Phạm Thị Hoài's Blog, page 33

August 27, 2013

Nhân bản

Phạm Thị Hoài


Trên Quân đội Nhân dân ngày 18-8-2013, trong bài mở đầu đợt phản công lời kêu gọi thành lập một đảng dân chủ xã hội của ông Lê Hiếu Đằng, một tác giả Trọng Đức nào đó lập luận như sau: “Trên thực tế, dân chủ không phụ thuộc vào chế độ độc đảng hay đa đảng mà nó phụ thuộc vào bản chất chế độ cầm quyền phục vụ giai cấp nào”. Hai ngày sau, một thạc sĩ Phạm Văn Thiết cũng phát biểu gần nguyên xi như vậy, cũng trên tờ báo này. Nhưng nguyên vẹn câu này thì đã được một PGS TS Nguyễn Mạnh Hưởng diễn đạt trong bài “Vì sao Việt Nam không cần đa đảng”, đăng trên trang tin của Đài Tiếng nói Việt Nam từ hơn hai năm trước, ngày 18-1-2011. Song đó cũng không phải là hồ sơ gốc của trị số tư tưởng này vì trước đó, ngày 8-8-2010 cũng trên Quân đội Nhân dân, một TS Lê Văn Bảo đã viết hệt như vậy trong bài “Dân chủ phụ thuộc vào bản chất đảng cầm quyền”, còn theo tường thuật của báo Công an Nhân dân ngày 03-6-2013 thì Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp cũng đưa ra kết luận như thế. Tài sản tuyên huấn của bộ máy tư tưởng chính thống ở Việt Nam hẳn là sở hữu trí tuệ tập thể, nhiều người có thể cùng là tác giả của một câu, giống nhau đến từng chữ.


Nhưng báo chí tuyên huấn còn có lệ nhân bản một người thành nhiều người. Bài “Dân chủ phụ thuộc vào lí tưởng và bản chất chính trị của đảng cầm quyền” được báo Nhân dân ngày 08-3-2013 giới thiệu là của một độc giả Mai Hoàng Kiên. Song Mai Hoàng Kiên cũng chính là độc giả Trung Thành với bài “Không ai có thể phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam!” đăng ngày 25-2-2013, là độc giả Tuyên Trần với bài “Quay đầu lại là bờ” đăng ngày 22-3-2013, là độc giả Tường Anh với bài “Vạch mặt những kẻ mạo danh“ đăng ngày 14-1-2013, là độc giả Trần Mai với bài “Từ hải ngoại nghĩ về các ‘nhà dân chủ’” đăng ngày 30-10-2012, là độc giả Hữu Đức[i] với bài “Vì sao, vì mục đích gì?” đăng ngày 13-11-2013 trên chính tờ báo này…, đồng thời là tác giả Trọng Linh với bài “37 năm bị bịt miệng trên xứ sở tự do” trên báo Công an Nhân dân ngày 27-3-2012 cũng như là Khánh Sơn của một Tạp chí Nhân quyền nào đó, và tất cả lại đều là một người, với bút danh Amari TX, xuất hiện gần đây nhất với bài “Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan” đăng ngày 22-8-2013 trên Nhân dân. Tất cả những thông tin này được Amari TX, tự giới thiệu là một người Việt ở Mỹ, trưng ra như thành tích trên blog cá nhân ít người biết đến của mình.


Bước ngoặt bất ngờ nhất của câu chuyện nhân bản dư luận viên này là mới đây, một blogger bỗng phát hiện ra rằng Amari TX tức Mai Hoàng Kiên tức Trung Thành tức Tuyên Trần tức Tường Anh tức Trần Mai tức Hữu Đức tức Trọng Linh tức Khánh Sơn ad libitum cũng chính là TS Hoàng Văn Lễ, nguyên Tổng Biên tập tạp chí Xây dựng Đảng. Điều này không có gì là hoang đường tới mức không thể tin nổi, rốt cuộc thì ông trùm tuyên huấn của chế độ, Hồ Chí Minh, đã đặt cả nền móng lẫn kỉ lục khó vượt qua cho chiến thuật phân thân và hóa thân bằng vô số bút hiệu. Nhưng tiếc rằng phát hiện nêu trên hơi quá vội. Phiếu xét nghiệm tư tưởng của ông TS Hoàng Văn Lễ sống ở Việt Nam trên Sài Gòn Giải phóng ngày 26-8-2013 cho thấy một nhóm trị số hoàn toàn khớp với phiếu của ông Việt kiều Amari TX sống ở Houston trên Nhân dân ngày 22-8-2013, song cũng hoàn toàn khớp với phiếu của ông PGS Trần Đình Huỳnh, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, trên Tạp chí Cộng sản số 844 từ tháng 2-2013. Bây giờ muốn thanh minh rằng mình không phải Amari TX thì ông Hoàng Văn Lễ chỉ có cách chứng minh rằng mình chính là Trần Đình Huỳnh. Tương tự như vậy, thạc sĩ Phạm Văn Thiết chỉ có thể thanh minh rằng mình không phải Amari TX bằng cách chứng minh rằng mình chính là TS Lê Văn Bảo. Huyết đồ tư tưởng giống hệt nhau của họ được biểu hiện chẳng hạn qua câu này: “Nói chung ở các nước tư bản, về hình thức, đa đảng chính trị đều ‘tự do’, ‘bình đẳng’ trong cuộc đấu tranh nghị trường và đều có khả năng trở thành đảng cầm quyền, nhưng trong thực tế chỉ có các đảng lớn, có thế lực mới có khả năng chiến thắng và bao giờ cũng có một đảng cầm quyền hoặc lãnh đạo, có khi kéo dài nhiều thập kỷ.” Who is Who phiên bản Việt ngữ.


Quả là không có điều quái gở nào mà con người còn chưa nghĩ ra lại xa lạ với guồng máy tuyên huấn Việt Nam. Trong những vụ nhân bản dư luận viên và nhân bản trị số tư tưởng này, tôi không biết điều gì đáng kinh hơn: sự giáo điều hay sự hạ cấp của luộm thuộm, cẩu thả, ngu ngốc, lười biếng, nhếch nhác. Mọi đối thoại không cùng đẳng cấp đều vô nghĩa. Ước gì những người chống giáo điều và thảo phạt tuyên huấn có được một đối thủ uyên bác, độc đáo, chân thực và một guồng máy tuyên huấn nghiêm túc, chuyên nghiệp.


© 2013 pro&contra




[i] Lời giới thiệu của báo Nhân dân cho bài viết của Hữu Đức, tức Trần Mai, xứng đáng được đưa vào giáo trình cho sinh viên báo chí, nguyên văn như sau: “Sau khi Báo Nhân Dân đăng bài Từ hải ngoại nhìn về “các nhà dân chủ” của tác giả Trần Mai gửi từ nước Mỹ, trên một số website và blog đã có ý kiến thực hiện theo lối cắt xén, suy diễn, để từ đó phản đối bài viết của Trần Mai và quy kết là “nhận định sai lầm nghiêm trọng… về quyền con người”, và lặp lại luận điệu cho rằng, Nhà nước đã đi ngược lại các tuyên ngôn, công ước quốc tế liên quan tới vấn đề nhân quyền mà Việt Nam đã ký kết! Bình luận về sự kiện này, cũng từ nước Mỹ, bạn đọc Hữu Ðức mới gửi tới tòa soạn bài Tôi thật sự không hiểu tại sao, vì mục đích gì?, xin giới thiệu cùng bạn đọc.”


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 27, 2013 06:37

August 25, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (6)

Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4, kì 5


CHƯƠNG II: Những hình thức tổ chức chính quyền


Sau khi đã phân tích từng cơ quan, vấn đề được đặt ra bây giờ là tìm xem đâu là những hình thức tổ chức chính quyền. Giữa các cơ quan – dù có phân chia nhiệm vụ riêng biệt chắc chắn phải có những mối tương quan. Những mối tương quan ấy được quan niệm và ấn định như thế nào?


Một cơ quan có quyền quyết định tối hậu, hay là mỗi cơ quan hoạt động một cách rời rạc, biệt lập; hay là giữa các cơ quan có một sự hơp tác, một thế quân bình bình? Một cách tổng quát, chúng ta có thể tìm thấy 3 đặc tính về mối tương quan ấy, 3 đặc tính được thể hiện qua ba chế độ, đó là:



Chế độ phân quyền
Chế độ hợp quyền
Chế độ tập quyền.

Mục I: CHẾ ĐỘ PHÂN QUYỀN


Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu nguyên tắc phân quyền và chế độ áp dụng nguyên tắc phân quyền: Tổng thống Chế.


Đoạn 1: NGUYÊN TẮC PHÂN QUYỀN


A. Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC


Thế nào là nguyên tắc phân quyền? Nói đến phân quyền là liên tưởng ngay đến một học giả trứ danh người Pháp, Ông Montesquieu, vào thế kỉ thứ 18, người đầu tiên nêu rõ tính cách quan trọng của sự phân quyền trong tổ chức chính trị của một quốc gia. Và đây là một đoạn trích trong kiệt tác của ông, Tinh thần luật pháp:


“Khi mà quyền lập pháp được sáp nhập với quyền hành pháp và tập trung vào trong một người hay một tập đoàn, thì sẽ không có tự do được: bởi vì người ta có thể sợ rằng chính nhà Vua hay Nghị viện ấy làm những đạo luật độc đoán để đem thi hành một cách độc đoán.


Sẽ không có tự do được nếu quyền xét xử không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền lập pháp, thì quyền đối với đời sống và tự do của công dân sẽ độc đoán, vì lẽ thẩm phán sẽ là nhà lập pháp. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền hành pháp, thẩm phán sẽ có sức mạnh của kẻ áp bức.”


Đoạn văn trên đây là tất cả một nhận định quan trọng của tác giả, nhận định sau bao kinh nghiệm, nghiên cứu các chế độ chính trị ở thời ông. Để đảm bảo tự do – vì mọi tổ chức chính quyền nhằm bảo đảm tự do chính trị – ông chủ trương rằng cần phải phân định các quyền ấy và thuyết phân quyền ra đời, tồn tại đến ngày nay.


Ý tưởng căn bản của nguyên tắc phân quyền là: sẽ không có tự do được nếu một trong những cơ quan đại diện quốc gia hành xử chủ quyền toàn vẹn.


Phân quyền là một kĩ thuật chính trị, một liều thuốc để bảo vệ tự do.


Chúng ta có thể định nghĩa nguyên tắc phân quyền bởi hai mệnh đề sau đây: một sự phân nhiệm giữa các cơ quan và một sự độc lập của mỗi cơ quan.


1. Sự phân nhiệm giữa các cơ quan


Thuyết phân quyền quan niệm rằng mỗi cơ quan đại diện quốc gia thi hành một nhiệm vụ, một quyền hạn và chỉ có nhiệm vụ và quyền hạn ấy mà thôi. Ví dụ cơ quan lập pháp chỉ có quyền lập pháp, chỉ có nhiệm vụ làm luật. Cơ quan hành pháp chỉ có quyền hành pháp, nghĩa là nhiệm vụ thi hành luật lệ. Cơ quan tài phán (tư pháp) chỉ có quyền tài phán, nhiệm vụ xét xử và áp dụng luật pháp. Đó là yếu tố thứ nhất, một sự phân nhiệm rõ rệt giữa các cơ quan công quyền.


2. Sự độc lập của mỗi cơ quan


Phân chia nhiệm vụ như thế, ấn định rõ ràng thẩm quyền của mỗi cơ quan, như thế cũng chưa đủ. Điều kiện thứ hai là mỗi cơ quan phải hoàn toàn độc lập. Nghĩa là giữa các cơ quan phải hoàn toàn độc lập. Nghĩa là giữa các cơ quan sẽ không có phương tiện hành động hỗ tương nào. Nghĩa là mỗi cơ quan không thể nào ảnh hưởng đến cơ quan khác. Ví dụ: Quốc hội sẽ không có quyền lực gì đối với Chính phủ; chỉ định các Tổng trưởng, chất vấn, tín nhiệm hay bất tín nhiệm v.v… Ngược lại, Chính phủ không quyền tham dự các cuộc thảo luận tại Quốc hội, không quyền ấn định các khóa họp hoặc là giải tán Quốc hội. Trái lại, có một sự cô lập hoàn toàn giữa các cơ quan có thẩm quyền trong lãnh vực chuyên môn của mình.


B. TÍNH CHẤT CỦA CÁC QUYỀN


Như chúng ta đã nói, ý tưởng cản bản của thuyết phân quyền là chia sẻ chủ quyền cho các cơ quan biệt lập. Nhưng vấn đề đặt ra là quyền nào và tính chất của mỗi quyền ra sao? Để có một ý niệm rõ rệt về thuyết phân quyền, chúng ta cần nhận định lại đâu là những quyền và tính chất thực sự của mỗi quyền.


1. Thường thường, trong những văn kiện cũng như trong thực tại chính trị, chúng ta chỉ nghe nói đến ba quyền: hành pháp, lập pháp và tư pháp (quyền tài phán). Mặc dù nguyên tắc tam quyền này được áp dụng một cách rộng rãi, chúng ta cần phải hiểu rằng nguyên tắc này không phải là một nguyên tắc bất di bất dịch. Trên phương diện lí thuyết, chúng ta có thể quan niệm 4 quyền, 5 quyền hay 6 quyền v.v… Tổng số về nhiệm vụ cũng như quyền lực không phải chỉ ấn định một lần rồi áp dụng mãi mãi. Bằng chứng là Hiến pháp Trung Hoa Dân quốc không theo nguyên tắc tam quyền mà lại ấn định Nguyên tắc Ngũ quyền.


Đó là nhận định thứ nhất. Mặc dù nguyên tắc tam quyền là nguyên tắc cổ điển, nhưng không phải bất di bất dịch mà chúng ta, tùy theo hoàn cảnh chính trị, có thể quan niệm một cách khác được.


2. Nhận định thứ hai liên quan đến quyền lập hiến 


Thường thường quyền này không được xem như một quyền trong thuyết phân quyền. Sở dĩ như thế, vì thuyết phân quyền nhằm litán chủ quyền ra nhiều lĩnh vực, trong lúc ấy quyền lập hiến chính là chủ quyền, một quyền tối cao và nguyên thủy. Vì quyền lập hiến là chủ quyền – còn thuyết phân quyền chỉ nghĩ đến những quyền được thiết lập, nên quyền lập hiến không phải là một quyền trong thuyết phân quyền. Tuy nhiên, khi mà quyền lập hiến được sử dụng để sửa đổi Hiến pháp, quyền lập hiến không còn là một quyền nguyên thủy nữa mà trở thành một quyền được ấn định bởi Hiến pháp. Nói một cách khác, quyền lập hiến, khi sử dụng để sửa đổi Hiến pháp, là quyền lập hiến về phương diện hiệu lực, nhưng đồng thời là một quyền được thiết lập về phương diện điều kiện thi hành. Vì chính Hiến pháp đã ấn định thể thức, thời hạn cũng như thủ tục để sử dụng quyền sửa đổi. Vì thế, trong một Hiến pháp cương tính, nếu nguyên tắc phân quyền được áp dụng, cần phải lưu ý đến quyền sửa đổi tức là quyền lập hiến (không còn nguyên thủy nữa).


3. Nhận định thứ ba liên quan đến quyền hành pháp


Hành pháp tức là thi hành pháp luật. Từ ngữ “Hành pháp” là một từ ngữ cổ điển, rất thông dụng. Tuy nhiên nó không đúng lắm và không diễn tả tất cả những hoạt động của Chính phủ. Chính phủ không phải chỉ biết thi hành luật lệ mà còn đặt và giải quyết tất cả các vấn đề hành chính nội bộ cùng điều khiển tất cả các công việc ngoại giao. Đối nội cũng như đối ngoại, Chính phủ không phải chỉ chờ chỉ thị hoặc tuân theo mệnh lệnh mà còn lắm lúc đặt những luật lệ nghĩa là ấn định những quy tắc có tính cách tổng quát. Nói cho đúng hơn quyền Hành pháp là quyền thống trị. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy – từ ngữ quyền hành pháp đã được thông dụng. Vậy, chúng ta tiếp tục dùng nhưng khi dùng nên ý thức rõ vai trò của cơ quan Hành pháp.


4. Nhận định thứ tư liên quan đến quyền tài phán. Tức là quyền phán đoán để chế tài. Quyền xét xử, tức áp dụng luật pháp vào một trường hợp cụ thể. Hiểu như thế, thì quyền tài phán chỉ là một ngành của quyền Hành pháp. Vì áp dụng luật pháp chung quy là thi hành luật pháp. Nhưng khẳng định rằng quyền tài phán là một ngành của hành pháp chỉ có giá trị khi mà quyền hành pháp chỉ có nhiệm vụ thi hành pháp luật và khi mà nguyên tắc phân quyền là một nguyên tắc khoa học và hợp lí.


Chúng ta vừa thấy quyền hành pháp đi xa hơn nhiệm vụ thi hành luật pháp. Và chúng ta đã thấy nguyên tắc phân quyền không phải là một nguyên tắc khoa học, hợp lí, mà trái lại là một kĩthuật chính trị, liều thuốc bảo vệ tự do. Nhìn dưới khía cạnh này thì trong một chế độ dân chủ, khi nói đến cơ quan tài phán, cần phải nhận định ngay rằng sự phục tùng luật pháp và sự độc lập chính trị của thẩm phán là điều kiện tối cần cho tự do của công dân. Trong một chế độ phân quyền, khi mà luật lệ đã được Quốc hội, nghĩa là cơ quan đại diện nhân dân biểu quyết, thì thẩm phán phải và chỉ biết vâng lời luật pháp chứ không phải tuân lệnh của dân biểu hay Tổng thống, tóm lại của chính quyền. Chính ý tưởng căn bản này là nền tảng của quyền tài phán.


Đoạn 2: TỔNG THỐNG CHẾ: CHẾ ĐỘ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC PHÂN QUYỀN


Tổng thống Chế là một chế độ điển hình áp dụng nguyên tắc phân quyền một cách cứng rắn. Tổng thống Chế được áp dụng trong rất nhiều quốc gia, nhất là Hoa Kỳ, quốc gia đã khai sinh ra nó, ở Nam Mỹ, Việt Nam – từ 1956-1963 cũng có một Hiến pháp theo chế độ Tổng thống.


Qua những điểm dị biệt có thể có giữa chế độ Tổng thống của các quốc gia, chúng ta có thể nói rằng về đại cương các chế độ Tổng thống đều giống nhau. Chúng ta lần lượt trình bày những đặc tính của chế độ Tổng thống – chúng ta sẽ lấy trường hợp của Hoa Kỳ làm thí dụ – và những nhận xét về chế độ này.


A. ĐẶC TÍNH CỦA TỔNG THỐNG CHẾ


Nói đến Tổng thống chế là liên tưởng đến một chế độ trong ấy nguyên tắc phân quyền được áp dụng rõ rệt. Hành pháp và Lập pháp hoàn toàn độc lập.


1. Sự độc lập của Hành pháp



Hành pháp do một vị Tổng thống dân cử chỉ huy và gồm một số Bộ trưởng được lựa chọn bởi Tổng thống.
Tổng thống do dân bầu thẳng chỉ có trách nhiệm trước quốc dân. Khi hết nhiệm kì, quốc dân sẽ bầu lại đương kim Tổng thống hoặc bầu vị Tổng thống khác. Tổng thống không có trách nhiệm trước Quốc hội, như thế có nghĩa là Quốc hội không thể biểu quyết bất tín nhiệm Tổng thống và lật đổ Chính phủ.
Các Bộ trưởng do Tổng thống chọn lựa là những cộng sự viên của Tổng thống. Họ có bổn phận thi hành những quyết định về chính sách định đoạt bởi Tổng thống. Họ chỉ chịu trách nhiệm với Tổng thống. Tóm lại quyền hành tập trung trong tay Tổng thống, ưu thế của Tổng thống đối với các Bộ trưởng là một đặc điểm của chế độ Tổng thống. Người ta kể chuyện rằng trong một Hội đồng Bộ trưởng, Tổng thống Lincoln có thốt ra một câu như thế này: ”Bẩy phiếu thuận, một phiếu không. Nhưng phiếu không vẫn thắng”. Phiếu không đó chính là phiếu của Tổng thống.

Có ưu thế đối với Bộ trưởng, Tổng thống vì được toàn dân tín nhiệm, rất có uy tín chính trị và hoàn toàn độc lập đối với Quốc hội.


2. Sự độc lập của Lập pháp


Trước một quyền Hành pháp vững mạnh như thế lẽ dĩ nhiên quyền Lập pháp cũng không kém độc lập. Sự độc lập của lập pháp được thể hiện qua những quy tắc sau đây:



Tổng thống không có quyền kết thúc các khóa họp của Quốc hội, không quyền giải tán Quốc hội.
Tổng thống không có sáng kiến Lập pháp, Tổng thống có thể nhắc Quốc hội qua những thông điệp, lưu ý đến những biện pháp Lập pháp mà theo ông là tối cần, chứ ông không đề nghị dự án luật. Tổng thống cũng không quyền đề nghị ngân sách.

3. Tuy nhiên, sự phân quyền không phải tuyệt đối


Hiến pháp Hoa Kỳ, mặc dù áp dụng nguyên tắc phân quyền, cũng ấn định vài biệt lệ ví dụ như:



Quyền phủ quyết của Tổng thống: sau khi Quốc hội biểu quyết một đạo luật, Tổng thống có thể – nếu ông xét rằng đạo luật ấy không hay – dùng quyền phủ quyết từ chối không ban hành và yêu cầu Quốc hội phúc nghị lại. Xuyên qua quyền phủ quyết, Hành pháp tham gia một phần nào những công tác Lập pháp.
Quyền chấp thuận của Thượng Nghị viện về những bổ nhiệm quan trọng và các Hiệp ước Quốc tế. Khi Tổng thống bổ nhiệm công chức cao cấp hay đại sứ, sự bổ nhiệm ấy cần phải được sự đồng ý trong Nghị viện. Các Hiệp ước Quốc tế chỉ có hiệu lực, sau khi Thượng Nghị viện phê chuẩn với đa số 2/3.

B. NHẬN XÉT VỀ TỔNG THỐNG CHẾ


Chế độ Tổng thống do người Mỹ sáng chế từ năm 1787 tại Hội nghị Philadelphia khi thành lập Hiệp Chúng quốc, là một thành công rực rỡ trong suốt gần hai thế kỉ nay. Tuy nhiên, chế độ này là một thất bại ở nhiều nước Nam Mỹ, và Á-Phi. Lí do là chế độ chính trị là một chuyện vì nó chỉ là một khung cảnh chính trị, còn quốc gia trong ấy một chế độ được áp dụng là một chuyện khác nữa.


1. Khi chúng ta nói đến Hoa Kỳ, chúng ta không nên quên rằng Hoa Kỳ là một nước giàu, đất rộng. Chính sự giàu có và sự rộng rãi đất đai ấy đã giải quyết nhiều vấn đề quan trọng. Hơn nữa những quyền lực của Tổng thống được sử dụng trong khung cảnh Liên bang: Chính sự tự trị của mỗi Tiểu bang là một giới hạn của quyền lực mạnh mẽ của Tổng thống Mỹ.


2. Nhận xét thứ hai liên hệ đến hệ thống chính đảng.


Vấn đề là mối liên quan giữa Tổng thống Chế và hệ thống chính đảng. Như chúng ta đã biết sự hiện diện và sự phát triển của chính đảng ảnh hưởng sâu rộng đến cơ cấu chính trị của một quốc gia. Chế độ phân quyền cũng bị ảnh hưởng không kém bởi hệ thống chính đảng. Nếu chúng ta gạt ra trường hợp một chính đảng duy nhất trong một chế độ Tổng thống – vì ở đây không có Tổng thống Chế mà chế độ độc tài – còn lại hai trường hợp mà chúng ta cần xét: đó là trường hợp lưỡng đảng và đa đảng.


a. Tổng thống Chế và hệ thống lưỡng đảng: Hệ thống lưỡng đảng: trong ấy chỉ có hai đảng chính tranh đấu nắm chính quyền (Anh, Mỹ, Đức v.v…) tùy theo kết quả một trong hai chính đảng chiếm đa số tại Quốc hội. Nếu có một hệ thống lưỡng đảng trong một chế độ Tổng thống, có hai trường hợp mà chúng ta phải xét: hoặc Tổng thống và đa số ở Quốc hội cùng chung một đảng, hoặc Tổng thống và đa số ở Quốc hội thuộc về hai chính đảng khác nhau.


Trường hợp thứ nhất: hệ thống lưỡng đảng làm giảm bớt giá trị của nguyên tắc phân quyền giữa Tổng thống và Quốc hội, mối liên hệ chắc chắn là tốt đẹp và dễ dàng, lẽ dĩ nhiên, tùy theo mức độ kỉ luật của chính đảng. Tổng thống thường thường là vị lãnh tụ của khối đa số, với uy tín chắc chắn đó, ông có thể hướng Quốc hội về một chính sách hay biểu quyết các đạo luật mà ông thích. Mặc dù trên phương diện Hiến pháp, nguyên tắc áp dụng là nguyên tắc phân quyền, nhưng thực ra có một sự tập quyền vì Tổng thống và khối đa số chỉ là hai cơ quan của một chính đảng. Như thế, không có nghĩa là có thể đi đến độc tài: vì thiểu số vẫn tiếp tục đóng vai trò kiểm soát chỉ trích tại Quốc hội. Sự tập trung quyền hành không đến nỗi hoàn toàn.


Trường hợp thứ hai: Tổng thống và đa số Quốc hội thuộc về hai chính đảng khác nhau. Sự kiện này đưa đến một hậu quả là nguyên tắc phân quyền sẽ được áp dụng một cách cứng rắn. Vì không những thế, hai cơ quan công quyền sẽ bị cô lập mà còn thêm vào đấy sự cạnh tranh giữa hai chính đảng. Cuộc tranh luận Hành pháp và Lập pháp trở thành một cuộc tranh luận giữa hai chính đảng chống đối nhau.


b. Tổng thống Chế và hệ thống đa đảng: chế độ có nhiều chính đảng: trường hợp Pháp quốc, Ý Đại Lợi, Việt Nam [i] v.v…Trong một hệ thống như thế rất khó mà một chính đảng nắm đa số ở Quốc hội. Nếu rủi mà có đi nữa, thì đó là trường hợp lưỡng đảng rồi.


Thường thường không có chính đảng nào chiếm đa số tại Quốc hội và trong trường hợp này mỗi biểu quyết quan trọng gì cũng cần phải có một sự thỏa hiệp của nhiều chính đảng. Tổng thống không thể dựa vào chính đảng của ông vì chính đảng của ông chỉ là một phần tử của đa số. Nguyên tắc phân quyền không bị ảnh hưởng gì cả. Tuy nhiên trong thực tế sẽ xẩy ra khuynh hướng này, đó là khuynh hướng tăng cường uy lực của Hành pháp. Thật vậy, Quốc hội không còn là tiếng nói của nhân dân vì nội bộ Quốc hội lúng túng bị chia năm xẻ bảy. Hay nói cho đúng hơn không một chính đảng nào tại Quốc hội có thể nhân danh quốc gia để phát biểu vì không một chính đảng nào chiếm đa số của nhân dân. Trong lúc đó Tổng thống là một người thực sự là đại diện của nhân dân vì chính ông đã được bầu với đa số. Và ưu thế đó, ông chỉ có thực với tư cách cá nhân chứ không phải lãnh tụ của một chính đảng. Trong tình trạng này có nhiều hi vọng rằng Tổng thống có thể đi đến độc tài. Lẽ dĩ nhiên, hiểm họa này có thể tránh được trong những quốc gia mà lí tưởng dân chủ tự do được thấm nhuần và dư luận luôn luôn đề cao cảnh giác.


Ngược lại, trong một hệ thống đa đảng Tổng thống Chế bảo đảm một chính quyền vững mạnh, ổn định và liên tục.


Mục II: CHẾ ĐỘ HỢP QUYỀN


Đoạn 1: KHÁI NIỆM HỢP QUYỀN


Thế nào là hợp quyền? Tức là hợp tác, cộng tác của các quyền lực. Khái niệm hợp quyền dựa trên ba ý tưởng chính: một sự phân nhiệm, một sự cộng tác trong nhiệm vụ và một sự lệ thuộc hỗ tương giữa các cơ quan.


A. MỘT SỰ PHÂN NHIỆM


Cũng như trong thuyết phân quyền, và trái với chế độ tập quyền, muốn có hợp quyền thì phải có phân nhiệm. Các cơ quan công quyền chỉ có thể hợp tác với nhau với điều kiện là được chia nhiệm vụ rõ rệt. Mỗi cơ quan được giao phó một nhiệm vụ nhất định và có thẩm quyền thi hành một nhiệm vụ chuyên môn nhất định.


B. MỘT SỰ CỘNG TÁC TRONG NHIỆM VỤ


Về ý tưởng thứ nhất này, có một điểm tương đồng giữa phân quyền và hợp quyền. Nhưng ở đây, mặc dù trên nguyên tắc mỗi cơ quan có thẩm quyền sẽ giữ một nhiệm vụ nhất định, có những trường hợp mà một cơ quan này có thể tham gia vào những hoạt động mà một cơ quan thi hành một nhiệm vụ không phải nhiệm vụ chuyên môn của nó. Sự cộng tác này có thể được thực hiện trong hai trường hợp: trường hợp một cơ quan này lấn vào lãnh vực cơ quan khác và trường hợp các cơ quan cộng tác với nhau để cùng thi hành một nhiệm vụ, để cùng soạn thảo hay ấn định một hành vi.


1. Ví dụ: Hành pháp ấn định quy tắc: đó là hành vi có tính cách pháp chế. Lập pháp xen vào lĩnh vực Hành pháp khi cơ quan này chấp thuận các Hiệp ước quốc tế.


2. Việc soạn thảo luật pháp; sáng kiến; ban hành, phủ quyết của hành pháp.


C. SỰ LỆ THUỘC HỖ TƯƠNG GIỮA CÁC CƠ QUAN


Hợp quyền có nghĩa không những các cơ quan cộng tác để thi hành nhiệm vụ mà còn có nghĩa là mỗi cơ quan không hoàn toàn biệt lập. Giữa các cơ quan có một sự lệ thuộc hỗ tương, nghĩa là mỗi cơ quan có những phương tiện để ảnh hưởng đến cơ quan khác, để kiểm soát cơ quan khác:


Ví dụ như khi Hành pháp giải tán Quốc hội cũng như khi Quốc hội bất tín nhiệm và lật đổ Chính phủ.


Tóm lại một sự phân nhiệm, một sự cộng tác trong nhiệm vụ và một sự lệ thuộc hỗ tương giữa các cơ quan, đó là những yếu tố chính của khái niệm hợp quyền.


Đoạn 2: CHẾ ĐỘ NGHỊ VIỆN HAY NỘI CÁC CHẾ


Chế độ Nghị viện là chế độ chính trị trong ấy nguyên tắc hợp quyền được áp dụng. Đây là một chế độ của nhiều quốc gia dân chủ trên thế giới ngày nay và tại Việt Nam sau ngày cách mạng đến giờ, chế độ Nghị viện rất được nhiều người đề cập đến.


Chúng ta sẽ lần lượt trình bày những đặc tính của chế độ Nghị viện và nguồn gốc của chế độ này:


A. Những đặc tính của chế độ Nghị viện


Chế độ Nghị viện có 3 đặc điểm liên hệ đến cách cấu tạo các cơ quan quốc gia, đến thẩm quyền cùng mối tương quan giữa các cơ quan ấy.


1. Cách cấu tạo các cơ quan quốc gia 


Trước nhất Hành pháp, trong chế độ Nghị viện, là một Hành pháp lưỡng đầu; nghĩa là Hành pháp gồm có một Quốc trưởng và một Thủ tướng Chính phủ. Quốc trưởng là một nhân vật ít quyền hành; vô trách nhiệm và có tính cách ổn định. Quốc trưởng không phải như chế độ Tổng thống, do nhân dân bầu bởi một cuộc phổ thông đầu phiếu, mà trái lại có thể là một Quốc vương hay chính do Quốc hội đề cử. Quốc trưởng là một nhân vật vô trách nhiệm về phương diện chính trị, vì ông không có một chính sách riêng tư mà trái lại chấp nhận chính sách của Chính phủ. Vì thế những văn kiện do Quốc trưởng kí đều phải có Thủ tướng hoặc một Tổng trưởng phó thự để các vị này chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Tóm lại vai trò của Quốc trưởng rất lu mờ. Ngoài tính cách tượng trưng cho sự liên tục của Quốc gia, nhiệm vụ của Quốc trưởng có thể tóm tắt như sau: quyền hiểu biết, quyền khích lệ quyền cảnh cáo.


Với quyền hiểu biết, vị Quốc trưởng luôn luôn phải được Thủ tướng tường trình đường lối, chính sách của Chính phủ cùng tất cả sự kiện liên hệ đến vận mệnh Quốc gia. Với quyền khích lệ, Quốc trưởng có thể khuyến khích, nâng đỡ, ủng hộ Thủ tướng và Nội các trong việc thi hành chính sách Quốc gia đã được Quốc hội chấp thuận. Và với quyền cảnh cáo, Quốc trưởng lưu ý Chính phủ những khó khăn, sai lầm cùng những hậu quả tai hại mà chính sách của Chính phủ có thể đem lại cho Quốc gia.


Ngoài vị Quốc trưởng ra, tất cả các Tổng trưởng họp lại thành một Nội các dưới quyền điều khiển của một Thủ tướng Chính phủ. Chính Nội các là cơ quan đầu não, cơ quan quyết định về phương diện chính trị. Thủ tướng Chính phủ không phải có toàn quyền. Vai trò quan trọng và quyền hạn của ông tùy thuộc uy tín và thế lực chính trị của ông. Chính các Tổng trưởng cùng chung tham dự việc ấn định chính sách của Chính phủ. Trong trường hợp bất đồng ý kiến trong Hội đồng Nội các, Thủ tướng phải lấy biểu quyết và phục tùng ý kiến của đa số. Tóm lại một Quốc trưởng và một Nội các dưới quyền điều khiển của một Thủ tướng: đó là cơ cấu của Hành pháp. Cần phải nhấn mạnh thêm rằng Thủ tướng chính phủ được đề cử bởi vị Quốc trưởng vô trách nhiệm chứ không phải do nhân dân.


Song song với một Hành pháp lưỡng đầu, trong chế độ Nghị viện, người ta thường thấy một Lập pháp lưỡng viện. Lẽ dĩ nhiên, một Quốc hội lưỡng viện không phải là hậu quả tất nhiên của chế độ Nghị viện. Tuy nhiên trong thực tế, người ta khó mà quan niệm một chế độ Nghị viện với một Lập pháp độc viện. Vì rằng với một viện duy nhất, Hành pháp có thể dễ dàng trở thành kẻ thừa hành của Lập pháp trong lúc đó chế độ lưỡng viện bảo vệ một phần nào nguyên tắc phân nhiệm và tránh khuynh hướng đi đến một chế độ Hội đồng. Bởi thế với một Hành pháp lưỡng đầu có một Lập pháp lưỡng viện.


Hành pháp lưỡng đầu, Lập pháp lưỡng viện đó là đặc điểm thứ nhất của chế độ Nghị viện liên quan đến cơ cấu quốc gia.


2. Thẩm quyền của các cơ quan


Trong chế độ Nghị viện, thẩm quyền của các cơ quan được phân phối một cách mềm dẻo. Ví dụ: quyền Lập pháp là quyền của Quốc hội. Nhưng Hành pháp có thể tham dự vào lĩnh vực này như Chính phủ có sáng quyền Lập pháp, như Quốc trưởng ban hành các đạo luật: Về phương diện ngân sách cũng vậy. Vẫn biết rằng chính Quốc hội biểu quyết ngân sách, nhưng Chính phủ có một vai trò không kém quan trọng khi đề nghị chi tiêu hay là soạn thảo cùng thảo luận về đạo luật ngân sách.


Ngược lại, trong lĩnh vực hành chính hay ngoại giao thuộc thẩm quyền Hành pháp, trong nhiều trường hợp Quốc hội có tiếng nói của họ như phê chuẩn các Hiệp ước Quốc tế hay theo dõi và kiểm soát chính sách chung của Chính phủ.


Đó là đặc điểm thứ hai liên hệ đến thẩm quyền.


3. Mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp


Và đây là đặc điểm chính yếu nhất của chế độ Nghị viện. Trong chế độ này, Chính phủ và Quốc hội không phải mỗi người đi một ngả như trong chế độ Tổng thống. Cũng không phải Chính phủ chỉ là thừa hành của Quốc hội như trong chế độ tập quyền. Ở đây, có một sự đối thoại không ngừng, một sự ảnh hưởng hỗ tương giữa Chính phủ và Quốc hội.


a. Cuộc đối thoại này, sự ảnh hưởng hỗ tương này được thể hiện bởi một nguyên tắc căn bản: đó là nguyên tắc trách nhiệm chính trị của Nội các trước Quốc hội. Thật vậy trong chế độ Nghị viện, Chính phủ chỉ có thể tồn tại (cầm quyền) với sự tín nhiệm của đa số Quốc hội và các Tổng trưởng trong Nội các liên đới chịu trách nhiệm về chính sách chung của Chính phủ. Liên đới trách nhiệm có nghĩa là khi Quốc hội tỏ ý bất tín nhiệm Chính phủ, toàn thể Nội các phải từ chức. Đây là một quyền tối quan trọng của Quốc hội trong chế độ Nghị viện: quyền lật đổ Nội các bằng cách biểu quyết một kiến nghị bất tín nhiệm hay kết thúc một cuộc chất vấn.


Tóm lại, đến một lúc nào và bất cứ lúc nào, Quốc hội tỏ ý không tín nhiệm Chính phủ nữa – sự bất tín nhiệm này có thể được biểu lộ bởi nhiều hình thức khác nhau (bất đồng ý kiến về một đường lối ngoại giao, không biểu quyết được dự án luật do Chính phủ đệ trình, tiếp tục thảo luận một vấn đề mà Chính phủ đề nghị hoãn lại v.v…) thì Chính phủ không thể và không còn lí do tồn tại nữa. Quyền lật đổ Nội các là phương tiện quan trọng nhất của Quốc hội để ảnh hưởng đến Chính phủ.


b. Ngược lại, Chính phủ cũng có một số phương tiện dễ ảnh hưởng đến Quốc hội.


Phương tiện thứ nhất là quyền ăn nói của Chính phủ tại Quốc hội. Thủ tướng và các Tổng trưởng có quyền đến Quốc hội tham dự vào các cuộc thảo luận, để giải thích, bênh vực quan điểm hay chính sách của Chính phủ.


Phương tiện thứ hai là quyền đặt vấn đề tín nhiệm. Đây là một quyền tối quan trọng trong tay Chính phủ. Quyền đặt vấn đề tín nhiệm được sử dụng trong trường hợp như thế này, Chính phủ cho Quốc hội hay rằng, cảnh cáo Quốc hội rằng về vấn đề này chúng tôi đặt vấn đề tín nhiệm, nghĩa là nếu Quốc hội không biểu quyết đạo luật này, ngân sách này, chi phí này, đình chỉ cuộc thảo luận v.v… toàn thể Chính phủ sẽ xin từ chức.


Quyền đặt vấn đề tín nhiệm là áp lực mạnh mẽ đối với Quốc hội. Mạnh mẽ vì khi vấn đề tín nhiệm được đặt ra, thì then chốt không còn là nội dung của một đạo luật hay tính cách ích lợi của một chi phí mà trái lại là một sự khủng hoảng chính trị có thể xẩy ra. Quốc hội sẽ phải nghĩ ngợi nhiều trước khi biểu quyết.


Biểu quyết không chấp thuận cái mà Chính phủ đòi hỏi, là đồng thời lật đổ Chính phủ, và gây một khủng hoảng chính trị. Trái lại biểu quyết tín nhiệm, Chính phủ tồn tại và đồng thời cái mà Chính phủ đòi hỏi được xem như chấp thuận bởi Quốc hội.


Phương tiện thứ ba là quyền giải tán Quốc hội, có thể nói là quyền tương xứng với quyền lật đổ Nội các của Quốc hội. Giải tán Quốc hội để kết thúc một cuộc tranh chấp giữa Hành pháp và Lập pháp và giao cho quốc dân làm trọng tài. Thật vậy, nếu Quốc hội sử dụng quyền lật đổ Nội các một cách vô ý thức, nghĩa là bất tín nhiệm Chính phủ này đến Chính phủ khác, gây ra những cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng và hậu quả là sự bất ổn định và bất liên tục của sinh hoạt chính trị, chắc chắn là bất lợi cho Quốc gia, Chính phủ có quyền giải tán Quốc hội và yêu cầu quốc dân bầu lại một Quốc hội mới.


Đây là một quyền tối quan trọng giao cho Hành pháp mà đặc điểm là giải tán một cơ quan đại diện nhân dân, nên để cho quyền này được sử dụng một cách thận trọng, các Hiến pháp thường ấn định điều kiện chặt chẽ cho việc sử dụng quyền này. Dù sao, quyền giải tán Quốc hội là một phương tiện quan trọng của Hành pháp để ảnh hưởng đến Lập pháp. Thật vậy, Chính phủ có thể chỉ dọa giải tán cũng đủ làm cho Quốc hội thay đổi thái độ và trở nên hòa hoãn hơn.


Tóm lại qua những phương tiện hoạt động hỗ tương, chúng ta thấy rằng tinh túy của chế độ Nghị viện là thực hiện và duy trì một thế quân bình giữa cơ quan công quyền. Người ta thường hình dung chế độ Nghị viện bằng một cái cân: một bên là Nội các; một bên là Quốc hội. Người đứng giữa là Quốc trưởng. Quốc trưởng, một nhân vật có uy tín đối với quốc dân, không trực tiếp có trách nhiệm chính trị, giữ vai trò điều hòa bộ máy của chế độ Nghị viện.


B. Nguồn gốc của chế độ Nghị viện 


Chế độ Nghị viện mà chúng ta vừa phác họa những đặc điểm – không phải là sáng tác của một lí thuyết gia nào mà trái lại là một kết tinh của một sự thực hành chính trị liên quan đến lịch sử biến chuyển của Anh Quốc.


Từ thế kỉ 13 đến thế kỉ 18, các yếu tố của chế độ Nghị viện lần lượt được tạo thành bởi sự ngẫu nhiên của lịch sử.


Thật vậy, thời xưa ở nước Anh cũng như ở bao nhiêu chế độ quân chủ khác, Quốc vương thường bàn việc nước với một số cố vấn do chính Quốc vương chỉ định và có nhiệm vụ cứu xét các vấn đề quốc sự.


Ủy ban hay Hội đồng Cố vấn này gồm một số quân thần mà chính Quốc vương tự do chọn lựa. Nhưng sau cuộc Cách mạng 1688, Quốc hội Anh Quốc có ưu thế và bắt buộc nhà Vua phải chọn một số cố vấn trong các Nghị viện có thế lực và thuộc khối đa số tại Quốc hội. Nội các bắt đầu thành hình từ ngày ấy.


Yếu tố thứ hai của chế độ Nghị viện là Hành pháp lưỡng đầu cũng bắt nguồn từ một sự kiện lịch sử. Nguyên do là vào đầu thế kỉ 18, Quốc vương nước Anh là một vị thuộc dòng Hannover, người nước Đức. Vốn không biết tiếng Anh, nhà Vua không quan tâm đến việc triều đình, và giao phó quyền quyết định cho các Tổng trưởng của mình. Quốc vương cũng không tới dự phiên họp của Hội đồng Tổng trưởng và để một trong những Tổng trưởng có uy tín chủ tọa. Tình trạng này kéo dài và biến thành một tập tục được tôn trọng. Các Tổng trưởng dưới quyền điều khiển của một Thủ tướng đã nắm giữ quyền Hành pháp.


Yếu tố thứ ba – được cấu tạo bởi một nguyên nhân của lịch sử là trách nhiệm chính trị của các Tổng trưởng. Trách nhiệm chính trị bắt nguồn từ một thủ tục. Nguyên do là các Tổng trưởng không có trách nhiệm chính trị trước Quốc hội mà chỉ có trách nhiệm hình sự, nghĩa là nếu một vị Tổng trưởng can tội tiểu hình thì Viện thứ dân buộc tội và Viện Quý tộc kết tội. Thủ tục này (impeachment) có thể đưa đến những hình phạt nặng nề như tử hình hay tù đày.


Để khỏi bị truy tố, các Tổng trưởng trong trường hợp tranh chấp trầm trọng với Quốc hội, có thể xin từ chức. Trách nhiệm hình sự trở thành trách nhiệm chính trị và tập tục này đã trở thành một nguyên tắc căn bản của chế độ Nghị viện là nguyên tắc trách nhiệm chính trị của Tổng trưởng trước Quốc hội.


Tóm lại, tất cả những yếu tố tạo thành chế độ Nghị viện được xuất hiện lần lượt xuyên qua những biến chuyển của lịch sử chính trị Anh Quốc. Ngày nay chế độ Nghị viện – một chế độ áp dụng nguyên tắc hợp quyền – được hợp lí hóa và áp dụng trong nhiều nước dân chủ trên thế giới.


Mục III: CHẾ ĐỘ TẬP QUYỀN


Có tập quyền là khi nào các nhiệm vụ quốc gia (Hành pháp, Lập pháp, Tài phán) được giao phó cho một cơ quan duy nhất, hoặc chính cơ quan này nắm quyền quyết định thật sự và một cách gián tiếp chi phối các cơ quan khác trở thành lệ thuộc. Tập quyền có thể được thực hiện một cách tuyệt đối hay tương đối.


Tuyệt đối là khi nào trong một quốc gia chỉ có một cơ quan chính trị còn tất cả cơ quan khác đều có tính cách hành chính.


Tương đối là khi nào mối tương quan giữa các cơ quan công quyền được ấn định thế nào mà rốt cuộc chỉ một cơ quan có thực quyền quyết định. Chúng ta nhìn thấy một số cơ quan và mỗi cơ quan có một nhiệm vụ rõ rệt. Tuy nhiên đó chỉ là bề ngoài: thật sự một cơ quan nắm toàn quyền lãnh đạo.


Đoạn 1: NHỮNG HÌNH THỨC TẬP QUYỀN CỔ ĐIỂN


Tập quyền có thể được thực hiện hoặc nghiêng về Hành pháp hoặc nghiêng về Lập pháp.


A. CÓ LỢI CHO HÀNH PHÁP


a. Chế độ quân chủ chuyên chế


Như chúng ta đã biết trong chế độ quân chủ, nhà Vua nắm tất cả quyền hành. Nếu có Nghị viện hay Tòa án thì các cơ quan này chỉ là những cơ quan thừa hành mệnh lệnh của Thiên tử mà thôi. Tất cả các nhiệm vụ trong quốc gia đều được tập trung vào tay nhà Vua: chế độ quân chủ chuyên chế là chế độ điển hình về phương diện tập quyền.


b. Chế độ độc tài


Trong chế độ này, vị chỉ huy Hành pháp là vị lãnh tụ tối cao, là người thật sự có quyền quyết định. Thường thường chúng ta thấy có một sự phân chia nhiệm vụ giữa cơ quan khác nhau, nhưng những cơ quan này hoàn toàn lệ thuộc và tuân hành mệnh lệnh của vị lãnh tụ.


B. CÓ LỢI CHO LẬP PHÁP


Khuynh hướng này được thể hiện bởi chế độ Hội đồng hay là Nghị hội chế. Chế độ Hội đồng là một chế độ trong đó cơ quan Hành pháp hoàn toàn lệ thuộc vào cơ quan Lập pháp. Trong chế độ Hội đồng, Hành pháp:



Được chỉ định bởi Lập pháp
Tuân theo chỉ thị của Nghị hội: Nếu có sự bất đồng ý kiến. Hành pháp không được tự ý rút lui mà phải được Nghị hội cho phép từ chức.
Nghị hội có quyền hủy bỏ những quyết định của Hành pháp.

Tóm lại, Hành pháp không còn là một quyền mà trở thành kẻ thừa hành, bắt buộc phải tuân theo quyết định của Quốc hội, phải thi hành chính sách của Quốc hội. Bất cứ lúc nào Quốc hội cũng có quyền điều tra, chất vấn Chính phủ, bắt buộc Chính phủ phải trả lời, xuất trình mọi tài liệu mà Quốc hội muốn biết. Quốc hội có thể khiển trách Chính phủ khi cơ quan Hành pháp thi hành sai chính sách, có thể ra lệnh cho Chính phủ thi hành theo sự sửa đổi, sự chỉ dẫn của Quốc hội.


Nếu không có sự đồng nhất về quan điểm, về chính sách giữa Quốc hội và Chính phủ, Chính phủ không quyền từ chức, mà trái lại phải tiếp tục vâng lời Quốc hội. Đó là đặc điểm của chế độ Hội nghị. Trường hợp điển hình là Liên bang Thụy Sĩ. Theo Hiến pháp của Thụy Sĩ năm 1848, tu chính bởi Hiến luật năm 1874, hai cơ quan công quyền của Liên bang Thụy Sĩ là Hội đồng Liên bang (Conseil Fédéral) và Hội nghị Liên bang (Assemblée Fédérale).


Hội đồng Liên bang tức là Chính phủ gồm có một Tổng thống và một số Tổng trưởng làm việc một cách tập thể.


Hội nghị Liên bang tức là Quốc hội gồm có hai Viện (vì chế độ Thụy Sĩ là một chế độ Liên bang) Viện Quốc gia (Conseil Fédéral) và Viện Tiểu bang (Conseil des États).


Đó là hai cơ quan công quyền. Hình thức tổ chức công quyền tại Thụy Sĩ nghiêng về chế độ tập quyền có lợi cho Lập pháp nghĩa là Hội đồng Liên bang tức là Chính phủ chỉ thi hành tuân theo quyết định của Quốc hội tức là Hội nghị Liên bang. Dưới sự kiểm soát thường trực của Hội nghị này.


Bất cứ lúc nào, và thông thường hàng năm, theo lệnh của Quốc hội, Chính phủ phải tường trình công việc của mình.


Tất cả hai Viện của Hội nghị Liên bang đều có quyền đặt kiến nghị bất tín nhiệm, chất vấn, đặt câu hỏi, đòi giải thích. Trong Quốc hội còn có những ủy ban đặc biệt để theo dõi công việc của Chính phủ, để cho Quốc hội dễ kiểm soát.


Tuy nhiên, cần phải nhận định rằng đó chỉ là điều khoản của Hiến pháp. Thực tế cho chúng ta biết rằng Thụy Sĩ không theo chế độ tập quyền. Và Chính phủ Thụy Sĩ là một Chính phủ vững mạnh, có quyền thực sự chứ không bị chi phối của Quốc hội.


Trái lại, chính Chính phủ chi phối Quốc hội. Với đà tiến triển của sinh hoạt chính trị, Hành pháp đã trở thành cơ quan đầu não bất-chấp những điều khoản của Hiến pháp. Và thường thường những đạo luật và chính sách nói chung đều được Quốc hội biểu quyết theo đề nghị của Chính phủ. Tổng thống và Tổng trưởng của Liên bang Thụy Sĩ thường thường được tái cử luôn, có nhiều vị đã giữa chức vụ tới 15, 20 năm nên có rất nhiều uy tín và đồng thời ảnh hưởng sâu rộng đến Quốc hội. Như thế thực tế đã làm đảo lộn địa vị của Hành pháp và Lập pháp. Trái với ý định của nhà Lập hiến, ưu thế rõ rệt đã thuộc về Chính phủ chứ không thuộc về Quốc hội.


Dù sao, trên nguyên tắc, chế độ Liên bang Thụy Sĩ là một Hội nghị chế, một chế độ áp dụng hình thức tập quyền.


Để trở lại vấn đề của chúng ta, Hội nghị chế, chế độ độc tài, cũng như chế độ quân chủ chuyên chế là những chế độ áp dụng nguyên tắc tập quyền, tập trung quyền hạn vào một cơ quan, Hành pháp hoặc Lập pháp.


Đó là trường hợp cổ điển. Trong vòng 30 năm nay, một hình thức mới về chế độ tập quyền đã được áp dụng: đó là chế độ độc đảng.


Đoạn 2: MỘT HÌNH THỨC MỚI, CHẾ ĐỘ ĐỘC ĐẢNG


Công cuộc nghiên cứu và sưu tầm hệ thống chính đảng, và ảnh hưởng của các chính đảng trong cuộc sinh hoạt chính trị ngày nay đã đưa đến nhiều kết luận hết sức lí thú và là một bước tiến khá dài của khoa chính trị học.


Trong một khung cảnh chính trị cổ điển, hệ thống đa đảng hay độc đảng làm thay đổi cục diện chính trị.


Hệ thống độc đảng là một thực tại chính trị và đồng thời là một cải cách lớn lao, sâu rộng về phương diện tổ chức chính quyền. Chúng ta có thể nói rằng sự hiện diện của một chính đảng duy nhất trong một quốc gia đưa đến hai hậu quả: một sự tập trung quyền lực và một sự tập trung quyền lực vào tay chính đảng ấy.


A. Tập trung quyền lực


Đó là hậu quả tất nhiên mặc dù, trên phương diện hình thức cũng như chính thức, Hiến pháp quốc gia đó ấn định một chính thể cổ điển. Ví dụ một chính thể đại nghị với một Quốc hội dân cử và một Nội các trách nhiệm trước Quốc hội. Thật ra, Quốc hội chỉ là Quốc hội bù nhìn, Quốc hội chỉ là cái máy để ghi những quyết định của Chính phủ. Thay vì chất vấn, kiểm soát hay điều tra, các vị dân biểu chỉ biết đồng thanh chấp thuận và vỗ tay hoan nghênh. Dù Hiến pháp có phân chia quyền hạn, có ấn định rõ rệt nhiệm vụ của mỗi cơ quan đó chỉ là bề ngoài; trên thực tế, thực quyền được tập trung vào tay chính đảng duy nhất.


B. Vào tay chính đảng duy nhất


Một trong những đặc điểm của chế độ độc đảng là tất cả quyền lực quốc gia được tập trung vào chính đảng duy nhất. Tất cả những cơ quan Nhà nước – Quốc hội cũng như Quốc trưởng, Thủ tướng hay Tổng trưởng – tất cả đều là những phương tiện hành động của Đảng. Xuyên qua các phương tiện ấy, Đảng biểu dương ý chí. Uy quyền của Thủ tướng, uy quyền của Tổng trưởng không phải dựa trên chức vụ của họ mà trái lại do nơi sự tín nhiệm của Đảng. Và phần đông các vị này là đảng viên. Cơ quan đầu não, trung tâm của mọi sinh hoạt chính trị không phải là Chính phủ mà là ủy ban chấp hành Đảng bộ.


Tóm lại, với chế độ độc đảng, chúng ta nhìn thấy một hình thức mới của chế độ tập quyền: tất cả tập trung vào tay một chính đảng.


(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.




[i] Tức Việt Nam Cộng hòa (p&c)



 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 25, 2013 11:39

August 24, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (5)

Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4


THIÊN THỨ HAI: TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN


CHƯƠNG I: NHỮNG CƠ QUAN CÔNG QUYỀN


MỤC I: CHÍNH PHỦ


Đoạn 1: CÁ NHÂN ĐIỀU KHIỂN


Cơ quan hành pháp do một cá nhân điều khiển. Hay nói một cách khác, cơ quan hành pháp là một cá nhân. Cá nhân này có thể là một quốc vương, một nhà độc tài, một Tổng thống, chủ tịch.


Vẫn biết rằng cá nhân này luôn luôn có nhiều vị cố vấn hay cộng sự viên đắc lực phụ tá, giúp nhiều trong công cuộc điều khiển quốc gia. Nhưng cần phải hiểu rằng các cị cố vấn và cộng sự này chỉ có vai trò soạn thảo, thi hành chứ không quyền quyết định.


Hình thức hành pháp do một cá nhân điều khiển được thể hiện qua nhiều loại chế độ chính trị trong lịch sử: Quân chủ, Độc tài, Tổng thống.


Chế độ Quân chủ: Chế độ chính trị trong ấy nhà vua nắm hết chủ quyền thống trị một nước. Nói đến quân chủ, người ta liên tưởng ngay đến một người. Nhà vua nắm quyền Hành pháp. Hơn nữa các nhà chỉ huy hành pháp có tính cách kế thừa, nghĩa là chỉ được lựa chọn trong dòng giống nhà vua.


Chế độ Độc tài: Ở đây nhà độc tài nắm quyền hành pháp sau một cuộc chính biến và thường thường bằng một cuộc chinh phục.


Chế độ Tổng thống: Danh từ “Tổng thống” rất được thông dụng vì chế độ Tổng thống là chế độ mà đa số quốc gia áp dụng trên thế giới hiện nay. Đặc điểm của chế độ Tổng thống – ngoài những yếu tố khác không kém quan trọng mà chúng ta sẽ có dịp bàn đến nhiều – là hành pháp giao cho một cá nhân điều khiển. Và cá nhân này được toàn dân bầu lên.


Đoạn 2: TẬP THỂ ĐIỀU KHIỂN


Nói đến tập thể điều khiển là nghĩ tới một cơ quan hành pháp gồm một số không quá nhiều nhân viên.


Hội đồng, ủy ban, tập đoàn, đó là những danh từ ám chỉ cơ quan hành pháp tùy theo số lượng nhân viên của cơ quan này.


Trên nguyên tắc, tập thể điều khiển có hai đặc điểm:



Tính cách bình đẳng: giữa nhân viên không có chủ tịch, không có phiếu quyết định, không có đẳng cấp.
Tính cách tập thể: tất cả quyết định đều được chấp thuận theo đa số: không nhân viên nào có quyền phủ quyết hay quyền riêng tư nào.

(Ủy ban Cứu quốc của Pháp hội thời Cách mạng – Ủy ban Lãnh đạo Việt Nam 25-8-64)


Nhưng trong thực tế, giải pháp tập thể điều khiển chỉ là hình thức. Luôn luôn một nhân viên của tập thể, trực tiếp hay gián tiếp, đóng một vai trò quan trọng và trở thành một khối lãnh đạo thật sự.


Hơn nữa giữa nhân viên của tập thể thường thường có sự phân nhiệm tùy khả năng của mỗi người. Sự phân chia nhiệm vụ này đưa đến một tình trạng là mỗi người quyết định trong lãnh vực của mình.


Tóm lại, giải pháp tập thể điều khiển, với những đặc điểm và điều kiện khó khăn, vấp phải nhiều trở lực và thường thường đi đến sự giải tán vì lủng củng nội bộ nếu không phải là một hình thức che đậy cá nhân điều khiển.


(Tập đoàn điều khiển ở Nga-Sô sau khi Stalin chết)


Đoạn 3: CÁ NHÂN VÀ TẬP THỂ ĐIỀU KHIỂN


Đây là một hình thức cơ cấu hành pháp thể hiện sự phối hợp cá nhân và tập thể: một người và một ủy ban, một cá nhân và một tập đoàn.


Cơ cấu hành pháp này chúng ta tìm thấy trong “Nội các chế”. Trong chế độ này, cơ quan hành pháp gồm có:



Một Quốc trưởng hoàn toàn độc lập
Một tập đoàn, gọi là nội các gồm nhân viên do Quốc trưởng chỉ định trong số dân biểu nắm đa số ở Quốc hội

Nội các có hai đặc điểm:



Toàn thể nhân viên nội các hoàn toàn biệt lập đối với Quốc trưởng: mặc dù được chỉ định, họ vẫn có quyền quyết định.
Nội các là một cơ quan có tính cách tập thể; mặc dầu mỗi nhân viên có một lãnh vực riêng biệt nhưng những quyết định chính yếu được chấp thuận chung và tất cả đều liên đới trách nhiệm.

Nhân viên nội các, một cách tổng quát, đều bình đẳng nhau. Tuy nhiên, kinh nghiệm chính trị cho biết rằng thường thường một trong những nhân viên ấy có một ưu thế: địa vị này có thể là hậu quả của một sự thi hành chính trị hoặc đã được ấn định bởi một văn kiện pháp lí. Nhân viên chiếm ưu thế trong nội các chế được gọi là Thủ tướng.


MỤC II: QUỐC HỘI


Quốc hội, Hội đồng Nghị sĩ v.v… ám chỉ cơ quan Lập pháp. Quốc hội: cơ quan công quyền có tính cách tập thể gồm một số đông nhân viên. Nói đến Quốc hội là phải liên tưởng đến một Hội đồng, chứ không thể một người hay một nhóm người.


Đoạn 1: VẤN ĐỀ LƯỠNG VIỆN


Nhìn vào các Hiến pháp của những quốc gia cận đại và lịch sử chính trị, người ta thấy rằng cơ quan Lập pháp – Quốc hội có thể gồm một viện hay hai viện. Thoạt tiên người ta có thể cho rằng độc viện hay lưỡng viện chỉ là giải pháp tổ chức. Nhưng chính giải pháp tổ chức này đã trở thành một vấn đề được tranh luận rất nhiều trong giới chính trị khi đề cập đến Quốc hội. Thường thường người ta đưa ra nhiều lí do để bênh vực cho giải pháp này hay giải pháp nọ; thực ra cuộc tranh luận hoàn toàn có một ý nghĩa chính trị.


A. Nguồn gốc của chế độ lưỡng viện 


Đứng trên phương diện hoàn toàn lịch sử để suy xét, chế độ lưỡng viện xuất phát từ những sự kiện sau đây:


a. Chế độ lưỡng viện có trước nhất ở Anh quốc khi Quốc hội ra đời. Cần nên nhắc lại rằng vào khoảng cuối thế kỉ 13, cơ quan Lập pháp đã được chia ra hai giới: Viện Quý tộc, và Viện Thứ dân. Hình thức này – và đồng thời là hình thức thứ nhất của chế độ lưỡng viện – dựa trên nguyên tắc phân chia giai cấp xã hội: một bên đại diện dòng quý tộc, một bên giữa thường dân có quyền bầu cử. Và vì sự kiện lịch sử này, mà mãi đến ngày nay danh từ Thượng Nghị viện và Hạ Nghị viện vẫn được thông dùng.


b. Chế độ lưỡng viện còn có một nguồn gốc khác vì liên hệ đến chế độ liên bang. Người ta có thể nói rằng chế độ lưỡng viện là hậu quả tất nhiên của cơ cấu đặc biệt của một quốc gia liên bang.


Quốc gia liên bang là một quốc gia, một khối duy nhất nhưng đồng thời lại bao gồm nhiều quốc gia nhỏ; các tiểu bang này có một sự tự trị khá rộng rãi. Vì thế, cơ quan Lập pháp liên bang phải thể hiện hai đặc điểm này.


Trong một quốc gia liên bang người ta tìm thấy, bên cạnh một Hội đồng dân cử đại diện toàn thể nhân dân, có một Hội đồng thứ hai gồm đại diện chính các tiểu bang: Mỹ, Nga, Thụy Sĩ, v.v…


c. Thượng Nghị viện Quý tộc, Thượng Nghị viện thể hiện chế độ Liên bang, ngoài hình thức kể trên, còn rất nhiều giải pháp thực hiện chế độ lưỡng viện, các giải pháp cũng khác nhau về cách tuyển lựa và thành phần của Thượng Nghị viện. Ví dụ:


- Người ta có thể quan niệm một Thượng Nghị viện với thành phần – gồm thân hào, nhân sĩ được chọn lựa trên tiêu chuẩn uy tín tinh thần, chức tước cùng địa vị xã hội.


- Người ta cũng có thể quan niệm một Thượng Nghị viện có tính cách dân chủ, nghĩa là một Hội đồng do dân bầu ra – nhưng với một vài đặc điểm:


* Nhân viên Thượng Nghị viện phải có nhiều tuổi.


* Thượng Nghị viện được bầu một cách gián tiếp.


* Nhiệm kì của Thượng Nghị viện khá dài.


- Một quan niệm thứ ba về Thượng Nghị viện dựa trên ý tưởng rằng quốc gia không phải chỉ có cá nhân mà luôn cả đoàn thể nữa: gia đình, nghề nghiệp, hiệp hội tập đoàn địa phương v.v… Bởi thế, song song với Hạ Nghị viện đại diện cho toàn thể cá nhân, Thượng Nghị viện tiêu biểu cho đoàn thể, sẽ được bầu bởi những hiệp hội nghiệp đoàn, tập thể địa phương v.v…


B. Vấn đề lưỡng viện, một vấn đề chính trị


Lịch sử chính trị cho chúng ta biết rằng vấn đề lưỡng viện là một vấn đề được thảo luận sôi nổi mỗi khi nhà Lập hiến soạn thảo Hiến pháp. Lí do là chế độ lưỡng viện có một ý nghĩa chính trị và liên quan mật thiết đến chính thể dân chủ.


Nếu chúng ta tách rời vấn đề lưỡng viện trong một quốc gia liên bang vì đây chỉ là một hậu quả tất nhiên trong cơ cấu công quyền của chế độ liên bang, và nếu chúng ta không để ý đến Thượng Nghị viện quý tộc hay dựa trên ý tưởng “thân hào, nhân sĩ” vì vấn đề đặt ra là trong một quốc gia thuần nhất mà nguyên tắc dân chủ được tôn trọng, chế độ lưỡng viện bị phủ nhận hay được tán thành như thế nào?


1. Để ủng hộ giải pháp độc viện, người ta cho rằng chế độ lưỡng viện vừa vô ích vừa phản dân chủ. Thật vậy, nếu có hai viện thì:



Hoặc hai viện sẽ được bầu như nhau: cũng đồng một nhiệm kì, cử tri, cử tri như nhau, quyền hạn như nhau, thì viện này chỉ là họa phẩm của viện kia, chế độ lưỡng viện trở thành vô ích.
Hoặc có một sự khác biệt giữa hai viện trên nhiều phương diện thì lẽ tất nhiên một trong hai viện sẽ có tính cách ít dân chủ hơn. Ví dụ đầu phiếu gián tiếp, nhiệm kì ngắn v.v… Như thế Thượng Nghị viện sẽ là một trở ngại cho việc thực thi dân chủ.

2. Những kẻ chủ trương chế độ lưỡng viện đưa ra một số luận cứ:


a. Thứ nhất: cho rằng chế độ lưỡng viện chắc chắn sẽ đưa đến một kết quả là một trong hai viện sẽ ít dân chủ hơn là một quả quyết hơi vội vàng. Có sự khác biệt giữa hai viện không có nghĩa là đương nhiên hai viện sẽ bất đồng về tính cách dân chủ.


Công luận quốc gia rất phức tạp và tế nhị vì được thể hiện qua sự chuyển động có tính cách đoản kì và trường kì. Vì thế song song với một Hội đồng bầu cử trực tiếp từng khoảng thời gian ngắn để đại diện cho những chuyển động đoản kỳ thì cần phải có một Hội đồng thứ hai ổn định hơn, già dặn hơn, chín chắn hơn để thể hiện những chuyển động trường kỳ của công luận. Cũng cần phải thêm rằng mọi quyết định quan trọng liên hệ đến quốc gia cần phải có sự đồng ý sâu xa, ngẫm nghĩ chín chắn hơn là một sự đồng ý nhất thời của đa số.


Theo chiều hướng ấy. Thượng Nghị viện không phải là một cái thắng mà trái lại là một tay lái để điều hòa những chuyển động quá mức về bên này hay bên kia.


b. Lí do thứ hai là một viện đơn độc sẽ có khuynh hướng quan niệm vai trò của mình một cách độc đoán. Vì độc viện có thể đưa đến một chế độ mà Chính phủ hoàn toàn là ủy viên thừa hành của cơ quan Lập pháp. Một viện đơn độc có khuynh hướng bóp chẹt thiểu số và luôn cả Chính phủ. Trên nguyên tắc, chính thể dân chủ đại nghị không đòi hỏi có hai viện, nhưng trên thực tế chính chế độ lưỡng viện bảo đảm sự thực hành chính thể dân chủ đại nghị và nguyên tắc phân quyền. Sau cùng, chế độ lưỡng viện chặn đứng một phần nào sự ban hành những đạo luật áp chế, lộng hành vì lẽ dĩ nhiên những đạo luật này khó mà xuất hiện vì phải đợi thảo luận và biểu quyết bởi hai viện.


c. Lí do thứ ba là với chế độ lưỡng viện, công việc pháp chế sẽ chu đáo và kỹ càng hơn. Sự kinh nghiệm và tính dè dặt của Thượng Nghị viện cùng sự hăng say và tính cương quyết của Hạ Nghị viện, chắc chắn sẽ đưa đến một kết quả tốt đẹp: những đạo luật hợp lí, hợp tính thể hiện quyền lợi chung của quốc gia, và chu đáo luôn cả trên phương diện kĩ thuật.


3. Trên đây là những luận cứ dựa trên nhiều nguyên tắc mà người ta thường được đưa ra khi đề cập đến vấn đề lưỡng viện. Tuy nhiên, đó chỉ là phụ thuộc. Thật ra, cuộc tranh luận liên quan đến hai quan niệm tương phản về chính thể dân chủ.


Những kẻ chủ trương cần phải thực hiện ngay ý chí của đa số ở Hạ Nghị viện phủ nhận vai trò của Thượng Nghị viện. Trái lại quan niệm rằng muốn có Chính phủ dân chủ cần phải tổ chức cơ quan công quyền một cách thiết thực hầu bảo đảm tối đa tự do chính trị, thì quan niệm này nghiêng về chế độ lưỡng viện vì chế độ này là một trong những phương thức “giới hạn chính quyền”. Người ta có thể nói rằng nguyên tắc phân quyền đi sâu vào giữa cơ quan Lập pháp.


Đoạn 2: TỔ CHỨC VÀ ĐIỀU HÀNH QUỐC HỘI


Vấn đề vừa có tính cách kĩ thuật vừa có ý nghĩa chính trị. Biện pháp khác nhau từ quốc gia này đến quốc gia kia. Nhưng chúng ta có thể tìm thấy một số biện pháp chung dựa trên hai ý tưởng chính:



Bảo đảm sự độc lập của Quốc hội
Thực hiện sự điều hành hữu hiệu của Quốc hội.

A. BẢO ĐẢM SỰ ĐỘC LẬP CỦA QUỐC HỘI


Có nghĩa là tổ chức thế nào để Quốc hội khỏi phải bị sự chi phối của Hành pháp, bảo đảm độc lập tinh thần cũng như vật chất của dân biểu Khóa họp, tổ chức nội bộ, đặc miễn bất kiêm nhiệm, phụ cấp).


a. Vấn đề khóa họp


Nếu Quốc hội chỉ có thể nhóm họp khi Hành pháp triệu tập và đình chỉ phiên họp khi Hành pháp ra lệnh thì tự do và độc lập của Quốc hội bị hạn chế quá nhiều. Trả lại độc lập và tự do của Quốc hội được bảo đảm hoặc bởi nguyên tắc Quốc hội thường trực hoặc bởi khóa họp nhất định.


Nguyên tắc Quốc hội thường trực có nghĩa là tự do nhóm họp bất cứ lúc nào, và lẽ tất nhiên tự do đình chỉ khóa họp.


Nguyên tắc khóa họp nhất định có nghĩa là chỉ có quyền họp một số khóa họp nhất định và trong thời gian nhất định. Thường thường Hiến pháp ấn định số khóa họp và ấn định ngày và thời hạn khóa họp (ví dụ: mỗi năm hai khóa họp và mỗi khóa không quá 3 tháng).


Những khóa họp nhất định là những khóa họp thường lệ, ngoại trừ những khóa họp bất thường có thể triệu tập bởi Hành pháp hoặc tự ý Quốc hội nhóm họp – nếu tình thế đòi hỏi.


b. Vấn đề tổ chức nội bộ


Sự độc lập của Quốc hội được thể hiện qua quyền tự tổ chức lấy những cơ cấu điều hành như Văn phòng, Nội quy và tự định lấy những phiên họp hay nghị trình v.v…


Văn phòng Quốc hội hay của bất cứ Nghị viện nào – gồm một số nhân viên và có nhiệm vụ điều khiển các cuộc thảo luận, đại diện Quốc hội giữa những khóa họp và tổ chức vật chất. Văn phòng là cơ quan đầu não của Quốc hội. Thường thường chính Quốc hội bầu Văn phòng theo thể thức ấn định bởi nội quy.


Nội quy của Quốc hội rất quan trọng về tính chất pháp lí cũng như về đối tượng của nó. Cần phải phân biệt nội quy và những đạo luật mà Quốc hội biểu quyết.


Những đạo luật chỉ có hiệu lực khi ban hành và ngoài lĩnh vực nội bộ của Quốc hội. Trái lại vì mục tiêu của nội quy là ấn định quy tắc áp dụng cho sự điều hành nội bộ của Nghị viện, cho nên nội quy có hiệu lực ngay sau khi được chấp thuận và chỉ có hiệu lực trong nội bộ của một Nghị viện nhất định.


Nội quy dù có một tác dụng pháp lí giới hạn, không kém quan trọng về mặt chính trị. Trong thực tế chính nội quy đem lại một sắc thái linh động cho chế độ Nghị viện: qua bản nội quy người ta có thể quả quyết một phần nào rằng tiếng nói của thiểu số bị bóp chẹt hay được ưu đãi và Quốc hội đã sử dụng tất cả những phương tiện về quyền hành thừa nhận bởi Hiến pháp.


c. Vấn đề đặc miễn của dân biểu


Đặc miễn ở đây tức là ngoại lệ, những quyền hạn đặc biệt trái với nguyên tắc bình đẳng của tất cả công dân trong một chế độ dân chủ. Những đặc miễn này – mà các dân biểu được hưởng để thi hành nhiệm vụ – gồm có hai loại: sự vô trách nhiệm và sự bất khả xâm phạm.


1. Sự vô trách nhiệm nhằm bảo vệ nghị viên khỏi bị truy tố, bắt giam hay xét xử về những lời nói cùng thái độ khi thi hành nhiệm vụ của mình tại Quốc hội. Như vậy, sự vô trách nhiệm bảo đảm tự do phát biểu cũng như tự do biểu quyết. Hậu quả là nghị viên hoàn toàn độc lập, khỏi phải e dè, ngại ngùng và thẳng thắn trình bày ý kiến. Sự vô trách nhiệm, nhằm bảo vệ sự độc lập của dân biểu có tính cách tuyệt đối. Thật vậy, sự vô trách nhiệm chỉ được áp dụng cho các hành vi liên hệ đến nhiệm vụ dân biểu: ý kiến phát biểu trên diễn đàn Quốc hội, các biểu quyết tại Quốc hội. Trái lại viết báo ở ngoài phỉ báng cùng kẻ khác, hay ẩu đả tại Quốc hội, hành hung kí giả hay đồng sự mình có thể bị truy tố. Hơn nữa, tất cả hành vi liên hệ đến nhiệm vụ dân biểu đều được bảo đảm bởi nguyên tắc vô trách nhiệm và không thể trở lại các hành vi này dù rằng vị dân biểu đã mãn nhiệm kì. Sự vô trách nhiệm thường thường được thể hiện trên văn kiện Hiến pháp bằng một câu thế này: ”không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay kết án một dân biểu vì những lời nói hoặc vì những sự biểu quyết tại Quốc hội hoặc tại các ủy ban Quốc hội”.


2. Sự bất khả xâm phạm nhằm bảo vệ tự do của dân biểu chống sự truy tố tầm nã của Chính phủ. Người ta sợ rằng, Chính phủ vì một lí do chính trị, viện cớ những vi phạm ngoài chức vụ, tống giam hoặc uy hiếp những dân biểu đối lập. Sự bất khả xâm phạm có tính cách tương đối và tạm thời.



Tương đối: Sự bất khả xâm phạm không phải áp dụng cho tất cả các cuộc truy tố mà chỉ áp dụng cho các cuộc truy tố nào có thể đem đến một sự giam cầm dài hạn hoặc những tội phạm tiểu hình hay đại hình. Vì thế sự bất khả xâm phạm không được áp dụng cho các tội vi cảnh, hay các vi phạm có tính cách kỉ luật vì tính cách không mấy quan trọng của các vi phạm này. Sự bất khả xâm phạm có tính cách tương đối dưới một khía cạnh khác nữa: Là Quốc hội có quyền truất phế sự bất khả xâm phạm và có thể cho phép truy tố một dân biểu. Hơn nữa sự bất khả xâm phạm đương nhiên không được áp dụng khi có đương trường phạm pháp (nghĩa là bắt quả tang).
Tạm-thời: sự bất khả xâm phạm – vì nhằm mục tiêu cản trở sự truy tố – chỉ bảo vệ dân biểu trong suốt nhiệm kì mà thôi. Hơn nữa, có nhiều Hiến pháp lại khắt khe hơn – và ấn định nguyên tắc bất khả xâm phạm chỉ có hiệu lực trong suốt thời gian của các khóa họp Quốc hội.

Hiệu lực của sự bất khả xâm phạm 


Để hiểu rõ hiệu lực của sự bất khả xâm phạm cần phải nhận định ngay rằng: sự vô trách nhiệm là một nguyên tắc về nội dung; sự bất khả xâm phạm là một nguyên tắc về thủ tục: hiệu lực là đình chỉ truy tố và giam cầm. Nói đến đình chỉ là nghĩ đến cái gì bị ngưng lại không có thể tiếp tục hay bắt đầu. Vì thế mà khi không còn lí do gì để đình chỉ nữa – nghĩa là khi Quốc hội cho phép hoặc khi mãn nhiệm kì, dân biểu có thể bị truy tố như bất cứ công dân nào.


d. Vấn đề bất khả kiêm nhiệm


Trong rất nhiều Hiến pháp, chúng ta thấy có điều khoản như thế này: ”Nhiệm vụ dân biểu không thể kiêm nhiệm công vụ được trả lương hay một nhiệm vụ dân cử khác hoặc một chức vụ tư quan trọng”. Sự bất khả kiêm nhiệm nhằm bảo vệ sự độc lập tinh thần của dân biểu. Người ta nghĩ rằng có những chức vụ công hay tư có thể đưa vị đại diện nhân dân đến một tình trạng lệ thuộc và như thế trực tiếp hay gián tiếp phương hại đến sự tự do và độc lập của vị dân biểu ấy. Vấn đề là phải tránh sự kiêm nhiệm chức vụ công hay tư với nhiệm vụ dân biểu.


Chế độ – rộng rãi hay khắt khe – của những bất khả kiêm nhiệm tùy thuộc quan niệm chính trị của mỗi xứ. Một cách tổng quát, chúng ta có thể thấy như thế này:


1. Đối với một công vụ có trả lương


- Nguyên tắc là bất khả kiêm nhiệm. Công vụ có trả lương ở đây có nghĩa là tất cả các công vụ nào do Ngân sách quốc gia đài thọ.


- Ngoại lệ


* Bộ trưởng, Thứ trưởng trong chế độ đại nghị thường thường là những vị dân biểu


* Nhân viên giảng huấn tại các trường cấp bậc đại học và kĩ thuật cao đẳng


* Công vụ đặc biệt có tính cách tạm thời.


- Hiệu lực của sự bất khả kiêm nhiệm: là một sự lựa chọn của đương sự. Nếu một công chức đắc cử dân biểu phải nghỉ giả hạn. Nghỉ giả hạn không có nghĩa là bị loại khỏi cơ quan Nhà nước mà trái lại được đặt trong một tình trạng đặc biệt nhưng đương sự – lẽ dĩ nhiên không hưởng lương bổng – vẫn giữ quyền thăng thưởng và hưu bổng. Nếu một dân biểu chấp nhận một công vụ – được xem là bất khả kiêm nhiệm thì đương nhiên dân biểu ấy được xem là từ chức nhiệm vụ dân biểu của mình.


2. Đối với các nghề nghiệp tư


Lệ thuộc một chủ nhân ông nào – cũng như lệ thuộc Chính phủ – cũng phương hại đến sự độc lập tinh thần của đại diện nhân dân. Hơn nữa, đối với các nghề nghiệp tư, bất khả kiêm nhiệm là nhằm tránh những sự lạm dụng nhiệm vụ dân biểu.


Tuy nhiên, mặt khác, nếu chúng ta áp dụng nguyên tắc bất khả kiêm nhiệm một cách quá cứng rắn, quá tuyệt đối thì e rằng giá trị các dân biểu lại kém đi vì Quốc hội sẽ gồm một số Bác sĩ không bệnh nhân, một số luật sư không thân chủ, một số thương gia không khách hàng, tóm lại một số người đã thất bại khi hành nghề tư của họ.


Vấn đề tế nhị ở đó và vì thế mà sự bất khả kiêm nhiệm cần phải được quan niệm một cách uyển chuyển đối với các nghề nghiệp tư. Một cách tổng quát và theo quan niệm khá rộng rãi, chúng ta có thể nói rằng ở đây, sự bất khả kiêm nhiệm là ngoại lệ mà sự kiêm nhiệm là nguyên tắc. Ngoại lệ được ấn định khi tối cần, ví dụ:



Kiêm nhiệm nhiệm vụ dân biểu với chức vụ trong những công ty chuyên về nghiệp vụ tiền tệ hay tín dụng
Cấm hẳn dân biểu không được tham dự các cuộc đấu thầu của Chính phủ, không được kí hợp đồng.

e. Vấn đề phụ cấp


Trên nguyên tắc – vì đó là quan niệm cổ điển – người ta cho rằng làm việc công – nhất là đại diện nhân dân – không thể hưởng ân huệ gì. Nhưng ngày nay, vấn đề phụ cấp là một vấn đề cần thiết. Vì nhiệm vụ dân biểu càng ngày càng phức tạp và tốn rất nhiều thì giờ, không thể bảo rằng các dân biểu tự kiếm cách sống. Trong những điều kiện sinh hoạt chính trị và xã hội ngày nay, một đại diện nhân dân không phụ cấp chắc chắn sẽ bị chi phối bởi những đoàn thể áp lực vì các đoàn thể này sẽ mua chuộc họ và lợi dụng họ.


Nguyên tắc phụ cấp dân biểu không thể chối cãi được. Tuy nói rằng phụ cấp – vì danh từ phụ cấp nghe đẹp tai hơn là lương bổng có vẻ một công chức hay tư chức – nhưng phụ cấp dân biểu là một số lương thực sự, vì không những phụ cấp dùng để trả những phí tổn về chức vụ (văn phòng, thư kí, chuyển vận) mà còn phương tiện sinh sống hầu vị dân biểu rảnh trí và dành tất cả thì giờ của mình vào việc thi hành chức vụ cao quýcủa mình là nói lên tiếng nói của nhân dân.


Dân biểu còn hưởng quyền lợi như thư tín, điện thoại, lộ trình v.v…


B. THỰC HIỆN SỰ ĐIỀU HÀNH HỮU HIỆU CỦA QUỐC HỘI


Hai biện pháp thường được áp dụng để thực hiện sự điều hành hữu hiệu của Quốc hội :



Chuẩn bị những cuộc thảo luận một cách khoa học
Tổ chức những cuộc thảo luận một cách chu đáo.

a. Chuẩn bị những cuộc thảo luận


Để thực hiện mục tiêu này, người ta đi đến việc thành lập các ủy ban. Đặc điểm của ủy ban là mỗi ủy ban có một thẩm quyền đặc biệt liên hệ đến một vấn đề hay một loại vấn đề. Nguyên tắc là bất cứ một vấn đề gì – trước khi đem ra thảo luận tại Quốc hội – phải được một ủy ban có thẩm quyền nghiên cứu trước và thuyết trình. Tóm lại, các ủy ban có nhiệm vụ chuẩn bị các cuộc thảo luận bằng cách nghiên cứu trước các vấn đề hoặc dự án luật rồi làm tờ trình về các vấn đề hoặc dự án luật đó.


Các ủy ban – mà chúng ta vừa đề cập – có tính cách chuyên môn và thường xuyên (Ủy ban Ngân sách và Tài chính, Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Ngoại giao, Nội vụ,…). Ngoài những ủy ban thường xuyên này, Quốc hội có thể – nhân một vấn đề nào đó, ví dụ như Tổng trưởng hay Tỉnh trưởng hối lộ,… lập những Ủy ban Đặc biệt để phụ trách một vấn đề nhất định (ủy ban điều tra). Đặc điểm là ủy ban có tính cách tạm thời nghĩa là sau khi nghiên cứu hoặc điều tra, ủy ban sẽ được giải tán ngay.


b. Tổ chức những cuộc thảo luận một cách chu đáo 


Các cuộc thảo luận tại Quốc hội – lẽ dĩ nhiên – được đặt trên nguyên tắc tự do phát biểu ý kiến của nghị viên. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho biết rằng các cuộc thảo luận cần phải được tổ chức thế nào để tránh hỗn loạn và sự lạm dụng của các diễn giả. Vấn đề là phải ấn định ai nói trước, ai nói sau nghĩa là mỗi người phải đợi đến lượt mình và thời gian phát biểu ý kiến.


Kinh nghiệm đã chứng tỏ một sự lạm dụng khét tiếng tại Anh Quốc: trong thế kỉ thứ 19 tại Hạ Nghị viện Ái Nhĩ Lan, những nghị sĩ phe đối lập đã dùng những bài diễn văn rất dài để cản trở không cho Quốc hội biểu quyết những đạo luật mà họ không bằng lòng [i]. (Họ thay phiên nhau nói giờ này đến giờ nọ, luôn cả buổi ăn, nói sáng đêm; các dân biểu chán quá bỏ ra về rốt cuộc không đủ số không thể biểu quyết được.)


(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.




[i] Filibuster (p&c)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 24, 2013 11:41

August 22, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (4)

Xem kì 1, kì 2, kì 3


CHƯƠNG III: NGUYÊN TẮC DÂN CHỦ


Mục I: KHÁI NIỆM CHÍNH ĐÁNG


Đoạn 1: HỢP PHÁP VÀ CHÍNH ĐÁNG


Đoạn 2: NGUYÊN TẮC DÂN CHỦ: NGUYÊNTẮC CHÍNH ĐÁNG TRONG XÃ HỘI CẬN ĐẠI


Khi chúng ta đề cập đến vấn đề quốc gia – dù theo quan niệm các nhà xã hội học hay luật gia hay là cũng như chúng ta đã biết – dù là một chính quyền được định chế hóa, sự kiện mà chúng ta phải lưu ý và đã lưu ý là sự phân chia giữa nhà cầm quyền và quần chúng bị trị vì quốc gia – nghĩa là chính quyền – có độc quyền sử dụng lực lượng vật chất (cảnh bị và quân sự).


Đó là thực tại. Tuy nhiên nhận xét như thế không có nghĩa là quan niệm rằng cuộc sinh hoạt chính trị trong quốc gia chỉ dựa trên sự cưỡng bách. Không có một sự cưỡng bách nào, một sự đàn áp nào có thể tồn tại mãi vì đó đã là một hiện tượng tạm thời và đặc biệt.


Nếu quyền lực của quốc gia luôn luôn đi đôi với cưỡng bách, quyền lực quốc gia không phải chỉ dựa trên sự cưỡng bách. Vì quyền lực quốc gia là một quyền lực pháp lý.


Quyền lực pháp lý có nghĩa là quần chúng phục tùng quyền lực ấy không phải vì sợ sệt mà chính vì có cảm tưởng rằng quyền lực ấy cần phải được vâng lời. Nói một cách khác, cuộc sinh hoạt thường xuyên trong một quốc gia được bảo đảm – không phải vì quân đội hay cảnh sát đứng đầy đường – mà trái lại vì công dân nhận thức rằng uy quyền quốc gia cần phải được tôn trọng vì đó là uy quyền chính đáng.


Khái niệm chính đáng là một khái niệm tối quan trọng vì nó là căn bản của mối đồng tâm chính trị. Để hiểu rõ, cần phải phân biệt thế nào là chính đáng, thế nào là hợp pháp.


Đoạn 1: HỢP PHÁP VÀ CHÍNH ĐÁNG


A. Hợp pháp


Hợp pháp tức là phù hợp với luật pháp, tức là không trái với cái trật tự hiện hữu. Một hành vi, một hiện tượng hợp pháp là một hành vi hay hiện tượng xảy ra một cách thường xuyên trong khung cảnh và trật tự hiện hữu.


Thật vậy, khi chúng ta nhìn vào hệ thống pháp luật của bất cứ một quốc gia nào, chúng ta nhận thấy rằng hệ thống đó là một hệ thống có đẳng cấp. Mọi quy tắc cần phải phù hợp và tôn trọng quy tắc trên. Các đạo luật phải phù hợp với Hiến pháp. Các hành vi pháp lý của nhà cầm quyền hành pháp không thể trái ngược với luật lệ hiện hành. Tóm lại, hiệu lực của mọi quy tắc tùy thuộc ở sự tương đồng với quy tắc cao hơn. Hợp pháp chung qui là sự bất tương phản giữa những quy tắc trong khung cảnh của trật tự hiện hữu.


B. Chính đáng


Danh từ chính đáng gợi lên một ý niệm cái gì không trái với lẽ phải. Chính đáng -  không phải là phù hợp với luật lệ, phù hợp với trật tự hiện hữu – mà là phù hợp với một nguyên tắc căn bản được xem là căn nguyên của chính quyền. Một hành vi hợp pháp là một hành vi ấn định đúng theo những điều kiện dự liệu bởi một qui tắc cao hơn. Một hành vi chính đáng là một hành vi đúng với lẽ phải, phù hợp với sự tư tưởng, sự nhận thức rằng đó là lẽ phải, đó là nguyên tắc của cuộc sống chung.


Đoạn 2: NGUYÊN TẮC DÂN CHỦ: NGUYÊN TẮC CHÍNH ĐÁNG TRONG XÃ HỘI CẬN ĐẠI


Những nhận xét đó cho chúng ta thấy rằng nguyên tắc chính đáng là nền tảng của chính quyền trong một xã hội nhất định. Nguyên tắc chính đáng là căn nguyên của mối đồng tâm chính trị. Một chính quyền chính đáng – không hẳn là một chính quyền bảo đảm quyền lợi chung – một chính quyền tốt, mà là một chính quyền mà đại đa số quần chúng cho là chính đáng.


Nguyên tắc chính đáng – chung qui là một hệ thống tin tưởng của đa số quần chúng trong một giai đoạn nhất định tin tưởng rằng chính quyền nào đó phù hợp với lẽ phải, với sự sống chung.


Và vì là một lòng tin – nghĩa là cái gì thiêng liêng, sâu xa, mật thiết với tâm tình, cho nên nội dung của sự tin tưởng đó đổi thay tùy theo thời gian và không gian, nghĩa là trong giai đoạn lịch sử và trong một cộng đồng chính trị. Trong một quốc gia nhất định, ở một khoảng thời gian nhất định, đại đa số công dân có một ý niệm khá rõ rệt về tính cách chính đáng của một chính quyền, nghĩa là họ quan niệm rằng một chính quyền phải như thế này, thế này mới được ủng hộ và vâng lời một cách thành thật và tự nhiên.


Nhìn lại lịch sử, chúng ta thấy rằng, cho đến thế kỷ thứ 18, có thể nói rằng trên toàn cả thế giới, nguyên tắc chính đáng đương thời là Nguyên tắc quân chủ.


Người ta – thời ấy – tin rằng người nắm chính quyền phải là một vị vua, và theo thứ tự phải là hoàng tử mới nối ngôi.


Trong một xã hội tân tiến ngày nay, trong xã hội cận đại, nguyên tắc quân chủ không còn là nguyên tắc chính đáng nữa. Ngày nay, quần chúng trong hầu hết các nước trên thế giới không còn tin tưởng rằng: “Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”.


Ngày nay nguyên tắc chính đáng là nguyên tắc dân chủ. Như thế có nghĩa là nền tảng của chính quyền do sự đồng ý của công dân. Và sự đồng ý này cần phải được lập đi lập lại. Nghĩa là công dân đồng ý giao phó cho một nhóm người lãnh đạo không phải một cách vĩnh viễn. Trái lại, trong một định kỳ nào đó, sự đồng ý đó có thể bị rút lại để giao phó cho một nhóm khác.


Dù sao xin nhắc lại nguyên tắc dân chủ là nguyên tắc chính đáng trong xã hội cận đại. Và nguyên tắc dân chủ nằm trên sự đồng ý của công dân. Đó là một sự tin tưởng. Chúng ta có thể cho rằng nguyên tắc ấy là sai, cũng như chúng ta có thể nói rằng tin tưởng như thế là đúng. Nhưng đó chỉ là phê bình về giá trị. Sự phê bình không cho phép chúng ta quên rằng sự tin tưởng ở nguyên tắc dân chủ ấy có vì đó là một sự kiện xã hội mà chúng ta không thể phủ nhận.


Để chứng minh sự hiện hữu của sự kiện xã hội này, chúng ta có thể nói rằng trên thế giới ngày nay có thể có những xã hội không dân chủ, những quốc gia không có tính cách dân chủ, nhưng không có một xã hội nào, một quốc gia nào mà ở đấy nhà lãnh đạo không dựa vào nguyên tắc dân chủ.


Từ Tổng thống Johnson ở Mỹ đến ông Kosygin ở Nga[i], xuyên qua De Gaulle, Mao Trạch Đông cũng như Sukarno[ii], Sihanouk, v.v…, ai cũng cho rằng ta đây là dân chủ số một.


Đấy sự tin tưởng ở nguyên tắc dân chủ hết sức lan rộng và mỗi người vịn vào đó để mà chống địch thủ của mình.


Chẳng những trên bình diện quốc tế mà còn ngay trong nội bộ của mỗi quốc gia. Đối lập chống chính quyền, chính đảng này cùng chính đảng khác, giai cấp đấu tranh đều dựa vào nguyên tắc dân chủ.


Mục II: KHÁI NIỆM DÂN CHỦ


Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA


Đoạn 2: CHỦ QUYỀN


Như chúng ta đã nói, nguyên tắc dân chủ được xem là chính đáng trong xã hội ngày nay. Không có ai dám hô hào rằng mình không dân chủ. Xứ nào cũng tự gán cho danh từ dân chủ và khối nào cũng nhận rằng mình là dân chủ chân chính và các nước thuộc khối khác là dân chủ giả hiệu.


Nhưng thế nào là dân chủ? Đâu là nội dung của khái niệm dân chủ? Hẳn các bạn cũng ý thức rằng câu trả lời không phải dễ dàng. Dù thế, cũng phải trả lời vì ý niệm dân chủ tối quan trọng trong cuộc sinh hoạt chính trị ngày nay. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta không thể đi sâu vì các bạn chưa nắm vững nhiều khái niệm liên hệ. Chúng ta sẽ còn dịp để nhận định một cách rõ rệt danh từ dân chủ. Ở đây chỉ là một cái nhìn tổng quát của khái niệm dân chủ.


Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA


A. Có rất nhiều định nghĩa, giải thích hoặc phân tách từ dân chủ:


- Chế độ dân chủ là chế độ trong đó có các người cầm quyền đều do dân bầu lên. Ở chỗ nào có những cuộc bầu cử tự do và thành thật tức là ở chỗ đó có dân chủ.


- Dân chủ là một chính phủ của dân, do dân và vì dân.


- Dân chủ trước hết là tự do.


- Dân chủ chính trị là một chế độ trong ấy sự điều khiển việc nước được đặt dưới sự kiểm soát của dư luận quần chúng, thể hiện bởi đa số công dân trong nước.


B. Đó là một vài định nghĩa tiêu biểu về danh từ dân chủ. Mỗi định nghĩa nhấn mạnh ở một khía cạnh quan trọng, đều có lý của nó.


Nếu chúng ta xem qua những chủ thuyết về dân chủ và nhìn lại sự diễn tiến của xã hội suốt gần 2 thế kỷ nay, đặc điểm mà chúng ta cần lưu ý, đặc điểm có thể gọi là tinh túy của dân chủ, là khái niệm dân chủ bao gồm hai yếu tố vừa bổ sung vừa mâu thuẫn. Hai yếu tố ấy là tham gia và kháng cự. Thật vậy, nói đến dân chủ là liên tưởng đến sự đồng ý cùng sự tham gia của đa số công dân vào chính quyền. Dân chủ, ở đây, tức là sự đồng hóa tối đa của nhà cầm quyền và dân chúng. Nhưng đồng thời, dân chủ là kháng cự chống chính quyền. Đấy là hai yếu tố tham gia và kháng cự, hai yếu tố vừa bổ sung vừa mâu thuẫn của ý niệm dân chủ. Và hai yếu tố quan trọng của khẩu hiệu dân chủ được chứng minh không những bởi lịch sử mà còn cả trên phương diện lý luận nữa.



Thật vậy, xét theo lịch sử, khi phong trào dân chủ chớm nở, dân chủ được quan niệm là một dụng cụ, một thứ khí giới để chống lại chuyên chế, áp bức, cường quyền. Dân chủ có nghĩa là giải phóng con người, đem lại tự do công bằng cho toàn dân. Đó là trạng thái kháng cự của danh từ dân chủ. Đồng thời và lần lần ý niệm dân chủ tiến xa hơn: không những kháng cự chống bạo quyền mà còn tranh đấu để giành lại chính quyền cho nhân dân. Quyền bầu cử càng ngày càng được lan rộng và lần lần đi đến phổ thông đầu phiếu. Những cơ quan không được bầu cử lần lần mất cả quyền hành để nhường chỗ lại cho cơ quan do dân chúng bầu lên. Hậu quả của các sự kiện này là một sự tham gia tích cực càng ngày càng tăng, tham gia của công dân vào việc hành xử chính quyền.
Đứng trên phương diện hợp lý mà suy xét, chúng ta cũng nhận thấy sự trùng hợp giữa tham gia và kháng cự. Thật vậy, sự đồng ý của dân chúng chỉ có giá trị khi nào sự đồng ý đó được biểu hiện một cách tự do. Cho rằng chính phủ có lòng dân, cho rằng đảng này được dân bầu để nắm chính quyền, quả quyết như thế chỉ có giá trị trong một khung cảnh tự do không áp lực.

Mà nói đến tham gia kháng cự nghĩa là đề cập đến một nguyên tắc căn bản của nền dân chủ: nguyên tắc tự do chính trị. Tự do chính trị có nghĩa là toàn dân ấn định tự do đường lối chính trị của quốc gia, là mỗi công dân tự do tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị. Dân chủ đòi hỏi rằng mỗi công dân có quyền tham gia – một cách đồng đều nhau – để lấy quyết định liên hệ đến vận mệnh của quốc gia.


Tự do chính trị bao hàm yếu tố tự trị về chính trị của công dân. Tự trị đối với Nhà nước, với chính quyền. Nhà nước – trong chính thể dân chủ – có bổn phận để cho tất cả các ý kiến chính trị thành hình, phát biểu, tuyên bố và ảnh hưởng đến dư luận. Chính quyền không thể ngăn cản một chính kiến nào, một chương trình nào, chính quyền không thể có độc quyền về chính kiến hay đường lối chính trị quốc gia.


Tóm lại, chế độ dân chủ dành một khung cảnh đấu tranh công khai và tự do cho tất cả chính kiến, đấu tranh để chiếm đoạt chính quyền. Tự do chính trị là linh hồn của chế độ dân chủ.


Hơn nữa khi đề cập đến nguyên tắc tự do chính trị cần phải thấu triệt phạm vi giá trị khổng lồ của tự do này. Thật vậy, ý thức chính trị – nghĩa là ý tưởng, lòng tin, cảm tình – không phải có tính cách biệt lập, tách rời trạng thái lương tâm của con người. Trái lại nó tiềm tàng và liên hệ mật thiết với nhân sinh quan và vũ trụ quan của con người. Bởi thế, tự do chính trị không thể tách rời tự do tín ngưỡng và một cách tổng quát tự do tinh thần. Chế độ dân chủ từ khước Nhà nước – độc quyền sử dụng, chi phối cuộc sống tinh thần của công dân.


Đoạn 2: CHỦ QUYỀN


Đề cập đến chủ quyền tức là đề cập đến hai vấn đề tối quan trọng liên quan đến hai khía cạnh của thuyết chủ quyền, đó là vấn đề nguồn gốc của chủ quyền và vấn đề ai nắm chủ quyền.


A. VẤN ĐỀ NGUỒN GỐC CHỦ QUYỀN


Trái với các thuyết thần quyền quan niệm rằng chủ quyền bắt nguồn từ Thượng đế, chủ nghĩa dân chủ giải quyết vấn đề nguồn gốc chủ quyền bằng giả thuyết Dân ước. Theo giả thuyết này, chủ quyền là kết quả của một khế ước mà mọi người quyết định từ bỏ trạng thái thiên nhiên để thành lập xã hội. Hai tác giả trứ danh: người Anh John Locke trong quyển Essai sur le gouvernement civil[iii] và người Pháp J.J. Rousseau trong quyển Du Contrat Social đã phổ biến ý tưởng quan trọng này.


1. Con người trong trạng thái thiên nhiên


Trạng thái thiên nhiên là trạng thái của loài người trước khi thành lập xã hội. Theo Locke, trạng thái thiên nhiên là trạng thái của tự do và bình đẳng. Con người hoàn toàn sống sung sướng – trong trạng thái này. Tuy nhiên, con người – dù sung sướng – vẫn chưa được hoàn toàn. Con người vì dục vọng, vì quyền lợi có thể thiên vị trong việc xét đoán những vấn đề liên hệ đến mình hay gia đình mình. Sự thiếu công bình này có thể là đe dọa trực tiếp cho tự do và bình đẳng thiên nhiên của loài người. Vì thế cần có luật lệ rõ ràng mà mọi người công nhận; cần có uy quyền để phán xét phân minh. Và nhu cầu này dẫn đến việc từ bỏ trạng thái thiên nhiên để thành lập xã hội.


Theo Rousseau, con người, trong trạng thái thiên nhiên, sống riêng nhau và ít liên lạc với nhau. Vì con người bẩm tính vốn tốt, vì tính vị kỷ không có cơ hội xuất hiện, trong trạng thái thiên nhiên không có thù oán nhau, xung đột nhau. Mọi người sống một đời sống giản dị, đơn sơ, bình đẳng và hưởng tất cả quyền thiên nhiên của mình. Tuy nhiên vì nhu cầu của sự sống, con người lần lần liên kết lại với nhau và trong những mối tương quan ấy xẩy ra những xung đột, giết chóc lẫn nhau. Tính tốt của con người tự nhiên mất lần và nhường chỗ cho độc ác.


Để chấm dứt sự xâu xé đau khổ này, Rousseau chủ trương tổ chức lại xã hội và trong quyển “xã hội khế ước” ông tìm cách giải thích vì sao con người từ bỏ trạng thái thiên nhiên và cố gắng tìm một nền tảng hợp lý cho xã hội loài người.


2. Dân ước


Theo Locke, vì muốn sung sướng hơn; con người thành lập xã hội. Và sự thành lập này do một sự đồng thuận của con người. Dữ kiện căn bản này nói lên sự kiện tối quan trọng: đó là sự đồng ý của dân chúng trong việc thiết lập chính quyền. Dân ước của Locke có những đặc điểm sau đây:


a. Khi thành lập khế ước, dân chúng tự nhường lại cho xã hội hai loại quyền hành mà họ nắm giữ trong trạng thái thiên nhiên. Quyền thứ nhất là quyền làm điều gì mà người ta xét là nên làm để bảo vệ tính mạng của mình và kẻ khác. Quyền thứ hai là quyền trừng phạt kẻ vi phạm luật lệ thiên nhiên. Hai quyền này – tức là quyền hành pháp và quyền lập pháp – con người nhường lại cho xã hội để đặt dưới sự điều khiển của luật pháp.


b. Dù sống chung nhau trong xã hội, con người vẫn còn giữ lại một số đặc quyền. Sự kiện mà con người nhường quyền lập pháp cho xã hội không có nghĩa là con người phải bị sự chi phối chuyên chế của xã hội mà trái lại, những quyền thiên nhiên của con người vẫn tồn tại – sau khi có khế ước – tồn tại để hạn chế quyền xã hội và bảo đảm tự do của con người. Vì cứu cánh của xã hội là bảo tồn sinh mạng, tự do và tài sản của con người, quyền lập pháp của xã hội không thể vượt hẳn mức cần dùng của công ích. Quyền lực xã hội không thể có tính cách tuyệt đối, chuyên chế đối với sinh mạng, tự do và tài sản của công dân.


c. Đặc điểm trên cho ta thấy rằng dù có khế ước, dân chúng vẫn nắm quyền tối cao trong xã hội. Họ chỉ ủy nhiệm quyền lực tối cần cho xã hội chứ không thần phục xã hội. Dân chúng vẫn giữ quyền quyết định tối hậu nếu cần. Và trong trường hợp chính quyền trở nên chuyên chế, dân có quyền nổi loạn, quyền mà Locke đặt tên là Quyền kêu gọi đến Trời.


Rousseau cũng giải thích rằng sự kiện mà con người từ bỏ tình trạng thiên nhiên để thành lập xã hội là do nơi sự thỏa thuận của con người. Ông phủ nhận võ lực là nền tảng của xã hội, vì võ lực có tính cách cưỡng bách và tạm thời. Ông cũng phủ nhận thuyết thần quyền quan niệm rằng quyền lực xã hội bắt nguồn từ Thượng đế nghĩa là Trời phú cho một người hay một triều đại nào đó uy quyền có thể bắt kẻ khác phục tùng. Bởi vậy nguồn gốc của xã hội loài người là khế ước. Và khế ước này có một điều khoản như sau:


“Mọi người chúng ta mang góp làm thành của chung tất cả cá nhân và khả năng của mình, đặt nó dưới sự điều khiển tối cao của ý chí chung, và tất cả chúng ta họp lại thành một tập thể để chấp nhận sự tham gia‘ của mỗi nhân viên là một phần tử bất khả phân của ‘tập thể đó.”


Như vậy, theo bản khế ước xã hội, chủ quyền sẽ giao cho một vị chủ tế: đó là ý chí chung. Danh từ ý chí chung của Rousseau có một ý nghĩa đặc biệt. Ông quan niệm rằng khi toàn dân họp lại để quyết định, thì ý chí của họ là ý chí chung và quyết định của họ chắc chắn là hợp với quyền lợi chung. Đây là định lý căn bản của tư tưởng Rousseau và chính định lý này thể hiện khái niệm dân chủ chống lại quan niệm thời trước cho rằng quyền lợi của nhà Vua trùng hợp với quyền lợi của quốc gia và ý chí của vua là ý chí của quốc gia.


Tóm lại, điều cần lưu ý là chủ nghĩa dân chủ giải thích nguồn gốc của chủ quyền bằng giả thuyết dân ước, cho chủ quyền một nguồn gốc cá nhân và khế ước.


B. AI NẮM CHỦ QUYỀN


Nguyên tắc chính đáng trong xã hội ngày nay: nguyên tắc dân chủ. Mà dân chủ tức là dân chúng tham gia chính quyền. Dân chủ tức là chủ quyền thuộc về toàn dân. Nhưng chủ quyền thường thường được quan niệm ra sao? Và hậu quả của các quan niệm ấy như thế nào? Hai vấn đề mà chúng ta lần lượt trình bày.


a. THUYẾT CHỦ QUYỀN NHÂN DÂN VÀ THUYẾT CHỦ QUYỀN QUỐC DÂN


1. Thuyết chủ quyền nhân dân


Khi mà chúng ta nói rằng chủ quyền thuộc về toàn dân, ý nghĩa đầu tiên là chủ quyền của nhân dân; nghĩa là người nắm chủ quyền trong nước là nhân dân. Nhân dân ở đây được định nghĩa là tất cả các công dân, trong nước trong một thời gian nhất định. Nhân dân là tất cả đàn ông, đàn bà, già trẻ, có thể nhận ra được, có thể đếm đầu được, những cá nhân cụ thể, riêng biệt. Nếu trong một quốc gia có 1.000 công dân, thì mỗi công dân có một phần 1.000 (1/1000) chủ quyền. Mỗi công dân nắm giữ một phần nhỏ chủ quyền.


2. Thuyết chủ quyền quốc dân


Nếu trong thuyết chủ quyền nhân dân, người nắm chủ quyền là nhân dân, là những công dân cụ thể, thì trong thuyết chủ quyền quốc dân, người nắm chủ quyền là quốc dân, nghĩa là quốc gia dân tộc. Quốc dân gợi lên ý niệm một thực thể trừu tượng, khác và riêng biệt hẳn với cá nhân trong hiện tại, mà luôn cả trong quá khứ và tương lai. Vì là một thực thể trừu tượng, vì là một pháp nhân riêng biệt, quốc dân là một, chủ quyền thuộc về quốc dân không thể phân tán được.


b. HẬU QUẢ CỦA HAI THUYẾT CHỦ QUYỀN


Trên phương diện hoàn toàn lý thuyết, chọn lựa một trong hai thuyết chủ quyền là một điều tối quan trọng vì mỗi chủ thuyết phản ảnh những quan niệm riêng biệt về việc áp dụng dân chủ. Thật vậy, quyết định rằng chủ quyền thuộc về quốc dân hay nhân dân sẽ đưa đến 3 hậu quả riêng biệt sau đây:


1. Bản tính của tuyển cử


Vấn đề đặt ra là tuyển cử là một công quyền, một quyền của công dân hay là một nhiệm vụ?


Nếu chúng ta chấp nhận nguyên tắc chủ quyền về nhân dân, thì mỗi công dân – vì là một phần tử của nhân dân – phải có quyền bầu cử. Bầu cử là một quyền của mỗi công dân, vì mỗi công dân nắm lấy một phần chủ quyền. Vì quyền này không thể phủ nhận được.


Nếu chúng ta chấp nhận nguyên tắc chủ quyền thuộc về quốc dân, thì hậu quả liên hệ đến bản tính của tuyển cử hoàn toàn trái ngược.


Chủ quyền thuộc về quốc dân. Mà quốc dân, như chúng ta đã biết, là một thực thể trừu tượng khác hẳn với nhân dân trong nước. Mỗi công dân không phải là một phần tử của quốc dân. Vì thế khi công dân đi bầu cử, họ thi hành một nhiệm vụ mà tác giả của chủ quyền – quốc dân – giao phó chứ không phải sử dụng một quyền riêng của mình. Tóm lại, thuyết chủ quyền nhân dân đưa đến thuyết bầu cử một quyền; thuyết chủ quyền quốc dân đưa đến thuyết bầu cử một nhiệm vụ. Đi xa hơn nữa, vì tuyển cử là một quyền của mỗi công dân, cuộc đầu phiếu phải là một đầu phiếu phổ thông và tùy ý. Trái lại khi thi hành một nhiệm vụ được quốc dân giao phó, cuộc đầu phiếu giới hạn và bắt buộc.


Tóm lại:



Chủ quyền nhân dân – quyền tuyển cử: phổ thông tùy ý
Chủ quyền quốc dân – nhiệm vụ tuyển cử: giới hạn bắt buộc.

2. Tính chất của nền dân chủ


Chấp nhận thuyết chủ quyền nhân dân tức là quả quyết rằng tất cả các công dân, những con người cụ thể trong một quốc gia nhất định có chủ quyền và sử dụng chủ quyền. Bởi thế cho nên, lý tưởng là chính các công dân tự quyết định lấy các vấn đề liên hệ đến quốc gia. Nhưng thực tế thì không thể như thế được. Bầu đại diện là một điều cần thiết. Nhưng là một điều bất đắc dĩ. Công dân không thể nào luôn luôn chăm lo việc nước. Vì thế mà thuyết chủ quyền nhân dân chủ trương rằng để giảm bớt vai trò của đại diện – một điều bất đắc dĩ, vì đáng lý chính các công dân phải định đoạt lấy mỗi khi cần và nếu có thể được nên tham khảo ý dân một cách trực tiếp. Thuyết chủ quyền nhân dân chủ trương áp dụng càng nhiều càng hay những phương pháp thực hiện ý chí nhân dân ví dụ như trưng cầu dân ý.


Trái lại trong thuyết chủ quyền quốc dân, quốc dân – vì là một thực thể trừu tượng – chỉ có thể phát biểu qua sự trung gian của đại diện. Quốc dân là người có chủ quyền, nhưng không thể sử dụng trực tiếp mà phải ủy thác quyền đó cho những người đại diện. Những người đại diện này – nghị sĩ hay dân biểu – nói lên tiếng nói của quốc gia, chính họ và tự họ biểu hiện ý chí quốc gia vì các công dân không phải là quốc gia mà cũng không phải là đại diện của quốc gia. Vì thế, thuyết chủ quyền quốc dân quan niệm việc bầu cử đại diện là một sự cần thiết thực tiễn, chứ không phải một điều bất đắc dĩ.


Tóm lại, thuyết chủ quyền nhân dân chủ trương một chế độ dân chủ bán trực trị, thuyết chủ quyền quốc dân chủ trương chế độ dân chủ đại nghị.


3. Vai trò của đại diện


Hoàn toàn khác hẳn trong thuyết chủ quyền nhân dân hay chủ quyền quốc dân. Trong thuyết chủ quyền nhân dân người ta quan niệm rằng sự ủy nhiệm quyền lực có tính cách đặc biệt hạn chế. Đặc biệt có nghĩa là các vị đại diện có sức mạnh biểu hiện ý chí của công dân; một số công dân nhất định tức là cử tri của đơn vị mình. Họ là phát ngôn viên của cử tri của họ. Hạn chế có nghĩa là vị đại diện bắt buộc phải thực hiện những gì đã cam kết với nhân dân khi ra tranh cử. Ví dụ khi biểu quyết ở Quốc hội, các vị đại diện phải biểu quyết theo chiều hướng mà họ đã tuyên bố với cử tri. Tóm lại, vị đại diện chịu mệnh lệnh của cử tri. Tính cách đặc biệt và hạn chế của việc ủy nhiệm cho chúng ta thấy rằng thuyết chủ quyền nhân dân quan niệm rằng giữa đại diện và cử tri có một khế ước rõ rệt, theo đó, vị đại diện phải thi hành những cam kết được ấn định đối với cử tri.


Trái lại, trong thuyết chủ quyền quốc dân, người ta quan niệm rằng không có một sự liên lạc gì giữa công dân và đại diện. Tại sao? Vì đại diện là đại diện của quốc dân, một thực thể trừu tượng, một pháp nhân riêng biệt khác hẳn công dân. Dân biểu hay nghị sĩ là đại diện của toàn thể quốc dân chứ không phải của một nhóm cử tri, của một tỉnh hay một đơn vị nào. Và toàn thể đại diện biểu dương cho ý chí của dân tộc, của quốc dân. Thuyết chủ quyền quốc dân chủ trương rằng giữa đại diện và nhân dân không có một khế ước nào mà đại diện bắt buộc phải thi hành và chịu mệnh lệnh. Đại diện một khi được bầu cử, đại diện cho toàn dân và tự do phát biểu ý kiến trong Quốc hội. Sự ủy quyền có tính cách tổng quát nhưng không phải đặc biệt và hạn chế như trong thuyết chủ quyền nhân dân. Tóm lại:



Độc lập về nguyên tắc của đại diện đối với cử tri
Không có liên lạc pháp lý giữa một dân biểu và đơn vị bầu cử của vị đó.

C. NHẬN XÉT VỀ HAI LÝ THUYẾT TRÊN


Hai lý thuyết – chủ quyền nhân dân và chủ quyền quốc dân – mà chúng ta vừa phân tích nội dung cùng hậu quả liên hệ, lẽ dĩ nhiên không một lý thuyết nào phản ảnh thực tại chính trị, vì đó chỉ là lý thuyết có một lịch sử của nó và có một tác dụng nhất thời.


Thuyết chủ quyền quốc dân – chẳng hạn – thuộc về huyền học, cho rằng có một pháp nhân riêng biệt, một con người trừu tượng gọi là quốc dân là tác giả của chủ quyền hoàn toàn là một chuyện hoang đường, giả định. Tuy nhiên thuyết chủ quyền quốc dân có một tác dụng liên hệ đến lịch sử chính trị Pháp Quốc. Các nhà Cách mạng Pháp năm 1789, thuộc về giai cấp trung lưu – đã đề xướng thuyết này một mặt nhằm mục tiêu loại hẳn nhà vua khỏi chính quyền, cho rằng quốc dân là tác giả của chủ quyền thì đương nhiên đạp đổ chế độ quân chủ. Mặt khác, khi đề xướng thuyết này giai cấp trung lưu đương thời nhằm chiếm độc quyền chính trị. Thật vậy, cho rằng quốc dân chỉ có thể biểu lộ ý chí qua sự trung gian của đại diện giai cấp trung lưu chắc chắn rằng đại diện ấy chỉ là người của họ vì chỉ có họ mới đủ khả năng về vật chất cũng như tinh thần để đề cử người đại diện.


Thuyết chủ quyền nhân dân cũng không lấy gì thực tế cho lắm. Thuyết này quên rằng văn minh trong xã hội cận đại phải dựa trên nguyên tắc phân chia nhiệm vụ. Không thể nào mà công dân trong một quốc gia thực sự và trực tiếp tự mình cai trị lấy mình. Không thể nào có giữa công dân và đại diện cái khế ước nào đó với những chỉ thị rõ rệt vì một lẽ giản dị là một chương trình ứng cử luôn luôn bao gồm những đường lối đại cương, còn việc quyết định phải luôn luôn đáp ứng với nhu cầu thiết thực và thay đổi mỗi ngày. Hơn nữa, nếu bất cứ cái gì cũng chờ về hỏi chỉ thị của cử tri thì không bao giờ chính quyền có thể làm việc được.


Còn về việc bản tính của tuyển cử – tuyển cử là một quyền hay một nhiệm vụ – đầu phiếu phổ thông, hạn chế, tùy ý hay bắt buộc, thực tại chính trị cho chúng ta biết rằng chế độ phổ thông đầu phiếu đã trở thành một qui luật dĩ nhiên, quá thông thường, dù cho chúng ta áp dụng chủ quyền nhân dân hay quốc dân. Đầu phiếu hạn chế đã trở thành quá lạc hậu.


Tóm lại, sự khác biệt giữa chủ quyền nhân dân và quốc dân có tính cách hoàn toàn lý thuyết[iv] và chỉ có giá trị trên phương diện lý luận.


Vấn đề dân chủ là một vấn đề phức tạp. Tất cả vấn đề là đặt một hệ thống theo đó, toàn thể công dân có thể chịu một giải pháp nhất định – và một khi giải pháp được chọn xong – giao cho những cơ quan chính quyền thực hiện giải pháp đó.


Dân chủ không liên hệ gì đến con người trừu tượng, thần bí mà người ta gọi là quốc dân trong lúc đó chính những công dân cụ thể mới là thực tế và phải chú ý. Dân chủ cũng không có nghĩa là dân chúng bất cứ lúc nào và trong trường hợp nào, phải định hoạt lấy số mệnh của mình theo ý mình.


Chúng ta cần luôn luôn ý thức điều tối quan trọng này.


Mục III: ĐẠI CƯƠNG VỀ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ


Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA VỀ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ


Đoạn 2: PHÂN LOẠI CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ


Đoạn 3 : CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ VÀ KHÔNG DÂN CHỦ


Đoạn 4 : NHỮNG HÌNH THỨC DÂN CHỦ


Khái niệm chế độ chính trị có một nội dung rất là phong phú và vượt hẳn khuôn khổ của một hệ thống có hiến tính. Một hệ thống có hiến tính – tức là hệ thống bao gồm các qui luật về tổ chức chính quyền. Các qui luật này đành rằng là những nguyên tắc tối quan trọng cho cuộc sinh hoạt nhưng không phải luôn luôn có tính cách quyết định.


Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA VỀ CHẾ ĐỘ CHÍNH-TRỊ


Thế nào là một chế độ chính trị? Chúng ta sẽ lần lượt trình bày định chế và chế độ chính trị.


A. ĐỊNH CHẾ CHÍNH TRỊ


Bất cứ một quốc gia nào cũng có một số định chế. Các định chế này – thường được gọi là “bộ máy chính quyền” – có tác dụng bảo đảm việc thống trị quốc gia, việc hành xử các công tác chính yếu trong quốc gia, là định chế chính trị. Danh từ định chế chính trị bao gồm một số cá nhân hay hội đồng được giao phó nhiệm vụ điều khiển, cá nhân hay hội đồng được chọn lựa và phải hành động theo những quy tắc ấn định và hợp thành một hệ thống liên tục và lâu dài. Cũng được xem là định chế chính trị, một số quy tắc về thể thức ấn định cách chiếm và hành xử chính quyền. Các định chế chính trị hoàn toàn khác biệt từ xứ này qua xứ khác và ngay trong một quốc gia tùy theo giai đoạn lịch sử.


B. CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ


Nói đến chế độ chính trị là nghĩ ngay đến bản chất, sự phối hợp cùng mối tương quan của những định chế chính trị, đến những nguyên tắc tinh thần chi phối và hướng dẫn các định chế ấy, đến khung cảnh tổng quát trong ấy các định chế được điều hành.


Theo nghĩa rộng, chế độ chính trị quy định sự phân biệt và mối tương quan giữa quyền thống trị và kẻ bị trị. Theo nghĩa hẹp, chế độ chính trị tức là cơ cấu chính quyền của một quốc gia.


Dù sao, nghiên cứu một chế độ chính trị tức là khảo sát một tổ chức và một sự chuyển động. Khảo sát một tổ chức là nghiên cứu những định chế được phối hợp như thế nào, thẩm quyền cùng thể thức hành động của các định chế ấy ra sao. Khảo sát một sự chuyển động tức là xem xét bước tiến của các định chế chính trị, thực tế của cuộc sinh hoạt chính trị cùng chiều hướng tiến triển của chế độ.


Một chế độ chính trị, ngoài hệ thống pháp lý, còn bao gồm nhiều yếu tố khác nữa, ví dụ như sự thực hành chính trị, những tư tưởng hay tin tưởng chính trị, cũng như những cơ cấu chính trị cụ thể (chế độ chính đảng, hay đoàn thể áp lực)


Chế độ chính trị có tính cách tập họp. Người ta có thể nói rằng trong một chế độ chính trị, lẫn lộn cùng nhau, cùng nhau điều hòa những giá trị, những cơ cấu và những kỹ thuật pháp lý.


a. Giá trị: một hệ thống giá trị: quan niệm về con người về vũ trụ dù rằng không hoàn hảo, có tính cách tương phản, hệ thống giá trị luôn luôn là nền tảng của một chế độ chính trị.


b. Cơ cấu: những gì còn lại, ở một hoàn cảnh xã hội, trong một quốc gia nhất định, trong khoảng thời gian nhất định. Cơ cấu lịch sử, địa dư, tôn-giáo, tinh thần,…


c. Kỹ thuật pháp lý: quy tắc pháp luật và nhất là một Hiến pháp quy định nguyên tắc căn bản về tổ chức chính quyền quốc gia.


Định nghĩa chế độ chính trị ở đây sâu và rộng.


Đoạn 2: PHÂN LOẠI CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ


Làm thế nào để phân loại các chế độ chính trị? Người ta có thể đứng trên nhiều phương diện để sắp xếp các chế độ chính trị. Tuy nhiên, trước hết cần phải ý thức một điều căn bản sau đây :


Một cộng đồng chính trị, một quốc gia không thể nào tồn tại được nếu không có uy quyền hay quyền lực của những nhà lãnh đạo. Trong lúc đó, công dân trong một quốc gia, trái lại, mong mỏi hay đòi hỏi một tự do tối đa. Chế độ chính trị, chung qui chính là những giải pháp cho một vấn đề căn bản, vấn đề ấy là sự đối lập giữa uy quyền và tự do. Lịch sử chính trị nhân loại phản ảnh một phần lớn mối tương tranh này. Tùy theo mức độ ý thức chính trị của công dân, tùy theo giai đoạn lịch sử, các chế độ chính trị hoặc nghiêng về uy quyền, hoặc nghiêng về tự do.


Một khi đã ý thức tư tưởng tổng quát này, chúng ta có thể dựa vào hai tiêu chuẩn phân loại các chế độ chính trị: hình thức, thực chất.


A. TIÊU CHUẨN HÌNH THỨC


Ở đây chúng ta dựa vào khung cảnh tổng quát, trong ấy các định chế chính trị được tổ chức và điều hành. Đứng trên quan điểm này, chế độ chính trị có thể phân ra: chế độ quân chủ, chế độ thiểu số, chế độ cộng hòa. Có chế độ quân chủ khi nào trong một quốc gia nhất định, quyền lực tối cao được giao phó cho một nhân vật chỉ định bởi những nguyên tắc thừa kế (quốc vương, đế vương). Chế độ thiểu số tức là chế độ trong ấy một thiểu số, một thành phần xã hội thu hẹp nắm trọn quyền lãnh đạo. Còn chế độ cộng hòa, chúng ta có thể định nghĩa một cách đơn giản: chế độ cộng hòa có trong quốc gia nào không có vị quốc vương.


B. TIÊU CHUẨN THỰC CHẤT


Tiêu chuẩn thực chất, tức là những nguyên tắc điều hành hướng dẫn cuộc sinh hoạt chính trị của chế độ. Ở đây chúng ta có thể phân biệt: chế độ pháp trị và chế độ chuyên chế; chế độ tự do và chế độ quyền uy; chế độ thực tế và chế độ có căn bản pháp lý.


1. Chế độ pháp trị và chế độ chuyên chế


Các chế độ chính trị được xem là chế độ pháp trị hay chế độ chuyên chế tùy thuộc hành động của nhà cầm quyền có bị giới hạn hay không trong khuôn khổ của luật pháp. Luật pháp là ý chí chung của toàn dân và chi phối – không phải chỉ có kẻ bị trị – luôn cả nhà cầm quyền: đó là nguyên tắc căn bản. Khi mà chính quyền định đoạt về tính mạng cùng tài sản của công dân, khi mà chính quyền có thể bắt bớ, giam cầm không xét xử, hoặc lên án khổ sai bằng những quyết định hành chính lờ mờ, khi mà luật lệ được biểu quyết bởi những nghị viên bù nhìn, hoặc bị đe dọa, thì chế độ chính trị không còn là chế độ pháp trị mà trái lại trở thành chế độ công an, mật vụ, nghĩa là một chế độ hoàn toàn chuyên chế.


2. Chế độ tự do và chế độ quyền uy


Một chế độ chính trị được xem là tự do khi mà nhà cầm quyền do chính công dân chọn lựa một cách tự do và một số tự do căn bản được nhìn nhận và bảo đảm thực sự cho công dân đối với chính quyền. Trái lại, trong chế độ quyền uy, công việc chỉ định nhà lãnh đạo một phần lớn không do ý chí của toàn dân và trong khi hành xử, chính quyền, nhà lãnh đạo được hưởng một tự do khá quan trọng.


Sự phân biệt này khá tế nhị, và có thể so sánh với các chế độ trên. Một chế độ quyền uy đồng thời có thể là một chế độ pháp trị, nghĩa là chính quyền vẫn được hành xử trong khung cảnh luật pháp và không vi phạm trắng trợn đến tự do căn bản cá nhân của công dân. Trái lại, một chế độ tự do có thể tạm thời trở thành quyền uy nhưng không chuyên chế, với những tình trạng khẩn cấp, giới nghiêm và quyền ban hành sắc luật của hành pháp v.v…


Các chế độ tự do thường được phát sinh sau cuộc cách mạng chống chế độ quân chủ chuyên chế, chế độ quyền uy thường nối tiếp chế độ tự do sau những cuộc thất bại quân sự, khủng hoảng chính trị, kinh tế trầm trọng.


3. Chế độ thực tế và chế độ pháp lý


Chế độ thực tế là chế độ chính trị xuất hiện sau một biến cố chính trị và chưa được dân chúng thừa nhận bởi những cuộc tuyển cử hay trưng cầu dân ý. Chế độ thực tế trở thành chế độ pháp lý sau khi đã chứng tỏ uy quyền và được công dân tín nhiệm. Chế độ pháp lý thường khởi sự bằng chế độ thực tế sau khi một chế độ pháp lý trước bị sụp đổ. Tuy nhiên không phải bất cứ chế độ thực tế nào cũng trở thành chế độ pháp lý. Nhiều chế độ thực tế chỉ có tánh cách tạm thời và phải nhường chỗ cho chế độ khác. Có thể chế độ pháp lý tiếp nối một chế độ pháp lý trước sau khi chính quyền được chuyển lại một cách bình thường và theo thể thức ấn định bởi Hiến pháp.


Trong chế độ thực tế, cơ cấu chính quyền không được hoàn hảo bằng các chế độ pháp lý. Và tùy theo khuynh hướng của các biến cố chính trị, các chế độ thực tế có thể là chế độ tự do hay chế độ quyền uy sau khi chế độ trước bị sụp đổ.


Đoạn 3: CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ VÀ KHÔNG DÂN CHỦ


A. Ngày nay như chúng ta đã biết, nguyên tắc dân chủ được tuyên bố khắp nơi và không một nước nào phủ nhận nguyên tắc dân chủ. Để có một ý niệm về những chế độ không dân chủ, chúng ta sẽ dò lại lịch sử. Và lịch sử chứng minh rằng đã có những chế độ, chẳng những không dân chủ mà còn tự hào là dân chủ.


* Loại thứ nhất của chế độ không dân chủ, chúng ta tìm thấy nơi chính thể quân chủ chuyên chế ngày xưa. Là một chính thể trong ấy căn nguyên của chủ quyền ở chính bản thân của nhà vua hoặc nơi gia tộc vì tất cả quyền lợi đều tập trung trong tay họ.


* Loại thứ hai: chế độ thiểu số: chế độ dành chủ quyền cùng việc hành xử chủ quyền cho một loại công dân nào đó: Ví dụ như công dân sinh trưởng trong gia đình quí tộc hoặc công dân đủ sức đóng góp ít nhiều tiền bạc. Tóm lại loại công dân hội đủ các điều kiện về sinh sản hoặc tiền bạc.


B. Có những chế độ tự hào rằng dân chủ nhưng thật ra không dân chủ chút nào: đó là những chế độ mà người ta gọi là độc tài. Chế độ độc tài có 3 đặc điểm :


* Trong chế độ độc tài, tất cả quyền hành đều tập trung vào tay một người hay một nhóm người dưới quyền điều khiển của một người.


* Nguồn gốc của chế độ độc tài có thể là một sự đồng ý của nhân dân. Sự đồng ý này hoặc đạt được trong những điều kiện thường xuyên hoặc bị cướp lấy, nghĩa là trong những điều kiện mờ ám (như gian-lận bầu cử). Nhưng dù có sự đồng ý thật sự của nhân dân, đặc điểm của chế độ độc tài là tổ chức thế nào để cho sự đồng ý đó không thể bị rút lại (Trường hợp Ngô Đình Diệm).


* Nhà độc tài sớm muộn gì cũng đi đến việc đàn áp, thủ tiêu đối lập, hạn chế tự do công cộng và có những biện pháp hành động có tính cách đàn áp.


Chế độ độc tài là một chế độ chính trị đã có từ nghìn xưa, nhất là ở thời thượng cổ. César ở Âu Châu, Tần Thủy Hoàng ở Á Đông là những nhân vật điển hình. Gần đây một hình thức mới của chế độ độc tài đã được áp dụng xuyên qua những chế độ phát-xít ở Đức Quốc, ở Ý Đại Lợi và Mác-xít ở Nga-Sô. Đặc điểm của những hình thức mới đấy là đảng cùng mật vụ và tuyên truyền chiếm một địa vị tối quan trọng trong cuộc sinh hoạt chính trị.


Thường thường chế độ độc tài kiểu mới này tự hô hào chế độ mình có tính cách dân chủ và dân chủ hơn các chế độ dân chủ khác. Nhưng nhìn kỹ đó chỉ là tuyên truyền và dân chủ giả hiệu vì:



Sự đồng ý của nhân dân luôn luôn bị cướp giật
Chính quyền tổ chức khôn khéo để tránh tất cả mọi kiểm soát của quốc dân và đại diện.
Và nhất là, một khi mà chủ mà mời khách vào rồi, khách ngồi ỳ ở đó và không đuổi ra được.

Trong chế độ dân chủ, cuộc đấu tranh chính trị được diễn ra một cách công khai và tự do. Người ta có thể quả quyết rằng, chỉ trong chế độ dân chủ mới có cuộc sinh hoạt chính trị: Thường thường có ít nhất là hai đảng nếu không nhiều hơn. Chế độ dân chủ thường được mệnh danh là chế độ đa nguyên. Cuộc đấu tranh chính trị có tính cách công khai và những phương tiện (tự do phát biểu, tự do ngôn luận v.v…) hậu thuẫn của sự tranh đấu thường được bảo đảm.


Trái lại, trong chế độ độc tài, không có cuộc đấu tranh chính trị. Và nếu có, thì sự đấu tranh chỉ có hình thức phe nhóm chống nhau để được lòng tin của nhà độc tài. Không có vấn đề phủ nhận chế độ, chính sách hay chính nhà độc tài.


C. NHẬN XÉT VỀ CỘNG HÒA VÀ DÂN CHỦ


Một chế độ được xem là dân chủ là một chế độ trong ấy, trên phương diện pháp lý cũng như trong thực tế, chủ quyền thuộc về toàn dân. Một chế độ được gọi là cộng hòa là một chế độ trong ấy không một nhà cầm quyền nào được chỉ định theo nguyên tắc thừa kế. Chế độ cộng hòa chống lại chính thể quân chủ thế tập.


Một chế độ dân chủ – trên phương diện luận lý – đương nhiên là một chế độ cộng hòa. Vì dân chủ là dân nắm chủ quyền và tham gia vào việc điều hành guồng máy quốc gia. Tuy nhiên thực tại chính trị cũng cho chúng ta biết rằng có những xứ dân chủ và đồng thời là những chính thể quân chủ. Ví dụ Anh Quốc, Thụy Điển, Hòa Lan, Nhật Bản v.v… Sự thật không có gì mâu thuẫn. Các vị vua chúa này không còn một thực quyền gì cả và chỉ đóng vai trò tượng trưng, chỉ là biểu hiện quốc gia. Cơ quan được thiết lập theo nguyên tắc thừa kế đó không nắm chính quyền thật sự và vì thế không ảnh hưởng gì đến việc điều hành dân chủ.


Dù sao cộng hòa và dân chủ là hai danh từ hoàn toàn độc lập. Những chế độ dân chủ đồng thời là những chính thể cộng hòa có thể nói là đa số.


Nhưng có những chính thể quân chủ – nghĩa là không cộng hòa – không dân chủ. Trái lại có những chính thể cộng hòa dân chủ và chính thể cộng hòa không dân chủ (độc tài).


Đoạn 4: NHỮNG HÌNH THỨC DÂN CHỦ


Ở đây chúng ta đứng trong một chế độ dân chủ mà quan sát. Nếu ý tưởng chỉ đạo của dân chủ là sự tham gia của dân chúng vào chính quyền, ý tưởng ấy có thể thực hiện bởi hình thức khác nhau và trên phương diện hoàn toàn lý thuyết, chúng ta có thể phân biệt 3 loại: dân chủ trực trị, dân chủ đại nghị, bán trực trị.


A. DÂN CHỦ TRỰC TRỊ


Chế độ dân chủ trực trị, nghĩa là chế độ dân trực tiếp cai trị, là chế độ trong ấy, nhân dân vừa nắm chủ quyền vừa hành xử chủ quyền. Nói một cách khác, nhân dân điều khiển thẳng việc nước. Như vậy, theo đúng tinh thần của dân chủ trực trị, không có sự phân biệt giữa nhà cầm quyền và người dân phải vâng phục. Vì chính dân là nhà cầm quyền.


Chế độ dân chủ trực trị là một chế độ dân chủ toàn diện, chế độ lý tưởng và như thế mới là dân chủ thực sự. Chính mình tự quyết định trên nguyên tắc, bao giờ cũng hay hơn là ủy thác cho kẻ khác quyết định thay mình. Vì ủy quyền thường thường là hủy bỏ quyền vậy.


Tuy nhiên trong mọi lãnh vực, lý tưởng bao giờ cũng khó mà đạt trên thế gian này. Nhất nhất chuyện gì – dù cho nhỏ đến đâu – có liên hệ đến tổ chức và điều hành chính quyền – cũng phải họp lại tất cả công dân để lấy quyết định, đó là một việc khó mà thực hiện được.


Dân chủ trực trị có thể thực hiện trong những nước rất nhỏ, khi số công dân rất ít. Ví dụ ở thời thượng cổ, Hy Lạp đã áp dụng một phần nào dân chủ trực trị, khi mà tại Athènes, hằng ngày công dân tự do hội họp, thảo luận và quyết định việc công. Ví dụ như ngày nay, trong một vài Tổng ở Thụy Sỹ, không có hội nghị dân cử. Thỉnh thoảng công dân họp lại để lấy những quyết định trọng đại căn bản liên hệ đến Tổng mình.


Dù sao, đó chỉ là kỳ vật của lịch sử. Chế độ dân chủ trực trị – dù là lý tưởng nhưng không thực tế và không phù hợp với xã hội văn minh đông đúc ngày nay.


B. DÂN CHỦ ĐẠI NGHỊ


Trong chế độ dân chủ đại nghị, thì trái lại, nhân dân nắm chủ quyền, nhưng không hành xử trực tiếp chủ quyền mà ủy thác chủ quyền cho những người đại diện quyết định thay mình. Vai trò của nhân dân – trong chế độ đại nghị – chỉ còn là bầu các vị đại diện ấy theo một định kỳ nhất-định. Ngoài ra, không tham dự trực tiếp vào quốc gia đại sự. Về việc nước sẽ do những người đại diện quốc dân điều khiển, người ta thấy rõ có một sự phân biệt giữa nhà cầm quyền – tức là những người được ủy thác chủ quyền – và những người bị trị.


C. DÂN CHỦ BÁN TRỰC TRỊ


Là một chế độ chiết trung, dung hòa hai hình thức trực trị và đại nghị. Trong chế độ dân chủ bán trực trị vừa có cơ quan đại diện mà vừa có những quyết định do chính nhân dân tự lấy. Nói một cách khác, thường thường việc điều khiển guồng máy quốc gia do cơ quan đại diện dân cử đảm nhiệm và chính những cơ quan này toàn quyền quyết định. Nhưng thỉnh thoảng, trong vài trường hợp đặc biệt, một vài quyết định quan trọng lại được giao phó lại cho nhân dân. Nhân dân tham dự trực tiếp một phần nào vào quốc sự. Trong lúc với nền dân chủ đại nghị ý chí của đại diện được xem là ý chí của quốc dân không thể chối cãi được, với nền dân chủ bán trực trị, nhân dân có dịp phủ nhận ý chí của đại diện mình, vì ở đây, công dân không phải chỉ biết bầu và đôi khi lại quyết định nữa. Và sự tham gia trực tiếp này được thể hiện qua những phương pháp sau đây:


a. Trưng cầu dân ý


Tức là thỉnh cầu ý dân. Tùy theo quan niệm của mỗi xứ phương pháp trưng cầu dân ý được áp dụng trong nhiều trường hợp khác nhau, với tính cách và điều kiện khác nhau.



Trước nhất, trưng cầu dân ý có thể được áp dụng cho việc lập hiến (khi thiết lập Hiến pháp) cho việc lập pháp hay cho một cải cách chánh trị quan trọng nào.
Điểm thứ hai: Trưng cầu dân ý có thể có tính cách tùy ý hay bắt buộc. Về một vấn đề nào đó, có thể ấn định rằng phải có sự trưng cầu dân ý hoặc có thể ấn định rằng việc đem ra trưng cầu dân ý tùy thuộc ở một cơ quan nào đó (hành pháp hay lập pháp).
Điểm thứ ba: trưng cầu dân ý có thể có tính cách trực tiếp hay gián tiếp. Trực tiếp tức là vấn đề được đưa ngay ra hỏi ý dân chứ không phải qua một cơ quan nào. Gián tiếp tức là trước khi trưng cầu dân ý, vấn đề đó phải được một cơ quan quyết định trước.

Đó là tính cách cùng điều kiện khác nhau về việc áp dụng trưng cầu dân ý. Phương pháp trưng cầu dân ý là một phương pháp quan trọng trong việc thực thi dân chủ. Tuy nhiên để có thể áp dụng phương pháp có hữu hiệu, chúng ta cần lưu ý hai điểm chính sau đây:



Trưng cầu dân ý biểu lộ sự tham gia trực tiếp của công dân vào những quyết định quan trọng của quốc gia. Ở đây, chính nhân dân là tác giả thật sự của một quyết định, vì một sự cải cách hay một đạo luật chỉ có hiệu lực và đem ra thi hành khi nào nhân dân biểu quyết chấp thuận.
Trưng cầu dân ý chỉ có giá trị và đồng thời là một phương pháp dân chủ khi nào những kẻ sử dụng không làm sai lạc ý nghĩa. Chúng ta có thể nói rằng có hai điều kiện cần phải có để cho trưng cầu dân ý giữ được tính chất dân chủ của nó:


Vấn đề đặt ra cho dân chúng phải là một vấn đề nội dung, chứ không nên là một vấn đề con người. Nhân dân được thỉnh ý về một vấn đề như thế này, với những nguyên tắc và hậu quả như vậy. Một vấn đề có thể hết sức khó khăn, rõ ràng.
Quyền đem một vấn đề trưng cầu dân ý không nên là một độc quyền của một cơ quan chính trị. Hoặc trưng cầu dân ý có tính cách bó buộc, đương nhiên phải có, chiểu theo Hiến pháp, hoặc trong trường hợp tùy ý, nên giao cho vài cơ quan công quyền, chứ đừng có độc quyền. Trưng cầu dân ý sẽ là một khí cụ sắc bén của cơ quan nào có độc quyền sử dụng vì cơ quan này có thể đặt vấn đề nào mà họ thích và lúc nào họ muốn. Và kinh nghiệm cho biết rằng quần chúng luôn luôn trả lời chấp nhận nếu người ta hỏi ý kiến họ về một vấn đề hay và trong lúc thuận tiện

b. Quyền đề nghị của nhân dân


Ở đây nhân dân đóng vai trò chủ động. Chính nhân dân có sáng kiến sửa đổi một đạo luật hay vài điều khoản của Hiến pháp. Sáng kiến này thường được trình bày dưới hình thức một kiến nghị, hội đủ một số tối thiểu chữ ký. Kiến nghị này được chuyển đạt đến chính quyền – ví dụ Quốc hội – bắt buộc phải thảo luận và biểu quyết về dự án luật đề nghị trong bản kiến nghị ấy. Với quyền đề nghị này nhân dân hay nói đúng hơn một số công dân – có thể, hoặc chuyển đến chính quyền một dự án luật rõ rệt hoặc chỉ ấn định vài nguyên tắc chỉ đạo, những nguyện vọng của mình hầu chính quyền lưu ý giải quyết hay cải cách. Ở đây, như chúng ta đã nói – công dân đóng vai trò chủ động. Chính họ có sáng kiến, họ đi trước chính quyền và hướng hoạt động của chính quyền theo nguyện vọng của mình.


c. Quyền bác bỏ của nhân dân


Ở đây nhân dân không có sáng kiến, nhưng giành lại cái quyền không bằng lòng. Quyền phủ quyết tức là quyền phản đối. Thể thức quyền phản đối là như thế này: Trong đạo luật, một số công dân có quyền yêu cầu đem đạo luật ấy ra hỏi ý kiến dân. Nếu đa số công dân phản đối thì đạo luật ấy đương nhiên bị bãi bỏ. Trái lại, nếu trong thời hạn ấn định đó, nhân dân không đòi sử dụng quyền phủ quyết, thì đạo luật ấy đương nhiên có hiệu lực rồi được xem như đã được dân chúng chấp thuận, vì im lặng tức là tán thành.


d. Quyền bãi chức hay giải tán của nhân dân


Với quyền này, công dân có thể bãi chức đại diện của mình hay giải tán một hội đồng trước nhiệm kỳ. Một kiến nghị gồm một số chữ ký được ấn định đòi bãi chức một vị đại diện hoặc giải tán một cơ quan mà họ bất tín nhiệm. Rồi công dân họp lại, biểu quyết. Nếu đa số chấp thuận, vị đại diện hay cơ quan liên hệ sẽ bị bãi chức hay giải tán.


Thụy Sỹ và Hoa Kỳ là hai quốc gia áp dụng nhiều nhất về dân chủ bán trực trị.


Trưng cầu dân ý, quyền đề nghị của nhân dân, quyền phủ quyết và quyền bãi chức hay giải tán của nhân dân đó là những phương pháp thực hiện nền dân chủ bán trực trị.


(Hết thiên thứ nhất Những khái niệm và nguyên tắc căn bản trong phần thứ nhất Lý thuyết đại cương)


(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.




[i] Alexei Kosygin (1904-1980): Nhà lãnh đạo Xô-viết, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô 1964-1980 (p&c)




[ii] Nguyên văn viết theo cách đương thời: Soekarno (p&c)




[iii] Nhan đề nguyên gốc Anh ngữ: Two Treatises of Governement (p&c)




[iv] Nguyên văn: “hoàn lý thuyết” (p&c)



 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 22, 2013 14:37

August 21, 2013

Đã đến lúc, dù không đúng lúc, ông tôi chết!

Khuất Đẩu


Truyện ngắn


Ông tôi đã chết!


Chết ở tuổi 99 nên sự tiếc thương được mọi người dành cho ông chỉ là: Uổng quá há, còn năm nữa thôi, sao không ráng sống cho đủ trăm? Làm như thể “đủ trăm” thì ông mọc được cánh mà bay lên giời! Dĩ nhiên, vì chưa đủ trăm nên đến tận cuối đời, ông vẫn cứ phải nằm trên chiếc giường mà dù có thay chăn chiếu từng ngày, thì cái mùi của người già, một cái mùi ngai ngái, khăm khẳm vẫn khiến cho những cái mũi trẻ trung của khách đến thăm phải khó chịu. Họ kính cẩn (hay giả vờ kính cẩn) đặt quà lên bàn, run rẩy đưa cả hai bàn tay úm lấy tay ông. Bàn tay ông thì xương xẩu lạnh lẽo. Bàn tay họ thì mum múp ấm áp. Chưa khi nào mà sự tương phản của tuổi trẻ và tuổi già lại rõ rệt đến thế.


Ông chết ngày 15 tháng 8. Lại tiếc!


Phải chi ráng thêm 4 ngày nữa thì trọn vẹn làm sao, vì đó là ngày cách mạng thành công! Một ngày mà ông sung sướng, hãnh diện, luôn nhắc tới, luôn nhớ tới. Ông thường nói, mẹ cha chỉ sinh ra mỗi cái xác, chính cách mạng mới sinh ra ông cái phần hồn. Không có cái ngày ấy thì ông cũng u mê tăm tối như bao thế hệ trước mà thôi.


Ngày ấy ông 26 tuổi. Từ một anh chân quê, quanh năm bận bịu với cái cày cây cuốc, ỗng bỗng dưng được mặc đồ đại cán, đi dép cho dù là dép râu, đội mũ nan bọc vải, mang xách cốt bằng da bò và cứ thế đi xuống xã chạy lên huyện vun vút như con thoi. Có trời mới biết được ông làm đến chức gì. Ngay như bà tôi, là người có một thời tâm phúc ruột rà với ông, mà cũng chỉ biết ông có mỗi một việc là hết đi lại về. Chuyện nhà cửa ruộng vườn, chuyện con cái ốm đau, chuyện tết nhứt giỗ chạp… ông mặc nhiên trút cái gánh hết sức nặng nề đó lên đôi vai mỏng mảnh của bà. Công tác, lúc nào cũng công tác, bà nói. Mà có đưa về được đồng xu cắc bạc nào đâu. Toàn là lấy của nhà. Nhưng nhà đâu có của nả gì. Cũng chỉ toàn là mồ hôi, nước mắt của vợ con thôi. Hỏi thì bảo cấm hỏi, làm cách mạng là phải hy sinh. Đến xương máu còn chưa tiếc, huống hồ là bạc tiền.


Vậy đó, bà nói, ông mày làm cách mạng như thể được mời đi ăn cỗ. Chỉ có mỗi một việc là bỏ dép, phủi chân cho sạch bụi lên ngồi xếp bằng trên phản. Trước mặt là cỗ bàn ê hề. Hết chả lụa đến chả giò. Hết tim cật xào lăn đến canh cá ám. Hết bún Song Thần đến bún Bồng Sơn. Mời mọc nhau, mà thực ra là rình rập nhau, lựa riêng miếng nạc cho mình mà đẩy miếng xương cho kẻ khác. Thi nhau nói, thi nhau cười, vẫn không quên thi nhau gắp, thi nhau múc, thi nhau chan, thi nhau húp, thi nhau lua… xì xoạp đến hả hê. No nê xong lại bày ra bài bạc, đàn hát. Trong khi đám đàn bà con gái dưới bếp thức dậy từ khuya, hết mổ gà lại cắt tiết vịt, hết chiên lại xào, hết đưa những cái tô đầy ụ lên lại đem những cái đĩa nhẵn bóng xuống, hết rượu đến trà, để rồi khi cỗ tàn thì chỉ còn lại trong nồi chút nước có váng mỡ, chan húp đại một chén cơm hay đĩa khoai rồi lại phải mướt mồ hôi mà dọn rửa chén bát, kỳ cọ chảo nồi cho đến tận nửa đêm… Ai là dân, ai là quan? Ai sướng, ai khổ? Cháu biết rồi đấy, không cần phải nói!


Thưa rằng, sở dĩ bà có giọng cay đắng phản cách mạng như thế là vì sau 9 năm, tức hơn 3000 ngày đi đi về về không một chút nào ngơi, ông tôi bỏ bà ở lại trong tay giặc để đi tập kết! Đi một mình thì nói làm chi, đằng này lại được Đảng ưu ái cho đem hai bác tôi theo, một người lúc đó lên 10, một người lên 8. Còn ông thì cũng không quên ưu ái tặng thêm cho vợ một cái bụng bầu, để rồi sau đó phải gạt nước mắt mà sinh con trong tù.


Cứ tưởng ông và các con đi 14 tháng lại về, không ngờ đến những hơn 20 năm. Đó là quãng đời dài cơ cực nhất của bà. Vì là vợ của cán bộ nên bà bị chính quyền mới hành tới hành lui, kêu lên kêu xuống hạch hỏi đủ điều. Cái ô nhục của một người đàn bà có chồng cán bộ không kể sao cho xiết. Bọn nghĩa quân, bọn dân vệ đứa nào cũng tự cho mình có cái quyền được chọc ghẹo, gạ gẫm, sờ mó, tán tỉnh bất kể là ngày hay đêm. Có đứa đáng tuổi em út cũng lên giọng cớt nhả: bỏ quách thằng cán bộ già đó đi, về với anh, em Hai ơi!


Ruộng đồng bị bom đạn hai bên thi nhau cày xới, bà phải bồng con lên chui rúc ở chợ súc vật Bình Định. Mùi phân heo gà, mùi nước đái trâu bò nồng nặc trong suốt hai chục năm, khiến cho cái đầu của  cha mày trở nên khai ngấy, tối đen, học mãi cũng không đậu nổi cái tú tài, đành phải đi trung sĩ, bà nói một cách chán nản.


Đến tuổi lính thì phải đi thôi, không đi mà yên thân với nó à? Nhưng ông mày lại nổi xung lên, cho đó là nỗi nhục! Ở Bắc về, cha tôi kể thêm, câu đầu tiên ông mày hỏi bà là, sao không đưa nó lên núi theo cách mạng?


Nghe hỏi thế, bà hứ một cái cốc, theo làm gì, theo chi ba cái thứ mà ai cũng ghét!


Ông gầm lên, bà dám ăn dám nói như vậy hả? Nó theo ai, bà để nó theo giặc à?


Ừ, bà ngẩng đầu lên, cái đầu giờ đã lốm đốm bạc, thách thức, thì theo giặc đó, sao ha? Còn thằng Hùng và thằng Cường theo ông thì giờ ở đâu, sao không thấy về?


Ông nói lấp mấp, tụi nó đang công tác.


Công tác gì, bà hỏi dồn, hòa bình thống nhất rồi thì cũng phải về thăm mẹ chứ.


Rồi như linh cảm bởi cái sợi dây thiêng liêng giữa mẹ và con, bà gào lên, con tôi đâu, con tôi đâu? Trả lại con cho tôi!


Đến lúc này, ông mày mới rón rén bước lại bên bà, nói nhỏ đủ để bà nghe, hai đứa hy sinh hết rồi!


Hy sinh là sao? Bà khóc nức nở. Ai bắt chúng nó hy sinh? Ông hả? Hay là cái Đảng chết tiệt của ông?


Tôi cấm bà nói thế, ông lại gầm lên.


Cấm mà được à, mất con mà không cho tôi nói sao? Tôi sẽ đi ăn xin, sẽ gối đất nằm sương ra tận cái Trung ương Đảng của ông để đòi lại con.


Để tôi nói cho bà nghe, ông trở nên nhũn nhặn, tụi nó lần lượt hy sinh là hết sức vẻ vang cho gia đình mình đó. Một đứa trên đường Chín Nam Lào, một đứa tại Quy Nhơn trong Tết Mậu Thân, nghe đâu tại kho xăng ông Tề.


Vậy là các con tôi chết cả rồi, bà khóc quều quào, con ơi là con ơi! Con chết bờ chết bụi, chết tức chết tối, chết đói chết khát mà người ta bảo là vẻ vang, vẻ vang cái nỗi gì hả trời! Đi, ngay bây giờ đây tôi đi ra Bắc đòi con, ông có dám đi với tôi không?


Ai cho phép bà làm cái việc phản động đó, ông hốt hoảng, tụi CIA xúi giục à, hay là cái thằng con theo giặc trời đánh của bà? Phải chi không có nó thì bà đã được phong tặng bà mẹ anh hùng rồi.


Ối trời ơi, anh hùng cái nỗi gì! Bà lại gào lên, con chết mà mẹ lại anh hùng! Có người mẹ nào lại khốn nạn như thế?


Cái buổi chiều đoàn viên không có tiếng cười ấy, tưởng chừng sẽ chia cắt hai người mãi mãi, nhưng không hiểu sao họ vẫn cứ sống chung một nhà. Có lẽ ngoài những điều khác biệt như tối và sáng, ông tôi và bà tôi may ra hãy còn có một điểm chung. Đó là, trong suốt 20 năm ở miền Bắc, ông không dối Đảng để lấy vợ khác, còn bà, tuy chẳng tin gì ở ông nhưng cũng không chịu lấy ai.


Sống chung dưới một mái nhà, nhưng bao nhiêu uất hận đã được tuôn ra như một cái đập vỡ, nên bà chẳng hề mở miệng với ông một lần nào nữa. Ngay lúc lâm chung, ông ú ớ muốn giăng dối điều gì, bà cũng lặng câm như chưa từng biết nói. Bà đi chùa gần như mọi ngày. Ở đó bà lầm rầm cầu xin đức Phật giải oan cho các con. Bà cũng khóc mà xin các con tha tội cho mẹ, vì đã sinh ra các con nhưng lại thua một con gà mái, không dám xù lông ra trước con diều để bảo vệ chúng.


Ông thì ngược lại, ngày nào cũng đến câu lạc bộ hưu trí, đọc báo Nhân dân, đánh cờ và chê bai lớp cán bộ trẻ, nhất là những kẻ a dua, đầu đội nón cối nhưng bụng thì đầy bơ sữa của Mỹ Ngụy. Cha tôi, dù cố tránh mặt ông, nhưng vẫn bị ông càm ràm bực bội. Ông bảo, trong nhà có mùi của thằng giặc nên ăn không thấy ngon, ngủ không yên giấc!


Ngày 19 tháng Tám, ngày 30 tháng Tư, ngày 19 tháng Năm, ngày 2 tháng Chín và bao nhiêu ngày lễ khác nữa, ông sung sướng tự hào được khoác áo đại cán, có dịp đeo huân chương đầy ngực, hãnh diện được ngồi ở hàng ghế của cán bộ lão thành. Huân chương của ông nhiều đến nỗi, nếu đeo hết phải tràn ra cả sau lưng và chen nhau xuống tận rốn, lúc nào cũng được ông chăm chút lau chùi trịnh trọng.


Ông có thể ngồi kể suốt ngày cho con cháu nghe (mà có đứa nào chịu nghe đâu) lịch sử từng cái một, chiến công gì, thành tích ra sao, được trao ngày tháng nào, và ai trao, có bao nhiêu cái được chính tay Bác ký, bao nhiêu lần được gặp Bác, ôi thôi, cả một trời những chuyện có thật và những chuyện tưởng như có thật.


Đã có lần ông muốn viết hồi ký bằng cách kể lại cho tôi ghi. Ông cũng tập tễnh làm thơ ca ngợi Đảng và Bác. Thơ ông được in trên nội san của tỉnh ủy và đã có lần được ngâm đọc trên đài phát thanh. Như mọi người cộng sản chân chính, ông không hề biết khiêm nhường là gì, cứ đem cái vinh quang trong thời bình ấy ra kể mãi.


Ông cũng không hề xót xa mà ngược lại cảm thấy sung sướng khi ruộng đồng được san lấp để từ đó chạy dài những con đường thẳng tắp, mọc lên những ngân hàng nhà nước, cục thuế, đồn công an to đùng. Ông bảo, như thế mà không tiến bộ à, đúng như Bác nói, giờ to đẹp gấp mười lần xưa.


Vì là người cộng sản, nên ông cũng là một trong những người lạc quan nhất nước. Sợ gì Pôn Pốt, Đặng Tiểu Bình! Ông nói, mặc kệ cái lý thuyết mèo trắng mèo đen ngu xuẩn và cái giấc mộng bá bành đáng ghét của nó, mọi việc đã có Đảng lo. Vậy nên, so với bà lúc nào cũng ưu tư rầu rĩ, ông sống rất hồn nhiên, vô tư. Ông như đứa bé còn nằm trong nôi được Đảng đút từng muổng sữa, thay từng chiếc tã. Chỉ có mỗi một việc là nằm mút tay rồi ngủ, chưa cần biết tới những gì xảy ra ở bên ngoài.


Bà thường chua xót nói, ông mày chỉ biết ghét tao và căm thù thằng cha mày chứ biết yêu ai. Nói vậy là bà có hơi thiếu công bằng với ông. Đâu chỉ có ghét và căm thù không thôi, ông yêu nhiều lắm chớ, yêu XHCN, yêu các nước anh em, nhất là nước Lào anh dũng liền núi liền sông.


Có một phóng sự trên truyền hình khiến ông rất xúc động. Phóng sự kể rằng, có hai đứa bé Lào lạc mất cha mẹ đã được tình nguyện quân ViệtNamđem về nuôi. Đến nay hai đứa bé ấy đã thành người già. May mắn làm sao, cả gia đình nhà họ đã được đoàn tụ.


Chính cái lúc bốn mái đầu đã bạc chụm lại nhau trong ánh hoàng hôn trên sông Mê Kông khiến ông xuýt xoa kêu lên: tình đoàn kết Việt-Lào đẹp quá, vĩ đại quá! Và có lẽ vì quá đẹp, quá vĩ đại nên những mạch máu già nua trong não của ông không chịu nỗi, vỡ ra, khiến ông lịm dần rồi nằm im một chỗ.


Đúng như ông nói, mọi việc đã có Đảng lo. Từ ngày ông bị đột quỵ đến nay đã mười bốn năm. Mười bốn năm ông được Đảng đưa từ viện này đến viện nọ, từ Tây y đến Đông y. Đảng lo cho ông từng viên thuốc, ống kim tiêm (qua bảo hiểm y tế), nhiều lần đút cho ông ăn, lau rửa cho ông khi đái ỉa (qua hộ lý). Giờ ông chết, Đảng cũng lo hòm xiểng, tẩm liệm, lo cáo phó trên truyền thanh truyền hình, lo cả điếu văn… Và nhờ vậy con cháu mới biết được ông đã kinh qua rất nhiều chức vụ.Từ quân sự đến chính trị, từ văn hóa đến cả khoa học, nhiệm vụ nào ông cũng hoàn thành, khó khăn nào ông cũng vượt qua.


Nói chung, một người có đến 70 năm tuổi Đảng như ông, tức là được Đảng dạy dỗ trở thành người yêu nước yêu dân mẫu mực (nhưng không yêu vợ con) thì những chức vụ kia, những huân chương nọ là rất xứng đáng. Chỉ có một điều ai cũng lấy làm ngờ nhưng không dám nói ra, ấy là cái chức Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh X. bỗng dưng như từ trên trời rơi xuống tỏa ánh hào quang rực rỡ suốt một cõi (gần đủ) trăm năm của ông.


Nếu bảo rằng cái tin ông chết không khiến ai bất ngờ là thiếu kính trọng. Mà bảo rằng ai cũng thấy nhẹ người là thiếu nhân ái mà thừa tàn nhẫn. Còn bảo rằng rất đỗi vui mừng là quá hỗn. Tiếc rằng đó là sự thật.


Còn như khi đọc cái truyện thiếu văn hóa này mà có người mơ mộng: ước gì cái Đảng mà ông tôi và nhiều người đã lỡ tin tưởng ngây ngô, cái Đảng đã làm cho triệu người vui nhưng cũng rất, rất nhiều triệu người buồn này, cái Đảng đó cũng già nua, ngờ nghệch đang đột quỵ như ông tôi từ bao nhiêu năm nay, thì cũng nên chết quách cho rồi! Ước như vậy thì cái tựa đề có thể sửa đôi chút mà làm câu kết. Rằng: Đã đến lúc, dù không đúng lúc, Đảng chết.


15/8/2013


© 2013 Khuất Đẩu & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 21, 2013 11:18

August 19, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (3)

Xem kì 1 , kì 2


CHƯƠNG II: HIẾN PHÁP


Mục I: THẾ NÀO LÀ MỘT HIẾN PHÁP


Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA THỰC CHẤT VÀ ĐỊNH NGHĨA HÌNH THỨC


Đoạn 2: HIẾN PHÁP TỤC LỆ VÀ HIẾN PHÁP THÀNH VĂN


Đoạn 3: HIẾN PHÁP NHU TÍNH VÀ HIẾN PHÁP CƯƠNG TÍNH


Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA THỰC CHẤT VÀ ĐỊNH NGHĨA HÌNH THỨC


Sở dĩ có vấn đề định nghĩa thực chất và hình thức, là vì khi chúng ta định nghĩa một hành vi, một văn kiện, nhất là một hành vi pháp lý, chúng ta có thể đứng trên hai quan điểm: thực chất và hình thức.


Quan điểm thực chất nhấn mạnh vào mục tiêu, đối tượng, nội dung của hành vi cũng như của hoạt động. Quan điểm hình thức, trái lại, nhấn mạnh nơi thủ tục cũng như những cơ quan liên quan đến hành vi cùng hoạt động.


Với hai quan điểm đó, chúng ta sẽ lần lượt trình bầy định nghĩa Hiến pháp.


A. ĐỊNH NGHĨA THỰC CHẤT


Đứng trên quan điểm thực chất, Hiến pháp là tất cả các qui tắc pháp lý quan trọng nhất của quốc gia, là những qui tắc có tính cách hiến tính, những qui tắc ấn định hình thể quốc gia (quốc gia thống nhất hay quốc gia liên bang), ấn định chính thể (cộng hòa hay quân chủ), ấn định cơ quan điều khiển quốc gia cùng những thẩm quyền của cơ quan ấy. Tóm lại, Hiến pháp của một quốc gia là phản ảnh tổ chức chính trị của quốc gia đó.


B. ĐỊNH NGHĨA HÌNH THỨC


Đứng trên quan điểm hình thức, Hiến pháp là một văn kiện pháp lý tối quan trọng, một văn kiện chỉ có thể thành lập hoặc sửa đổi theo những thủ tục, những thể thức đặc biệt long trọng; thủ tục, thể thức có một giá trị cao hơn những thể thức hoặc thủ tục của những luật lệ thường. Ví dụ: Quốc hội có thể biểu quyết một đạo luật một cách dễ dàng; hay là một đạo luật để sửa đổi một đạo luật khác. Trái lại, trong rất nhiều trường hợp, cần phải một Quốc hội đặc biệt, thường thường gọi là Quốc hội Lập hiến, để soạn thảo Hiến pháp, đôi khi lại phải có cuộc trưng cầu dân ý mới có giá trị. Công việc sửa đổi Hiến pháp cũng vậy, theo những hình thức long trọng, khó khăn, đặc biệt.


C. NHẬN XÉT


Hai quan điểm trên đây có thể gặp nhau và cũng có thể không gặp nhau.


1. Thật vậy, đứng trên quan điểm thực chất, bất cứ một quốc gia nào cũng có Hiến pháp dù rằng không phải là một Hiến pháp theo định nghĩa hình thức. Để lấy một ví dụ, trường hợp Anh Quốc. Chúng ta có thể nói rằng Anh Quốc không có Hiến pháp, đứng trên quan điểm hình thức, vì rằng luật lệ ấn định tổ chức chính quyền Anh Quốc là luật lệ thường, và bất cứ một luật lệ thường nào cũng có thể hủy bỏ, ví dụ hình thức quân chủ ở Anh hoặc tính cách lưỡng viện ở Anh. Anh Quốc không có Hiến pháp về mặt hình thức – nhưng Anh Quốc đương nhiên có một Hiến pháp về mặt thực chất, vì công pháp của Anh Quốc gồm một số luật lệ mà nội dung liên quan đến tổ chức cơ quan công quyền. Tóm lại, có thể có luật lệ có tính cách hiến tính về nội dung nhưng không có tính cách long trọng về hình thức.


Trái lại có những luật lệ có tính cách hiến tính về hình thức nhưng về phương diện nội dung, không liên quan gì đến tổ chức chính quyền. Ví dụ trong một bản Hiến pháp có điều khoản thành lập một cơ quan nào đó. Nhưng qui tắc pháp lý liên quan đến[i] cơ quan này có tính hiến tính, vì đã được ấn định trong Hiến pháp, theo những thủ tục long trọng đặc biệt của Hiến pháp, nhưng thực chất không phải là qui tắc pháp lý về Hiến pháp vì không liên hệ gì đến tổ chức cơ quan công quyền.


2. Chúng ta nói rằng hai quan điểm – thực chất và hình thức – có thể không gặp nhau. Nhưng thường thường có thể gặp nhau, nhất là trong thế giới cận đại. Thường thường trong một quốc gia nào đó, chính những qui tắc có một đối tượng quan trọng (nghĩa là về mặt thực chất) là những qui tắc có một thủ tục và một hình thức long trọng. Bởi thế cho nên, khi chúng ta nói đến Luật Hiến pháp, chúng ta phải nghĩ đến những luật lệ tối cần, căn bản của tổ chức quốc gia mà những luật căn bản ấy, không phải luôn luôn, nhưng thường thường lại được ghép trong một văn kiện đặc biệt gọi là Hiến pháp.


Đoạn 2: HIẾN PHÁP TỤC LỆ VÀ HIẾN PHÁP THÀNH VĂN


A. HIẾN PHÁP TỤC LỆ


Nói đến Hiến pháp tục lệ là nghĩ đến một quốc gia trong ấy, các định chế căn bản được ấn định, không phải bởi một văn kiện long trọng, mà trái lại bởi những cổ phong tập tục, những qui tắc tục lệ, cổ phong vì qui tắc có giá trị không phải vì được ấn định bởi một cơ quan có thẩm quyền mà trái lại, vì được lặp đi lặp lại nhiều lần với một tin tưởng rằng đó là pháp lý.


Để lấy một ví dụ trường hợp Anh Quốc. Khi chúng ta muốn tìm hiểu chế độ chính trị Anh Quốc, ta không thể tìm đâu thấy một văn kiện duy nhất gọi là Hiến pháp. Cái mà chúng ta gọi là Hiến pháp Anh Quốc chỉ là một mớ tục lệ, cổ phong, những thực tiễn cổ truyền từ đời này qua đời nọ và đã được công nhận là định chế quốc gia. Nguyên tắc trách nhiệm của Tổng trưởng trước Hạ Nghị viện – để lấy một thí dụ – một nguyên tắc quan trọng như thế, chúng ta không tìm thấy ấn định bởi một văn kiện nào, mà chỉ là một tục lệ được công nhận mà thôi.


B. HIẾN PHÁP THÀNH VĂN


Nói đến Hiến pháp thành văn là nghĩ đến một văn kiện. Hiến pháp thành văn là một văn kiện lịch sử, được biên soạn theo một thủ tục long trọng, bởi một cơ quan có tính cách đặc biệt, văn kiện ghi chép mạch lạc các luật lệ có liên quan đến tổ chức chính quyền của một quốc gia.


Khác với Hiến pháp tục lệ gồm một mớ phong tục rải rác đó đây, Hiến pháp thành văn qui tụ trong một văn kiện, những định luật căn bản về tổ chức cơ quan công quyền.


C. NHẬN XÉT


1. Nhận xét thứ nhất liên quan đến Hiến pháp tục lệ và Hiến pháp thành văn là đứng trên phương diện lịch sử, Hiến pháp tục lệ có trước Hiến pháp thành văn. Sự kiện này rất dễ hiểu, vì ở bất cứ thời đại nào, trong bất cứ xứ nào, mỗi quốc gia cần phải có một số qui tắc tổ chức chính quyền, trước khi kỹ thuật về luật pháp thành văn ra đời. Các qui tắc ấy – dù không được ghi chép vào một văn kiện – cũng phải có và đã có trong bất cứ một xứ nào để chỉnh đốn cuộc sinh hoạt chính trị.


2. Nhận xét thứ hai – đó là hậu quả của nhận xét thứ nhất – là Hiến pháp thành văn có một lịch sử mới mẻ. Thật vậy, mãi đến cuối thế kỷ 18, Hiến pháp thành văn hay nói cho đúng hơn là ý kiến thảo Hiến pháp thành văn mới thấy xuất hiện và áp dụng. Và chính nguyên nhân đó đã phát sinh ra Hiến pháp thành văn trong những quốc gia vừa thu hồi nền độc lập chống Anh Quốc và kế đó là Hiến pháp của quốc gia Liên bang Hoa Kỳ (1787).


Tại sao ý kiến thảo Hiến pháp thành văn chỉ thấy xuất hiện ở thời cận đại? Vì một lẽ giản dị là ở cuối thế kỷ thứ 18 là lúc mà lý thuyết dân chủ, tự do đã được thấm nhuần và là thời kỳ của phong trào quần chúng tranh thủ tự do dân chủ được đẩy mạnh. Những lý thuyết gia cũng như những đại diện của giai cấp trung lưu đương thời quan niệm rằng các tự do công cộng, tự do cá nhân, tất cả những thắng lợi của quần chúng chống áp bức và chuyên chế cần phải được bảo đảm. Và không có một phương thức bảo đảm cụ thể nào bằng ghi lại trong một văn kiện long trọng, những tự do ấy để bắt buộc chính quyền phải thi hành.


Tóm lại, Hiến pháp thành văn là một bảo đảm chống lại sự chuyên chế của chính quyền – của những nhà cầm quyền tạm thời – vì ghi chép trong một văn kiện những quyền hạn cũng như nghĩa vụ của công dân và chính quyền tức là gián tiếp xác định, công nhận tự do của công dân đồng thời hạn chế một phần nào sự độc đoán của chính quyền.


Nước Pháp bắt đầu từ 1791 với nền Đệ nhất Cộng hòa đã liên tiếp thảo nhiều Hiến pháp thành văn.


3. Nhận xét thứ ba là vẫn biết rằng trên phương diện tổng quát chúng ta có thể phân loại một cách rõ rệt Hiến pháp thành văn và Hiến pháp tục lệ. Tuy nhiên cần phải phân định rằng trong thực tế có một sự lẫn lộn, nghĩa là không có Hiến pháp hoàn toàn theo hình thức thành văn cũng như không có Hiến pháp hoàn toàn theo hình thức tục lệ.


Thật vậy, khi chúng ta định nghĩa Hiến pháp tục lệ, chúng ta có lấy thí dụ Anh Quốc. Nhưng dù trong trường hợp Anh Quốc đi nữa, vẫn biết rằng một phần lớn luật Hiến pháp gồm những tục lệ, cổ phong nhưng bên cạnh các tục lệ ấy cũng có những bản văn liên hệ đến tổ chức chính quyền như Luật về Nhân quyền (Bill of right 1680) như luật ấn định qui chế Thượng Nghị viện Anh (Parliament Act 1911).


Ngược lại, một Hiến pháp thành văn trong một quốc gia nào dù có dài cho thế mấy đi nữa, cũng không thể ghi chép tất được. Cuộc sinh hoạt chính trị rất phức tạp, guồng máy chính trị điều hành rất tế nhị, đôi khi phải dựa theo những tập tục, những thành lệ đã được công nhận bởi giới chính trị, mặc dù các tập tục ấy không có ghi trong Hiến pháp.


Tóm lại, trong thực tế, có một sự lẫn lộn tục lệ và văn kiện và chính cái mớ văn kiện và tục lệ ấy, bổ túc lẫn nhau là những qui tắc căn bản của tổ chức chính quyền trong một quốc gia.


Đoạn 3: HIẾN PHÁP NHU TÍNH VÀ HIẾN PHÁP CƯƠNG TÍNH


Sự phân biệt này liên hệ đến mối tương quan giữa các đạo luật có hiến tính và đạo luật thường.


A. HIẾN PHÁP NHU TÍNH


Một Hiến pháp nhu tính là một Hiến pháp có thể sửa đổi hay được sửa đổi bởi chính những cơ quan và theo chính những thủ tục được áp dụng cho luật lệ thường. Nói như thế, có nghĩa là Hiến pháp không có tính cách ưu thế. Không có một sự đẳng cấp giữa luật Hiến pháp và luật thường. Tóm lại, khái niệm Hiến pháp nhu tính có hai hậu quả sau đây:


1. Không có đẳng cấp, không có sự phân biệt về hình thức giữa luật thường và Luật Hiến pháp mặc dù nội dung của hai loại luật này hoàn toàn khác biệt. Chúng ta có thể nói rằng một quốc gia có Hiến pháp nhu tính, như trường hợp Anh Quốc, là một quốc gia không có Hiến pháp về mặt hình thức.


2. Không có cách hạn chế quyền hạn của nhà cầm quyền. Vì Luật Hiến pháp không có tánh cách ưu thế, một đạo luật thường cũng có thể sửa đổi một đạo luật có tính hiến tính, lẽ dĩ nhiên chính quyền không bị ràng buộc thực sự.


B. HIẾN PHÁP CƯƠNG TÍNH


Nói đến Hiến pháp cương tính tức là xác nhận rằng Hiến pháp có ưu thế trong hệ thống luật pháp của quốc gia. Sự ưu thế này đưa đến những hậu quả sau đây:


1. Sự phân biệt giữa quyền lập hiến và các quyền được thiết định. Từ Hiến pháp mà các cơ quan công quyền nhận lãnh thẩm quyền. Ví dụ: chiếu theo Hiến pháp mà quyền lập pháp được hành xử bởi Quốc hội, quyền Hành pháp bởi Vua, Tổng thống, Chủ tịch hay Tổng trưởng. Nói một cách khác, có một sự phân biệt giữa quyền lập hiến, quyền nguyên thủy, tối cao và các quyền khác được thiết lập từ quyền nguyên thủy đó. Chúng ta có thể nói rằng Hiến pháp – Hiến pháp cương tính – “tổ chức thẩm quyền”. Có nghĩa là quyền hạn nhìn nhận cho các cơ quan lập pháp, hành pháp hay tư pháp không phải là quyền hạn của các cơ quan đó mà trái lại là thẩm quyền giao phó bởi Hiến pháp.


2. Sự phân biệt giữa luật Hiến pháp và luật thường. Sự phân biệt này, chúng ta có thể quan niệm trên hai phương diện: thực chất và hình thức. Trên phương diện thực chất, Hiến pháp bao gồm các qui tắc tối cần, căn bản về tổ chức chính quyền; luật thường nhằm mục tiêu thỏa mãn nhu cầu công cộng thường xuyên mà cơ quan lập pháp thường có thể làm được.


Sự phân biệt giữa Luật Hiến pháp và luật thường rất quan trọng về phương diện hình thức; Hiến pháp được thiết lập và sửa đổi bởi cơ quan và theo thủ tục khác hẳn cơ quan và thủ tục thường được áp dụng cho luật thường. Nói như thế có nghĩa là luật lệ thường phụ thuộc Luật Hiến pháp. Khi có một Hiến pháp cương tính, luật pháp thường không thể sửa đổi Hiến pháp, mà cũng không thể đi ngược lại những điều khoản của Luật Hiến pháp. Một đạo luật đi ngược lại với Hiến pháp là một đạo luật bất hợp hiến. Và bất hợp hiến là bất hợp pháp.


Mục II: THIẾT LẬP HIẾN PHÁP


Đoạn 1: QUYỀN LẬP HIẾN


Đoạn 2: NHỮNG PHƯƠNG THỨC THIẾT LẬP HIẾN PHÁP


Đoạn 1: QUYỀN LẬP-HIẾN


A. ĐỊNH NGHĨA VÀ ĐẶC TÍNH


1. Ai lập ra Hiến pháp? Ai có quyền lập hiến? Thế nào là quyền lập hiến? Quyền lập hiến một quyền tối quan trọng – vì là quyền xây dựng nền tảng pháp lý đầu tiên, xây dựng căn bản của tổ chức chính trị của một quốc gia.


Đặc tính của quyền lập hiến là thể hiện chủ quyền quốc gia một cách toàn diện, vì quyền lập hiến, chung qui, là quốc gia tự đặt cho mình những quy tắc tổ chức và điều hành. Trên phương diện đó, quyền lập hiến là một quyền nguyên thủy. Vì nó thể hiện chủ quyền quốc gia, mà chủ quyền quốc gia là quyền nguyên thủy, quyền lập hiến phải là một quyền nguyên thủy.


Nguyên thủy ở đây có nghĩa là quyền lập hiến – trên phương diện pháp lý – không bị giới hạn bởi một điều kiện nào vì chính nó đặt ra luật lệ đầu tiên của tổ chức pháp lý trong quốc gia và chính vì chưa có Hiến pháp áp dụng.


Chúng ta có nhấn mạnh rằng trên phương diện pháp lý cơ quan lập hiến hoàn toàn tự do trong việc soạn thảo Hiến pháp. Tuy nhiên đó chỉ là nguyên tắc. Nguyên tắc này cần phải áp dụng một cách mềm dẻo.


2. Trong những trường hợp nào, hoàn cảnh nào có vấn đề thay đổi Hiến pháp, có vấn đề áp dụng quyền lập hiến?


Trước nhất, có những sự thay đổi đột ngột trật tự pháp lý, thay đổi có tính cách bạo động và là hậu quả của những hiện tượng chính trị mang danh cách mạng hay đảo chính. Đặc điểm của phong trào cách mạng hay những cuộc đảo chính đó là những hành vi bạo động được thực hiện ngoài trật tự pháp lý. Và hậu quả là quyền lập hiến lọt vào tay những kẻ nắm quyền lực lúc ấy.



Sau cuộc đảo chính, một nhà độc tài có thể sử dụng quyền lập hiến và đặt cho quốc gia một Hiến pháp của họ.
Hoặc chính cơ quan lập pháp sẽ nắm quyền lập hiến.
Hoặc những cuộc khủng hoảng chính trị bạo động có thể đưa đến việc thành lập một chính phủ lâm thời. Và chính phủ lâm thời này – sau khi nắm trọn quyền lãnh đạo – sẽ triệu tập một Quốc hội Lập hiến với nhiệm vụ thiết lập Hiến pháp.

Trong tất cả những trường hợp vừa kể – điều cần lưu ý là chắc chắn là Hiến pháp mới sẽ được thành lập trong những điều kiện và thể thức hoàn toàn khác hẳn điều kiện và thể thức được ấn định bởi[ii] Hiến pháp cũ bị xóa bỏ, và quyền lập hiến được sử dụng bởi cơ quan hay nhân vật nào “nắm lấy” được nó trong những hoàn cảnh đặc biệt ấy.


Trường hợp thứ hai áp dụng quyền lập hiến là trường hợp thay đổi Hiến pháp. Trong trường hợp này quyền lập hiến sẽ được sử dụng bởi những cơ quan và theo những thể thức được ấn định ngay trong bản Hiến pháp. (Chúng ta sẽ bàn nhiều khi đề cập đến việc sửa đổi Hiến pháp.)


B. VẤN DỀ PHÂN CHIA QUYỀN LẬP HIẾN VÀ CÁC QUYỀN ĐƯỢC THIẾT LẬP


Nói rằng quyền lập hiến có tính cách nguyên thủy và vô hạn chế tức là khẳng định sự ưu thế của quyền lập hiến trên các quyền được thiết lập. Vì quyền lập hiến ấn định và tổ chức các quyền khác, vì các quyền khác đi từ quyền lập hiến, hậu quả đương nhiên là tính cách ưu thế của quyền lập hiến. Đó là nguyên tắc không chối cãi. Những nguyên tắc ưu thế của quyền lập hiến cần phải được quan niệm như thế nào? Đây là một vấn đề được tranh luận sôi nổi, chúng ta có thể tóm tắt như sau:


1. Quan niệm thứ nhất cho rằng quyền lập hiến thể hiện ý chí của quốc dân, quan niệm này được dựa trên 3 ý tưởng. Thật vậy, khái niệm Hiến pháp phản ảnh hai sự tổng hợp và phân chia cơ quan công quyền. Những quyền được thiết lập ấn định bởi Hiến pháp là những quyền bị phân chia. Nhưng tất cả các quyền đều là sản phẩm của ý chí chung, của quốc dân. Hơn nữa, ưu thế của quyền lập hiến nhằm bảo đảm sự hiện hữu của tự do cá nhân bằng cách ấn định giới hạn quyền lực của các cơ quan được thiết lập – và nhất là cơ quan lập pháp – giới hạn mà các cơ quan này không thể vượt qua, giới hạn ghi rõ trong Hiến pháp. Ý tưởng thứ ba là Hiến pháp chi phối các quyền được thiết lập, nhưng Hiến pháp không thể bó buộc quốc dân vì chính quốc dân là tác giả của Hiến pháp. Quốc dân có thể bất cứ lúc nào sửa đổi hoặc làm lại Hiến pháp.


Quan niệm quyền lập hiến phản ảnh ý chí của quốc dân đưa đến hậu quả tối quan trọng là cơ quan có quyền lập hiến được giao phó toàn quyền lực của quốc dân.


2. Quan niệm thứ hai cho rằng để hành xử quyền lập hiến không cần phải triệu tập những cơ quan đặc biệt mà chỉ cần có những cơ quan có tính cách đại diện về nhiệm vụ là phát biểu ý chí của quốc gia.


Bởi thế, cơ quan lập hiến; nghĩa là cái quyền đặc biệt nhưng giới hạn của quốc gia, cái quyền thiết lập cơ quan và ấn định thẩm quyền của các cơ quan. Nói cách khác, cơ quan lập hiến không thể hành xử bất cứ một quyền nào mà chỉ thiết lập cơ quan có nhiệm vụ hành xử các quyền ấy.


C. NHỮNG GIỚI HẠN CỦA QUYỀN LẬP HIẾN


Vẫn biết rằng quyền lập hiến là một quyền nguyên thủy – nghĩa là cơ quan lập hiến hoàn toàn tự do trên phương diện lý thuyết – nhưng trong thực tế có những điều kiện, có những hiện tượng khách quan giới hạn một phần nào tự do ấy.


a. Triết lý chính trị: những dữ kiện căn bản liên hệ đến triết lý chính trị, cơ quan lập hiến không thể đi ngược lại. Ví dụ vì đây là trường hợp thông thường – cơ quan lập hiến là một Quốc hội dân cử. Một Quốc hội dân cử, được trao quyền lập hiến gián tiếp có nghĩa là nguyên tắc chủ quyền nhân dân và tự do dân chủ được công nhận và xác định. Trong trường hợp này cơ quan lập hiến không thể đi ngược lại nguyên tắc ấy, ví dụ như thảo một bản Hiến pháp có tính cách ít dân chủ, nếu không phản dân chủ. Đề nghị một chế độ quân chủ hoặc độc đoán… Làm như vậy tức là hủy bỏ căn bản của chính mình.


b. Trở lực thứ hai cho cơ quan lập hiến là những cái mà người ta gọi là luật pháp lý tưởng, luật pháp thiên nhiên. Đó là những nguyên tắc hơi trừu tượng, có tính cách giáo lý nhưng được thấm nhuần trong tâm tính nhân loại. Công bình xã hội, nhân phẩm con người – ý niệm mênh mông ấy nhà lập hiến phải chú ý.


c. Sự kiện đã có trong một quốc gia: là tổ chức chính quyền đã có. Những định chế chính trị đã có và đã được điều hành trong một giai đoạn lịch sử bắt buộc nhà lập hiến phải để ý.


Đoạn 2: NHỮNG PHƯƠNG THỨC THIẾT LẬP HIẾN PHÁP


Quyền lập hiến – như chúng ta đã biết – biểu hiện chủ quyền quốc gia – và là một quyền nguyên thủy. Trên nguyên tắc hoàn toàn tự do nhưng những điều kiện thực tế giới hạn một phần nào nội dung tự do ấy.


Và chính những điều kiện thực tế đó ảnh hưởng đến phương thức của việc thành hình Hiến pháp. Tùy theo mỗi quốc gia, tùy theo giai đoạn lịch sử, một phương thức nhất định được áp dụng.


Một cách tổng quát, chúng ta có thể nói rằng có 3 phương thức thiết lập Hiến pháp:


A. PHƯƠNG THỨC BAN BỐ


Phương thức này có tính cách độc đoán, và thường được xem là một ân huệ. Một cá nhân, nhà vua, một nhà độc tài hay một ủy ban được chỉ định tự thảo ra một văn kiện rồi mang ra ban bố cho quốc dân. Lẽ dĩ nhiên đây là một phương thức ít dân chủ. Lịch sử chính trị nước Pháp cũng như giai đoạn hiện tại của nước ta đã chứng minh phương thức này.


a. Ở nước Pháp, năm 1814, 1830, chúng ta thấy các vị vua Louis 18, Louis Philippe tự ý ban bố một Hiến chương làm nền tảng cho tổ chức chính quyền. Hiến chương là một hình thức phôi thai, sơ khai của Hiến pháp. Tóm lại, là một văn kiện mà một vị lãnh đạo tự ý ban hành có lẽ vì nhận thức rằng nó phù hợp với giai đoạn lịch sử ấy.


b. Lịch sử chính trị Việt Nam hơn hai năm nay cho chúng ta một trường hợp điển hình về phương thức ban bố này. Chắc hẳn các bạn còn nhớ sau ngày Cách mạng, có những Hiến ước tạm thời số 1, số 2, tháng 8 năm 1964, có Hiến chương Vũng Tàu, tháng 10-1964 Hiến chương, và Ước pháp Tạm thời ngày 19-6-65 hiện nay được áp dụng. Đặc tính chung của các văn kiện mà chúng ta vừa kê khai đó là tất cả đều do một cơ quan tự ý ban bố. Hội đồng Quân đội Cách mạng, Thượng Hội đồng Quốc gia, Đại Hội đồng Quân lực.


B. PHƯƠNG THỨC QUỐC HỘI LẬP HIẾN


Quốc hội Lập hiến là Quốc hội được trao quyền lập hiến, nghĩa là nhiệm vụ thiết lập Hiến pháp. Đây là một phương thức tiến bộ và dân chủ. Toàn dân bầu một Quốc hội rồi ủy cho cái Quốc hội ấy quyền lập hiến. Phương thức này được áp dụng trong nhiều xứ Âu Mỹ nhất là sau một cuộc cách mạng dân tộc.


Ngay tại nước ta. Quốc hội Lập hiến đã được triệu tập ngày 15-3-1956 và đã thảo Hiến pháp 26-10-1956, có một biệt hiệu “Hiến pháp Cộng hòa Nhân vị”. Và ngày 11-9-1966 một Quốc hội Lập hiến thứ hai được triệu tập để soạn thảo Hiến pháp tương lai.


Cần phải nhấn mạnh là sở dĩ người ta gọi Quốc hội Lập hiến là vì đó là một quốc dân đại hội do toàn dân bầu ra với một nhiệm vụ, sứ mạng duy nhất là đặt cái nền tảng pháp lý đầu tiên cho quốc gia, nghĩa là thiết lập Hiến pháp. Một khi thảo xong và Hiến pháp được ban hành, thì Quốc hội Lập hiến chấm dứt nhiệm vụ.


Tuy nhiên các bạn cũng cần lưu ý là trong thời kỳ soạn thảo Hiến pháp – có thể kéo dài năm, sáu tháng – mặc dù chỉ có nhiệm vụ lập hiến nhưng vì chưa có tổ chức chính quyền, Quốc hội Lập hiến kiêm luôn cả quyền lập pháp. Đó là một nguyên tắc thông thường của Luật Hiến pháp trong thời kỳ chưa có Hiến pháp.


C. PHƯƠNG THỨC TRƯNG CẦU DÂN Ý


Ở đây là thỉnh cầu ý dân, hỏi ý kiến, thăm dò lòng dân. Phương thức trưng cầu dân ý thường thường được áp dụng trong hai trường hợp:



Hoặc một Ủy ban soạn thảo Hiến pháp soạn một dự án. Dự án này đem ra trưng cầu dân ý xem coi đa số dân chúng chấp thuận hay không.
Hoặc Quốc hội Lập hiến soạn dự án Hiến pháp. Dự án này lại phải đem ra trưng cầu dân ý.

Phương thức trưng cầu dân ý có ý nghĩa quan trọng này: trong cả hai trường hợp Hiến pháp chỉ thành Hiến pháp sau khi được toàn dân chấp thuận.


Đó là một điểm cần lưu ý, khi chúng ta đề cập đến phương thức thứ nhì là phương thức Quốc hội Lập hiến, chúng ta có nói rằng Quốc hội ấy biểu quyết chấp thuận, chúng ta có ngay một bản Hiến pháp. Đó là một bản Hiến pháp của quốc gia nhưng trong thực tế đó là một bản Hiến pháp của Quốc hội Lập hiến.


Ở đây – trường hợp trưng cầu dân ý – sau khi Quốc hội Lập hiến biểu quyết chấp thuận bản Hiến pháp – quyết định ấy chỉ được xem là một dự thảo Hiến pháp. Dự thảo ấy chỉ trở thành Hiến pháp sau khi thăm dò ý dân và được sự chấp thuận.


Trưng cầu dân ý là một phương thức hết sức dân chủ vì chính quốc dân phát biểu thẳng ý kiến của mình, và sử dụng trực tiếp quyền lập hiến.


Một thí dụ điển hình về việc áp dụng phương thức trưng cầu dân ý: Trường hợp nước Pháp sau Thế chiến thứ hai, năm 1946.


Dân Pháp bầu một Quốc hội Lập hiến. Quốc hội Lập hiến này soạn thảo và biểu quyết một dự thảo ngày 19-4-1946. Dự thảo này, kế đó, đem trưng cầu dân ý đã bị quốc dân Pháp bác bỏ bằng 10 triệu phiếu nghịch đối với 9 triệu rưởi phiếu thuận.


Tháng 5-1946 dân Pháp lại bầu một Quốc hội Lập hiến thứ hai. Quốc hội Lập hiến thứ hai này thảo một Hiến pháp khác. Và chính dự thảo thứ hai này được dân chúng chấp thuận và trở thành Hiến pháp của Đệ tứ Cộng hòa Pháp, đến năm 1958.


Tóm lại, phương thức thứ ba là trưng cầu dân ý. Chúng ta cũng nên thêm rằng đây là một phương thức dân chủ thật nhưng rất tốn kém và mất thì giờ nhất là khi trưng cầu dân ý đi đôi với Quốc hội Lập hiến.


Vì thế để giản dị hóa, ngày nay các quốc gia thường áp dụng:



Hoặc Quốc hội Lập hiến
Hoặc Ủy ban chuyên môn + Trưng cầu dân ý.

Mục III: TU CHÍNH HIẾN PHÁP


NHẬN XÉT TỔNG QUÁT


Đoạn 1: AI CÓ QUYỀN ĐỀ NGHỊ TU CHÍNH HIẾN PHÁP?


Đoạn 2: NHỮNG PHƯƠNG THỨC TU CHÍNH HIẾN PHÁP


NHẬN XÉT TỔNG QUÁT


1. Hiến pháp, dù nó có long trọng, có căn bản đến đâu, dù nó có được thiết lập trong những điều kiện khó khăn và được soạn thảo một cách kỹ lưỡng, Hiến pháp dù sao vẫn là một văn kiện pháp lý, một sáng tác của con người. Mà một sáng tác của con người lẽ dĩ nhiên phản ảnh một phần nào tâm trạng, hoài bão của những người ở thế hệ đó và phù hợp với hoàn cảnh lịch sử trong một giai đoạn nhất định nào đó.


Sau một thời gian áp dụng, với cái đà tiến triển của nhân loại cũng như với sự thay đổi điều kiện thực tế, kỹ thuật cũng như tâm tính của con người, Hiến pháp có thể không còn phù hợp với giai đoạn mới và vấn đề được đặt ra là phải tu chính, cập nhật hóa cái văn kiện ấy. Cần phải nói thêm – vì đây là một điều dĩ nhiên – rằng khi chúng ta đề cập đến vấn đề sửa đổi, chúng ta gián tiếp và đương nhiên nhận rằng cái Hiến pháp đó, cái khung cảnh chính trị đó, tương đối và một cách tổng quát còn “xài được” và chỉ cần sửa đổi một vài điều khoản nào đó thôi. Nếu toàn bộ xét thấy quá lỗi thời thì lẽ tất nhiên, không phải vấn đề sửa đổi được đặt ra mà trái lại vấn đề hủy bỏ và thiết lập Hiến pháp mới.


Đó là nhận xét thứ nhất: vấn đề tu chỉnh một vài điều khoản của Hiến pháp để cho văn kiện này phù hợp với hoàn cảnh chính trị trong một giai đoạn nhất định.


2. Nhận xét thứ hai: vấn đề sửa đổi liên quan đến nhu tính hay cương tính của Hiến pháp. Hẳn các bạn còn nhớ, khi đề cập đến sự phân biệt giữa Hiến pháp nhu tính và cương tính, chúng ta có nhấn mạnh rằng sự phân biệt này dựa trên tiêu chuẩn sửa đổi.


Một Hiến pháp nhu tính – mặc dù gồm những luật lệ căn bản tổ chức quốc gia trên phương diện thực chất – không có ưu thế – nghĩa là giá trị pháp lý của Hiến pháp nhu tính ngang với luật thường. Vấn đề sửa đổi Hiến pháp trong trường hợp Hiến pháp nhu tính – không thành vấn đề vì sửa đổi rất dễ dàng: đã có một giá trị pháp lý ngang với luật thường thì cơ quan lập pháp có thể bất cứ lúc nào sửa đổi cũng được và bất cứ điều khoản nào của Hiến pháp. Một sự biểu quyết của Quốc hội là sửa đổi ngay Hiến pháp.


Vấn đề sửa đổi Hiến pháp chỉ có tầm quan trọng đối với Hiến pháp cương tính. Vì Hiến pháp cương tính là một Hiến pháp khó sửa đổi. Như chúng ta đã biết Hiến pháp cương tính là một Hiến pháp được thiết lập trong những điều kiện đặc biệt, thường thường bởi một cơ quan đặc biệt, theo những thủ tục long trọng. Lẽ tất nhiên đã thiết lập trong điều kiện đó, thì sửa đổi không phải dễ dàng.


Tóm lại, vấn đề tu chính Hiến pháp chỉ thực sự đặt cho Hiến pháp cương tính. Thường thường các điều khoản về phương thức sửa đổi, cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, cũng như thủ tục cần phải theo được ghi rõ ngay trong bản Hiến pháp.


Đứng trên phương diện tổng quát, về vấn đề tu chính Hiến pháp, chúng ta sẽ lần lượt trình bầy trong đoạn 1: Ai có quyền đề nghị tu chính? và đoạn 2: Những phương thức tu chính.


Đoạn 1: AI CÓ QUYỀN ĐỀ NGHỊ TU CHÍNH HIẾN PHÁP?


Sửa đổi một văn kiện căn bản không phải là một trò chơi. Vì thế không phải bất cứ ai cũng có quyền đề nghị sửa đổi. Vì phải có lý do đặc biệt và thực tế.


Thường thường thì tùy theo Hiến pháp và tùy theo hoàn cảnh chính trị của mỗi quốc gia, quyền đề nghị có thể giao cho cơ quan hành pháp, cơ quan lập pháp, hay cho đa số quốc dân.


1. Cơ quan hành pháp


Quyền đề nghị tu chính Hiến pháp giao cho vị Quốc trưởng hoặc Tổng thống. Ví dụ: Đệ nhất và Đệ nhị Đế quốc Pháp.


2. Cơ quan lập pháp


Có nhiều Hiến pháp giao quyền đề nghị cho Nghị viện. Ví dụ ở Mỹ: Quốc hội Liên bang hoặc 2/3 các nghị viên các tiểu bang có quyền đề nghị.


3. Cả hai cơ quan hành pháp và lập pháp


Hiến pháp 1875 của Pháp.


Điều 103 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa năm 1967.


“Tổng thống, quá bán tổng số dân biểu hay quá bán tổng số nghị sĩ có quyền đề nghị tu chính Hiến pháp.”


“Tổng thống theo đề nghị của Thủ tướng và Quốc hội có sáng quyền tu chính.” (điều 89)


3. Quốc dân


Hiến pháp 1793 của Pháp dự liệu là quốc dân có thể yêu cầu thành lập một hội nghị để sửa đổi Hiến pháp.


Ở Thụy Sĩ một nhóm công dân có thể đề nghị sửa đổi Hiến pháp. Ngoài ra, cần phải thêm rằng có những Hiến pháp trong ấy vấn đề sửa đổi có tính cách đương nhiên sau một thời gian nhất định. Ví dụ Hiến pháp Bồ Đào Nha ấn định rằng cứ sau 5 năm Hiến pháp phải được sửa đổi.


Đoạn 2: NHỮNG PHƯƠNG THỨC TU CHÍNH HIẾN PHÁP


Như chúng ta đã biết, trước khi sửa đổi cần phải có đề nghị chu đáo. Và chúng ta đã biết trong thực tế có những cơ quan nào có quyền đề nghị.


Vấn đề đặt ra là bây giờ là hỏi theo những phương thức nào, nghĩa là ai có quyền sửa đổi, cơ quan nào và thẩm quyền của cơ quan ấy. Chúng ta sẽ lần lượt trình bầy cơ quan và thẩm quyền của cơ quan ấy.


Vấn đề chỉ định cơ quan có nhiệm vụ sửa đổi Hiến pháp tùy thuộc ý định của nhà lập hiến khi soạn thảo Hiến pháp. Ý định ấy là muốn hay không muốn cho bản Hiến pháp sắp ra đời có tính cách quan trọng và có một ưu thế tuyệt đối.


Thật vậy, nếu nhà lập hiến muốn giữ cho bản Hiến pháp – và đồng thời chế độ chính trị qui định bởi Hiến pháp một tính cách lâu dài, bền vững thì lẽ tất nhiên về những điều khoản liên hệ đến việc sửa đổi, họ sẽ qui định một thủ tục phức tạp, khó khăn để cho việc sửa đổi khó mà thực hiện.


Trái lại nếu nhà lập hiến quan niệm rằng bản Hiến pháp mà họ cho ra đời cần phải luôn luôn tiến triển nhanh nhẹn với tình thế khi cần, thì thường thường họ ấn định một thủ tục giản dị cho việc tu chỉnh.


Tùy theo ý tưởng căn bản đó, chúng ta có thể tìm thấy 3 phương thức tu chính.


A. CƠ QUAN


a. Cơ quan lập pháp thường


Đây là phương thức thông thường nhất. Quyền tu chính Hiến pháp được giao phó cho cơ quan lập pháp. Nhưng nếu cơ quan lập pháp thường lại có thể biểu quyết bất cứ một đạo luật nào để sửa đổi Hiến pháp thì Hiến pháp trong tình trạng ấy không có tính cách ưu thế của nó. Bởi thế, mặc dù giao cho cơ quan lập pháp thường nhưng để nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiến pháp người ta đặt ra một thủ tục đặc biệt long trọng và khó khăn hơn thủ tục lập pháp thường.


Ví dụ trong một xứ mà Quốc hội có hai Viện. Hiến pháp có thể ấn định rằng đề nghị sửa đổi phải được mỗi Viện thỉnh cầu với đa số tuyệt đối. Rồi sau đó dự thảo sửa đổi phải được hai Viện họp lại thành một và biểu quyết với đa số tuyệt đối hay ¾ hay 2/3 v.v…


Ví dụ: Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956, điều 92 “Đề nghị sửa đổi Hiến pháp chỉ được chấp thuận nếu ¾ tổng số dân biểu tán thành, trong một cuộc minh danh và đích thân đầu phiếu”. Điều 105 Hiến pháp VNCH 1967: “Quyết nghị tu chính Hiến pháp phải hội đủ hai phần ba tổng số dân biểu và nghị sĩ”.


b. Một hội nghị dân cử đặc biệt


Qui định trong Hiến pháp rằng muốn sửa đổi Hiến pháp phải có một hội nghị đặc biệt chứng tỏ rằng ý chí của nhà lập hiến là giữ cho bản Hiến pháp một tính cách long trọng. Thật vậy, muốn sửa đổi Hiến pháp cần phải có một hội nghị dân cử. Và hội nghị có tính cách đặc biệt là có nhiệm vụ duy nhất sửa đổi Hiến pháp. Xong nhiệm vụ hội nghị này cũng hết. Phương thức này áp dụng tại Hoa Kỳ.


“Quốc hội, khi 2/3 xét là cần thiết, sẽ đề nghị các tu chánh án cho bản Hiến pháp này, hoặc theo lời yêu cầu của các cơ quan lập pháp của 2/3 các tiểu bang sẽ triệu tập một hội nghị để đề nghị các tu chính án đó. Trong trường hợp nào cũng vậy, các tu chính án đó sẽ có hiệu lực về mọi phương diện, như là một phần của Hiến pháp này, khi đã được phê chuẩn bởi các cơ quan lập pháp của ¾ các tiểu bang, hoặc bởi các hội nghị của ¾ các tiểu bang tùy theo thể thức phê chuẩn do Quốc Hội đề nghị”. (Điều 5 Hiến pháp Hoa Kỳ)


c. Quốc dân tham dự trực tiếp vào việc sửa đổi Hiến pháp.


Phương thức này có thể áp dụng trong hai trường hợp:



Cơ quan lập pháp thường đảm nhiệm công việc sửa đổi. Tuy nhiên dự thảo sửa đổi cần phải đem ra trưng cầu dân ý để quốc dân duyệt y. Lẽ tất nhiên khi đa số dân chúng không chấp thuận dự thảo sửa đổi của cơ quan lập pháp thì đề nghị sửa đổi không có giá trị. Ví dụ điều 89 đoạn 2 Hiến pháp Pháp “Dự án hay dự thảo luật tu chính do 2 Viện biểu quyết theo một văn bản giống nhau. Tu chính án sẽ có tính cách nhất định sau khi mang ra trưng cầu dân ý.”
Chính quốc dân đề nghị thẳng. Rồi đề nghị cùng dự thảo sửa đổi được đưa ra trưng cầu dân ý. Phương pháp này được áp dụng trong các Tiểu bang của Thụy Sĩ.

B. THẨM QUYỀN


Vấn đề thẩm quyền là như thế này. Được giao phó nhiệm vụ sửa đổi là một chuyện. Mà các cơ quan nói trên có toàn quyền sửa đổi hay không? Nghĩa là có quyền sửa đổi bất cứ một điều khoản nào của Hiến pháp hay không?


Nói một cách khác, Hiến pháp có thể nào cấm hẳn việc sửa đổi, ví dụ như ấn định rằng những điều khoản nào đó có tính cách bất di bất dịch, không thể sửa đổi được?


Thực tại chính trị cho chúng ta biết rằng nhà lập hiến thường thường giới hạn thẩm quyền của cơ quan sửa đổi Hiến pháp bằng cách qui định rằng những điều khoản căn bản nào đó không thể được sửa đổi. Ví dụ như chính thể Cộng hòa, hình thể thống nhất của Quốc gia, chủ quyền của toàn dân v.v… Hiến pháp Pháp điều 89 đoạn chót “không thể áp dụng thủ tục tu chính Hiến pháp nếu tu chính đó vi phạm sự vẹn toàn lãnh thổ. Không thể tu chính hình thức Cộng hòa của Pháp.”


Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa điều 89 “Không thể sửa đổi hoặc hủy bỏ các điều 1, 2, 3, 4 của Hiến pháp.”


Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967, điều 107: “Không thể hủy bỏ hoặc tu chính điều 1 và điều này của Hiến pháp.”


Mục IV: BẢO VỆ HIẾN PHÁP


Đoạn 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ


Đoạn 2 : NHỮNG HÌNH THỨC KIỂM SOÁT SỰ HỢP HIẾN


Đoạn 3: GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA “LỜI NÓI ĐẦU”


Đoạn 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ


Vấn đề bảo vệ Hiến pháp chỉ là hậu quả của tất cả các vấn đề mà chúng ta đã đề cập: Khái niệm Hiến pháp, Hiến pháp cương tính cũng như tính cách ưu thế của Hiến pháp. Hẳn các bạn còn nhớ – khi chúng ta đề cập đến Hiến pháp thành văn – chúng ta đã nhấn mạnh rằng ý kiến soạn thảo Hiến pháp được xuất hiện lúc mà phong trào chống đối chuyên chế và đòi hỏi tự do được đẩy mạnh và để cho những thắng lợi của quần chúng được bảo đảm cần phải ghi lại trong một văn kiện long trọng.


Nhưng ghi lại trong một văn kiện long trọng để làm gì, nhấn mạnh tính cách ưu thế của Hiến pháp để làm gì nếu cơ quan lập pháp có thể biểu quyết những đạo luật trái với Hiến pháp? Vấn đề bảo vệ Hiến pháp tức là vấn đề kiểm soát tính cách hợp hiến của các đạo luật. Kiểm soát tính cách hợp hiến của các đạo luật tức là điều tra, xem xét coi những đạo luật – tức là những hành vi pháp lý ở một địa vị kém hơn Hiến pháp – có phù hợp với tinh thần cùng nội dung của Hiến pháp hay không? Nếu không có sự kiểm soát này, thì tất cả các quyền của công dân ghi trong trong Hiến pháp không còn giá trị nữa.


Vậy một đạo luật trái với Hiến pháp là một đạo luật bất hợp hiến, và hoàn toàn vô giá trị. Đứng trên phương diện pháp lý, quan điểm này không thể chối cãi được. Tuy nhiên, đứng trên phương diện chính trị, vấn đề kiểm soát hiến tính của các đạo luật gặp những khó khăn phức tạp.


* Khó khăn thứ nhất liên hệ đến vai trò của Quốc hội. Thật vậy, trong một chế độ dân chủ, các đạo luật là do Quốc hội. Quốc hội tượng trưng cho ý chí của Quốc gia. Kiểm soát tính cách hợp hiến của các đạo luật tức là kiểm soát Quốc hội và các cơ quan đảm nhiệm nhiệm vụ kiểm soát hiến tính của đạo luật có thể lấn áp cả Quốc hội. Hơn nữa, thường thường vấn đề hay đặt ra khi có một đạo luật liên hệ đến quyền lợi của công dân. Trong trường hợp này, vấn đề kiểm soát hiến tính trở thành phương tiện bảo đảm tự do và quyền lợi cá nhân chống quốc gia. Dưới danh nghĩa bảo vệ quyền lợi và tự do thiêng liêng của con người, cơ quan kiểm soát có thể vô tình bênh vực cá nhân chống Quốc hội, đại diện của nhân dân.


* Khó khăn thứ nhì liên hệ đến vấn đề giải thích. Kiểm soát hiến tính tức là xem đạo luật có phù hợp với Hiến pháp không. Làm như thế tức là phải so sánh nội dung của đạo luật cùng với nội dung của Hiến pháp. Nhưng dù có rõ ràng đến đâu, những danh từ của Hiến pháp cũng cần phải giải thích vì danh từ thường thường vừa tổng quát vừa trừu tượng. Ví dụ tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, quyền tham gia công vụ, quyền tư hữu, v.v… Ví dụ Hiến pháp quy định tự do làm việc. Quốc hội biểu quyết đạo luật hạn chế ngày làm việc 8 giờ. Đạo luật này có trái với tinh thần Hiến pháp hay không? Câu trả lời tùy thuộc ý kiến của cơ quan kiểm soát về vấn đề tự do làm việc. Cơ quan kiểm soát có thể quan niệm rằng tự do làm việc là một nguyên tắc tuyệt đối, một quyền thiêng liêng không thể bị giới hạn. Cơ quan kiểm soát cũng có thể quan niệm rằng tự do làm việc chỉ là một nguyên tắc tương đối cần phải đi đôi với sự lợi ích xã hội cùng luân lý và sức khỏe của con người. Đạo luật có trái với Hiến pháp hay không là tùy theo quan niệm của cơ quan kiểm soát khi cơ quan này giải thích Hiến pháp. Mà như các bạn cũng thừa biết, chúng ta đều là con người, cơ quan kiểm soát cũng gồm một số người. Mà đã là con người thì khi chúng ta giải thích, phê bình, ý kiến của chúng ta một phần nào bị ảnh hưởng bởi nền giáo dục của chúng ta, giai cấp của chúng ta, tuổi tác chúng ta, định kiến của chúng ta. Thành thử ra, khi chúng ta nói rằng cơ quan kiểm soát so sánh đạo luật cùng Hiến pháp, thật ra không phải Hiến pháp mà ý nghĩ của họ về Hiến pháp. Vì thế, nếu cơ quan kiểm soát gồm nhiều người có một tinh thần bảo thủ thì chắc chắn là những đạo luật tiến bộ xã hội không thể nào ra đời vì lẽ bất hợp hiến. Trường hợp điển hình là trường hợp Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Tòa án này – vào khoảng 1933 – đã hủy bỏ tất cả những đạo luật về xã hội – viện lẽ rằng vì phạm đến tự do và quyền tư hữu.


Tóm lại, vấn đề bảo vệ Hiến pháp – kiểm soát hiến tính của đạo luật – trên nguyên tắc là một vấn đề pháp lý dễ giải quyết. Nhưng trong thực tế, đã trở thành vấn đề chính trị hay nói cho đúng hơn – có xen những yếu tố chính trị – như ý kiến chính trị, quan niệm về chính trị


Đoạn 2 : NHỮNG HÌNH THỨC KIỂM SOÁT SỰ HỢP HIẾN


* Kiểm soát bởi một cơ quan chính trị


* Kiểm soát bởi một cơ quan tài phán


A. CƠ QUAN BẢO HIẾN: CƠ QUAN CHÍNH TRỊ


Người ta có thể liên tưởng đến hình thức thứ nhất giao quyền kiểm soát cho một cơ quan chính trị, thường thường là một hội nghị dân cử, hoặc chính một ủy ban của cơ quan lập pháp hoặc một trong hai viện của Quốc hội.


Tóm lại, dù do cơ quan nào, ở đây chúng ta đứng trước một cơ quan có tính cách đại diện kiểm soát tính cách hợp hiến của đạo luật, nghĩa là một cơ quan chính trị kiểm soát một cơ quan chính trị, như thế chúng ta tránh khỏi khó khăn thứ nhất mà chúng ta đã nêu ra khi chúng ta đặt vấn đề kiểm soát. Cơ quan đã làm ra đạo luật, và trong trường hợp đạo luật bị bác bỏ vì bất hợp hiến, không thể bất bình viện lẽ cơ quan kiểm soát không có tính cách đại diện.


Tuy nhiên giải pháp cơ quan chính trị lại có một điều bất lợi. Vì là một cơ quan chính trị, cơ quan này có khuynh hướng cứu xét vấn đề trên khía cạnh chính trị hơn là pháp lý. Mà kiểm soát sự hợp hiến là làm một hành vi pháp lý. Là một cơ quan chính trị, sự kiểm soát dễ bị sai lạc vì cơ quan này nghĩ nhiều đến lợi ích của đạo luật, tính cách hợp thời của nó, cũng như giá trị thực tiễn của nó. Đáng lý ra là một cơ quan kiểm soát tính cách hợp hiến, cơ quan chính trị thường biến thành cơ quan kiểm soát tính cách hợp thời của đạo luật.


Hơn nữa, cơ quan chính trị khó giữ được tính cách độc lập đối với chính quyền vì thường bị ảnh hưởng hoặc áp lực của chính quyền.


B. CƠ QUAN BẢO HIẾN: CƠ QUAN TÀI PHÁN


Để cho việc kiểm soát phù hợp với nguyên tắc trọng pháp, hình thức thường được áp dụng là giao cho một cơ quan tài phán. Chúng ta có thể kể ra 2 trường hợp và đồng thời cũng là hai phương pháp hành động của cơ quan tài phán.


1. Kiểm soát bằng cách thụ lý trực tiếp


Tất cả các đạo luật có thể xem là bất hợp hiến được đệ lên Tòa án. Tòa án này có thể hủy bỏ nếu tính cách bất hợp hiến của các đạo luật được xác nhận. Kiểm soát này được gọi là trực tiếp vì việc hủy bỏ đạo luật do một sự khởi tố trực tiếp.


Bất cứ ai thấy một đạo luật bất hợp hiến cũng có thể đệ đơn xin phán quyết về tính cách bất hợp hiến của đạo luật. Và đơn khởi tố nhằm mục đích trực tiếp và duy nhất là xin tiêu hủy đạo luật.


Cách thụ lý trực tiếp này có 3 đặc điểm :



Cần phải được ấn định rõ ràng bởi Hiến pháp.
Nếu Tòa án xét thấy có sự bất hợp hiến thì đạo luật sẽ được tiêu hủy, nghĩa là đạo luật đó sẽ được coi như không có.
Và sự hủy bỏ này có hiệu lực tuyệt đối, nghĩa là đạo luật sẽ được coi như không có đối với bất cứ ai.

2. Kiểm soát bằng cách thụ lý gián tiếp


Ở đây chúng ta không đứng trước một đơn nhằm mục đích trực tiếp xin hủy bỏ một đạo luật bất hợp hiến. Vấn đề kiểm soát có tính cách gián tiếp vì được đặt ra như một việc phụ đới. Thật vậy, nhân dịp một vụ kiện nào đó trước Tòa án, một bên xin áp dụng đạo luật, một bên xin không áp dụng viện lẽ tính cách bất hợp hiến của đạo luật. Trong trường hợp đó trước khi phán quyết về nội dung vụ kiện, Tòa phải xem trước coi đạo luật có hợp hiến hay không. Như vậy, một cách gián tiếp[iii], việc kiểm soát được đề cập. Trong trường hợp có tính cách bất hợp hiến được xác nhận, Tòa tuyên bố rằng đạo luật bất hợp hiến sẽ không được áp dụng. Nhưng đạo luật không bị hủy bỏ và vẫn còn tồn tại. Sự bất hợp hiến có tính cách tương đối.


3. Nhận xét


Thực tế cho chúng ta thấy rằng không một phương thức nào – trong hai phương thức vừa kể – được áp dụng một cách triệt để. Thật vậy:


a. Trong trường hợp thụ lý trực tiếp: cơ quan tài phán thường chỉ có tính cách tài phán về hình thức mà thôi. Ví dụ trong Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức có một cơ quan mệnh danh là « Tòa án Bảo hiến » với nhiệm vụ xem xét tính cách hợp hiến các đạo luật. Tuy nhiên thành phần và cách tuyển chọn nhân viên của Tòa án đượm một màu sắc chính trị: trong số 24 nhân viên, 16 phải được Quốc hội bầu và 8 được chỉ định trong số các thẩm phán của các tòa án tối cao.


Hơn nữa, không phải bất cứ ai cũng có thể khởi tố xin tiêu hủy một đạo luật bất hợp hiến.


Các sự kiện trên chứng tỏ rằng vấn đề bảo hiến đã trở thành phương thức giải quyết mối tương tranh giữa các cơ quan công quyền.


b. Trong trường hợp thụ lý gián tiếp: phương thức này thường được áp dụng trong các quốc gia thuộc Liên hiệp Anh và đặc biệt tại Mỹ Quốc. Tuy nhiên với những khó khăn mà chúng ta đã thấy, thường thường cơ quan tài phán rất thận trọng trong việc kiểm soát hiến tính các đạo luật và quyết định đình chỉ việc áp dụng khi nào có một vi phạm trắng trợn.


Tóm lại, việc kiểm soát hiến tính của đạo luật trong thực tế đã lần lần mất hẳn tầm quan trọng của nó và đã biến thành một phương thức giải quyết mối tương tranh thẩm quyền trong một quốc gia liên bang.


Như chúng ta đã thấy, đại đa số quốc gia trao việc bảo vệ Hiến pháp cho một cơ quan tài phán và thường thường là Tối cao pháp viện theo hai phương cách vừa kể. Và sự kiểm soát hiến tính các đạo luật thường có tính cách hậu thiên (a posteriori) nghĩa là kiểm soát sau khi đạo luật được ban hành và thi hành.


Cần phải nói thêm rằng cũng có nhiều quốc gia quan niệm vấn đề kiểm soát trước khi đạo luật được ban hành: đó là sự kiểm soát có tính cách tiên thiên (a priori). Thí dụ như ở Syrie, sau khi một dự luật được Quốc hội chung quyết, nếu Tổng thống hoặc ¼ tổng số dân biểu cho rằng dự luật đó bất hợp hiến, dự luật sẽ được chuyển đến Tối cao Pháp viện để thẩm định. Cơ quan này có một thời hạn là 10 ngày để quyết định. Nếu bị Tối cao Pháp viện cho là bất hợp hiến, dự luật sẽ được chuyển hoàn về Quốc hội để tu chính. Ở Pháp tất cả những dự luật được xem là dự luật tổ chức phải do Viện Bảo hiến kiểm soát hiến tính trước khi Tổng thống ban hành.


Đoạn 3: GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA «LỜI NÓI ĐẦU»


Cho đến nay, đặt vấn đề bảo vệ Hiến pháp, chúng ta chỉ nghĩ đến các điều khoản của bản Hiến pháp chính cống. Tuy nhiên thường thường trước bản Hiến pháp chính cống nhà lập hiến hay ghép vào một «Lời nói đầu» hoặc một bản «Tuyên ngôn nhân quyền» trong ấy nhà lập hiến phác họa xã hội tương lai.


Vấn đề đặt ra là những «Bản tuyên ngôn» hay «Lời nói đầu» ấy có một giá trị pháp lý nào chăng? Và, nếu có, đến mức độ nào?


A. Để trả lời, có hai quan niệm rõ rệt: một quan niệm cho rằng các văn kiện ấy có một giá trị như các đạo luật Hiến pháp. Quan niệm thứ hai quả quyết rằng «Tuyên-ngôn» hay «Lời nói đầu» chỉ là những tuyên ngôn của chân lý, những khái niệm của luật thiên nhiên. Tóm lại, chỉ bao gồm một số nguyên tắc, không thể xem là đạo luật có tính cách chấp hành.


Chúng ta nghĩ sao về hai quan niệm trên đây?


Trước hết cần phải nói ngay là quan niệm cho rằng những bản tuyên ngôn, những lời đầu có giá trị của những đạo luật Hiến pháp không thể chấp nhận được: Có những bản tuyên ngôn hay lời nói đầu có một tiếng vang trong một giai đoạn lịch sử, có một tầm quan trọng chính trị đặc biệt; đó là một điều không thể chối cãi. Nhưng sự kiện này không có nghĩa là nó có một giá trị pháp lý ưu thế.


Trong hệ thống pháp lý thực tiễn không thể có những qui tắc pháp lý ngoài qui tắc hiến tính và luật lệ thường.


Những bản tuyên ngôn hay lời nói đầu, thực ra không phải là bản tuyên ngôn về quyền hạn, mà chỉ là bản tuyên ngôn về nguyên tắc chỉ đạo. Vì các văn kiện này không ấn định rõ qui tắc pháp lý có thể áp dụng bởi cơ quan công quyền và nhất là công dân có thể viện dẫn trước tòa án.


Những khẳng định hay tuyên bố có tính cách trừu tượng, không có nội dung rõ rệt và như thế không thể giới hạn thẩm quyền của cơ quan lập pháp trong việc qui định quyền hạn cá nhân.


B. Đó là vấn đề nguyên tắc. Tuy nhiên quả quyết rằng bản tuyên ngôn hay lời nói đầu chỉ có tính cách tổng quát cũng không kém thực tế. Vì thực ra nội dung của các văn kiện ấy cũng có một giá trị pháp lý. Tất cả vấn đề là ấn định giá trị pháp lý nào?


Để giải quyết vấn đề chúng ta cần phải phân tích rõ bản chất của những bản tuyên ngôn hay lời nói đầu. Thật vậy trong các văn kiện ấy thông thường có những khẳng định có tính cách qui tắc pháp lý, và có những khẳng định chỉ nói lên một chương trình.



Có những qui tắc pháp lý áp dụng ngay, có một giá trị như đạo luật Hiến pháp. Ví dụ khi lời nói đầu hay bản tuyên ngôn xác định nguyên tắc bình đẳng của công dân trong công vụ, thì công dân nào bị loại bỏ khỏi kỳ thi tuyển vì chính kiến hay tôn giáo hay địa phương chắc chắn có thể viện dẫn nguyên tắc ấy để phản đối một hành vi bất hợp pháp.
Trái lại có những điều khoản trong lời nói đầu chỉ nêu một chiều hướng, ý thức hệ hay chương trình hành động của quốc gia. Các điều khoản này thực ra chỉ để ra cho những nhà lãnh đạo và không thể được xem là qui tắc thực tiễn có tính cách bắt buộc. Ví dụ như trong lời nói đầu có qui định rằng: «Mọi công dân có quyền có công ăn việc làm». Lẽ dĩ nhiên quyền này không thể thực hiện được nếu không có một cải cách sâu rộng về cơ cấu kinh tế để tránh nạn thất nghiệp trong quốc gia.


(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.





[i] Nguyên văn: “liên đến”




[ii] Nguyên văn: “được ấn bởi”




[iii] Nguyên văn: “Đây Một cách gián tiếp”


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 19, 2013 15:41

August 17, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (1)

Lời giới thiệu của pro&contra


Cuốn sách này sẽ còn phải chờ một thời gian dài, trước khi lại được xuất bản tại Việt Nam. Vì hai lẽ:


Thứ nhất, vì bản thân nội dung của nó. Ra đời gần một nửa thế kỉ trước tại miền Nam Việt Nam thời Đệ nhị Cộng hòa, nền tảng lí thuyết tổ chức một nhà nước dân chủ và pháp quyền mà nó trình bày đối lập sâu sắc với mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa với độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản trước sau vẫn tồn tại trong thực tế và vẫn chế ngự tư duy chính thống.


Thứ hai, tác giả của nó không phải ai khác, chính là Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người bị chính quyền cách mạng ám sát ngày 10-11-1971. Lí do để ở thời điểm ấy, Hà Nội quyết định duyệt lệnh giết một giáo sư luật, Viện trưởng Viện Quốc gia Hành chánh tại Sài Gòn, gần đây được bạch hóa trên báo chí Việt Nam với một sự thản nhiên đến lạnh người. Một trong hai người trực tiếp tiến hành và tiến hành thành công vụ ám sát, ông Vũ Quang Hùng kể: “Theo tin tức tình báo, G.33 (tức ông Nguyễn Văn Bông) đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”. Trong một loạt bài vinh danh “chiến công vang dội của An ninh T4″, báo Công an cho biết thêm: “Nguyễn Văn Bông bị tiêu diệt không chỉ làm ‘đổ bể kế hoạch thay đổi nhân sự của ngụy quyền Sài Gòn mà còn làm cho nội bộ địch nghi ngờ lẫn nhau“.


Trong danh sách những nhân vật xuất chúng bị chính quyền cộng sản ám sát hoặc trừ khử trong bóng tối, Nguyễn Văn Bông có nhiều điểm tương đồng với Phạm Quỳnh. Họ đều là những trí tuệ hiếm có, những trí thức có tầm vóc và ảnh hưởng lớn, dấn thân trong trường chính trị cho một nước Việt Nam mới, song họ đều khước từ lựa chọn chủ nghĩa cộng sản. Gần 70 năm sau cái chết của Phạm Quỳnh, tên tuổi ông ở Việt Nam ngày nay không còn là cấm kị, một số tác phẩm của ông đã được tái xuất bản và ngày càng có thêm những công trình nghiên cứu về ông. Lịch sử đã dần bình tĩnh trở lại, tuy nỗi đau từ những tương tàn của cuộc chiến hệ tư tưởng vẫn giày vò các thế hệ đến sau. Còn Nguyễn Văn Bông? Trong cao trào thảo luận về dự thảo sửa đổi Hiến pháp vài tháng trước, Luật Hiến pháp và Chính trị học, tác phẩm chính của ông, cũng được một số người nhắc đến trong phần cước chú hay tài liệu tham khảo, song toàn văn cuốn sách này cho đến nay nằm ngoài khả năng tiếp cận của phần lớn giới độc giả hàn lâm Việt Nam.


Bản điện tử sau đây được thực hiện từ bản chụp của một trong những ấn bản hiếm hoi còn sót lại của cuốn sách này, trong đó một số trang đã bị mất. Để thuận lợi cho độc giả hôm nay, chúng tôi quyết định biên tập theo một số chuẩn mực phổ biến trong tiếng Việt hiện đại. Sự can thiệp này chỉ thuần túy mang tính kĩ thuật, chủ yếu liên quan đến chính tả, tuyệt đối không chạm vào nội dung văn bản. Bên cạnh đó chúng tôi cũng sẽ công bố bản điện tử được thực hiện trung thành với bản in, để truyền đạt nguyên vẹn ấn tượng và cảm xúc về một văn bản mang đậm dấu ấn văn hóa và lịch sử của một quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam hiện không còn tồn tại. Nguyên sách có làm mục lục chuyên đề (Index) để dễ dàng tra cứu, trong bản điện tử chúng tôi không thực hiện. Các chú thích có kèm dấu (p&c) là do pro&contra thực hiện. Tất cả còn lại là chú thích của tác giả Nguyễn Văn Bông.


_________________


 


MỤC LỤC


Lời tựa


Lời nói đầu cho bản in lần thứ hai


Chương mở đầu


Phần thứ nhất: Lý thuyết đại cương


Thiên thứ nhất : Những khái niệm và nguyên tắc căn bản


Chương I: Chính quyền và quốc gia


Mục I: Quyền lực, uy quyền và hiện tượng chính trị



Quyền lực và quyền uy
Hiện tượng chính trị

Mục II: Khái niệm chính quyền



Chính quyền và cộng đồng chính trị
Ý niệm và vai trò của chính quyền
Những hình thức của chính quyền

Mục III: Quốc gia



Định nghĩa
Những đặc tính pháp lí của quốc gia
Những hình thể của quốc gia

Chương II: Hiến pháp


Mục I: Thế nào là một hiến pháp?



Định nghĩa thực chất và định nghĩa hình thức
Hiến pháp tục lệ và hiến pháp thành văn
Hiến pháp nhu tính và hiến pháp cương tính

Mục II: Thiết lập hiến pháp



Quyền lập hiến
Những phương thức thiết lập hiến pháp

Mục III: Tu chính hiến pháp



Nhận xét tổng quát
Ai có quyền đề nghị tu chính hiến pháp?
Những phương thức tu chính hiến pháp

Mục IV: Bảo vệ hiến pháp



Đặt vấn đề
Những hình thức kiểm soát sự hợp hiến
Giá trị pháp lý của “Lời nói đầu”

Chương III: Nguyên tắc dân chủ


Mục I: Khái niệm chính đáng



Hợp pháp và chính đáng
Nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc chính đáng trong xã hội cận đại

Mục II: Khái niệm dân chủ



Định nghĩa
Chủ quyền

Mục III: Đại cương về chế độ chính trị



Định nghĩa về chế độ chính trị
Phân loại các chế độ chính trị
Chế độ dân chủ và không dân chủ
Những hình thức dân chủ

Thiên thứ hai: Tổ chức chính quyền


Chương I: Những cơ quan công quyền


Mục I: Chính phủ



Cá nhân điều khiển
Tập thể điều khiển
Cá nhân và tập thể điều khiển

Mục II: Quốc hội



Vấn đề lưỡng viện
Tổ chức và điều hành Quốc hội

Chương II: Những hình thức tổ chức chính quyền


Mục I: Chế độ phân quyền



Nguyên tắc phân quyền
Tổng thống chế: chế độ áp dụng nguyên tắc phân quyền

Mục II: Chế độ hợp quyền



Khái niệm hợp quyền
Chế độ nghị viện hay nội các chế

Mục III: Chế độ tập quyền



Những hình thức tập quyền cổ điển
Một hình thức mới, chế độ độc đảng

Chương III: Những định luật căn bản của nền dân chủ hiện đại


Mục I: Những hình thức tổ chức chính quyền cổ điển và thực tại chính trị ngày nay



Những biến chuyển của chế độ nghị viện
Những biến chuyển của chế độ tổng thống
Sự thay đổi toàn điện điều kiện sinh hoạt xã hội ngày nay

Mục III: Một vài định luật căn bản



Chính phủ, cơ quan đầu não của quốc gia
Một hệ thống quyết định, tấn phong và trách nhiệm quốc gia
Một hệ thống đối thoại tự do

Thiên thứ ba: Sự tham gia chính trị của công dân trong chế độ dân chủ


Chương I: Tuyển cử


Mục I: Chế độ tuyển cử và đặc tính của đầu phiếu



Chế độ tuyển cử
Những đặc tính của đầu phiếu

Mục II: Thể thức đầu phiếu



Một vài quy tắc tổ chức
Đầu phiếu theo đa số và đầu phiếu theo tỷ lệ

Mục III: Vấn đề bất tham gia cuộc đầu phiếu



Mực độ bất tham gia
Nguyên do của sự bất tham gia

Chương II: Những hình thức tham gia chính trị


Mục I: Công dân chú trọng đến các vấn đề chính trị



Tìm hiểu chính trị
Lập trường chính trị

Mục II: Công dân chú trọng đến các tổ chức chính trị



Chính đảng
Những tổ chức không mục tiêu chính trị

Chương III: Tham gia và bất tham gia


Mục I: Thái độ phi chính trị



Phủ nhận tính cách chính trị trong hoạt động
Đề cao thái độ thụ động của công dân đối với thời cuộc

Mục II: Lập trường Mác-xít: Sự tham gia trong chế độ dân chủ là một trò bịp bợm



Nội dung của lập trường
Nhận xét

Chương IV: Đối lập chính trị


Mục I: Định nghĩa và các quan niệm về đối lập



Định nghĩa
Đối lập được quan niệm như thế nào?

Mục II: Vai trò của đối lập



Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền
Vai trò cộng tác với chính quyền

Mục III: Quy chế của đối lập



Những quyền hạn của đối lập
Những nghĩa vụ của đối lập

Mục IV: Đối lập trong các quốc gia chậm tiến


Phần thứ hai: Thế giới chính trị hiện đại


Thiên thứ nhất: Những chế độ dân chủ cổ điển


Chương I: Chế độ chính trị Hoa Kỳ


Mục I: Khung cảnh pháp lý



Một quốc gia liên bang
Một hiến pháp cương tính
Một chế độ tổng thống

Mục II: Thực tại chính trị



Một hệ thống chính đảng duy nhất
Một chính thể đại nghị trá hình
Một nền dân chủ đại diện bởi một cá nhân

Chương II: Chế độ chính trị Anh Quốc  


Mục I: Khung cảnh pháp lý



Một xã hội cổ truyền thời Trung cổ
Một chính thể quân chủ lập hiến

Mục II: Thực tại chính trị



Một hệ thống lưỡng đảng
Một chính quyền thuần nhất và một trách nhiệm quốc gia
Một đối lập hữu hiệu

Thiên thứ hai: Những chế độ chuyên chế


Chương I: Chế độ chính trị Nga Sô


Mục I: Chủ nghĩa Mác-xít



Căn bản triết lý
Chủ thuyết kinh tế
Chủ thuyết chính trị

Mục II: Những định chế chính trị Nga Sô



Tóm tắt lịch sử
Nhà nước Nga Sô

Mục III: Đảng Cộng sản



Đặc tính và tổ chức
Vai trò

Thiên thứ ba: Những chế độ cùng Đông Nam Á


Chương I: Chế độ chính trị Đại Hàn


Mục I: Lược sử chính trị Đại Hàn



Từ 1945 đến 1960
Từ 1960 đến cuộc đảo chính ngày 16-5-1961
Sau cuộc đảo chính

Mục II: Hiến pháp Đại Hàn



Quốc hội
Chính phủ
Pháp viện tối cao

Chương II: Việt Nam


Mục I: Từ đế quốc đến chính thể cộng hòa



Khuynh hướng cộng sản
Khuynh hướng quốc gia

Mục II: Chế độ Ngô Đình Diệm



Phân tích Hiến pháp 26-10-1956
Nhận xét

Mục III: Việt Nam sau Cánh mạng 1-11-1963



Sự hình thành Quốc hội Lập hiến
Quốc hội Lập hiến 1966

Chương III: Nền Đệ nhị Cộng hòa


Mục I: Lời mở đầu và nguyên tắc căn bản



Lời mở đầu
Những nguyên tắc căn bản

Mục II: Quyền lập pháp



Quốc hội, cơ quan lập pháp
Thẩm quyền Quốc hội

Mục III: Quyền hành pháp



Cơ cấu hành pháp trung ương
Nền hành chánh địa phương

Mục IV: Quyền tư pháp



Vấn đề bảo vệ sự độc lập của thẩm phán xử án
Tối cao Pháp viện

Mục V: Các định chế đặc biệt



Đặc biệt Pháp viện
Giám sát Viện
Các cơ quan tư vấn

Mục VI: Tu chính Hiến pháp



Ai có quyền đề nghị tu chính?
Thủ tục tu chính

Tài liệu cần tham khảo


Phụ bản



Hiến pháp của Hiệp chúng Quốc ngày 4-3-1789
Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa ngày 26-10-1956
Hiến ước Tạm thời số 1 ngày 4-11-1963
Hiến ước Tạm thời số 2 ngảy 7-2-1964
Hiến chương Việt Nam Cộng hòa ngày 16-8-1964
Hiến chương Lâm thời ngày 20-10-1964
Ước pháp Tạm thời ngày 19-6-1965
Hiến pháp 1-4-1967

________________________


LỜI TỰA


Chính trị có được xem là bệnh dịch hạch hay là địa hạt của những xảo trá, xôi thịt, hoặc được quan niệm như cái gì chỉ liên quan đến chính đảng, đến đấu tranh về ý thức hệ, con người không thể thoát vòng kềm tỏa của chính trị.


Dù cố ý sống trong tháp ngà hay vô tình lánh xa xã hội, khung cảnh cũng như trật tự pháp lý và những vấn đề chính trị vẫn chi phối và quấy nhiễu chúng ta.


Ưu thế và tầm quan trọng của chính trị không thể chối cãi.


Trong chiều hướng ấy, quyển sách này nhằm giúp sinh viên một tài liệu học hỏi và đồng thời những ai mong mỏi mở rộng kiến thức về qui tắc căn bản Quốc gia và điều kiện thực tiễn của cuộc sinh hoạt chính trị. Chúng tôi chỉ muốn lưu ý hai điểm:


1. Khi đề cập đến luật Hiến pháp hay Chính trị học, độc giả không nên quên rằng các vấn đề pháp lý hay chính trị không thể tách rời lịch sử tổng quát, rằng Hiến pháp không phải là sáng tác của óc tưởng tượng mà trước hết là sản phẩm của hoàn cảnh, của xã hội, của biến cố;


2. Nghiên cứu cuộc sinh hoạt chính trị hay các vấn đề hiến tính, phần thứ nhất về “Lý thuyết đại cương” có một tầm quan trọng đặc biệt. Chính trong phần này sinh viên tìm thấy những yếu tố ích lợi để có những nhận định khách quan và thực tiễn về các vấn đề trọng đại của Quốc gia, vấn đề mà sự hiểu biết rất cần thiết không những để học và thi mà còn để có dịp bày tỏ lập trường – với tư cách công dân tự do – trong cuộc tham gia vào sinh hoạt chính trị.


Saigon, ngày 10 tháng 3 năm 1967


NGUYỄN VĂN BÔNG


_______________


LỜI NÓI ĐẦU (CHO BẢN IN LẦN THỨ HAI)


Quyển sách này đã được xuất bản lần thứ nhất trong lúc Quốc hội Lập hiến đang thảo luận khung cảnh pháp lý tương lai cho Việt Nam.


Hôm nay, Hiến pháp của nền Đệ nhị Cộng hòa đã được ban hành và những định chế chính trị, dựa trên đạo luật căn bản ấy tuần tự được thiết lập. Nhìn lại quá khứ, khoảng thời gian của giao thời, chuyển tiếp, hỗn loạn, người quốc gia không khỏi hãnh diện đã xây dựng được một cái gì trong hoàn cảnh khó khăn của một cuộc chiến tranh bất qui ước. Mặc dầu kiến trúc có thể có vài khiếm khuyết, sự khai sinh nền Đệ nhị Cộng hòa đánh dấu bước đầu của ổn định và tạo khung cảnh cho một nếp sinh hoạt chính trị dân chủ tương lai.


Tuy nhiên định chế con người là hai yếu tố hoàn toàn khác biệt. Không định chế, hoạt động của con người thoát vòng kềm tỏa của pháp luật, và chúng ta trở lùi lại thời kỳ của chính quyền cá nhân để bị ảnh hưởng bởi tính hiếu kỳ hay những xúc động tình cảm của kẻ nắm chính quyền. Trái lại, những định chế, tự nó chỉ là khung cảnh, là nguyên tắc điều hướng mà sự thực hiện sống động tùy thuộc vào hoạt động của con người.


Con người có thể – vô tình hay cố ý, giết hẳn tinh thần của định chế và nguy thay – giết luôn cả sự tin tưởng của quốc dân vào định chế.


Đó là mối lo ngại lớn lao trong năm đầu tiên của nền Đệ nhị Cộng hòa. Thái độ của Quốc hội khi bàn đến vấn đề phụ cấp, tinh thần vô trách nhiệm của một số vị đại diện khi phát biểu cũng như khi vắng mặt ở nghị trường, những chuyến du lịch quanh năm trong lúc địch dồn dập tấn công, những vụ tranh chấp giữa Hành pháp và Lập pháp về một số vấn đề pháp lý mà tầm quan trọng là con số không so với sự sống còn của đất nước, một quan niệm lệch lạc về phương cách tổ chức cơ quan Hành pháp… Tất cả sự kiện vừa nêu làm giảm giá trị của định chế quốc gia và – nếu còn tiếp tục – sẽ có hậu quả không hay cho tương lai nền dân chủ.


*


Với việc tái bản lần thứ hai, ngoài việc sửa chữa và cập nhật hóa thường lệ, tác giả còn dành một phần quan trọng cho việc phân tích và phê bình Hiến pháp ngày 1-4-1967. Nhân dịp, tác giả xin chân thành cảm tạ các phụ giáo tại Học viện Quốc gia Hành chánh, đặc biệt là bà Nguyễn Thị Ngọc Dung, ông Cung Đình Thanh và Lê Công Truyền đã góp phần vào việc soạn thảo quyền Luật Hiến pháp và Chính trị học này.


Saigon, ngày 10 tháng 3 năm 1969


NGUYỄN VĂN BÔNG


(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 17, 2013 13:59

August 16, 2013

Thơ & đơn giữa thời mắc dịch

Tưởng Năng Tiến


Giữa đường gặp cảnh bất bằng chẳng tha.

Lục Vân Tiên


Thành ngữ “người trông xa ma trông gần” không hẳn lúc nào cũng đúng nhưng (chắc chắn) là không sai với trường hợp của …  Bùi Minh Quốc. Khi còn trẻ, ông thi sĩ này đã viết những câu thơ rất bốc:


Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy

Thì xa xôi biết mấy cũng lên đường.


Lúc về già, chả hiểu sao, cha nội ngang nhiên (và ngang xương) chuyển hướng:



Thì gian nan biết mấy cũng lên phường.


Tôi càng lớn tuổi càng đâm ra sính thơ nên mỗi lúc một thêm ái mộ Bùi Minh Quốc. Sự mến mộ này – tiếc thay – tôi đã không giữ được luôn, và cũng không giữ được lâu. Chỉ cần đối ẩm với nhà thơ (đôi lần) là tôi ớn chè đậu cho tới Tết, hoặc – không chừng – dám cho tới… chết luôn. Đúng là người trông xa ma trông gần!


Vì nghe tiếng thi sĩ cũng là một tay hảo hán (và hảo tửu) nên ngay khi ông ấy vừa bước chân đến California, tôi đã lật đật mang rượu nồng thịt béo ra mời. Tưởng sao? Thằng chả lắc đầu quầy quậy:


- Tớ chỉ ăn rau, và rau muống only, chứ thịt thà cá mú thì xin miễn.


- Sao kỳ vậy cha nội. Bắc Kỳ vừa vừa thôi chớ Bắc Kỳ  dữ vậy ai chịu được?


- Vấn đề không phải là Bắc Kỳ hay Nam Kỳ mà là rau muống giồng ở Việt Nam bây giờ đều bị phun thuốc tùm lum, ăn vào chắc chết (chết chắc) mà tớ lại hẩu cái món này nên phải lặn lội sang tận  Hoa Kỳ để ăn rau muống cho nó lành, và cho nó sướng. Cậu hiểu ra chưa?


Tuy chỉ gắp rau muống (thôi) nhưng rượu thì thằng chả vẫn cứ nốc tì tì. Chai Remy Martin loại 350 ml mới đâu chừng hơn nửa tiếng đã không còn một giọt. Không mua thêm chai nữa thì kỳ mà mua xong lại tiếc. Cạn ly đầy rồi lại đầy ly cạn. Chả mấy chốc cái chai kế tiếp cũng cạn khô. Gặp “con rồng Đà Lạt” này thì e nước Hồ Xuân Hương phải biến thành rượu Cognac (chắc) mới đủ đô?


Thi sĩ uống rất đẹp, và rất ngọt nhưng lại phun ra toàn những câu thơ (vô cùng) cay đắng:


Tôi hỏi công chúa : Thạch Sanh đi đâu?

Công chúa lầu bầu trả lời: Không biết!


Tôi hỏi Nguyệt Nga: Vân Tiên đi đâu?

Nguyệt Nga âu sầu: Hình như đã chết!


Tôi hỏi cave. Cave cười ngất…

Chợt nhận ra mình giữa quán Lý Thông.


Hết thơ người rồi lại đến :


Bao nghẹn uất Nguyệt Nga xé trời kêu chẳng thấu

Giữa chợ đời biệt dạng Lục Vân Tiên

Hảo hớn bận giang hồ quán nhậu

Thi nhau bốc phét để quên hèn.


Giời ạ, tưởng đâu gặp được người thơ để ngâm nga đôi câu:


Xuân du phương thảo địa

Hạ thưởng lục hà trì

Thu ẩm hoàng hoa tửu

Đông ngâm bạch tuyết thi…


cho thoả lòng mong ước, chứ tiếng Nguyệt Nga “xé trời kêu chẳng thấu” thì có gì hay mà bầy ra trên bàn rượu khiến cho cuộc nhậu (bỗng) hoá mất vui đi. Cái thứ  người bỏ chạy trong cơn quốc biến, nước mất thân mình yên mà suốt cả đời không làm nên trò trống gì hết trơn hết trọi, chỉ ba hoa “bốc phét để quên hèn” như tôi – tất nhiên – không ưa những câu thơ vừa ghi của Nguyễn Trọng Tạo hay Bùi Minh Quốc. Gặp gỡ giao du với mấy chả làm chi cho nó thêm phiền!


Mà sự phiền muộn kiểu này, nói nào ngay, không chỉ đến từ những câu thơ thượng dẫn. Tuần rồi, tôi tình cờ đọc ĐƠN TRÌNH BÁO VÀ TỐ GIÁC TỘI PHẠM của bà Lê Thị Công Nhân – viết ngày 10 tháng 8 năm 2013 – rồi cũng cảm thấy “phiền” muốn chết luôn:


Kính gửi:


- Công an phường Phương Mai, Quận Đống Đa, Hà Nội (trực tiếp);


- Công an quận Đống Đa 342B phố Thái Hà, quận Đống Đa (gửi bảo đảm qua bưu điện);


- Công an thành phố Hà Nội 87 phố Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm (gửi bảo đảm qua bưu điện), và


- Cơ quan Mật vụ nào đó đang “đặc trách” tôi (xin lỗi vì không biết tên cơ quan để viết ra vì nhiều lần khi bị mật vụ bắt thẩm vấn, tôi hỏi các mật vụ tên, cấp bậc, đến từ đâu nhưng họ đều kiên quyết che dấu tung tích đến cùng (!?) (gửi lên Internet vì không biết mật vụ ở đâu mà gửi).


Tôi là Lê thị Công Nhân, sinh năm 1979, nghề nghiệp: bị quản chế, hiện đang sống tại nhà mẹ đẻ tại địa chỉ P316-A7, khu VPCP, ngõ 4, phố Phương Mai, quận Đống Đa, Hà Nội, viết đơn này trình bày sự việc sau:


Vào khoảng 10h sáng nay, thứ 7 ngày 10.08.2013, khi đang đi chợ mua thực phẩm tại chợ cóc tại ngõ 6 phố Phương Mai, tôi tình cờ chứng kiến cảnh một đám đông khoảng 15 người, trong đó khoảng hơn 10 người xưng là thương binh, cầm gậy ba toong, đi trên 2 xe ba bánh tự chế loại chở hàng, hùa nhau chửi bới và xông vào đập phá hàng quán của một số người đang sinh sống và buôn bán nhỏ tại nhà số 102 khu E4. Những người này hành xử rất côn đồ, liên tục tuôn lời chửi bới, sỉ nhục, vừa đe dọa vừa thực sự lao vào hành hung người và đập phá tài sản…


Thấy vậy, tôi vô cùng bức xúc, cảm thấy thật là nhục nhã và bất an nếu mình không lên tiếng bênh vực người yếu thế. Tôi lao vào can ngăn và kêu gào họ không được đánh người và phá hoại tài sản của người khác như vậy, bảo họ bình tĩnh đưa vụ việc ra pháp luật và công an giải quyết. Nhóm người này ngay lập tức quay sang chửi rủa tôi bằng mọi ngôn từ tục tĩu và bạo lực nhất. Họ đe dọa tôi và đuổi tôi đi, lấy lý do “Mày là ai, liên quan đéo gì đến mày, chõ mồm vào bố mày đánh chết.” (!?)


Thấy tình huống quá nguy hiểm cho 3 người lẻ loi đang ở trong nhà chống cự lại đám đông côn đồ hung hãn tôi quyết định ở lại cùng họ và chờ công an phường vào. Thấy tôi không đi, 3, 4 tên tự xưng thương binh tập trung quay sang chửi bới tôi và đánh tôi luôn. Những kẻ này dùng gậy ba toong sắt phang vào người tôi (vùng cổ, vai, lưng, tay) khoảng gần 10 lần. Tôi hô lên “Không được đánh người. Các anh đang làm việc thất đức, là những kẻ vi phạm pháp luật.” Khoảng 11h, tức là gần 1 tiếng sau mới thấy 4, 5 chiến sỹ công an phường đi vào – dù trụ sở công an phường cách đó 200m, trong đó có một anh mặc áo phông đỏ có vẻ như là người cấp cao nhất. Nhóm công an phường vào nhưng không có lời nói nào can ngăn đám người côn đồ kia. Tôi kinh ngạc tột độ vì thái độ này của họ. Có lẽ vì thế mà đám côn đồ càng hung bạo và đòi lao vào chiếm căn nhà…


Quá bức xúc tôi nói với công an “Các anh để họ hành xử như vậy ngay trước mặt công an sao?” Anh công an mặc áo phông đỏ nói như một người mất trí “Họ có làm gì đâu, có ảnh hưởng gì đâu.” Tôi đáp “Họ gây rối trật tự công cộng, hành hung người, đập phá tài sản, cản trở giao thông mà anh bảo là không làm gì, không làm sao à trong khi người dân chỉ cần vừa mở miệng đòi dân chủ thì ngay lập tức bị tống vào tù.” Những công an này lơ đi không trả lời câu hỏi của tôi mà lại nói “Không liên quan đến chị thì chị đi về nhà đi.” Tôi nói “Sao lại không liên quan, tôi là người làm chứng vụ hành hung này, tôi còn bị họ chửi, đánh nữa mà anh bảo là không liên quan à?” Họ bảo tôi “Vậy mời chị ra phường trình báo.”


Thấy thái độ kỳ lạ và khả nghi của những công an này, tôi lại càng muốn ở lại để xem họ sẽ xử lý vụ việc ra sao.


Sau đó được cha con bác chủ nhà cho biết và xem 1 số tài liệu liên quan, tôi mới biết vụ việc cơ bản như sau: bác chủ nhà cần tiền gấp nên có vay thế chấp (sổ đỏ) 100 triệu đồng của công ty tài chính Việt Nam địa chỉ ở phố Hào Nam phường Ô Chợ Dừa quận Đống Đa do một người đàn ông tên Giang làm giám đốc. Theo lời bác là khi ấy văn phòng công ty đàng hoàng đẹp đẽ lắm, tiếp đón lịch sự nồng hậu. Thời hạn vay là 1 năm kể từ ngày 7.12.2012 đến 7.12.2013. Hợp đồng vay có tên là Hợp đồng chuyển nhượng tài sản có kỳ hạn (kỳ hạn là 1 năm).


Vậy mà không hiểu sao sau đó có người đến đòi nhà của bác với giấy tờ mà theo họ là đầy đủ và hợp pháp (!?). Bác tá hỏa tìm tới công ty thì văn phòng và giám đốc đều biến mất, gọi điện không ai nghe máy. Vụ việc lừa đảo/lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã rõ như ban ngày, nên bác làm đơn tố giác gửi ngay các cơ quan chức năng và công an quận Đống Đa đã thụ lý giải quyết, bác và người nhà đã được mời lên làm việc.


Như vậy, cả bên bác chủ nhà và bên đang đòi nhà đều là nạn nhân của một vụ lừa đảo. Nhưng thật lạ, bên đòi nhà lại có một thái độ rất khác thường mà chính mắt tôi chứng kiến. Họ không hề tỏ ra lo lắng, bức xúc chút nào vì đã bị tên Giang lừa. Họ hoàn toàn không quen biết tí gì gia đình chủ nhà hay những người đang thuê ở nhà đó và cũng chưa từng bao giờ gặp nhau nhưng lại tỏ ra rất đắc thắng với lý lẽ duy nhất “Sổ đỏ tên tao nên đây là nhà của tao.”


 Bác chủ nhà sau khi bị đòi nhà như vậy thì có tìm hiểu và theo niềm tin nội tâm của mình, bác phán đoán “Họ (bên đòi nhà) giả vờ cả đấy. Không phải bị lừa đâu, mà là đóng kịch giả vờ bị lừa để cướp nhà của nạn nhân của bọn chúng đấy. Họ với bọn cho vay là một…


Sự việc đang được công an quận Đống Đa thụ lý (do công an kinh tế tên Thành đang trực tiếp điều tra) chưa có kết quả gì, vậy mà những công an phường Phương Mai khi vào để giải quyết vụ hành hung, gây rối trật tự lại rất tự tin đứng ra bênh vực cho bên đòi nhà, chính những người công an này đã nói với bên chủ nhà – ngay trước mặt tôi, rằng “Họ đúng rồi, mình là bên sai. Họ có sổ đỏ thì là nhà của họ. Mình ký chuyển nhượng nhà rồi thì mình phải chịu…


Tôi ở lại chuyện trò một lúc với chủ nhà, sau đó cũng ra về lúc 12h30. Về đến nhà toàn thân tôi đau ê ẩm nhất là vùng vai, gáy, lưng và cánh tay bên trái, người thì run lên vì phẫn nộ với cảm giác bất an ngập tràn trong lòng khi chứng kiến hành xử vô cảm và kỳ quái của công an….


Thật buồn khi tôi là người dưng duy nhất tham gia can ngăn vụ việc hành hung này trong khi có hàng trăm người hiếu kỳ đứng ngó xem và sau đó còn dè bỉu tôi là “Dại thế, ngu thế, việc của mình đâu mà tham gia. Công an còn đéo dám làm gì bọn nó.” !!!


Kính đơn,

Lê Thị Công Nhân

Hà Nội, ngày 10.08.2013 5h chiều.


Chiều Hà Nội quán Lý Thông đông nghẹt.


Đất Hà Thành (đã) biệt dạng Lục Vân Tiên!


© 2013 Tưởng Năng Tiến & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 16, 2013 15:36

August 15, 2013

Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào?

Nguyễn Hữu Đang  


pro&contra – Việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 sắp kết thúc trong tháng tới. Chúng tôi giới thiệu lại bài viết này, nhân kỉ niệm 100 năm sinh của Nguyễn Hữu Đang (15-8-1913 – 08-2-2007), như ý kiến cách đây gần sáu mươi năm của một nhân dân đã có mặt ngay trong những ngày đầu thiết lập chính quyền của mình, ở vị trí tiên phong. Bài viết này đăng trên trang nhất ở vị trí xã luận trên tờ Nhân văn số 5, ra ngày 20-11-1956, số cuối cùng của tờ báo  [i].


_______________


Hiến pháp 1946 của ta, sau khi được Quốc hội thông qua liền bị hoãn thi hành vì tình hình trong nước nghiêm trọng. Nhưng từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, tình hình miền Bắc, mặc dầu còn có nhiều khó khăn kinh tế và cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất gay go phức tạp, cũng phải coi là đã trở lại bình thường rồi. Vậy chúng ta có thể đề ra hoặc việc thi hành Hiến pháp 1946 sửa đổi lại, hoặc việc đặt một Hiến pháp mới.


Có những người nói: „Ta hãy chờ thống nhất xong đất nước, khi đó sẽ có Quốc hội mới, Hiến pháp mới. Miền Nam đã đặt Hiến pháp riêng [ii], nếu miền Bắc cũng lại ban bố Hiến pháp riêng nữa thì công cuộc thống nhất đất nước càng khó khăn.“


Tôi không biết những người nói thế thành thực tới mức nào. Tôi chỉ biết Đảng, Chính phủ và toàn dân miền Bắc đã đồng ý với nhau nhận định là cuộc đấu tranh thống nhất sẽ lâu dài. Nếu trong thời gian lâu dài đó mà miền Bắc không ban bố một Hiến pháp tạm thời, nghĩa là không có một nền tảng cho cái lâu đài pháp trị xây dựng lên trên, thì mọi việc còn xộc xệch. Như thế thì củng cố làm sao được miền Bắc để tranh thủ miền Nam?


Nhất định phải ban bố Hiến pháp.


Toàn bộ một Hiến pháp thích hợp với hoàn cảnh miền Bắc ngày nay phải thế nào, tôi không bàn trong bài này. Ở đây tôi chỉ muốn cả quyết một điều là dù Hiến pháp sẽ được ban bố có nội dung thế nào đi nữa, cái phần bảo đảm tự do dân chủ của nó về căn bản vẫn không thể thay đổi so với Hiến pháp 1946. Vì đó là một điều kiện „không có không được“ của một chính thể dân chủ.


Hiến pháp 1946 ghi:


ĐIỀU THỨ 10: Công dân Việt Nam có quyền:



Tự do ngôn luận
Tự do xuất bản
Tự do tổ chức và hội họp
Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra ngoài nước

ĐIỀU THỨ 11: Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư từ của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.


Hôm nay tôi nhắc lại vài điều của Hiến pháp 1946 hẳn có bạn nghĩ: Hiến pháp 1946 là cả một sự nhân nhượng chiến thuật với bọn Quốc dân Đảng. Việt Nam được quân đội Quốc dân Đảng Trung Hoa giúp đỡ và những tầng lớp nhân dân mà đại bộ phận lúc ấy chưa ngả theo cách mạng. Mức độ của nó so với ngay hoàn cảnh nước ta năm 1946 cũng chưa đủ, huống nữa là so với hoàn cảnh nước ta ngày nay, chính quyền nhân dân đã tiến những bước khổng lồ. Ngày nay lực lượng công, nông đã lớn mạnh, lẽ tất nhiên phải chuyên chính hơn chứ không thể lui lại trình độ gần với dân chủ tư sản như năm 1946.


Thật không còn tư tưởng nào phản dân chủ hơn tư tưởng đó. Và nguy hiểm nhất là nó lại khoác áo “lập trường cách mạng”, lớn tiếng “vì công nông”.


Nghĩ như thế là không nắm vững cái kim chỉ nam trong mọi vấn đề chính sách và pháp trị là: dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ địch.


Nắm vững phương châm đó, ta thấy rằng những tự do dân chủ là ban bố cho các tầng lớp nhân dân (gồm công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc) thì càng ngày càng phải được tăng cường, mở rộng theo sát bước tiến của cách mạng.


Hãy lấy trình độ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa làm mức sẽ tiến tới của chúng ta. Có phải trình độ cách mạng ở Trung Hoa năm 1954 cao hơn trình độ cách mạng ở Việt Nam 1946 thì quyền tự do dân chủ trong Hiến pháp Trung Hoa 1954 thu hẹp hơn trong Hiến pháp Việt Nam 1946 không?


Không!


Hiến pháp Trung Hoa 1954 ghi:


ĐIỀU 87: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đều có quyền tự do ngôn luận, xuất bản, hội họp, tổ chức tuần hành thị uy. Nhà nước cung cấp những điều kiện vật chất thuận lợi cần thiết và đảm bảo cho công dân hưởng thụ những quyền kể trên.


ĐIỀU 89: Thân thể người công dân Trung Hoa là bất khả xâm phạm. Bất luận công dân nào, nếu không có quyết định của Pháp viện Nhân dân và phê chuẩn của Viện Kiểm sát Nhân dân, thì không thể bị ai bắt giam được.


ĐIỀU 90: Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được pháp luận bảo đảm nhà cửa không bị xâm phạm, thư từ được giữ bí mật. Công dân nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa có quyền được tự do cư trú và đi lại.


Đọc đoạn trên này ta thấy Hiến pháp Trung Hoa 1954 buộc Nhà nước phải cung cấp những điều kiện vật chất cần thiết để đảm bảo cho công dân hưởng thụ đầy đủ những quyền tự do dân chủ. Như thế là vừa rộng rãi hơn vừa thiết thực hơn Hiến pháp Việt Nam 1946. Điều đó chứng tỏ chế độ càng tiến bộ, dân chủ càng mở rộng.


Liên hệ những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa 1954 với thực tế miền Bắc bây giờ chúng ta thấy gì?


Chúng ta thấy các quyền tự do dân chủ bị hạn chế quá nhiều. Và chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh nghị quyết của Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động đã nhấn mạnh sự cần thiết phải mở rộng tự do dân chủ [iii].


Nhưng tại sao việc đó mới đề ra chứ chưa thực hiện được phần nào mà đã lại có ngay một luồng dư luận chống đối, hình như muốn chuyên chính hơn nữa? Sự thay đổi đột ngột ấy làm cho quần chúng hoang mang, lo ngại.


Chuyên chính với địch thì bao nhiêu cũng chưa đủ và từ trước tới nay có phút nào chúng ta buông lỏng đâu mà phải hô hào? Còn chuyên chính với nhân dân thì cần xét kỹ. Nếu không, hậu quả sẽ tai hại lớn. Nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba-lan và Hung-ga-ri là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là vì thiếu chuyên chính?


Nhưng dù biện luận thế nào đi nữa thì cũng không thể vứt bỏ được cái nguyên tắc mà ông Lưu Thiếu Kỳ đã nêu ra trong bản Báo cáo về Hiến pháp đọc tại phiên họp đầu khoá thứ nhất của Quốc hội Trung Hoa ngày 15-9-1954:


Chế độ chính trị của chúng ta tập trung đến cao độ nhưng sự tập trung cao độ ấy căn cứ trên một nền dân chủ cao độ”.


Nói chi dân chủ cao độ, ngay dân chủ trung bình ta cũng còn phải bồi bổ thêm nhiều, thế mà lại muốn chuyên chính hơn nữa thì không có lợi.


Nguồn: talawas, 2007




[i] Ngày 14-12-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh báo chí 282/SL, để ngay hôm sau, ngày 15-12-1956, Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội ra quyết định đình bản và cấm lưu hành báo Nhân văn. Một bài viết trên báo Quân đội Nhân dân, kỉ niệm 50 năm Sắc lệnh này nêu rõ bối cảnh: „Miền Bắc tiến hành Cải cách Ruộng đất nhưng đã vấp phải một số sai lầm. Một số tờ báo và cá nhân đã lợi dụng sự kiện này để xuyên tạc sự thật, khoét sâu những sự việc nhỏ thành to, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan đối với chế độ, với Đảng và nhân dân, gây chia rẽ nội bộ… Trước tình hình đó,… ngày 14-12-1956, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 282/SL về báo chí…“ Như vậy ông Hồ, người cũng có sáng tác văn thơ, đóng một vai trò rất đáng chú ý trong vụ Nhân văn-Giai phẩm. (Các chú thích là của pro&contra.)




[ii] Đó là bản Hiến pháp ban hành ngày 26-10-1956




[iii] Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 10 mở rộng, tháng 9-1956, về mở rộng quyền tự do dân chủ và tăng cường chế độ pháp trị dân chủ thừa nhận: „Trong tình hình gay go và phức tạp của cuộc kháng chiến và  của thời kỳ mới lập lại hoà bình thì việc phải hạn chế dân chủ trong một phạm vi nào đó là cần thiết và đúng. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, việc xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân của ta cũng có nhiều thiếu sót: việc thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân chưa được đầy đủ; việc bảo đảm chế độ pháp trị dân chủ chưa được chú ý, như trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, quản lý hộ khẩu, v.v… Đảng lãnh đạo chính quyền có phần thì bao biện, có phần thì buông lỏng.“


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 15, 2013 12:15

August 14, 2013

Bí kíp học chữ cái tiếng Nga trong thời Sôviết

Hà Vũ Trọng


Để đấu tranh chống nạn mù chữ ở dân chúng tuổi thành niên trên khắp các lãnh thổ bao la của Liên bang Sôviết, Nghệ sĩ Nhân dân Sôviết Sergey Merkurov đã nhận sứ mệnh thiết kế một cuốn sách học 36 mẫu tự Kirin trong Tiếng Nga, được minh hoạ thành 36 kiểu hấp dẫn và thật dễ hấp thu, vỏn vẹn 36 trang. Điều đáng ngạc nhiên tới mức khó tin là cuốn sách này được phát hành năm 1931 dưới điều kiện của một xã hội tưởng như không có sex. Qua đó, nó cũng phản ánh những thái độ tự do “phóng túng” nào đó trong thời kì trước Stalinist. Vậy cuốn sách học chữ cái này có gì đáng tò mò?


Trong cuốn sách minh hoạ bằng màu nước có tên là Bảng chữ cái huê tình Sôviết (Советская эротическая азбука), Merkurov vẽ nên bố cục các mẫu tự thành những cảnh huê tình của nam nữ giao hoan, kết hợp những hình tượng thần thoại như Dương thần và thần Ái tình, v.v…  Tất cả tràn ngập hành vi và các tư thế giao hợp đủ kiểu theo trí tưởng tượng, khiến ta có thể gọi đây là một cuốn “Kama Sutra bằng mẫu tự”. Nhìn xem những con chữ ăn nằm với nhau đủ mọi tư thế thú vị, có lẽ là cách “dụ dỗ” người lớn học chữ nhanh nhất, hiệu quả nhất. Không phải chỉ những chữ số như 69 kích thích trí tưởng, mà ở đây, trong cái bảng mẫu tự Kirin còn gọi là azbuka, mỗi chữ cái được tạo hình bằng những thân thể giao hoan, và tự tìm khoái lạc trong khuôn chữ của chính nó. Trong khi có những con chữ mang tính nhân hình dễ tưởng tượng ra những tư thế hớ hênh và gợi dục như V, hoặc M, lại có những chữ cái khó khăn như Ж, Ф khiến ta thán phục cái cách mà người hoạ sĩ đã khéo xử lí cái cách “nhào lộn” cho chúng.


Hoạ sĩ thiết kế cuốn “bí kíp” cho cuộc vận động học chữ cái là Sergey Merkurov (1881—1952) người Armenia gốc Hilạp, vốn là nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Sôviết, Nghệ sĩ Nhân dân của Liên bang Sôviết, tác giả của nhiều tượng đài hoàng tráng lớn nhất về Joseph Stalin và V. I. Lenin. Ông cũng là bậc thầy về đắp mặt nạ người chết, và đã đưa tay nghề này lên tầm nghệ thuật cao. Ông để lại một bảo tàng mặt nạ đắp sau khi chết của khoảng 300 nhân vật văn hoá và chính trị của Nga và Sôviết, như Leo Tolstoy, Lenin, Esenin, Blok, Maiakovsky, Gorky, Stalin, Frunze, Krupskaya, Dzerzhinsky… Mới đây, cuộc triển lãm ở Gorki Leninskiye (Bảo tàng Lịch sử Lenin), trưng bày loại hình nghệ thuật u ám này của ông, đã khiến công chúng trải qua một cú sốc khi nhìn kĩ lại từng gương mặt sau khi chết (trong đó có nhiều cái chết rất mờ ám) của các nhân vật Cách mạng Bolshevik trong một thời kỳ lịch sử với nền chính trị bạo liệt nhất. Riêng cuốn sách Bảng chữ cái huê tình Sôviết là một tác phẩm đáng ngạc nhiên, cho thấy tính đa diện của người nghệ sĩ này khi phóng túng bằng bút cọ thay cho búa đục đối với những tượng đài lãnh tụ.


Các minh hoạ tuyệt diệu 36 chữ cái như thể 36 bức thánh tượng icon mang tính “báng bổ”, rõ ràng được cảm hứng từ trí tưởng tượng “truỵ lạc” của nghệ thuật Hilạp và Lamã cổ đại, được hỗ trợ bằng những hình tượng thần Ái tình đang hưng phấn cùng những dương vật chắp cánh bay lượn như những thiên thần hoặc Thánh Linh giáng hiện, trong khi những Dương thần đắm chìm trong những cảnh truy hoan tập thể, và không thiếu cảnh đồng tính nam và nữ. Mỗi chữ cái trình bày và trang trí giống với những chữ hoa lớn đầu tiên mở đầu trân trọng cho mỗi chương kinh sách thời Trung cổ.


Cuốn sách học chữ cái bằng hình ảnh huê tình này, không chỉ là chứng cứ về một số nỗ lực kì lạ của nước Nga Sôviết đã từng toan tính đem dục tính vào những con chữ làm phương tiện giáo hoá giai cấp công nhân xoá mù chữ, mặc dù các đồng chí nào mà chẳng thích sex! Dù sao, ngày nay cuốn sách này vẫn còn là cách khá hiệu quả cho cả những ai chưa có cơ hội nắm bắt được bảng chữ cái Kirin kì quặc và rất khó nhớ này.



01 А
02 Б
03 В
04 Г
05 Д
06 Е
07 Ж
08 З
09 И
10
11 Й
12 К
13 Л
14 М
15 Н
16 О
17 П
18 Р
19 С
20 Т
21 У
22 Х
23 Х
24 Ц
25 Ч
26 Ш
27 Щ
28 Ъ
29 Ь
30 Ъ
31 Ы
32
33 V
34 Э
35 Ю
36 Я

Tham khảo thêm:


Trang WordPress của Ross Wolfe


http://maxb.home.xs4all.nl/erotype.html


http://www.domusweb.it/en/news/2011/03/03/naked-and-dressed-alphabets.html


http://joshhonn.com/?p=2180


© 2013 Hà Vũ Trọng & pro&contra


 


 


 







 


 


 





 


 





 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 14, 2013 11:30

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.