp nhất, truyền thống nhất. Ông chia sẻ với Aristotélēs, Hegel và Thomas Aquinas quan điểm rằng một cuộc đời đáng sống không phải là một cuộc đời của những bổn phận và trách nhiệm, mà là của hạnh phúc trong sự thực hiện bản thân. Vì thế điều căn bản trong luân lí, theo ông, là học cách phát triển những tư chất của bản thân, và ông cho rằng bản chất con người được phát huy tốt nhất khi nảy nở cùng đồng loại và thông qua đồng loại. Hoặc, như ông viết trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: khi con người vui hưởng một xã hội, trong đó “tự do phát triển của mỗi người là điều kiện cho tự do phát triển của mọi người”. Khi con người thấy mình thỏa nguyện trong sự thỏa nguyện của kẻ khác thì chúng ta gọi đó là tình yêu. Marx nghiên cứu một triển vọng như thế ở bình diện chính trị. Đồng thời, ông không buồn để tâm đến mọi bàn luận vô ích về một xã hội không tưởng. Hoàn thiện hóa xã hội là điều Marx không hề quan tâm.
Marx nồng nhiệt tin ở cá nhân. Hết mình là một nhà duy lí khai sáng, ông cũng hết mình là một nhà nhân văn lãng mạn, tránh lí thuyết trừu tượng và thích tất cả những gì rung cảm, sờ nắm được và độc đáo. Ông không cấp cho chúng ta bản thiết kế cho một tương lai xã hội chủ nghĩa. Ông chỉ vạch ra rằng, chúng ta có thể giải quyết những mâu thuẫn hiện đang ngáng trở một tương lai như thế bằng cách nào là tốt nhất. Còn sau đó, điều gì sẽ đến, thì ông gần như không thể nói gì hết. Ông không là một nhà tiên tri nhòm quả cầu thủy tinh mà đoán tương lai. Ông là một nhà tiên tri theo nghĩa Do Thái xác thực, người cảnh báo rằng chúng ta sẽ không có tương lai nếu không chọn những con đường khác.
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Đức: “Ein romantischer Humanist“, Zeit, 23-05-2011
Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra
April 29, 2013
Xa cộng sản, gần con người: đi dây ở Đông Âu (2)
Tony Judt
Phan Trinh dịch
Bài liên quan:
Xa cộng sản, gần con người: bể dâu ở Tây Âu
Xa cộng sản, gần con người: đi dây ở Đông Âu (1)
____________
Trí thức Đông Đức
Người Đông Đức có những bận tâm riêng. Một trong những mâu thuẫn của chính sách dành cho Đông Đức (Ostpolitik) của chính quyền Tây Đức, được Willy Brandt [Thủ tướng từ 1969 đến 1974] và những người kế vị áp dụng, đó là: khi chuyển giao một số lớn tiền cứng vào Đông Đức, khi tới tấp dành cho Đông Đức những công nhận, quan tâm và các khoản hỗ trợ, thì chính quyền Tây Đức đã vô tình khép lại bất cứ cơ hội thay đổi nào từ bên trong Đông Đức, kể cả việc cải thiện nền kinh tế công nghiệp cổ lỗ sĩ và gây ô nhiễm của họ. Bằng các nỗ lực “bắc cầu”, xây những đô thị kết nghĩa, tổ chức những chuyến viếng thăm hữu nghị, và cùng lúc tránh xa những chỉ trích của phương Tây nhắm vào các chế độ Đông Âu, các chính khách tại Bonn đã tạo cho giới lãnh đạo Đông Âu một cảm giác ổn định và an toàn giả tạo.
Tây du và cánh trái
Thêm vào đó, bằng cách “mua lại” những nhân vật đối lập và tù nhân chính trị,[i] Tây Đức đã làm cho hàng ngũ đối lập Đông Đức mất đi một số những nhà bất đồng nổi tiếng nhất. Không có xã hội cộng sản nào có được một hàng xóm sinh đôi ở phía Tây nói cùng ngôn ngữ như Đông Đức. Cám dỗ bỏ nước ra đi vì vậy luôn ám ảnh, và “quyền đi lại” cũng đương nhiên nằm trên đầu danh sách những quyền hạn mà giới văn nghệ sĩ Đông Đức quan tâm. Nhưng nhiều nhà phản biện “cung đình” của chế độ Đông Đức lại có lựa chọn khác là vừa không bỏ nước ra đi, vừa không từ bỏ lý tưởng cũ họ theo đuổi. Thật vậy, vào cuối thập niên 1970, Đông Đức là nước duy nhất có thể nói mình có một lực lượng đối lập Mác-xít không chính thức nằm ngay trong nội bộ đảng. Tất cả những nhà phản biện nổi tiếng nhất đều tấn công nhà cầm quyền từ vị trí cánh tả – nhưng chính vị trí cánh tả đó làm cho tiếng nói của họ vừa khó nghe, vừa lạc điệu với những nhóm đối lập khác trong khối Đông Âu, như nhà văn Tiệp Khắc Jiří Pelikán đã chua chát nhận xét.
Cũng vì vậy mà Rudolf Bahro, bị ngược đãi nhiều năm trước khi bị trục xuất qua phương Tây năm 1979, chỉ được biết đến nhiều nhất qua tiểu luận Con đường khác [The Alternative], một văn bản đậm chất Mác-xít về “chủ nghĩa xã hội trên thực tế”. Cũng vì vậy mà Robert Havemann, một người cộng sản lớn tuổi hơn – bị truy tố và xử phạt vì đấu tranh cho quyền lợi của ca sĩ nhạc đồng quê Wolf Biermann (bị trục xuất qua phương Tây năm 1976) – đã chỉ trích đảng cầm quyền, không vì đảng xâm phạm quyền con người, nhưng vì đảng phản bội những lý tưởng của mình, và vì đảng khuyến khích quần chúng tiêu thụ và sở hữu tài sản cùng hàng hóa. Tương tự, Wolfgang Harich, một trí thức hàng đầu Đông Đức, người kiên trì phê phán hệ thống bàn giấy quan liêu của chế độ, cũng đã nặng lời không kém khi chống lại “ảo tưởng của chủ nghĩa tiêu thụ” và cổ xúy cho giải pháp cánh tả là đảng cầm quyền cần phải cải tạo quần chúng.
Tôn giáo và hòa bình
Những phản kháng có ý nghĩa thực sự, tuy ít ỏi, chống lại chế độ cộng sản tại Đông Đức, tương tự như ở Ba Lan, dường như lại được kết tủa xung quanh những giáo hội: Ở Đức, đó là Liên đoàn các Giáo hội Tin lành (Bund der Evangelischen Kirchen). Tại đây, ngôn ngữ mới về quyền con người và các quyền tự do lại rất gần gũi với những giá trị Thiên chúa giáo, và cũng như ở Ba Lan, ngôn ngữ này được củng cố vì gắn liền với giáo hội, định chế duy nhất còn sót lại từ trước thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Ảnh hưởng của các giáo hội cũng đã khiến cho vấn đề “hòa bình” trở thành quan trọng trong sinh hoạt của trí thức phản kháng Đông Đức.
Những thanh niên của phong trào hòa bình, thường gọi là “peaceniks”, cùng các nhà vận động giải trừ vũ khí hạt nhân tại phương Tây thường được nhìn với cặp mắt nghi ngờ tại các nước Đông Âu. Tích cực nhất, họ cũng chỉ được xem như những người vô tội nhưng ngây thơ, thường thì họ bị xem như những quân cờ dại dột bị chế độ Xô-viết giật dây.[ii] Đặc biệt là Václav Havel, ông cho rằng phong trào phản chiến ngày càng lớn mạnh tại Tây Âu vào đầu thập nhiên 1980 là công cụ hoàn hảo để cuốn hút, đánh lạc hướng, và trung lập hóa giới trí thức phương Tây. Ông nhấn mạnh rằng: Làm sao có thể nói chuyện “hòa bình” trong một nước khi nhà cầm quyền ở trong tình trạng chiến tranh thường trực với người dân. Hòa bình và giải trừ vũ khí trong hoàn cảnh lúc đó chỉ củng cố tự do và độc lập cho những nước Tây Âu, nhưng sẽ tiếp tục trói buộc Đông Âu dưới gọng kềm của Liên Xô. Sẽ là sai lầm nếu tách “hòa bình” ra khỏi quyền con người và tự do. Hoặc, nói như Adam Michnik, “điều kiện để giảm bớt nguy cơ chiến tranh là tôn trọng toàn phần quyền con người.”
“Đấu” bằng “hòa”
Ở Đông Đức, phong trào hòa bình có thêm một sắc thái địa phương khác, đương nhiên điều này một phần vì Đông Đức có liên quan với Tây Đức, nhưng cũng vì một lý do khác nữa. Đông Đức – quốc gia không có cả lịch sử lẫn căn tính riêng, hình thành như một tai nạn lịch sử – phần nào có lý khi nói rằng hòa bình, hoặc “sống chung hòa bình”, là lý do tồn tại của mình. Nhưng cùng lúc, Đông Đức lại là nước được quân sự hóa và mang tính quân phiệt nhất trong những nước xã hội chủ nghĩa: năm 1977, “Giáo dục Quốc phòng” được đưa vào giáo trình của nhà trường tại Đông Đức, và Phong trào Thanh niên thuộc nhà nước cũng là một phong trào mang tính bán quân sự cao bất thường, so với cả tiêu chuẩn của Liên Xô. Mâu thuẫn căng thẳng này đã bộc lộ ra ngoài, thông qua một hình thức đối kháng được quần chúng ủng hộ nhờ tập trung vào chủ đề hòa bình và giải trừ vũ khí:
Năm 1962, Đông Đức đã áp dụng nghĩa vụ quân sự bắt buộc trong 18 tháng đối với mọi công dân nam từ 18 đến 50 tuổi. Nhưng hai năm sau, họ thêm vào một khoản miễn trừ: những ai không muốn thực hiện nghĩa vụ quân sự vì lý do đạo đức có thể tham gia vào lực lượng Bausoldaten [chiến sĩ xây dựng], một lực lượng lao động công ích. Mặc dù người tham gia lực lượng này sẽ không có lợi thế về lý lịch trong tương lai, nhưng sự có mặt của nó cũng cho thấy Đông Đức chấp nhận sự tồn tại và tính hợp pháp của hành vi bất đồng vì lương tâm. Đến năm 1980, có hàng ngàn người Đông Đức đã tham gia Bausoldaten và lực lượng này trở thành một mạng lưới đầy tiềm năng cho những nhà hoạt động hòa bình.
Nhờ vậy, từ năm 1980, khi các mục sư Giáo hội Luther bắt đầu bảo vệ và hỗ trợ những nhà hoạt động hòa bình, thì họ có thể mở rộng đáng kể công việc của mình mà không bị nhà nước cấm đoán. Phong trào hòa bình non trẻ sau đó đã từ các nhà thờ lan tỏa đến các đại học, dẫn đến đòi hỏi không chỉ giải giới vũ khí mà còn là đòi hỏi quyền được lên tiếng không bị cản trở về những đề tài nhạy cảm kia. Bằng cách gián tiếp này, những người phản kháng Đông Đức đã tìm được ngôn ngữ chung và bắt kịp với những nhóm đối lập khác trong khối Đông Âu.
Rumani im ắng
Trong khi đó ở Rumani, tình hình không may mắn như thế. Sự ra đời của Hiến chương 77 đã nhận được một lá thư ủng hộ rất dũng cảm của nhà văn Paul Goma và bảy trí thức Rumani khác, tất cả họ đều lập tức bị đàn áp. Ngoài việc đó thì Rumani vẫn tiếp tục im lặng như đã từng im ắng suốt ba thập niên trước đó. Goma bị ép lưu vong ra nước ngoài và không có ai thay thế ông được. Về tình trạng này, có thể nói phương Tây cũng phải chịu một phần trách nhiệm – giả sử có một Hiến chương 77 của Rumani, hoặc có một phiên bản của Công đoàn Đoàn kết Ba Lan tại Rumani, thì rất có thể họ cũng không nhận được sự ủng hộ bao nhiêu của phương Tây. Chẳng có tổng thống Mỹ nào từng đòi hỏi nhà độc tài Nicolae Ceaușescu rằng “hãy để cho Rumani được là Rumani.”[iii]
Liên Xô: Sakharov và lưu đầy
Ngay Liên Xô cũng chỉ dành quyền tự do rất giới hạn cho một vài trí thức – nhất là những nhà khoa học hàng đầu, vốn luôn là đối tượng được ưu tiên. Nhà sinh vật học Zhores Medvedev, người vào năm 1960 đã phơi bày vụ Lysenko[iv] và sau đó vụ này được biết đến rộng rãi qua mạng văn chui samizdat, ban đầu đã bị quấy nhiễu và sau đó bị tước quyền công dân. Ông phải sống lưu vong tại Anh từ năm 1973. Nhưng Andrei Sakharov, nhà vật lý nguyên tử nổi tiếng nhất nước và là người phản biện chế độ trong một thời gian dài, vẫn được hưởng tự do, cho đến khi ông công khai chống đối Liên Xô xâm lăng Afghanistan năm 1979, khiến nhà cầm quyền không thể chịu đựng ông được nữa. Sakharov phiền phức quá, không bỏ qua được (dù sao, tiếng nói của ông cũng là tiếng nói của người đoạt Giải Nobel Hòa bình năm 1975), nhưng cùng lúc Sakharov cũng quan trọng quá, không trục xuất ra nước ngoài được. Cuối cùng thì ông và vợ, bà Yelena Bonner, bị buộc đi lưu đầy nội địa tại thành phố Gorky tách biệt với thế giới bên ngoài.
Nhưng Sakharov luôn nhắc rằng ông chỉ kêu gọi Liên Xô giải trình về những sai lầm và những vụ bức hại người bất đồng, chứ không tìm cách lật đổ chế độ – lập trường này đặt ông đứng giữa một bên là thế hệ những người cộng sản cải cách lão thành, còn bên kia là thế hệ những nhà bất đồng mới tại Trung Âu. Những người khác, ít nổi tiếng hơn nhưng cũng công khai chống Xô-viết, thì bị đối xử tàn tệ hơn nhiều. Nhà thơ Natalya Gorbanevskaya bị bắt ở ba năm trong một nhà thương điên chẳng khác nào ở tù, và được chẩn đoán, cùng với hàng trăm người khác, là mắc chứng “tâm thần phân liệt dạng lờ đờ”. Vladimir Bukovsky, người nổi tiếng nhất trong số những người phản kháng trẻ tuổi hơn, thì phải trải qua 12 năm trong các trại tù, trại lao động, nhà thương điên Xô-viết, trước khi, dưới sức ép của thế giới bên ngoài phản đối việc áp bức anh, anh được cho ra nước ngoài, trong một cuộc đổi chác giữa anh và Luis Corvalan, một người cộng sản Chi-lê, năm 1976.
Phương Tây không can thiệp
Ngoại trừ vài phản đối nhân danh những cá nhân bị đàn áp như vừa kể, và một chiến dịch đấu tranh cho quyền di dân của người Do Thái tại Liên Xô, nhìn chung phương Tây rất ít quan tâm đến những việc nội bộ của Cộng hòa Liên bang Xô-viết – ít hơn nhiều, tính tới đầu thập niên 1980, những quan tâm dành cho phong trào phản kháng tại Ba Lan, hay những nước khác như Tiệp Khắc. Mãi cho tới năm 1983, Liên Xô mới rút ra khỏi Hiệp hội Bệnh Tâm thần Thế giới, vì hiệp hội này, cũng với phong cách lờ đờ đáng xấu hổ, lúc đó mới bắt đầu chỉ trích những bất thường diễn ra tại Liên Xô.
Liên Xô nó thế!
Nhưng dù có tác động từ bên ngoài hay không thì tuyệt đại đa số trí thức Liên Xô sẽ chẳng bao giờ đi theo những tiền lệ đã được tạo nên tại Đông Âu. Nỗi khiếp sợ do cuộc đàn áp vĩ đại mà Stalin gây ra vẫn lơ lửng như màn đêm đè nặng tâm trạng mọi người suốt ba thập niên sau khi ông chết, mặc dù không ai nhắc tới nữa. Ngoại trừ một số ít những người bất đồng thẳng thắn và dũng cảm nhất, tất cả đều tìm cách ở lại trong vòng cương tỏa, chỉ dám đề cập tới những đề tài được phép, chỉ dám nói thứ ngôn ngữ phải đạo ở Liên Xô mà thôi. Họ tin rằng, nghe cũng hợp lý, rằng Liên Xô sẽ tồn tại lâu dài. Những nhà văn như Andrei Amalrik, với luận văn “Liệu Liên Xô có tồn tại đến năm 1984?” xuất hiện tại phương Tây lần đầu năm 1970 và được tái phát hành với phiên bản mở rộng hơn 10 năm sau đó, là một luận văn mang tính dự báo cao, tuy không điển hình. Trái ngược với các chế độ bù nhìn được dựng lên tại Đông Âu bên ngoài biên giới của mình, Liên Xô vào năm 1983 đã tồn tại 66 năm, hầu hết dân chúng đều sinh ra và lớn lên dưới chế độ này, họ xem chế độ mình đang có như đương nhiên và về cơ bản sẽ cứ thế mãi.
Cái khó của dân
Sự phản kháng của giới trí thức Trung Âu không mang lại những ảnh hưởng lập tức. Điều này không làm ai ngạc nhiên: sự tỉnh táo và thực tế của các nhà bất đồng vào thập niên 1970 giúp họ nhìn thấu không chỉ những thất bại rõ ràng của chủ nghĩa xã hội, mà còn nhìn ra bản chất thực tế của quyền lực nữa. Ngoài ra, họ cũng thấy khả năng hành động có giới hạn của quần chúng: trong bài “Luận về lòng dũng cảm”, nhà văn Tiệp Khắc Ludvík Vaculík lập luận rất thuyết phục rằng không thể đòi hỏi quá nhiều từ người dân bình thường vốn phải đấu tranh để sinh tồn hàng ngày. Hầu hết mọi người sống trong một “vùng xám” về đạo đức, tuy ngột ngạt nhưng an toàn, và trong đó lửa nhiệt tình được thay thế bằng cái cúi đầu cam chịu. Rất khó để thuyết phục dân chúng tích cực tham gia những hành động chống đối chế độ chứa đầy rủi ro, vì với người dân bình thường, sự chống đối dường như không cần thiết. Điều lớn nhất có thể mong đợi ở quần chúng là họ làm “những việc làm cụ thể và thực tế, không mang tính anh hùng”.
Cái khó của trí thức
Giới trí thức hầu hết nói cho nhau nghe, thay vì nói cho quần chúng rộng rãi: một vài người còn tích cực phản kháng như để ngầm đền bù thiệt hại vì những phấn khích trước đây của chính mình. Hơn nữa, họ là hậu duệ (trong vài trường hợp, là con ruột theo nghĩa đen) của thế hệ lãnh tụ đầu tiên trong giai cấp thống trị xã hội chủ nghĩa đầy quyền lực – họ được ăn học và hưởng hàng loạt các đặc quyền được chuyển giao khá hiệu quả từ thế hệ này xuống thế hệ khác, nhất là ở Ba Lan và Hungary. Điều đó không phải lúc nào cũng khiến dân chúng có cảm tình với họ. Giống như trong quá khứ, khi họ còn bênh vực cho chế độ mà bây giờ họ chống đối, họ chỉ là một thiểu số nhỏ so với tổng dân số, và chỉ đại diện cho chính mình mà thôi.
Vì vậy, khi George Konrád viết với vẻ hơi trịch thượng rằng “không ai có suy nghĩ lại muốn tống khứ người khác ra khỏi chiếc ghế quyền lực để rồi mình chiếm chỗ” thì ông cũng công nhận một sự thật trần trụi là đã không có ai “có suy nghĩ” có mặt ở đó, vào thời kỳ đó, để làm những việc như thế. Việc chấp nhận sự thật khắc nghiệt này của cuộc sống cũng tạo nền cho một quan tâm khác được giới đối lập chú trọng, đó là chủ trương bất bạo động: không chỉ ở Tiệp Khắc, nơi phản kháng thụ động trước quyền lực có truyền thống lâu dài, hoặc tại Đông Đức, nơi Giáo hội Luther ngày càng có ảnh hưởng trong hàng ngũ bất đồng, nhưng cả ở Ba Lan, nơi phản kháng bất bạo động đại diện cho điều mà Michnik và những người khác gọi là một giới hạn thực tế và đạo đức, nhằm ngăn chặn những cuộc “phiêu lưu” nguy hiểm và vô ích.
Thành quả
Thành quả mà những người bất đồng ở Đông Âu đạt được nằm ở chỗ khác. Đối với phương Đông cũng như phương Tây thì thập niên 1970 và 1980 là thời kỳ vỡ mộng chua chát. Năng lượng hừng hực của thập niên 1960 đã lụi tàn, những lý tưởng chính trị không còn đáng tin về mặt đạo đức nữa, và sự dấn thân cho công ích đã nhường chỗ cho những bài toán vì lợi ích cá nhân. Bằng cách tạo ra cuộc đối thoại vì quyền con người, bằng cách tập trung vào ý niệm, tuy mơ hồ, về “xã hội dân sự”, bằng cách kiên trì nói về sự câm nín của Trung Âu hiện tại và trong lịch sử, bằng cách nói về đạo đức một cách không ngại ngần trước công chúng, như những gì đã diễn ra cho thấy, Havel và đồng sự đã xây dựng được một không gian công luận, tuy không chính thức, để thay thế không gian công luận đã bị chủ nghĩa cộng sản phá hủy.[v]
Nguồn: Post War, Tony Judt, NXB Penguine Books, 2006, trang 566-577
Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra
[i] Đây là những vụ buôn người diễn ra trong bí mật. Theo Victor Sybestyen, trong cuốn Revolution 1989, the Fall of the Soviet Empire (London, 2009), sau khi Bức tường Bá Linh được dựng lên năm 1961, Đông Đức bắt đầu bán qua Tây Đức những tù nhân chính trị và những nhà bất đồng chính kiến. Giá mua bán cũng có tính “thị trường”. Giữa thập niên 1960, giá bán là 40.000 Đức-mã một người, đến giữa thập niên 1980, do lạm phát và do Đông Đức kỳ kèo thêm bớt, giá bán lên tới hơn 100.000 Đức-mã một người. Họ thường rời trại tù Đông Đức vào sáng sớm, trên những chiếc xe buýt với bảng số lật ngược, mang số Đông Đức hoặc Tây Đức tùy nơi đi qua, qua biên giới cũng không cần xuất trình giấy tờ gì. Tổng số trí thức bị bán trong những năm đó là 34.000 người, mang về 8 tỉ Đức-mã, con số mà theo một kinh tế gia hàng đầu của Đông Đức, thì không có nó chế độ khó tồn tại. Bi hài còn tăng thêm khi có lúc Đông Đức thay vì bán người nhận tiền, họ bán người nhận chuối, một mặt hàng xa xỉ lúc bấy giờ. Cũng vì siêu lợi nhuận, càng về sau Đông Đức lại càng bắt người vô tội vạ với những bản án khống, chỉ để bán kiếm tiền. (ND)
[ii] Nghi ngờ như vậy cũng có lý do chính đáng. Như được công bố sau này, phong trào hòa bình tại Anh và Tây Đức vào thời đó bị xâm nhập toàn phần bởi tình báo Liên Xô và Đông Đức. (TG)
[iii] Tháng 9/10/1982, một ngày sau khi chính quyền Ba Lan đặt Công đoàn Đoàn kết ra ngoài vòng pháp luật, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan trong diễn văn truyền thanh gửi dân chúng Mỹ đã dùng cụm từ “Hãy để Ba Lan là Ba Lan” (mượn tựa đề bài hát cùng tên, sáng tác năm 1976, là bài ca đấu tranh của Công đoàn Đoàn kết). Xem tại đây: www.presidency.ucsb.edu/?pid=43110. (ND)
[iv] Trofim Lysenko (1898-1976) nhà sinh vật học khoác lác, cố vấn cho Stalin, hứa hẹn nông nghiệp sẽ được cải thiện chưa từng có nếu Stalin áp dụng lý thuyết của ông ta về di truyền sinh vật học. (ND)
[v] Giáo sư Nguyễn Huệ Chi cũng có đánh giá tương tự về thành quả của hoạt động phản biện tại Việt Nam trong đoạn sau đây: “… thói quen phản biện hình thành dần trong xã hội như một nếp tư duy mới, thói quen gọi dạ bảo vâng mất đi. ‘Chân lý ban phát từ trên’ không còn là điều nghiễm nhiên phải tuân phục nữa. Đó chính là cái được rất lớn bắt đầu từ kiến nghị của chúng tôi.” Trích từ Giáo sư Nguyễn Huệ Chi: Trăn trở về thế hệ tiếp nối. Xem tại đây: http://boxitvn.blogspot.com/2013/04/giao-su-nguyen-hue-chi-tran-tro-ve-he.html. (ND)
April 28, 2013
Xa cộng sản, gần con người: Đi dây ở Đông Âu (1)
Tony Judt
Phan Trinh dịch
Bài liên quan: Xa cộng sản, gần con người: Bể dâu ở Tây Âu
Giới thiệu của người dịch:
Như Tony Judt trình bày trong phần trước, có thể nói vui rằng: so với đồng sự ở phía Đông, trí thức Tây Âu sướng thật, họ tự do, muốn theo cộng sản thì theo, muốn bỏ thì bỏ, muốn thậm thụt thì thậm thụt, chẳng chết anh Tây nào.
Ngược lại, ở Đông Âu và các nước tương tự, theo cộng sản cũng chết – chết lâm sàng, vì bám theo một chủ nghĩa sai lầm tất yếu vùi đất nước xuống dưới hầm tai vạ và cuối cùng vứt cả đảng vào hố rác lịch sử – nhưng không theo cũng chết, vì chế độ nắm trong tay cả lập pháp, hành pháp, tư pháp, lẫn quân đội, công an, báo chí, luôn tự cho mình đúng và cưỡng bức mọi người tuân phục. Ai chống đối sẽ bị đẩy vào chỗ chết, chết ngay hay chết dần dần, trong tù, trong nhà thương điên, trong đồn công an, hay trên ruộng đồng, trên rừng, ngoài biển…
Trên đe dưới búa như thế nhưng những con người khát khao sự thật và có trách nhiệm với đồng loại vẫn cứ như mầm cây đội đất ngoi lên, vẫn cứ như nước len lách mọi kẽ hở để xuyên qua núi đá. Họ đi dây giữa hai bờ vực, dù có thể rớt bỏ mạng bất cứ lúc nào. Sợi dây họ bước lên trên cũng không thẳng một đường, mà cong cong, ngoài vòng chính trị.
Họ không đấu tranh, họ bảo vệ: bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền công nhân, bảo vệ dân oan bị ngược đãi, bảo vệ hòa bình… đôi khi nghe như bảo thủ. Hiến chương 77 ở Tiệp Khắc, KOR ở Ba Lan và những kiến nghị, tuyên ngôn, hành vi phi chính trị khác ra đời trong hoàn cảnh này. Họ làm những việc mình có thể làm, thay vì những việc mình muốn làm, hoặc cần phải làm, như người ở “đàng ngoài” thường cổ vũ.
Tên họ cũng khó gọi. Không ai thích được gọi là “phản kháng”, vì nghe chẳng khác gì lời mời “Tù ơi, mở cửa ra!” Người ngoài nhắc đến họ như những nhà bất đồng, nhà dân chủ, người phê phán, nhà phản biện, hay công dân tự do,… nhưng chế độ chỉ một mực xem họ là tội phạm, hoặc tội phạm sẽ thành.
So cả hai, có thể thấy trí thức sống trong lòng chế độ cộng sản và trí thức ở ngoài tuy có nhiều điểm tương đồng, nhưng không hẳn đã có cùng mẫu số. Trong bối cảnh Việt Nam, khoảng cách trong và ngoài không phải không có, dù giữa thời internet. Hy vọng rằng sự thấu hiểu sẽ xóa tan những ngộ nhận chủ quan của cả trong lẫn ngoài, bằng không thì người đang đi dây trong lòng chế độ, và cả người đang cố đi dây nối liền trong và ngoài nữa, sẽ rất dễ lãnh đạn từ cả hai phía.
_______________
Chính trị qua ngả “phi chính trị”
Năm 1975, ông Zdeněk Mlynář [i], một người cộng sản Tiệp Khắc phe cải cách, đã viết “Thư ngỏ, gửi bè bạn cộng sản và chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu”, kêu gọi họ lên tiếng chống đàn áp trí thức tại Tiệp Khắc. Việc làm nghịch lý này cho thấy rằng ảo tưởng về khả năng cộng sản tự sửa đổi quả là rất khó loại bỏ. Tuy nhiên, vào lúc đó, những người như Mlynář chỉ là thiểu số, niềm tin của ông vào chủ nghĩa xã hội và vào những cảm tình viên tại phương Tây đã làm kinh ngạc cả những trí thức phê phán chủ nghĩa cộng sản tại Đông Âu.
Những trí thức này, lúc đó chưa được gọi là những “nhà phản kháng” (từ ngữ mà bản thân người được mô tả không hề thích), hầu hết đều tránh giáp mặt chế độ, tránh xa cả thứ ngôn ngữ “xã hội chủ nghĩa” chế độ quen dùng. Sau những gì xảy ra năm 1968 [Liên Xô xâm lăng Tiệp Khắc, đè bẹp cải cách và đàn áp kéo dài], thì thứ ngôn ngữ kia, với những từ ngữ rôm rả như “hòa bình”, “công bằng”, “hữu nghị “, vốn đã xơ cứng, nghe lại càng giả dối hơn, nhất là với những người hoạt động tích cực trong thập niên 1960. Hầu hết trong số họ là sinh viên, học giả, nhà báo, kịch tác gia, nhà văn… nạn nhân chính trong những vụ đàn áp tại Tiệp Khắc, vào khi mà đảng, dưới quyền Gustáv Husák (ngài “chủ tịch hay quên”), tính toán chính xác rằng: hy vọng tốt nhất để lập lại trật tự là dùng những cải thiện vật chất để trấn an dân chúng, trong lúc vẫn phải tích cực trấn áp tiếng nói phản kháng và cả những ký ức về quá khứ.
Bị đẩy lui vào bóng tối, sống chui – cuộc sống chui đúng nghĩa trong trường hợp Tiệp Khắc, nơi rất nhiều giáo sư đại học và nhà văn phải làm nghề đốt lò, đun hơi – người bất đồng chính kiến rất khó dự phần vào những tranh luận chính trị với kẻ đàn áp mình. Thay vào đó, sau khi thoát vòng kim cô chữ nghĩa cộng sản và những tranh cãi loay hoay để cải thiện chế độ trong những thập niên trước, họ đã biến yếu thành mạnh và tập trung cổ xúy những đề tài phi chính trị. Trong những chủ đề này, nhờ vào Thỏa ước Helsinki, “quyền con người” trở thành chủ đề dễ khai thác nhất.
Luật ông đập lưng ông
Mọi bản hiến pháp trong các nước khối Xô-viết đều long trọng nhắc đến quyền công dân, bổn phận công dân; vì vậy, những quyền bổ sung được Hội nghị Helsinski thông qua đã trang bị cho những nhà bất đồng tại đây một lối đi thông thoáng có tính chiến lược. Nói theo sử gia Tiệp Khắc Petr Pithart, thì mục tiêu của những nhà bất đồng không phải là đòi thêm một vài quyền hạn mình chưa có – đòi như vậy chẳng khác gì mở đường cho chính quyền gia tăng đàn áp – nhưng là yêu cầu thực hiện những quyền hạn đã được công nhận và long trọng ghi trong luật pháp. Điều này tạo cho những người bất đồng một hình ảnh “đối lập” ôn hoà, thậm chí bảo thủ nữa, trong khi đẩy đảng cầm quyền về phía bị động.
Xem trọng từng chữ của luật pháp “xã hội chủ nghĩa” không chỉ là một thủ thuật hay chiêu thức khiến nhà cầm quyền cộng sản lúng túng, mà còn có ý nghĩa khác. Trong những xã hội khép kín, nơi mọi thứ đều được xem là chính trị – còn bản thân chính trị lại bị ngăn cấm – thì “quyền con người” mở ra một lối thoát, một khe hở xuyên qua bức màn bi quan đen tối bao phủ Đông Âu suốt “thập niên câm lặng 1970”, một dấu chấm hết cho nạn độc chiếm ngôn-ngữ-như-quyền-lực của chế độ. Hơn nữa, quyền cá nhân được ghi trong hiến pháp, về bản chất, là bằng chứng chính thức cho sự tồn tại của con người, và con người có những quyền hạn mà người khác và cả cộng đồng phải tôn trọng. Những quyền hiến định này xác lập một không gian tách bạch giữa một bên là những cá nhân tay trắng và bên kia là một nhà nước toàn năng.
Xã hội dân sự
Phong trào đấu tranh cho nhân quyền, như nhận định của Miklós Haraszti, một lý thuyết gia trẻ Hungary, xác nhận rằng điều cần thiết không phải là sửa đổi để có một chủ nghĩa cộng sản tốt đẹp hơn, mà là sự thiết lập, hay tái lập, một xã hội dân sự (“tư sản”). Cái nghịch lý trong việc bẻ ngược lộ trình của Marx, và thay thế xã hội xã hội chủ nghĩa bằng xã hội tư sản này, cũng là suy nghĩ của các trí thức tại Praha và Budapest. Như đồng nghiệp người Hungary của Haraszti, ông Mihály Vajda, giải thích thì: sự siêu việt của xã hội tư sản chắc chắn đáng mơ ước hơn “nền chuyên chính công dân, một kinh nghiệm lịch sử không thể chịu đựng được” ở nước họ.
Ý nghĩa lớn của nỗ lực tái lập xã hội dân sự – một ý niệm vẫn còn mơ hồ với mục tiêu không chắc chắn, nhưng được giới trí thức đối lập Đông Âu tán thành rộng rãi từ giữa thập niên 1970 trở về sau – nằm ở chỗ nó gián tiếp công nhận rằng sau những gì xảy ra vào năm 1968 thì khả năng tự cải tổ của đảng và nhà nước là một con số không to tướng. Ít ai thực sự chờ đợi lãnh tụ Husák ở Praha, hay Honecker tại Bá Linh, (quan chức Xô-viết thì càng không), sẽ thừa nhận tính chính đáng của những vận động cho quyền con người hoặc nghiêm chỉnh tôn trọng hiến pháp của chính họ. Nói về quyền con người trên lý thuyết là để minh họa rằng nó vắng mặt trên thực tế, là để nhắc mọi người trong và ngoài nước biết rằng những xã hội này mất tự do đến đâu. Thay vì tấn công trực diện vào nhà cầm quyền cộng sản, những người đối lập mới đã cố tình tâng bóng bổng qua đầu họ.
Václav Havel
Với những người bất đồng như Haraszti, hoặc Adam Michnik ở Ba Lan – tác giả luận văn “Chủ nghĩa tiến hóa mới”, một luận văn vạch ra hầu hết đường lối chiến lược của phe đối lập Ba Lan những năm sau đó – thì thời điểm giữa thập niên 1970 chính là bước ngoặt, tách rời hiện tại của họ với thời tuổi trẻ hăm hở đi theo chủ nghĩa Marx với những hứa hẹn kinh tế và xã hội các loại của nó. Với những người chưa hề bị lôi kéo vào các cuộc tranh cãi về chủ nghĩa Marx, như Václav Havel, thì sự chuyển đổi diễn ra dễ hơn nhiều. Là con của một doanh nhân giàu có tại Praha, gia đình bị nhà cầm quyền cộng sản tước đoạt tài sản năm 1948, Havel không có bất cứ sự phấn khích cách mạng nào như những bạn trẻ dấn thân cùng thời, ông cũng không giữ vai trò tích cực gì trong những cải cách dẫn đến biến cố 1968. Nhìn chung, quan hệ giữa Havel và chủ nghĩa cộng sản luôn nằm ở thế đối đầu, phần lớn là vì gốc gác tư sản của mình, nhưng chưa bao giờ đó là một quan hệ có màu sắc chính trị.
Nhưng rồi trải qua thập niên 1970 và 1980, sau khi bị quấy nhiễu, bắt bớ, vào tù vì các hoạt động của mình, Havel cũng đã trở thành một nhân vật chính trị tột bậc. Nhưng “thông điệp” của ông vẫn dứt khoát không có màu chính trị. Ông kiên định lập trường rằng không cần phải tranh cãi với nhà cầm quyền làm gì. Cũng chẳng cần, về cơ bản, nói hết sự thật, mặc dù biết rằng trong một chế độ được dựng trên dối trá thì điều này rất quan trọng. Điều duy nhất có ý nghĩa trong hoàn cảnh đó là “sống trong sự thật”, chỉ vậy thôi, còn mọi thứ khác đều là thỏa hiệp – ông cũng cho rằng: “Ngay việc thành lập một lực lượng chính trị cũng khiến người ta phải chơi trò chơi quyền lực, thay vì giương cao sự thật.”
Như Havel giải thích trong luận văn viết năm 1984 về mục tiêu và chiến thuật của phe đối lập còn non yếu tại Tiệp Khắc, thì mục tiêu chính là hành động độc lập, bất kể chế độ tìm cách áp đặt mình ra sao, là cứ sống như là mình thực sự tự do. Đây rõ ràng không phải là bài thuốc cho đại đa số quần chúng, và Havel hiểu điều này, ông viết: “Đây có lẽ là những phương thức không thực tế trong hoàn cảnh hôm nay, và rất khó áp dụng trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, tôi không biết cách nào khác tốt hơn.”
Lập trường của Havel không phải không có tiền lệ. Trước đó không lâu, Ludvík Vaculík, phát biểu tại Đại hội Lần thứ Tư của Công đoàn Nhà văn Tiệp Khắc năm 1967, đã đề nghị với đồng nghiệp của ông một chiến lược sống “như là” tương tự đề nghị của Havel. Ông nói: “Chúng ta nên ra vẻ như là những công dân…, diễn thuyết như là những người lớn và độc lập trước pháp luật.” Trong không khí lạc quan hơn của thập niên 1960, Vaculík và những người khác vẫn hy vọng nhà cầm quyền sẽ nhượng bộ hay đáp ứng nguyện vọng của họ cách nào đó. Nhưng khi Michnik hay Havel cổ vũ cho chủ trương tương tự thì hoàn cảnh đã khác. Không còn có thể khuyên nhủ nhà cầm quyền nên điều hành đất nước ra sao, mà chỉ có thể đề xuất cho người dân cả nước – bằng cách làm gương – cách sống sao cho hợp lẽ.
Trí thức và quần chúng
Trong thập niên 1970, nói rằng giới trí thức Đông Âu có thể “đề xuất cho người dân cả nước” cách sống đúng nghĩa thực ra nghe cũng hơi quá – hầu hết giới trí thức không ở vị trí có thể đề xuất điều gì có ý nghĩa ngay cho trí thức giống mình, nói gì đến đề xuất cho quần chúng. Giới trí thức, nhất là tại Hungary và Ba Lan, hầu hết không biết về điều kiện sinh sống và lập trường của công nhân tại các trung tâm công nghiệp, càng không biết gì về hoàn cảnh của nông dân. Thực vậy, như hai nhà phản kháng Hungary, Iván Szelényi và George Konrád, từng nói rằng hệ thống chính trị cộng sản đặt “trí thức trên con đường dẫn đến quyền lực giai cấp”, thì cũng có thể nói rằng chính nhờ cộng sản mà khoảng cách có tính truyền thống Trung Âu giữa “giới trí thức” và “quần chúng” lại xuất hiện lần nữa, nặng nề hơn (trước đây, khoảng cách này tại những xã hội quý tộc như Hungary và Ba Lan rõ nét hơn là tại Tiệp Khắc bình dân, nhưng từ 1948, khi cộng sản lên nắm quyền, thì mâu thuẫn giai cấp tại Tiệp Khắc cũng được đào sâu, dù gượng gạo).
Ba Lan: KOR
Xã hội đầu tiên dẹp bỏ được hàng rào chia cắt trí thức và quần chúng vừa kể chính là Ba Lan. Năm 1976, sau một loạt các cuộc biểu tình phản đối giá thực phẩm leo thang đến chóng mặt, chế độ đã phản ứng mạnh, đánh đập, bắt bớ công nhân tại các thị trấn công nghiệp Ursu và Radom. Trong một phản ứng có thể coi là giúp chấm dứt sự thờ ơ của cả công nhân lẫn trí trức về các cuộc biểu tình của nhau, Jacek Kuroń và một số đồng nghiệp đã công bố thành lập Ủy ban Bảo vệ Công nhân (KOR) vào tháng 9, 1976. Mục tiêu của KOR, cũng như của Ủy ban Bảo vệ Nhân quyền và Dân quyền (ROPCiO) thành lập vào tháng 10 cùng năm, là công bố cho mọi người biết về những vụ xâm phạm quyền tự do dân sự của công nhân, hỗ trợ họ về pháp lý, và thành lập một mặt trận chung. Ba năm sau, tháng 12, 1979, những trí thức lãnh đạo KOR – gồm một số người Do Thái, người Công giáo, người cộng sản cũ, và những thành phần khác – đã viết và phổ biến một văn bản có tên là “Hiến chương Quyền Công nhân”
Tiệp Khắc: Hiến chương 77
Sự hình thành – hoặc đúng hơn, sự khẳng định – một không gian dân sự độc lập tại Ba Lan đã ra đời từ một xung đột có tính xã hội. Trong khi đó, bên kia biên giới, tại Tiệp Khắc, với bối cảnh chính trị ngột ngạt hơn, không gian dân sự này đã hình thành từ một cơ hội có tính pháp lý. Vào tháng 1, 1977, một nhóm công dân Tiệp Khắc đã ký vào văn bản (ban đầu được phổ biến như tuyên ngôn đăng trên một tờ báo Tây Đức) phê phán chính quyền không tôn trọng các điều khoản về nhân quyền được ghi trong Hiến pháp Tiệp Khắc, cũng như trong Đạo luật Cuối của Hiệp định Helsinki 1975, và các hiệp ước của Liên hiệp Quốc về quyền chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, là những hiệp ước mà Tiệp Khắc đã ký tên thỏa thuận – riêng Sắc lệnh Helsinki 120 thì còn được chính thức đưa vào Luật pháp Tiệp Khắc nữa.[ii]
Những người ký tên vào văn bản này (sau được biết đến như “Hiến chương 77”) mô tả chính họ như “một tập hợp không ràng buộc, không chính thức, mở rộng, quy tụ những con người… kết nối với nhau bằng khát khao dấn thân, với tư cách cá nhân và như một tập thể, cho sự tôn trọng quyền con người và quyền dân sự tại đất nước chúng ta và trên thế giới.” Họ thận trọng nhấn mạnh rằng Hiến chương 77 không phải là một tổ chức, không có quy chế gì, không có cơ cấu tổ chức gì thường trực, và “không hình thành nền tảng cho bất cứ hoạt động chính trị đối lập nào”, một quy định nhằm giữ cho hoạt động của họ luôn ở trong vòng pháp luật tại Tiệp Khắc.
Hiến chương 77 là thành quả của một nhóm rất nhỏ những cá nhân dũng cảm không đại diện cho ai ngoại trừ chính họ: 243 người ký tên vào văn bản gốc, và trong một thập niên sau đó thu hút được chữ ký của 1.621 người khác (trên dân số 15 triệu). Phát ngôn viên đầu tiên của Hiến chương 77 là Havel, Jiří Hájek (ngoại trưởng Tiệp Khắc dưới thời Dubček) và cụ Jan Patočka, triết gia hàng đầu của Tiệp Khắc, tất cả họ đều là những cá nhân riêng biệt, không có địa vị hay thế lực xã hội nào. Nhưng điều này không ngăn cản nhà cầm quyền đáp trả dữ dội, họ chụp mũ Hiến chương 77 là “một văn bản chống nhà nước, chống chủ nghĩa xã hội, xách động mị dân, tuyên truyền bịp bợm”. Mỗi người một kiểu, những người ký tên đã bị bêu xấu, bằng ngôn ngữ y như trong các phiên đấu tố thập niên 1950, là “phản bội và làm loạn”, là “tôi tớ trung thành và tay sai đế quốc” và là “bọn phiêu lưu quốc tế”. Những người ký tên bị trả đũa và đe dọa, hình thức trừng phạt gồm cả đuổi việc, không cho con cái học hành, treo bằng lái, bị trục xuất ra nước ngoài và mất quyền công dân, bị quản thúc, xét xử, bỏ tù.
VONS: bảo vệ người bị ngược đãi
Phản ứng gay gắt với những người ký tên vào Hiến chương 77, và đòn thù của chính quyền nhằm đàn áp một thế hệ những nhạc sĩ trẻ (nhất là nhóm “Người Nhựa Vũ trụ”), đã thúc đẩy việc thành lập nhóm hỗ trợ họ vào tháng 4, 1978, có thên “Ủy ban Bảo vệ Người bị ngược đãi” (VONS), với mục tiêu tương tự như mục tiêu của KOR. Nhà cầm quyền tại Praha phản ứng bằng cách bắt sáu nhân vật lãnh đạo của VONS, trong đó có Havel, và vào năm sau đó, xử họ tội phá hoại. Tháng 10, 1979, họ bị kết án tù, có án lên tới năm năm.
Sau những biến động vào năm 1968 thì tất cả các chế độ cộng sản tại Đông Âu (ngoại trừ Rumani dưới quyền Ceaușescu) đều áp dụng đường lối mà Kadár đã dùng ở Hungary. Họ không còn giả vờ tìm kiếm sự trung thành thật lòng của kẻ bị trị nữa, mà chỉ đòi quần chúng tỏ vẻ tuân phục bằng những dấu hiệu bên ngoài là đủ. Một trong những mục tiêu của Hiến chương 77 – tương tự mục tiêu của VONS hoặc KOR – là giúp đồng bào vượt qua sự thờ ơ với việc chung của đất nước. Đặc biệt, Havel còn nhấn mạnh đến việc đừng để nhà cầm quyền thỏa mãn khi thấy nhân dân hạ mình tuân phục một cách vô tình chỉ vì không muốn bị nhòm ngó. Còn nếu cứ tuân phục thì chế độ có thể xem như đã đặt được “một trạm gác trong đầu mỗi công dân” – một đề tài được mô tả trong tiểu luận kinh điển “Power of the Powerless”[iii] với ví dụ về anh hàng rau treo trong cửa hàng mình khẩu hiệu “Vô sản thế giới, đoàn kết lại!”
Bảo vệ môi trường
Trong nỗ lực vượt qua sự thờ ơ và sợ hãi của quần chúng, có một số đề tài do trí thức dấn thân đưa ra dễ được quần chúng tán đồng hơn những đề tài khác. Thảm họa môi trường chẳng hạn. Tại Slovakia, theo con số chính thức được chế độ đưa ra, có 45% trong 5.600 km sông ngòi tại Slovakia bị ô nhiễm “ở mức nguy hiểm” vào năm 1982. 4/5 nước giếng ở phía đông nước cộng hòa này không thể dùng cho người uống được. Nguyên nhân chính là do dùng quá nhiều phân bón tại các nông trại tập thể trong vùng, làm đất bị nhiễm độc và mùa màng thất bát, như đã từng xảy ra tại các vùng đất đen ở Liên Xô.
Vào đầu thập niên 1980, khu vực phía bắc Bohemia có mức ô nhiễm không khí tệ hại nhất Châu Âu, vì dùng than nâu (rẻ tiền) trong sản xuất công nghiệp và điện. Trong 73,5 tỉ kwh điện sản xuất từ vùng này, có đến 64 tỉ kwh được sản xuất từ các lò đốt than nâu, vốn thải ra lượng lưu huỳnh cực lớn. Hậu quả là đến năm 1983, có đến 35% rừng trên toàn Tiệp Khắc đã chết hoặc đang chết, và 1/3 tất cả các nguồn nước tại Tiệp Khắc đều bị ô nhiễm nặng đến mức không thể dùng, kể cả trong công nghiệp. Tại ngay thủ đô Praha, chính quyền bắt buộc phải thành lập một dịch vụ đặc biệt tại bệnh viện để điều trị các chứng bệnh đường hô hấp trẻ em. Nhà văn Ivan Klíma, trong truyện ngắn “Âm mưu ngày Giáng sinh”, mô tả không khí tại thủ đô Tiệp Khắc bằng dòng này: “Một làn sương đục, lạnh, có mùi khói, mùi lưu huỳnh và mùi khó ở.”
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa thì nhà nước chính là kẻ gây ô nhiễm, nhưng xã hội lại là người chịu khổ. Vì vậy, ô nhiễm là đề tài mọi người đều quan tâm. Nó cũng ngầm mang tính chính trị: vì sao quá khó để bảo vệ môi trường? Câu trả lời rất đơn giản, vì chẳng có ai quan tâm áp dụng những biện pháp phòng ngừa ô nhiễm ngay từ đầu. Chỉ có những biện pháp hiệu quả và đồng bộ được nhà nước chấp thuận mới có thể bắt buộc các cấp cải thiện tình hình, nhưng khốn nỗi, những biện pháp này lại không thể đến từ một nhà cầm quyền vốn khuyến khích sự phí phạm ngay từ đầu. Bất cứ quản đốc nhà máy hay nông trại nào đủ thận trọng, dám chấp nhận giảm “chỉ tiêu”, để tự đưa ra những sáng kiến ngăn ngừa ô nhiễm đều sẽ gặp rắc rối nghiêm trọng. Hệ thống kinh tế cộng sản tự bản chất sẽ tàn phá môi trường nơi nó vận hành, và điều này ngày càng có nhiều người hiểu ra.[iv]
Tự kiểm duyệt
Trong khi đó, cũng dễ hiểu thôi, người cầm bút và các học giả lại quan tâm nhiều hơn đến vấn đề kiểm duyệt. Trở ngại trong việc được phép xuất bản, hoặc biểu diễn, khác nhau tùy từng nước cộng sản. Ở Tiệp Khắc năm 1969, nhà cầm quyền đã đàn áp không chút nao núng: không chỉ hàng ngàn người cầm bút và nghệ sĩ nam nữ bị cấm xuất bản hay biểu diễn trước công chúng, mà một loạt rất nhiều những đề tài, nhân vật hay sự kiện cũng bị cấm nhắc tới. Ngược lại, ở Ba Lan, Giáo hội Công giáo với những thiết chế và báo chí của mình, đã tạo ra được một không gian an-toàn-một-nửa, trong đó một số tự do trong sinh hoạt văn học và trí thức được thực thi, dù mọi người vẫn phải thận trọng.
Nhưng điều đáng nói ở đây, tương tự như ở Hungary, đó là kiểm duyệt lại thường là tự kiểm duyệt. Để có thể tiếp cận với khán giả, các trí thức, nghệ sĩ, học giả luôn bị cám dỗ phải tự điều chỉnh tác phẩm của mình, phải cắt xén hoặc rào đón lập luận để tránh những phản bác chính thức có thể có. Cái lợi về vật chất và nghề nghiệp mà hành động tự kiểm duyệt mang lại không hề nhỏ, nhất là trong các xã hội nơi văn hóa và nghệ thuật được xem như những công cụ quan trọng; bù lại, cái giá phẩm hạnh phải trả vì mất tự trọng cũng có thể rất lớn. Y như nhà văn Heine đã viết 150 năm trước, bằng lời lẽ khiến nhiều trí thức Đông Âu có thể hiểu ngay, rằng: “những đao phủ tư tưởng kia đã biến chúng ta thành lũ tội phạm. Người cầm bút … phải liên tục phạm tội giết con: hắn giết chết đứa con tinh thần của mình, vì sợ đến khiếp vía phán đoán của kẻ kiểm duyệt.”
Im lặng và in chui
Tự kiểm duyệt là hình thức đồng lõa một phần. Một hình thức đồng lõa khác là im lặng – cuộc đào tẩu nội tâm của “Ketman” trong tác phẩm Captive Mind [trí tuệ ngục tù] của Czesław Miłosz. Nhưng, những người đã mở miệng, đã phổ biến chui tác phẩm tự đánh máy và sao chép bằng giấy than của mình, lại cũng đối diện với một thực tại không sáng sủa gì, đó là họ trở nên gần như vô hình, vì ý tưởng và tác phẩm nghệ thuật của họ bị giới hạn trong một nhóm khán giả ít ỏi, khép kín – họ trải qua tình trạng mà một trí thức Tiệp Khắc đã cay đắng gọi là tình trạng tự sướng nhờ phát hành các tác phẩm chui samizdat cho cùng một số khoảng 2000 trí thức, bản thân số trí thức này cũng viết cho cùng đối tượng đọc.
Dũng cảm không tạo ra chất lượng
Thêm vào đó, lòng dũng cảm cũng không bảo chứng cho chất lượng. Sự bất phục tùng, đối kháng, và mối nguy hiểm thường có của việc viết chui, mang lại cho tác phẩm (nhất là với người ái mộ ở phương Tây) một hơi hướng lãng mạn, và đôi khi, những đề cao quá đáng. Những ý tưởng độc đáo và tiến bộ dĩ nhiên có thể bừng nở và lớn mạnh trên đống phân hổ lốn đang phân hủy của khối Xô-viết – trong đó, những tác phẩm của Havel và Michnick là xuất sắc nhất, nhưng không nhất thiết là đại diện duy nhất cho những Fleurs du Mal [cánh hoa đớn đau] mọc lên từ chủ nghĩa cộng sản.[v] Nhưng đối với nhiều người khác, việc không được xuất bản chính thức không có nghĩa là tác phẩm của họ có chất lượng. Không có “nàng thơ kiểm duyệt” nào ở đây (từ ngữ của George Steiner). Chế độ không thích anh không có nghĩa là anh có tài.
Vì vậy, danh tiếng của cả một số những trí thức nổi tiếng nhất cũng nhăn nhúm và teo tóp lại khi tác phẩm của họ được bày ra giữa thị trường tư tưởng tự do. George Konrád tại Hungary chẳng hạn, những luận văn khá dễ dãi có tên “Phản chính trị” được khen ngợi rộng rãi vào thập niên 1970, nhưng ông là một trong nhiều người gần như không còn được ai nhắc tới sau năm 1989. Những người khác như nhà văn nữ Đông Đức Christa Wolf hiểu rất rõ rằng chính những gian truân của việc cầm bút dưới chế độ cộng sản đã cho bà những đề tài mãnh liệt, và một nguồn năng lượng nhất định nào đó (và một vị thế xã hội nữa). Đó cũng là một trong những lý do vì sao nhiều trí thức trong các xã hội cộng sản chấp nhận từ chối cơ hội di dân ra nước ngoài hoặc sống lưu vong – họ tin rằng thà là bị ngược đãi trong nước mà có ảnh hưởng, còn hơn tự do mà chân không chạm đất, đầu không đụng trời, chẳng dính líu vào đâu.
Milan Kundera
Nỗi sợ không dính líu vào đâu nằm phía sau một trăn trở khác rất phổ biến trong những năm này, đó là thiết tha mong cho Đông Âu được “trở về” với Châu Âu càng sớm càng tốt. Giống như mối quan tâm về kiểm duyệt, trăn trở này cũng chỉ giới hạn trong hàng ngũ trí thức – đúng ra là với phần lớn người cầm bút tại các tỉnh phía tây Đế quốc Habsburg cũ [tức Trung Âu], nơi lạc hậu và kém phát triển được áp đặt theo lệnh của Liên Xô đã gây ra nhiều tai ương đau đớn. Người phát ngôn nổi tiếng nhất, đại diện cho trăn trở này, là nhà tiểu thuyết, nhà biên kịch Tiệp Khắc Milan Kundera, viết và sống lưu vong tại Paris. Đối với ông, bi kịch của Trung Âu (một từ được tái sinh và tái sử dụng để minh họa cho ý kiến của Kundera) nằm ở chỗ nó bị thôn tính bởi một nền độc tài ngoại lai, đến từ Châu Á [ám chỉ đế quốc Nga Xô-viết] [vi]
Bản thân Kundera không được trọng vọng nhiều ở quê hương mình, nơi mà cả chọn lựa lưu vong lẫn sự thành công của ông bị các đồng nghiệp xem nhẹ, họ là những người đã tự nguyện từ bỏ cả lưu vong lẫn cơ hội thành công để ở lại trong nước. Nhưng quan điểm chung của ông về Trung Âu cũng được chia sẻ rộng rãi, nhất là với độc giả phương Tây, vốn bị chỉ trích là đã sao nhãng, bỏ mặc một phương Tây “khác” ở sát nách phía Đông của họ – đề tài này cũng được Miłosz phác họa trong thập niên 1950 khi ông nói: “một chương trong cuốn sách tưởng tượng về thơ Ba Lan hậu chiến nên được dành để nói về cái nghịch lý, và thậm chí trò hề, trong cách đối xử của trí thức Tây Âu, nhất là trí thức Pháp, đối với Đông Âu.”
Trung Âu: nghiêng Tây
Với Kundera, người vốn hoài nghi những sáng kiến công dân như Hiến chương 77, thì hiện trạng của Tiệp Khắc thời cộng sản chỉ là cái đuôi nối dài của một vấn đề cũ hơn, đó là vấn đề bản chất và số phận của một quốc gia chẳng may nằm ở trung tâm Châu Âu, nơi các nước nhỏ, các dân tộc ít người luôn có rủi ro bị xóa sổ. Vì vậy, Kundera cho rằng mục tiêu của trí thức đấu tranh tại Tiệp Khắc và trí thức lưu vong là làm sao cho thế giới biết đến nỗi trăn trở này, thay vì mất thời giờ tìm cách thay đổi đế quốc Mạc-Tư-Khoa mang đậm màu độc tài phương Đông Trung cổ. Hơn nữa, theo Kundera, Trung Âu là “định mệnh của phương Tây ở dạng cô đặc”. Havel cũng đồng ý với nhận định này khi cho rằng: Chủ nghĩa cộng sản là tấm gương đen tối mà lịch sử đưa lên cho phương Tây soi thấy mặt mình.
Những người Ba Lan như Michnick không dùng cụm từ “Trung Âu”, hoặc nói nhiều về nhu cầu “về với Châu Âu”, một phần là vì, không như người Tiệp, trí thức Ba Lan có thể theo đuổi các mục tiêu gần hơn, dễ đạt hơn. Điều này không có nghĩa người Ba Lan và các dân tộc khác không mơ đến ngày sẽ được chia sẻ các lợi ích từ một Cộng đồng Châu Âu mới, hoặc không mơ đến ngày có thể thay thế câu chuyện huyền thoại thảm hại có tên chủ nghĩa xã hội bằng một câu chuyện thần thoại “Châu Âu” dễ chịu hơn nhiều. Họ không nói, vì họ có những ưu tiên cấp bách hơn, như ta sẽ thấy sau đây.
(Còn 1 kì)
Nguồn: Post War, Tony Judt, NXB Penguine Books, 2006, trang 566-577
Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra
Chú thích (Các chú thích của người dịch sẽ viết tắt là ND. Các chú thích của tác giả sẽ viết tắt là TG)
[i] Zdeněk Mlynář là một trong những người cùng Václav Havel khởi xướng Hiến chương 77. Mlynář một thời là bạn học của Gorbachev. Ông là chồng của bà Klímová, người đặt tên “Cách mạng Nhung”. (ND)
[ii] Điều đáng chú ý là quyết định của chính quyền Tiệp Khắc thông qua Hiệp ước về Nhân quyền của Liên hiệp Quốc năm 1976 – và là quốc gia thứ 35 thông qua văn bản này – đã làm Hiệp ước trở nên có hiệu lực trong khuôn khổ luật pháp quốc tế. (TG)
[iii] Tên tiểu luận “Power of the Powerless” được dịch bằng nhiều cách: Quyền lực của không quyền lực (Khải Minh, bản dịch năm 2006), Sức mạnh của thảo dân (Phạm Nguyên Trường, bản dịch năm 2012), cũng có thể dịch là “quyền lực của người không quyền lực” hay “quyền lực của người bị trị”, “quyền lực dân đen”… (ND)
[iv] Nhưng trong nội bộ những người chủ trương bảo vệ môi trường cũng có người nghĩ khác. Milan Šimečka, một nhà văn Slovak, đã cảnh báo các đồng nghiệp (trong số có cả Havel) rằng đừng đánh giá thấp lợi ích của hiện đại hóa: “Tôi chủ trương rằng ngay cả ô nhiễm đi kèm với phát triển công nghiệp thì vẫn tốt hơn là tình trạng hỗn loạn và hung bạo tràn lan trong một xã hội mà người dân không thể thỏa mãn những nhu cầu căn bản của mình.” Milan Šimečka, “A World With Utopias or Without Them”, Cross-Currents, Số 3 (1984), trang 26. (TG)
[v] Yugoslavia [Nam Tư] là một ngoại lệ so với các nước khác: “Vì chưa từng có một văn hóa chính thức hình thành tại Yugoslavia (không có nghĩa là không có những quan chức nhà nước trong sinh hoạt văn hóa), nên không thể có một đối trọng tự nhiên, tức một văn hóa chui, có tính thay thế và tồn tại song song, như được yêu thích rộng rãi tại các nước xã hội chủ nghĩa khác.” Dubravka Ugrešić, The Culture of Lies (1998), trang 37. (TG)
[vi] Đế quốc Nga Xô-viết được xem là mang tính độc tài Châu Á phần lớn vì di sản còn sót lại của gần 250 năm bị Mông Cổ đô hộ, thế kỷ 13-15. Các phương pháp cai trị được nước Nga Sa hoàng lẫn nước Nga Xô-viết áp dụng rộng rãi như trung ương tập quyền, tôn giáo bám vào nhà nước, quí tộc cung đình, trí thức ngoan ngoãn, đất đai toàn là của vua, nông dân là nông nô, hộ chiếu nội địa (một hình thức hộ khẩu)… được cho là vay mượn hoặc biến thể từ thời Mông Cổ cai trị. Hơn hai thế kỷ bị đô hộ cũng làm nước Nga chậm phát triển gần 200 năm so với Châu Âu, khiến Nga không tham gia vào những biến đổi tích cực ở Châu Âu trong thời kỳ Phục hưng và Cải cách. Một hệ quả là Nga thiếu hẳn một tầng lớp trung lưu độc lập, tác nhân cần có của những thay đổi kinh tế, xã hội, chính trị… Nước Nga ngày nay vẫn còn nhiều dấu vết của chế độ cũ cũng vì di sản này. Richard Pipes (1923-), một sử gia Mỹ gốc Ba Lan, giáo sư Đại học Havard, nghiên cứu sâu về đề tài này qua tác phẩm Russia Under the Old Regime xuất bản năm 1974, sách tham khảo của sinh viên ngành sử và chính trị ở các nước nói tiếng Anh. (ND)
April 27, 2013
Tân Việt Nam – Mười điều sung sướng lớn (1)
Phan Bội Châu
Võ Văn Sạch dịch
Bài liên quan: “Tân Việt Nam – Sáu điều mong mỏi lớn“
Nếu như mà đường sắt dài muôn dặm làm rồi thì công việc buôn bán, trong chốc lát có thể tập trung đầy đủ được; từ các đô thị thôn ấp lớn có thể nối liền và đi tới khắp mọi nơi nhanh chóng. Ngồi ung dung nơi lầu chạm chiếu hoa mà có hiệu quả như vượt núi qua sông, thật sung sướng biết chừng nào! Được như vậy mà ban đầu không chịu khó nhọc kinh doanh, xây đắp thì thành sao được? Bây giờ nói đến những việc phải khó nhọc gian nan như thế sao lại chùn tay lè lưỡi? Vì chưa biết rằng sau khi đường sắt làm rồi là sướng đó thôi!
Nếu như mà lầu cao muôn trượng xây rồi thì sao trời, trăng biển bên cửa sổ ngắm như ở trong bàn tay, khí mát gió trong vờn quanh dưới gót. Ngạo nghễ nơi cửa cao ghế đá mà nhìn thấy được ba đảo năm châu, sướng biết chừng nào! Được như vậy mà ban đầu không chịu phí tổn, trù hoạch, khó nhọc thì thành sao được? Bây giờ nói đến việc làm những công trình lớn lao như thế sao lại cúi đầu thất sắc? Vì chưa biết rằng sau khi lầu cao đá xây rồi là sướng đó thôi! Biết sau này có sự ngọt bùi khôn cùng, thì cái cay đắng hôm nay phải chịu đựng chỉ là cái điểm tiến tới cái ngọt bùi đó, ta nguyện nếm cái cay đắng ấy. Biết sau này có sự vui mừng khôn cùng thì cái gian lao hôm nay là cái cơ sở dẫn đến sự vui mừng đó, ta nguyện nhận cái gian lao ấy. Biết sau này có cái sự lợi khôn cùng thì cái phí tổn hôm nay là cái vật gốc dẫn đến cái lợi đó, ta nguyện dùng những phí tổn ấy.
Bây giờ tôi xin nói cùng với đồng bào rằng: muốn tạo dựng được một nước Việt Nam mới có đường sắt muôn dặm và nhà cao muôn trượng như thế thì tất phải nếm chịu những cay đắng như vậy, nhận sự gian lao như vậy, và tất cả những phí tổn như vậy. Đồng bào ta há sợ cực khổ lắm sao? Nếu quả có thế là vì chưa biết rằng nước Việt Nam ta sau khi đã duy tân rồi là rất sướng, rất vui và có lợi không lường hết được đó thôi.
Bây giờ tôi xin thưa với đồng bào rằng: nước Việt Nam mới có 10 điều sung sướng lớn như sau:
Không có cường quốc nào bảo hộ
Không có bọn quan lại hại dân
Không có người dân nào mà không được thỏa nguyện
Không có người lính nào mà không được vinh hiển
Không có loại thuế nào mà không công bằng
Không có hình pháp nào mà không thỏa đáng
Không có sự giáo dục nào mà không hoàn thiện
Không có nguồn địa lợi nào mà không được khai thác
Không có ngành công nghệ nào mà không phát đạt
Không có ngành thương nghiệp nào mà không được mở mang.
Diện tích nước ta có 25 vạn dặm vuông Anh, không phải là rộng sao? Dân số nước ta hơn 50 triệu tráng đinh [1] không phải là đông sao? Đất đai mầu mỡ phì nhiêu, sản vật dồi dào, non sông tươi đẹp, nếu đem so sánh với các nước mạnh trong năm châu không thua kém mấy ai. Thế thì sao ta lại cam chịu để cho nước Pháp bảo hộ? Than ôi! Căn tính nô lệ đã ăn sâu, thói ỷ lại quá nặng rồi! Mấy ngàn năm cam bề nội thuộc các triều Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh[2] xưng tôi tớ không còn có khí người. Giặc Pháp gian giảo, khinh ta yếu, dối ta ngu, thừa lúc con sư tử đương ngủ say mà nghiễm nhiên lấn át chủ nhà, giầy xéo con em ta, bắt cha anh ta làm kiếp trâu ngựa, lấy thành trì nước ta làm sào huyệt của chúng, moi hút máu mỡ dân ta. Thế mà chúng lại còn dám ngạo mạn công bố với thế giới rằng: nước Pháp là nước thống trị cõi Đông Dương. Chao ôi! Đồng bào ta ôi! Nước ta là nước ta, dân ta là dân ta, nước Pháp-lan-tây có gì ở đây mà trái lại chúng lại còn bảo hộ nước ta?
Từ khi người Pháp bảo hộ cho đến bây giờ, chúng nắm giữ hết thảy mọi quyền trong tay, muốn làm sống, làm chết ai cũng được. Tính mạng của muôn người nước Nam chẳng bằng một con chó Tây. Kìa những người mắt biếc xanh, râu sắc hồng, bay chẳng phải là cha anh ta, chẳng phải là thầy dạy của ta mà sao lại ngồi chồm chỗm, ỉa đái trên đầu ta? Đường đường các bậc nam nhi của nước Nam lẽ nào lại không biết xấu hổ, nhục nhã, phẫn uất giết bọn giặc được hay sao? Thân ta hãy còn thề phải dẹp bằng lớp sóng biển lớn, quyết giết chết bọn giặc ấy, để tỏ rõ khí tiết giống da vàng.
Khi đã duy tân rồi, tư cách nội trị do ta sắp đạt, quyền lợi ngoại giao tự ta nắm giữ. Sự nghiệp văn minh ngày càng tiến bộ, phạm vi thế lực ngày một mở mang. Ta sẽ có 300 vạn lục quân mạnh như cọp ngó nhìn bốn cõi; 50 vạn thủy quân dữ như cá kình thét trong biển lớn. Rồi ta phái các công sứ đi tới các nước mạnh ở Châu Âu, Châu Mỹ. Các nước mạnh như Nhật, Mỹ, Đức, Anh đều liên kết với nước Việt Nam ta, coi ta là đồng minh bậc nhất. Các nước Tiêm La [3], Ấn Độ và các nước ở quần đảo Nam Dương đều tôn nước ta làm minh chủ. Nước lớn nhất ở Châu Á là Trung Quốc cũng sẽ là nước anh em thân thiết với ta. Nước thù cũ của ta là nước Pháp-lan-tây cũng phải sợ ta, nghe theo ta và nguyện nhận sự bảo hộ của ta. Cờ nước Việt Nam ta phần phật, bay trên nóc thành Ba Lê và dung mạo nước ta lừng lẫy chói lọi ở hoàn cầu. Đến lúc ấy, người Việt Nam ta chỉ sợ không rảnh mà bảo hộ cho nước khác, lại sợ không dư sức lấy con gái nước Pháp, và sự nhục nhã vì người khác bảo hộ trước đây như là một phương thuốc hay để hoàn thành công việc duy tân đó mà thôi.
Đài kỉ niệm xây cao, muôn ngọn đuốc dẫn đường trong đêm tối. Gió tự do thổi mạnh, một luồng vui thấu tận trời xanh. Chúng ta ưu thắng đến thế, sung sướng biết chừng nào! Cái nọc độc hàng nghìn năm nay của bọn chuyên chế hại dân ấp ủ từ bên nước Thanh nhiễm sang nước ta để mà một tên độc phu [4] khống chế vài vạn kẻ dung nhân [5] làm cá thịt ức vạn dân ta. Rồi vài vạn tên dung phu lại thờ phụng một tên độc phu làm cá thịt ức vạn dân ta. Thế mà dân ta ngu muội không biết giành lấy dân quyền, không biết giữ lấy quốc mệnh, chỉ ngày đêm đem hết máu mỡ khô kiệt của mình cung đốn cho bọn độc phu và dung nhân uống nuốt. Than ôi! Thật đáng thương thay!
Khi đã duy tân rồi thì dân trí sẽ mở mang nhiều, dân khí sẽ lớn mạnh hơn, dân quyền tất phải phát đạt lớn; vận mệnh nước ta tất do toàn dân nắm giữ. Thủ đô nước ta đặt một tòa nghị viện lớn, tất cả những việc chính sự đều do công chúng quyết định. Thượng Nghị viện tất phải đợi Trung Nghị viện đồng ý. Trung Nghị viện tất phải đợi Hạ Nghị viện đồng ý. Hạ Nghị viện là nơi đa số công chúng có quyền phê chuẩn công việc của Thượng Nghị viện và Trung Nghị viện. Phàm đã là người dân nước ta, không kể sang hèn, giầu nghèo, lớn bé đều có nghĩa vụ bỏ phiếu bầu cử. Vua nên để hay nên phế, quan lại nên truất hay nên thăng, dân ta đều có quyền quyết định cả. Tất cả những tên vua bạo ngược, quan lại ô trọc không hợp với công đạo thì dân ta khi khai họp trong nghị viện cùng nhau bàn bạc quyết định thi hành trừng phạt chúng theo hiến pháp. Đến lúc ấy, bọn quan lại hại dân tất bị chôn vùi tiệt nọc mãi mãi không còn trên trời đất nữa. Đến lúc ấy, người nước ta chỉ ca múa thái bình, ngậm cơm vỗ bụng mà thôi. Ngẩng đầu thấy mặt trời, tiếng ca vui muôn năm còn vọng mãi: tiếng vỗ tay như sấm, điệu múa hay nghìn thu vẫn còn khen. Chúng ta vinh thịnh đến thế, sướng biết chừng nào!
Người Pháp cướp nước ta, khóa kín miệng ta, trói buộc chân tay ta, bịt kín tai mắt ta. Những việc như xuất bản, sách báo, hội họp luận bàn không kể ngày đêm, không kể đông hay ít, lớn hay nhỏ đều bị người Pháp áp chế ngặt nghèo. Người Pháp mà tức giận bắt ta phải coi cha làm thù; người Pháp mà ưa thích đặt chó làm vua cũng phải chịu. Ngay đến họ vua, nhà quan, kẻ giầu người giỏi nếu không được giấy của người Pháp cấp cho thì một bước cũng chẳng dám ra khỏi cửa. Không được người Pháp cấp thuế bài thì chủ nhà cũng giống như trộm cướp. Kìa những con chó Tây, ngựa Tây, vợ Tây và những kẻ bồi Tây thung dung tự do muốn nạt ai thì nạt theo ý mình so với người nước ta thật là khác biệt nhau như thiên đường, địa ngục. bất bình đẳng đến như thế, không công đạo đến như thế, hỏi nỗi oan khuất trong thế giới này còn có đâu hơn thế nữa hay không? Lẽ nào ta lại ngồi yên, không dám đứng lên mà réo muôn tiếng chuông độc lập. Đè nén cong nhiều tất phải bật thẳng, phải bẻ gãy vòng cường quyền áp chế mới thôi.
Khi đã duy tân rồi thì uy quyền nước ta, ta nắm trong tay; cái đạo của ta, ta cân nhắc. Nền văn minh rạng rỡ khắp nơi. Cửa tự do rộng mở không cùng, báo chí đầy đường, sách mới đầy ngõ. Người dân nghèo tha hồ kiện tụng, tiếng nói vang lên như sấm; kẻ văn sĩ được thả bút luận bàn chính sự. Bao nhiêu ẩn tình của chú phu xe, của người lính ngựa, của người mẹ góa, của đứa con côi, hết thảy đều đạt tới tai vua. Đến khi ấy, người nước ta yêu mến nước ta như biển lớn vô bờ mắt thu khó hết, lạ vì trời xanh sao quá thấp như chạm vào đầu. Chúng ta vẻ vang đến thế, sướng biết chừng nào!
Người nước ta khi chưa duy tân, thói dã man nhiễm đã quá thịnh, chí tiến thủ đã mất đi, tôn hư văn làm thánh làm thần, coi thực nghiệp như cỏ như rác. Từ vua cho đến quan lại xem tướng tá như con vật bỏ đi, coi ba quân khác chi chó dại, xem võ quan như vật để sai khiến chà đạp. Dân ta thì kiến thức ấu trĩ, tai mắt ngu tối, thấy người trên bỉ bác thì dưới xóm thôn cũng khinh rẻ. Khi sống làm lính chạy trước ngựa, bỏ xương chốn sa trường, khi chết làm quỷ ở ven đường, vùi danh nơi hoang vắng. Làm người lính đã vất vả nghèo hèn, phải chịu tiếng vô phúc như thế thật đáng thương thay! Đáng chán lắm thay! Đã đáng thương, đáng chán như thế thì ai muốn đi lính nữa, mà không ai muốn đi lính thì lấy ai ra giữ nước? Đến khi nước mất biết để lỗi cho ai? Than ôi! Vận mệnh một nước phần nhiều gửi gắm, trông mong ở ba quân, người lính tức là nước nhà ta vậy. người lính bị khinh rẻ đến thế, hỏi nước nhà còn tồn tại được không? Xe trước đổ gương còn soi đó, gọi to hồn người ném đá bắn tên [6]; tương lai kia hãy còn dài, đánh tiếng trống làm khí thiêng sông núi. Người lính ơi, người lính! Xin hãy xem từ nay về sau mình sẽ thế nào.
Khi đã duy tân rồi thì võ quan một đường, vua dân một thể. Nước nhà trông cậy và người lính bảo vệ, người lính được kính trọng vô cùng. Tôi cùng đồng bào cả nước đều biết rằng, nước là nước chung của tất cả mọi người thì ai ai cũng phải có trách nhiệm giữ gìn đất nước. Mọi người đều có trách nhiệm giữ nước thì ai ai cũng phải có nghĩa vụ vào lính. Mọi người có nghĩa vụ vào lính thì ai ai cũng phải có tấm lòng trọng người lính. Trong nước từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài đã là có tai có mắt, không ai là không chú trọng tới người lính. Có bút mà viết, có lưỡi để nói, không thể nào nói hết, viết hết về cái hay của người lính. Người lính khi sống làm cho quốc sĩ được mở mày, gây oai hùng trong thế giới, đến khi chết làm quốc linh, hồn phách mãi mãi trường tồn với núi sông. Người trong nước đem máu thịt của mình mà sùng phụng những người chết vì Tổ quốc là người lính, vua trong nước lên tận đàn tế mà bái chúc những người hi sinh vì Tổ quốc là người lính (ở Đông Kinh nước Nhật Bản có lập một đàn tế gọi là “Tịnh quốc Thần xã” để tế những người lính tử trận, mỗi năm hai kì Thiên Hoàng phải thân hành đến tế lễ ở đàn ấy. Sau khi duy tân rổi ta cũng sẽ lễ theo cách đó). Kho tiền công, kho chứa lúa của Nhà nước phải được dùng đề nuôi nấng vợ con người lính chết trận. Triều đình và xã hội phải bảo toàn, lo lắng đến gia đình, họ hàng những người lính chết trận. Tượng đồng nguy nga ngất trời dành riêng để đúc chân dung người lính: mộ đá nhấp nhô trên mặt đất để dành đắp cho nơi yên nghỉ của người lính. Người lính ơi! Người lính! Vinh hiển trong nước thực chẳng ai bằng, danh dự muôn đời thực chẳng hề phai. Lúc bấy giờ, người nước ta chỉ có mở mắt mà ngắm trời đất, khen ông cha ta trước từng làm người lính mở đường, quay lại nhìn thôn xóm mới buồn rằng mình phải chết già dưới cửa sổ thật là như kẻ vô duyên vậy. Chúng ta hoan hỉ đến thế, sướng biết chừng nào.
Các triều đại vua trước ở nước ta, thu thuế của dân có phần khoan nhẹ, nhưng chưa thoát khỏi chế độ chính trị dã man như:
- Một là tệ quan lại tham lam gian trá
- Hai là tệ cường hào tàn ác hách dịch
- Ba là tệ hương lí lộng hành.
Trăm mối phiền nhiễu, dân không chịu nổi. Nhưng dù sao vẫn còn nhân đạo ít nhiều. Đến như người Pháp hiện nay thì coi dân ta như súc vật, trâu ngựa để buôn bán mà thôi. Xin hỏi các bậc cha anh, chú bác, con em dòng họ nước ta rằng: giặc Pháp thu dân ta mỗi người một năm phải nạp thuế công sưu hoặc 2 đồng, 3 đồng hoặc 4, 5 đồng thì so với một con trâu, con ngựa, con gà phải nạp bao nhiêu tiền hỏi có khác gì không? Than ôi! Người nước ta bị vắt kiệt đến hết cả mỡ màng, huyết mạch để cung đốn cho các ông Tây, bà đầm, chó Tây một năm biết mấy nghìn ức vạn. Tất cả vật gì có thể dùng để ăn uống được cũng đều phải có thuế. Bao nhiêu sự sinh sống gì cũng đều phải đóng thuế, bao nhiêu những nơi sinh hoạt, nơi nào cũng phải đóng thuế. Cho đến cái thân ta là do đất trời sinh thành, cha mẹ tổ tiên ta để lại: mỏi chân tay, hao tâm huyết để cung phụng, nuôi nấng bọn giặc Pháp mà rồi mỗi năm phải bỏ ra 4, 5 đồng bạc để chuộc tấm thân bảy thước của mình! Than ôi! Cái tấm thân ta! Thật chẳng bằng con trâu, con ngựa, con chó, con gà. Thật đáng thương thay! Thật đáng thương thay! Người nước ta bị giặc làm nhục đến thế mà còn không biết tự mình phấn kích lên là tại làm sao? Công sưu, thuế thân là những thứ thuế mà các nước trong địa cầu chẳng nước nào có cả, chỉ riêng có ở nước ta thôi. Người nước ta không phải gỗ, đá, đồng bùn mà sao cam chịu nhục hèn đến thế? Con thú kia khi khốn quẫn còn biết cắn mổ giương lông giương vuốt. Con sâu khi bị nhốt còn biết cách vươn mình tìm trốn thì con người phải biết tính sao đây để có ngày mở mày mở mặt?
Khi đã duy tân rồi về lâu dài phải trừ bỏ ngay những tệ phiền toái cũ kéo đến mấy triều vua trước, trước mắt phải sửa đổi, tẩy sạch hết phép chính trị hà khắc của người Pháp. Công sưu, thuế thân chẳng những không còn, mà tất cả những thứ thuế khác nữa đều phải xin nghị viện phê chuẩn. Việc thu các loại thuế, các khoản quyên tiền cứu trợ đều phải được nhân dân công nhận, coi đó là nghĩa vụ cần kíp để giúp đỡ cho công ích. Sau đó chính phủ mới được sức giấy xuống để trưng cầu ý của dân. Dân ta dù thiệt một đồng tiền, góp một hạt thóc đều vui vẻ thoải mái, xuất phát từ lòng yêu nước mà đóng góp hết sức nhiệt thành, không hề có một tí gì gọi là dã man cưỡng bức. Trời cao biển rộng ai ai cũng như thấy mình bay nhảy khôn cùng. Ngày ấm gió hòa, ai nấy đều vui vẻ, tự do nhảy múa. Chúng ta vui vẻ, có lợi đến thế, sướng biết chừng nào!
Hình luật nước ta trước kia, tay chân bị gông cùm, thân thể bị đè nén. Thân muốn động mà không dám động, miệng muốn nói mà không dám nói. Người tù khi ăn uống, thức ở so với con trâu ngựa, gà lợn không có gì khác biệt. Than ôi! Phàm đã là đồng bào ta đều là con em ta cả, ai mà không cùng chung cốt nhục với mình. Sự nhẫn nhục chịu cảnh khổ cực cũng không có lòng nào khác, việc xây dựng một đất nước, cũng đều không ngoài mục đích là được sinh ra và làm ăn trên đất nước của mình. Người nước ta ơi! Người nước ta ơi! Xin xem hình pháp sau khi duy tân.
Khi đã duy tân rồi thì trong cả nước không một người nào là không có lòng yêu nước, không một người nào là không phụng sự việc công, không một người nào là không thương yêu nhau, không một người nào là không phục tùng theo phép tắc văn minh. Như vậy, cần gì phải có những hình pháp lôi thôi nữa. Tuy nhiên, nếu không may mà có một vài người phạm tội, tất cũng phải xử lí theo khuôn khổ hình pháp văn minh. Trong thời đại duy tân, hình pháp cũng bắt chước theo các nước như Nhật Bản và Châu Á. Tại kinh đô lập ra một Viện Cảm hóa có viên tài phán ở đại học đứng ra phụ trách. Phàm những người phạm tội, lập ra cho họ một trường học riêng khiến cho họ khi vào học ở đó sẽ mở mang lương thiện, tu dưỡng tư cách của một người dân; lập một xưởng thợ riêng, khi họ vào học, tùy theo sở trường của từng người mà dạy họ các nghề ở đó để họ có đủ tư cách làm việc trong khuôn khổ cuộc sống, khiến họ không thể tái phạm lầm lỗi nữa. Lại đặt một người thẩm phán công minh, những nhà giáo hiền lành có trách nhiệm, hàng ngày vào nhà giam mà thuyết giáo những điều phải trái, khiến cho phạm nhân biết ăn năn hối cải. Đến khi hết hạn giam, họ cũng như người vô tội, mọi thứ dân quyền đều được bình đẳng. Khi đương bị giam thì họ là con em thụ giáo, khi ra khỏi nhà giam thì là dân một nước cùng làm những việc hay giỏi, tự do như ngọn gió xuân thổi khắp trong ngoài có bệnh tật gì rồi cũng được mạnh khỏe. Đến lúc bấy giờ dân ta chỉ còn biết trị hóa mà không hề biết gì đến hình pháp. Đau đớn bệnh tật nhờ thuốc trời mà chữa khỏi, lòng dữ như con cọp beo, chim cú nhờ có nước thánh mà bị tiêu tán hết. Chúng ta sinh sống đến thế, sướng biết chừng nào!
(Còn tiếp 1 kì)
Nguồn: Phan Bội Châu, Tân Việt Nam. Bản điện tử được thực hiện từ ấn bản của Cục Lưu trữ Nhà nước năm 1989, do Võ Văn Sạch dịch và chú thích, Đinh Xuân Lâm viết lời giới thiệu, tr. 19-28
[1] Dân số nước ta lúc đó có lẽ chỉ khoảng 25 triệu dân.
[2] Ở đây cụ Phan Bội Châu không nhắc tới nhà Thanh. Chúng tôi cũng chưa rõ vì lí do gì. Nhưng có thể do nhà Thanh chưa đặt được ách nô lệ trên nước ta, hoặc do Phan Bội Châu có ý tránh không đụng chạm đến Trung Quốc ở đó đang có nhiều người yêu nước Việt Nam hoạt động.
[3] Chỉ nước Thái Lan ngày nay
[4] Chỉ tên vua
[5] Chỉ bọn quan lại
[6] Chỉ người lính đánh thành
April 24, 2013
Để hiểu người Việt Nam
Phạm Thị Hoài
“Chính nơi đây Điện Hoàng Thiên Long có đầy đủ lý luận và thực tiễn minh triết được Bác Hồ giáng linh giáo hóa, giáo đời cho mỗi con người và toàn xã hội. Đây là con đường tâm linh cách mạng Hồ Chí Minh mở sáng cho muôn dân chúng ta hướng tới thực hiện.”
“Bác cải cách tâm linh vào một mối – Để nhân loại tiến tới Đại đồng – Khi Chúng ta đi theo đường tâm linh Chủ tịch Hồ Chí Minh thì Bác bảo dân ta phải thay đổi lô hương – Nên dùng bằng cát vàng đãi sạch – Phơi khô sàng lấy cát nhỏ bỏ vào trên lưng bát hương.”
“Nay hạ thần xin hoàn tất hồ sơ
Sao y bản chính lời thơ chuyển mơ thành sự thật
Vậy đầu người không trật
Mà chữ bật hành tinh
Nổi ứng là khắc linh
Chủ tịch Hồ Chí Minh cứu thế
Hồ Chí Minh là ban y tế
Nay Hoàng Thiên Long tiếp kế cứu trần”
Đó là một số đoạn trình bày Đạo Bác Hồ trên trang chủ của Điện Hoàng Thiên Long tại thôn Bài Lâm Hạ, xã Hồng Quang, Huyện Ứng Hòa, Hà Nội “do thầy Nguyễn Thị Điền làm chủ nhang”.
Đó là người Việt Nam, thế kỉ 21. Họ mong chờ cứu thế từ vị được tôn là cứu tinh của dân tộc.
PGS Nguyễn Lân Cường (ĐH Quốc gia Hà Nội), GS Hồ Tài Huệ Tâm (ĐH Harvard) và nhiều nhân vật danh giá khác từng là khách của nơi ấy; VTV đã làm hẳn một phóng sự điều tra đầy chia sẻ, ủng hộ.
Vậy mà bỗng nhiên báo Công an Nghệ An tung ra bài “Sự thật về một tà đạo” kêu gọi người dân cảnh giác và các cơ quan chức năng đấu tranh xử lí những kẻ “tự xưng là theo đạo Tâm linh Hồ Chí Minh vẽ ra nhiều chiêu bài mê hoặc, thần thánh hóa lãnh tụ để lôi kéo người dân tham gia”. Bài báo này tuy không còn tồn tại ở địa chỉ của báo, nhưng vừa được trang Info.net của Bộ Thông tin và Truyền thông đăng lại và một số trang khác đăng với tít “Sự thật về tà đạo Tâm linh Hồ Chí Minh”.
Ai đã thần thánh hóa lãnh tụ?
Liệu báo Quân đội Nhân dân có loạt bài vạch trần bản chất lừa bịp của “tà đạo Bác Hồ” không nhỉ? Sinh nhật “Bác” lại sắp đến rồi.
© 2013 pro&contra
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers

