Phạm Thị Hoài's Blog, page 37

June 28, 2013

27 ghi chú dành cho những Tù nhân Lương tâm dự khuyết

Phạm Hồng Sơn


1. Nguyên tắc “suy đoán vô tội”: Không ai có quyền cho bạn là tội phạm cho đến khi có một tòa án công chính đủ thẩm quyền đưa ra một phán xét kết tội có hiệu lực.


Nhưng bạn đừng bao giờ trông chờ sẽ có một tòa án như thế trong một chế độ độc đảng toàn trị.


2. Dù bạn là tù nhân hay thậm chí là “phạm nhân” cũng không ai có quyền xúc phạm danh dự và tuyệt đối không có quyền xúc phạm thân thể bạn.


Chắc chắn bạn cũng không kỳ vọng chế độ độc đảng toàn trị sẽ tôn trọng những điều hiển nhiên này nhưng bạn cần phải nhớ để bảo vệ nhân phẩm tối thiểu cho mình.


3. Bất kể lúc nào, tình huống nào bạn vẫn luôn có ba quyền đương nhiên sau đây: 1. Quyền không trả lời (im lặng), tức cũng là trả lời. 2. Quyền không ký. 3. Quyền sửa sai, đính chính, phản bác, phản cung lại những điều đã nói hoặc đã ký.


Tất nhiên khi làm như thế, bạn sẽ bị chế độ độc tài đảng trị liệt vào dạng “ngoan cố” “cứng đầu” nhưng chắc chắn bạn sẽ có nhiều giấc ngủ ngon hơn trong tù và đời bạn sẽ bớt được nhiều nỗi day dứt không đáng có.


4. Nếu phải giam chung với tù hình sự, đừng sợ hay ác cảm trước những bộ dạng gớm ghiếc hay những cơ thể xăm trổ đầy mình của họ. Phía sau những ghê rợn đó có thể là một trái tim rất nhạy bén, tự trọng và đầy bản lĩnh. Hãy sống nghĩa hiệp với họ.


5. Ba suy nghĩ sai lầm bạn cần loại ngay ra khỏi đầu: 1. Không khai, không có chứng cớ hoặc mọi việc bạn làm đều đúng luật nên họ sẽ không thể kết tội được bạn và sẽ phải thả bạn. 2. Bên ngoài sẽ giúp bạn hoặc vì bạn là người nổi tiếng, có nhiều quan hệ nên trước sau họ cũng phải thả hoặc án phạt sẽ không đáng kể. 3. Thế là hết rồi, xong rồi.


Than đời hay buông hết hy vọng với đời là hoàn toàn chẳng nên, kể cả lúc bị gông xiềng, nhưng rồi bạn sẽ lại nhận thấy điểm tựa tốt nhất cho đời bạn trước hết vẫn chính là bạn. Bạn cũng không nên phải quá cay đắng nếu vẫn mắc phải suy nghĩ sai lầm số 1 vì sự vô sỉ của chế độ toàn trị cộng sản cho đến nay vẫn nằm ngoài sự tưởng tượng của rất nhiều người.


6. Đừng bao giờ tin lời nói, lời hứa, kể cả cam kết (bằng chữ), của điều tra viên (nhà chức trách). Đừng bao giờ trở thành nguồn tin cho họ (dù họ đã biết hay chưa). Cũng đừng bao giờ sững người khi họ nói đồng đội của bạn đã phản bội bạn.


Hãy tạc vào lòng ba lời nhắn của tiền nhân: “Đừng nghe những gì họ nói mà hãy xem những việc họ làm.”, “Đừng trao trứng cho Ác”, và: “Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.”


7. Ba điểm cần nhớ nằm lòng khi làm việc (đi cung, đi thẩm vấn, “đi làm” hay gặp gỡ bất kỳ nhân vật nào thuộc chính quyền): 1. Nói nhiều không có lợi. 2. Nổi nóng, khiếm nhã không có lợi. 3. Nhượng bộ hay coi thường đối thủ đều là nguy hiểm.


Hai điểm đầu cho phép bạn được rút kinh nghiệm nhưng điểm thứ ba phải coi ngay là miệng vực. Khi nghiêm khắc thực hiện ba điểm này bạn sẽ hiểu thấu hơn sự đúc kết của cổ nhân: “nhất thủy nhì hỏa”. Song, bạn không nên nhầm giữa sức mạnh hủy diệt khổng lồ với sức mạnh xanh cũng khổng lồ nhưng nhân ái, thu phục.


8. Hãy chủ động đón nhận một trang đời mới ngay khi bạn bị tống vào tù. Càng chủ động bao nhiêu, đời tù của bạn sẽ càng nhẹ nhõm bấy nhiêu.


Nếu bị biệt giam nghĩa là đời bạn đã được trao một cơ hội để nhận rõ sự khác biệt hoàn toàn giữa đơn độc và cô đơn, được gặp một cơ may để khám phá, tiếp nhận nhiều sức mạnh, cảm hứng, hạnh phúc, đốn ngộ từ những tĩnh lặng mênh mông sâu hút gần như tuyệt đối của vũ trụ. Còn nếu được giam chung là người ta đang tôi cho bạn những kỹ năng hội nhập, đoàn kết, ảnh hưởng, rèn thêm cho bạn lòng trắc ẩn, đức quên mình, là giúp bạn nhìn ra những khiếm khuyết, thói xấu láu lỉnh nhất trong bạn và cho bạn trải nghiệm sự kinh ngạc tột cùng trước sự đa dạng vô biên, vô cấp độ của những khả năng, tài năng, sức chịu đựng và những ham muốn, ước vọng, cả cao cả vô cùng lẫn thấp hèn tột bậc, của loài người và thậm chí của chỉ một người.


Hãy nhớ câu châm ngôn hài hước của tù hình sự: “Đi tù nếu không học được cái lọ thì cũng sẽ được cái chai”.


9. Đừng quá thành kiến với công an. Nhưng phải cảnh giác khi họ tá»­ tế. Người ác nhất vẫn có lúc tá»­ tế nhưng hãy nhớ công an là công cụ cá»§a chế độ độc tài toàn trị – chế độ không bao giờ muốn tính thiện con người trỗi dậy có lợi cho bạn – kẻ đang bị coi là thù địch. Hãy trân trọng, ghi nhận mọi thiện ý nhưng chớ mềm lòng.


10. Trong khi thẩm vấn không nhất thiết bạn phải thuộc phía thụ động, sợ hãi. Chính kẻ thẩm vấn cũng có nỗi hoang mang của riêng họ. Họ sợ không khuất phục được bạn. Họ hồi hộp sẽ không moi tin thêm được từ bạn. Và họ rất lo lắng rằng bạn sẽ ngày càng vững vàng hơn.


11. Người ta có thể rất tức tối, thậm chí căm ghét bạn nhưng bạn phải biết không ai có thể khinh thường một tù nhân lương tâm kiên định. Căm ghét vẫn có thể chuyển thành tôn trọng thậm chí kính trọng. Nhưng khinh thường thì không bao giờ.


12. Đừng quá trông chờ vào luật sư khi bị cầm tù. Một luật sư tốt nhất lúc này cũng chỉ có 3 vai trò chính: 1. Cầu nối thông tin giữa bạn và bên ngoài. 2. Cung cấp thêm một số luận cứ pháp luật cho niềm tin của bạn. 3. Chứng nhân cho những gì bạn thể hiện trong những phiên tòa “công khai”.


Bạn nên nhớ bạn không chỉ là thân chủ mà còn là người liên đới, chịu trách nhiệm trước hết và sau cùng cho mọi phát ngôn, hành động của người đại diện pháp lý (luật sư) của mình. Và bạn luôn có toàn quyền đồng ý hay chấm dứt liên đới với luật sư bất kể khi nào kể cả ngay tại tòa. Bạn không nên quên chế độ độc tài toàn trị không bao giờ thèm cần đến tranh tụng nhưng họ rất cần hình ảnh và quan điểm của bạn bị đánh hỏng ngay trước tòa.


13. Khi nỗi nhớ thương gia đình (con cái, cha mẹ, vợ chồng) trào dâng, nên nghĩ đến ba điều: 1. Trách nhiệm của một công dân không chỉ là chăm lo cho gia đình riêng của mình. 2. Đây là điều ngoài mong muốn của bạn. Ngọn nguồn của chia ly, đau khổ này là từ chế độ độc tài. 3. Bạn có thể đã phải gặp một rủi ro xấu hơn như nhiều người đã đột ngột phải chia ly gia đình mãi mãi.


14. Chắc chắn bạn sẽ suy sụp nếu cứ đo đếm thời gian, trông mong ngày trở về. Hãy đặt ra công việc và mục tiêu cần đạt được cho mỗi ngày, mỗi giai đoạn ở tù. Bạn nên nhớ đó là những khoảnh khắc vô cùng đặc biệt mà đời thường không thể có và rất không dễ để hiểu.


15. Có những lúc bạn sẽ có cảm giác vui sướng, nhưng đừng để quá vui. Cũng đừng nghĩ quẩn. Trước mọi vấn đề, cần suy nghĩ thật kỹ càng, chu đáo nhưng đừng để lo lắng, day dứt làm kiệt sức bạn. Hãy biết an tâm, chấp nhận những rủi ro ngoài khả năng tiên liệu.


16. Hãy biết tự giễu mình mỗi khi cảm thấy yếu ớt, căng thẳng hay sợ hãi. Và cũng phải biết tự thầm khen mình, tự hào về mình mỗi khi vượt qua một thách thức.


17. Cảnh giác với ba loại thời tiết dễ làm bạn không còn là bạn: nóng quá, lạnh quá và đặc biệt tiết trời u ám, ẩm thấp (như tiết tháng Ba miền Bắc).


18. Thà nhịn đói còn hơn ăn đồ không an toàn (nghi là ôi thiu, không tin cậy, thức ăn lạ). Hãy nhớ câu: “Chết vì ăn là rất nhục”.


19. Tuyệt đối không dùng dao cạo cũ (của người khác), không để tiêm chích, không để chạm dao kéo (nếu không phải là trường hợp cấp cứu tính mạng). Hãy nhớ câu: “Chết vì xuề xòa là cái chết đáng trách”.


20. Ba cách đơn giản giúp tăng cường sinh lực và sức dẻo dai cho cơ thể: 1. Chạy (hoặc đi bộ) ngay tại chỗ hoặc trong khoảng cách 2m. 2. Chống đẩy (hít đất), đứng lên ngồi xuống nhiều lần. 3. Làm dẻo các khớp từ cổ đến chân, xoa bóp cơ thể.


Siêng năng là cần thiết. Nhưng điều cần hơn là thực hành với sự hiệp nhất cùng nhịp thở trong sự tò mò, chú tâm để cảm nhận và lắng nghe những rung động bình dị mà kỳ lạ trên từng phần thân thể. Hãy luôn nhớ: Mỗi khi bạn lười nhác hay ngại ngùng là có một nụ cười đang hé trên môi của quyền lực độc tài.


21. Có ba thứ quí giá, ngoài bạn ra, không ai có thể tước đi được: 1. Giấc ngủ ngon. 2. Lý tưởng. 3. Mơ ước và suy tư.


22. Hãy đặt mọi yêu sách, đấu tranh của bạn trên ba trụ cột: pháp luật, phi bạo lực và chính trực. Tuy nhiên, tôn trọng pháp luật không có nghĩa là chấp nhận cả những qui định, luật lệ vô lý, phi nhân.


23. Những lúc cảm thấy đau khổ cùng cực hãy nghĩ đến ba điều: 1. Những người bị khuyết tật về thân thể hay trí não. 2. Những bạn bè, người thân đồng tuổi nhưng đã không may qua đời sớm. 3. Sự lo toan, tất tưởi, rủi ro của gia đình ở bên ngoài. Hãy nhớ câu: “Nỗi khổ của ta không bao giờ là nỗi khổ lớn nhất”.


24. Những khi bạn cảm thấy không thể chịu đựng thêm được nữa, hãy nhớ đó chính là lúc bạn đã tiến tới sát khả năng phát hiện ra những năng lực mới của bản thân khiến chính bạn phải sửng sốt.


25. Cả hai thứ, thân thể và ý chí, luôn cần được chăm chút, rèn luyện trong suốt những ngày tù. Nhưng nếu phải giữ lại một thì phải chọn cái thứ hai – cái không ai có thể tù hãm hay giết chết được, trừ bạn.


26. Nếu bạn xác quyết rằng Tạo hóa đã hào phóng ban cho mọi con người có khả năng tận hưởng những quyền tự do bất khả nhượng thì bạn cũng phải tin rằng Tạo hóa muốn con người phải thực sự xứng đáng hơn mọi loài vật khác khi nhận ân sủng lớn lao đó. Bởi Tạo hóa đã chỉ cho một loài duy nhất của địa cầu biết chế ra nhà tù: đó là con người.


27. Đường đến tự do không nhất thiết cứ phải xuyên qua nhà tù nhưng những kẻ kìm giữ tự do rất hay mượn nhà tù để thử độ khát khao tự do. Và những kẻ đó chắc chắn sẽ không thấy cần phải đoái hoài tới những tự do bất khả nhượng của chúng ta nếu họ cho rằng độ khát khao tự do của chúng ta thuộc loại chẳng cao lắm.


© 2013 Phạm Hồng Sơn & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 28, 2013 15:15

June 27, 2013

Chủ nghĩa tư bản và tình trạng bất bình đẳng. Cánh Hữu và cánh Tả sai lầm ở những điểm nào (3)

Jerry Z. Muller


Trần Ngọc Cư dịch


Xem kì 1 , kì 2 hoặc toàn bài trong bản PDF


Gia đình và vốn con người


Trong môi trường toàn cầu hóa, tài chính hóa, hậu công nghiệp ngày nay, vốn con người là quan trọng hơn bao giờ hết trong việc quyết định những cơ may trong đời. Điều này  khiến vai trò của gia đình trở nên quan trọng hơn cũng bởi vì, các nguồn lực do gia đình truyền lại cho con cái có xu thế định đoạt rất nhiều cho sự thành công ở nhà trường và nơi làm việc, như phát hiện luôn lặp lại của mọi thế hệ các nhà nghiên cứu xã hội và khiến họ tiu nghỉu. Như chuyên gia kinh tế Friedrich Hayek đã vạch ra nửa thế kỷ trước trong cuốn The Constitution of Liberty (Hiến pháp của Tự do), trở ngại chính cho sự bình đẳng về cơ hội là ta không thể tìm được một cơ chế tốt hơn để thay thế những vị phụ huynh thông minh hay những gia đình biết bồi dưỡng tình cảm và văn hóa cho con cái. Theo một nghiên cứu gần đây của hai nhà kinh tế Pedro Carneiro và James Heckman, “Những khác biệt về trình độ kỹ năng nhận thức (cognitive skills) và các kỹ năng không thuộc phạm vi nhận thức (noncognitve skills) xuất hiện sớm trong đời người và tồn tại mãi. Có chăng là, học vấn chỉ đào sâu thêm những khác biệt đầu đời này mà thôi”.


Vốn di truyền nằm dưới nhiều dạng thức khác nhau: cơ cấu gien (genetics), sự nuôi dưỡng trước và sau khi đứa trẻ sinh ra, và các định hướng văn hóa được truyền đạt trong gia đình. Hẳn nhiên, tiền bạc cũng quan trọng, nhưng thường không quan trọng bằng những yếu tố gần như không liên quan đến tiền bạc này. (Sự hiện hữu nổi bật của sách báo trong một hộ gia đình là dấu hiệu con cái đạt điểm cao ở học đường, chứ không phải là lợi tức của gia đình đó.) Qua thời gian, nếu xã hội được tổ chức dựa vào chế độ nhân tài, vốn di truyền gia đình và phần thưởng thị trường sẽ có có xu thế gắn bó với nhau.


Những cha mẹ có học vấn thường có khuynh hướng đầu tư thêm thì giờ và năng lực cho việc chăm sóc con cái, thậm chí khi cả cha lẫn mẹ đều bận việc ở sở làm. Và những gia đình có vốn con người phong phú có khả năng sử dụng hiệu quả hơn những phương tiện giáo dục cải tiến mà chủ nghĩa tư bản đương đại cống hiến (chẳng hạn tiềm năng bồi dưỡng tri thức qua Internet) đồng thời chống lại những cạm bẫy tiềm ẩn (như xem TV và chơi các trò chơi vi tính).


Điều này ảnh hưởng đến khả năng của trẻ em trong việc vận dụng nền giáo dục chính thức ở nhà trường, một nền giáo dục ít ra cũng có tiềm năng ngày càng mở rộng để đón tiếp mọi người, bất chấp địa vị kinh tế hay sắc tộc. Vào đầu thế kỷ 20, chỉ có 6,4 % trẻ em Mỹ hoàn tất bậc trung học, và chỉ một trong 400 người tiếp tục lên đại học. Như vậy, thời bấy giờ một bộ phận dân chúng rất đông đảo có khả năng trí óc, nhưng không có cơ hội, để theo đuổi các bằng cấp cao. Ngày nay, tỉ lệ học sinh Mỹ hoàn tất bậc trung học là khoảng 75% (xuống từ đỉnh cao 80% năm 1960), và khoảng 40% thanh niên đăng ký theo học đại học.


Tờ The Economist gần đây đã nhai lại một quan niệm lỗi thời: “Trong một xã hội có cơ hội đồng đều rộng rãi, địa vị của cha mẹ trên thang lợi tức sẽ không mấy ảnh hưởng đến nấc thang lợi tức của con cái họ về sau”. Nhưng sự thật là, càng có cơ hội đồng đều do cơ chế tạo ra bao nhiêu, thì các di sản thuộc vốn con người của gia đình lại càng quan trọng bấy nhiêu. Như nhà khoa học chính trị Edward Banfield nhận xét một thế hệ trước đây trong cuốn The Unheavenly City Revisited [một tác phẩm xét lại các vấn đề đô thị Mỹ, ND], “Toàn bộ nền giáo dục luôn ưu đãi trẻ em thuộc giai cấp trung lưu hoặc thượng lưu, vì thuộc về giai cấp trung lưu hay thượng lưu có nghĩa là hưởng được những phẩm chất tốt đẹp giúp cho việc học tập đặc biệt dễ dàng”. Những cải tiến về phẩm chất trường học có thể cải thiện thành quả giáo dục nói chung, nhưng chúng có xu thế làm gia tăng, chứ không giảm bớt, khoảng cách thành đạt giữa con em xuất thân từ những gia đình có vốn con người chênh lệch nhau. Những nghiên cứu gần đây với mục đích chứng minh rằng tại Hoa Kỳ ngày nay sự thăng tiến xã hội giữa các thế hệ (intergenerational mobility) ít diễn ra hơn so với trong quá khứ (hay so với tại một số quốc gia châu Âu), đã không thấy được rằng sự kiện này thật ra có thể là sản phẩm trớ trêu của nỗ lực gia tăng bình đẳng về cơ hội qua nhiều thế hệ. Và trong khía cạnh này, có thể Hoa Kỳ chỉ là nước dẫn đầu trong các xu thế cũng hiện diện tại các nước tư bản tiên tiến khác.


Thành đạt khác nhau giữa các nhóm xã hội


Gia đình không phải là cơ chế xã hội duy nhất có một ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển vốn con người (human capital) và đối với sự thành công nhiên hậu trong thị trường; các nhóm cộng đồng, như các cộng đồng tôn giáo, chủng tộc và dân tộc cũng có một ảnh hưởng tương tự. Trong cuốn sách xuất bản năm 1905, The Protestant Ethic and the Spirit of Capitalism (Luân lý Tin lành và Tinh thần Tư bản chủ nghĩa), nhà xã hội học Max Weber nhận xét rằng trong các khu vực tôn giáo khác nhau, người Tin lành làm kinh tế giỏi hơn người Công giáo, và người theo Giáo phái Calvin (Calvinists) thành công hơn người theo Giáo phái Luther (Lutherans). Weber đưa ra một một lý giải mang tính văn hóa cho sự khác biệt này, một sự khác biệt có gốc rễ trong những khuynh hướng tâm lý do các đức tin khác nhau này tạo ra. Vài năm sau, trong cuốn The Jews and Modern Capitalism (Người Do Thái và Chủ nghĩa Tư bản Hiện đại), Werner Sombart, người đồng thời với Weber, đưa ra một lý giải khác hơn cho sự thành công của các nhóm khác nhau, bằng cách một phần dựa vào các khuynh hướng văn hóa và một phần dựa vào các khuynh hướng chủng tộc. Và đến năm 1927, Schumpeter, một đồng nghiệp trẻ hơn của họ đã đặt tựa đề cho một bài tiểu luận quan trọng là “Giai cấp xã hội trong một môi trường thuần chủng (ethnically homogeneous)”, vì ông đinh ninh rằng trong một bối cảnh hợp chủng, các mức độ thành đạt thay đổi theo từng sắc dân, chứ không chỉ theo giai cấp xã hội mà thôi.


Những lý giải được đưa ra cho những mô hình nói trên là không quan trọng bằng thực tế là, mức thành đạt khác nhau giữa các nhóm vẫn là một đặc điểm bất diệt trong lịch sử của chế độ tư bản, và những chênh lệch này vẫn tiếp tục tồn tại ngày nay. Tại Hoa Kỳ đương đại, chẳng hạn, người châu Á (đặc biệt khi không kể đến các sắc dân hải đảo Thái Bình Dương) có xu thế thành đạt hơn người da trắng bản xứ (non-Hispanic whites), người da trắng bản xứ lại thành đạt hơn người da trắng gốc châu Mỹ La tinh (Hispanic whites), người châu Mỹ La tinh lại thành đạt hơn người Mỹ gốc châu Phi [người da đen]. Đây là sự thật dù ta nhìn vào sự thành đạt về học vấn, vào lợi tức, hay nhìn vào các loại hình gia đình, như các trường hợp sinh con ngoại hôn chẳng hạn.


Những quốc gia Tây Âu (và nhất là những quốc gia Bắc Âu), với những trình độ bình đẳng kinh tế còn cao hơn Mỹ nhiều, thông thường là những nước có những khối dân thuần chủng hơn Mỹ. Khi những đợt dân nhập cư gần đây làm cho nhiều nước tiên tiến hậu công nghiệp giảm bớt tính thuần chủng so với trước, chúng cũng có vẻ phân hoá giai cấp theo các đường ranh cộng đồng, với một số nhóm dân nhập cư biểu hiện những mô hình thành công hơn khối dân cư hiện hữu từ trước và một số nhóm khác lại ít thành công hơn. Tại Vương quốc Anh chẳng hạn, con cái những người Trung Hoa và người Ấn Độ nhập cư thường thành công hơn dân bản xứ, trong khi con cái của người da đen từ vùng Ca-ri-bê (Caribbean blacks) và người Pakistan thường thua kém hơn. Tại Pháp, con cái của người Việt Nam nhập cư thường thành công hơn con cái người bản xứ, và con cái của các sắc dân Bắc Phi lại thua kém hơn. Tại Israel, con cái của người Nga nhập cư thường thành công hơn người bản xứ, trong khi con cái của những người nhập cư từ Ethiopia lại thua kém hơn. Tại Canada, con cái người Trung Hoa và người Ấn Độ thường thành công hơn con cái dân bản xứ, trong khi con cái của dân nhập cư từ vùng Ca-ri-bê và châu Mỹ La tinh lại thua kém hơn. Phần lớn sự chênh lệnh trong mức độ thành công này có thể được giải thích bằng thành phần giai cấp và quá trình đào tạo khác nhau của các nhóm nhập cư ngay tại cố quốc của họ. Nhưng vì bản thân những cộng đồng nhập cư này đã đóng vai trò là nơi cưu mang vốn con người, những mô hình về sự thành đạt này có khả năng và vẫn còn tồn tại qua thời gian và không gian.


Trong trường hợp Hoa Kỳ, chính sách di trú của nước này đã đóng một một vai trò thậm chí còn lớn hơn trong việc làm nghiêm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng, vì tính năng động kinh tế, sự cởi mở văn hóa, và địa thế của nước Mỹ có xu thế thu hút một số người tài giỏi và thông minh nhất thế giới lẫn một số người ít học nhất thế giới. Sự thể này đã nâng chóp bu của thang kinh tế lên cao và hạ phần dưới cùng xuống thấp hơn nữa.


Tại sao giáo dục không phải là một phương thuốc chữa trị mọi thứ bệnh


Sự nhìn nhận ngày càng rộng lớn về tình trạng bất bình đẳng và phân hóa giai cấp xã hội đang gia tăng tại các nước hậu công nghiệp đương nhiên đã đưa đến các cuộc thảo luận về những điều có thể thực hiện để đối phó vấn đề này. Trong bối cảnh của Hoa Kỳ, câu trả lời đến từ hầu hết mọi thành phần xã hội thật là đơn giản: giáo dục.


Một chủ đề của lập luận này tập trung vào giáo dục đại học. Theo đó, hiện nay có một khoảng cách đang gia tăng về những cơ may trong đời giữa những người tốt nghiệp đại học và những người không tốt nghiệp, và vì thế cần phải có càng nhiều người vào đại học càng tốt. Đáng tiếc là, mặc dù một tỉ lệ người Mỹ cao hơn trước đang theo đuổi bậc đại học, nhưng họ không nhất thiết học hỏi nhiều hơn. Một con số ngày càng đông đảo không đủ khả năng học tập ở bậc đại học, nhiều người phải rời ghế nhà trường trước khi hoàn tất học vị, và nhiều người khác nhận những bằng cấp chỉ phản ánh những tiêu chuẩn thấp hơn trình độ mà người ta thường cho là một bằng đại học phải có.


Trong khi đó, mức chênh lệch đáng kể nhất trong sự thành tựu ở học đường diễn ra sớm hơn bậc đại học, được biểu hiện trong tỉ lệ hoàn tất bậc trung học, và những chênh lệnh quan trọng trong thành tích học tập (giữa các giai cấp xã hội khác nhau và giữa các sắc tộc khác nhau) còn xuất hiện sớm hơn, ngay từ cấp tiểu học. Do đó, một chủ đề thứ hai của cuộc tranh luận giáo dục tập trung vào bậc tiểu học và trung học. Những phương thức chữa trị được đề xuất ở đây gồm có: cung cấp thêm tiền cho các trường học, cho phụ huynh nhiều lựa chọn hơn, kiểm tra bài vở của học sinh thường xuyên hơn, và cải thiện hiệu năng của giáo viên. Thậm chí nếu một số hoặc toàn bộ các biện pháp này là đáng mong muốn vì những lý do khác đi nữa, không một biện pháp nào chứng tỏ đã giảm bớt khoảng cách giữa các học sinh và giữa các nhóm xã hội – vì bản thân nền giáo dục chính thức ở nhà trường (official schooling) đóng một vai trò tương đối nhỏ bé trong việc tạo ra hoặc duy trì các khoảng cách thành đạt (achievement gaps).


Thật ra những khoảng cách này có nguồn gốc trong những mức vốn con người khác nhau (different levels of human capital) mà trẻ em thừa hưởng khi chúng bắt đầu đi học – điều này đã dẫn đến một chá»§ đề thứ ba cá»§a cuộc tranh luận giáo dục, tập trung vào việc chăm sóc tuổi thÆ¡ ấu cá»§a trẻ em sớm hÆ¡n và tích cá»±c hÆ¡n. Những đề xuất ở đây thường dẫn đến việc đưa trẻ em ra khỏi môi trường gia đình và đặt chúng vào những bối cảnh mang tính cÆ¡ chế (institutional settings) càng dài thời gian càng tốt (như chương trình Head Start, Early Head Start /cho trẻ em đi học sớm) hay thậm chí cố gắng tái xã hội hoá toàn bộ những khu dân sinh (như trong dá»± án Khu vá»±c cá»§a Trẻ em Harlem/the Harlem Children’s Zone project). Có một số trường hợp thành công riêng lẻ với những chương trình này, nhưng không ai biết chắc là chúng có thể được nhân rộng trên một qui mô lớn hÆ¡n không. Nhiều chương trình cho thấy kết quả ngắn hạn về khả năng nhận thức, nhưng hầu hết những thành quả này có xu thế mai một qua thời gian, và những thành quả còn sót lại thường là không đáng kể. Có một điều khả tín hÆ¡n là, những chương trình này giúp trẻ em trau dồi các kỹ năng không thuộc lãnh vá»±c nhận thức (noncognitive skills [như các đức tính]) và những đặc điểm nhân cách có thể dẫn đến thành công kinh tế tương lai – nhưng với một cái giá và nỗ lá»±c đầu tư đáng kể, vì phải sá»­ dụng các nguồn lá»±c được rút tỉa từ những bộ phận thành công hÆ¡n trong xã hội (và như thế làm suy yếu các nguồn lá»±c mà họ có thể sá»­ dụng để đầu tư) hay các nguồn lá»±c được chuyển từ các dá»± án tiềm năng khác.


Vì tất cả những lý do trên, tình trạng bất bình đẳng trong các xã hội tư bản tiên tiến dường như vừa gia tăng vừa không tránh khỏi, chí ít trong giai đoạn hiện nay. Thật vậy, một trong những khám phá chắc chắn nhất của ngành nghiên cứu khoa học xã hội đương đại là, một khi sự cách biệt giữa các gia đình có lợi tức cao và những gia đình có lợi tức thấp gia tăng, thì những cách biệt trong sự thành đạt về học vấn và công ăn việc làm giữa con cái họ lại càng gia tăng hơn nữa.


Phải làm gì?


Chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn tiếp tục tạo ra những lợi ích ngoạn mục và những cơ hội ngày càng to lớn hơn cho việc tự trau dồi và phát triển bản thân. Nhưng hơn bao giờ hết, những mặt tốt của nó đang đi cùng với những mặt xấu, đặc biệt là việc gia tăng tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế. Như Marx và Engels đã nhận xét chính xác, điều làm cho chủ nghĩa tư bản khác với các hệ thống xã hội và kinh tế khác là nó “thường xuyên cách mạng hóa việc sản xuất, gây xáo trộn liên tục cho mọi tình huống xã hội, [và] mang lại tình trạng bấp bênh và dao động triền miên”.


Vào cuối thế kỷ 18, nhà nghiên cứu và thực hành môn kinh tế chính trị vĩ đại nhất nước Mỹ, Alexander Hamilton, đã có một số nhận xét sâu sắc về tính hàm hồ tất yếu (inevitable ambiguity) của chính sách công trong một thế giới đầy lực hủy diệt sáng tạo (a world of creative destruction):


Cái thân phận mà Thượng đế đã quan phòng vÄ©nh viễn cho con người là, mỗi điều tốt lành mà con người được thụ hưởng đều bị pha trộn với nhiều điều xấu xa, mọi suối nguồn hoan lạc là ngọn nguồn cá»§a thương đau – ngoại trừ một điều là Đức hạnh, điều tốt lành duy nhất không bị pha chế được phép tồn tại trong Thân phận hữu hạn cá»§a con người… Người làm chính trị đích thá»±c… sẽ hỗ trợ những cÆ¡ chế và kế hoạch nàocó xu thế tạo hạnh phúc cho đồng loại, phù hợp với khuynh hướng tá»± nhiên cá»§a họ là gia tăng gấp bội nguồn hạnh phúc cá nhân và gia tăng các nguồn tài nguyên và sức mạnh quốc gia – cố gắng đưa vào mỗi trường hợp tất cả những thành tố có thể được sá»­ dụng để vạch ra các biện pháp ngăn ngừa và chỉnh sá»­a cái ác vốn luôn luôn đi đôi với những ân sá»§ng thế gian.


Bây giờ cũng như vào thời đó, vấn đề trước mắt chỉ là làm thế nào để duy trì những ân sủng thế gian của chủ nghĩa tư bản đồng thời vạch ra các biện pháp ngăn ngừa và chỉnh sửa đối với những điều ác vốn luôn luôn đi đôi với những ân sủng ấy.


Một liều thuốc tiềm năng để chữa trị các vấn đề bất bình đẳng và bất an kinh tế giản dị là tái phân phối lợi tức từ chóp bu xuống tận đáy của nền kinh tế. Tuy nhiên, phương thức này có hai khuyết điểm. Khuyết điểm thứ nhất là, qua thời gian, chính các thế lực đã dẫn đến tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng sẽ xác lập lại thế lực của mình; việc này đòi hỏi tái phân phối lợi tức thêm nữa, hay tái phân phối mạnh mẽ hơn. Khuyết điểm thứ hai là vào một thời điểm nào đó, việc tái phân phối lợi tức sẽ tạo ra bất mãn sâu sắc và cản trở các động cơ tăng trưởng kinh tế. Một mức độ nào đó của việc tái phân phối lợi tức thông qua đánh thuế, sau các kết toán thị trường, là điều có thể thực hiện và cần thiết, nhưng mức độ lý tưởng là bao nhiêu thì đây là vấn đề chắc chắn sẽ bị tranh cãi gay gắt, và dù con số có nhiều bao nhiêu đi nữa, việc tái phân phối lợi tức sẽ không bao giờ giải quyết được những vấn đề cơ bản.


Phương thuốc thứ hai, sá»­ dụng chính sách chính phá»§ để thu hẹp khoảng cách giữa các cá nhân và giữa các nhóm xã hội bằng cách đưa chính sách ưu đãi cho những thành phần làm ăn thất bát, có lẽ còn tồi tệ hại hÆ¡n cả chính cÆ¡n bệnh. Dù bất cứ ích lợi được viện dẫn là gì đi nữa, những phần thưởng được á»§y thác cho một số loại công dân nhất định chắc chắn tạo ra một cảm thức bất công trong phần còn lại cá»§a xã hội. Nghiêm trọng hÆ¡n nữa là cái giá phải trả cho những phần thưởng này nếu xét về hiệu năng kinh tế, vì theo định nghÄ©a, chúng sẽ đưa những cá nhân thiếu khả năng lên những địa vị mà họ sẽ không thể vươn tới nếu chỉ dá»±a vào tài năng cá»§a mình. Tương tá»± như thế, những chính sách cấm đoán việc sá»­ dụng tiêu chuẩn tài năng (meritocratic criteria) trong giáo dục, trong việc thu dụng nhân viên, và cung cấp tín dụng – chỉ vì những tiêu chuẩn này có “tác động chênh lệch” lên số phận cá»§a nhiều cộng đồng khác nhau hoặc vì chúng làm gia tăng hậu quả bất bất bình đẳng xã hội – chắc chắn sẽ làm suy giảm phẩm chất cá»§a hệ thống giáo dục, lá»±c lượng lao động, và cả nền kinh tế.


Một phương án chữa trị thứ ba, khuyến khích đổi mới kinh tế liên tục để làm lợi cho mọi người, có nhiều hứa hẹn hơn hai phương án trên. Sự kết hợp giữa Internet và các cách mạng điện toán hiện nay có thể được ví với việc khám phá ra điện, một khám phá đã tạo điều kiện cho gần như vô số hoạt động khác, đã chuyển hóa xã hội nói chung trong nhiều cung cách không ai tiên đoán được. Trong số những thành quả khác, Internet đã cực kỳ nhanh chóng gia tăng tốc độ của kiến thức, một yếu tố chủ yếu trong việc tăng trưởng kinh tế tư bản chủ nghĩa chí ít kể từ thế kỷ 18. Thêm vào đó, các viễn ảnh của các ngành khác dù còn nằm trong thời kỳ ấu trĩ, như công nghệ sinh học (biotechnology), sinh tin học (bioinformatics), và công nghệ nanô (nanotechnology), cũng như các viễn ảnh về tăng trưởng kinh tế tương lai và sự cải thiện đang diễn ra của đời sống con người, đều có vẻ sáng sủa một cách hợp lý. Tuy nhiên, thậm chí cả sự đổi mới liên tục lẫn sự phục hồi tăng trưởng kinh tế cũng sẽ không loại bỏ hay thậm chí giảm bớt một cách đáng kể tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế, vì sự khác biệt giữa các cá nhân, giữa các gia đình, và giữa các tập thể sẽ vẫn cứ ảnh hưởng đến sự phát triển vốn con người (human capital) và sự thành đạt nghề nghiệp.


Do đó, muốn cho chá»§ nghÄ©a tư bản tiếp tục giữ được tính chính đáng và đáp ứng được nguyện vọng cá»§a các bộ phận dân chúng nói chung – kể cả những thành phần hạ lưu và trung lưu trên nấc thang kinh tế xã hội, cÅ©ng như những thành phần thượng lưu gần chóp bu, kẻ thua cÅ©ng như người thắng – các mạng lưới an toàn do chính phá»§ lập ra nhằm giúp giảm bớt tình trạng bất an kinh tế, xoa dịu những nhức nhối do thất bại trong thị trường và giúp duy trì cÆ¡ hội đồng đều cho mọi người, cần phải được duy trì và được hồi sinh. Những chương trình này đã hiện hữu tại hầu hết các nước trong thế giới tư bản tiên tiến, kể cả Hoa Kỳ, và vì thế cánh Hữu cần phải chấp nhận rằng chúng đang đáp ứng một mục đích không thể thiếu và phải được duy trì chứ không nên cắt bỏ – rằng những chi phí cá»§a chính phá»§ về phúc lợi xã hội là một cách đối phó thích hợp với một số đặc điểm có vấn đề nội tại trong chá»§ nghÄ©a tư bản, chứ không phải là một “con quái vật” cần phải “bỏ đói”.


Tại Hoa Kỳ chẳng hạn, những biện pháp như an sinh xã hội (Social Security), bảo hiểm thất nghiệp (unemployment insurance), phiếu mua thực phẩm dành cho người nghèo (food stamps), tín chỉ giảm thuế lợi tức (the Earned Income Tax Credit), chế độ y tế cho người nghỉ hưu (Medicare), chế độ y tế cho người già hay người tàn tật (Medicaid), và việc nới rộng bảo hiểm do Đạo luật Cải tổ Y tế (the Affordable Care Act [hay Obamacare]) đã giúp đỡ và xoa dịu trước hết những người kém thành công hay không thể tham dự vào nền kinh tế hiện nay. Cắt giảm phạm vi trợ cấp của những chương trình này là một hành vi thiếu nhân ái trong khi tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế đang gia tăng. Và nếu không vì gì khác chăng nữa, thì chính tinh thần vị kỷ sáng suốt (the enlightened self-interest) của những ai đã hưởng lợi nhiều nhất trong một xã hội mang tính năng động tư bản chủ nghĩa chắc chắn sẽ giúp họ nhận ra rằng, nếu không chịu từ bỏ một số thành quả thị trường của mình để đạt được sự ổn định xã hội và kinh tế liên tục, thì đó là một thái độ dại dột. Các chương trình phúc lợi của chính phủ cần phải cải tổ cấu trúc, nhưng cánh Hữu phải chấp nhận rằng một nhà nước phúc lợi rộng lượng hợp lý sẽ còn tồn tại mãi, và tồn tại vì những lý do hết sức hợp lý.


Về phần mình, cánh Tả cần phải tỉnh táo đối diện với thá»±c tế là, những toan tính táo bạo nhằm xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng có thể vừa là quá tốn kém vừa là vô ích. Chính sá»± thành công cá»§a những nỗ lá»±c trong quá khứ nhằm gia tăng sá»± bình đẳng về cÆ¡ hội – như mở rộng cánh cá»­a giáo dục và cấm hẳn mọi hình thức phân biệt đối xá»­ – mang ý nghÄ©a là, trong các xã hội tư bản tiên tiến ngày nay, những vá»±a tiềm năng to lớn và riêng rẽ chưa được khai thác càng ngày càng trở nên hiếm hoi. Vì vậy, việc đưa thêm nhiều biện pháp hÆ¡n nữa để cải thiện sá»± bình đẳng có thể khó đạt được thành quả như các biện pháp đã sá»­ dụng trước đây, trong khi sá»± tốn kém lại to lớn hÆ¡n nhiều. Và nếu những biện pháp này dẫn đến việc lấy mất nguồn lá»±c cá»§a những thành phần xã hội có vốn con người phong phú hÆ¡n để đưa sang những thành phần thiếu loại vốn này, hoặc không đếm xỉa đến các tiêu chuẩn thành đạt và tài năng, thì chúng sẽ cản trở tính năng động và đà tăng trưởng kinh tế, vốn là nền tảng cho nhà nước phúc lợi hiện nay đứng vững.


Như vậy, thách thức đối với chính sách của chính phủ trong thế giới tư bản tiên tiến là làm thế nào để duy trì một mức độ năng động kinh tế nhằm cung ứng các lợi ích ngày càng to lớn cho tất cả mọi người, đồng thời có thể chi trả những chương trình phúc lợi xã hội cần thiết nhằm làm cho đời sống của người dân dễ thở hơn trong tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế ngày càng gia tăng. Các quốc gia khác nhau sẽ đối phó thách thức này bằng những đường lối khác nhau, vì mỗi quốc gia có những ưu tiên, những truyền thống, có diện tích, và những đặc tính dân số và kinh tế khác nhau. (Một trong những ảo tưởng của thời đại là nghĩ rằng trong vấn đề chính sách của chính phủ, các quốc gia có thể tùy tiện vay mượn mô hình của nhau.) Nhưng một khởi điểm hữu ích có lẽ là, phải từ bỏ cả loại chính trị đặc quyền đặc lợi (the politics of priviledge) lẫn loại chính trị sách động hận thù (the politics of resentment), để chấp nhận một quan điểm rõ ràng về những gì chủ nghĩa tư bản thực sự có liên quan, chứ không mang thái độ lý tưởng hóa của những người sùng bái chủ nghĩa này và thái độ phỉ báng của những người đả kích nó.


_________


Jerry Z. Muller là Giáo sư Sử học tại Catholic University of America và là tác giả cuốn The Mind and the Market: Capitalism in Western Thought (Trí tuệ và Thị trường: Chủ nghĩa Tư bản trong Tư tưởng phương Tây).


Nguồn: Jerry Z. Muller, “Capitalism and Inequality. What the Right and the Left Get Wrong”. Foreign Affairs, tháng Ba/tháng Tư 2013


Bản tiếng Việt © 2013 Trần Ngọc Cư & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 27, 2013 10:20

June 26, 2013

Chủ nghĩa tư bản và tình trạng bất bình đẳng. Cánh Hữu và cánh Tả sai lầm ở những điểm nào (2)

Jerry Z. Muller


Trần Ngọc Cư dịch


Xem kì 1


Đời sống trong nền kinh tế hậu công nghiệp


Đối với nhân loại nói chung, cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 là một thời kỳ tiến bộ ngoạn mục, một phần không nhỏ nhờ vào sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản trên toàn cầu. Tiến trình tự do hóa kinh tế (economic liberalization) tại Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Indonesia, và các nước khác trong thế giới đang phát triển đã cho phép hàng trăm triệu người thoát khỏi cảnh nghèo đói cùng cực và tiến lên giai cấp trung lưu. Trong khi đó, người tiêu thụ tại các nước tư bản tiên tiến hơn, như Hoa Kỳ chẳng hạn, đã và đang được hưởng sự giảm giá cực lớn của nhiều mặt hàng, từ quần áo đến máy truyền hình, và có thể mua sắm cả một biển hàng hóa mới mẻ, những thứ đã biến đổi cuộc đời họ.


Nhưng đáng chú ý hơn cả có lẽ là những biến đổi trong các phương tiện trau dồi kiến thức bản thân (self-cultivation). Như nhà kinh tế Tyler Cowen nhận xét, phần lớn thành quả của những phát triển gần đây “nằm trong đầu và trong những chiếc laptop của chúng ta nhiều hơn nằm trong khu vực kinh tế sinh ra doanh thu”. Do đó, “phần lớn giá trị của Internet được cảm nhận ở mức độ cá nhân và vì thế không bao giờ xuất hiện trong những số liệu chỉ năng suất”. Nhiều cuộc trình diễn âm nhạc vĩ đại của thế kỷ 20, đủ mọi thể loại, có thể được thưởng thức miễn phí trên YouTube. Nhiều bộ phim xuất sắc của thế kỷ 20, mà ngày trước chỉ thỉnh thoảng mới được trình chiếu tại các trung tâm nghệ thuật ở một vài vùng đô thị lớn, bây giờ có thể được xem bởi bất cứ ai vào bất cứ lúc nào với một lệ phí hàng tháng rất thấp. Chẳng bao lâu nữa, thư viện của các đại học lớn sẽ mở cửa trực tuyến cho toàn thế giới; và tiếp theo đó, những cơ hội chưa từng có trong việc phát triển đời sống cá nhân sẽ diễn ra.


Tuy nhiên, tất cả sá»± tiến bộ này vẫn bị ám ảnh bởi hai đặc điểm bất diệt cá»§a chá»§ nghÄ©a tư bản: đó là, tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế. Ngay từ năm 1973, nhà xã hội học Daniel Bell đã nhận xét rằng trong thế giới tư bản tiên tiến, tri thức, khoa học, và công nghệ đang thúc đẩy một cuộc chuyển đổi sang cái mà ông gọi là “xã hội hậu công nghiệp (postindustrial society)”. CÅ©ng như ngành chế tạo hàng hoá trước đó đã thay thế nông nghiệp làm nguồn thu dụng nhân công chính, ông lý luận, khu vá»±c dịch vụ (the service sector) hiện đang thay thế khu vá»±c chế tạo. Trong một nền kinh tế tri thức hậu công nghiệp, việc sản xuất các mặt hàng chế tạo dá»±a trên đầu vào công nghệ (technological inputs) nhiều hÆ¡n  dá»±a vào kỹ năng cá»§a những công nhân thá»±c sá»± xây dá»±ng và lắp ráp sản phẩm. Điều này ngụ ý một sá»± suy giảm nhu cầu đối với các công nhân nhà máy có kỹ năng (skilled) và bán kỹ năng (semiskilled) và sá»± xuống cấp về giá trị kinh tế cá»§a họ – cÅ©ng như trước đó đã có sá»± suy giảm nhu cầu đối với người làm nghề nông và sá»± xuống cấp giá trị cá»§a họ. Trong một nền kinh tế hậu công nghiệp, những kỹ năng được đòi hỏi gồm tri thức khoa học kỹ thuật và khả năng sá»­ dụng thông tin. Trong khi đó, cuộc cách mạng công nghệ thông tin ào ạt diễn ra trong nền kinh tế trong vài thập ká»· gần đây chỉ càng thúc đẩy mạnh mẽ những xu thế này.


Một ảnh hưởng nghiêm trọng do sá»± trỗi dậy cá»§a nền kinh tế hậu công nghiệp liên quan đến địa vị và vai trò cá»§a nam giới và nữ giới. Lợi thế tương đối cá»§a nam giới trong các nền kinh tế tiền công nghiệp và công nghiệp (preindustrial and industrial economies) phần lớn nằm ở sức mạnh thể lá»±c lớn hÆ¡n cá»§a họ – một điều mà bây giờ ngày càng ít cần đến. Trái lại, nữ giới hoặc do cấu tạo sinh học hoặc qua giao tiếp xã hội, có được một lợi thế tương đối về kỹ năng ứng xá»­ và trí tuệ xúc cảm (emotional intelligence), những đức tính ngày càng trở nên quan trọng trong một nền kinh tế hướng tới dịch vụ hÆ¡n là hướng tới sản xuất vật dụng. Bộ phận kinh tế mà người phụ nữ có thể tham gia đã mở rộng, và lao động cá»§a họ đã trở nên có giá trị hÆ¡n trước – điều này ngụ ý rằng, nếu họ dùng thì giờ cho việc nội trợ thì họ sẽ mất đi những khả năng thuận lợi trong lá»±c lượng lao động được trả lương. Điều đó dẫn đến sá»± thay thế ngày càng phổ biến các hộ gia đình chồng đi kiếm cÆ¡m-vợ lo nội trợ (male breadwinner-female homemaker households) bằng hộ gia đình có hai nguồn thu nhập (dual-income households). Những người á»§ng hộ cÅ©ng như những người đả kích việc thu dụng phụ nữ vào nền kinh tế được trả lương có xu thế nhấn mạnh quá đáng vai trò cá»§a các cuộc tranh đấu ý thức hệ về nữ quyền trong sá»± thay đổi này, trong khi đánh giá quá thấp vai trò cá»§a những thay đổi trong bản chất cá»§a tiến trình sản xuất tư bản chá»§ nghÄ©a. Việc tái triển khai lao động phụ nữ ra khỏi hộ gia đình được thể hiện một phần nhờ sá»± xuất hiện cá»§a những hàng hoá mới, những hàng hóa đã cắt giảm thì giờ lao động cần thiết trong gia đình (như máy giặt, máy sấy, máy rá»­a chén, bình nóng lạnh, máy hút bụi, lò vi sóng). Chính việc dành nhiều thì giờ hÆ¡n cho hoạt động thị trường đã làm nảy sinh nhu cầu mới đối với những mặt hàng tiêu thụ trong gia đình ít đòi hỏi công sức (như thức ăn gói sẵn và làm sẵn), đồng thời thúc đẩy sá»± bành trướng cá»§a việc ăn nhà hàng và thức ăn nhanh. Và điều này đã dẫn đến tiến trình thương phẩm hóa dịch vụ chăm sóc (the commodifiation of care) – khi trẻ em, người cao niên, và người tàn tật ngày càng được chăm sóc không phải bởi người thân, mà bởi những người được trả lương.


Xu thế người phụ nữ được học hành nhiều hÆ¡n và thành đạt hÆ¡n trong nghề nghiệp đi đôi với việc thay đổi chuẩn má»±c xã hội trong việc lá»±a chọn người hôn phối. Trong thời đại hôn nhân với mô hình chồng kiếm cÆ¡m-vợ lo việc nhà, người phụ nữ có khuynh hướng coi trọng khả năng kiếm tiền trong việc lá»±a chọn người hôn phối. Về phần mình, người đàn ông đánh giá những khả năng nội trợ cá»§a người vợ tương lai cao hÆ¡n những thành đạt nghề nghiệp cá»§a họ. Không phải là chuyện bất thường khi đàn ông hay đàn bà lấy một người có cùng trình độ trí thức, nhưng vào thời đó đàn bà có xu thế lấy đàn ông có trình độ giáo dục và thành đạt kinh tế cao hÆ¡n mình. Khi kinh tế chuyển từ một nền kinh tế công nghiệp sang một nền kinh tế dịch vụ và thông tin hậu công nghiệp, phụ nữ đã sánh vai cùng nam giới trong nỗ lá»±c giành sá»± công nhận xã hội qua các công việc được trả lương, do đó một cặp vợ chồng cần mẫn tiêu biểu hiện nay ngày càng là hai người đồng đẳng (peers), với trình độ giáo dục ngang hàng hÆ¡n trước và mức thành đạt kinh tế tương đương hÆ¡n trước – một tiến trình được gọi là “assortative mating” [“trao duyên phải lứa, gieo cầu đúng nÆ¡i”- Kiều].


Tình trạng bất bình đẳng trên đà gia tăng


Những xu thế xã hội hậu công nghiệp này đã tác động đáng kể lên tình trạng bất bình đẳng hiện nay. Nếu thu nhập gia đình tăng lên gấp đôi ở mỗi nấc thang kinh tế, thì tổng số thu nhập cá»§a những gia đình ở những nấc thang cao hÆ¡n chắc chắn tăng nhanh hÆ¡n tổng số thu nhập cá»§a những gia đình ở những nấc thang bên dưới. Nhưng đối với một bộ phận đáng kể những hộ gia đình ở phần dưới cá»§a chiếc thang, thu nhập gia đình không thể nào tăng gấp đôi được – vì khi lương tương đối cá»§a phụ nữ được tăng lên và lương tương đối cá»§a giới nam công nhân ít học bị giảm sút, thì giới đàn ông này bị coi là càng ngày càng khó lấy vợ. Thông thường, những hạn chế về vốn con người (human capital) khiến những người đàn ông này khó kiếm được việc làm và biến họ trở thành những đối tượng ít được mong muốn. Và những đặc điểm nhân cách cá»§a những người đàn ông thất nghiệp kinh niên đôi khi cÅ©ng xuống cấp theo. Với đồng lương càng kém cỏi mang về cho gia đình, những người đàn ông này càng bị coi là ít cần thiết – một phần vì ngày nay đàn bà có thể trông cậy vào những trợ cấp cá»§a nhà nước phúc lợi như một nguồn thu nhập độc lập phụ trội, dù ít ỏi bao nhiêu chăng nữa.


Tại Hoa Kỳ, một trong những phát triển nổi bật nhất của các thập kỷ gần đây là tiến trình giai cấp hóa các mô hình hôn nhân giữa các tầng lớp và các nhóm sắc tộc khác nhau trong xã hội. Khi luật ly dị được nới lỏng vào những năm 1960, tỉ lệ ly dị đã gia tăng trong mọi tầng lớp xã hội. Nhưng vào khoảng thập niên 1980, một mô hình mới đã xuất hiện: tỉ lệ ly dị bắt đầu giảm trong những bộ phận dân chúng có học, trong khi tỉ lệ ly dị trong những bộ phận dân số thiếu học vẫn tiếp tục tăng. Hơn nữa, những người có học và khá giả thường có khả năng lấy vợ lấy chồng hơn, trong khi những người thiếu học ít có khả năng này. Vì gia đình đóng vai trò là nơi tạo ra vốn con người, những xu thế trên có hậu quả nghiêm trọng lây lan sang tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng trẻ em được cả cha lẫn mẹ nuôi dạy trong một cuộc hôn nhân không gián đoạn có khả năng phát triển tinh thần kỷ luật và lòng tự tin hơn, để chuẩn bị cho những thành công trong đời, trong khi trẻ em – và nhất là con trai – được nuôi trong các hộ gia đình chỉ có một người cha hay mẹ đơn chiếc (hay, tồi tệ hơn nữa, những hộ gia đình với một người mẹ có những quan hệ tạm bợ) thường chịu rủi ro nhận lãnh những hậu quả xấu cao hơn.


Tất cả sá»± thể này đã và đang diễn ra trong một thời kỳ mà cÆ¡ hội đồng đều trong việc tiếp cận giáo dục và tiến trình phân cấp (stratification) các phần thưởng kinh tế thị trường đang gia tăng – cả hai diễn biến này đã nâng cao tầm quan trọng cá»§a vốn con người. Một yếu tố cá»§a vốn con người là khả năng nhận thức (cognitive ability): sá»± nhanh trí, khả năng suy luận và áp dụng các mô hình rút từ kinh nghiệm, và khả năng đối phó với tính phức tạp trí tuệ. Một yếu tố khác là nhân cách và các kỹ năng xã hội: tinh thần ká»· luật, đức tính kiên trì, và tinh thần trách nhiệm [còn được gọi là noncognitive skills, ND]. Yếu tố thứ ba là kiến thức thá»±c có (actual knowledge). Tất cả những yếu tố này cá»§a vốn con người đang ngày càng trở nên tối quan trọng cho sá»± thành công trong thị trường hậu công nghiệp. Như nhà kinh tế Brink Lindsey nhận xét trong cuốn sách gần đây cá»§a ông, Human Capitalism (Chá»§ nghÄ©a tư bản nhân văn), từ năm 1973 đến năm 2001, tăng trưởng lợi tức trung bình hàng năm là 0,3% cho những người thuộc 1/5 thấp nhất trong bản phân phối lợi tức Hoa Kỳ, so với 0,8% cho những người thuộc 1/5 ở giữa và 1,8% cho những người thuộc 1/5 cao nhất trong bản phân phối. Những mô hình khá tương tá»± cÅ©ng chiếm lÄ©nh tại nhiều nền kinh tế tiên tiến khác.


Tiến trình toàn cầu hóa không phải là nguyên nhân gây ra, nhưng nó góp phần đẩy mạnh mô hình bất bình đẳng ngày càng tăng về phân phối lợi tức tương ứng với vốn con người nêu trên Chuyên gia kinh tế Michael Spence đã phân biệt hàng hoá và dịch vụ “mậu dịch” (tradable), tức những thứ có thể xuất khẩu và nhập khẩu dễ dàng, và những hàng hóa và dịch vụ “phi mậu dịch” (untradable), tức những thứ không thể xuất nhập khẩu. Ngày càng nhiều, những hàng hóa và dịch vụ mậu dịch được nhập vào các xã hội tư bản tiên tiến từ các xã hội tư bản kém tiên tiến, là nơi giá lao động thấp hơn. Khi các hàng chế tạo và các dịch vụ thông dụng được đưa ra sản xuất ở nước ngoài (outsourced) thì đồng lương công nhân thiếu tay nghề và thiếu học tại các xã hội tư bản tiên tiến sẽ xuống thấp hơn nữa, trừ phi những người này có thể tìm được việc làm khấm khá trong khu vực hàng hóa-dịch vụ không thể xuất nhập khẩu (the untradable sector).


Tác động của tài chính hiện đại


Trong khi đó, tình trạng bất bình đẳng kinh tế hiện đang gia tăng đã trở nên nghiêm trọng hơn do chính nỗi bất an và lo lắng cũng đang gia tăng của những người ở nấc thang kinh tế cao hơn. Một xu thế ảnh hưởng đến vấn đề này là tiến trình tài chính hóa nền kinh tế, chủ yếu diễn ra tại Mỹ, hiện đang tạo ra cái mà nhà kinh tế Hyman Minsky mệnh danh là “chủ nghĩa tư bản quản lý tiền” (money manager capitalism) và được chuyên gia tài chính Alfred Rappaport gọi là “chủ nghĩa tư bản môi giới” (agency capitalism).


Đến tận thập niên 1980, tài chính tuy là một yếu tố cần thiết nhưng hạn chế trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Việc mua bán cổ phiếu (thị trường chứng khoán) gồm các nhà đầu tư cá nhân, lớn hoặc nhỏ, bỏ tiền của chính mình vào cổ phần các công ty mà họ tin là có viễn ảnh dài hạn tốt đẹp. Vốn đầu tư thời bấy giờ cũng có thể xuất phát từ các ngân hàng đầu tư chính của Wall Street hay của các nước khác; đây là những công ty tư nhân trong đó tiền của người hùn vốn có thể chịu rủi ro mất mát. Tất cả điều này bắt đầu thay đổi khi các quỹ vốn chung lớn hơn được đem ra đầu tư và được các nhà quản lý tiền chuyên nghiệp (professional money managers) chứ không do bản thân các chủ vốn ấy triển khai trên thị trường.


Một nguồn vốn mới mẻ thuộc loại này là các quĩ hưu trí (pension funds). Trong những thập kỷ hậu chiến, khi các công nghiệp quan trọng của Hoa Kỳ ra đời từ Thế chiến II như là những tập đoàn có sức mạnh độc quyền (oligopolies) ít gặp cạnh tranh và có thị trường to lớn bành trướng ở bên trong cũng như bên ngoài nước Mỹ, lợi nhuận và viễn ảnh tương lai của những công ty này đã cho phép chúng cung ứng cho nhân viên của mình những chương trình hưu trí trong đó quyền lợi công nhân được qui định rõ ràng và công ty gánh chịu mọi rủi ro. Nhưng, từ thập niên 1970, vì môi trường kinh tế Hoa Kỳ trở nên giầu cạnh tranh hơn trước, lợi nhuận của các tập đoàn cũng trở nên bấp bênh hơn, và các công ty (cũng như nhiều tổ chức trong khu vực công) cố gắng chuyển hướng sự rủi ro bằng cách đặt các quỹ hưu trí vào tay các nhà quản lý tiền chuyên nghiệp, tức những chuyên gia được người ta kỳ vọng sẽ tạo ra lợi nhuận đáng kể. Lợi tức hưu trí của nhân viên không còn tùy thuộc vào lợi nhuận của các công ty họ từng phục vụ mà tùy thuộc vào số phận của các quỹ hưu trí.


Một nguồn vốn mới mẻ khác là các quỹ tài trợ (emdowments) cho các đại học và các tổ chức phi lợi nhuận thời gian đầu nhờ quyên góp (donations) mà phát triển, nhưng càng ngày người ta càng kỳ vọng chúng sẽ tăng trưởng hơn nữa nhờ thành tích của việc đầu tư chúng vào thị trường. Và còn có một nguồn vốn mới mẻ hơn nữa phát xuất từ các cá nhân và chính phủ trong thế giới đang phát triển, nơi mà sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, kết hợp với một xu thế tiết kiệm cao và một ước muốn bỏ vốn vào các dự án đầu tư tương đối an toàn, đã dẫn đến những luồng tiền to lớn chảy vào hệ thống tài chính Hoa Kỳ.


Được thúc đẩy một phần bởi những cơ hội mới mẻ này, các ngân hàng đầu tư truyền thống của Wall Street đã tự biến mình thành những tập đoàn có cổ phần được mua bán công khai trên sàn giao dịch – nghĩa là, những ngân hàng này bắt đầu đầu tư không những với ngân quỹ của chính mình mà còn với tiền của người khác – và ràng buộc tiền thưởng dành cho các đối tác và nhân viên của mình vào lợi nhuận hàng năm. Tất cả sự kiện này đã tạo ra một hệ thống tài chính cạnh tranh cao độ, bị khống chế bởi những nhà quản lý đầu tư có khả năng điều động những lượng vốn hùn hạp to lớn, và thù lao của họ tùy thuộc vào khả năng mang lại thành tích vượt trội hơn những người cùng địa vị. Cơ cấu tưởng thưởng trong môi trường này đã thúc đẩy các nhà quản lý quỹ đầu tư cố gắng tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn (maximize short-term returns), và sức ép này đã phần nào đổ xuống lãnh đạo các tập đoàn. Khung thời gian bị thu hẹp đã tạo ra một cám dỗ là phải thúc đẩy lợi nhuận trước mắt, bất chấp cả những đầu tư dài hạn, dù đó là lãnh vực nghiên cứu phát triển (research and development) hay đó là việc cải thiện các kỹ năng của lực lượng lao động trong một công ty. Đối với cả giới quản lý lẫn nhân viên, hậu quả của nỗ lực đầu tư này là một tình trạng xáo trộn thường xuyên làm gia tăng khả năng mất việc và bất an kinh tế.


Một nền kinh tế tư bản tiên tiến hẳn nhiên cần đến một khu vực tài chính rộng lớn. Một phần của điều đó là việc đơn giản nới rộng sự phân công lao động: giao các quyết định liên quan đến đầu tư cho các chuyên gia có nghĩa là cho phép phần còn lại trong dân chúng có được không gian trí tuệ (the mental space) để theo đuổi những gì mà họ thành thạo hơn hay quan tâm nhiều hơn. Tính phức tạp ngày càng gia tăng của các nền kinh tế tư bản ngụ ý rằng doanh nhân và lãnh đạo các tập đoàn cần đến người giúp đỡ trong việc quyết định thời điểm và phương cách gây vốn. Và các công ty quản lý đầu tư (private equity firms) mà quyền lợi gắn liền với sự gia tăng giá trị thực (real value) của các hãng mà chúng đầu tư, đóng vai trò chủ yếu trong việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Những vấn đề này, vốn là mối bận tâm chính đáng của các nhà tài chính, thường đưa đến những hậu quả quan trọng, và muốn xử lý chúng thì phải cần đến thông minh, cần mẫn, và động lực. Vì thế, chẳng phải là một điều đáng ngạc nhiên hay là một điều ngoài ý muốn khi các chuyên gia trong lãnh vực này được trả lương rất hậu. Nhưng dù những lợi ích và giá trị xã hội liên lũy của nó là gì đi nữa, tiến trình tài chính hóa xã hội (the financialization of society) vẫn mang lại một số hậu quả đáng tiếc, cả trong việc gia tăng tình trạng bất bình đẳng bằng cách nâng cấp giới chóp bu trên chiếc thang kinh tế (thông qua những phần thưởng phi thường mà giới quản lý tài chính nhận được), lẫn trong việc gia tăng tình trạng bất an kinh tế cho những thành phần ở nấc thang thấp hơn (thông qua việc tập trung cao độ vào thành tích kinh tế ngắn hạn mà phải loại bỏ các quan tâm dài hạn khác).


(Còn 1 kì)


__________________


Jerry Z. Muller là Giáo sư Sử học tại Catholic University of America và là tác giả cuốn The Mind and the Market: Capitalism in Western Thought (Trí tuệ và Thị trường: Chủ nghĩa Tư bản trong Tư tưởng phương Tây).


Nguồn: Jerry Z. Muller, “Capitalism and Inequality. What the Right and the Left Get Wrong”. Foreign Affairs, tháng Ba/tháng Tư 2013


Bản tiếng Việt © 2013 Trần Ngọc Cư & pro&contra


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 26, 2013 08:53

June 25, 2013

Chủ nghĩa tư bản và tình trạng bất bình đẳng. Cánh Hữu và cánh Tả sai lầm ở những điểm nào (1)

Jerry Z. Muller


Trần Ngọc Cư dịch


Dẫn nhập: Trong trận chiến ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, người ta có thể nói không sai là chủ nghĩa tư bản đã thắng. Thậm chí một số nước “cộng sản” như Trung Quốc và Việt Nam cũng đang ôm ấp một dạng thức nào đó của chủ nghĩa tư bản, mà có người gọi là “tư bản nhà nước”, hay một cách mỉa mai “tư bản đỏ”.


Dù dưới dạng thức nào đi nữa, ít ai có thể chối cãi rằng chủ nghĩa tư bản là đường lối hữu hiệu nhất để tạo ra đời sống thịnh vượng kinh tế cho xã hội loài người.


Trong bài tiểu luận sau đây, Giáo sư Jerry Z. Muller phân tích những đặc tính bất biến của chủ nghĩa tư bản, đó là tính năng động kinh tế cũng như tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế – những đặc tính luôn luôn đi với nhau như bóng với hình; như cái Thiện và cái Ác cùng tồn tại một lúc trong thân phận con người. Để đối phó với tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng trong thế giới tư bản tiên tiến, đặc biệt tại Hoa Kỳ, Muller nhấn mạnh sự cần thiết phải duy trì một chính sách nhà nước phúc lợi hợp lý để đảm bảo sự ổn định và hài hòa xã hội, đồng thời chống lại cả loại hình chính trị đặc quyền đặc lợi (politics of privilege) của cánh Hữu lẫn loại hình chính trị sách động hận thù (politics of resentment) của cánh Tả.


Trần Ngọc Cư


_______________


Cuộc tranh luận chính trị gần đây tại Hoa Kỳ và các nước dân chủ tư bản tiên tiến khác bị chi phối bởi hai vấn đề: sự gia tăng tình trạng bất bình đẳng kinh tế và mức độ can thiệp của chính phủ nhằm đối phó vấn đề này. Như cuộc tranh cử tổng thống Mỹ năm 2012 và những đấu đá chính trị về “bờ vực ngân sách” (the fiscal cliff) đã cho thấy, trọng tâm của cánh Tả hiện nay được dồn vào việc tăng thuế và chi tiêu của chính phủ, chủ yếu để đẩy lùi tình trạng phân hóa giai cấp xã hội đang ngày một gia tăng; trong khi đó, trọng tâm của cánh Hữu được đặt vào việc giảm thuế và cắt giảm chi tiêu, chủ yếu để đảm bảo tính năng động kinh tế. Bên này xem nhẹ những mối quan tâm của bên kia, và mỗi bên đều tỏ ra tin tưởng rằng những chính sách mà mình mong muốn có khả năng đảm bảo sự thịnh vượng và ổn định xã hội. Cả hai bên đều sai lầm.


Tình trạng bất bình đẳng đang thực sự gia tăng gần như khắp nơi trong thế giới tư bản hậu công nghiệp (postindustrial). Và dù cho nhiều người bên cánh Tả có nghĩ gì đi nữa, đây không phải là hậu quả chính trị, và chính trị không thể đảo ngược được nó, vì vấn đề này có gốc rễ sâu xa và bất trị hơn người ta có thể dễ dàng nhận ra. Bất bình đẳng kinh tế là một sản phẩm tất yếu của sinh hoạt tư bản chủ nghĩa, và việc mở rộng cánh cửa bình đẳng về cơ hội cũng chỉ làm tăng thêm tình trạng bất bình đẳng kinh tế mà thôi – vì một số cá nhân và một số cộng đồng giản dị là có khả năng hơn các cá nhân và cộng đồng khác trong việc khai thác những cơ hội mà chủ nghĩa tư bản cung ứng để phát triển và thăng tiến trong đời. Tuy nhiên, dù cho nhiều người bên cánh Hữu có nghĩ gì đi nữa, đây là một vấn đề chung cho tất cả mọi người, chứ không riêng gì cho những người làm ăn thất bát hay những người, trên bình diện ý thức hệ, quyết theo đuổi chủ nghĩa bình quân – bởi vì nếu không được giải quyết, tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế ngày một gia tăng có thể xói mòn trật tự xã hội và tạo ra một một phản ứng dân túy (populist) quật ngược lại hệ thống tư bản chủ nghĩa nói chung.


Trong vài thế kỷ qua, sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một bước nhảy vọt vĩ đại trong tiến bộ loài người, vừa đưa đến những tăng trưởng về mức sống vật chất mà trước đó không ai tưởng tượng nổi, vừa đưa đến sự phát triển mọi tiềm năng chưa từng thấy của con người. Nhưng, tính năng động nội tại trong bản thân chủ nghĩa tư bản lại tạo ra một tình trạng bất an đi kèm với những lợi lộc mà nó mang lại, vì thế sự tiến triển của chủ nghĩa này luôn luôn gặp chống đối. Thật ra, phần lớn lịch sử chính trị và cơ chế của những xã hội tư bản là lịch sử của những nỗ lực làm giảm bớt hoặc ngăn cản tình trạng bất an ấy, và chính việc tạo ra nhà nước phúc lợi (the welfare state) giữa thế kỷ 20 cuối cùng đã giúp chủ nghĩa tư bản và thể chế dân chủ cùng tồn tại tương đối hài hòa.


Trong những thập ká»· gần đây, những phát triển trong lãnh vá»±c công nghệ, tài chánh, và thương mại quốc tế đã tạo ra những làn sóng và hình thái bất an mới cho những nền kinh tế tư bản hàng đầu, làm cho đời sống ngày càng trở nên bất bình đẳng và nhiều rá»§i ro hÆ¡n, không những cho các tầng lớp hạ lưu và giới lao động mà còn cho một bộ phận không nhỏ cá»§a giai cấp trung lưu. Cánh Hữu gần như nhắm mắt làm ngÆ¡ trước vấn đề này, trong khi cánh Tả ra sức loại bỏ nó bằng hành động cá»§a chính phá»§, bất chấp phí tổn ngân sách. Cả hai đường lối này đều không khả thi trong dài hạn. Các thể chế tư bản đương đại cần phải chấp nhận rằng tình trạng bất bình đẳng và bất an kinh tế sẽ tiếp tục là kết quả tất yếu cá»§a các hoạt động thị trường và phải tìm cách che chắn người dân khỏi những hậu quả nghiêm trọng cá»§a chúng – đồng thời bằng một cách nào đó vẫn duy trì được tính năng động vốn tạo ra những lợi ích kinh tế và văn hóa to lớn cá»§a chá»§ nghÄ©a tư bản.


Thương phẩm hóa (Commodification) và bồi dưỡng văn hóa


Chủ nghĩa tư bản là một hệ thống gồm các quan hệ kinh tế và xã hội được xác định bởi quyền tư hữu, bởi việc trao đổi hàng hóa và các dịch vụ do những cá nhân tự do, và bởi việc sử dụng các cơ chế thị trường để kiểm soát việc sản xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ. Một số yếu tố tư bản chủ nghĩa đã tồn tại trong xã hội loài người qua nhiều thời đại, nhưng mãi đến thế kỷ 17 và 18, tại nhiều nước châu Âu và thuộc địa của chúng tại Bắc Mỹ, các yếu tố này mới kết hợp thành lực lượng. Suốt lịch sử trước đó, gần như mọi hộ gia đình đều tiêu thụ hầu hết những thứ tự mình sản xuất ra và sản xuất hầu hết những thứ mà mình tiêu thụ. Mãi đến thời điểm này, đại đa số dân chúng tại một số nước mới bắt đầu mua hầu hết những thứ mà họ tiêu thụ và họ làm được điều này nhờ số tiền họ thu được từ việc bán hầu hết những thứ mà họ sản xuất.


Sự phát triển các hộ gia đình theo định hướng thị trường (market-oriented households) và cái gọi là “xã hội thương mại” có ý nghĩa sâu sắc đối với mọi khía cạnh của sinh hoạt loài người. Trước khi có chủ nghĩa tư bản, đời sống con người bị chi phối bởi những định chế truyền thống luôn luôn đặt những lựa chọn và định mệnh của cá nhân dưới sự khống chế của các cơ cấu cộng đồng, chính trị, và tôn giáo khác nhau. Những định chế này cho phép xã hội thay đổi ở mức tối thiểu, ngăn cản không cho người dân tiến bộ nhiều nhưng đồng thời cũng che chắn họ khỏi những dâu bể của cuộc đời. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản cho các cá nhân nhiều khả năng làm chủ và chịu trách nhiệm về cuộc đời mình hơn bao giờ hết – điều này vừa khai phóng vừa đáng sợ, khiến cả tiến bộ lẫn thoái hóa đều có thể.


Thương phẩm hóa (commodification) – sá»± chuyển đổi các hoạt động được thá»±c hiện để sá»­ dụng riêng tư thành các hoạt động được thá»±c hiện để bán trên thị trường mở rộng – cho phép dân chúng sá»­ dụng thì giờ hiệu quả hÆ¡n, chuyên biệt hóa trong việc sản xuất những thứ mà họ tương đối rành nghề và mua các thứ khác từ người khác. Các hình thái thương mại và chế tạo mới đã sá»­ dụng sá»± phân công (division of labor) để sản xuất những mặt hàng gia dụng thông thường với giá rẻ và cÅ©ng tạo ra một loạt hàng hóa mới. Như sá»­ gia Jan de Vries nhận xét, kết quả cá»§a sá»± kiện này là điều mà người đương thời gọi là “một sá»± đánh thức những thèm khát cá»§a trí óc” – nới rộng những sở thích cá nhân và tạo ra một cảm thức chá»§ quan mới mẻ về các nhu cầu. Sá»± bành trướng nhu cầu đang diễn ra hiện nay đã từng bị những người bài bác chá»§ nghÄ©a tư bản từ Rousseau đến Marcuse đả kích là đã giam hãm con người trong chiếc lồng làm bằng những ham muốn phản tá»± nhiên (unnatural desires). Nhưng nó lại được những người bênh vá»±c kinh tế thị trường từ Voltaire trở về sau ca ngợi là đã mở rộng tiềm năng cá»§a con người. Theo quan điểm này, nỗ lá»±c phát triển và đáp ứng những đòi hỏi và nhu cầu cao hÆ¡n là yếu tính (essence) cá»§a văn minh.


Vì có khuynh hướng coi các thương phẩm (commodities) là vật thể hữu hình, chúng ta thường bỏ qua cái mức độ mà việc tạo ra và phân phối ngày càng rẻ các thương phẩm văn hóa mới đã mở rộng, những gì mà ta có thể gọi là “các phương tiện trau dồi bản thân” (the means of self-cultivation). Vì lịch sá»­ cá»§a chá»§ nghÄ©a tư bản cÅ©ng là lịch sá»­ phát triển truyền thông, thông tin, và giải trí – vừa là phương tiện vừa là đối tượng cá»§a tư duy (things to think with, and about).


Trong số những thương phẩm hiện đại xuất hiện sớm nhất, phải kể đến các ấn phẩm (ví dụ đầu tiên là cuốn Kinh Thánh), và việc chúng ngày một rẻ và dễ kiếm còn có ý nghĩa lịch sử hơn cả sự phát triển của máy nổ, chẳng hạn. Điều này cũng đúng với sự phổ biến của giấy in, cho phép nhật báo và tạp chí ra đời. Những phát kiến này lại làm phát sinh các thị trường mới về thông tin và nghề thu thập và phân phối tin tức. Vào thế kỷ 18, việc đưa tin từ Ấn Độ đếnLondonphải mất hàng tháng; ngày nay, chỉ cần trong chốc lát. Sách báo và tin tức đã giúp nới rộng không những tầm hiểu biết mà còn phát triển trí tưởng tượng của chúng ta, khả năng thông cảm với đồng loại và tưởng tượng như thể chính bản thân chúng ta đang được sống trong những lối sống tân kỳ. Chủ nghĩa tư bản và tiến trình thương phẩm hóa vì vậy đã thúc đẩy cả chủ nghĩa nhân đạo lẫn các hình thức mới mẻ trong việc tự phát minh chính mình (new forms of self-invention).


Trong thế kỷ vừa qua, các phương tiện bồi dưỡng văn hoá được phát triển nhờ việc phát minh máy ghi âm, phim ảnh, và truyền hình, và cùng với sự trỗi dậy của Internet và máy vi tính trong nhà, những chi phí của việc tiếp thu kiến thức và văn hoá đã giảm bớt nhanh chóng. Đối với những người nằm trong xu thế này, việc phát triển các phương tiện bồi dưỡng văn hóa đã tạo điều kiện mở mang kiến thức của con người ở mức gần như không thể tưởng tượng nổi.


Gia đình đóng vai trò quan trọng


Tuy nhiên, nếu chủ nghĩa tư bản đã mở ra nhiều cơ hội hơn bao giờ hết cho sự phát triển tiềm năng con người, thì không phải ai cũng có thể tận dụng những cơ hội ấy hay có thể tiến xa hơn nữa sau khi nắm được cơ hội. Chẳng hạn, lịch sử đã chứng minh, nhiều rào cản chính thức hoặc không chính thức đối với sự bình đẳng về cơ hội đã ngăn cản nhiều bộ phận dân chúng khác nhau – như phụ nữ, dân tộc thiểu số, và giới nghèo – không cho phép họ hưởng đầy đủ tất cả những gì mà chủ nghĩa tư bản cống hiến. Nhưng qua thời gian, trong thế giới tư bản tiên tiến, những rào cản ấy đã dần dần được hạ thấp hay tháo gỡ, nhờ vậy ngày nay người ta có thể tiếp cận cơ hội đồng đều hơn bao giờ hết. Tình trạng bất bình đẳng đang tồn tại ngày nay, do đó, phát sinh vì thiếu cơ hội đồng đều thì ít,  mà vì khả năng không đồng đều trong việc khai thác cơ hội thì nhiều. Và khả năng không đồng đều đó lại phát xuất từ những khác biệt trong tiềm năng bẩm sinh mà các cá nhân có từ khi chào đời và trong cung cách mà gia đình và cộng đồng giúp đỡ và khuyến khích tiềm năng con người phát triển.


Trong việc hình thành khả năng và khuynh hướng của cá nhân để vận dụng các phương tiện bồi dưỡng văn hóa mà chủ nghĩa tư bản cung ứng, đề cao vai trò của gia đình đến đâu cũng không đủ. Hộ gia đình không chỉ là nơi tiêu thụ và truyền giống. Nó còn là bối cảnh chính trong đó trẻ em được xã hội hóa, được giáo dục, và trở thành văn minh, trong đó các thói quen của chúng được phát triển để sau đó lại ảnh hưởng đến số phận chúng trong tư cách người dân và tác nhân thị trường Theo ngôn ngữ của kinh tế học đương đại, gia đình là một workshop (phân xưởng) trong đó vốn con người (human capital) được tạo ra.


Qua thời gian, gia đình đã ảnh hưởng đến chủ nghĩa tư bản bằng cách tạo ra những nhu cầu mới đối với những hàng hoá mới. Gia đình cũng thường xuyên bị chủ nghĩa tư bản khuôn nắn vì những hàng hóa mới và phương tiện sản xuất mới đã thúc đẩy các thành viên trong gia đình sử dụng thời gian theo lối mới. Vào thế kỷ 18, khi các hàng tiêu thụ mới bắt đầu xuất hiện với giá rẻ hơn bao giờ hết, các hộ gia đình dồn nhiều thì giờ hơn cho các hoạt động theo xu thế thị trường, với tác động tích cực  đến khả năng tiêu thụ của họ. Mặc dù ban đầu đồng lương của đàn ông có lẽ đã thực sự suy giảm, nhưng lương của cả vợ, chồng, con cái cộng lại đã nâng tiêu chuẩn tiêu thụ (standards of consumption) cao hơn trước. Nhưng, việc tăng trưởng kinh tế và mở rộng các chân trời văn hóa không cải thiện mọi phương diện của đời sống cho mọi người. Việc con cái của giai cấp lao động có thể kiếm tiền từ tuổi vị thành niên đã khuyến khích chúng sao lãng học hành và sự thiếu lành mạnh của một số hàng hoá mới xuất hiện (bánh mì trắng, đường, thuốc lá, rượu mạnh) cho thấy tiêu chuẩn tiêu thụ tăng cao không luôn luôn đồng nghĩa với sự cải thiện sức khỏe và tuổi thọ con người. Và khi thời gian lao động của người phụ nữ được tái phối trí từ việc phục vụ gia đình sang phục vụ thị trường, các tiêu chuẩn vệ sinh có vẻ suy giảm, gia tăng rủi ro bệnh tật.


Cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, người ta chứng kiến sự phát triển từng bước của các phương tiện sản xuất mới khắp các khu vực kinh tế. Đây là thời đại cơ khí, có đặc tính là các nguồn lực vô cơ (chủ yếu là máy hơi nước) ngày càng thay thế các nguồn lực hữu cơ (người và súc vật), một tiến trình đã gia tăng năng suất rất lớn. Khác hẳn trong một xã hội chủ yếu dựa vào nông nghiệp và tiểu công nghệ gia đình, việc chế tạo hàng hoá bây giờ ngày càng diễn ra trong những công xưởng được xây dựng chung quanh các cỗ máy tân kỳ nhưng quá kềnh càng, quá ồn ào, và quá dơ bẩn, không thể chứa trong nhà. Công ăn việc làm do đó ngày càng tách khỏi hộ gia đình, một chuyển biến rốt cuộc đã thay đổi cơ cấu gia đình.


Thoạt đầu, các chá»§ nhân cá»§a những nhà máy công nghiệp hóa mới mẻ này đã tuyển dụng phụ nữ và trẻ em vào làm công nhân vì họ là những người dễ sai bảo và dễ ká»· luật hÆ¡n đàn ông. Nhưng vào ná»­a sau cá»§a thế ká»· 19, người nam công nhân trung bình ở Anh được hưởng sá»± gia tăng đáng kể và bền vững cá»§a đồng lương đích thá»±c; vì vậy, một sá»± phân công mới đã diễn ra ngay trong phạm vi gia đình, theo đường ranh giới tính. Nhờ sức mạnh thể chất cho họ một ưu thế tương đối trong việc sản xuất, nam giới ngày càng làm việc đông đảo trong các nhà máy với đồng lương thị trường đủ cao để nuôi cả gia đình. Tuy vậy, thị trường cá»§a thế ká»· 19 chưa thể cung cấp những hàng hóa để tạo ra sá»± sạch sẽ, vệ sinh, các bữa ăn bổ dưỡng, và việc trông nom chu đáo các trẻ em. Trong giới thượng lưu, những dịch vụ này có thể được đầy tớ cung ứng. Nhưng đối với hầu hết mọi gia đình, những dịch vụ này ngày càng được các bà vợ cung ứng. Tình trạng này đã phát sinh ra mô hình gia đình chồng đi kiếm cÆ¡m – vợ lo nội trợ (the breadwinner-homemaker family), dá»±a trên sá»± phân công theo giới tính. Theo de Vries, nhiều cải tiến về sức khỏe, tuổi thọ, và giáo dục từ giữa thế ká»· 19 đến giữa thế ká»· 20, có thể được lý giải bởi việc tái phân bố (realloacation) lá»±c lượng lao động phụ nữ từ thị trường về với hộ gia đình và, sau cùng, tái phân bố giới thiếu niên từ thị trường về với học đường, khi trẻ em rời bỏ lá»±c lượng lao động để đến trường.


Tính năng động và sự bất an


Trong phần lớn lịch sử nhân loại, cội nguồn chính cho nỗi bất an của con người là thiên nhiên. Như Marx nhận xét, trong những xã hội như thế, hệ thống kinh tế hướng đến ổn định – và bế tắc. Những xã hội tư bản, trái lại, từ trước đến nay vẫn hướng tới sáng kiến và tính năng động, tới sự sáng tạo tri thức mới, sản phẩm mới, phương thức sản xuất và phân phối mới. Tất cả những điều đó đã chuyển vị trí của tình trạng bất an từ thiên nhiên sang kinh tế.


Hegel đã nhận xét vào những năm 1820 rằng đối với con người trong một xã hội thương mại đặt cơ sở trên mô hình chồng kiếm cơm-vợ lo việc nhà (the breadwinner-homemaker model), ý thức về giá trị bản thân và thế giá của mỗi người được gắn liền với công ăn việc làm. Điều này đặt ra một vấn đề, vì trong một nền kinh tế thị trường tư bản năng động, thất nghiệp là một khả năng hiển nhiên. Sự phân công lao động do thị trường tạo ra có nghĩa là nhiều công nhân có các kỹ năng được chuyên biệt hóa cao độ (highly specialized) và chỉ thích hợp với một số công việc rất hạn hẹp. Thị trường tạo ra những nhu cầu thường xuyên thay đổi, và do đó khi nhu cầu đối với sản phẩm mới gia tăng thì nhu cầu đối với sản phẩm cũ giảm bớt. Những người có cuộc đời gắn bó với một vai trò nhất định trong việc sản xuất ra những sản phẩm lỗi thời thường bị thất nghiệp và không có tay nghề để kiếm việc làm mới. Và việc cơ giới hóa hoạt động sản xuất cũng dẫn đến nạn thất nghiệp. Nói cách khác, ngay từ lúc khởi đầu, tính sáng tạo và sự đổi mới trong chủ nghĩa tư bản công nghiệp đã đi đôi với nỗi bất an của các thành viên trong lực lượng lao động như bóng với hình.


Marx và Engels đã phác họa tính năng động, nỗi bất an, sự cải tiến các nhu cầu, và việc mở rộng các khả năng văn hóa của chủ nghĩa tư bản trong Tuyên ngôn Cộng sản như sau:


“Thông qua việc bóc lột thị trường thế giới, giai cấp tư sản đã cho sản xuất và tiêu dùng một tính chất quốc tế. Nó rút phắt nền tảng quốc gia trụ dưới chân công nghiệp, khiến các thế lá»±c phản động cá»±c kỳ khó chịu. Các ngành công nghiệp quốc gia lâu đời đã bị tiêu diệt và đang hàng ngày bị tiêu diệt. Chúng bị choán chỗ bởi những ngành công nghiệp mới mà sá»± xuất hiện trở thành một vấn đề sống còn với mọi quốc gia văn minh, những ngành công nghiệp không còn sá»­ dụng nguyên liệu bản xứ mà sá»­ dụng nguyên liệu khai thác từ những vùng xa xôi nhất, những ngành công nghiệp mà sản phẩm được tiêu thụ không chỉ trong nước mà ở khắp mọi nÆ¡i trên hoàn cầu. Thay cho những nhu cầu cÅ© được thỏa mãn bằng sản phẩm nội địa, chúng ta thấy những nhu cầu mới, đòi được thỏa mãn bằng các sản phẩm từ các vùng đất và vùng khí hậu xa xôi. Thay cho sá»± cô lập và tá»± túc cố hữu cá»§a địa phương và quốc gia là giao lưu mọi hướng và sá»± phụ thuộc phổ quát giữa các quốc gia.”


Đến thế kỷ 20, nhà kinh tế Joseph Schumpeter sẽ triển khai trên những luận điểm này cái ý niệm cho rằng chủ nghĩa tư bản có đặc tính “hủy hoại sáng tạo”, trong đó các sản phẩm, các hình thức phân phối và tổ chức mới sẽ đào thải các hình thức cũ hơn. Nhưng khác với Marx, là người chỉ thấy nguồn gốc của tính năng động này trong cuộc tìm kiếm “tư bản” quái gở (mà ông cho là bóc lột giai cấp công nhân), Schumpeter tập trung vào vai trò của doanh nhân là người có sáng kiến, biết đưa vào thị trường các hàng hóa mới và khám phá các thị trường và các phương pháp mới.


Tính năng động và tình trạng bất an do chủ nghĩa tư bản công nghiệp thế kỷ 19 tạo ra đã dẫn đến sự thành lập các định chế mới để giảm bớt bấp bênh kinh tế, bao gồm tập đoàn trách nhiệm hữu hạn, nhằm giảm bớt rủi ro cho người đầu tư; các công đoàn, nhằm cải tiến lợi ích của người lao động; các hội tương trợ, nhằm cho vay nợ và cung cấp bảo hiểm chôn cất (burial insurance); và ngành bảo hiểm nhân thọ thương mại. Vào những thập niên giữa thế kỷ 20, nhằm đối phó nạn thất nghiệp tràn lan và cảnh khốn cùng do cuộc Đại khủng hoảng kinh tế gây ra (cũng như do sự thành công chính trị của chủ nghĩa cộng sản và phát-xít, một sự thành công đã thuyết phục nhiều nhà dân chủ rằng một tình trạng quá bấp bênh về kinh tế là mối đe dọa cho chính bản thân thể chế dân chủ tư bản chủ nghĩa), các nước dân chủ phương Tây đã chọn chính sách nhà nước phúc lợi (the welfare state). Nhiều quốc gia khác nhau đã sáng tạo nhiều kết hợp khác nhau gồm các chương trình cụ thể, nhưng các nhà nước phúc lợi mới mẻ này có nhiều điểm giống nhau, trong đó có chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm thất nghiệp cũng như nhiều biện pháp khác nhau để hỗ trợ các gia đình.


Sự bành trướng của nhà nước phúc lợi vào những thập niên sau Thế chiến II đã diễn ra vào một thời điểm mà các nền kinh tế tư bản đang tăng trưởng nhanh chóng. Sự thành công của nền kinh tế công nghiệp đã cho phép chuyển một số lợi nhuận và tiền lương vào các mục đích chính phủ thông qua việc đánh thuế. Sự phát triển dân số thời hậu chiến, trong đó mô hình gia đình chồng đi làm-vợ nội trợ (the breadwinner-home maker model) chiếm số đông, cũng rất phù hợp, vì tỉ lệ sinh cao vừa phải đã tạo ra một tỉ lệ thích hợp giữa số công nhân năng động và những người lệ thuộc [vợ con]. Cánh cửa cơ hội giáo dục được mở rộng, khi các đại học ưu tú gia tăng việc nhận sinh viên căn cứ vào thành tích học tập và tiềm năng của họ, và càng ngày càng có nhiều người theo học tại các cơ sở giáo dục cấp cao hơn. Các rào cản không cho phép phụ nữ và người thiểu số tham gia trọn vẹn vào đời sống xã hội cũng bắt đầu sụp đổ. Kết quả của tất cả những điều đó là một tình trạng quân bình tạm thời, trong đó các nước tư bản tiên tiến trải qua một thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đa số dân chúng có công ăn việc làm, và tương đối có bình đẳng kinh tế-xã hội.


(Còn 3 kì)


_________


Jerry Z. Muller là Giáo sư Sử học tại Catholic University of America và là tác giả cuốn The Mind and the Market: Capitalism in Western Thought (Trí tuệ và Thị trường: Chủ nghĩa Tư bản trong Tư tưởng phương Tây).


Nguồn: Jerry Z. Muller, “Capitalism and Inequality. What the Right and the Left Get Wrong”. Foreign Affairs, tháng Ba/tháng Tư 2013


Bản tiếng Việt © 2013 Trần Ngọc Cư & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 25, 2013 08:02

June 24, 2013

Chất phồn thực trong “Đĩ thúi” của Nguyễn Viện

Nguyễn Lệ Uyên


Truyện Kiều của Nguyễn Du, sau khi được khắc bản in, lập tức có sức lan toả rộng rãi trong quần chúng. Tính phổ quát của Truyện Kiều hơn hẳn những tác phẩm trước và sau nó để, từ tầng lớp bình dân cho chí các trí thức khoa bảng đều có các đánh giá khác nhau qua mỗi thời đại. Bởi ở đó, từ những nhân vật trong truyện, mỗi người có thể tìm ra những vấn đề tương đồng, những cá tính từng nhân vật như một phiên bản luôn có mặt như những thực thể sinh động trong mọi thời đại.


Đó cÅ©ng là lý do tại sao, kể từ khi có chữ viết riêng (Quốc ngữ), có báo chí, Truyện Kiều được mang ra mổ xẻ khá kỹ, với nhiều luồng trái ngược nhau. Dưới con mắt các nhà nho luôn ôm Luận ngữ, Đại học… làm sách gối đầu như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng thì Truyện Kiều chỉ là loại dâm thư không hÆ¡n kém: “Nói cho đúng ra Truyện Kiều chỉ là một dâm thư, rõ ràng không có ích gì mà có hại”.  Trong khi đó, những Phạm Quỳnh, Chu Mạnh Trinh thì lại hết lòng ca ngợi, xem Truyện Kiều như một loại “ngọc tỉ” truyền quốc: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn. Tiếng ta còn thì nước ta còn” – (Phạm Quỳnh).


Sức sống của Truyện Kiều không chỉ ở nội dung, nghệ thuật miêu tả trong thể loại thi ca đặc hữu của ViệtNam: Lục bát; mà còn ở tính cách của từng nhân vật. Những mẫu người như Kiều, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Sở Khanh, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến… thời đại nào chúng ta cũng có thể nhìn thấy họ hiển lộ, trong những con người khác, một cách đậm đặc. Có lẽ vì thế, các nhân vật này luôn là nguồn cảm hứng cho dòng văn học Việt Nam hậu Tự lực Văn đoàn, đặc biệt là dòng văn học miền Nam trước 1975.


Nguồn cảm hứng ấy, không chỉ dừng lại ở một Dương Nghiễm Mậu với một Từ Hải bất lực mà, hôm nay còn lan rộng ra với một Nguyễn Viện. Bằng một nhãn quan khác, ông cầm chiếc đũa của gã phù thuỷ, đẩy họ lên sân khấu, diễn lại tấn tuồng thời đại: Ở đó là cả một sự ô-uế-thánh-thiện, cưỡng-hiếp-toàn-bích, bỉ-ổi-sáng rực, lưu-manh-hoàn-hảo… nhất so với các nhân vật lưu manh mà ta từng đọc ở các tiểu thuyết Âu Á.


[image error]Nếu như hơn hai trăm năm trước, Nguyễn Du đã gom dắt bầy con cháu nhà Hán từ tay Thanh Tâm Tài Nhân, rồi gia công qua 3.245 câu lục bát để thành những con người mang thân phận tiêu biểu nhất, trong xã hội phong kiến đầu thế kỷ XIX; thì ngày nay Nguyễn Viện đã mượn các nhân vật này của Nguyễn Du từ tay Nguyễn và hoá thân đúng theo chức năng của một ông “bầu sô”, kéo dắt họ (các nhân vật) ra trước ánh đèn màu, cho họ nhập đồng, lên vai trong tư thế đồng đẳng với thời đại. Đó là thời đại tan tác, ươn sình mà người đọc chỉ có thể tìm thấy sự lừa lọc, lưu manh của loại hảo-hán-trí-thức-a-tu-la. Những phẩm hạnh và đạo đức làm người bị dục vọng thấp hèn thế chỗ. Thời đại đã dựng lên những con người như thế. Và những con người đó lại khoác lên mình dáng dấp như loại “chó nhà tang”[i] nhảy bàn độc, nắm thóp thời đại mà quay, mà ném, mà lia. Đây là  chiếc chong chóng khổng lồ của một triều đại không được đặt tên bởi tính chất nhân bản không có chỗ đứng xứng hợp; chỉ có thể xem đây là “thế giới của ảo tượng văn chương” như Nguyễn Viện thừa nhận.


Từ thế giới đã được xác lập, ở Đĩ thúi, sau khi khép lại những dòng cuối cùng, tôi không hề nghĩ ông viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo, hay “phản tiểu thuyết” như Phạm Thị Hoài nhận xét: “phản lịch sử, phản hư cấu, phản hiện thực và phản tiểu thuyết này… bước thẳng ra từ hư cấu và lịch sử để lăn lộn trên một bàn cờ thế sự quái đản mà tất cả chúng ta dường như đều có mặt”, mà ông đã sử dụng tính chất phồn thực (fertilité) tồn tại hàng ngàn năm nay trên thế gian này, lồng vào hiện thực thời đại để gửi đi nỗi bi phẫn và trách nhiệm nhà văn trước một xã hội đầy những mưu toan, bất trắc.


Đọc Đĩ thúi, điều chúng ta dễ dàng nhận ra, là tất cả các nhân vật chỉ có bộ mặt mà thiếu vắng một tấm lòng; tấm lòng ấy, có chăng chỉ có ở Kiều Nhi, Đạm Tiên và Thuý Kiều, khi họ hợp sức mở quán bia ôm, tân trang trinh tiết phục vụ tận tình đấng mày râu theo phương châm “ăn bánh trả tiền”. Chí ít, việc các em “bành chân dạng háng” được khẳng định “là một thứ lao động giản đơn thuần tuý kinh tế thị trường” và trên hết “nó là một quá trình hình thành bởi các cuộc cách mạng công nghệ và ý thức hệ”.


Với Kiều, tài và sắc của nàng, được Nguyễn Du mô tả là toàn vẹn. Khốn thay, xã hội nàng đang sống không cho phép nàng sử dụng nhan sắc và tài hoa để trở thành nhân vật danh giá, chí ít là để làm người chính danh! Thuyết “tài mệnh tương đố” từ Nguyễn Du đã đẩy nàng trở về với tâm thế của người đàn bà bước vào con đường phồn thực thênh thang. Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề là khởi đầu hành trạng của Kiều từ lúc nàng phải bán mình chuộc cha theo qui chuẩn đạo đức “chó nhà tang” của Khổng Tử. Trước đây mấy trăm năm, Kiều đã là sự hoàn thiện của các ngón ăn chơi đĩ thoã, thì nay, một Mã Kiều Nhi, vốn là nguyên mẫu của Thúy Kiều trong lịch sử, xuất hiện trở lại như một nàng Kiều thứ hai và đồng thời, dưới mắt Nguyễn Viện, Kiều Nhi có thừa các ngón nghề tuyệt kỹ, là sự kết tinh của nền văn hoá lầu xanh, của các cung A Phòng, chốn hậu cung của quyền lực tối thượng, xứng với tầm cao thời đại: “Đó là một Mã Kiều Nhi tài hoa. Cầm kỳ thi hoạ đủ món ăn chơi vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề, đặc biệt là món thổi kèn điêu luyện theo đúng tinh thần Karma Yoga”.


Mã Kiều Nhi dưới ngòi bút của Nguyễn Viện, là cô gái xinh đẹp và e lệ. Vì vậy e lệ được xem như thuộc tính của phái nữ. Nhưng khi làm người, đã là con người, thì mọi chuyển động về sinh lý, buộc phải tuần hoàn theo một chiều kích tự nhiên: “Xinh đẹp và e lệ thì cũng đến lúc phải đi tiểu… vì thế nàng đã phải đi hơi xa để tìm một chỗ kín đáo”. Thực ra, Mã Kiều Nhi cũng chẳng cần kín đáo làm gì, đơn giản là nàng muốn giấu tung tích gái giả trai để vượt biên, dễ dàng tung hoành trên miền đất mới.


Và, kể từ khi bước chân qua biên giới, được sự hỗ trợ đắc lực của Đạm Tiên, Mã Kiều Nhi bắt đầu thể hiện tài năng “kéo đầu từng người áp vào hĩm nàng” để trở thành “một thương hiệu toàn cầu và mang tính phổ quát”. Nàng đã trở thành “đĩ quốc tế”. Nàng rơi vào vòng sa đoạ nhưng cũng chưa hẳn là vong thân, bởi các đối tượng đến với nàng đều cần nàng từ một nhu cầu gốc, cho nên “tất cả đều tôn thờ nàng. Nhưng tất cả đều miệt thị nàng”. Nàng biết vượt lên trên vũng lầy để trở thành “người của bá tánh, vì bá tánh và cho bá tánh”. Ý thức một cách rõ ràng về triết lý nhân sinh “mình vì mọi người và mọi người vì mình”, tức khái niệm vay trả sòng phẳng nên nàng ngẩng cao tâm hồn để làm đẹp thân xác: “bành hai chân, dạng háng uy nghi trước mọi nền văn minh nhân loại”.


Xem ra nhân cách và đạo đức làm người của Mã Kiều Nhi vẫn có chút gì đó cao đẹp hơn nhiều lần so với những nhân vật khác, bởi tính cách “vì mọi người” của nàng “Tôi chỉ thiếu mỗi danh hiệu áp trại phu nhân thôi, tuy nhiên thỉnh thoảng tôi cũng cho các anh cai tù bóp vú một cách kín đáo”. Đó là chưa kể, cả “tập đoàn đĩ” và cụ tổ Bạch Mi cũng thừa tình thương với kẻ hoạn nạn, ra tay cứu vớt quan đầu triều Hồ Tôn Hiến nằm mộng thấy mình gặp rắc rối, dẫu biết Hồ là loại người lưu manh thượng đẳng: “Tôi có những giấc mơ giữa ban ngày. Đại thể, đó là những sinh linh, không, không phải những sinh linh, mà là những ngọn cỏ. Trên đầu ngọn cỏ có những cái miệng. Những cái miệng đó phun ra máu làm đỏ cả bầu trời. Vâng, cỏ non xanh rợn chân trời và máu tươi chói lọi tầng không. Còn ban đêm thì lại khác cô ạ. Đêm trắng. Trắng không có bất cứ cái gì hiện hữu. Tôi không an tâm.”


Người luôn cảm thông, được chia sẻ và gần gũi với Kiều Nhi là Nguyễn. Chàng luôn bị mặc cảm làm người giày vò, bởi thân phận trí thức thuộc loại “hàng thần lơ láo”. Nguyễn vừa công nhận, vừa phủ nhận Kiều Nhi là đĩ quốc tế, để sau đó, khi đưa lên bàn cân tình cảm, chàng lại xác quyết rằng: nàng là một cô gái vẹn toàn tiết trinh. Đĩ chỉ là cái vỏ bọc. Đĩ chỉ tồn tại ở thân xác. Nhưng tâm hồn thì hoàn toàn trong trắng. Ở đâu và lúc nào, Nguyễn cũng thấy “nàng luôn luôn trinh bạch”. Chàng đã khám phá “khuôn mặt thật của em dưới lớp da nhân tạo” luôn là một trinh tiết mới mẻ mỗi khi chàng gần gũi Kiều Nhi và Đạm Tiên. Nó vượt qua sự ô uế để mỗi lúc một gần hơn với cái đẹp muôn thuở. Niềm tin đó đã xác quyết trong con người chàng, luôn là điều xác tín: “Nguyễn thấy mình căng phồng như một quả bóng. Nhục dục và siêu thoát… Trong một chớp loé sáng của ý thức, Nguyễn thấu cảm ngẫu tượng tôn giáo của Linga và Yoni” ngay cả khi chàng ngủ với nàng trong nhà trọ bị công an bắt giữ, tống giam.


Khoảng không gian vừa rộng vừa hẹp mà tập đoàn Mã Kiều Nhi hoạt động, thoạt nhìn, có vẻ như những nhà thổ hạ cấp, đôi khi rất gần với những nhà trọ, phòng ngủ nhan nhản khắp mọi hang cùng ngõ hẻm ở một xứ sở vĩ đại, đồng bóng ngày nay. Hành trạng của họ qua ngòi bút Nguyễn Viện, chưa thấy bày ra cảnh nhếch nhác, ô uế; trái lại, nó vượt lên trên, hết thảy và trở thành những thiên sứ đáng nể phục.


Đã đành, khẩu hiệu đồng thời là mục tiêu đề ra của họ là “ăn bánh trả tiền”. Đành rằng họ là giai cấp đĩ bị khinh miệt. Nhưng cũng có lúc, chính những kẻ lưu manh, những tên bán buôn lịch sử đã phải cần đến họ, quỵ luỵ trước bản thân vừa nhơ nhớp trong suốt vừa trinh bạch thanh cao của họ. Chính Hồ Tôn Hiến, một thượng đẳng công thần lừng lững, quyền uy đỏ rực từ đầu đến đít cũng phải tất tả cầu cứu các nàng:


Một trăm ngày sau, trước bàn thờ Bạch Mi là Vương Thuý Kiều loã thể nằm trên tấm thảm có in hình trống đồng Đông Sơn. Rượu Minh Mạng 14 ly đặt chung quanh. Đạm Tiên đứng thắp hương vái lạy thần tổ…


…  Hồ Tôn Hiến thưa: “Làm thế nào để bảo toàn gia nghiệp?”


Bạch Mi phán: “Cất giữ vàng thật, phát hành tiền giả.”


Hồ Tôn Hiến thưa: “Làm thế nào để tiêu diệt kẻ thù?”


Bạch Mi phán: “Muốn tiêu diệt thù ngoài thì phải củng cố nội lực. Muốn tiêu diệt thù trong thì phải gia tăng âm phúc. Muốn làm được cả hai việc đó thì trước hết phải xây dựng lại tổ đình xã tắc.”


Hồ Tôn Hiến thưa: “Còn muốn bảo toàn tính mạng?”


Bạch Mi phán: “Bồi dưỡng chân khí bằng miên trường âm hộ cá»§a trinh nữ thuần Việt. Muốn hỏi gì nữa không? Đã đến giờ ta thượng hưởng.”


Các nhân vật của Nguyễn Viện đều bước ra từ thế giới của ảo tượng, trên nền tảng văn hoá văn minh phồn thực đã hiển lộ từ lâu và tiếp tục tồn tại. Truyền thống văn hoá Linga và Yoni vẫn tồn tại khi cái ý thức truyền thống không bị mai một, ngược lại đang được phát huy dưới cái nhãn “đậm đà bản sắc dân tộc” thì sẽ vẫn cần những Đạm Tiên như một hữu thể tồn tại: “tượng Linga dâng cúng cho Đạm Tiên không có đế, vì thế nó trở thành cái đế cho Yoni Đạm Tiên vì sự to lớn của nó. Nàng vẫn ngồi trên tượng Linga này trong tất cả mọi lúc rảnh rỗi. Đạm Tiên bảo:”nó đâm thấu suốt em”.


Nguyễn Viện đã thấu suốt, đã dẫn ra. Vì vậy văn hoá phồn thực sẽ tiếp tục trong thời đại chúng ta và mãi mãi, cho đến khi nào bầy người lúc nhúc biến mất khỏi trái đất này!


Nguyễn là nhân vật điển hình đang bơi trong vùng không khí loãng của thời đại. Tri thức không giúp gì cho chàng khi đối mặt với những nghịch cảnh buộc phải sa vào. Nội việc phải đi tù lần thứ hai vì tội viết đơn thuê cho dân oan khiếu kiện vẫn là một quán tính nghiện ngập của trí thức, đúng như nhận xét của trùm an ninh nội chính Thúc Sinh: “cả ông Nguyễn cũng sẽ phải biến thái như cậu.Vì đó là guồng máy, không cho phép bất cứ ai có bản sắc cá biệt”.


Trong vũng lầy, Nguyễn cố gắng vũng vẫy, cố gắng trồi lên bên trên vùng trơn nhớt, nhầy nhụa. Chàng nói: “Vâng, chúng ta cần sống như những người văn minh” sau khi nghe Từ Hải thay đổi sách lược (được chỉ đạo từ trên): “Đã qua cái thời đấu súng. Cho dù đối mặt với kẻ điếc, chúng ta vẫn cần đối thoại”.


Nguyễn nói: “Tôi là con người tự do.


Từ Hải nói: “Vứt mẹ cái tự do của anh đi.”


Như vậy sự chọn lựa Tự Do coi như niềm tin cuối cùng của Nguyễn cũng đã bị bóp dẹp như người ta bóp một con muỗi, máu tung toé. Chàng muốn mình được làm người tự do, một người bình thường như mọi người khác: Đánh máy viết đơn thuê cho giai cấp nông dân cùng khổ bị bóp chẹt. Một ý tưởng giúp người rất thánh thiện, rất cộng đồng. Nhưng lập tức Kim Trọng xuất hiện, cảnh cáo:


Nếu ông muốn sống yên thân và chơi gái thì hãy ở trong thành phố, sáng cà phê chiều nhậu, đừng dây dưa vào chuyện thiên hạ. Nếu ông muốn nổi loạn, cứ nổi loạn với chữ nghĩa. Nếu ông muốn làm người hùng, cứ làm người hùng trong văn chương. Nếu ông đi lạc chỗ, tụi tôi sẽ xử lý ông ngay.”


Nguyễn nói: “Lạc chỗ hay không đó là lựa chọn của tôi. Các anh không có quyền…”


Kim Trọng: “Anh biết là chúng tôi có quyền. Đi lạc chỗ đồng nghĩa với chống đối và chúng tôi sẽ xử lý anh.”


Nguyễn nói: “Đây là quyền của tôi: Cút khỏi nhà tôi.”


Kim Trọng bảo: “Khi cần đuổi thì người đuổi sẽ là tôi chứ không phải anh.”


Nói xong Kim Trọng đi ra.


Đây là lằn roi cuối cùng quất vào mặt anh trí thức Nguyễn. Chàng đã bị phỉ nhổ, bị tước mất tất cả mọi quyền tự do, quyền sống làm người tử tế. Có thể vất đi cái vỏ trí thức, nhưng không chịu làm người mất nhân cách, nên giải pháp cuối cùng vừa loé trong đầu là quay về quê cũ “mở dịch vụ vi tính, viết đơn thuê”, tức thì Kiều Nhi tán thành: “Anh trồng rau, em mở tiệm hớt tóc massage phục vụ cho các anh giai làng…”. Kiều Nhi thêm: “Làm đĩ là một quyền mưu sinh chính đáng. Nhưng em sợ rằng anh sẽ mất hết uy tín khi trong nhà ông cách mạng có người làm đĩ.”


Và thân phận của Nguyễn được các em trinh bạch định đoạt trong nháy mắt “ vậy thì anh cứ sáng cà phê, chiều nhậu, tối kiếm gái ngủ là tốt nhất”. Nguyễn thật sự rơi vào lỗ hổng đen ngòm, mất cả phương hướng và đành cam chịu bất lực như một Từ Hải của Dương Nghiễm Mậu bất lực:


Vương Thúy Kiều nói: “Về nông thôn, em có nguy cơ sẽ phải bán mình lần nữa để chuộc cha bởi bọn cường hào ác bá ở địa phương bây giờ ác hơn thời xưa. Nhưng em nói rồi, Vương viên ngoại còn có thể chuộc được, chứ Từ Hải hay anh chỉ có cách chết đứng hoặc để cho người ta xử tùy tiện thôi. Cả hai cách đều dở. Anh nên quên cái cơn lãng mạn nửa mùa ấy đi.”


Nguyễn hút thuốc. Và chàng cay đắng quăng điếu thuốc đi. Nhưng rồi chàng lại đốt điếu khác. Đốt nhiều điếu khác cho đến khi chàng trở nên khô rỗng.


Vương Thúy Kiều lại nói: “Đàn ông làm cách mạng chỉ đưa nhân loại đến chỗ khốn cùng.”


Nguyễn quăng linh hồn vào bóng tối và chàng lấy dao rạch lên những quyển sách, móc từng chữ ra khỏi trang giấy.


Vương Thúy Kiều nói: “Đàn bà làm cách mạng không phải lồn hoang độc lập, tự do, hạnh phúc và đái ỉa vào mọi giáo điều như bọn đàn ông nói.”


Nguyễn nhét từng con chữ cho vào miệng. Nhai rồi nhổ.


Vương Thúy Kiều nói: “Không phải đàn bà nằm trên là nữ quyền. Nhưng nó là khởi đầu cho mọi cuộc cách mạng khác.”


Nguyễn tiếp tục ăn những con chữ rồi nhổ ra.


Vương Thúy Kiều nói: “Hãy làm điều mình muốn.”


Điều Nguyễn “muốn” cuối cùng là hiến kế cho tên điếm Từ Hải “nếu biết liên kết  các sự kiện, nó có thể tạo ra hiệu ứng dây chuyền”. Từ Hải lập tức mang kế này trộn vào đám đông phẫn nộ gồm nhiều đối tượng, nhiều nỗi oan ức khác nhau, nhưng “lần nào Từ Hải cũng bị bắt và bị đánh trong đồn công an”. Kế của anh trí thức Nguyễn không thành. Và rồi Từ Hải và nhiều Từ Hải khác bị bẻ tay bẻ chân… để sau đó, tất cả từ từ mất tích, chỉ vì “bọn thú vật này không muốn sống” – lệnh từ Hồ Tôn Hiến.


Từ thời phong kiến, Nguyễn Du đã là kẻ lạc lõng, bơ bơ giữa dòng xoáy chính trường. Bước qua thế kỷ XXI, Nguyễn càng ưu uất, lạc lõng hơn giữa cơn cuồng phong thời đại. Dung nhan của chàng muôn thuở là ý thức tự do, là trách nhiệm, là sự độc lập cá tính. Nhưng đó chỉ là những tư tưởng nằm sâu trong đầu, chưa bao giờ Nguyễn dám đứng thẳng, đành phải để Từ Hải hơn hai trăm năm trước chết đứng giữa trận tiền, và hai trăm năm sau các đệ tử Kim Trọng, Từ Hải kẻ đòi đuổi chàng, kẻ phỉ báng tư tưởng tự do của chàng.


Nguyễn là nguyên khối cô đơn đồ sộ.


Nguyễn là kẻ lạc lõng giữa bầy sói trên thảo nguyên đỏ, giống chiếc đòn gánh đè sụm đôi vai gầy guộc, xương xẩu của bầy người tôi mọi. Do vậy chàng sống mà như đã chết, không chết đứng như Từ Hải xưa kia mà chết bởi những ray rứt, dằn vặt… ngày một ít, một ít…:


Nguyễn vùi mình trong bóng tối của nhà tù. Chàng tuyệt vọng như sau những ngày vừa giải phóng 1975. Cái cảm giác của sự chấm dứt giày vò chàng. Đối với việc viết văn, sự chấm dứt lại càng trở nên khốc liệt hơn. Nó giống như sự băm vằm. Nguyễn phải sống một cuộc đời khác, nếu muốn tồn tại. Chưa bao giờ ý nghĩ thỏa hiệp có trong đầu chàng. Cái thôi thúc của một nhà văn không phải là tìm kiếm danh vọng, lại càng không phải miếng cơm manh áo. Trong điều kiện bắt buộc của chữ nghĩa nô lệ, thì việc trở thành nhà văn chỉ là một hành động tự phỉ báng về nhân cách. Vì thế, Nguyễn đã sống như không sống. Đã chết mà vẫn lay lắt. Vả lại, cũng chẳng có bất cứ điều gì buộc Nguyễn phải viết, thế thì cớ gì chàng phải khom lưng làm một kẻ xu nịnh viết những điều dối trá?.


Một anh chàng “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa” là Kim Trọng ngày trước, giờ đây trở thành tên trí thức biến chất, đốn mạt đến không tưởng “cho đến muôn đời sau vẫn là một anh trí thức mà Mao Trạch Đông coi không bằng cục phân. Những cục phân ấy luôn tự an ủi mình trong cõi ta bà rằng “ăn cây nào rào cây ấy” theo đúng đạo nghĩa nho gia”. Anh chàng này khom lưng, quỳ gối trước các ngài Thúc Sinh, Hồ Tôn Hiến, đôi khi với tay đàng điếm Từ Hải để có thể cát cứ một phương, nhưng không phải giúp dân mà “với chức vụ này, chàng đủ điều kiện để hủ hoá mang tính chất mặt trận tổ quốc, đồng thời thu vén được cả một gia tài cho con cháu hưởng lộc đến muôn đời sau”.


Để đạt được mục tiêu này, anh trí thức nho nhã đẹp trai Kim Trọng trở thành tên thượng đội hạ đạp, khom lưng lòn cúi ngay cả người có ít nhiều nợ oan cừu là Thúc Sinh của Nguyễn Du. Tài khôn vặt của Kim Trọng, có lẽ do quá trình tích luỹ kinh nghiệm lăn lộn chốn quan trường, vừa mang bộ mặt sói vừa là bộ mặt cừu:


Thúc Sinh bí mật gặp Kim Trọng, nói: “Ông là người nắm rõ thái độ chính trị của tất cả mọi người. Ai là kẻ cơ hội. Ai là kẻ bất mãn. Ai là người lý tưởng. Vì thế, tôi nhờ ông chuẩn bị cho một danh sách các nhân vật mà ta có thể sử dụng được cho một tổ chức đối lập trong tương lai, kể cả ông. Tôi cũng nhờ ông chuẩn bị một kịch bản cho sự xuất hiện của họ một cách công khai.”


Kim Trọng e dè bảo: “Chúng ta không chia sẻ quyền lực. Quyền lãnh đạo của chúng ta là tuyệt đối.”


Thúc Sinh nói: “Vẫn biết thế. Nhưng tình hình mới buộc chúng ta phải có kế sách, tránh một cuộc lật đổ đẫm máu.”


Kim Trọng tỏ ra hoài nghi, ông nói: “Chúng ta vẫn vững vàng và tôi tuyệt đối trung thành với đồng chí đại ca Hồ Tôn Hiến, cho nên tôi chỉ có thể gửi ông bản danh sách các nhân vật mà ông cần. Còn cái kịch bản gì đó thì xin phép ông cho tôi đứng ngoài.”


Thúc Sinh nói: “Ông cần một xác nhận từ Hồ Tôn Hiến?”


Kim Trọng bảo: “Tôi không dám đòi hỏi. Nhưng tôi sẵn sàng tuân lệnh cấp trên.”


Thúc Sinh nói: “Ông sẽ nhận được điều ông muốn.”


Kim Trọng bảo: “Tôi không tin bọn trí thức.”


Thúc Sinh nói: “Đúng. Nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng, vì bởi bọn chúng lúc nào cũng chỉ mong muốn được người khác sử dụng. Bọn chúng cần một vai trò và chúng ta sẽ cho chúng tham gia cái trò chơi lịch sử này.”


Kim Trọng: “Tôi e ngại tình thế có thể vuột khỏi tầm kiểm soát của chúng ta.”


Thúc Sinh: “Đấy là nhiệm vụ của ông. Hồ Tôn Hiến tin ông.”


Kim Trọng: “Không sợ tôi cướp cờ à?”


Thúc Sinh: “Đấy không phải là tính cách của ông.”


Kim Trọng cũng thuộc giuộc ấy, cũng chỉ “mong muốn được người khác sử dụng”. Và Kim Trọng đã chấp nhận chơi trò đùa giỡn lịch sử với những tham vọng không nhỏ, được che giấu cẩn thận!


Từ Hải của Nguyễn Du là tay hảo hớn có một không hai “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, nhưng khi qua tay Nguyễn Viện, từ một tên vô sản bần cố nông đã được lột xác, đổi đời thành một tên trí thức tiểu tư sản hèn nhát và không kém chất lưu manh. Từ Hải quăng cả gươm giáo, mò vào nghề báo lề phải, tập tễnh làm thơ viết văn, lập khách sạn dắt gái, làm ma cô để ăn chia phần trăm với Mã Kiều Nhi, Đạm Tiên… Trong chớp mắt, Từ được Thúc Sinh sử dụng như một thằng mõ làng, như một con rối trong cuộc chơi đảo điên nhân thế. Dẫu cho bóng ma vừa là con người có da thịt thật Đạm Tiên đã cảnh báo “khi chính trị và và văn học nghệ thuật ăn cánh với nhau, con người bị giết chết… văn nghệ sĩ chính thống là kẻ đồng loã với tội ác”. Nhưng cái đám văn nghệ sĩ Từ Hải, Mã Giám Sinh đều mặc, bỏ ngoài tai… cuối cùng bị sập vào cái bẫy của Sở Khanh và Hồ Tôn Hiến:


Sở Khanh tâu với Hồ Tôn Hiến: “Văn nghệ sĩ và các loại tương cận đều rất háo danh, để sai khiến được bọn này cần ban tặng cho chúng các chức danh này nọ. Vì các chức danh, chúng sẽ như lũ thiêu thân.”


Hồ Tôn Hiến bảo: “Được. Ta biết sức mạnh của các nghệ sĩ. Đồng chí rất thâm sâu. Ta sẽ ban cho chúng mọi tước vị cao cả.”


Sở Khanh tâu tiếp: “Văn nghệ sĩ và các loại tương cận cũng đều rất thích được sai khiến, xin hãy giao việc cho chúng vì chúng sẽ tưởng đấy là điều cao cả.”


Hồ Tôn Hiến bảo: “Được. Hãy tập hợp chúng lại dưới ngọn cờ vinh quang của ta.”


Sở Khanh trở thành Hội trưởng của Hội Văn nghệ sĩ và các loại tương cận.


Nhiệm vụ của Hội là lừa tình toàn thể bầy cừu. Nhưng làm gì thì cũng cần phải lo cho bản thân trước. Cơ hội không phải lúc nào cũng có. Vì thế, Sở Khanh lừa ngay bọn háo danh muốn trở thành văn nghệ sĩ cung đình. Chúng sẵn sàng cống nạp cho Sở Khanh tất cả mọi thứ kể cả vợ con.


Xét cho cùng, trí thứ thời đại nào cũng khom lưng quỳ gối trước cái bóng sừng sững của loại chính trị đen ám. Nhớ lại, hơn 2.500 năm trước Khổng Tử cũng đã ôm mớ giẻ rách “chính danh định phận” chu du khắp thiên hạ rao bán, như ngày nay người ta quảng cáo băng vệ sinh phụ nữ! Không một nhà nước phong kiến nào thời Xuân Thu (770-476 trước CN) chịu sử dụng ông, bố thí cho chức quan nhỏ hay một chân “thầy dùi quân sư quạt mo”, ông đành phải ôm mớ giẻ rách quay về quê cũ mở trường dạy học trò. Không thấy sử sách chép Khổng Tử dạy bao nhiêu học trò thành quan tước triều đình, chỉ thấy lơ thơ vài tên Nhan Hồi, Tử Lộ… xiển dương cái “chính danh định phận” của Ngài (!). Mãi đến khi Khổng chết, lũ học trò chết tất, đám phong kiến tranh bá đồ vương kia mới sáng mắt thừa nhận đống giẻ kia là thánh thư, mang ra áp dụng và rất thành công trong việc kềm hãm sức bật của  xã hội, vun vén quyền lực bằng máu và xương của dân trên 2.000 năm để xây dựng những đế chế coi dân như lũ giòi bọ! Tầng lớp trí thức phải luôn sống trong nỗi sợ hãi, bất an. Và tài năng thì không bằng cục phân như hậu duệ Mao sau này, phê phán. Thân phận trí thức thời nào cũng như con chó ở nhà có tang, mất chủ, ngơ ngáo không còn biết chủ là ai?


Những bộ mặt trí thức qua các nhân vật Từ Hải, Kim Trọng và Nguyễn của Nguyễn Viện là sự nhếch nhác của chữ nghĩa từ hàng ngàn năm trước và tiếp tục đến hàng ngàn năm sau cũng chỉ là sự đê tiện bạo lực, nhục nhã của thân phận làm người trí thức:


Sở Khanh gặp Nguyễn bảo: “Ông làm đơn xin vô Hội Văn nghệ sĩ đi.”


Nguyễn nói: “Tôi không có khả năng chung chi.”


Sở Khanh bảo: “Cũng rẻ thôi mà.”


Nguyễn hỏi: “Bao nhiêu?”


Sở Khanh: “300 triệu.”


Nguyễn bảo: “Trả góp nhé?”


Sở Khanh nói: “Ông chỉ đùa.”


Những nhân vật khác, từ Thúc Sinh, Sở Khanh, Mã Giám Sinh… đều là lũ đĩ bợm, lưu manh thuộc cánh hẩu của Hồ Tôn Hiến. Chúng tiếp tục băm nát chiều ngang lịch sử, nhưng không hề chịu trách nhiệm trước lịch sử! Chúng coi lịch sử như nhà hát cô đầu, như lầu Ngưng Bích thuần dưỡng gái lầu xanh. Mỗi người mang một bộ mặt khác nhau. Nhưng lại có điểm chung nhất là thiết lập mối quan hệ theo phương pháp lợi ích tương đồng, tương lân để đạt được tiền của và danh vọng cao nhất. Chúng mang những chiếc mặt nạ người, đội trên đầu trách nhiệm của lịch sử bằng loại vàng mã trong các đền miếu hoang phế. Tính chất nham nhở, trơ tráo của chúng thừa cả bề dày lẫn bề sâu trong các chu trình xoay chuyển lợi ích cá nhân mang tính tập thể.


Thúc Sinh là một tên đểu cáng, lưu manh vào loại nhất nhì, chẳng những cật lực buôn gái, buôn chính trị… để thu lợi, mà còn dám phỗng tay trên Hồ Tôn Hiến: “Thúc Sinh tiến cử một chân dài Nam Bộ. Trong kiệu màn che trướng rủ, Thúc Sinh động tà tâm hiếp cô này ngay giữa đường tiến cung. Cô mang dòng máu phản bội trong người về với Hồ Tôn Hiến. Có người bảo, Thúc Sinh buôn vua theo cách của Lã Bất Vi.”


Bản chất của Thúc Sinh vốn dĩ là vậy. Nên trong tình thế nan giải của xã hội, Thúc không ngần ngại bày tỏ quan điểm sống của mình:


Từ Hải hỏi tiếp: “Anh chọn cách nào?”


Thúc Sinh nói: “Không chọn cách nào cả.”


Từ Hải hỏi mà dường như không nhắm vào ai: “Vậy thì chúng ta đang vui chơi, hay làm cách mạng?”


Thúc Sinh cười, nói: “Chúng ta đang kiếm ăn.”


Sở Khanh là tay lừa lọc thuộc loại thượng hạng ngoại hạng. Gã bước ra từ Nguyễn Du chí Nguyễn Viện bây giờ đều với tư thế của tên đón gió trở cờ, lừa lọc tình và lừa lọc chủ. Đóng bộ mặt của người đương thời, cộng với tài năng báo lá cải, cái  mồm dẻo cùng khát vọng chứa đầy dục vọng, gã ton hót và bỗng chốc trở thành Hội trưởng Hội Văn nghệ sĩ và các loại tương cận, có nhiệm vụ chăn dắt bầy cừu: “Nhiệm vụ của Hội là lừa tình toàn thể bầy cừu… Sở Khanh lừa ngay bọn háo danh muốn trở thành văn nghệ sĩ cung đình. Chúng sẵn sàng cống nạp cho Sở Khanh tất cả mọi thứ kể cả vợ con”.


Từ khi Thúc Sinh nói với Từ Hải: “Cậu phải biến đi” thì lập tức Từ Hải biến mất khỏi vòng tròn Thúc Sinh. Lập tức Mã Giám Sinh được gọi đến thế chỗ cá»§a Từ để làm thầy dùi cho quan nội chính Thúc Sinh trong các thương vụ buôn gái ra nước ngoài, và bị Đạm Tiên cho là “cạnh tranh không lành mạnh”. Mã không cần đạo đức lành mạnh hay lành yếu. Hắn chỉ cần tiền. 2.000 đô trên mỗi đầu gái kiếm chồng ngoại để hắn bỏ túi là phương châm bất di dịch. Bản chất bỉ ổi cá»§a Mã không chỉ dừng lại ở chỗ “tuyệt đối trung thành với cam kết gìn giữ nguyên trạng với khách hàng. Nhưng hắn tận dụng ưu thế cá»§a mình để kiểm tra “hàng” một cách thích đáng”, mà còn “đưa cô gái về phòng mình trong khách sạn và cắt tiết cô cÅ©ng như ngày xưa hắn hắn đã cắt tiết Vương Thuý Kiều”. Biết cô gái là con Thuý Kiều, nhưng Mã không dung tha, chỉ trả lại 2.000 đô là chỗ tiền thế chân, coi như đó là món tiền bỏ mua trinh tiết! Và rồi hắn lý giải cho hành vi cá»§a mình: “người ta có sẵn sàng cho anh hiếp không?… đấy là vấn đề dân trí. Dân trí để cho anh hiếp thì tại sao anh lại không hiếp?”.


Và bộ mặt thật của Mã tự chính hắn khẳng định: “Hãy nhớ điều này: Đểu cáng thì không ai bằng Mã Giám Sinh”!


Chỉ tội cho Vương Quan. Chàng chỉ được phép xuất hiện vào hồi cuối vở diễn. Chức quan trong triều thì nhỏ, cộng với lý lịch chẳng mấy sạch sẽ của gia đình và bản chất nhân hậu đã khiến chàng bị coi là “mất lập trường giai cấp”, là lực cản lớn nhất trên con đường hoạn lộ. Dẫu vậy, khi tấn tuồng đã gần hết cảnh, hết hồi, sắp đến lúc phải hạ màn thì cũng chính tay lưu manh Thúc Sinh xuất hiện kéo chàng vào trò chơi bán buôn lịch sử. Lời Thúc Sinh: “Thượng phương bảo kiếm sẽ được giao cho cậu” cũng đồng nghĩa với việc thanh tẩy “ngôi nhà chung… càng lúc càng bốc mùi hôi thối”. Thanh tẩy là chuyện quốc gia đại sự hàng đầu, thuộc nhóm hàng cơ mật. Nhưng có Thượng phương bảo kiếm trong tay, thay vì hành xử theo “việc nước trước thù nhà” thì anh em Vương Quan lại bàn nhau khử tất cả những kẻ đã làm nhục, làm tan nát gia đình: “tôi vẫn ấm ức về vụ chị Thúy Kiều xưa kia. Nỗi đau của anh cũng như nỗi nhục của gia đình chúng ta đến lúc cần phải được thanh tẩy. Hơn nữa, dân chúng cũng đang nổi loạn, đây là cơ hội để chúng ta rửa hận. Hồ Tôn Hiến và Mã Giám Sinh phải bị quăng vào lửa. Ngay trước khi tôi công bố tội trạng của chúng, anh phải bắt được cả hai. Nếu thất bại, anh biết hậu quả sẽ ra sao”.


Và, để cho thiên tiểu thuyết “phản tiểu thuyết” của mình có hậu, Nguyễn Viện viết thêm một cảnh rất nhỏ, như thể để giải toả nỗi uất ức trong nhân vật “quần chúng” chỉ được gọi tên, không có mặt; đồng thời cũng để giải toả những bi phẫn chất chứa trong ông. Cảnh đó diễn ra nhanh và gọn đúng với ý đồ của những tay buôn bán lịch sử:


Trước ngày xảy ra phiên tòa xét xử Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh vào trại giam đưa cho Hồ Tôn Hiến một chai thuốc độc.


Mã Giám Sinh hỏi: “Ông còn nhớ cái bùa chú mật tông thỉnh từ Tây Tạng trên cục đá mẹ ở Đền Hùng và 2301 cục đá con xuyên Việt không?”


Hồ Tôn Hiến nói: “Nhớ. Mày đã đánh tráo nó?”


Mã Giám Sinh bảo: “Phải. Muôn năm trường trị là của Mã Giám Sinh chứ không phải Hồ Tôn Hiến.”


Nghe xong, Hồ Tôn Hiến hộc máu tung tóe, tim ngừng đập. Tuy nhiên, Mã Giám Sinh vẫn đổ hết chai thuốc độc vào miệng Hồ Tôn Hiến.


Lịch sử ghi: Năm Gia Tĩnh thứ 43 (1565), Hồ Tôn Hiến bị bắt giam. Đến ngày 3 tháng 11 năm ấy, Hồ Tôn Hiến uất ức tự vẫn, chết trong ngục.”


Khép lại những dòng cuối cùng của Đĩ thúi trên procontra.asia, đồng thời cũng chuẩn bị khép lại những dòng cuối bài viết này, tôi lại nhớ tới đoạn ray rứt nội tâm của Nguyễn, như những ray rứt của Nguyễn Viện trước một thời đại không tên không tuổi, mông lung hư ảo. Thời đại đó vừa là quá khứ xa xôi mà cũng là hiện tại gần. Những con người trong đó, bước ra trên trang sách của ông có thể đang dần hoá thạch mà cũng mới tinh khôi như vừa bước ra từ một buổi sớm mai dầm dề máu me dối trá, lừa mị. Tôi tự hỏi, ông đã trải lòng trên quyển tiểu thuyết này hay chính những nhân vật ông dựng nên đã xô đẩy ông như ông đã xô nhân vật Nguyễn đang “nằm bẹp gí trong nhà Mã Kiều Nhi” với câu hỏi hơn bốn trăm năm trước của Shakespeare “to be or not to be”? Nhưng tồn tại để làm gì, hành xử như thế nào trong mối tương quan giữa quần chúng và lịch sử, giữa tự do hành động tiệm cận tự do dẫu cho họ thừa biết “máu thịt sản sinh máu thịt”? Có lẽ đây mới chính là máu và nước mắt trong những thổn thức dằn vặt của cả hai, tác giả và nhân vật: “Với Nguyễn, Hồ Tôn Hiến dù thế nào vẫn là một nhân vật tiểu thuyết. Nhưng nhân vật ấy đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chàng, một tai nạn của bệnh tiêu chảy, trở thành một tác nhân độc lập và hành xử theo cách của hắn. Nguyễn biết, không có cách nào khác để loại trừ hắn là để chính cái hệ thống đang vận hành hắn xử hắn. Tính cách trí thức của chàng, như thế một lần nữa, đè bẹp chàng. Thay vì đóng vai trò của một chủ thể lịch sử, chàng buông xuôi cho cái hệ thống mù lòa ấy đưa đẩy.


An nhiên tự tại hay từ khước chính mình cũng chỉ là một cách trốn chạy thực tại.”


Buengkan–Laos6/2013


© 2013 Nguyễn Lệ Uyên& pro&contra


Nhà văn Nguyễn Viện (1949) hiện sống tại Sài Gòn. Ông là tác giả của 9 tiểu thuyết và nhiều truyện ngắn, kịch, thơ, tạp bút và tiểu luận.


Ảnh của Trần Tiến Dũng




[i] Táng Gia cẩu: Ngã độc Luận ngữ, Lý Linh, NXB Nhân Dân Sơn Tây, Trung Quốc, 2007

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 24, 2013 03:57

Chất phồn thực trong “Đĩ thúi” của Nguyễn Viện

Nguyễn Lệ Uyên


Truyện Kiều của Nguyễn Du, sau khi được khắc bản in, lập tức có sức lan toả rộng rãi trong quần chúng. Tính phổ quát của Truyện Kiều hơn hẳn những tác phẩm trước và sau nó để, từ tầng lớp bình dân cho chí các trí thức khoa bảng đều có các đánh giá khác nhau qua mỗi thời đại. Bởi ở đó, từ những nhân vật trong truyện, mỗi người có thể tìm ra những vấn đề tương đồng, những cá tính từng nhân vật như một phiên bản luôn có mặt như những thực thể sinh động trong mọi thời đại.


Đó cũng là lý do tại sao, kể từ khi có chữ viết riêng (Quốc ngữ), có báo chí, Truyện Kiều được mang ra mổ xẻ khá kỹ, với nhiều luồng trái ngược nhau. Dưới con mắt các nhà nho luôn ôm Luận ngữ, Đại học… làm sách gối đầu như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng thì Truyện Kiều chỉ là loại dâm thư không hơn kém: “Nói cho đúng ra Truyện Kiều chỉ là một dâm thư, rõ ràng không có ích gì mà có hại”.  Trong khi đó, những Phạm Quỳnh, Chu Mạnh Trinh thì lại hết lòng ca ngợi, xem Truyện Kiều như một loại “ngọc tỉ” truyền quốc: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn. Tiếng ta còn thì nước ta còn” – (Phạm Quỳnh).


Sức sống của Truyện Kiều không chỉ ở nội dung, nghệ thuật miêu tả trong thể loại thi ca đặc hữu của ViệtNam: Lục bát; mà còn ở tính cách của từng nhân vật. Những mẫu người như Kiều, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Sở Khanh, Từ Hải, Hồ Tôn Hiến… thời đại nào chúng ta cũng có thể nhìn thấy họ hiển lộ, trong những con người khác, một cách đậm đặc. Có lẽ vì thế, các nhân vật này luôn là nguồn cảm hứng cho dòng văn học Việt Nam hậu Tự lực Văn đoàn, đặc biệt là dòng văn học miền Nam trước 1975.


Nguồn cảm hứng ấy, không chỉ dừng lại ở một Dương Nghiễm Mậu với một Từ Hải bất lực mà, hôm nay còn lan rộng ra với một Nguyễn Viện. Bằng một nhãn quan khác, ông cầm chiếc đũa của gã phù thuỷ, đẩy họ lên sân khấu, diễn lại tấn tuồng thời đại: Ở đó là cả một sự ô-uế-thánh-thiện, cưỡng-hiếp-toàn-bích, bỉ-ổi-sáng rực, lưu-manh-hoàn-hảo… nhất so với các nhân vật lưu manh mà ta từng đọc ở các tiểu thuyết Âu Á.


Nếu như hơn hai trăm năm trước, Nguyễn Du đã gom dắt bầy con cháu nhà Hán từ tay Thanh Tâm Tài Nhân, rồi gia công qua 3.245 câu lục bát để thành những con người mang thân phận tiêu biểu nhất, trong xã hội phong kiến đầu thế kỷ XIX; thì ngày nay Nguyễn Viện đã mượn các nhân vật này của Nguyễn Du từ tay Nguyễn và hoá thân đúng theo chức năng của một ông “bầu sô”, kéo dắt họ (các nhân vật) ra trước ánh đèn màu, cho họ nhập đồng, lên vai trong tư thế đồng đẳng với thời đại. Đó là thời đại tan tác, ươn sình mà người đọc chỉ có thể tìm thấy sự lừa lọc, lưu manh của loại hảo-hán-trí-thức-a-tu-la. Những phẩm hạnh và đạo đức làm người bị dục vọng thấp hèn thế chỗ. Thời đại đã dựng lên những con người như thế. Và những con người đó lại khoác lên mình dáng dấp như loại “chó nhà tang[i] nhảy bàn độc, nắm thóp thời đại mà quay, mà ném, mà lia. Đây là  chiếc chong chóng khổng lồ của một triều đại không được đặt tên bởi tính chất nhân bản không có chỗ đứng xứng hợp; chỉ có thể xem đây là “thế giới của ảo tượng văn chương” như Nguyễn Viện thừa nhận.


Từ thế giới đã được xác lập, ở Đĩ thúi, sau khi khép lại những dòng cuối cùng, tôi không hề nghĩ ông viết theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo, hay “phản tiểu thuyết” như Phạm Thị Hoài nhận xét: “phản lịch sử, phản hư cấu, phản hiện thực và phản tiểu thuyết này… bước thẳng ra từ hư cấu và lịch sử để lăn lộn trên một bàn cờ thế sự quái đản mà tất cả chúng ta dường như đều có mặt”, mà ông đã sử dụng tính chất phồn thực (fertilité) tồn tại hàng ngàn năm nay trên thế gian này, lồng vào hiện thực thời đại để gửi đi nỗi bi phẫn và trách nhiệm nhà văn trước một xã hội đầy những mưu toan, bất trắc.


Đọc Đĩ thúi, điều chúng ta dễ dàng nhận ra, là tất cả các nhân vật chỉ có bộ mặt mà thiếu vắng một tấm lòng; tấm lòng ấy, có chăng chỉ có ở Kiều Nhi, Đạm Tiên và Thuý Kiều, khi họ hợp sức mở quán bia ôm, tân trang trinh tiết phục vụ tận tình đấng mày râu theo phương châm “ăn bánh trả tiền”. Chí ít, việc các em “bành chân dạng háng” được khẳng định “là một thứ lao động giản đơn thuần tuý kinh tế thị trường” và trên hết “nó là một quá trình hình thành bởi các cuộc cách mạng công nghệ và ý thức hệ”.


Với Kiều, tài và sắc của nàng, được Nguyễn Du mô tả là toàn vẹn. Khốn thay, xã hội nàng đang sống không cho phép nàng sử dụng nhan sắc và tài hoa để trở thành nhân vật danh giá, chí ít là để làm người chính danh! Thuyết “tài mệnh tương đố” từ Nguyễn Du đã đẩy nàng trở về với tâm thế của người đàn bà bước vào con đường phồn thực thênh thang. Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề là khởi đầu hành trạng của Kiều từ lúc nàng phải bán mình chuộc cha theo qui chuẩn đạo đức “chó nhà tang” của Khổng Tử. Trước đây mấy trăm năm, Kiều đã là sự hoàn thiện của các ngón ăn chơi đĩ thoã, thì nay, một Mã Kiều Nhi, vốn là nguyên mẫu của Thúy Kiều trong lịch sử, xuất hiện trở lại như một nàng Kiều thứ hai và đồng thời, dưới mắt Nguyễn Viện, Kiều Nhi có thừa các ngón nghề tuyệt kỹ, là sự kết tinh của nền văn hoá lầu xanh, của các cung A Phòng, chốn hậu cung của quyền lực tối thượng, xứng với tầm cao thời đại: “Đó là một Mã Kiều Nhi tài hoa. Cầm kỳ thi hoạ đủ món ăn chơi vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề, đặc biệt là món thổi kèn điêu luyện theo đúng tinh thần Karma Yoga”.


Mã Kiều Nhi dưới ngòi bút của Nguyễn Viện, là cô gái xinh đẹp và e lệ. Vì vậy e lệ được xem như thuộc tính của phái nữ. Nhưng khi làm người, đã là con người, thì mọi chuyển động về sinh lý, buộc phải tuần hoàn theo một chiều kích tự nhiên: “Xinh đẹp và e lệ thì cũng đến lúc phải đi tiểu… vì thế nàng đã phải đi hơi xa để tìm một chỗ kín đáo”. Thực ra, Mã Kiều Nhi cũng chẳng cần kín đáo làm gì, đơn giản là nàng muốn giấu tung tích gái giả trai để vượt biên, dễ dàng tung hoành trên miền đất mới.


Và, kể từ khi bước chân qua biên giới, được sự hỗ trợ đắc lực của Đạm Tiên, Mã Kiều Nhi bắt đầu thể hiện tài năng “kéo đầu từng người áp vào hĩm nàng” để trở thành “một thương hiệu toàn cầu và mang tính phổ quát”. Nàng đã trở thành “đĩ quốc tế”. Nàng rơi vào vòng sa đoạ nhưng cũng chưa hẳn là vong thân, bởi các đối tượng đến với nàng đều cần nàng từ một nhu cầu gốc, cho nên “tất cả đều tôn thờ nàng. Nhưng tất cả đều miệt thị nàng”. Nàng biết vượt lên trên vũng lầy để trở thành “người của bá tánh, vì bá tánh và cho bá tánh”. Ý thức một cách rõ ràng về triết lý nhân sinh “mình vì mọi người và mọi người vì mình”, tức khái niệm vay trả sòng phẳng nên nàng ngẩng cao tâm hồn để làm đẹp thân xác: “bành hai chân, dạng háng uy nghi trước mọi nền văn minh nhân loại”.


Xem ra nhân cách và đạo đức làm người của Mã Kiều Nhi vẫn có chút gì đó cao đẹp hơn nhiều lần so với những nhân vật khác, bởi tính cách “vì mọi người” của nàng “Tôi chỉ thiếu mỗi danh hiệu áp trại phu nhân thôi, tuy nhiên thỉnh thoảng tôi cũng cho các anh cai tù bóp vú một cách kín đáo”. Đó là chưa kể, cả “tập đoàn đĩ” và cụ tổ Bạch Mi cũng thừa tình thương với kẻ hoạn nạn, ra tay cứu vớt quan đầu triều Hồ Tôn Hiến nằm mộng thấy mình gặp rắc rối, dẫu biết Hồ là loại người lưu manh thượng đẳng: “Tôi có những giấc mơ giữa ban ngày. Đại thể, đó là những sinh linh, không, không phải những sinh linh, mà là những ngọn cỏ. Trên đầu ngọn cỏ có những cái miệng. Những cái miệng đó phun ra máu làm đỏ cả bầu trời. Vâng, cỏ non xanh rợn chân trời và máu tươi chói lọi tầng không. Còn ban đêm thì lại khác cô ạ. Đêm trắng. Trắng không có bất cứ cái gì hiện hữu. Tôi không an tâm.


Người luôn cảm thông, được chia sẻ và gần gũi với Kiều Nhi là Nguyễn. Chàng luôn bị mặc cảm làm người giày vò, bởi thân phận trí thức thuộc loại “hàng thần lơ láo”. Nguyễn vừa công nhận, vừa phủ nhận Kiều Nhi là đĩ quốc tế, để sau đó, khi đưa lên bàn cân tình cảm, chàng lại xác quyết rằng: nàng là một cô gái vẹn toàn tiết trinh. Đĩ chỉ là cái vỏ bọc. Đĩ chỉ tồn tại ở thân xác. Nhưng tâm hồn thì hoàn toàn trong trắng. Ở đâu và lúc nào, Nguyễn cũng thấy “nàng luôn luôn trinh bạch”. Chàng đã khám phá “khuôn mặt thật của em dưới lớp da nhân tạo” luôn là một trinh tiết mới mẻ mỗi khi chàng gần gũi Kiều Nhi và Đạm Tiên. Nó vượt qua sự ô uế để mỗi lúc một gần hơn với cái đẹp muôn thuở. Niềm tin đó đã xác quyết trong con người chàng, luôn là điều xác tín: “Nguyễn thấy mình căng phồng như một quả bóng. Nhục dục và siêu thoát… Trong một chớp loé sáng của ý thức, Nguyễn thấu cảm ngẫu tượng tôn giáo của Linga và Yoni” ngay cả khi chàng ngủ với nàng trong nhà trọ bị công an bắt giữ, tống giam.


Khoảng không gian vừa rộng vừa hẹp mà tập đoàn Mã Kiều Nhi hoạt động, thoạt nhìn, có vẻ như những nhà thổ hạ cấp, đôi khi rất gần với những nhà trọ, phòng ngủ nhan nhản khắp mọi hang cùng ngõ hẻm ở một xứ sở vĩ đại, đồng bóng ngày nay. Hành trạng của họ qua ngòi bút Nguyễn Viện, chưa thấy bày ra cảnh nhếch nhác, ô uế; trái lại, nó vượt lên trên, hết thảy và trở thành những thiên sứ đáng nể phục.


Đã đành, khẩu hiệu đồng thời là mục tiêu đề ra của họ là “ăn bánh trả tiền”. Đành rằng họ là giai cấp đĩ bị khinh miệt. Nhưng cũng có lúc, chính những kẻ lưu manh, những tên bán buôn lịch sử đã phải cần đến họ, quỵ luỵ trước bản thân vừa nhơ nhớp trong suốt vừa trinh bạch thanh cao của họ. Chính Hồ Tôn Hiến, một thượng đẳng công thần lừng lững, quyền uy đỏ rực từ đầu đến đít cũng phải tất tả cầu cứu các nàng:


Một trăm ngày sau, trước bàn thờ Bạch Mi là Vương Thuý Kiều loã thể nằm trên tấm thảm có in hình trống đồng Đông Sơn. Rượu Minh Mạng 14 ly đặt chung quanh. Đạm Tiên đứng thắp hương vái lạy thần tổ…


  Hồ Tôn Hiến thưa: “Làm thế nào để bảo toàn gia nghiệp?”


Bạch Mi phán: “Cất giữ vàng thật, phát hành tiền giả.”


Hồ Tôn Hiến thưa: “Làm thế nào để tiêu diệt kẻ thù?”


Bạch Mi phán: “Muốn tiêu diệt thù ngoài thì phải củng cố nội lực. Muốn tiêu diệt thù trong thì phải gia tăng âm phúc. Muốn làm được cả hai việc đó thì trước hết phải xây dựng lại tổ đình xã tắc.”


Hồ Tôn Hiến thưa: “Còn muốn bảo toàn tính mạng?”


Bạch Mi phán: “Bồi dưỡng chân khí bằng miên trường âm hộ của trinh nữ thuần Việt. Muốn hỏi gì nữa không? Đã đến giờ ta thượng hưởng.”


Các nhân vật của Nguyễn Viện đều bước ra từ thế giới của ảo tượng, trên nền tảng văn hoá văn minh phồn thực đã hiển lộ từ lâu và tiếp tục tồn tại. Truyền thống văn hoá Linga và Yoni vẫn tồn tại khi cái ý thức truyền thống không bị mai một, ngược lại đang được phát huy dưới cái nhãn “đậm đà bản sắc dân tộc” thì sẽ vẫn cần những Đạm Tiên như một hữu thể tồn tại: “tượng Linga dâng cúng cho Đạm Tiên không có đế, vì thế nó trở thành cái đế cho Yoni Đạm Tiên vì sự to lớn của nó. Nàng vẫn ngồi trên tượng Linga này trong tất cả mọi lúc rảnh rỗi. Đạm Tiên bảo:”nó đâm thấu suốt em”.


Nguyễn Viện đã thấu suốt, đã dẫn ra. Vì vậy văn hoá phồn thực sẽ tiếp tục trong thời đại chúng ta và mãi mãi, cho đến khi nào bầy người lúc nhúc biến mất khỏi trái đất này!


Nguyễn là nhân vật điển hình đang bơi trong vùng không khí loãng của thời đại. Tri thức không giúp gì cho chàng khi đối mặt với những nghịch cảnh buộc phải sa vào. Nội việc phải đi tù lần thứ hai vì tội viết đơn thuê cho dân oan khiếu kiện vẫn là một quán tính nghiện ngập của trí thức, đúng như nhận xét của trùm an ninh nội chính Thúc Sinh: “cả ông Nguyễn cũng sẽ phải biến thái như cậu.Vì đó là guồng máy, không cho phép bất cứ ai có bản sắc cá biệt”.


Trong vũng lầy, Nguyễn cố gắng vũng vẫy, cố gắng trồi lên bên trên vùng trơn nhớt, nhầy nhụa. Chàng nói: “Vâng, chúng ta cần sống như những người văn minh” sau khi nghe Từ Hải thay đổi sách lược (được chỉ đạo từ trên): “Đã qua cái thời đấu súng. Cho dù đối mặt với kẻ điếc, chúng ta vẫn cần đối thoại”.


Nguyễn nói: “Tôi là con người tự do.


Từ Hải nói: “Vứt mẹ cái tự do của anh đi.


Như vậy sự chọn lựa Tự Do coi như niềm tin cuối cùng của Nguyễn cũng đã bị bóp dẹp như người ta bóp một con muỗi, máu tung toé. Chàng muốn mình được làm người tự do, một người bình thường như mọi người khác: Đánh máy viết đơn thuê cho giai cấp nông dân cùng khổ bị bóp chẹt. Một ý tưởng giúp người rất thánh thiện, rất cộng đồng. Nhưng lập tức Kim Trọng xuất hiện, cảnh cáo:


Nếu ông muốn sống yên thân và chơi gái thì hãy ở trong thành phố, sáng cà phê chiều nhậu, đừng dây dưa vào chuyện thiên hạ. Nếu ông muốn nổi loạn, cứ nổi loạn với chữ nghĩa. Nếu ông muốn làm người hùng, cứ làm người hùng trong văn chương. Nếu ông đi lạc chỗ, tụi tôi sẽ xử lý ông ngay.”


Nguyễn nói: “Lạc chỗ hay không đó là lựa chọn của tôi. Các anh không có quyền…”


Kim Trọng: “Anh biết là chúng tôi có quyền. Đi lạc chỗ đồng nghĩa với chống đối và chúng tôi sẽ xử lý anh.”


Nguyễn nói: “Đây là quyền của tôi: Cút khỏi nhà tôi.”


Kim Trọng bảo: “Khi cần đuổi thì người đuổi sẽ là tôi chứ không phải anh.”


Nói xong Kim Trọng đi ra.


Đây là lằn roi cuối cùng quất vào mặt anh trí thức Nguyễn. Chàng đã bị phỉ nhổ, bị tước mất tất cả mọi quyền tự do, quyền sống làm người tử tế. Có thể vất đi cái vỏ trí thức, nhưng không chịu làm người mất nhân cách, nên giải pháp cuối cùng vừa loé trong đầu là quay về quê cũ “mở dịch vụ vi tính, viết đơn thuê”, tức thì Kiều Nhi tán thành: “Anh trồng rau, em mở tiệm hớt tóc massage phục vụ cho các anh giai làng…”. Kiều Nhi thêm: “Làm đĩ là một quyền mưu sinh chính đáng. Nhưng em sợ rằng anh sẽ mất hết uy tín khi trong nhà ông cách mạng có người làm đĩ.


Và thân phận của Nguyễn được các em trinh bạch định đoạt trong nháy mắt “ vậy thì anh cứ sáng cà phê, chiều nhậu, tối kiếm gái ngủ là tốt nhất”. Nguyễn thật sự rơi vào lỗ hổng đen ngòm, mất cả phương hướng và đành cam chịu bất lực như một Từ Hải của Dương Nghiễm Mậu bất lực:


Vương Thúy Kiều nói: “Về nông thôn, em có nguy cơ sẽ phải bán mình lần nữa để chuộc cha bởi bọn cường hào ác bá ở địa phương bây giờ ác hơn thời xưa. Nhưng em nói rồi, Vương viên ngoại còn có thể chuộc được, chứ Từ Hải hay anh chỉ có cách chết đứng hoặc để cho người ta xử tùy tiện thôi. Cả hai cách đều dở. Anh nên quên cái cơn lãng mạn nửa mùa ấy đi.”


Nguyễn hút thuốc. Và chàng cay đắng quăng điếu thuốc đi. Nhưng rồi chàng lại đốt điếu khác. Đốt nhiều điếu khác cho đến khi chàng trở nên khô rỗng.


Vương Thúy Kiều lại nói: “Đàn ông làm cách mạng chỉ đưa nhân loại đến chỗ khốn cùng.”


Nguyễn quăng linh hồn vào bóng tối và chàng lấy dao rạch lên những quyển sách, móc từng chữ ra khỏi trang giấy.


Vương Thúy Kiều nói: “Đàn bà làm cách mạng không phải lồn hoang độc lập, tự do, hạnh phúc và đái ỉa vào mọi giáo điều như bọn đàn ông nói.”


Nguyễn nhét từng con chữ cho vào miệng. Nhai rồi nhổ.


Vương Thúy Kiều nói: “Không phải đàn bà nằm trên là nữ quyền. Nhưng nó là khởi đầu cho mọi cuộc cách mạng khác.”


Nguyễn tiếp tục ăn những con chữ rồi nhổ ra.


Vương Thúy Kiều nói: “Hãy làm điều mình muốn.”


Điều Nguyễn “muốn” cuối cùng là hiến kế cho tên điếm Từ Hải “nếu biết liên kết  các sự kiện, nó có thể tạo ra hiệu ứng dây chuyền”. Từ Hải lập tức mang kế này trộn vào đám đông phẫn nộ gồm nhiều đối tượng, nhiều nỗi oan ức khác nhau, nhưng “lần nào Từ Hải cũng bị bắt và bị đánh trong đồn công an”. Kế của anh trí thức Nguyễn không thành. Và rồi Từ Hải và nhiều Từ Hải khác bị bẻ tay bẻ chân… để sau đó, tất cả từ từ mất tích, chỉ vì “bọn thú vật này không muốn sống” – lệnh từ Hồ Tôn Hiến.


Từ thời phong kiến, Nguyễn Du đã là kẻ lạc lõng, bơ bơ giữa dòng xoáy chính trường. Bước qua thế kỷ XXI, Nguyễn càng ưu uất, lạc lõng hơn giữa cơn cuồng phong thời đại. Dung nhan của chàng muôn thuở là ý thức tự do, là trách nhiệm, là sự độc lập cá tính. Nhưng đó chỉ là những tư tưởng nằm sâu trong đầu, chưa bao giờ Nguyễn dám đứng thẳng, đành phải để Từ Hải hơn hai trăm năm trước chết đứng giữa trận tiền, và hai trăm năm sau các đệ tử Kim Trọng, Từ Hải kẻ đòi đuổi chàng, kẻ phỉ báng tư tưởng tự do của chàng.


Nguyễn là nguyên khối cô đơn đồ sộ.


Nguyễn là kẻ lạc lõng giữa bầy sói trên thảo nguyên đỏ, giống chiếc đòn gánh đè sụm đôi vai gầy guộc, xương xẩu của bầy người tôi mọi. Do vậy chàng sống mà như đã chết, không chết đứng như Từ Hải xưa kia mà chết bởi những ray rứt, dằn vặt… ngày một ít, một ít…:


Nguyễn vùi mình trong bóng tối của nhà tù. Chàng tuyệt vọng như sau những ngày vừa giải phóng 1975. Cái cảm giác của sự chấm dứt giày vò chàng. Đối với việc viết văn, sự chấm dứt lại càng trở nên khốc liệt hơn. Nó giống như sự băm vằm. Nguyễn phải sống một cuộc đời khác, nếu muốn tồn tại. Chưa bao giờ ý nghĩ thỏa hiệp có trong đầu chàng. Cái thôi thúc của một nhà văn không phải là tìm kiếm danh vọng, lại càng không phải miếng cơm manh áo. Trong điều kiện bắt buộc của chữ nghĩa nô lệ, thì việc trở thành nhà văn chỉ là một hành động tự phỉ báng về nhân cách. Vì thế, Nguyễn đã sống như không sống. Đã chết mà vẫn lay lắt. Vả lại, cũng chẳng có bất cứ điều gì buộc Nguyễn phải viết, thế thì cớ gì chàng phải khom lưng làm một kẻ xu nịnh viết những điều dối trá?.


Một anh chàng “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa” là Kim Trọng ngày trước, giờ đây trở thành tên trí thức biến chất, đốn mạt đến không tưởng “cho đến muôn đời sau vẫn là một anh trí thức mà Mao Trạch Đông coi không bằng cục phân. Những cục phân ấy luôn tự an ủi mình trong cõi ta bà rằng “ăn cây nào rào cây ấy” theo đúng đạo nghĩa nho gia”. Anh chàng này khom lưng, quỳ gối trước các ngài Thúc Sinh, Hồ Tôn Hiến, đôi khi với tay đàng điếm Từ Hải để có thể cát cứ một phương, nhưng không phải giúp dân mà “với chức vụ này, chàng đủ điều kiện để hủ hoá mang tính chất mặt trận tổ quốc, đồng thời thu vén được cả một gia tài cho con cháu hưởng lộc đến muôn đời sau”.


Để đạt được mục tiêu này, anh trí thức nho nhã đẹp trai Kim Trọng trở thành tên thượng đội hạ đạp, khom lưng lòn cúi ngay cả người có ít nhiều nợ oan cừu là Thúc Sinh của Nguyễn Du. Tài khôn vặt của Kim Trọng, có lẽ do quá trình tích luỹ kinh nghiệm lăn lộn chốn quan trường, vừa mang bộ mặt sói vừa là bộ mặt cừu:


Thúc Sinh bí mật gặp Kim Trọng, nói: “Ông là người nắm rõ thái độ chính trị của tất cả mọi người. Ai là kẻ cơ hội. Ai là kẻ bất mãn. Ai là người lý tưởng. Vì thế, tôi nhờ ông chuẩn bị cho một danh sách các nhân vật mà ta có thể sử dụng được cho một tổ chức đối lập trong tương lai, kể cả ông. Tôi cũng nhờ ông chuẩn bị một kịch bản cho sự xuất hiện của họ một cách công khai.”


Kim Trọng e dè bảo: “Chúng ta không chia sẻ quyền lực. Quyền lãnh đạo của chúng ta là tuyệt đối.”


Thúc Sinh nói: “Vẫn biết thế. Nhưng tình hình mới buộc chúng ta phải có kế sách, tránh một cuộc lật đổ đẫm máu.”


Kim Trọng tỏ ra hoài nghi, ông nói: “Chúng ta vẫn vững vàng và tôi tuyệt đối trung thành với đồng chí đại ca Hồ Tôn Hiến, cho nên tôi chỉ có thể gửi ông bản danh sách các nhân vật mà ông cần. Còn cái kịch bản gì đó thì xin phép ông cho tôi đứng ngoài.”


Thúc Sinh nói: “Ông cần một xác nhận từ Hồ Tôn Hiến?”


Kim Trọng bảo: “Tôi không dám đòi hỏi. Nhưng tôi sẵn sàng tuân lệnh cấp trên.”


Thúc Sinh nói: “Ông sẽ nhận được điều ông muốn.”


Kim Trọng bảo: “Tôi không tin bọn trí thức.”


Thúc Sinh nói: “Đúng. Nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng, vì bởi bọn chúng lúc nào cũng chỉ mong muốn được người khác sử dụng. Bọn chúng cần một vai trò và chúng ta sẽ cho chúng tham gia cái trò chơi lịch sử này.”


Kim Trọng: “Tôi e ngại tình thế có thể vuột khỏi tầm kiểm soát của chúng ta.”


Thúc Sinh: “Đấy là nhiệm vụ của ông. Hồ Tôn Hiến tin ông.”


Kim Trọng: “Không sợ tôi cướp cờ à?”


Thúc Sinh: “Đấy không phải là tính cách của ông.”


Kim Trọng cũng thuộc giuộc ấy, cũng chỉ “mong muốn được người khác sử dụng”. Và Kim Trọng đã chấp nhận chơi trò đùa giỡn lịch sử với những tham vọng không nhỏ, được che giấu cẩn thận!


Từ Hải của Nguyễn Du là tay hảo hớn có một không hai “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, nhưng khi qua tay Nguyễn Viện, từ một tên vô sản bần cố nông đã được lột xác, đổi đời thành một tên trí thức tiểu tư sản hèn nhát và không kém chất lưu manh. Từ Hải quăng cả gươm giáo, mò vào nghề báo lề phải, tập tễnh làm thơ viết văn, lập khách sạn dắt gái, làm ma cô để ăn chia phần trăm với Mã Kiều Nhi, Đạm Tiên… Trong chớp mắt, Từ được Thúc Sinh sử dụng như một thằng mõ làng, như một con rối trong cuộc chơi đảo điên nhân thế. Dẫu cho bóng ma vừa là con người có da thịt thật Đạm Tiên đã cảnh báo “khi chính trị và và văn học nghệ thuật ăn cánh với nhau, con người bị giết chết… văn nghệ sĩ chính thống là kẻ đồng loã với tội ác”. Nhưng cái đám văn nghệ sĩ Từ Hải, Mã Giám Sinh đều mặc, bỏ ngoài tai… cuối cùng bị sập vào cái bẫy của Sở Khanh và Hồ Tôn Hiến:


Sở Khanh tâu với Hồ Tôn Hiến: “Văn nghệ sĩ và các loại tương cận đều rất háo danh, để sai khiến được bọn này cần ban tặng cho chúng các chức danh này nọ. Vì các chức danh, chúng sẽ như lũ thiêu thân.”


Hồ Tôn Hiến bảo: “Được. Ta biết sức mạnh của các nghệ sĩ. Đồng chí rất thâm sâu. Ta sẽ ban cho chúng mọi tước vị cao cả.”


Sở Khanh tâu tiếp: “Văn nghệ sĩ và các loại tương cận cũng đều rất thích được sai khiến, xin hãy giao việc cho chúng vì chúng sẽ tưởng đấy là điều cao cả.”


Hồ Tôn Hiến bảo: “Được. Hãy tập hợp chúng lại dưới ngọn cờ vinh quang của ta.”


Sở Khanh trở thành Hội trưởng của Hội Văn nghệ sĩ và các loại tương cận.


Nhiệm vụ của Hội là lừa tình toàn thể bầy cừu. Nhưng làm gì thì cũng cần phải lo cho bản thân trước. Cơ hội không phải lúc nào cũng có. Vì thế, Sở Khanh lừa ngay bọn háo danh muốn trở thành văn nghệ sĩ cung đình. Chúng sẵn sàng cống nạp cho Sở Khanh tất cả mọi thứ kể cả vợ con.


Xét cho cùng, trí thứ thời đại nào cũng khom lưng quỳ gối trước cái bóng sừng sững của loại chính trị đen ám. Nhớ lại, hơn 2.500 năm trước Khổng Tử cũng đã ôm mớ giẻ rách “chính danh định phận” chu du khắp thiên hạ rao bán, như ngày nay người ta quảng cáo băng vệ sinh phụ nữ! Không một nhà nước phong kiến nào thời Xuân Thu (770-476 trước CN) chịu sử dụng ông, bố thí cho chức quan nhỏ hay một chân “thầy dùi quân sư quạt mo”, ông đành phải ôm mớ giẻ rách quay về quê cũ mở trường dạy học trò. Không thấy sử sách chép Khổng Tử dạy bao nhiêu học trò thành quan tước triều đình, chỉ thấy lơ thơ vài tên Nhan Hồi, Tử Lộ… xiển dương cái “chính danh định phận” của Ngài (!). Mãi đến khi Khổng chết, lũ học trò chết tất, đám phong kiến tranh bá đồ vương kia mới sáng mắt thừa nhận đống giẻ kia là thánh thư, mang ra áp dụng và rất thành công trong việc kềm hãm sức bật của  xã hội, vun vén quyền lực bằng máu và xương của dân trên 2.000 năm để xây dựng những đế chế coi dân như lũ giòi bọ! Tầng lớp trí thức phải luôn sống trong nỗi sợ hãi, bất an. Và tài năng thì không bằng cục phân như hậu duệ Mao sau này, phê phán. Thân phận trí thức thời nào cũng như con chó ở nhà có tang, mất chủ, ngơ ngáo không còn biết chủ là ai?


Những bộ mặt trí thức qua các nhân vật Từ Hải, Kim Trọng và Nguyễn của Nguyễn Viện là sự nhếch nhác của chữ nghĩa từ hàng ngàn năm trước và tiếp tục đến hàng ngàn năm sau cũng chỉ là sự đê tiện bạo lực, nhục nhã của thân phận làm người trí thức:


Sở Khanh gặp Nguyễn bảo: “Ông làm đơn xin vô Hội Văn nghệ sĩ đi.”


Nguyễn nói: “Tôi không có khả năng chung chi.”


Sở Khanh bảo: “Cũng rẻ thôi mà.”


Nguyễn hỏi: “Bao nhiêu?”


Sở Khanh: “300 triệu.”


Nguyễn bảo: “Trả góp nhé?”


Sở Khanh nói: “Ông chỉ đùa.


Những nhân vật khác, từ Thúc Sinh, Sở Khanh, Mã Giám Sinh… đều là lũ đĩ bợm, lưu manh thuộc cánh hẩu của Hồ Tôn Hiến. Chúng tiếp tục băm nát chiều ngang lịch sử, nhưng không hề chịu trách nhiệm trước lịch sử! Chúng coi lịch sử như nhà hát cô đầu, như lầu Ngưng Bích thuần dưỡng gái lầu xanh. Mỗi người mang một bộ mặt khác nhau. Nhưng lại có điểm chung nhất là thiết lập mối quan hệ theo phương pháp lợi ích tương đồng, tương lân để đạt được tiền của và danh vọng cao nhất. Chúng mang những chiếc mặt nạ người, đội trên đầu trách nhiệm của lịch sử bằng loại vàng mã trong các đền miếu hoang phế. Tính chất nham nhở, trơ tráo của chúng thừa cả bề dày lẫn bề sâu trong các chu trình xoay chuyển lợi ích cá nhân mang tính tập thể.


Thúc Sinh là một tên đểu cáng, lưu manh vào loại nhất nhì, chẳng những cật lực buôn gái, buôn chính trị… để thu lợi, mà còn dám phỗng tay trên Hồ Tôn Hiến: “Thúc Sinh tiến cử một chân dài Nam Bộ. Trong kiệu màn che trướng rủ, Thúc Sinh động tà tâm hiếp cô này ngay giữa đường tiến cung. Cô mang dòng máu phản bội trong người về với Hồ Tôn Hiến. Có người bảo, Thúc Sinh buôn vua theo cách của Lã Bất Vi.


Bản chất của Thúc Sinh vốn dĩ là vậy. Nên trong tình thế nan giải của xã hội, Thúc không ngần ngại bày tỏ quan điểm sống của mình:


Từ Hải hỏi tiếp: “Anh chọn cách nào?”


Thúc Sinh nói: “Không chọn cách nào cả.”


Từ Hải hỏi mà dường như không nhắm vào ai: “Vậy thì chúng ta đang vui chơi, hay làm cách mạng?”


Thúc Sinh cười, nói: “Chúng ta đang kiếm ăn.”


Sở Khanh là tay lừa lọc thuộc loại thượng hạng ngoại hạng. Gã bước ra từ Nguyễn Du chí Nguyễn Viện bây giờ đều với tư thế của tên đón gió trở cờ, lừa lọc tình và lừa lọc chủ. Đóng bộ mặt của người đương thời, cộng với tài năng báo lá cải, cái  mồm dẻo cùng khát vọng chứa đầy dục vọng, gã ton hót và bỗng chốc trở thành Hội trưởng Hội Văn nghệ sĩ và các loại tương cận, có nhiệm vụ chăn dắt bầy cừu: “Nhiệm vụ của Hội là lừa tình toàn thể bầy cừu… Sở Khanh lừa ngay bọn háo danh muốn trở thành văn nghệ sĩ cung đình. Chúng sẵn sàng cống nạp cho Sở Khanh tất cả mọi thứ kể cả vợ con”.


Từ khi Thúc Sinh nói với Từ Hải: “Cậu phải biến đi” thì lập tức Từ Hải biến mất khỏi vòng tròn Thúc Sinh. Lập tức Mã Giám Sinh được gọi đến thế chỗ của Từ để làm thầy dùi cho quan nội chính Thúc Sinh trong các thương vụ buôn gái ra nước ngoài, và bị Đạm Tiên cho là “cạnh tranh không lành mạnh”. Mã không cần đạo đức lành mạnh hay lành yếu. Hắn chỉ cần tiền. 2.000 đô trên mỗi đầu gái kiếm chồng ngoại để hắn bỏ túi là phương châm bất di dịch. Bản chất bỉ ổi của Mã không chỉ dừng lại ở chỗ “tuyệt đối trung thành với cam kết gìn giữ nguyên trạng với khách hàng. Nhưng hắn tận dụng ưu thế của mình để kiểm tra “hàng” một cách thích đáng”, mà còn “đưa cô gái về phòng mình trong khách sạn và cắt tiết cô cũng như ngày xưa hắn hắn đã cắt tiết Vương Thuý Kiều”. Biết cô gái là con Thuý Kiều, nhưng Mã không dung tha, chỉ trả lại 2.000 đô là chỗ tiền thế chân, coi như đó là món tiền bỏ mua trinh tiết! Và rồi hắn lý giải cho hành vi của mình: “người ta có sẵn sàng cho anh hiếp không?… đấy là vấn đề dân trí. Dân trí để cho anh hiếp thì tại sao anh lại không hiếp?”.


Và bộ mặt thật của Mã tự chính hắn khẳng định: “Hãy nhớ điều này: Đểu cáng thì không ai bằng Mã Giám Sinh”!


Chỉ tội cho Vương Quan. Chàng chỉ được phép xuất hiện vào hồi cuối vở diễn. Chức quan trong triều thì nhỏ, cộng với lý lịch chẳng mấy sạch sẽ của gia đình và bản chất nhân hậu đã khiến chàng bị coi là “mất lập trường giai cấp”, là lực cản lớn nhất trên con đường hoạn lộ. Dẫu vậy, khi tấn tuồng đã gần hết cảnh, hết hồi, sắp đến lúc phải hạ màn thì cũng chính tay lưu manh Thúc Sinh xuất hiện kéo chàng vào trò chơi bán buôn lịch sử. Lời Thúc Sinh: “Thượng phương bảo kiếm sẽ được giao cho cậu” cũng đồng nghĩa với việc thanh tẩy “ngôi nhà chung… càng lúc càng bốc mùi hôi thối”. Thanh tẩy là chuyện quốc gia đại sự hàng đầu, thuộc nhóm hàng cơ mật. Nhưng có Thượng phương bảo kiếm trong tay, thay vì hành xử theo “việc nước trước thù nhà” thì anh em Vương Quan lại bàn nhau khử tất cả những kẻ đã làm nhục, làm tan nát gia đình: “tôi vẫn ấm ức về vụ chị Thúy Kiều xưa kia. Nỗi đau của anh cũng như nỗi nhục của gia đình chúng ta đến lúc cần phải được thanh tẩy. Hơn nữa, dân chúng cũng đang nổi loạn, đây là cơ hội để chúng ta rửa hận. Hồ Tôn Hiến và Mã Giám Sinh phải bị quăng vào lửa. Ngay trước khi tôi công bố tội trạng của chúng, anh phải bắt được cả hai. Nếu thất bại, anh biết hậu quả sẽ ra sao”.


Và, để cho thiên tiểu thuyết “phản tiểu thuyết” của mình có hậu, Nguyễn Viện viết thêm một cảnh rất nhỏ, như thể để giải toả nỗi uất ức trong nhân vật “quần chúng” chỉ được gọi tên, không có mặt; đồng thời cũng để giải toả những bi phẫn chất chứa trong ông. Cảnh đó diễn ra nhanh và gọn đúng với ý đồ của những tay buôn bán lịch sử:


Trước ngày xảy ra phiên tòa xét xử Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh vào trại giam đưa cho Hồ Tôn Hiến một chai thuốc độc.


Mã Giám Sinh hỏi: “Ông còn nhớ cái bùa chú mật tông thỉnh từ Tây Tạng trên cục đá mẹ ở Đền Hùng và 2301 cục đá con xuyên Việt không?”


Hồ Tôn Hiến nói: “Nhớ. Mày đã đánh tráo nó?”


Mã Giám Sinh bảo: “Phải. Muôn năm trường trị là của Mã Giám Sinh chứ không phải Hồ Tôn Hiến.”


Nghe xong, Hồ Tôn Hiến hộc máu tung tóe, tim ngừng đập. Tuy nhiên, Mã Giám Sinh vẫn đổ hết chai thuốc độc vào miệng Hồ Tôn Hiến.


Lịch sử ghi: Năm Gia Tĩnh thứ 43 (1565), Hồ Tôn Hiến bị bắt giam. Đến ngày 3 tháng 11 năm ấy, Hồ Tôn Hiến uất ức tự vẫn, chết trong ngục.


Khép lại những dòng cuối cùng của Đĩ thúi trên procontra.asia, đồng thời cũng chuẩn bị khép lại những dòng cuối bài viết này, tôi lại nhớ tới đoạn ray rứt nội tâm của Nguyễn, như những ray rứt của Nguyễn Viện trước một thời đại không tên không tuổi, mông lung hư ảo. Thời đại đó vừa là quá khứ xa xôi mà cũng là hiện tại gần. Những con người trong đó, bước ra trên trang sách của ông có thể đang dần hoá thạch mà cũng mới tinh khôi như vừa bước ra từ một buổi sớm mai dầm dề máu me dối trá, lừa mị. Tôi tự hỏi, ông đã trải lòng trên quyển tiểu thuyết này hay chính những nhân vật ông dựng nên đã xô đẩy ông như ông đã xô nhân vật Nguyễn đang “nằm bẹp gí trong nhà Mã Kiều Nhi” với câu hỏi hơn bốn trăm năm trước của Shakespeare “to be or not to be”? Nhưng tồn tại để làm gì, hành xử như thế nào trong mối tương quan giữa quần chúng và lịch sử, giữa tự do hành động tiệm cận tự do dẫu cho họ thừa biết “máu thịt sản sinh máu thịt”? Có lẽ đây mới chính là máu và nước mắt trong những thổn thức dằn vặt của cả hai, tác giả và nhân vật: “Với Nguyễn, Hồ Tôn Hiến dù thế nào vẫn là một nhân vật tiểu thuyết. Nhưng nhân vật ấy đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chàng, một tai nạn của bệnh tiêu chảy, trở thành một tác nhân độc lập và hành xử theo cách của hắn. Nguyễn biết, không có cách nào khác để loại trừ hắn là để chính cái hệ thống đang vận hành hắn xử hắn. Tính cách trí thức của chàng, như thế một lần nữa, đè bẹp chàng. Thay vì đóng vai trò của một chủ thể lịch sử, chàng buông xuôi cho cái hệ thống mù lòa ấy đưa đẩy.


An nhiên tự tại hay từ khước chính mình cũng chỉ là một cách trốn chạy thực tại.


Buengkan–Laos6/2013


© 2013 Nguyễn Lệ Uyên& pro&contra


Nhà văn Nguyễn Viện (1949) hiện sống tại Sài Gòn. Ông là tác giả của 9 tiểu thuyết và nhiều truyện ngắn, kịch, thơ, tạp bút và tiểu luận.


Ảnh của Trần Tiến Dũng




[i] Táng Gia cẩu: Ngã độc Luận ngữ, Lý Linh, NXB Nhân Dân Sơn Tây, Trung Quốc, 2007

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 24, 2013 03:57

June 22, 2013

Phía sau một ổ khóa đã chết vì keo Con Voi

Phạm Hồng Sơn


Cách đây gần 20 năm, lúc còn chưa bị coi là “phản động”, khi giao du với những người làm nghề công an, tôi được họ kể cho nghe nhiều cách họ học trong trường để khuất phục những đối tượng “cứng đầu”. Ví dụ, nếu một chủ doanh nghiệp không chịu hào phóng “tự nguyện” biếu tiền cho Công an Phường vào dịp lễ tết hoặc dịp đi nghỉ mát thì chỉ cần cho người lén khóa trái cửa văn phòng đó một lần là mọi việc sẽ “xuôi” hết.


Đến nay tôi không rõ công an Việt Nam có còn dùng chiêu trò trên hay họ còn có những chiêu trò nào khác để làm tiền các doanh nghiệp, nhưng chắc chắn giới an ninh chính trị Việt Nam đang và sẽ phổ biến một trò để ngăn khách đến thăm một người bất đồng chính kiến: Một lọ keo nhãn hiệu Con Voi là đủ. Bơm đầy keo Con Voi vào ổ khóa nhà đối tượng trước giờ hẹn ít phút là “xong”.


Đó chính là trò an ninh Việt Nam đã áp dụng đối với cá nhân tôi vào sáng ngày 21/06/2013. Cửa cổng nhà không thể mở ngay được và vị khách cũng không thể qua được hàng rào người lố nhố chắn ngay trước ngõ 72B Thụy Khuê – Hà Nội. Cuộc gặp mặt tại nhà đã trở thành vài câu trao đổi và chúc nhau bình an qua sóng điện thoại có theo dõi.


Nếu coi lịch sử là những bàn chân ướt của con người giẫm trên tấm thảm khô chứa cả tương lai thì những chiêu trò hạ đẳng kể trên của thế hệ công an Việt Nam hiện nay cũng chỉ nằm trong vệt thấm loang ra từ những bước chân của các thế hệ cầm quyền cộng sản trước đó và của cả những tiền nhân không cộng sản.


Nồi đất úp phân trâu giả mìn để cản xe bọc thép, đội quân tóc dài cho đi đầu để giấu bớt tính đối đầu, thu dụng cả quân du đãng, “chạy dọc” vào đội quân cách mạng, đóng giả thầy mo để che mắt địch, giả dạng tử thi để đột nhập vào bệnh viện cướp dụng cụ phẫu thuật, lập ra đảng cuội để giăng bẫy và giấu diếm bản chất độc tài, ưu tiên chiến thuật du kích hơn đánh chính qui, khủng bố đối phương rồi lẩn trốn vào dân chúng, tung truyền đơn gây rối rồi vu cho đối lập… cho đến những trò khóa trái cửa, ném mắm tôm trộn phân người với nhớt xe máy, đụng xe trên đường, quấy rối bằng thương binh giả và thật, dùng dân phòng, an ninh giả dạng côn đồ hay dùng chính côn đồ thứ thiệt để sách nhiễu, hăm dọa người bất đồng chính kiến v.v. và v.v.


Tất cả, tất cả những thứ đó, nhìn thật kỹ, rút lại vẫn hoàn toàn ở trong cái vòng tiềm thức láu cá, tiểu nông, nhỏ hẹp, man khai với nhu cầu hàng đầu là tồn tại, quyết ăn thua bằng mọi giá pha lẫn khát khao tự khẳng định một cách yêng hùng hạ đẳng từ một cây văn hóa có những rễ cái kiểu Trạng Quỳnh “cho ỉa cấm đái”, “Đ.M thằng nào kể cho thằng nào”. Một nền văn hóa đắc thắng với sự trả thù cá nhân đầy lén lút “Trạng chết thì Chúa cũng băng hà”. Một nền văn hóa ngật ngưỡng với “trí khôn của ta đây”. Một nền văn hóa hả hê với sự nước đôi đầy vị kỷ “khôn chết, dại chết, biết thì sống”. Một nền văn hóa vẫn lan tràn sự tự mãn với phương châm “hai chê kèm sáu nịnh”, “cứ chửi Đảng nhưng đừng ra khỏi Đảng” dù nhu cầu sống còn không còn là nguy cấp.


Trên cái phông văn hóa đó, trong hÆ¡n ná»­a thế ká»· qua, thậm chí vài trăm năm qua, đã in đậm màu cá»§a nhiều chiến thắng, thành quả khiến nhiều kẻ phải nghiêng mình và phần nào đã giữ cho dân tộc Việt vẫn tồn tại, nhưng các gam màu cá»§a chính trá»±c, cao thượng, minh bạch, phản biện triệt để – những sắc màu cá»§a văn minh – thá»±c quá hiếm, quá nhạt.


Tôi biết thật phiến diện và có thể là thái quá khi nhìn văn hóa, lịch sá»­ và tương lai cá»§a một dân tộc từ một ổ khóa đã chết vì keo Con Voi. Nhưng tôi chắc chắn cái chết cá»§a ổ khóa đó không hoàn toàn đến từ những cá nhân cụ thể trong hệ thống an ninh độc tài hiện nay. Ngay trong đám người lố nhố sáng hôm qua ở cổng nhà tôi – như những người quen cá»§a tôi kể lại – đa phần lại có những khuôn mặt, dù lộ rõ sá»± căng thẳng được trộn nham nhở với chất lén lút, vẫn không mất hết những nét sáng sá»§a, tinh khôi cá»§a cái tuổi đẹp nhất cá»§a đời người – tuổi 20, 30 – cái tuổi thuộc về tương lai, cái tuổi lẽ thường phải nhiều hồn nhiên hÆ¡n thá»§ đoạn.


Chính tôi cũng thấy thấp thoáng vài gương mặt non trẻ, láo lác đó vào ngay lúc phát hiện ra sự cố. Và tôi tự hỏi, một nền văn hóa, một truyền thống chuộng sự cao thượng, phổ biến thái độ rõ ràng không nước đôi, từ gia đình ra xã hội, có sinh được ra một chế độ mập mờ, lưu manh hạ cấp như hiện nay không? Tôi tin là không, không thể.


© 2013 Phạm Hồng Sơn & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 22, 2013 03:27

Phía sau một ổ khóa đã chết vì keo Con Voi

Phạm Hồng Sơn


Cách đây gần 20 năm, lúc còn chưa bị coi là “phản động”, khi giao du với những người làm nghề công an, tôi được họ kể cho nghe nhiều cách họ học trong trường để khuất phục những đối tượng “cứng đầu”. Ví dụ, nếu một chủ doanh nghiệp không chịu hào phóng “tự nguyện” biếu tiền cho Công an Phường vào dịp lễ tết hoặc dịp đi nghỉ mát thì chỉ cần cho người lén khóa trái cửa văn phòng đó một lần là mọi việc sẽ “xuôi” hết.


Đến nay tôi không rõ công an Việt Nam có còn dùng chiêu trò trên hay họ còn có những chiêu trò nào khác để làm tiền các doanh nghiệp, nhưng chắc chắn giới an ninh chính trị Việt Nam đang và sẽ phổ biến một trò để ngăn khách đến thăm một người bất đồng chính kiến: Một lọ keo nhãn hiệu Con Voi là đủ. Bơm đầy keo Con Voi vào ổ khóa nhà đối tượng trước giờ hẹn ít phút là “xong”.


Đó chính là trò an ninh Việt Nam đã áp dụng đối với cá nhân tôi vào sáng ngày 21/06/2013. Cửa cổng nhà không thể mở ngay được và vị khách cũng không thể qua được hàng rào người lố nhố chắn ngay trước ngõ 72B Thụy Khuê – Hà Nội. Cuộc gặp mặt tại nhà đã trở thành vài câu trao đổi và chúc nhau bình an qua sóng điện thoại có theo dõi.


Nếu coi lịch sử là những bàn chân ướt của con người giẫm trên tấm thảm khô chứa cả tương lai thì những chiêu trò hạ đẳng kể trên của thế hệ công an Việt Nam hiện nay cũng chỉ nằm trong vệt thấm loang ra từ những bước chân của các thế hệ cầm quyền cộng sản trước đó và của cả những tiền nhân không cộng sản.


Nồi đất úp phân trâu giả mìn để cản xe bọc thép, đội quân tóc dài cho đi đầu để giấu bớt tính đối đầu, thu dụng cả quân du đãng, “chạy dọc” vào đội quân cách mạng, đóng giả thầy mo để che mắt địch, giả dạng tử thi để đột nhập vào bệnh viện cướp dụng cụ phẫu thuật, lập ra đảng cuội để giăng bẫy và giấu diếm bản chất độc tài, ưu tiên chiến thuật du kích hơn đánh chính qui, khủng bố đối phương rồi lẩn trốn vào dân chúng, tung truyền đơn gây rối rồi vu cho đối lập… cho đến những trò khóa trái cửa, ném mắm tôm trộn phân người với nhớt xe máy, đụng xe trên đường, quấy rối bằng thương binh giả và thật, dùng dân phòng, an ninh giả dạng côn đồ hay dùng chính côn đồ thứ thiệt để sách nhiễu, hăm dọa người bất đồng chính kiến v.v. và v.v.


Tất cả, tất cả những thứ đó, nhìn thật kỹ, rút lại vẫn hoàn toàn ở trong cái vòng tiềm thức láu cá, tiểu nông, nhỏ hẹp, man khai với nhu cầu hàng đầu là tồn tại, quyết ăn thua bằng mọi giá pha lẫn khát khao tự khẳng định một cách yêng hùng hạ đẳng từ một cây văn hóa có những rễ cái kiểu Trạng Quỳnh “cho ỉa cấm đái”, “Đ.M thằng nào kể cho thằng nào”. Một nền văn hóa đắc thắng với sự trả thù cá nhân đầy lén lút “Trạng chết thì Chúa cũng băng hà”. Một nền văn hóa ngật ngưỡng với “trí khôn của ta đây”. Một nền văn hóa hả hê với sự nước đôi đầy vị kỷ “khôn chết, dại chết, biết thì sống”. Một nền văn hóa vẫn lan tràn sự tự mãn với phương châm “hai chê kèm sáu nịnh”, “cứ chửi Đảng nhưng đừng ra khỏi Đảng” dù nhu cầu sống còn không còn là nguy cấp.


Trên cái phông văn hóa đó, trong hơn nửa thế kỷ qua, thậm chí vài trăm năm qua, đã in đậm màu của nhiều chiến thắng, thành quả khiến nhiều kẻ phải nghiêng mình và phần nào đã giữ cho dân tộc Việt vẫn tồn tại, nhưng các gam màu của chính trực, cao thượng, minh bạch, phản biện triệt để – những sắc màu của văn minh – thực quá hiếm, quá nhạt.


Tôi biết thật phiến diện và có thể là thái quá khi nhìn văn hóa, lịch sử và tương lai của một dân tộc từ một ổ khóa đã chết vì keo Con Voi. Nhưng tôi chắc chắn cái chết của ổ khóa đó không hoàn toàn đến từ những cá nhân cụ thể trong hệ thống an ninh độc tài hiện nay. Ngay trong đám người lố nhố sáng hôm qua ở cổng nhà tôi – như những người quen của tôi kể lại – đa phần lại có những khuôn mặt, dù lộ rõ sự căng thẳng được trộn nham nhở với chất lén lút, vẫn không mất hết những nét sáng sủa, tinh khôi của cái tuổi đẹp nhất của đời người – tuổi 20, 30 – cái tuổi thuộc về tương lai, cái tuổi lẽ thường phải nhiều hồn nhiên hơn thủ đoạn.


Chính tôi cũng thấy thấp thoáng vài gương mặt non trẻ, láo lác đó vào ngay lúc phát hiện ra sự cố. Và tôi tự hỏi, một nền văn hóa, một truyền thống chuộng sự cao thượng, phổ biến thái độ rõ ràng không nước đôi, từ gia đình ra xã hội, có sinh được ra một chế độ mập mờ, lưu manh hạ cấp như hiện nay không? Tôi tin là không, không thể.


© 2013 Phạm Hồng Sơn & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 22, 2013 03:27

June 20, 2013

Bao giờ em sẽ dẫn con về thăm nhà?

Phạm Thị Hoài


Em đến nước Đức như một dãy số không dàn hàng ngang. Không gia đình. Không nghề nghiệp. Không bằng cấp. Không học vấn. Không ngoại ngữ. Không một xu dính túi. Tất nhiên là không hộ chiếu, không thị thực nhập cảnh. Không cả nhan sắc. Đến chơi nhà, tôi còn thấy em không giỏi việc nội trợ; bồn tắm thì vương mấy cọng rau, tủ lạnh vướng vài sợi tóc. Khi đã tàn nhẫn thì tạo hóa tàn nhẫn triệt để. Tất cả 50 hạt trên 10 gióng của chiếc bàn tính gẩy là số phận em đều đứng im.


Cho nên gặp lại em bốn năm sau trong một cửa hàng bán đồ 99 xu mà em là bà chủ, tôi sững sờ. Ở đó em là nô lệ của chính mình, từ tám giờ đến tám giờ; nhưng những người Việt tay không đi bắt giấc mơ Đức cặm cụi mỗi ngày mười mấy tiếng đồng hồ là bình thường. Em đã nói được chút tiếng Đức, vừa có bằng lái và sở hữu một chiếc xe đã chạy hơn một trăm ngàn cây số, nhưng là Mercedes. Thân hình gầy guộc năm nào đã đẫy đà, tóc nhộm hoe vàng, lông mày xăm nâu, da dẻ bớt mầu nắng gió Quảng Bình. Tôi đoán em cũng đã trả hết tiền vé hai trăm triệu cho chuyến vượt biên bất hợp pháp vào Đức. Tất cả như một câu chuyện thành đạt ngoài sức tưởng tượng. Em có quyền tự hào. Có lẽ em cũng may mắn.


Chẳng hạn may mắn hơn một chị Nghệ An đứng tuổi, có lẽ đã gần sáu mươi, cả ngày chực ở bãi đậu xe của một siêu thị giấm dúi bán thuốc lá lậu. Có lần chị khoe với tôi là con trai ở nhà vừa vào đại học. Trong vài phút, người phụ nữ ấy quên rằng mình đang chui lủi kiếm những đồng tiền phạm pháp, nhớn nhác chạy cảnh sát, đã bị bắt dăm bảy lần, sắp bị tòa phạt và sớm muộn cũng bị trục xuất. Chị chỉ còn là một người mẹ đầy tự hào. Thời trẻ tôi thấy những bà mẹ suốt ngày khoe con là lố bịch. Sau này tôi mới thấy điều đáng kiêu hãnh nhất của cuộc đời mình là đứa con. Riêng em không thế.


Công nghệ chạy giấy tờ để trở thành “người của nước Đức, có gì nước Đức lo cho hết”, như người Việt sang đây bất hợp pháp ao ước, hiện nay không quá khó. Chìa khóa để đổi đời là những đứa con. Đứa thứ nhất trên danh nghĩa có quốc tịch Đức để người mẹ “ăn theo”. Danh nghĩa ấy theo thời giá hiện nay lên tới ba chục ngàn Euro. Đứa thứ hai “ăn theo” mẹ và người bố lại “ăn theo” nó. Đứa thứ ba để cấp danh nghĩa cho một người bố khác, lấy lại vốn. Giấy khai sinh của trẻ em gốc Việt thế hệ tị nạn kinh tế ở Đức bây giờ là một mê hồn trận với những ông bố thật và những ông bố giả chồng lên nhau. Nhưng nhiều năm trước, em không có cơ hội đó. Chiếc chìa khóa của em mầu đen. Em sinh con với một chàng Mozambique, công nhân hợp tác lao động ở CHDC Đức cũ, đã nhập tịch, mà em gọi là “thằng mọi”. Khi “thằng mọi” bỏ đi với một “con Mông Cổ mắt híp”, còn lại hai mẹ con. Em bảo giấy tờ mình xong rồi, tiếc gì thằng Tây hôi. Về thăm gia đình em đi một mình. Em bảo đem thằng “Oẳn tà roằn” về Quảng Bình, cha mạ ra đường không dám nhìn ai nữa.


Tôi đã nghĩ đến em và thằng bé da đen buồn lủi thủi, khi Barack Obama trở thành người đàn ông quyền lực nhất thế giới, không lâu sau chuyến thăm Berlin lần thứ nhất mùa hè năm 2008 và thủ đô nước Đức nóng rực trong cơn sốt Yes We Can. Hôm qua tôi ghé cửa hàng của em, khi Obama đến Berlin lần thứ hai. Tôi mất hai tiếng rưỡi đồng hồ để bò trên đoạn đường bình thường chạy xe 20 phút. Toàn bộ thành phố bị lùa khỏi trung tâm, để ngài Tổng thống cùng gia đình và đoàn tùy tùng hộ vệ được an toàn chuyển động trên những đường phố Berlin đầy cảnh sát và không một bóng dân sự. Obama diễn thuyết trước 6.000 người tại Cổng Brandenburg thay vì trước 200.000 người tại Cột Khải hoàn như 5 năm trước. Cơn sốt lần này nóng rực các mạng xã hội và mang tên Yes We Scan. Người gửi cho tôi đường link vào trang Obama Is Checking Your Email tái bút ngay bên dưới: “Xóa ngay email này, trước khi tình báo Mỹ tìm ra bạn”. Facebook và Twitter tràn đầy những hình ảnh giễu cợt ngài Tổng thống. Ảnh một bên là J.F. Kennedy với phát ngôn bằng tiếng Đức: “Ich bin ein Berliner” (Tôi là một người Berlin) tròn 50 năm trước tại Berlin, một bên là câu của Obama: “Ich bin ein Trojaner” (Tôi là một phần mềm do thám Trojan). Một bên là hình Bức tường Berlin với câu “Mr. Gorbachev, tear down this gate!” của Tổng thống Reagan, một bên là hình bức tường rào dây kẽm gai của nhà tù Guantanamo với câu “Mr. Obama, tear down this gate!”. Một bên là M.L. King với câu “I have a dream”, một bên là câu của Obama: “I have a drone”. Hình Obama lột mặt nạ rồi hiện ra thành Bush nhan nhản. Tại Checkpoint Charlie, cửa khẩu nổi tiếng nhất từng ngăn Đông và Tây Berlin, những người biểu tình giương biểu ngữ: “Your privacy ends hier” (Không gian riêng tư của quý vị chấm dứt tại đây) ngay dưới tấm bảng lịch sử “You are entering the American Sector” (Quý vị đang bước vào địa phận do Hoa Kỳ kiểm soát). Song được truyền bá nhiều nhất là hình Obama đeo tai nghe, như diễn viên Ulrich Mühe trên áp phích của bộ phim Đức nổi tiếng được giải Oscar Cuộc đời của người khác (Das Leben der anderen) về cơ quan mật vụ Đông Đức Stasi. Bên dưới đề: “Stasi 2.0”. Bên cạnh đề: “All your data is belong to us.” Mươi ngày trước trên tờ Guardian, ông Daniel Ellsberg, người đã tiết lộ Hồ sơ Pentagon về Chiến tranh Việt Nam bốn mươi năm trước đã đưa ra cụm từ mới: United Stasi of America.


Obama đến. Obama đi. Em không lây những cơn sốt vừa kể. Em sắp nhượng lại cửa hàng 99 xu, mở tiệm bán hoa. Tôi hỏi thăm, đã dẫn con về thăm nhà chưa. Em lắc.


© 2013 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 20, 2013 17:51

Bao giờ em sẽ dẫn con về thăm nhà?

Phạm Thị Hoài


Em đến nước Đức như một dãy số không dàn hàng ngang. Không gia đình. Không nghề nghiệp. Không bằng cấp. Không học vấn. Không ngoại ngữ. Không một xu dính túi. Tất nhiên là không hộ chiếu, không thị thực nhập cảnh. Không cả nhan sắc. Đến chơi nhà, tôi còn thấy em không giỏi việc nội trợ; bồn tắm thì vương mấy cọng rau, tủ lạnh vướng vài sợi tóc. Khi đã tàn nhẫn thì tạo hóa tàn nhẫn triệt để. Tất cả 50 hạt trên 10 gióng của chiếc bàn tính gẩy là số phận em đều đứng im.


Cho nên gặp lại em bốn năm sau trong một cửa hàng bán đồ 99 xu mà em là bà chủ, tôi sững sờ. Ở đó em là nô lệ của chính mình, từ tám giờ đến tám giờ; nhưng những người Việt tay không đi bắt giấc mơ Đức cặm cụi mỗi ngày mười mấy tiếng đồng hồ là bình thường. Em đã nói được chút tiếng Đức, vừa có bằng lái và sở hữu một chiếc xe đã chạy hơn một trăm ngàn cây số, nhưng là Mercedes. Thân hình gầy guộc năm nào đã đẫy đà, tóc nhộm hoe vàng, lông mày xăm nâu, da dẻ bớt mầu nắng gió Quảng Bình. Tôi đoán em cũng đã trả hết tiền vé hai trăm triệu cho chuyến vượt biên bất hợp pháp vào Đức. Tất cả như một câu chuyện thành đạt ngoài sức tưởng tượng. Em có quyền tự hào. Có lẽ em cũng may mắn.


Chẳng hạn may mắn hơn một chị Nghệ An đứng tuổi, có lẽ đã gần sáu mươi, cả ngày chực ở bãi đậu xe của một siêu thị giấm dúi bán thuốc lá lậu. Có lần chị khoe với tôi là con trai ở nhà vừa vào đại học. Trong vài phút, người phụ nữ ấy quên rằng mình đang chui lủi kiếm những đồng tiền phạm pháp, nhớn nhác chạy cảnh sát, đã bị bắt dăm bảy lần, sắp bị tòa phạt và sớm muộn cũng bị trục xuất. Chị chỉ còn là một người mẹ đầy tự hào. Thời trẻ tôi thấy những bà mẹ suốt ngày khoe con là lố bịch. Sau này tôi mới thấy điều đáng kiêu hãnh nhất của cuộc đời mình là đứa con. Riêng em không thế.


Công nghệ chạy giấy tờ để trở thành “người của nước Đức, có gì nước Đức lo cho hết”, như người Việt sang đây bất hợp pháp ao ước, hiện nay không quá khó. Chìa khóa để đổi đời là những đứa con. Đứa thứ nhất trên danh nghĩa có quốc tịch Đức để người mẹ “ăn theo”. Danh nghĩa ấy theo thời giá hiện nay lên tới ba chục ngàn Euro. Đứa thứ hai “ăn theo” mẹ và người bố lại “ăn theo” nó. Đứa thứ ba để cấp danh nghĩa cho một người bố khác, lấy lại vốn. Giấy khai sinh của trẻ em gốc Việt thế hệ tị nạn kinh tế ở Đức bây giờ là một mê hồn trận với những ông bố thật và những ông bố giả chồng lên nhau. Nhưng nhiều năm trước, em không có cơ hội đó. Chiếc chìa khóa của em mầu đen. Em sinh con với một chàng Mozambique, công nhân hợp tác lao động ở CHDC Đức cũ, đã nhập tịch, mà em gọi là “thằng mọi”. Khi “thằng mọi” bỏ đi với một “con Mông Cổ mắt híp”, còn lại hai mẹ con. Em bảo giấy tờ mình xong rồi, tiếc gì thằng Tây hôi. Về thăm gia đình em đi một mình. Em bảo đem thằng “Oẳn tà roằn” về Quảng Bình, cha mạ ra đường không dám nhìn ai nữa.


Tôi đã nghĩ đến em và thằng bé da đen buồn lủi thủi, khi Barack Obama trở thành người đàn ông quyền lực nhất thế giới, không lâu sau chuyến thăm Berlin lần thứ nhất mùa hè năm 2008 và thủ đô nước Đức nóng rực trong cơn sốt Yes We Can. Hôm qua tôi ghé cửa hàng của em, khi Obama đến Berlin lần thứ hai. Tôi mất hai tiếng rưỡi đồng hồ để bò trên đoạn đường bình thường chạy xe 20 phút. Toàn bộ thành phố bị lùa khỏi trung tâm, để ngài Tổng thống cùng gia đình và đoàn tùy tùng hộ vệ được an toàn chuyển động trên những đường phố Berlin đầy cảnh sát và không một bóng dân sự. Obama diễn thuyết trước 6.000 người tại Cổng Brandenburg thay vì trước 200.000 người tại Cột Khải hoàn như 5 năm trước. Cơn sốt lần này nóng rực các mạng xã hội và mang tên Yes We Scan. Người gửi cho tôi đường link vào trang Obama Is Checking Your Email tái bút ngay bên dưới: “Xóa ngay email này, trước khi tình báo Mỹ tìm ra bạn”. Facebook và Twitter tràn đầy những hình ảnh giễu cợt ngài Tổng thống. Ảnh một bên là J.F. Kennedy với phát ngôn bằng tiếng Đức: “Ich bin ein Berliner” (Tôi là một người Berlin) tròn 50 năm trước tại Berlin, một bên là câu của Obama: “Ich bin ein Trojaner” (Tôi là một phần mềm do thám Trojan). Một bên là hình Bức tường Berlin với câu “Mr. Gorbachev, tear down this gate!” của Tổng thống Reagan, một bên là hình bức tường rào dây kẽm gai của nhà tù Guantanamo với câu “Mr. Obama, tear down this gate!”. Một bên là M.L. King với câu “I have a dream”, một bên là câu của Obama: “I have a drone”. Hình Obama lột mặt nạ rồi hiện ra thành Bush nhan nhản. Tại Checkpoint Charlie, cửa khẩu nổi tiếng nhất từng ngăn Đông và Tây Berlin, những người biểu tình giương biểu ngữ: “Your privacy ends hier” (Không gian riêng tư của quý vị chấm dứt tại đây) ngay dưới tấm bảng lịch sử “You are entering the American Sector (Quý vị đang bước vào địa phận do Hoa Kỳ kiểm soát). Song được truyền bá nhiều nhất là hình Obama đeo tai nghe, như diễn viên Ulrich Mühe trên áp phích của bộ phim Đức nổi tiếng được giải Oscar Cuộc đời của người khác (Das Leben der anderen) về cơ quan mật vụ Đông Đức Stasi. Bên dưới đề: “Stasi 2.0”. Bên cạnh đề: “All your data is belong to us.” Mươi ngày trước trên tờ Guardian, ông Daniel Ellsberg, người đã tiết lộ Hồ sơ Pentagon về Chiến tranh Việt Nam bốn mươi năm trước đã đưa ra cụm từ mới: United Stasi of America.


Obama đến. Obama đi. Em không lây những cơn sốt vừa kể. Em sắp nhượng lại cửa hàng 99 xu, mở tiệm bán hoa. Tôi hỏi thăm, đã dẫn con về thăm nhà chưa. Em lắc.


© 2013 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 20, 2013 17:51

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.