Phạm Thị Hoài's Blog, page 36

July 13, 2013

Lộng giả thành chân – Những điều tốt lành về nền kinh tế hàng nhái của Trung Quốc

Kal Raustilia và Christopher Sprigman


Trần Ngọc Cư dịch


Dẫn nhập


Một điều khá nghịch lý là bài tiểu luận này được viết bởi hai chuyên gia về luật sở hữu trí tuệ Mỹ, nhưng gần như để biện minh cho hiện tượng các doanh nghiệp và cá nhân Trung Quốc đã và đang ào ạt sao chép sản phẩm phương Tây một cách công khai với sự khuyến khích của chính quyền Bắc Kinh. Và cũng là điều đáng suy nghĩ khi cuốn The Knockoff Economy: How Imitation Sparks Innovation của Raustilia và Sprigman xuất hiện giữa bối cảnh các cuộc đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang gặp trở ngại vì những mâu thuẫn giữa Mỹ và các đối tác tiềm năng của Mỹ về quyền sở hữu trí tuệ. Câu hỏi cần đặt ra ở đây là liệu Mỹ có cần nhượng bộ hay không trong lãnh vực quyền sở hữu trí tuệ để có thể thực hiện một liên minh kinh tế nhằm quân bình lực lượng với ảnh hưởng kinh tế-chính trị của Trung Quốc.


Một điểm đáng tranh luận khác là quan hệ giữa lao động và sáng tạo. Để khai thác giá nhân công rẻ tại thế giới đang phát triển, đặc biệt tại Trung Quốc, nhiều công ty phương Tây chủ yếu là Mỹ đã đưa hoạt động chế tạo (manufacturing) ra nước ngoài, tạo nên một sự cách ly giữa lao động và sáng tạo ngay chính trong công ty cũng như trên đất nước của mình. Do đó, một câu hỏi khác cần đặt ra là, làm sao người phương Tây đặc biệt là Mỹ vẫn tiếp tục phát huy sáng kiến của mình về các sản phẩm khi họ không còn trực tiếp tham gia vào tiến trình chế tạo các sản phẩm đó? Ý kiến cho rằng Hoa Kỳ là “một xã hội có tinh thần phát minh cao” có lẽ đúng với thế kỷ 20 hơn là với thế kỷ 21, khi Trung Quốc vận dụng những nhà máy của các công ty nước ngoài như những trường thực hành cho công nhân bản địa, giành lấy cơ hội “vừa học vừa làm”, vừa sao chép vừa sáng tạo, của người Mỹ trước đây.


Người dịch


_______________


Không ai biết chắc tại sao một số xã hội có nhiều sáng kiến hơn những xã hội khác. Hoa Kỳ là một xã hội có tinh thần phát minh cao, là nơi phát sinh một loạt công nghệ – máy bay, bom hạt nhân, Internet – đã biến đổi thế giới. Trái lại, Trung Quốc hiện đại lại thường bị chỉ trích về nạn sao chép tràn lan các phát minh và tác phẩm sáng tạo nước ngoài. Từng là quê hương của thuốc súng, công nghệ in, và nhiều phát minh khác làm biến đổi xã hội, Trung Quốc ngày nay nổi tiếng hơn các nước khác về hàng nhái gần như đủ mọi sản phẩm mà ta có thể tưởng tượng được: xe hơi, áo quần, máy vi tính, thức ăn nhanh, dược liệu, thậm chí nguyên cả những ngôi làng châu Âu. Hoa Kỳ cho ra đời chiếc iPhone, thì Trung Quốc cho ra đời chiếc HiPhone – bản sao rẻ tiền của một thiết bị có tính đột phá của Mỹ.


Một số người thấy được gốc rễ văn hóa sâu xa của nạn sao chép tràn lan tại Trung Quốc. Nhưng một quan điểm thông thường hơn thì cho rằng, Trung Quốc không có phát minh vì nước này thiếu những biện pháp mạnh mẽ và vững bền để bảo vệ sở hữu trí tuệ. Nhiều luật gia và chuyên gia kinh tế tin tưởng rằng quyền sở hữu trí tuệ là thiết yếu vì chúng đảm bảo rằng phần thưởng kinh tế của phát minh sẽ thuộc về người phát minh. Lý luận này cho rằng, nếu không có những biện pháp bảo vệ như thế, hàng nhái sẽ phá giá và qua mặt hàng gốc. Việc này sẽ gây nên tình trạng khan vốn đầu tư trong lãnh vực phát minh. Lý luận cơ bản là rất dễ hiểu: công việc phát minh bền vững cần đến những luật sở hữu trí tuệ nghiêm khắc, và những nước quá rộng lượng đối với việc sao chép sản phẩm sẽ chịu nhiều thiệt thòi. Và vì trong một nền kinh tế toàn cầu hóa, việc sao chép diễn ra ở nước ngoài có thể gây tai hại giống hệt như việc sao chép diễn ra ở trong nước, lý luận này cũng làm cơ sở cho một loạt hiệp định quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ, mà hầu hết những quốc gia quan trọng đều phê chuẩn, trong đó có Hiệp định của WTO về các Khía cạnh Quyền Sở hữu Trí tuệ Liên quan đến Mậu dịch, được phê chuẩn năm 1994, và nhiều hiệp định song phương thậm chí còn nghiêm khắc hơn nữa, mà nhiều quốc gia đã ký kết kể từ thời điểm đó.


Là thành viên của WTO, Trung Quốc có bổn phận phải theo đúng những qui chế này. Nhưng sự tuân thủ của Trung Quốc còn nằm dưới chuẩn quá xa, khiến Washington luôn bực bội. Tường trình với báo chí tại Nhà Trắng vào tháng Hai năm nay, Thứ trưởng Ngoại giao Robert Hormats gọi việc các hãng và các cá nhân Trung Quốc đánh cắp sở hữu trí tuệ  tràn lan là “một vấn đề nghiêm trọng và rất đáng lo lắng”. Mặc dù những con số ước tính thiệt hại do việc Trung Quốc vi phạm tác quyền gây ra cho nền kinh tế Mỹ khác nhau quá xa và thay đổi theo giả định, nhưng Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ ước tính rằng chỉ nội trong năm 2011, số thiệt hại lên gần 50 tỉ Mỹ kim.


Đối với giới làm chính sách và lãnh đạo Mỹ, qui mô và phạm vi của nạn làm hàng nhái tại Trung Quốc có thể nói là tồi tệ; nhưng còn tồi tệ hơn nữa, đó là việc nó được khuyến khích bởi một chính sách công khai mệnh danh là “sáng kiến bản địa”. Theo một văn kiện hoạch định chính sách được chính phủ Trung Quốc đưa ra năm 2006, sáng kiến bản địa bao gồm “việc làm tăng giá trị của sáng kiến nguyên thủy thông qua việc đồng-phát kiến (co-innovation) và tái-phát kiến (re-innovation) dựa vào việc hấp thụ công nghệ nhập khẩu”. Thật là chính đáng, khiWashingtonxem văn kiện này như một cách Bắc Kinh bật đèn xanh cho việc vi phạm tác quyền. Chính phủ Hoa Kỳ coi việc kiềm chế nạn sao chép sản phẩm tại Trung Quốc là tối cần thiết, đã thúc đẩy Trung Quốc phải thay đổi đường lối – và kiện Trung Quốc trước WTO.


Nhưng sự lo lắng và giận dữ của Mỹ về việc Trung Quốc vi phạm tác quyền được đặt không đúng chỗ. Sao chép không phải là cái nạn dịch ghê gớm mà các lãnh đạo doanh nghiệp và các nhà chính trị Mỹ thường cố tình vẽ ra. Thật vậy, sao chép không luôn luôn xung khắc với sáng kiến, mà thường là một phần quan trọng của sáng tạo. Dù việc sao chép có mặt tai hại, nhưng nó cũng có mặt hữu ích. Gần như tất cả mọi sáng tạo đều phải dựa vào công trình của người đi trước, và việc có thể tự do sao chép và cải tiến những thiết kế hiện có sẽ tiếp sức cho nhiều lãnh vực khác nhau như thời trang, tài chính và công nghệ phần mềm.


Đối với các công ty và cá nhân Trung Quốc, sao chép có những lợi ích không thể cưỡng nổi, vượt khỏi việc đơn thuần là bán giá rẻ hơn các công ty cạnh tranh phương Tây. Nhiều người Trung Quốc đã tiếp thu những kỹ năng thiết kế và chế tạo quí giá bằng cách sao chép những hàng hóa nguyên thủy sản xuất ở nước khác. Kết quả của việc bắt chước này là những sản phẩm và dịch vụ vừa túi tiền, cho phép hàng triệu người Trung Quốc được hưởng những cái bề ngoài dễ chịu của một xã hội tiêu thụ. Và của cải được tạo ra do việc vi phạm tác quyền đã góp phần vào sự tăng trưởng của một giai cấp trung lưu Trung Quốc đang trỗi dậy, giai cấp tiêu biểu cho một vựa tiềm năng vĩ đại gồm những khách hàng mới cho các công ty phương Tây bán hàng thật.


Vì những lý do này, bất cứ một chính sách hợp lý nào đối với nền kinh tế hàng nhái của Trung Quốc đều phải bắt đầu bằng nhận thức thấu đáo rằng sao chép và sáng tạo có liên hệ mật thiết với nhau và rằng việc sao chép là một lực vừa tốt vừa xấu. Vì việc sao chép của Trung Quốc vừa mang lại những lợi ích vừa gây ra những thiệt hại, đồng thời nếu xét đến sự đề kháng mang tính lịch sử của Trung Quốc trước sức ép phương Tây, chúng ta sẽ đối diện một thực tế là, cố gắng thúc đẩy Trung Quốc thay đổi chính sách và cách hành xử là không xứng đáng với vốn liếng chính trị và ngoại giao mà Hoa Kỳ đang tiêu phí vì nỗ lực này.


HÀNG GIẢ CÓ THỰC CHẤT


Để hiểu rõ việc sao chép và phát kiến cùng tồn tại như thế nào tại Trung Quốc ngày nay,  chỉ cần nhìn vào Xiaomi (Tiểu Mễ), một trong những công ty công nghệ tăng trưởng nhanh nhất của Trung Quốc. Hoạt động chưa được bốn năm, Xiaomi đã bán được gần bảy triệu chiếc smartphone (điện thoại thông minh) và thu vào hơn mười tỉ yuan (tương đương 1,6 tỉ Mỹ kim) – những con số đầy ấn tượng đối với một công ty bán ra chiếc smartphone đầu tiên của mình vào tháng Tám 2011. Những chiếc điện thoại của Xiaomi trông quen thuộc vì nhiều thiết kế của công ty này bắt chước gần giống chiếc iPhone của Apple. Và thiết kế không phải là gợi ý duy nhất mà Xiao lấy từ Apple. Trong một buổi ra mắt sản phẩm gần đây, Lei Jun (Lôi Quân), người đứng đầu Xiaomi, đứng một mình trên sân khấu trong chiếc sơ mi đen, quần jean, và giày sneaker Converse đen – một hình ảnh quen thuộc đối với bất cứ ai đã từng thấy Steve Jobs, người sáng lập và là tổng giám đốc quá cố của Apple, giới thiệu sản phẩm mới tại một hội nghị Macworld [ở San Francisco]. Thông điệp của Lei thật rõ ràng: điện thoại của Xiaomi cũng tuyệt vời như điện thoại của Apple. Người tiêu thụ Trung Quốc như cá cắn câu, vui vẻ chấp nhận sản phẩm của Xiaomi, không hề có ảo ảnh về nguồn gốc của chúng: như một sinh viên Đại học Thượng Hải đã nói với The New York Times gần đây: “Xiaomi làm hàng giả có thực chất (the real fake)”.


Tuy vậy, thành công của Xiaomi cũng dựa vào sự thể là công ty này không giống hẳn Apple. Ít ra nó cũng có một đặc điểm là, giá tiêu biểu của điện thoại do Xiaomi sản xuất chỉ bằng một nửa giá của đối thủ. Một điểm khác còn quan trọng hơn nữa, Xiaomi có một thái độ rất khác đối với việc phát minh. Apple có tiếng là sử dụng phương pháp tiếp cận đóng kín (closed approach) đối với việc phát triển sản phẩm. Công ty này tin tưởng rằng nó biết khách hàng mình muốn gì trước khi chính họ biết được điều này, do đó tiến trình thiết kế của Apple mang tính độc đoán. Trái lại, tiến trình thiết kế của Xiaomi hoàn toàn dân chủ. Cứ mỗi thứ sáu, Xiaomi đưa ra một loạt tin cập nhật phần mềm cho hệ điều hành di động của mình, một hệ thống dựa trên phần mềm nguồn mở Android của Google. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ sau đó, hàng ngàn người sử dụng ào ạt vào diễn đàn trực tuyến của Xiaomi để đề xuất những đặc điểm, chức năng, và thiết kế mới, cũng như phát hiện và giải quyết các lỗi phần mềm. Xiaomi đã dựa vào sự góp ý của người sử dụng để định dung lượng bộ nhớ cần được cài đặt trên điện thoại của mình, tầm quan trọng của chiều dày chiếc điện thoại đối với người sử dụng, và định xem điện thoại Xiaomi có nên cho phép người sử dụng chụp hình mà khỏi bấm nút hay không. Mặc dù Lei có thể ăn mặc giống Jobs, nhưng ông đã điều hành công ty mình rất khác.


Xiaomi không phải là công ty duy nhất vừa bắt chước vừa sáng tạo của Trung Quốc. Weibo (Vi Bác), dịch vụ mạng xã hội nổi tiếng nhất của nước này, có hàng trăm triệu người sử dụng. Công ty này xuất hiện năm 2009 như một phiên bản của Twitter không thèm che giấu. Từ đó đến nay, nó đã thêm vào nhiều đặc điểm để phân biệt mình với Twitter, bao gồm một hệ thống có tính tương tác cao hơn để người sử dụng cho ý kiến. Người ta có thể tranh luận rằng những cải tiến như thế làm cho Weibo trở nên có nhiều chức năng, và thích thú, hơn cả dịch vụ mà nó đã sao chép.


Một hàng nhái khác của Trung Quốc cộng thêm nhiều giá trị hơn nguyên bản là Youku (Ưu Khốc)– công ty này chỉ là một trong nhiều phiên bản Trung Quốc của YouTube. (Youku có thể dịch là “tuyệt vời”.) Khác với YouTube, Youku cho phép người sử dụng đưa lên mạng những video có chiều dài không hạn chế và khỏi cần chứng minh bản quyền. Điều này có nghĩa là Youku có khả năng làm máy chủ cho hàng trăm ngàn giờ lên chương trình bất hợp lệ. Nhưng dịch vụ này cũng hợp tác với hơn 1500 nhà cung cấp nội dung chuyên nghiệp để đưa đến người sử dụng những video hợp lệ, và dịch vụ Trung Quốc này còn đi xa hơn đối thủ Mỹ của mình rất nhiều trong việc cung cấp nội dung gốc. Thật vậy, Youku đã xuất hiện như một đối thủ nghiêm chỉnh của ngành truyền hình truyền thống tại Trung Quốc — một thắng lợi mà YouTube phải ganh tị.


CỨ SAO CHÉP VÔ TƯ


Quan niệm thông thường là sai lầm khi cho rằng phát kiến và bắt chước tự bản chất là xung khắc nhau. Trong một cung cách tương tự, quan niệm này cũng sai lầm khi chủ trương rằng Hoa Kỳ phải đi theo một đường lối rất cứng rắn để chặn đứng nạn đánh cắp sở hữu trí tuệ tại Trung Quốc. Thật vậy, đường lối nặng tay củaWashingtonđối với văn hoá hàng nhái của Bắc Kinh là quá thô bạo và phản ánh một quan điểm ngây ngô về sáng kiến. Đường lối này cũng không có khả năng thành công, vì Hoa Kỳ khó khắc phục được những động cơ mạnh mẽ đã thúc đẩy những công ty và cá nhân Trung Quốc phải tùy thuộc vào việc sao chép sản phẩm nước ngoài.


Các công ty chế tạo Trung Quốc chiếm được thị phần (market share) tại Trung Quốc và những nước khác bằng cách cống hiến những phiên bản giá rẻ của các sản phẩm phương Tây. Qua quá trình sao chép, những công ty này vừa học vừa làm, thu thập những kỹ năng cần thiết để cải thiện các tiến trình sản xuất và sau cùng tự mình có thể sáng chế. Tự do sao chép cũng có một tầm ảnh hưởng xã hội quan trọng tại Trung Quốc. Một sản phẩm phụ nghiêm trọng do sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục của nước này là tình trạng bất bình đẳng đang tăng vọt. Một nghiên cứu gần đây của Đại học Tài chính-Kinh tế Tây Nam, tại Thành Đô, cho thấy rằng Trung Quốc hiện nay là một trong những xã hội bất bình đẳng nhất trên trái đất. Hệ số Gini của Trung Quốc là 0,61 – hệ số Gini là một thước đo bất bình đẳng kinh tế, với số không (0) chỉ tình trạng bất bình đẳng ít nghiêm trọng nhất và số một (1) chỉ tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng nhất. Chỉ số đó đã đặt Trung Quốc ngang hàng vớiBotswanavàHaitinếu xét về tình trạng bất bình đẳng. Đây là một công thức dẫn đến bất mãn xã hội nghiêm trọng, nhất là khi giới nghèo khổ tại Trung Quốc ngày càng trông thấy những tiện ích mà xã hội tiêu thụ đương đại có thể cống hiến.


Điều này giúp ta hiểu được hiện tượng shanzhai (sơn trại) độc đáo Trung Quốc. Dịch theo nghĩa đen, shanzhai nghĩa là “đồn lũy trong núi” hay “sào huyệt của bọn cướp”. Nhưng theo cách dùng hiện nay, shanzhai chỉ hàng nhái giá rẻ, như các toà nhà (kể cả những ngôi làng Trung Âu dỏm mọc lên ở các vùng ngoại ô Trung Quốc), các cửa hàng (như các cửa hàng Apple dỏm tại Côn Minh bán sản phẩm Apple thật nhưng được tân trang lại) và thậm chí cả các sự kiện (chẳng hạn cuộc rước đuốc Olympic dỏm mà dân chúng các vùng quê Trung Quốc tổ chức khi cuộc rước đuốc chính thức đi qua miền của họ). Nhưng cũng như nhiều thứ khác ở Trung Quốc, ý nghĩa của shanzhai đang thay đổi sâu sắc. Như nhật báo The Wall Street Journal nhận xét gần đây: “Trước đây nó là một từ dùng để chỉ một cái gì rẻ tiền hay kém chất lượng, ngày nay đối với nhiều người, shanzhai nói lên một trình độ khôn ngoan khéo léo nhất định của người Trung Quốc”. Thật vậy, Bắc Kinh tỏ ra tin tưởng rằng shanzhai là một cái gì cần nuôi dưỡng. Năm 2009, một quan chức của Cục Bản quyền Quốc gia Trung Quốc tuyên bố rằng “shanzhai biểu lộ óc sáng tạo văn hóa của người dân bình thường”. Ông nói thêm, “Nó đáp ứng một nhu cầu thị trường, do đó dân chúng thích nó”. Tất nhiên, văn hóa shanzhai ở một mức độ nào đó cũng thích hợp với nhận thức sau đây: Chính quyền Trung Quốc hi vọng rằng sự tự do sao chép tương đối này có thể giúp làm nhẹ bớt hoặc chí ít che đậy hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng  khoét sâu tại Trung Quốc.


Nhưng việc làm hàng nhái được dung dưỡng, và thậm chí có người cho rằng được khuyến khích bởi chính quyền Trung Quốc, không nhất thiết là một tai họa đối với các doanh nghiệp phương Tây. Dân số khổng lồ của Trung Quốc vẫn còn nghèo, và ít ai có thể mua sắm hàng hóa phương Tây. Do đó, hàng nhái  sản phẩm phương Tây không nhất thiết biểu hiện sự mất mối (lost sales). Thay vì như vậy, chúng thường đóng chức năng quảng cáo hữu hiệu cho hàng gốc (the originals): những sản phẩm mở đường này, về lâu dài, có khả năng thúc đẩy nhu cầu đòi hỏi hàng thật khi giai cấp trung lưu hiện đang đâm chồi của Trung Quốc trở nên lớn mạnh. Chẳng hạn, một số tiệm bánh mì xăng-đuýt Trung Quốc đang sao chép dáng vẻ và món ăn của chuỗi Subway, một công ty bán thức ăn nhanh của Mỹ. Các lãnh đạo Subway, một cách khôn ngoan, không phản ứng quá đáng. Alexander Moody Stuart, giám đốc quản lý của chuỗi hàng ăn nhanh này, gần đây đã nói với The Wall Street Journal rằng đối với một thương hiệu phương Tây như Subway, đang ra sức tạo ý thức quần chúng về một loại thức ăn mà người Trung Quốc không quen ăn, “việc nhái lại (mimicking) không hẳn là một điều xấu”. Trong một thị trường khổng lồ nhưng phần lớn chưa được khai thác như Trung Quốc, việc dân chúng tiếp xúc với sản phẩm (exposure) và viễn ảnh tăng trưởng của các loại hàng thật trong tương lai có thể khuynh loát được thị phần to lớn của hàng giả ngày nay. Và mặc dù sản phẩm shanzhai được người mua ca ngợi, nhưng những người Trung Quốc nào có điều kiện thì thường mua sản phẩm gốc.


Không lãnh vực nào minh họa bản chất nghịch lý của hàng nhái Trung Quốc rõ nét hơn các loại hàng xa xỉ. Theo phân tích năm 2012 của công ty tư vấn Bain & Company, cái đất nước đã một thời ép buộc công dân mình phải mặc áo kiểu Mao đã trở thành thị trường xa xỉ phẩm lớn nhất thế giới, thậm chí qua mặt cả Hoa Kỳ. Thị trường này không chỉ bán túi xách và các phụ kiện. Theo tin tức gần đây của Beijing Review, vào năm 2012, hãng Bentley Motors bán ra thế giới 8.510 chiếc xe, thì có đến 2.253 chiếc được bán tại Trung Quốc, biến thị trường này thành thị trường lớn thứ hai của thương hiệu. Thậm chí đối với cả Apple, lãnh địa của HiPhone vẫn còn sinh lãi: doanh thu của Apple tại Trung Quốc trị giá gần 25 tỉ Mỹ kim một năm, chỉ đứng sau doanh thu của nó tại Hoa Kỳ. Hơn nữa, Trung Quốc là nơi duy nhất trên thế giới mà lượng hàng bán ra của Apple đã gia tăng vào quí đầu năm 2013.


Như vậy, kinh tế hàng nhái Trung Quốc – đôi khi được cải thiện dọc đường – cho phép đưa sản phẩm đến tận tay người dân trung bình tại đây và trong tiến trình này giúp Trung Quốc và các công ty Trung Quốc có khả năng phát triển và cạnh tranh ngắn hạn. Còn về lâu dài, việc công khai sao chép sản phẩm nước ngoài có thể tạo nhu cầu đối với các sáng kiến phương Tây. Như Bill Gates, một trong hai người sáng lập Microsoft và không được coi là người có quan điểm khoan dung về quyền sở hữu trí tuệ, đã nói đến việc Trung Quốc sao chép các sản phẩm phần mềm bằng phát biểu nổi tiếng sau đây: “Chừng nào mà họ có ý định ăn cắp phần mềm, chúng tôi muốn họ ăn cắp phần mềm của chúng tôi. Rồi họ sẽ bị ghiền, và sau đó chúng tôi sẽ tìm cách thâu tiền ở một thời điểm nào đó trong thập kỷ tới”.


 NHỮNG TÊN CƯỚP GỘC


Có lẽ điều quan trọng nhất cần phải nhận thấy về nền kinh tế hàng nhái của Trung Quốc là, chính bản thân nền kinh tế này là một bản sao [của một mô hình đi trước]. Khi Hoa Kỳ mới bắt đầu vươn tới địa vị giàu có và quyền lực trong lịch sử, nước này cũng là một quốc gia chuyên vi phạm tác quyền (a pirate nation) giống hệt như Trung Quốc ngày nay. Vào các thế kỷ 18 và 19, Vương quốc Anh là mục tiêu hàng đầu của đạo tặc Mỹ, tức những gián điệp kinh tế tập trung nỗ lực vào công nghiệp hàng dệt nước Anh. Các doanh nhân Mỹ tìm cách sao chép các thiết kế bí mật của Anh để chế tạo khung cửi và xây dựng nhà máy, và chính phủ Hoa Kỳ đứng ở thế sẵn sàng để giúp đỡ họ.


Cũng như tại Trung Quốc hiện nay, phát minh qua việc bắt chước (imitative innovation) là chính sách nhà nước (official policy): luật pháp ban đầu của Mỹ cấm các nhà phát minh nước ngoài lấy bằng sáng chế tại Hoa Kỳ về những phát minh mà họ đã được cấp bằng tại những nơi khác, và những rào cản đáng kể vẫn còn tồn tại cho đến những năm sau cùng của thế kỷ 19. Luật bản quyền Hoa Kỳ lúc bấy giờ cũng tương tự như luật Trung Quốc hiện nay, công khai từ chối bất cứ sự bảo vệ nào đối với tác giả nước ngoài. Mãi cho đến năm 1891, lệnh cấm này mới được bãi bỏ, và thậm chí lúc bấy giờ, các tác giả nước ngoài vẫn còn bị buộc phải in sách của họ tại Hoa Kỳ như một điều kiện để được bảo vệ bản quyền. Mãi cho đến thập niên 1980, đòi hỏi này mới hoàn toàn biến mất khỏi luật pháp Mỹ. Người thụ hưởng nổi tiếng nhất của những luật bản quyền này là Benjamin Franklin – ông tái xuất bản tác phẩm của các nhà văn Anh mà không hề xin phép họ hoặc trả tiền tác quyền cho họ. Người Anh đã khiển trách người Mỹ thậm tệ về đường lối sao chép này; Charles Dickens phản ánh sự bức xúc của những nhà văn Anh nổi tiếng khác khi ông than thở về “cái công lý tuyệt vời không hề cho tôi hưởng lấy một đồng xu do việc người Mỹ bán một lượng sách khổng lồ gồm tất cả mọi tác phẩm của tôi”.


Tuy vậy, trường hợp của Dickens cũng chứng minh sự vi phạm tác quyền đôi khi cũng có lợi cho tác giả như thế nào. Việc người Mỹ sao chép rộng rãi các tác phẩm của ông khiến nhiều người biết đến tên ông, biến Dickens thành một siêu sao văn học ở Hoa Kỳ. Vào thời điểm 1867 – 68, Dickens thực hiện một vòng diễn thuyết hoành tráng tại nước này, thu vào hơn 19.000 bảng Anh, hay tương đương với 1,75 triệu Mỹ kim ngày nay. Khi Dickens qua đời, chỉ hai năm sau, hơn 20% gia tài của ông là do chuyến du thuyết tại Mỹ mang lại.


Những điểm tương đồng này giữa quá khứ của Hoa Kỳ và hiện tại của Trung Quốc đặt sự hoang tưởng (paranoia) hiện nay của Washington về việc Bắc Kinh vi phạm tác quyền vào một cái nhìn toàn cảnh. Việc sao chép đã cho phép kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng vào thế kỷ 18 và thế kỷ 19 như thế nào, thì ngày nay nó cũng cho phép Trung Quốc tăng trưởng như thế ấy. Và người Anh đã cường điệu mối đe dọa kinh tế do việc người Mỹ sao chép sản phẩm của họ lúc bấy giờ như thế nào, thì ngày nay mối đe doạ của Trung Quốc cũng bị thổi phồng như thế ấy.


Nói vậy không có nghĩa là ta phải đặt tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ ở mức thấp nhất. Thật ra, quyền sở hữu trí tuệ là rất thiết yếu trong các lãnh vực như ngành dược, nơi mà chi phí cho việc phát triển các loại thuốc là đặc biệt tốn kém. Nhưng việc tăng cường tác quyền không luôn luôn dẫn đến kết quả tốt đẹp hơn. Quyền sở hữu trí tuệ có thể ngăn cản cũng như khuyến khích sáng kiến; chúng kiềm chế sự cạnh tranh ngay cả khi chúng khích lệ óc sáng tạo. Quan trọng hơn hết, vì mỗi sáng kiến đều dựa vào những điều đã có từ trước, việc bảo vệ tác quyền quá bao trùm sẽ giới hạn các nguồn cảm hứng có giá trị. Muốn làm một cái bẫy chuột tốt hơn, người ta cần được tự do dựa vào những cái bẫy chuột đã có từ trước. Giống hệt như Apple đã vay mượn từ Xerox ý tưởng kết hợp con chuột máy vi tính với một màn hình có các biểu tượng (chứ không chỉ dùng chữ viết trên màn hình) – mà kết quả là chiếc máy vi tính có màn hình biểu tượng (desktop computer) ngày nay – hàng triệu nhà phát minh khác cũng dựa vào tác phẩm của người khác, đồng thời cải tiến chúng.


Trung Quốc thông qua các luật lệ hiện đại đầu tiên của mình về bằng sáng chế và thương hiệu vào thập niên 1980 và luật bản quyền đầu tiên năm 1990. Luật sở hữu trí tuệ vẫn còn là một hiện tượng tương đối mới mẻ trong một xã hội tập trung cao độ vào nỗ lực bành trướng tăng trưởng kinh tế và duy trì ổn định xã hội. Người ta không thể trông mong thái độ và thói quen của người Trung Quốc đối với việc sao chép sản phẩm nước ngoài có thể thay đổi nhanh chóng. Khi kinh tế Trung Quốc tiến xa hơn nữa, có lẽ cán cân lợi ích sẽ thay đổi, và nước này có thể sẽ theo đuổi một đường lối ít tùy tiện hơn. Hiện nay, biết đặt nạn sao chép tại Trung Quốc vào một viễn kiến và biết nhận ra những ưu điểm cũng như những tai hại của nó là một điều rất quan trọng. Trước hết, Hoa Kỳ nên xét đến lịch sử của chính mình, lịch sử của một quốc gia cũng từng vi phạm tác quyền – và nên giảm bớt căng thẳng.


____________


Kal Raustilia là Giám đốc Trung tâm Burkle về Bang giao Quốc tế tại Đại học California, Los Angeles, (UCLA) và là Giáo sư Trường Luật của UCLA. Christopher Sprigman là Giáo sư Nghiên cứu tại Trường Luật của Đại học Virginia. Cả hai là tác giả cuốn The Knockoff Economy: How Imitation Sparks Innovation (Nền Kinh tế hàng nhái: Việc bắt chước đã châm ngòi cho sáng kiến như thế nào).


Nguồn: Kal Raustilia  và Christopher Sprigman, “Fake It Till You Make It The Good News About China’s Knockoff Economy”, Foreign Affairs tháng Bảy /Tám 2013


Bản tiếng Việt 2013 © Trần Ngọc Cư & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 13, 2013 15:36

Lộng giả thành chân – Những điều tốt lành về nền kinh tế hàng nhái cá»§a Trung Quốc

Kal Raustilia và Christopher Sprigman


Trần Ngọc Cư dịch


Dẫn nhập


Một điều khá nghịch lý là bài tiểu luận này được viết bởi hai chuyên gia về luật sở hữu trí tuệ Mỹ, nhưng gần như để biện minh cho hiện tượng các doanh nghiệp và cá nhân Trung Quốc đã và đang ào ạt sao chép sản phẩm phương Tây một cách công khai với sự khuyến khích của chính quyền Bắc Kinh. Và cũng là điều đáng suy nghĩ khi cuốn The Knockoff Economy: How Imitation Sparks Innovation của Raustilia và Sprigman xuất hiện giữa bối cảnh các cuộc đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang gặp trở ngại vì những mâu thuẫn giữa Mỹ và các đối tác tiềm năng của Mỹ về quyền sở hữu trí tuệ. Câu hỏi cần đặt ra ở đây là liệu Mỹ có cần nhượng bộ hay không trong lãnh vực quyền sở hữu trí tuệ để có thể thực hiện một liên minh kinh tế nhằm quân bình lực lượng với ảnh hưởng kinh tế-chính trị của Trung Quốc.


Một điểm đáng tranh luận khác là quan hệ giữa lao động và sáng tạo. Để khai thác giá nhân công rẻ tại thế giới đang phát triển, đặc biệt tại Trung Quốc, nhiều công ty phương Tây chủ yếu là Mỹ đã đưa hoạt động chế tạo (manufacturing) ra nước ngoài, tạo nên một sự cách ly giữa lao động và sáng tạo ngay chính trong công ty cũng như trên đất nước của mình. Do đó, một câu hỏi khác cần đặt ra là, làm sao người phương Tây đặc biệt là Mỹ vẫn tiếp tục phát huy sáng kiến của mình về các sản phẩm khi họ không còn trực tiếp tham gia vào tiến trình chế tạo các sản phẩm đó? Ý kiến cho rằng Hoa Kỳ là “một xã hội có tinh thần phát minh cao” có lẽ đúng với thế kỷ 20 hơn là với thế kỷ 21, khi Trung Quốc vận dụng những nhà máy của các công ty nước ngoài như những trường thực hành cho công nhân bản địa, giành lấy cơ hội “vừa học vừa làm”, vừa sao chép vừa sáng tạo, của người Mỹ trước đây.


Người dịch


_______________


Không ai biết chắc tại sao một số xã hội có nhiều sáng kiến hÆ¡n những xã hội khác. Hoa Kỳ là một xã hội có tinh thần phát minh cao, là nÆ¡i phát sinh một loạt công nghệ – máy bay, bom hạt nhân, Internet – đã biến đổi thế giới. Trái lại, Trung Quốc hiện đại lại thường bị chỉ trích về nạn sao chép tràn lan các phát minh và tác phẩm sáng tạo nước ngoài. Từng là quê hương cá»§a thuốc súng, công nghệ in, và nhiều phát minh khác làm biến đổi xã hội, Trung Quốc ngày nay nổi tiếng hÆ¡n các nước khác về hàng nhái gần như đủ mọi sản phẩm mà ta có thể tưởng tượng được: xe hÆ¡i, áo quần, máy vi tính, thức ăn nhanh, dược liệu, thậm chí nguyên cả những ngôi làng châu Âu. Hoa Kỳ cho ra đời chiếc iPhone, thì Trung Quốc cho ra đời chiếc HiPhone – bản sao rẻ tiền cá»§a một thiết bị có tính đột phá cá»§a Mỹ.


Một số người thấy được gốc rễ văn hóa sâu xa của nạn sao chép tràn lan tại Trung Quốc. Nhưng một quan điểm thông thường hơn thì cho rằng, Trung Quốc không có phát minh vì nước này thiếu những biện pháp mạnh mẽ và vững bền để bảo vệ sở hữu trí tuệ. Nhiều luật gia và chuyên gia kinh tế tin tưởng rằng quyền sở hữu trí tuệ là thiết yếu vì chúng đảm bảo rằng phần thưởng kinh tế của phát minh sẽ thuộc về người phát minh. Lý luận này cho rằng, nếu không có những biện pháp bảo vệ như thế, hàng nhái sẽ phá giá và qua mặt hàng gốc. Việc này sẽ gây nên tình trạng khan vốn đầu tư trong lãnh vực phát minh. Lý luận cơ bản là rất dễ hiểu: công việc phát minh bền vững cần đến những luật sở hữu trí tuệ nghiêm khắc, và những nước quá rộng lượng đối với việc sao chép sản phẩm sẽ chịu nhiều thiệt thòi. Và vì trong một nền kinh tế toàn cầu hóa, việc sao chép diễn ra ở nước ngoài có thể gây tai hại giống hệt như việc sao chép diễn ra ở trong nước, lý luận này cũng làm cơ sở cho một loạt hiệp định quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ, mà hầu hết những quốc gia quan trọng đều phê chuẩn, trong đó có Hiệp định của WTO về các Khía cạnh Quyền Sở hữu Trí tuệ Liên quan đến Mậu dịch, được phê chuẩn năm 1994, và nhiều hiệp định song phương thậm chí còn nghiêm khắc hơn nữa, mà nhiều quốc gia đã ký kết kể từ thời điểm đó.


Là thành viên của WTO, Trung Quốc có bổn phận phải theo đúng những qui chế này. Nhưng sự tuân thủ của Trung Quốc còn nằm dưới chuẩn quá xa, khiếnWashingtonluôn bực bội. Tường trình với báo chí tại Nhà Trắng vào tháng Hai năm nay, Thứ trưởng Ngoại giao Robert Hormats gọi việc các hãng và các cá nhân Trung Quốc đánh cắp sở hữu trí tuệ  tràn lan là “một vấn đề nghiêm trọng và rất đáng lo lắng”. Mặc dù những con số ước tính thiệt hại do việc Trung Quốc vi phạm tác quyền gây ra cho nền kinh tế Mỹ khác nhau quá xa và thay đổi theo giả định, nhưng Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ ước tính rằng chỉ nội trong năm 2011, số thiệt hại lên gần 50 tỉ Mỹ kim.


Đối với giới làm chính sách và lãnh đạo Mỹ, qui mô và phạm vi của nạn làm hàng nhái tại Trung Quốc có thể nói là tồi tệ; nhưng còn tồi tệ hơn nữa, đó là việc nó được khuyến khích bởi một chính sách công khai mệnh danh là “sáng kiến bản địa”. Theo một văn kiện hoạch định chính sách được chính phủ Trung Quốc đưa ra năm 2006, sáng kiến bản địa bao gồm “việc làm tăng giá trị của sáng kiến nguyên thủy thông qua việc đồng-phát kiến (co-innovation) và tái-phát kiến (re-innovation) dựa vào việc hấp thụ công nghệ nhập khẩu”. Thật là chính đáng, khiWashingtonxem văn kiện này như một cách Bắc Kinh bật đèn xanh cho việc vi phạm tác quyền. Chính phủ Hoa Kỳ coi việc kiềm chế nạn sao chép sản phẩm tại Trung Quốc là tối cần thiết, đã thúc đẩy Trung Quốc phải thay đổi đường lối – và kiện Trung Quốc trước WTO.


Nhưng sự lo lắng và giận dữ của Mỹ về việc Trung Quốc vi phạm tác quyền được đặt không đúng chỗ. Sao chép không phải là cái nạn dịch ghê gớm mà các lãnh đạo doanh nghiệp và các nhà chính trị Mỹ thường cố tình vẽ ra. Thật vậy, sao chép không luôn luôn xung khắc với sáng kiến, mà thường là một phần quan trọng của sáng tạo. Dù việc sao chép có mặt tai hại, nhưng nó cũng có mặt hữu ích. Gần như tất cả mọi sáng tạo đều phải dựa vào công trình của người đi trước, và việc có thể tự do sao chép và cải tiến những thiết kế hiện có sẽ tiếp sức cho nhiều lãnh vực khác nhau như thời trang, tài chính và công nghệ phần mềm.


Đối với các công ty và cá nhân Trung Quốc, sao chép có những lợi ích không thể cưỡng nổi, vượt khỏi việc đơn thuần là bán giá rẻ hơn các công ty cạnh tranh phương Tây. Nhiều người Trung Quốc đã tiếp thu những kỹ năng thiết kế và chế tạo quí giá bằng cách sao chép những hàng hóa nguyên thủy sản xuất ở nước khác. Kết quả của việc bắt chước này là những sản phẩm và dịch vụ vừa túi tiền, cho phép hàng triệu người Trung Quốc được hưởng những cái bề ngoài dễ chịu của một xã hội tiêu thụ. Và của cải được tạo ra do việc vi phạm tác quyền đã góp phần vào sự tăng trưởng của một giai cấp trung lưu Trung Quốc đang trỗi dậy, giai cấp tiêu biểu cho một vựa tiềm năng vĩ đại gồm những khách hàng mới cho các công ty phương Tây bán hàng thật.


Vì những lý do này, bất cứ một chính sách hợp lý nào đối với nền kinh tế hàng nhái của Trung Quốc đều phải bắt đầu bằng nhận thức thấu đáo rằng sao chép và sáng tạo có liên hệ mật thiết với nhau và rằng việc sao chép là một lực vừa tốt vừa xấu. Vì việc sao chép của Trung Quốc vừa mang lại những lợi ích vừa gây ra những thiệt hại, đồng thời nếu xét đến sự đề kháng mang tính lịch sử của Trung Quốc trước sức ép phương Tây, chúng ta sẽ đối diện một thực tế là, cố gắng thúc đẩy Trung Quốc thay đổi chính sách và cách hành xử là không xứng đáng với vốn liếng chính trị và ngoại giao mà Hoa Kỳ đang tiêu phí vì nỗ lực này.


HÀNG GIẢ CÓ THỰC CHẤT


Để hiểu rõ việc sao chép và phát kiến cùng tồn tại như thế nào tại Trung Quốc ngày nay,  chỉ cần nhìn vào Xiaomi (Tiểu Mễ), một trong những công ty công nghệ tăng trưởng nhanh nhất cá»§a Trung Quốc. Hoạt động chưa được bốn năm, Xiaomi đã bán được gần bảy triệu chiếc smartphone (điện thoại thông minh) và thu vào hÆ¡n bảy triệu yuan (tương đương 1,6 tỉ Mỹ kim) – những con số đầy ấn tượng đối với một công ty bán ra chiếc smartphone đầu tiên cá»§a mình vào tháng Tám 2011. Những chiếc điện thoại cá»§a Xiaomi trông quen thuộc vì nhiều thiết kế cá»§a công ty này bắt chước gần giống chiếc iPhone cá»§a Apple. Và thiết kế không phải là gợi ý duy nhất mà Xiao lấy từ Apple. Trong một buổi ra mắt sản phẩm gần đây, Lei Jun (Lôi Quân), người đứng đầu Xiaomi, đứng một mình trên sân khấu trong chiếc sÆ¡ mi đen, quần jean, và giày sneaker Converse đen – một hình ảnh quen thuộc đối với bất cứ ai đã từng thấy Steve Jobs, người sáng lập và là tổng giám đốc quá cố cá»§a Apple, giới thiệu sản phẩm mới tại một hội nghị Macworld [ở San Francisco]. Thông điệp cá»§a Lei thật rõ ràng: điện thoại cá»§a Xiaomi cÅ©ng tuyệt vời như điện thoại cá»§a Apple. Người tiêu thụ Trung Quốc như cá cắn câu, vui vẻ chấp nhận sản phẩm cá»§a Xiaomi, không hề có ảo ảnh về nguồn gốc cá»§a chúng: như một sinh viên Đại học Thượng Hải đã nói với The New York Times gần đây: “Xiaomi làm hàng giả có thá»±c chất (the real fake)”.


Tuy vậy, thành công của Xiaomi cũng dựa vào sự thể là công ty này không giống hẳn Apple. Ít ra nó cũng có một đặc điểm là, giá tiêu biểu của điện thoại do Xiaomi sản xuất chỉ bằng một nửa giá của đối thủ. Một điểm khác còn quan trọng hơn nữa, Xiaomi có một thái độ rất khác đối với việc phát minh. Apple có tiếng là sử dụng phương pháp tiếp cận đóng kín (closed approach) đối với việc phát triển sản phẩm. Công ty này tin tưởng rằng nó biết khách hàng mình muốn gì trước khi chính họ biết được điều này, do đó tiến trình thiết kế của Apple mang tính độc đoán. Trái lại, tiến trình thiết kế của Xiaomi hoàn toàn dân chủ. Cứ mỗi thứ sáu, Xiaomi đưa ra một loạt tin cập nhật phần mềm cho hệ điều hành di động của mình, một hệ thống dựa trên phần mềm nguồn mở Android của Google. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ sau đó, hàng ngàn người sử dụng ào ạt vào diễn đàn trực tuyến của Xiaomi để đề xuất những đặc điểm, chức năng, và thiết kế mới, cũng như phát hiện và giải quyết các lỗi phần mềm. Xiaomi đã dựa vào sự góp ý của người sử dụng để định dung lượng bộ nhớ cần được cài đặt trên điện thoại của mình, tầm quan trọng của chiều dày chiếc điện thoại đối với người sử dụng, và định xem điện thoại Xiaomi có nên cho phép người sử dụng chụp hình mà khỏi bấm nút hay không. Mặc dù Lei có thể ăn mặc giống Jobs, nhưng ông đã điều hành công ty mình rất khác.


Xiaomi không phải là công ty duy nhất vừa bắt chước vừa sáng tạo của Trung Quốc. Weibo (Vi Bác), dịch vụ mạng xã hội nổi tiếng nhất của nước này, có hàng trăm triệu người sử dụng. Công ty này xuất hiện năm 2009 như một phiên bản của Twitter không thèm che giấu. Từ đó đến nay, nó đã thêm vào nhiều đặc điểm để phân biệt mình với Twitter, bao gồm một hệ thống có tính tương tác cao hơn để người sử dụng cho ý kiến. Người ta có thể tranh luận rằng những cải tiến như thế làm cho Weibo trở nên có nhiều chức năng, và thích thú, hơn cả dịch vụ mà nó đã sao chép.


Một hàng nhái khác cá»§a Trung Quốc cộng thêm nhiều giá trị hÆ¡n nguyên bản là Youku (Ưu Khốc)– công ty này chỉ là một trong nhiều phiên bản Trung Quốc cá»§a YouTube. (Youku có thể dịch là “tuyệt vời”.) Khác với YouTube, Youku cho phép người sá»­ dụng đưa lên mạng những video có chiều dài không hạn chế và khỏi cần chứng minh bản quyền. Điều này có nghÄ©a là Youku có khả năng làm máy chá»§ cho hàng trăm ngàn giờ lên chương trình bất hợp lệ. Nhưng dịch vụ này cÅ©ng hợp tác với hÆ¡n 1500 nhà cung cấp nội dung chuyên nghiệp để đưa đến người sá»­ dụng những video hợp lệ, và dịch vụ Trung Quốc này còn đi xa hÆ¡n đối thá»§ Mỹ cá»§a mình rất nhiều trong việc cung cấp nội dung gốc. Thật vậy, Youku đã xuất hiện như một đối thá»§ nghiêm chỉnh cá»§a ngành truyền hình truyền thống tại Trung Quốc — một thắng lợi mà YouTube phải ganh tị.


CỨ SAO CHÉP VÔ TƯ


Quan niệm thông thường là sai lầm khi cho rằng phát kiến và bắt chước tự bản chất là xung khắc nhau. Trong một cung cách tương tự, quan niệm này cũng sai lầm khi chủ trương rằng Hoa Kỳ phải đi theo một đường lối rất cứng rắn để chặn đứng nạn đánh cắp sở hữu trí tuệ tại Trung Quốc. Thật vậy, đường lối nặng tay củaWashingtonđối với văn hoá hàng nhái của Bắc Kinh là quá thô bạo và phản ánh một quan điểm ngây ngô về sáng kiến. Đường lối này cũng không có khả năng thành công, vì Hoa Kỳ khó khắc phục được những động cơ mạnh mẽ đã thúc đẩy những công ty và cá nhân Trung Quốc phải tùy thuộc vào việc sao chép sản phẩm nước ngoài.


Các công ty chế tạo Trung Quốc chiếm được thị phần (market share) tại Trung Quốc và những nước khác bằng cách cống hiến những phiên bản giá rẻ cá»§a các sản phẩm phương Tây. Qua quá trình sao chép, những công ty này vừa học vừa làm, thu thập những kỹ năng cần thiết để cải thiện các tiến trình sản xuất và sau cùng tá»± mình có thể sáng chế. Tá»± do sao chép cÅ©ng có một tầm ảnh hưởng xã hội quan trọng tại Trung Quốc. Một sản phẩm phụ nghiêm trọng do sá»± tăng trưởng kinh tế ngoạn mục cá»§a nước này là tình trạng bất bình đẳng đang tăng vọt. Một nghiên cứu gần đây cá»§a Đại học Tài chính-Kinh tế Tây Nam, tại Thành Đô, cho thấy rằng Trung Quốc hiện nay là một trong những xã hội bất bình đẳng nhất trên trái đất. Hệ số Gini cá»§a Trung Quốc là 0,61 – hệ số Gini là một thước đo bất bình đẳng kinh tế, với số không (0) chỉ tình trạng bất bình đẳng ít nghiêm trọng nhất và số một (1) chỉ tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng nhất. Chỉ số đó đã đặt Trung Quốc ngang hàng vớiBotswanavàHaitinếu xét về tình trạng bất bình đẳng. Đây là một công thức dẫn đến bất mãn xã hội nghiêm trọng, nhất là khi giới nghèo khổ tại Trung Quốc ngày càng trông thấy những tiện ích mà xã hội tiêu thụ đương đại có thể cống hiến.


Điều này giúp ta hiểu được hiện tượng shanzhai (sơn trại) độc đáo Trung Quốc. Dịch theo nghĩa đen, shanzhai nghĩa là “đồn lũy trong núi” hay “sào huyệt của bọn cướp”. Nhưng theo cách dùng hiện nay, shanzhai chỉ hàng nhái giá rẻ, như các toà nhà (kể cả những ngôi làng Trung Âu dỏm mọc lên ở các vùng ngoại ô Trung Quốc), các cửa hàng (như các cửa hàng Apple dỏm tại Côn Minh bán sản phẩm Apple thật nhưng được tân trang lại) và thậm chí cả các sự kiện (chẳng hạn cuộc rước đuốc Olympic dỏm mà dân chúng các vùng quê Trung Quốc tổ chức khi cuộc rước đuốc chính thức đi qua miền của họ). Nhưng cũng như nhiều thứ khác ở Trung Quốc, ý nghĩa của shanzhai đang thay đổi sâu sắc. Như nhật báo The Wall Street Journal nhận xét gần đây: “Trước đây nó là một từ dùng để chỉ một cái gì rẻ tiền hay kém chất lượng, ngày nay đối với nhiều người, shanzhai nói lên một trình độ khôn ngoan khéo léo nhất định của người Trung Quốc”. Thật vậy, Bắc Kinh tỏ ra tin tưởng rằng shanzhai là một cái gì cần nuôi dưỡng. Năm 2009, một quan chức của Cục Bản quyền Quốc gia Trung Quốc tuyên bố rằng “shanzhai biểu lộ óc sáng tạo văn hóa của người dân bình thường”. Ông nói thêm, “Nó đáp ứng một nhu cầu thị trường, do đó dân chúng thích nó”. Tất nhiên, văn hóa shanzhai ở một mức độ nào đó cũng thích hợp với nhận thức sau đây: Chính quyền Trung Quốc hi vọng rằng sự tự do sao chép tương đối này có thể giúp làm nhẹ bớt hoặc chí ít che đậy hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng  khoét sâu tại Trung Quốc.


Nhưng việc làm hàng nhái được dung dưỡng, và thậm chí có người cho rằng được khuyến khích bởi chính quyền Trung Quốc, không nhất thiết là một tai họa đối với các doanh nghiệp phương Tây. Dân số khổng lồ của Trung Quốc vẫn còn nghèo, và ít ai có thể mua sắm hàng hóa phương Tây. Do đó, hàng nhái  sản phẩm phương Tây không nhất thiết biểu hiện sự mất mối (lost sales). Thay vì như vậy, chúng thường đóng chức năng quảng cáo hữu hiệu cho hàng gốc (the originals): những sản phẩm mở đường này, về lâu dài, có khả năng thúc đẩy nhu cầu đòi hỏi hàng thật khi giai cấp trung lưu hiện đang đâm chồi của Trung Quốc trở nên lớn mạnh. Chẳng hạn, một số tiệm bánh mì xăng-đuýt Trung Quốc đang sao chép dáng vẻ và món ăn của chuỗi Subway, một công ty bán thức ăn nhanh của Mỹ. Các lãnh đạo Subway, một cách khôn ngoan, không phản ứng quá đáng. Alexander Moody Stuart, giám đốc quản lý của chuỗi hàng ăn nhanh này, gần đây đã nói với The Wall Street Journal rằng đối với một thương hiệu phương Tây như Subway, đang ra sức tạo ý thức quần chúng về một loại thức ăn mà người Trung Quốc không quen ăn, “việc nhái lại (mimicking) không hẳn là một điều xấu”. Trong một thị trường khổng lồ nhưng phần lớn chưa được khai thác như Trung Quốc, việc dân chúng tiếp xúc với sản phẩm (exposure) và viễn ảnh tăng trưởng của các loại hàng thật trong tương lai có thể khuynh loát được thị phần to lớn của hàng giả ngày nay. Và mặc dù sản phẩm shanzhai được người mua ca ngợi, nhưng những người Trung Quốc nào có điều kiện thì thường mua sản phẩm gốc.


Không lãnh vực nào minh họa bản chất nghịch lý của hàng nhái Trung Quốc rõ nét hơn các loại hàng xa xỉ. Theo phân tích năm 2012 của công ty tư vấn Bain & Company, cái đất nước đã một thời ép buộc công dân mình phải mặc áo kiểu Mao đã trở thành thị trường xa xỉ phẩm lớn nhất thế giới, thậm chí qua mặt cả Hoa Kỳ. Thị trường này không chỉ bán túi xách và các phụ kiện. Theo tin tức gần đây của Beijing Review, vào năm 2012, hãng Bentley Motors bán ra thế giới 8.510 chiếc xe, thì có đến 2.253 chiếc được bán tại Trung Quốc, biến thị trường này thành thị trường lớn thứ hai của thương hiệu. Thậm chí đối với cả Apple, lãnh địa của HiPhone vẫn còn sinh lãi: doanh thu của Apple tại Trung Quốc trị giá gần 25 tỉ Mỹ kim một năm, chỉ đứng sau doanh thu của nó tại Hoa Kỳ. Hơn nữa, Trung Quốc là nơi duy nhất trên thế giới mà lượng hàng bán ra của Apple đã gia tăng vào quí đầu năm 2013.


Như vậy, kinh tế hàng nhái Trung Quốc – đôi khi được cải thiện dọc đường – cho phép đưa sản phẩm đến tận tay người dân trung bình tại đây và trong tiến trình này giúp Trung Quốc và các công ty Trung Quốc có khả năng phát triển và cạnh tranh ngắn hạn. Còn về lâu dài, việc công khai sao chép sản phẩm nước ngoài có thể tạo nhu cầu đối với các sáng kiến phương Tây. Như Bill Gates, một trong hai người sáng lập Microsoft và không được coi là người có quan điểm khoan dung về quyền sở hữu trí tuệ, đã nói đến việc Trung Quốc sao chép các sản phẩm phần mềm bằng phát biểu nổi tiếng sau đây: “Chừng nào mà họ có ý định ăn cắp phần mềm, chúng tôi muốn họ ăn cắp phần mềm cá»§a chúng tôi. Rồi họ sẽ bị ghiền, và sau đó chúng tôi sẽ tìm cách thâu tiền ở một thời điểm nào đó trong thập ká»· tới”.


 NHỮNG TÊN CƯỚP GỘC


Có lẽ điều quan trọng nhất cần phải nhận thấy về nền kinh tế hàng nhái của Trung Quốc là, chính bản thân nền kinh tế này là một bản sao [của một mô hình đi trước]. Khi Hoa Kỳ mới bắt đầu vươn tới địa vị giàu có và quyền lực trong lịch sử, nước này cũng là một quốc gia chuyên vi phạm tác quyền (a pirate nation) giống hệt như Trung Quốc ngày nay. Vào các thế kỷ 18 và 19, Vương quốc Anh là mục tiêu hàng đầu của đạo tặc Mỹ, tức những gián điệp kinh tế tập trung nỗ lực vào công nghiệp hàng dệt nước Anh. Các doanh nhân Mỹ tìm cách sao chép các thiết kế bí mật của Anh để chế tạo khung cửi và xây dựng nhà máy, và chính phủ Hoa Kỳ đứng ở thế sẵn sàng để giúp đỡ họ.


Cũng như tại Trung Quốc hiện nay, phát minh qua việc bắt chước (imitative innovation) là chính sách nhà nước (official policy): luật pháp ban đầu của Mỹ cấm các nhà phát minh nước ngoài lấy bằng sáng chế tại Hoa Kỳ về những phát minh mà họ đã được cấp bằng tại những nơi khác, và những rào cản đáng kể vẫn còn tồn tại cho đến những năm sau cùng của thế kỷ 19. Luật bản quyền Hoa Kỳ lúc bấy giờ cũng tương tự như luật Trung Quốc hiện nay, công khai từ chối bất cứ sự bảo vệ nào đối với tác giả nước ngoài. Mãi cho đến năm 1891, lệnh cấm này mới được bãi bỏ, và thậm chí lúc bấy giờ, các tác giả nước ngoài vẫn còn bị buộc phải in sách của họ tại Hoa Kỳ như một điều kiện để được bảo vệ bản quyền. Mãi cho đến thập niên 1980, đòi hỏi này mới hoàn toàn biến mất khỏi luật pháp Mỹ. Người thụ hưởng nổi tiếng nhất của những luật bản quyền này là Benjamin Franklin – ông tái xuất bản tác phẩm của các nhà văn Anh mà không hề xin phép họ hoặc trả tiền tác quyền cho họ. Người Anh đã khiển trách người Mỹ thậm tệ về đường lối sao chép này; Charles Dickens phản ánh sự bức xúc của những nhà văn Anh nổi tiếng khác khi ông than thở về “cái công lý tuyệt vời không hề cho tôi hưởng lấy một đồng xu do việc người Mỹ bán một lượng sách khổng lồ gồm tất cả mọi tác phẩm của tôi”.


Tuy vậy, trường hợp của Dickens cũng chứng minh sự vi phạm tác quyền đôi khi cũng có lợi cho tác giả như thế nào. Việc người Mỹ sao chép rộng rãi các tác phẩm của ông khiến nhiều người biết đến tên ông, biến Dickens thành một siêu sao văn học ở Hoa Kỳ. Vào thời điểm 1867 – 68, Dickens thực hiện một vòng diễn thuyết hoành tráng tại nước này, thu vào hơn 19.000 bảng Anh, hay tương đương với 1,75 triệu Mỹ kim ngày nay. Khi Dickens qua đời, chỉ hai năm sau, hơn 20% gia tài của ông là do chuyến du thuyết tại Mỹ mang lại.


Những điểm tương đồng này giữa quá khứ của Hoa Kỳ và hiện tại của Trung Quốc đặt sự hoang tưởng (paranoia) hiện nay của Washington về việc Bắc Kinh vi phạm tác quyền vào một cái nhìn toàn cảnh. Việc sao chép đã cho phép kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng vào thế kỷ 18 và thế kỷ 19 như thế nào, thì ngày nay nó cũng cho phép Trung Quốc tăng trưởng như thế ấy. Và người Anh đã cường điệu mối đe dọa kinh tế do việc người Mỹ sao chép sản phẩm của họ lúc bấy giờ như thế nào, thì ngày nay mối đe doạ của Trung Quốc cũng bị thổi phồng như thế ấy.


Nói vậy không có nghĩa là ta phải đặt tầm quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ ở mức thấp nhất. Thật ra, quyền sở hữu trí tuệ là rất thiết yếu trong các lãnh vực như ngành dược, nơi mà chi phí cho việc phát triển các loại thuốc là đặc biệt tốn kém. Nhưng việc tăng cường tác quyền không luôn luôn dẫn đến kết quả tốt đẹp hơn. Quyền sở hữu trí tuệ có thể ngăn cản cũng như khuyến khích sáng kiến; chúng kiềm chế sự cạnh tranh ngay cả khi chúng khích lệ óc sáng tạo. Quan trọng hơn hết, vì mỗi sáng kiến đều dựa vào những điều đã có từ trước, việc bảo vệ tác quyền quá bao trùm sẽ giới hạn các nguồn cảm hứng có giá trị. Muốn làm một cái bẫy chuột tốt hơn, người ta cần được tự do dựa vào những cái bẫy chuột đã có từ trước. Giống hệt như Apple đã vay mượn từ Xerox ý tưởng kết hợp con chuột máy vi tính với một màn hình có các biểu tượng (chứ không chỉ dùng chữ viết trên màn hình) – mà kết quả là chiếc máy vi tính có màn hình biểu tượng (desktop computer) ngày nay – hàng triệu nhà phát minh khác cũng dựa vào tác phẩm của người khác, đồng thời cải tiến chúng.


Trung Quốc thông qua các luật lệ hiện đại đầu tiên của mình về bằng sáng chế và thương hiệu vào thập niên 1980 và luật bản quyền đầu tiên năm 1990. Luật sở hữu trí tuệ vẫn còn là một hiện tượng tương đối mới mẻ trong một xã hội tập trung cao độ vào nỗ lực bành trướng tăng trưởng kinh tế và duy trì ổn định xã hội. Người ta không thể trông mong thái độ và thói quen của người Trung Quốc đối với việc sao chép sản phẩm nước ngoài có thể thay đổi nhanh chóng. Khi kinh tế Trung Quốc tiến xa hơn nữa, có lẽ cán cân lợi ích sẽ thay đổi, và nước này có thể sẽ theo đuổi một đường lối ít tùy tiện hơn. Hiện nay, biết đặt nạn sao chép tại Trung Quốc vào một viễn kiến và biết nhận ra những ưu điểm cũng như những tai hại của nó là một điều rất quan trọng. Trước hết, Hoa Kỳ nên xét đến lịch sử của chính mình, lịch sử của một quốc gia cũng từng vi phạm tác quyền – và nên giảm bớt căng thẳng.


____________


Kal Raustilia là Giám đốc Trung tâm Burkle về Bang giao Quốc tế tại Đại học California, Los Angeles, (UCLA) và là Giáo sư Trường Luật của UCLA. Christopher Sprigman là Giáo sư Nghiên cứu tại Trường Luật của Đại học Virginia. Cả hai là tác giả cuốn The Knockoff Economy: How Imitation Sparks Innovation (Nền Kinh tế hàng nhái: Việc bắt chước đã châm ngòi cho sáng kiến như thế nào).


Nguồn: Kal Raustilia  và Christopher Sprigman, “Fake It Till You Make It The Good News About China’s Knockoff Economy”, Foreign Affairs tháng Bảy /Tám 2013


Bản tiếng Việt 2013 © Trần Ngọc Cư & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 13, 2013 15:36

July 11, 2013

“Xin hãy sờ tôi” hay “Tự kiểm duyệt”

Nguyễn Minh Thành


Anh bạn tôi tên là Tráng than rằng: Người xem cứ sờ vào tác phẩm nghệ thuật, đã treo biển cấm sờ mà họ vẫn sờ! Tôi bảo rằng: Vậy thì nên làm một triển lãm với chủ đề: xin người xem hãy sờ vào tác phẩm. Anh bạn tôi nói  đùa: Hay thành là tác phẩm đứng đó để cho người ta sờ. Thoạt tiên tôi nghĩ, xấu hổ lắm, tôi không dám đứng đâu, mặc dù biết là có thể đứng được. Rồi cứ nghĩ mãi, nên bây giờ nghĩ ra một tác phẩm, không phải đứng mà, nằm. Tác phẩm mà biết trước là sẽ bị kiểm duyệt, bị cấm.


Tác phẩm thế này:


Tôi sẽ hoá trang mặc áo quần và cắm râu ria sao cho giống y ông Hồ Chí Minh và nằm trong hộp kính, phía trên không đậy nắp. Cố gắng hết mức có thể để càng giống ông Hồ bây giờ đang nằm trong lăng Ba Đình. Nằm yên thế khoảng 1 tiếng trong khi người xem được mời sờ vào người tôi.


Tôi đoán rằng trong 100 người Việt Nam khi nghe đến tác phẩm nghệ thuật này thì có đến 99,9 người đoan chắc là tác phẩm sẽ bị nhà nước cấm. Tại sao bị cấm? Chắc hết thảy mọi người đều biết. Nhưng từ từ, chậm chậm, nghĩ về nó thì chắc cũng không nhiều người đâu, tôi đoán thế.


Vậy xin hãy cùng tôi bình tĩnh suy tư về điều này xem nó như thế nào.


Ông Hồ Chí Minh là người đã trở thành biểu tượng được tôn kính nhất ở Việt Nam hiện nay. Việc “trở thành” này là do đâu? Là do kỹ nghệ tuyên truyền của nhà nước tạo nên lòng sùng kính của nhân dân. Nhân dân ở đây cũng là từ phát ngôn của hệ thống tuyên truyền của nhà nước. Vì vậy nhân dân có sùng kính thật sự hay không thì không có gì đoan chắc. Hoặc có bao nhiêu phần trăm sùng kính? Hoặc thành phần nào trong nhân dân sùng kính? Hoặc hiểu biết của họ về ông Hồ ở mức độ nào?… Cũng đều không có gì đoan chắc.


Như cá nhân tôi cũng là một nhân dân, nhưng với hiểu biết của tôi thì tôi không sùng kính ông Hồ. Song khi trên đài báo, bao nhiêu năm nay cứ nói nhân dân và có nghĩa rằng tôi cũng ở trong số đó. Như thế thật oan cho tôi, tôi đâu có sùng kính ông Hồ! Và trong cả nước Việt Nam, có lẽ tôi không phải người duy nhất. Vậy có bao nhiêu người không sùng kính như tôi? Chúng ta hoàn toàn không biết. Nếu ai có mắt thần biết được thì thật hay. Biết đâu có 3 nhân dân, hay 16 nhân dân hay 700 nhân dân hay rất nhiều nhân dân hay bất kỳ con số nhân dân và không loại trừ con số lên tới mức nhiều làm người ta choáng váng thì sao.


Trong trường hợp chỉ có mỗi mình tôi trong cả nước là người không sùng kính ông Hồ, vậy thì trên các bài báo, bài văn hay bài phát biểu phải nói là: “Nhân dân ta thiếu một người sùng kính Bác Hồ” mới đúng.


Viết đến đây tôi liền search Google với từ khoá: “Nhân dân một lòng tôn kính bác” sau 3 giây, liền ra một loạt kết quả, tôi lấy bài đầu tiên, xin mời vào link này:  http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=15414&Itemid=37


Đọc bài này, quý vị thấy là loại văn kiểu gì? Riêng tôi thì gọi là loại văn nói dối. Nhưng từ chính xác hơn là: văn điêu. “Điêu” là làm cho lồi lên trên mặt phẳng. Nên cũng gọi là điêu khắc, nghĩa là làm lồi lên hay lõm xuống. Bài báo ở link trên này chỉ là một ví dụ dẫn chứng, mà tôi chẳng phải nhọc công tìm kiếm. Còn biết bao nhiêu bài và từ biết bao năm nay, cứ nguyên một điệu văn “điêu” ấy trên toàn hệ thống tuyên truyền nhà nước.


Từ công phu làm “điêu hoá văn” này của nhà nước từ năm 1954 đến nay, nước chúng ta đạt kết quả là nếu tìm 10 nước nói dối nhất thế giới thì không lo trong đó không có tên Việt Nam. Khi xã hội số đông nói dối nhau, thì xã hội ấy sao tránh khỏi tham nhũng!


Quay lại điều ông Hồ là biểu tượng được tôn kính nhất, thì chúng ta hãy suy xét về tính biểu tượng thực sự là gì?


Trước hết phải nói rằng: biểu tượng chính là nguyên nhân làm sa ngã nhân loại.


Tại sao vậy?


Thưa: biểu tượng được sinh ra từ một hình tượng cụ thể nào đó, dầu là người hay vật. Nó trở thành ký hiệu và quy ước trong tinh thần. Vì thế, biểu tượng thì rất cần thiết trong chính trị, tôn giáo hay đảng phái hay hội đoàn và nhất là trong kinh doanh. Trong các lãnh vực trên, muốn thành công nhất thiết phải có biểu tượng. Nếu không có biểu tượng, không thu hút số đông. Nhưng các nhóm số đông kia lại chính là nguyên nhân của chiến tranh, chia rẽ không ngừng trong lịch sử tiến hoá của nhân loại.


Duy nhất chỉ có kinh doanh là còn lành mạnh hơn cả. Vì trong kinh doanh, bạn thấy biểu tượng của coca cola chẳng hạn, bạn xem TV quảng cáo hay, bạn mua, bạn uống. Và từ quy ước của tinh thần, bạn ít ra còn được uống vật chất, mặc dù vẫn mất tiền như thường.


Còn biểu tượng của chính trị, tôn giáo, đảng phái, hội đoàn thì ăn vào tinh thần người ta và chi phối hành vi người ta theo cách phản xạ có điều kiện. Ví dụ cây thập tự là biểu tượng của Thiên chúa giáo, thì khi nhìn thấy cây thập tự, tín đồ Thiên chúa giáo được dạy là bái lạy tôn kính, còn người thù ghét Thiên chúa giáo, thì thấy cây thập tự, sẽ thù ghét cây thập tự và có phần chắc, sẽ thù ghét luôn cả người mang cây thập tự, cho dù người đó là một người đạo đức, thánh thiện. Như vậy, người ta vì biểu tượng mà hành xử, chứ không căn cứ vào thực tế. Lâu dần, khả năng cảm nhận và tôn trọng thực tế phai lạt dần, thậm chí mất hẳn. Vì thế nên nhân loại đau khổ. Cuộc sống vốn kỳ diệu và thần tiên hơn chúng ta thấy, trong khi vì hàng đống các biểu tượng chỉ làm giác quan của chúng ta càng thu hẹp lại, cùn đi, cảm nhận càng nghèo nàn hơn.


Giả sử một người chưa theo tôn giáo nào, (xin lưu ý là không phải người theo vô thần cộng sản, vì những người ấy cũng là theo tôn giáo cộng sản rồi, thậm chí tôn giáo này còn nghiệt ngã hơn nhiều tôn giáo hữu thần) thì họ lại dễ gặp Chúa Jêsu hay Đức Phật hơn là tín đồ Thiên chúa hay Phật tử. Bởi vì người đi nhà thờ hay lễ chùa vốn quen và tin cái tượng Chúa bị đóng đanh, hay tượng Phật trên toà sen, cùng nến đèn hương khói. Người tín đồ từ nhà thờ đi ra mà gặp một người hiền lễ phép nói: này bạn, tôi là Jêsu đây, thì người tín đồ sẽ rất bực mình và mắng cái ông kia là điên và mất dạy. Mà không chừng đó là Chúa thật thì sao? Vì giáo lý chẳng dạy Chúa đầy quyền năng, một phép lạ cỏn con như thế chẳng lẽ không biến thành được hay sao?


Trong khi chính lời Chúa dạy là: “Ta luôn ở cùng các con.”


Vậy đó, người ta sẽ rất nghiêm nghị thành kính với các biểu tượng, nhưng với thực tại thì người ta rất xem thường.


Cũng thế giả dụ bây giờ, có một ông y như ông Hồ, râu tóc bạc phơ nói với bạn: “Này cháu, bác đây, bác Hồ đây”, thì việc đầu tiên bạn sẽ làm với tư cách một nhân dân, là đi báo công an. Vậy là bác Hồ lại đi ở tù lần nữa.


Tôi nghe một chuyện từ một vị cư sĩ kể, là ông ấy đàm đạo với một mục sư về Kinh thánh. Có đoạn ông ấy hỏi vị mục sư:


“Ngài nói Chúa Jêsu chịu đóng đanh vì chuộc tội loài người đúng không?”


Vị mục sư trả lời: “Đúng.”


Vị cư sĩ hỏi:


“Nếu giả sử lúc ấy không có ai ngoài ngài và Chúa, mà Chúa không tự đóng đanh mình được. Chúa nhờ ngài giúp, vậy ngài có làm không?”


Vị mục sư trả lời:


“Vì cứu chuộc nhân loại, tôi sẽ làm.”


Cho nên, người ta thường hay bỏ quên thực tại ngay trước mắt mình như thế đấy. Từ điểm khởi đầu chúng ta là đi tìm cái tốt đẹp, nhưng các biểu tượng che mắt chúng ta dần dần, đến nỗi chúng ta một ngày cũng giết Chúa luôn trong niềm tin rằng đó là việc tốt. Y hệt như các cuộc thánh chiến, họ đều nhân danh Thượng đế để giết nhau. Trong khi hầu như tôn giáo nào cũng đều nói con người là con của Thượng đế, thậm chí Thượng đế ở trong mỗi con người.


Cho tới khi các biểu tượng vô hiệu hoá cảm nhận độc lập của chúng ta, thì chúng ta không còn khả năng tự đứng trên đôi chân của chính mình. Ta chẳng còn thậm chí dám cãi nhau với Chúa một chút, rằng nếu Chúa muốn cứu chuộc chúng con thì hãy tìm cách khác đi. Chúa là đấng toàn năng mà. Lạy Chúa tôi! Đừng bắt con phải đóng đinh Người. Cắt tiết một con gà con còn chẳng nỡ, thì Chúa nỡ lòng nào bắt con giết người.


Chúng ta nên cẩn trọng với biểu tượng. Biểu tượng là sản phẩm của suy nghĩ, chúng không đóng góp gì cho hạnh phúc nhân loại mà chúng chỉ quy tụ đám đông và dẫn dắt đám đông đi xa khỏi chính trái tim mình.


Tôi dám quả quyết rằng, nhân loại thiếu thốn tình yêu đến như thế này, là do thôi thì đủ loại các biểu tượng gây ra. Kể cả với biểu tượng cho tình yêu, cũng làm người ta mất cảm thụ về tình yêu. Ngày lễ Valentin chẳng hạn, tại sao phải chờ ngày đó mới mua quà tặng nhau, trong khi 365 ngày tình yêu cần được hiện diện. Thiếu một ngày của tình yêu là một ngày địa ngục. Tiếc thay chúng ta thậm chí sống 364 ngày vắng tình yêu. Tình yêu mới là chính thứ ta cần, trong khi điều ta đạt được lại chỉ là biểu tượng của tình yêu. Và chúng ta than rằng đời là bể khổ.


Nếu con người loại bỏ những biểu tượng, để tự do tư tưởng, tự nhiên trong tư duy, hồn nhiên trong suy nghĩ, thì thế giới này loại bỏ được biết bao phân chia, cách biệt và áp chế. Tình thương yêu sẽ là giáo lý cho mọi tôn giáo. Chân thật là hương thơm cho mỗi hành động, việc làm của con người. Bình an soán ngôi sợ hãi.


Đó là tại sao tôi nói: biểu tượng làm sa ngã nhân loại.


Tôi nghe ai đó nói: “đập vỡ thần tượng”, hình như ông nào thời chủ nghĩa hiện sinh thì phải. Và tôi thấy ông ấy hoàn toàn có lý.


Vì vậy nên tôi mới nghĩ ra tác phẩm giả làm ông Hồ Chí Minh, nằm im trong hộp kính không đậy nắp trên đây. Và đương nhiên nó sẽ không được cho phép, vì nó động đến biểu tượng lớn nhất.


Lâu nay hình ảnh ông Hồ nằm trong lăng đã thay thế ông Hồ thật, người đã từng là một con người.


Mặc dù người ta đều biết tác phẩm kia là do tôi đóng giả chứ tôi không phải ông Hồ thật, nhưng người ta cũng không cho phép. Vì biểu tượng luôn được bảo vệ nghiêm ngặt và cẩn trọng nhất. Mặc dù biểu tượng về ông Hồ là xuất phát từ chính ông Hồ thật. Thế nhưng ông Hồ thật đã trở nên không còn quan trọng bằng ông Hồ biểu tượng, người ta đã quên mất ông rồi.


Vậy ông Hồ thật là như thế nào? Nếu mô tả thì chắc là dài lắm nên tôi chỉ nêu một chi tiết thôi.


Ông Hồ thật không thích nằm trong tủ kính trong lăng. Ông ấy thích được thiêu xác và bỏ tro trong 3 cái hũ, để trên 3 quả đồi có trồng cây và các cụ già. Điều này chính tay ông ấy viết và do nhà nước công bố. Ai không tin mua quyển “Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh”.


Như vậy tác phẩm trên đây của tôi một công đôi việc là thế này:


Một việc là, làm người ta suy xét đến bản chất của biểu tượng là gì. Giả sử nếu biểu tượng Hồ Chí Minh không tồn tại, thì cuộc sống sẽ như thế nào?


Một việc nữa là, khiến người ta dừng lại một chút trước khi người ta định sờ vào tác phẩm nghệ thuật. Vì phần đông nếu nhìn thấy tác phẩm, là ông Hồ Chí Minh nằm đó mà lại bảo xin hãy sờ vào thì: ôi chết, ai mà dám!


Và như bạn biết đấy, tác phẩm này sẽ không được ra đời về mặt tạo hình trước công chúng. Vì nó bị tôi và bạn, chúng ta, những nhân dân tự kiểm duyệt trước. Tự kiểm duyệt cũng như tự tử trong tinh thần, nhưng là cách tự tử đau đớn nhất.


Chúng ta đừng ngạc nhiên khi văn hoá của chúng ta đang và sẽ thoái hoá vì chính những ngày tháng sống không lành mạnh này. Cũng có người sẽ phản ứng là sao lại nói là chúng ta không lành mạnh? Nếu bạn đã không nhận thấy thì tôi còn biết nói sao!


Nhưng theo hiểu biết của riêng tôi thì là sự thật đấy, chúng ta, những người Việt Nam từ năm 1954 đến nay đã phải sống trong bầu khí rất mất tự nhiên và không lành mạnh. Nếu đổ được tội cho Mỹ hay Pháp hay Nga… thì tốt quá, nhưng xem ra họ không nhận trách nhiệm đâu.


Nhìn quanh thấy ai cũng chăm lo cho gia đình và con cái được tốt nhất, nhưng không thấy rằng: con cái mai sau phải thừa kế văn hoá và lối sống của cha ông chúng từ năm 1954. Mà biểu tượng của văn hoá ấy là “nói dối”. Bây giờ không cần nói: “Các em là tương lai nữa”, mà nói: “Cha anh hôm nay là của nợ của con cháu ngày sau”.


Tôi không thù oán gì với ông Hồ Chí Minh. Nhưng ông ấy không phải là người tôi tôn kính. Tôi hoàn toàn tôn trọng ông ấy như một con người có đầy đủ quyền về nhân phẩm. Lấy ví dụ cụ thể, cũng là người Việt Nam như cụ Phan Chu Trinh, thì tôi tôn kính cụ ấy hơn ông Hồ.


Tôi cũng trân trọng những ai tôn kính ngưỡng mộ ông Hồ, vì ấy thật là một điều thiện lành, nhưng hãy là thật với lòng mình và để tình cảm biểu hiện tự nhiên. Nếu một người còn sống, mình giả dối nói yêu người ta, người ta tin thế, đến khi người ta biết thực sự mình không yêu, vậy người ta đau đớn biết nhường nào, huống hồ người đã chết! Dối lòng và làm sai với ý nguyện của người đã chết, thì có phải là tôn kính không?


Tôi xin hỏi các quý vị cán bộ và nhân dân, những người đi giảng dạy và học tập gương ông Hồ Chí Minh là: “Các quý vị có thật lòng yêu ông ấy không?” Câu hỏi này không cần quý vị phải trả lời với ai, chỉ với chính mình và cũng không cần phải trả lời ngay, có thể một ngày, hai ngày hay lúc nào đó, miễn là cố thử một lần thật thà với chính mình.


Theo tôi hiểu: với người nhìn xa trông rộng thì, thật thà là có lợi cho cả mình và người và lợi dài lâu, còn với người thiển cận thì, nói dối là có lợi cho mình, cái hại thì hạng người này không quan tâm. Vậy chúng ta nên chọn cho mình là loại người nào? Và điều đó chỉ tuỳ thuộc tại nơi chính mỗi người. Và cũng chỉ có thể chọn một chứ không thể là cả hai.


Xin cảm ơn lời than của anh bạn tôi về chuyện sờ vào tác phẩm, mà khiến tôi lan man nghĩ ra tác phẩm này. Tác phẩm tên là: “Xin hãy sờ tôi” hay “Tự kiểm duyệt”. Tôi cũng chưa biết chọn tên nào trong hai tên ấy.


Đà Lạt tháng 7 năm 2013


___________


Họa sĩ Nguyễn Minh Thành sinh năm 1971, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội năm 1996, đã có hàng chục triển lãm tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Triển lãm gần đây nhất: “Lời chưa nói” (Eight Gallery, TP HCM tháng 12.2012). Đầu năm 2006, ông được dư luận rộng rãi chú ý với , sau lần bị cấm xuất cảnh sang Côn Minh, Trung Quốc.


Đọc thêm những bài viết khác của Nguyễn Minh Thành:


Cái bỉm của Trương Tân và quyền không được tự do triển lãm (talawas, 2007)


Người nên một (talawas, 2007)


Bàn tròn mỹ thuật (Litviet, 2012)


 © 2013 Nguyễn Minh Thành & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 11, 2013 15:10

“Xin hãy sờ tôi” hay “Tự kiểm duyệt”

Nguyễn Minh Thành


Anh bạn tôi tên là Tráng than rằng: Người xem cứ sờ vào tác phẩm nghệ thuật, đã treo biển cấm sờ mà họ vẫn sờ! Tôi bảo rằng: Vậy thì nên làm một triển lãm với chủ đề: xin người xem hãy sờ vào tác phẩm. Anh bạn tôi nói  đùa: Hay thành là tác phẩm đứng đó để cho người ta sờ. Thoạt tiên tôi nghĩ, xấu hổ lắm, tôi không dám đứng đâu, mặc dù biết là có thể đứng được. Rồi cứ nghĩ mãi, nên bây giờ nghĩ ra một tác phẩm, không phải đứng mà, nằm. Tác phẩm mà biết trước là sẽ bị kiểm duyệt, bị cấm.


Tác phẩm thế này:


Tôi sẽ hoá trang mặc áo quần và cắm râu ria sao cho giống y ông Hồ Chí Minh và nằm trong hộp kính, phía trên không đậy nắp. Cố gắng hết mức có thể để càng giống ông Hồ bây giờ đang nằm trong lăng Ba Đình. Nằm yên thế khoảng 1 tiếng trong khi người xem được mời sờ vào người tôi.


Tôi đoán rằng trong 100 người Việt Nam khi nghe đến tác phẩm nghệ thuật này thì có đến 99,9 người đoan chắc là tác phẩm sẽ bị nhà nước cấm. Tại sao bị cấm? Chắc hết thảy mọi người đều biết. Nhưng từ từ, chậm chậm, nghĩ về nó thì chắc cũng không nhiều người đâu, tôi đoán thế.


Vậy xin hãy cùng tôi bình tĩnh suy tư về điều này xem nó như thế nào.


Ông Hồ Chí Minh là người đã trở thành biểu tượng được tôn kính nhất ở Việt Nam hiện nay. Việc “trở thành” này là do đâu? Là do kỹ nghệ tuyên truyền của nhà nước tạo nên lòng sùng kính của nhân dân. Nhân dân ở đây cũng là từ phát ngôn của hệ thống tuyên truyền của nhà nước. Vì vậy nhân dân có sùng kính thật sự hay không thì không có gì đoan chắc. Hoặc có bao nhiêu phần trăm sùng kính? Hoặc thành phần nào trong nhân dân sùng kính? Hoặc hiểu biết của họ về ông Hồ ở mức độ nào?… Cũng đều không có gì đoan chắc.


Như cá nhân tôi cũng là một nhân dân, nhưng với hiểu biết của tôi thì tôi không sùng kính ông Hồ. Song khi trên đài báo, bao nhiêu năm nay cứ nói nhân dân và có nghĩa rằng tôi cũng ở trong số đó. Như thế thật oan cho tôi, tôi đâu có sùng kính ông Hồ! Và trong cả nước Việt Nam, có lẽ tôi không phải người duy nhất. Vậy có bao nhiêu người không sùng kính như tôi? Chúng ta hoàn toàn không biết. Nếu ai có mắt thần biết được thì thật hay. Biết đâu có 3 nhân dân, hay 16 nhân dân hay 700 nhân dân hay rất nhiều nhân dân hay bất kỳ con số nhân dân và không loại trừ con số lên tới mức nhiều làm người ta choáng váng thì sao.


Trong trường hợp chỉ có mỗi mình tôi trong cả nước là người không sùng kính ông Hồ, vậy thì trên các bài báo, bài văn hay bài phát biểu phải nói là: “Nhân dân ta thiếu một người sùng kính Bác Hồ” mới đúng.


Viết đến đây tôi liền search Google với từ khoá: “Nhân dân một lòng tôn kính bác” sau 3 giây, liền ra một loạt kết quả, tôi lấy bài đầu tiên, xin mời vào link này:  http://www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=15414&Itemid=37


Đọc bài này, quý vị thấy là loại văn kiểu gì? Riêng tôi thì gọi là loại văn nói dối. Nhưng từ chính xác hơn là: văn điêu. “Điêu” là làm cho lồi lên trên mặt phẳng. Nên cũng gọi là điêu khắc, nghĩa là làm lồi lên hay lõm xuống. Bài báo ở link trên này chỉ là một ví dụ dẫn chứng, mà tôi chẳng phải nhọc công tìm kiếm. Còn biết bao nhiêu bài và từ biết bao năm nay, cứ nguyên một điệu văn “điêu” ấy trên toàn hệ thống tuyên truyền nhà nước.


Từ công phu làm “điêu hoá văn” này của nhà nước từ năm 1954 đến nay, nước chúng ta đạt kết quả là nếu tìm 10 nước nói dối nhất thế giới thì không lo trong đó không có tên Việt Nam. Khi xã hội số đông nói dối nhau, thì xã hội ấy sao tránh khỏi tham nhũng!


Quay lại điều ông Hồ là biểu tượng được tôn kính nhất, thì chúng ta hãy suy xét về tính biểu tượng thực sự là gì?


Trước hết phải nói rằng: biểu tượng chính là nguyên nhân làm sa ngã nhân loại.


Tại sao vậy?


Thưa: biểu tượng được sinh ra từ một hình tượng cụ thể nào đó, dầu là người hay vật. Nó trở thành ký hiệu và quy ước trong tinh thần. Vì thế, biểu tượng thì rất cần thiết trong chính trị, tôn giáo hay đảng phái hay hội đoàn và nhất là trong kinh doanh. Trong các lãnh vực trên, muốn thành công nhất thiết phải có biểu tượng. Nếu không có biểu tượng, không thu hút số đông. Nhưng các nhóm số đông kia lại chính là nguyên nhân của chiến tranh, chia rẽ không ngừng trong lịch sử tiến hoá của nhân loại.


Duy nhất chỉ có kinh doanh là còn lành mạnh hơn cả. Vì trong kinh doanh, bạn thấy biểu tượng của coca cola chẳng hạn, bạn xem TV quảng cáo hay, bạn mua, bạn uống. Và từ quy ước của tinh thần, bạn ít ra còn được uống vật chất, mặc dù vẫn mất tiền như thường.


Còn biểu tượng của chính trị, tôn giáo, đảng phái, hội đoàn thì ăn vào tinh thần người ta và chi phối hành vi người ta theo cách phản xạ có điều kiện. Ví dụ cây thập tự là biểu tượng của Thiên chúa giáo, thì khi nhìn thấy cây thập tự, tín đồ Thiên chúa giáo được dạy là bái lạy tôn kính, còn người thù ghét Thiên chúa giáo, thì thấy cây thập tự, sẽ thù ghét cây thập tự và có phần chắc, sẽ thù ghét luôn cả người mang cây thập tự, cho dù người đó là một người đạo đức, thánh thiện. Như vậy, người ta vì biểu tượng mà hành xử, chứ không căn cứ vào thực tế. Lâu dần, khả năng cảm nhận và tôn trọng thực tế phai lạt dần, thậm chí mất hẳn. Vì thế nên nhân loại đau khổ. Cuộc sống vốn kỳ diệu và thần tiên hơn chúng ta thấy, trong khi vì hàng đống các biểu tượng chỉ làm giác quan của chúng ta càng thu hẹp lại, cùn đi, cảm nhận càng nghèo nàn hơn.


Giả sử một người chưa theo tôn giáo nào, (xin lưu ý là không phải người theo vô thần cộng sản, vì những người ấy cũng là theo tôn giáo cộng sản rồi, thậm chí tôn giáo này còn nghiệt ngã hơn nhiều tôn giáo hữu thần) thì họ lại dễ gặp Chúa Jêsu hay Đức Phật hơn là tín đồ Thiên chúa hay Phật tử. Bởi vì người đi nhà thờ hay lễ chùa vốn quen và tin cái tượng Chúa bị đóng đanh, hay tượng Phật trên toà sen, cùng nến đèn hương khói. Người tín đồ từ nhà thờ đi ra mà gặp một người hiền lễ phép nói: này bạn, tôi là Jêsu đây, thì người tín đồ sẽ rất bực mình và mắng cái ông kia là điên và mất dạy. Mà không chừng đó là Chúa thật thì sao? Vì giáo lý chẳng dạy Chúa đầy quyền năng, một phép lạ cỏn con như thế chẳng lẽ không biến thành được hay sao?


Trong khi chính lời Chúa dạy là: “Ta luôn ở cùng các con.”


Vậy đó, người ta sẽ rất nghiêm nghị thành kính với các biểu tượng, nhưng với thực tại thì người ta rất xem thường.


Cũng thế giả dụ bây giờ, có một ông y như ông Hồ, râu tóc bạc phơ nói với bạn: “Này cháu, bác đây, bác Hồ đây”, thì việc đầu tiên bạn sẽ làm với tư cách một nhân dân, là đi báo công an. Vậy là bác Hồ lại đi ở tù lần nữa.


Tôi nghe một chuyện từ một vị cư sĩ kể, là ông ấy đàm đạo với một mục sư về Kinh thánh. Có đoạn ông ấy hỏi vị mục sư:


“Ngài nói Chúa Jêsu chịu đóng đanh vì chuộc tội loài người đúng không?”


Vị mục sư trả lời: “Đúng.”


Vị cư sĩ hỏi:


“Nếu giả sử lúc ấy không có ai ngoài ngài và Chúa, mà Chúa không tự đóng đanh mình được. Chúa nhờ ngài giúp, vậy ngài có làm không?”


Vị mục sư trả lời:


“Vì cứu chuộc nhân loại, tôi sẽ làm.”


Cho nên, người ta thường hay bỏ quên thực tại ngay trước mắt mình như thế đấy. Từ điểm khởi đầu chúng ta là đi tìm cái tốt đẹp, nhưng các biểu tượng che mắt chúng ta dần dần, đến nỗi chúng ta một ngày cũng giết Chúa luôn trong niềm tin rằng đó là việc tốt. Y hệt như các cuộc thánh chiến, họ đều nhân danh Thượng đế để giết nhau. Trong khi hầu như tôn giáo nào cũng đều nói con người là con của Thượng đế, thậm chí Thượng đế ở trong mỗi con người.


Cho tới khi các biểu tượng vô hiệu hoá cảm nhận độc lập của chúng ta, thì chúng ta không còn khả năng tự đứng trên đôi chân của chính mình. Ta chẳng còn thậm chí dám cãi nhau với Chúa một chút, rằng nếu Chúa muốn cứu chuộc chúng con thì hãy tìm cách khác đi. Chúa là đấng toàn năng mà. Lạy Chúa tôi! Đừng bắt con phải đóng đinh Người. Cắt tiết một con gà con còn chẳng nỡ, thì Chúa nỡ lòng nào bắt con giết người.


Chúng ta nên cẩn trọng với biểu tượng. Biểu tượng là sản phẩm của suy nghĩ, chúng không đóng góp gì cho hạnh phúc nhân loại mà chúng chỉ quy tụ đám đông và dẫn dắt đám đông đi xa khỏi chính trái tim mình.


Tôi dám quả quyết rằng, nhân loại thiếu thốn tình yêu đến như thế này, là do thôi thì đủ loại các biểu tượng gây ra. Kể cả với biểu tượng cho tình yêu, cũng làm người ta mất cảm thụ về tình yêu. Ngày lễ Valentin chẳng hạn, tại sao phải chờ ngày đó mới mua quà tặng nhau, trong khi 365 ngày tình yêu cần được hiện diện. Thiếu một ngày của tình yêu là một ngày địa ngục. Tiếc thay chúng ta thậm chí sống 364 ngày vắng tình yêu. Tình yêu mới là chính thứ ta cần, trong khi điều ta đạt được lại chỉ là biểu tượng của tình yêu. Và chúng ta than rằng đời là bể khổ.


Nếu con người loại bỏ những biểu tượng, để tự do tư tưởng, tự nhiên trong tư duy, hồn nhiên trong suy nghĩ, thì thế giới này loại bỏ được biết bao phân chia, cách biệt và áp chế. Tình thương yêu sẽ là giáo lý cho mọi tôn giáo. Chân thật là hương thơm cho mỗi hành động, việc làm của con người. Bình an soán ngôi sợ hãi.


Đó là tại sao tôi nói: biểu tượng làm sa ngã nhân loại.


Tôi nghe ai đó nói: “đập vỡ thần tượng”, hình như ông nào thời chủ nghĩa hiện sinh thì phải. Và tôi thấy ông ấy hoàn toàn có lý.


Vì vậy nên tôi mới nghĩ ra tác phẩm giả làm ông Hồ Chí Minh, nằm im trong hộp kính không đậy nắp trên đây. Và đương nhiên nó sẽ không được cho phép, vì nó động đến biểu tượng lớn nhất.


Lâu nay hình ảnh ông Hồ nằm trong lăng đã thay thế ông Hồ thật, người đã từng là một con người.


Mặc dù người ta đều biết tác phẩm kia là do tôi đóng giả chứ tôi không phải ông Hồ thật, nhưng người ta cũng không cho phép. Vì biểu tượng luôn được bảo vệ nghiêm ngặt và cẩn trọng nhất. Mặc dù biểu tượng về ông Hồ là xuất phát từ chính ông Hồ thật. Thế nhưng ông Hồ thật đã trở nên không còn quan trọng bằng ông Hồ biểu tượng, người ta đã quên mất ông rồi.


Vậy ông Hồ thật là như thế nào? Nếu mô tả thì chắc là dài lắm nên tôi chỉ nêu một chi tiết thôi.


Ông Hồ thật không thích nằm trong tủ kính trong lăng. Ông ấy thích được thiêu xác và bỏ tro trong 3 cái hũ, để trên 3 quả đồi có trồng cây và các cụ già. Điều này chính tay ông ấy viết và do nhà nước công bố. Ai không tin mua quyển “Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh”.


Như vậy tác phẩm trên đây của tôi một công đôi việc là thế này:


Một việc là, làm người ta suy xét đến bản chất của biểu tượng là gì. Giả sử nếu biểu tượng Hồ Chí Minh không tồn tại, thì cuộc sống sẽ như thế nào?


Một việc nữa là, khiến người ta dừng lại một chút trước khi người ta định sờ vào tác phẩm nghệ thuật. Vì phần đông nếu nhìn thấy tác phẩm, là ông Hồ Chí Minh nằm đó mà lại bảo xin hãy sờ vào thì: ôi chết, ai mà dám!


Và như bạn biết đấy, tác phẩm này sẽ không được ra đời về mặt tạo hình trước công chúng. Vì nó bị tôi và bạn, chúng ta, những nhân dân tự kiểm duyệt trước. Tự kiểm duyệt cũng như tự tử trong tinh thần, nhưng là cách tự tử đau đớn nhất.


Chúng ta đừng ngạc nhiên khi văn hoá của chúng ta đang và sẽ thoái hoá vì chính những ngày tháng sống không lành mạnh này. Cũng có người sẽ phản ứng là sao lại nói là chúng ta không lành mạnh? Nếu bạn đã không nhận thấy thì tôi còn biết nói sao!


Nhưng theo hiểu biết của riêng tôi thì là sự thật đấy, chúng ta, những người Việt Nam từ năm 1954 đến nay đã phải sống trong bầu khí rất mất tự nhiên và không lành mạnh. Nếu đổ được tội cho Mỹ hay Pháp hay Nga… thì tốt quá, nhưng xem ra họ không nhận trách nhiệm đâu.


Nhìn quanh thấy ai cũng chăm lo cho gia đình và con cái được tốt nhất, nhưng không thấy rằng: con cái mai sau phải thừa kế văn hoá và lối sống của cha ông chúng từ năm 1954. Mà biểu tượng của văn hoá ấy là “nói dối”. Bây giờ không cần nói: “Các em là tương lai nữa”, mà nói: “Cha anh hôm nay là của nợ của con cháu ngày sau”.


Tôi không thù oán gì với ông Hồ Chí Minh. Nhưng ông ấy không phải là người tôi tôn kính. Tôi hoàn toàn tôn trọng ông ấy như một con người có đầy đủ quyền về nhân phẩm. Lấy ví dụ cụ thể, cũng là người Việt Nam như cụ Phan Chu Trinh, thì tôi tôn kính cụ ấy hơn ông Hồ.


Tôi cũng trân trọng những ai tôn kính ngưỡng mộ ông Hồ, vì ấy thật là một điều thiện lành, nhưng hãy là thật với lòng mình và để tình cảm biểu hiện tự nhiên. Nếu một người còn sống, mình giả dối nói yêu người ta, người ta tin thế, đến khi người ta biết thực sự mình không yêu, vậy người ta đau đớn biết nhường nào, huống hồ người đã chết! Dối lòng và làm sai với ý nguyện của người đã chết, thì có phải là tôn kính không?


Tôi xin hỏi các quý vị cán bộ và nhân dân, những người đi giảng dạy và học tập gương ông Hồ Chí Minh là: “Các quý vị có thật lòng yêu ông ấy không?” Câu hỏi này không cần quý vị phải trả lời với ai, chỉ với chính mình và cũng không cần phải trả lời ngay, có thể một ngày, hai ngày hay lúc nào đó, miễn là cố thử một lần thật thà với chính mình.


Theo tôi hiểu: với người nhìn xa trông rộng thì, thật thà là có lợi cho cả mình và người và lợi dài lâu, còn với người thiển cận thì, nói dối là có lợi cho mình, cái hại thì hạng người này không quan tâm. Vậy chúng ta nên chọn cho mình là loại người nào? Và điều đó chỉ tuỳ thuộc tại nơi chính mỗi người. Và cũng chỉ có thể chọn một chứ không thể là cả hai.


Xin cảm ơn lời than của anh bạn tôi về chuyện sờ vào tác phẩm, mà khiến tôi lan man nghĩ ra tác phẩm này. Tác phẩm tên là: “Xin hãy sờ tôi” hay “Tự kiểm duyệt”. Tôi cũng chưa biết chọn tên nào trong hai tên ấy.


Đà Lạt tháng 7 năm 2013


___________


Họa sĩ Nguyễn Minh Thành sinh năm 1971, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội năm 1996, đã có hàng chục triển lãm tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Triển lãm gần đây nhất: “Lời chưa nói” (Eight Gallery, TP HCM tháng 12.2012). Đầu năm 2006, ông được dư luận rộng rãi chú ý với , sau lần bị cấm xuất cảnh sang Côn Minh, Trung Quốc.


Đọc thêm những bài viết khác của Nguyễn Minh Thành:


Cái bỉm của Trương Tân và quyền không được tự do triển lãm (talawas, 2007)


Người nên một (talawas, 2007)


Bàn tròn mỹ thuật (Litviet, 2012)


 © 2013 Nguyễn Minh Thành & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 11, 2013 15:10

July 10, 2013

Cú giãy cuối cùng của nền phê bình chỉnh huấn

Phạm Thị Hoài


Năm ngoái, mấy cây dầu cổ thụ trong một bài thơ ít người biết đến bỗng khuấy động chút ít thi đàn Việt Nam. Tác giả, ông Đàm Chu Văn, chuyên viên cao cấp của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai kiêm Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai, Tổng Biên tập tạp chí Văn nghệ Đồng Nai, bị một đồng nghiệp thấm nhuần lập trường chuyên chính soi quan điểm chính trị. Cuối cùng mọi chuyện cũng ổn. Ông chỉ mất bốn tiếng đồng hồ giải trình sự trong sáng của mình với cơ quan tuyên giáo. Báo chí đưa tin. Đồng nghiệp Hồng Vệ binh im. Quan văn nghệ trung ương bật đèn xanh. Như trong vụ “Cánh đồng bất tận” sáu năm trước, những robot tuyên giáo ở một số tỉnh lẻ có lẽ vẫn tiếp tục chạy theo lập trình đấu tranh tư tưởng mấy thập niên quên cập nhật, nhưng thời của nền phê bình chỉnh huấn trên diện rộng ở toàn quốc đã qua rồi. Không ai đọc ai điếu cho nó. Nó đơn giản đã đóng xong vai trò kinh dị của mình trong một chương kinh hoàng của văn học sử đất nước này.


Tôi phải nhận rằng mình chưa bao giờ hâm mộ trường phái thơ mượn lời cỏ cây hoa lá để tâm tình. Khi tôi đến với văn chương thì những tâm tình đặc sắc nhất đặt vào miệng thiên nhiên đã được thốt ra rồi, từ đó trở đi cứ thấy cánh hoa nào trầm ngâm, nhành cây nào đau đáu, áng mây nào nặng trĩu nhân văn là tôi bỏ chạy. Tôi phải bảo vệ tình yêu văn chương của mình. Cũng như mọi tình yêu, chết vì buồn tẻ là nguyên nhân hàng đầu.


Với một thái độ thiếu khách quan không buồn giấu diếm như thế, tôi không thể bình luận về bài thơ vừa nhắc, nhan đề “Lời những cây dầu cổ thụ ở trụ sở ủy ban nhân dân”. Thực ra cuộc chỉnh huấn mini nói trên không liên quan gì đến thông điệp nghệ thuật của bài thơ. Vấn đề không phải là chỗ đứng của những cây dầu hoàn toàn vô can ấy trước trụ sở ủy ban nhân dân. Vài chục năm trước, có đứng trong rừng mà tâm sự mông lung như vậy thì chúng cũng bị đốn. Vấn đề là chỗ đứng của tác giả. Ở vị trí cán bộ tư tưởng và quan văn nghệ hạng đầu tỉnh, ông Đàm Chu Văn chỉ nên cho những phát ngôn viên của ông đứng trước một tiệm McDonald’s. Như thế sẽ vẹn cả mọi bề, vừa không ngán đồng nghiệp nào chỉ điểm, vừa thêm được tinh thần đi trước thời đại (ít nhất là hai năm, vì tập đoàn McDonald’s vẫn chưa hạ cố đến thị trường Việt Nam), và tất nhiên không mất mát gì về thông điệp nghệ thuật. Để có mấy lời tâm sự “mưa nắng ở đời” như thế thì đứng trước trụ sở ủy ban nhân dân hay trụ sở McDonald’s không có gì khác nhau. Nói cách khác, nếu là một nhà thơ tự do, tác giả của mấy cây dầu đó có thể khuân chúng ra tận Lăng Hồ Chủ tịch mà đứng, tâm sự mông lung hơn nữa cũng không phải giải trình trong sáng với ai. Đã từ lâu không kiểm soát nổi những nhà thơ tự do, nền phê bình chỉnh huấn chỉ còn ngắc ngoải bằng dăm ba nỗ lực uốn nắn nền thi ca chính thống, nơi điều duy nhất có thể mất và vì thế cần bảo vệ không phải là tự do, mà là sự lệ thuộc. Thấm thía điều này hơn ai hết có lẽ là người đã rời – chắc chắn không phải vì tự nguyện – cương vị đứng đầu ngành tuyên giáo quốc gia để trở về “chường cái mặt ra trong thơ”: ông Nguyễn Khoa Điềm.


Nhưng trước khi yên vị trong nhà quàn, nền phê bình chỉnh huấn ấy còn muốn cống hiến cho chúng ta một cú giãy, tuy quá thiểu não để có thể giải trí nhưng đáng để bình luận, vì rất có thể là cú giãy cuối cùng. Lần này, nó dồn hết những mảnh vụn kí ức sót lại về một thời sinh sát oanh liệt vào ngọn roi tàn, giáng xuống một bản luận văn thạc sĩ ba năm trước về nhóm thơ tự do đáng kể nhất từ thời Đổi mới ở Việt Nam, nhóm Mở Miệng.


Trong cuộc truy sát Nhân văn-Giai phẩm, ít ra chúng ta biết: Người “vạch trần bộ mặt thật” “trụy lạc phản động” của Trần Dần là nhạc sĩ Đỗ Nhuận; người hô hào cả nước “phải chặn lại không cho Trương Tửu được tự do truyền bá những tư tưởng phản động, những tác phong đồi bạilà nhà phê bình Hoài Thanh, cũng chính là người xác định tính chất “xuyên tạc”, “vu khống”, “phản động” của bài thơ “Nhất định thắng” của Trần Dần; người tố giác cả một “hệ thống những sai lầm xấu xa”, những “dụng ý rất đen tối” của Tử Phác là nhạc sĩ Lương Ngọc Trác; người lột “cái mặt gian xảo” của Lê Đạt như “một kẻ ẩn núp, tàng hình, đã từng quay quắt được một thời gian, nhưng rốt cục cái bản chất phản lại giai cấp vô sản lòi ra mồn mộtlà nhà thơ Xuân Diệu, cũng chính là người phát hiện Văn Cao “gài mìn chống phá Đảng và nhân dân”; người quyết “vạch rõ tội lỗi của Phan Khôi đã bao nhiêu năm làm tay sai cho đế quốc, nịnh hót phong kiến, huyễn hoặc, lừa bịp, đầu độc nhân dân để kiếm bát cơm, manh áo”, “chống Đảng, chống cách mạng, phản nhân dân, phản Tổ quốc”, “từ bé đến già bóc lột của nông dân, ăn cướp của nhân dânlà nhà văn Nguyễn Công Hoan; người gọi tác phẩm của Trần Duy là cái thứ “văn nghệ vô nhân đạo của thần chết”, là “những thứ cỏ độc, mà chúng ta phải nhổ sạch, quét sạch, để vứt vào rác, hoặc làm một thứ phân bón cho những bông hoa chân chính trong vườn văn nghệ của ta” là nhà phê bình Vũ Đức Phúc…; chưa kể hàng trăm văn nghệ sĩ không kém danh tiếng khác – từ Thế Lữ, Bửu Tiến, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân, Đoàn Giỏi, Tú Mỡ, Đoàn Văn Cừ, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tuân…, đến Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Đình Thi, Võ Huy Tâm, Đào Vũ, Bùi Huy Phồn… – hăng hái góp đinh cho những chiếc búa tạ nêu trên chốt quan tài những đồng nghiệp “nổi loạn” của họ.


Còn bây giờ, vung roi dọa nhà nghiên cứu Nhã Thuyên và nhóm Mở Miệng là lèo tèo một nhúm vô danh hay ẩn danh: một Cẩm Khê nào đó trên Nhân dân, một Tuyên Hóa nào đó trên Quân đội Nhân dân, một Minh Văn nào đó trên Thanh tra, những tờ báo lẽ ra không có phận sự thì miễn vào địa hạt văn học và cho đến lúc này không có đồng minh tự nguyện từ giới văn nghệ, trừ một người: nhà phê bình Chu Giang.


Quan hệ của chúng ta với các nhà phê bình văn học thực ra không khác lắm quan hệ với những người bán cá ở chợ, nó dựa trên sự tin cậy [i]. Sự tin cậy ấy đương nhiên tùy thuộc vào mỗi người và phải có cơ sở. Song chẳng cần nhiều lắm; đôi khi chỉ cần nếm vị, ngửi hơi là ta chấm xong điểm tín nhiệm. Ai muốn biết tầm vóc của nhà phê bình Chu Giang, tức ông cựu giám đốc NXB Văn học Nguyễn Văn Lưu, tác giả cuốn Luận chiến văn chương từng đoạt Giải thưởng Hội Nhà Văn năm 1996, có lẽ chỉ cần thưởng thức vài dòng trong loạt bài luận chiến đăng trên Tuần báo Văn nghệ TP HCM năm ngoái, phê phán tác phẩm và con người Nguyễn Huy Thiệp, đối tượng được ông chiếu cố từ thuở Văn học Đổi mới đến giờ chưa buông. Cá nhân tôi tưởng mình đang lạc vào vườn trẻ, nơi ông Lưu giậm chân mách cô giáo rằng văn chương thằng Thiệp không ra gì vì nó vừa đái bậy xong lại tranh đồ chơi của thằng khác. Nhưng ông cũng có thể rất nghiêm túc. Khi nghiêm túc, ông tuyên bố rằng: “Nếu chúng ta đi theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất cùng bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện theo những lời dạy của Hồ Chí Minh, thì đoàn kết được cả dân tộc, đoàn kết được cả giới văn nghệ”. Mọi bình luận ở đây là thừa.


Có những nhà phê bình mà khi được họ khen thì ta nên giật mình, còn lời chê của họ là bảo đảm đáng tin cậy nhất cho giá trị của tác phẩm bị họ phê phán. Tôi coi ông Nguyễn Văn Lưu thuộc loại này. Năng khiếu phê bình văn học (!) của ông nằm ở sự dị ứng không nhầm lẫn trước tất cả những gì vượt khỏi thước đo hạnh kiểm bỏ túi và cẩm nang thuật ngữ chính trị xuất bản năm 70. Ở thời hoàng kim của nền phê bình chỉnh huấn, phẩm chất ấy đáng giá vài cái Giải thưởng Hồ Chí Minh. Song sinh bất phùng thời, bây giờ nó được huy động cho cú giãy cuối cùng của nền phê bình ấy. Tôi tin rằng cả những người bị coi là phải chịu trách nhiệm về phương diện nhà nước cho công trình nghiên cứu mà ông hùng hồn gọi là “một luận văn kích động sự phản kháng và chống đối” lẫn tác giả Nhã Thuyên đều đủ rộng lượng để ghi nhận hành vi mang tính lịch sử này. Không phải ngày nào cũng có một nền phê bình giãy chết.


Còn nhóm Mở Miệng? Họ thà bị đem ra tra tấn bằng thơ, chứ nhất định không chịu mở miệng giải trình cái gì mà trong sáng. Nhưng tất nhiên họ sẽ mở miệng thật rộng để cười, dù biết rằng có những thứ giãy mãi không chết.


© 2013 pro&contra




[i] Nếu George Steiner hay Borges, những người thông tuệ và sành đọc, có lời khen ai, tôi sẽ tìm đọc. Những người khắt khe bậc nhất như Kafka, khó tính bậc nhất như Nabokov hay Thomas Bernhard khen ai, tôi sẽ tìm đọc bằng được. Ai ca ngợi Paulo Coelho, không bao giờ tôi để ý nữa, nhưng lại chú ý những người hâm mộ thơ Hoàng Quang Thuận: tôi muốn biết người ta nghĩ gì hay không nghĩ gì khi pha cái gọi là nước mắm, hiệu Chinsu, với rượu nhạt đặt lên bàn thờ.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 10, 2013 14:42

Cú giãy cuối cùng của nền phê bình chỉnh huấn

Phạm Thị Hoài


Năm ngoái, mấy cây dầu cổ thụ trong một bài thơ ít người biết đến bỗng khuấy động chút ít thi đàn Việt Nam. Tác giả, ông Đàm Chu Văn, chuyên viên cao cấp của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai kiêm Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai, Tổng Biên tập tạp chí Văn nghệ Đồng Nai, bị một đồng nghiệp thấm nhuần lập trường chuyên chính soi quan điểm chính trị. Cuối cùng mọi chuyện cũng ổn. Ông chỉ mất bốn tiếng đồng hồ giải trình sự trong sáng của mình với cơ quan tuyên giáo. Báo chí đưa tin. Đồng nghiệp Hồng Vệ binh im. Quan văn nghệ trung ương bật đèn xanh. Như trong vụ “Cánh đồng bất tận” sáu năm trước, những robot tuyên giáo ở một số tỉnh lẻ có lẽ vẫn tiếp tục chạy theo lập trình đấu tranh tư tưởng mấy thập niên quên cập nhật, nhưng thời của nền phê bình chỉnh huấn trên diện rộng ở toàn quốc đã qua rồi. Không ai đọc ai điếu cho nó. Nó đơn giản đã đóng xong vai trò kinh dị của mình trong một chương kinh hoàng của văn học sử đất nước này.


Tôi phải nhận rằng mình chưa bao giờ hâm mộ trường phái thơ mượn lời cỏ cây hoa lá để tâm tình. Khi tôi đến với văn chương thì những tâm tình đặc sắc nhất đặt vào miệng thiên nhiên đã được thốt ra rồi, từ đó trở đi cứ thấy cánh hoa nào trầm ngâm, nhành cây nào đau đáu, áng mây nào nặng trĩu nhân văn là tôi bỏ chạy. Tôi phải bảo vệ tình yêu văn chương của mình. Cũng như mọi tình yêu, chết vì buồn tẻ là nguyên nhân hàng đầu.


Với một thái độ thiếu khách quan không buồn giấu diếm như thế, tôi không thể bình luận về bài thÆ¡ vừa nhắc, nhan đề “Lời những cây dầu cổ thụ ở trụ sở á»§y ban nhân dân”. Thá»±c ra cuộc chỉnh huấn mini nói trên không liên quan gì đến thông điệp nghệ thuật cá»§a bài thÆ¡. Vấn đề không phải là chỗ đứng cá»§a những cây dầu hoàn toàn vô can ấy trước trụ sở á»§y ban nhân dân. Vài chục năm trước, có đứng trong rừng mà tâm sá»± mông lung như vậy thì chúng cÅ©ng bị đốn. Vấn đề là chỗ đứng cá»§a tác giả. Ở vị trí cán bộ tư tưởng và quan văn nghệ hạng đầu tỉnh, ông Đàm Chu Văn chỉ nên cho những phát ngôn viên cá»§a ông đứng trước một tiệm McDonald’s. Như thế sẽ vẹn cả mọi bề, vừa không ngán đồng nghiệp nào chỉ điểm, vừa thêm được tinh thần đi trước thời đại (ít nhất là hai năm, vì tập đoàn McDonald’s vẫn chưa hạ cố đến thị trường Việt Nam), và tất nhiên không mất mát gì về thông điệp nghệ thuật. Để có mấy lời tâm sá»± “mưa nắng ở đời” như thế thì đứng trước trụ sở á»§y ban nhân dân hay trụ sở McDonald’s không có gì khác nhau. Nói cách khác, nếu là một nhà thÆ¡ tá»± do, tác giả cá»§a mấy cây dầu đó có thể khuân chúng ra tận Lăng Hồ Chá»§ tịch mà đứng, tâm sá»± mông lung hÆ¡n nữa cÅ©ng không phải giải trình trong sáng với ai. Đã từ lâu không kiểm soát nổi những nhà thÆ¡ tá»± do, nền phê bình chỉnh huấn chỉ còn ngắc ngoải bằng dăm ba nỗ lá»±c uốn nắn nền thi ca chính thống, nÆ¡i điều duy nhất có thể mất và vì thế cần bảo vệ không phải là tá»± do, mà là sá»± lệ thuộc. Thấm thía điều này hÆ¡n ai hết có lẽ là người đã rời – chắc chắn không phải vì tá»± nguyện – cương vị đứng đầu ngành tuyên giáo quốc gia để trở về “chường cái mặt ra trong thơ”: ông Nguyễn Khoa Điềm.


Nhưng trước khi yên vị trong nhà quàn, nền phê bình chỉnh huấn ấy còn muốn cống hiến cho chúng ta một cú giãy, tuy quá thiểu não để có thể giải trí nhưng đáng để bình luận, vì rất có thể là cú giãy cuối cùng. Lần này, nó dồn hết những mảnh vụn kí ức sót lại về một thời sinh sát oanh liệt vào ngọn roi tàn, giáng xuống một bản luận văn thạc sĩ ba năm trước về nhóm thơ tự do đáng kể nhất từ thời Đổi mới ở Việt Nam, nhóm Mở Miệng.


Trong cuộc truy sát Nhân văn-Giai phẩm, ít ra chúng ta biết: Người “vạch trần bộ mặt thật” “trụy lạc phản động” cá»§a Trần Dần là nhạc sÄ© Đỗ Nhuận; người hô hào cả nước “phải chặn lại không cho Trương Tá»­u được tá»± do truyền bá những tư tưởng phản động, những tác phong đồi bại” là nhà phê bình Hoài Thanh, cÅ©ng chính là người xác định tính chất “xuyên tạc”, “vu khống”, “phản động” cá»§a bài thÆ¡ “Nhất định thắng” cá»§a Trần Dần; người tố giác cả một “hệ thống những sai lầm xấu xa”, những “dụng ý rất đen tối” cá»§a Tá»­ Phác là nhạc sÄ© Lương Ngọc Trác; người lột “cái mặt gian xảo” cá»§a Lê Đạt như “một kẻ ẩn núp, tàng hình, đã từng quay quắt được một thời gian, nhưng rốt cục cái bản chất phản lại giai cấp vô sản lòi ra mồn một” là nhà thÆ¡ Xuân Diệu, cÅ©ng chính là người phát hiện Văn Cao “gài mìn chống phá Đảng và nhân dân”; người quyết “vạch rõ tội lỗi cá»§a Phan Khôi đã bao nhiêu năm làm tay sai cho đế quốc, nịnh hót phong kiến, huyễn hoặc, lừa bịp, đầu độc nhân dân để kiếm bát cÆ¡m, manh áo”, “chống Đảng, chống cách mạng, phản nhân dân, phản Tổ quốc”, “từ bé đến già bóc lột cá»§a nông dân, ăn cướp cá»§a nhân dân” là nhà văn Nguyễn Công Hoan; người gọi tác phẩm cá»§a Trần Duy là cái thứ “văn nghệ vô nhân đạo cá»§a thần chết”, là “những thứ cỏ độc, mà chúng ta phải nhổ sạch, quét sạch, để vứt vào rác, hoặc làm một thứ phân bón cho những bông hoa chân chính trong vườn văn nghệ cá»§a ta” là nhà phê bình VÅ© Đức Phúc…; chưa kể hàng trăm văn nghệ sÄ© không kém danh tiếng khác – từ Thế Lữ, Bá»­u Tiến, Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân, Đoàn Giỏi, Tú Mỡ, Đoàn Văn Cừ, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tuân…, đến Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Đình Thi, Võ Huy Tâm, Đào VÅ©, Bùi Huy Phồn… – hăng hái góp đinh cho những chiếc búa tạ nêu trên chốt quan tài những đồng nghiệp “nổi loạn” cá»§a họ.


Còn bây giờ, vung roi dọa nhà nghiên cứu Nhã Thuyên và nhóm Mở Miệng là lèo tèo một nhúm vô danh hay ẩn danh: một Cẩm Khê nào đó trên Nhân dân, một Tuyên Hóa nào đó trên Quân đội Nhân dân, một Minh Văn nào đó trên Thanh tra, những tờ báo lẽ ra không có phận sự thì miễn vào địa hạt văn học và cho đến lúc này không có đồng minh tự nguyện từ giới văn nghệ, trừ một người: nhà phê bình Chu Giang.


Quan hệ của chúng ta với các nhà phê bình văn học thực ra không khác lắm quan hệ với những người bán cá ở chợ, nó dựa trên sự tin cậy [i]. Sự tin cậy ấy đương nhiên tùy thuộc vào mỗi người và phải có cơ sở. Song chẳng cần nhiều lắm; đôi khi chỉ cần nếm vị, ngửi hơi là ta chấm xong điểm tín nhiệm. Ai muốn biết tầm vóc của nhà phê bình Chu Giang, tức ông cựu giám đốc NXB Văn học Nguyễn Văn Lưu, tác giả cuốn Luận chiến văn chương từng đoạt Giải thưởng Hội Nhà Văn năm 1996, có lẽ chỉ cần thưởng thức vài dòng trong loạt bài luận chiến đăng trên Tuần báo Văn nghệ TP HCM năm ngoái, phê phán tác phẩm và con người Nguyễn Huy Thiệp, đối tượng được ông chiếu cố từ thuở Văn học Đổi mới đến giờ chưa buông. Cá nhân tôi tưởng mình đang lạc vào vườn trẻ, nơi ông Lưu giậm chân mách cô giáo rằng văn chương thằng Thiệp không ra gì vì nó vừa đái bậy xong lại tranh đồ chơi của thằng khác. Nhưng ông cũng có thể rất nghiêm túc. Khi nghiêm túc, ông tuyên bố rằng: “Nếu chúng ta đi theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất cùng bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện theo những lời dạy của Hồ Chí Minh, thì đoàn kết được cả dân tộc, đoàn kết được cả giới văn nghệ”. Mọi bình luận ở đây là thừa.


Có những nhà phê bình mà khi được họ khen thì ta nên giật mình, còn lời chê của họ là bảo đảm đáng tin cậy nhất cho giá trị của tác phẩm bị họ phê phán. Tôi coi ông Nguyễn Văn Lưu thuộc loại này. Năng khiếu phê bình văn học (!) của ông nằm ở sự dị ứng không nhầm lẫn trước tất cả những gì vượt khỏi thước đo hạnh kiểm bỏ túi và cẩm nang thuật ngữ chính trị xuất bản năm 70. Ở thời hoàng kim của nền phê bình chỉnh huấn, phẩm chất ấy đáng giá vài cái Giải thưởng Hồ Chí Minh. Song sinh bất phùng thời, bây giờ nó được huy động cho cú giãy cuối cùng của nền phê bình ấy. Tôi tin rằng cả những người bị coi là phải chịu trách nhiệm về phương diện nhà nước cho công trình nghiên cứu mà ông hùng hồn gọi là “một luận văn kích động sự phản kháng và chống đối” lẫn tác giả Nhã Thuyên đều đủ rộng lượng để ghi nhận hành vi mang tính lịch sử này. Không phải ngày nào cũng có một nền phê bình giãy chết.


Còn nhóm Mở Miệng? Họ thà bị đem ra tra tấn bằng thơ, chứ nhất định không chịu mở miệng giải trình cái gì mà trong sáng. Nhưng tất nhiên họ sẽ mở miệng thật rộng để cười, dù biết rằng có những thứ giãy mãi không chết.


© 2013 pro&contra




[i] Nếu George Steiner hay Borges, những người thông tuệ và sành đọc, có lời khen ai, tôi sẽ tìm đọc. Những người khắt khe bậc nhất như Kafka, khó tính bậc nhất như Nabokov hay Thomas Bernhard khen ai, tôi sẽ tìm đọc bằng được. Ai ca ngợi Paul Coelho, không bao giờ tôi để ý nữa, nhưng lại chú ý những người hâm mộ thơ Hoàng Quang Thuận: tôi muốn biết người ta nghĩ gì hay không nghĩ gì khi pha cái gọi là nước mắm, hiệu Chinsu, với rượu nhạt đặt lên bàn thờ.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 10, 2013 14:42

July 9, 2013

Quyền lực Lương tâm (2)

M. K. Gandhi


Phan Trinh dịch


Xem kì 1 và xem toàn bài trong bản PDF


3.


CUỘC ĐẤU TRANH CỦA LƯƠNG TÂM


Không lịch sử


Người đọc: Có chứng cớ lịch sử nào cho thấy điều ông gọi là Quyền lực Lương tâm đã từng thành công? Tôi chẳng thấy có quốc gia nào vươn lên được nhờ Quyền lực Lương tâm cả. Tôi vẫn nghĩ kẻ ác sẽ cứ làm ác nếu không bị vũ lực trừng phạt.


Người biên tập: Nhà thơ Tulsidas có nói: ”Trong tôn giáo thì lòng thương xót, hay tình thương, chính là gốc, nó quý giá hơn hẳn thể xác. Vì vậy, đừng đánh mất lòng thương xót khi ta còn sống.” Với tôi, đây là môt sự thật khoa học. Tôi tin vào điều này như tin hai với hai là bốn. Quyền lực của Tình thương, Quyền lực của Lương tâm hay Quyền lực của Sự thật cũng chỉ là một. Chúng ta có chứng cớ về tác dụng của nó khắp nơi, trên từng bước đi. Vũ trụ sẽ biến mất nếu không có sức mạnh này. Nhưng bạn đã hỏi về chứng cứ lịch sử, vì vậy, ta cần hiểu lịch sử là gì.


Trong tiếng Gujarati, lịch sử có nghĩa là “đã xảy ra như thế”. Nếu đó là nghĩa của lịch sử thì chứng cớ cho sự hiện diện của Quyền lực Lương tâm có đầy rẫy. Nhưng, nếu lịch sử có nghĩa là những hành vi của vua chúa các thời đại thì có thể nói không có chứng cớ gì về Quyền lực Lương tâm hoặc Đấu tranh Bất bạo động ở đây cả. Bạn không thể nào tìm thấy quặng bạc trong mỏ thiếc được.


Lịch sử, như ta biết, là biên bản ghi lại những cuộc chiến tranh của thế giới. Một thành ngữ quen thuộc của người Anh nói rằng: một quốc gia không có lịch sử, tức không có chiến tranh, là một quốc gia hạnh phúc. Các vua đấu trí ra sao, họ trở thành kẻ thù của nhau ra sau, rồi họ giết nhau ra sao đều thấy ghi rõ trong lịch sử.


Nhưng nếu thế giới chỉ xảy ra có bấy nhiêu thôi thì thế giới đáng lẽ đã chấm dứt từ lâu rồi. Nếu câu chuyện của thế giới bắt đầu bằng chiến tranh và chỉ là chiến tranh thì ngày nay hẳn sẽ không còn ai sống sót. Những dân tộc lâm chiến cũng sẽ biến mất, như những tộc thổ dân Úc khi kẻ xâm lăng gần như không để ai sống sót. Nên để ý rằng những người thổ dân kia đã không dùng Quyền lực Lương tâm để tự vệ, và chẳng cần là tiên tri cũng đoán được rằng nếu điều này cứ tiếp diễn thì người Úc rồi cũng sẽ đối mặt với số phận y như nạn nhân của họ thôi. “Ai dùng gươm sẽ chết bằng gươm.” Một ngạn ngữ Ấn Độ cũng nói tương tự: Táng trong mộ nước có cả những tay bơi chuyên nghiệp.


Sự thật và tình thương


Hiện tượng đông đảo nhân loại vẫn sống trên thế giới hôm nay cho thấy thế giới không được xây dựng trên nền tảng vũ lực, mà được xây dựng trên nền tảng quyền lực của sự thật và tình thương. Vì vậy, chứng cớ vĩ đại nhất và không thể nào bác bỏ cho thấy quyền lực này thành công chính là: dù có trải qua bao nhiêu cuộc chiến đi nữa, thế giới vẫn sống còn.


Biết bao nhiêu con người đã và đang tồn tại được nhờ tác dụng tích cực của sức mạnh này. Những cuộc cãi vã vặt vãnh của hàng triệu triệu gia đình hàng ngày đã biến mất trước sức mạnh của sự thật và tình thương, và hàng trăm quốc gia cũng đang có thể sống chung hòa bình. Lịch sử đã không ghi nhận và không thể ghi nhận những thực tế này. Lịch sử quả thực chỉ là một biên bản ghi chép những lúc đứt quãng, khi sức mạnh của tình thương và lương tâm, vốn bền bỉ đều đặn, không phát huy được tác dụng.


Hai anh em tranh chấp, sau đó một trong hai nghĩ lại, đánh thức tình thương ngủ chìm trong lòng mình, thế rồi hai anh em hoà giải và sống yên vui trở lại… chẳng ai ghi chép những chuyện như thế làm gì. Nhưng nếu hai anh em, được người ngoài xúi giục hoặc vì lý do gì khác, bỗng cầm lấy vũ khí đánh đập nhau, hoặc đưa nhau ra trước pháp luật – vốn cũng là một hình thức thể hiện sức mạnh khống chế – thì việc làm của họ lập tức sẽ được báo chí chú ý, hàng xóm láng giềng sẽ bàn tán râm ran, và biết đâu chừng họ có thể đi cả vào lịch sử.


Chuyện gia đình và cộng đồng ra sao thì chuyện quốc gia cũng vậy. Không có lý do gì để tin rằng luật lệ chi phối sinh hoạt trong gia đình lại khác với luật lệ chi phối các quốc gia.


Như vậy, có thể nói lịch sử là văn bản ghi lại sự gián đoạn của những gì tự nhiên thường có. Quyền lực của lương tâm, vốn tự nhiên và hằng có, không được ghi trong lịch sử.


Tâm thay cơ


Người đọc: Theo những gì ông nói, rõ ràng là những ví dụ về hình thức đấu tranh bất bạo động này không tìm thấy trong lịch sử. Vì thế càng cần hiểu đầy đủ hơn về đấu tranh bất bạo động. Có lẽ ông nên nói thêm.


Người biên tập: Đấu tranh bất bạo động là phương pháp giành lấy quyền lợi cho mình bằng cách tự chịu khổ; nó đối nghịch với đấu tranh vũ lực. Khi tôi từ chối làm một việc trái với lương tâm mình thì đó là lúc tôi dùng quyền lực của lương tâm.


Chẳng hạn, khi nhà cầm quyền thông qua một đạo luật có liên quan đến tôi nhưng tôi không đồng tình, nếu tôi dùng bạo lực để buộc chính quyền bãi bỏ đạo luật, thì tôi dùng đến quyền lực cơ bắp. Nếu tôi không tuân phục đạo luật và sẵn sàng chấp nhận hình phạt sẽ đến thì lúc đó tôi dùng quyền lực lương tâm. Điều này ám chỉ người đấu tranh phải chịu hy sinh quyền lợi của riêng mình.


Ai nấy đều tin rằng hy sinh quyền lợi bản thân thì chắc chắn cao đẹp hơn bắt người khác hy sinh quyền lợi của họ. Thêm vào đó, nếu sức mạnh này được dùng cho một lý do không hoàn toàn đúng thì cũng chỉ người dùng nó chịu khổ mà thôi. Anh ta sẽ không làm ai khổ vì sai lầm của mình.


Là con người, ai cũng từng làm nhiều điều mà sau đó mình thấy là sai. Không ai có thể tự hào tôi tuyệt đối đúng, hoặc cho rằng một điều gì đó là sai chỉ vì tôi nghĩ vậy. Nó chỉ sai đối với tôi, sau khi tôi đã suy nghĩ chín chắn và đi đến kết luận. Và một khi đã tin vào kết luận của mình, tôi không nên làm điều mình cho là sai và sẵn sàng đón nhận hậu quả, bất kể đó là gì. Đây là điểm then chốt khi sử dụng quyền lực lương tâm.


Không phải là người


Người đọc: Như vậy là ta sẽ bất chấp luật pháp ư? Đây là điều bất thường. Nước ta là một đất nước luôn biết tuân thủ luật pháp. Dường như ông còn muốn đi xa hơn cả những người cực đoan thì phải. Họ chủ trương chúng ta phải vâng theo những điều luật đã được thông qua, nhưng nếu luật sai trái thì hãy dùng bạo lực để đánh đuổi kẻ làm luật!


Người biên tập: Tôi có đi xa quá hay không thực ra không liên quan gì đến bạn và tôi. Chúng ta chỉ muốn tìm ra điều đúng và làm theo. Ẩn sau mệnh đề “nước ta luôn tuân thủ luật pháp” là ý nghĩa này: chúng ta là những người phán kháng thụ động. Khi chúng ta không đồng tình với đạo luật nào đó, chúng ta sẽ không đập vỡ đầu những kẻ làm luật và cầm quyền, ngược lại, tự chúng ta sẽ chịu khổ nhưng dứt khoát không tuân thủ những luật lệ như thế.


Ý niệm cho rằng ta phải tuân phục luật pháp dù nó tốt hay xấu thế nào mặc kệ quả là một ý niệm mới toanh. Trước đây không hề có điều này. Trước đây dân chúng vẫn bất tuân những luật lệ họ không đồng tình và sẵn sàng chấp nhận hình phạt vì vi phạm chúng. Chúng ta sẽ không còn là người nữa nếu chúng ta tuân thủ những luật lệ xung khắc với lương tâm mình. Giáo huấn này đồng nghĩa với phản tôn giáo và đồng nghĩa với nô lệ.


Nếu chính quyền nói mọi người hãy ra đường nhưng đừng mặc quần áo gì cả thì chúng ta có làm không? Nếu tôi là người đấu tranh bất bạo động, tôi sẽ nói với chính quyền rằng: tôi sẽ không chấp hành cái luật lệ quái gở kia.


Nhưng vấn đề là chúng ta đã đánh mất bản thân mình và trở nên quá dễ phục tùng, dễ đến nỗi chúng ta không ngại tuân theo bất cứ luật lệ hạ cấp nào.


Một người thực sự trưởng thành, một người chỉ biết kính sợ thượng đế, sẽ không sợ bất cứ ai khác. Luật lệ do loài người tạo ra không nhất thiết sẽ trói được anh ta. Ngay cả chính quyền cũng không đòi hỏi đến thế. Họ không nói “Anh phải làm như thế, như thế,” mà họ nói: “Nếu anh không làm thế, chúng tôi sẽ trừng phạt anh.”


Chấm dứt đồng lõa


Chúng ta đã xuống cấp quá thấp, đến độ chúng ta xem việc tuân thủ bất cứ những gì luật pháp áp đặt cho mình như bổn phận của mình, như tôn giáo của mình.


Nếu hiểu được rằng tôi sẽ không còn là con người nữa nếu cứ nhắm mắt tuân theo những luật lệ bất công, thì không có sự độc tài khắt khe nào có thể biến tôi thành nô lệ. Đây là chìa khóa cho sự độc lập của bản thân lẫn độc lập nước nhà.


Thật mê tín và không đúng nếu tin rằng hành vi của đa số đúng hơn của thiểu số. Có thể đưa ra nhiều ví dụ cho thấy hành vi của đa số đã từng sai và của thiểu số đã từng đúng. Tất cả mọi cải tổ đều xuất phát từ sáng kiến của một thiểu số chống lại đa số. Nếu những băng nhóm trộm cướp luôn cho rằng trộm cướp là điều bắt buộc phải làm, thì một người tử tế có chấp nhận lối suy nghĩ này không? Chừng nào con người còn mê tín rằng mình phải vâng phục các luật lệ bất công thì chừng đó con người vẫn còn là nô lệ. Và chỉ có người đấu tranh bằng quyền lực lương tâm mới có thể phá tan lòng mê tín kia.


Dùng bạo lực, dùng súng đạn là việc mâu thuẫn với đấu tranh bất bạo động, nó có nghĩa chúng ta khiến kẻ thù làm điều ta không muốn họ làm. Nếu việc sử dụng vũ lực được biện minh thì chắc chắn kẻ thù cũng sẽ làm y như vậy. Và như thế sẽ chẳng bao giờ có một thỏa hiệp nào. Chúng ta chỉ giả vờ, chẳng khác gì con ngựa mù đi quanh quẩn cối xay, rằng mình đang tiến bộ mà thôi.


Những ai tin rằng họ không bị buộc phải tuân thủ những luật lệ xung khắc với lương tâm thì họ chỉ còn con đường duy nhất là đấu tranh bất bạo động. Mọi con đường khác đều dẫn đến thảm họa.


(Trích từ Hind Swaraj or Indian Home Rule, Chương XVII)


Nguồn: M.K. Gandhi, Non-Violent Resistance (Satyagraha) (Đấu tranh bất bạo động (Satyagraha), NXB Dover Publications, INC. New York, 2001. Trang 6-19. Tựa, tiêu đề và các ghi chú là của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 09, 2013 07:04

July 8, 2013

Quyền lực Lương tâm (1)

M. K. Gandhi


Phan Trinh dịch


“Khi không thể nói chuyện phải trái với nhà cầm quyền bằng kiến nghị, hay những cách thức tương tự, thì giải pháp duy nhất còn lại, nếu ta không muốn chịu đựng những luật lệ sai lầm, sẽ là một trong hai: hoặc dùng vũ lực buộc họ khuất phục, hoặc tự chịu khổ và chấp nhận những hình phạt sẽ có dành cho người không tuân thủ luật pháp.” (Gandhi)


Giới thiệu của người dịch:


Sự thật, tình thương và tự khổ là cốt lõi phương pháp đấu tranh Quyền lực Lương tâm (Satyagraha) [i] của M.K. Gandhi:


Đối với Gandhi, sự thật là thượng đế. Ông không thờ chủ nghĩa, không thờ chữ nghĩa, cũng không thờ đảng lãnh đạo, ông thờ sự thật. Cả đời ông là một cuộc truy tìm sự thật, đó là mục đích tối hậu, còn độc lập cho Ấn Độ là một thành quả bắt nguồn từ mục đích tối hậu kia.


Trong khi đó, tình thương là nền tảng của bất bạo động. Tôi không bạo động vì tôi trân trọng sự sống của con người, kể cả của kẻ thù. Gandhi nhấn mạnh nhiều lần: đừng dùng bất bạo động như vũ khí của kẻ yếu, đừng bất bạo động vì chưa thể bạo động. Tình thương khiến ông khách quan nhìn ra giới hạn của mình cũng như khả năng cảm hoá kẻ ác của sự thật và tình thương. Mục đích của Gandhi là sự thật, còn phương tiện là tình thương.


Tự khổ là cốt lõi thứ ba của Quyền lực Lương tâm. Đây là điều ít người nhắc tới và có lẽ là lý do khiến con đường của Gandhi trở nên khó khăn với đám đông sau này. Nhưng đó là điều Gandhi đã tin, đã nói và đã làm. Đức Jesus cũng từng khuyên người khát khao đi tìm sự thật phải biết “bỏ mình đi”, vác thập giá mà đi. Đạo Phật cũng khuyên con người hãy biết “chịu phần thiệt về mình”, bằng không thì sự công bằng thuần tuý sẽ dẫn đến mạng đòi mạng, mắt đòi mắt và cả thế giới sẽ hoá mù. Gandhi cũng chỉ nói điều tương tự: khi bạn không tin điều gì là sự thật, hãy đừng làm nó. Nếu luật lệ nào không đúng, hãy cứ bất tuân và chấp nhận những trừng phạt sẽ đến dành cho người bất tuân. Đó là chọn lựa duy nhất để con người giữ được phẩm giá, bằng không sẽ là thoả hiệp và con người sẽ trở thành nô lệ.


***


Cũng nên nói rằng tuy Gandhi là lãnh tụ Đảng Quốc đại Ấn Độ và cũng là lãnh tụ tinh thần của dân tộc Ấn trong cuộc đấu tranh giành độc lập, nhưng ông là một người hành động nhiều hơn là một nhà tư tưởng. Những gì ông viết phần lớn đều bằng ngôn ngữ giản dị, dành cho đại chúng và để phục vụ cuộc đấu tranh trước mắt. Cũng không dễ để hệ thống hoá tư tưởng của Gandhi, dù số lượng điều ông viết không ít. [ii] Nhưng con đường của ông, phương pháp đấu tranh bằng Quyền lực Lương tâm của ông đã ảnh hưởng rất lớn đối với những nhà đấu tranh từ Âu sang Á, từ Martin Luther King ở Mỹ, Vaclav Havel ở Tiệp Khắc, đến Aung San Suu Kyi ở Miến Điện.


Có lần bà Aung San Suu Kyi, trích lời Nehru – người sát cánh với Gandhi trong cuộc đấu tranh giành độc lập, sau thành Thủ tướng Ấn Độ – viết về Gandhi và Tagore như sau:


“Tagore trước hết là một nhà tư tưởng, trong khi Gandhi lại là một người hành động không ngừng và toàn tâm. Tuy mỗi người mỗi cách, cả hai đều có tầm nhìn thế giới và đều thấm nhuần tinh thần Ấn Độ. Cả hai là đại diện cho những mặt khác nhau nhưng hài hòa của Ấn Độ, vị này bổ sung cho thiếu sót của vị kia.” [iii]


Cũng nên biết Tagore xuất thân quý tộc, tư tưởng phóng túng, dung nạp điều tích cực của phương Tây, trải qua kinh nghiệm được phương Tây trải thảm đỏ đón tiếp, trong khi Gandhi xuất thân trung bình, trải nghiệm kỳ thị chủng tộc ở Nam Phi và sự ngược đãi của người da trắng. Tagore có lúc phê phán Gandhi, nhưng cả hai đều rất kính trọng nhau. Tagore tư tưởng không thể thiếu Gandhi hành động, và Ấn Độ cần cả hai, như hai con mắt của một vị thần.


***


Người Việt đã biết đến đấu tranh sinh tồn, đấu tranh chống ngoại xâm, và cũng đã điêu đứng vì du nhập đấu tranh giai cấp.


Cùng với sự thức tỉnh của sự thật và khát khao sự thật – không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới hiện nay – dường như đây là lúc đang diễn ra cuộc đấu tranh của Quyền lực Lương tâm.


Cũng có thể tin rằng: khi Quyền lực Lương tâm đốt cháy trong lòng mỗi cá nhân thì ngọn lửa lương tâm sẽ châm ngòi cho những cuộc đấu tranh rầm rộ của đại chúng, thường được gọi là Quyền lực Nhân dân (People Power), đã từng cuốn phăng đi bao nhiêu chế độ độc tài từ Đông sang Tây.


Điều kỳ diệu là dù văn hoá, thể chế, nhân cách có suy đồi đến mấy thì lương tâm con người – sức mạnh hối thúc con người hướng về sự thật và tình thương – vẫn còn, và cuối cùng vẫn là nền tảng duy trì sự sống. Nó luôn thắng và chỉ bị đầy lùi ngắn hạn. Nhưng những lúc bị đẩy lùi ngắn hạn này, theo Gandhi, lại được ghi vào lịch sử – giống như người đời vẫn thường nhớ đến những lần bị ngạt thở, ít ai nhớ đến không khí – và tạo cảm tưởng cái ác luôn thắng.


Quyền lực Lương tâm là con đường khó và gần với lý tưởng tôn giáo. Nhưng, nếu tôn giáo đã từng thay đổi lịch sử, nếu đạo Tin lành là nền tảng tinh thần của chủ nghĩa tư bản (Max Weber), nếu Gandhi đã thức tỉnh được Ấn Độ là làm thực dân Anh lùi bước, nếu Đức Giáo hoàng John Paul II và Giáo hội Công giáo Ba Lan đã góp phần không nhỏ làm chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu sụp đổ, nếu những chế độ cộng sản cuối cùng vẫn sợ tôn giáo đích thực như sợ kẻ thù, hoặc nói dân dã hơn, nếu “chùa là cái thiện của làng” [iv] thì cũng có thể nói rằng: Lương tâm chính là mầm thiện còn sót lại trong mỗi người, và việc đánh thức nó – đánh thức khát khao sự thật, tình thương và lòng dũng cảm – có thể sẽ là nền tảng tinh thần cho một xã hội dân sự lớn mạnh và gắn kết.


Đó là điều những tù nhân lương tâm đang làm. Đó là điều các blogger lên tiếng vì sự thật và dân chủ đang làm. Họ bênh vực sự thật, họ bất bạo động, và họ chấp nhận tù tội chứ không chấp nhận dối trá.


Thượng đế không xa lạ, thượng đế là sự thật, và những tù nhân lương tâm của chúng ta dường như cũng đang đọc chung Lời nguyện mỗi sáng của Gandhi, như sau:


Tôi nguyện không sợ hãi ai trên trái đất này.


Tôi nguyện chỉ kính sợ thượng đế mà thôi.


Tôi nguyện không nghĩ xấu về bất cứ người nào.


Tôi nguyện không thúc thủ trước bất công, dù do ai gây ra.


Tôi nguyện chinh phục dối trá bằng sự thật,


Và để chống lại dối trá,


Tôi nguyện chấp nhận mọi khổ đau.


***



Đoạn trích dịch dưới đây chỉ là vài điểm sơ lược về phương pháp đấu tranh của Gandhi, như một lời giới thiệu, và hy vọng cũng là một ghi chú góp thêm vào “27 ghi chú dành cho những Tù nhân Lương tâm dự khuyết” của Phạm Hồng Sơn.


______________________


1.



SATYAGRAHA


Trong 30 năm qua, tôi đã truyền bá và thực hành Satyagraha. Những nguyên tắc của Satyagraha như tôi biết hôm nay là đúc kết của một quá trình điều chỉnh theo từng giai đoạn.


Satyagraha khác hẳn Đấu tranh Thụ động như Bắc Cực khác với Nam Cực. Đấu tranh Thụ động vốn được xem như vũ khí của kẻ yếu, và cách đấu tranh này cũng không loại trừ khả năng dùng vũ lực để đạt mục tiêu. Trong khi đó, Satyagraha lại được hình thành như vũ khí của kẻ mạnh nhất và không có chỗ cho bạo lực dưới bất cứ hình thức nào.


Cụm từ Satyagraha là do tôi đặt khi ở Nam Phi, để diễn tả sức mạnh mà kiều dân Ấn Độ ở đó đã sử dụng để đấu tranh suốt tám năm trời. Satyagraha cũng được đặt ra để phân biệt với phong trào Đấu tranh Thụ động đang diễn ra cùng thời ở Anh Quốc và Nam Phi.


Ý nghĩa gốc của Satyagraha là giữ lấy sự thật [holding on to truth], vì vậy có thể gọi đó là Quyền lực của Sự thật [Truth-force]. Tôi cũng gọi Satyagraha là Quyền lực của Tình thương [Love-force] hay Quyền lực Lương tâm [Soul-force].


Khi áp dụng phương pháp này, tôi nhận ra ngay từ những ngày đầu tiên rằng việc theo đuổi sự thật sẽ không cho phép sử dụng bạo lực để gây tổn thương cho đối thủ của mình, và để giảm bớt sai lầm thì người đấu tranh cần phải biết kiên nhẫn và cảm thông. Đơn giản là vì: điều được xem là sự thật đối với người này lại có thể là sai lầm đối với người kia. Kiên nhẫn cũng có nghĩa là tự-chịu-khổ.


Nói cách khác, nguyên lý của Satyagraha chính là: Hãy bảo vệ sự thật, nhưng không bằng cách gây đau khổ cho đối thủ, mà là tự mình chịu khổ.


Chống luật bất công


Trong lĩnh vực chính trị, những cuộc đấu tranh vì con người hầu hết là đấu tranh chống lại cái sai trái của những luật lệ bất công.


Khi không thể nói chuyện phải trái với nhà cầm quyền bằng kiến nghị, hay những cách thức tương tự, thì giải pháp duy nhất còn lại, nếu ta không muốn chịu đựng những luật lệ sai lầm, sẽ là một trong hai: hoặc dùng vũ lực buộc họ khuất phục, hoặc tự chịu khổ và chấp nhận những hình phạt sẽ có dành cho người không tuân thủ luật pháp. Cũng vì điều này mà Satyagraha được phần lớn quần chúng biết tới như là Bất tuân Dân sự hoặc Đấu tranh Dân sự. Dân sự hiểu theo nghĩa không phải là hình sự.


Kẻ phạm pháp luôn lén lút vi phạm và tránh sao cho khỏi bị trừng phạt, nhưng đây không phải là cách của người đấu tranh dân sự. Người đấu tranh dân sự luôn tuân thủ luật lệ của nhà nước mà họ là công dân, nhưng họ tuân thủ không vì họ sợ bị trừng phạt, mà vì họ xem những luật lệ kia là tốt cho phúc lợi của xã hội. Nhưng sẽ có lúc, tuy hiếm hoi, họ cho rằng một số luật lệ là không công bằng và tuân thủ các luật lệ này sẽ là điều sỉ nhục.


Lúc ấy, bằng hình thức dân sự và công khai, họ sẽ bất tuân luật pháp và sẵn sàng chấp nhận bị trừng phạt vì sự bất tuân này. Và để cho nhà cầm quyền càng thấy rõ họ phản đối việc làm của nhà cầm quyền, họ cũng có thể bất tuân cả những luật lệ khác, mà nếu không tuân theo cũng không phạm đến những nguyên tắc đạo đức của họ.


Trong suy nghĩ của tôi, vẻ đẹp và hiệu quả của Satyagraha rất tuyệt vời, và nguyên lý này đơn giản đến nỗi trẻ em cũng có thể hiểu được. Tôi đã giảng giải nó cho hàng ngàn người, nam giới cũng như phụ nữ và trẻ em, đối tượng thường được gọi là dân Ấn làm thuê, với kết quả xuất sắc.


(Trích từ bản Điều trần của Gandhi trước Ủy ban Hunter) [Ủy ban được thành lập cuối năm 1919 để điều tra về vụ Thảm sát tại Jallianwala Bagh, còn gọi là vụ Thảm sát tại Amritsar. ND]


2.


MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG TIỆN


Người đọc: Vì sao ta không tìm cách đạt một mục đích tốt đẹp bằng bất cứ phương tiện nào có thể, kể cả dùng bạo lá»±c?…


Người biên tập: Bạn lập luận nghe có phần hợp lý. Nhiều người cũng nghĩ vậy. Trước đây, tôi cũng từng nghĩ giống vậy. Nhưng, giờ tôi hiểu biết nhiều hơn rồi, tôi sẽ cố gắng thuyết phục để bạn nghĩ khác đi.


Hãy bắt đầu bằng lập luận cho rằng: ta cứ dùng vũ lực để đạt mục đích vì người Anh thực dân cũng đạt mục đích bằng vũ lực, đây là việc có thể biện minh được. Quả thật là họ đã dùng  vũ lực và chúng ta cũng có thể làm tương tự, nhưng khi dùng cùng một phương tiện thì ta cũng sẽ chỉ gặp phải những hậu quả họ gặp. Và bạn biết đó, chúng ta không muốn như thế.


Nếu bạn nghĩ giữa mục đích và phương tiện chẳng có liên quan gì thì đó là một sai lầm lớn. Nhận thức sai lầm này đã khiến cả những người được xem là đạo hạnh mắc phải những lỗi lầm nghiêm trọng. Lập luận như vậy cũng giống như nói rằng ta có thể gieo hạt độc để gặt lấy hoa hồng. Nếu muốn vượt biển, tôi phải dùng tàu thuyền, còn nếu vượt biển bằng xe thì cả xe lẫn tôi đều chìm nghỉm. Câu châm ngôn sau đây thật đáng suy nghĩ: “Thượng đế ra sao thì tín đồ cũng phải vậy.” Nhưng ý nghĩa của nó đã bị bóp méo và con người đã lầm lạc. Có thể ví phương tiện như hạt giống, và mục đích như cây. Hạt giống và cây liên hệ với nhau ra sao thì mục đích và phương tiện cũng liên hệ với nhau như vậy.


Tôi sẽ chẳng được gì nếu tôi thờ Thượng đế bằng cách quỳ lạy Satan. Nếu ai nói rằng “Tôi muốn tôn vinh Thượng đế bằng con đường của Satan, cũng được chứ sao” thì đó là người lầm lạc, vì gieo gì sẽ gặt nấy.


Nếu tôi muốn cướp đồng hồ của bạn, chắc chắn tôi sẽ phải vật lộn với bạn để giành giựt nó; nếu tôi muốn mua đồng hồ của bạn, tôi phải trả tiền mới mua được; còn nếu tôi muốn nhận được một món quà, tôi sẽ phải ngỏ lời với bạn. Bạn thấy đấy, tùy theo phương tiện tôi dùng để đạt mục đích mà chiếc đồng hồ sẽ là của cắp, của sở hữu, hay là một món quà.


(Trích từ Hind Swaraj or Indian Home Rule, Chương XVI)


(Còn 1 kì)


Nguồn: M.K. Gandhi, Non-Violent Resistance (Satyagraha) (Đấu tranh bất bạo động (Satyagraha), NXB Dover Publications, INC. New York, 2001. Trang 6-19. Tựa, tiêu đề và các ghi chú là của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra




[i] Xem Joan V. Bondurant, Conquest of Violence – The Gandhian Philosophy of Conflict (Khuất phục Bạo lực – Triết học về xung đột theo Gandhi), NXB Princeton University Press, Bản bổ sung 1988. Chương II: “Satyagraha, Its Basic Precepts” (Satyagraha, Những nguyên tắc cơ bản), trang 15-35.


[ii] Joan V. Bondurant, sách đã dẫn, phần “Dẫn nhập”, trang 7. Khi viết cuốn sách này vào năm 1958, tác giả Bondurant cho biết: “Hầu hết những bài Gandhi viết đều là những bài giảng ngắn cho những người muốn nghe ông góp ý… Ông chỉ viết bốn cuốn sách. Tuy có nhiều sách mang tên ông, nhưng thực ra đó chỉ là những cuốn tổng hợp lại những bài ông viết, những tài liệu ngắn và những diễn văn. Cần phải đọc thêm các bài tuần báo và các bộ sưu tập thư từ ông viết thì mới có thể hiểu thêm diễn biến tư tưởng của Gandhi.” Bondurant cũng cho biết bốn cuốn sách Gandhi viết là: The Story of My Experiments with Truth (Câu chuyện về những thử nghiệm của tôi với sự thật) 1940; Satyagraha in South Africa (Satyagraha ở Nam Phi) 1938;  Hind Swaraj or Indian Home Rule (Hind Swaraj hay nền độc lập nước nhà) 1938; Key to Health (Bí quyết sức khỏe) 1948.




[iii] Aung San Suu Kyi, Freedom From Fear (Quyền không sợ hãi), NXB Penguine Books, 1995, trang 116.




[iv] “Chùa là cái Thiện của làng” là bài báo nổi tiếng của Phạm Xuân Đài viết năm 1990. Đoạn mở đầu của bài báo như sau:




“Trong truyện ngắn Người ở Làng Pháo đăng trên một tờ báo Sài Gòn năm 1990, tác giả Nguyễn Khải đã cho nhân vật chính, một bí thư huyện uỷ có tinh thần đổi mới tại một làng địa phương miền Bắc nói những lời này:


“Làng tôi có nghề pháo là nghề của Tổ cho, thì nhà nhà đều được quyền làm pháo, cấm thế quái nào được. Đình là cái gốc của làng, tôi hô hào dân chúng bỏ tiền ra tu sửa, soạn lại thần phả. Chùa là cái Thiện của làng, tôi mời sư về trông nom, tối một hồi chuông, sáng một hồi chuông, thằng ăn cướp nghe chuông mãi cũng có lúc phải hồi tâm nghĩ lại. Có cơm để ăn, có Phật để lễ, người ngợm lại khác ngay, lại hiền lành tử tế không đâu bằng.” (Trích theo bản đăng lại trên Diendantheky.net, ngày 19/1/2012)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 08, 2013 13:02

July 5, 2013

Có thể có một nhà nước giám sát dân chủ?

Mike Konczal  


Ngọc Hoà dịch


Tiếp tục chủ đề liên quan đến vụ bê bối của cơ quan tình báo Mỹ NSA, pro&contra xin giới thiệu một bài viết trên Washington Post qua bản dịch đăng trên The Pacific Chronicle, một thành viên mới trong cộng đồng mạng độc lập của người Việt.


_______________


Việc có thể đặt tên sự vật là một phần quan trọng thuộc về nhân loại chúng ta. (Trước khi mọi việc thay đổi, ông tổ Adam được cho là sống vĩnh viễn trong vườn Địa đàng để đặt tên cho loài vật.) Có khả năng đặt tên cho sự vật mang lại cho chúng ta sức mạnh để mô tả chúng, xác định những gì chúng ta thích hoặc không, và bắt đầu nghĩ về những lựa chọn tốt hơn.


Bởi vậy, điều quan trọng là đặt tên cho những gì có liên quan đến các câu chuyện gần đây trên tờ Guardian và The Washington Post về cách chính phủ Mỹ đang thu thập lý lịch dữ liệu điện thoại di động và khai thác dữ liệu từ các công ty Internet. Cái tên tốt nhất mà tôi thấy phù hợp với việc này là “Nhà nước giám sát toàn quốc”.


Một nhà nước giám sát là nhà nước sử dụng khối lượng thông tin lớn và kỹ thuật thu thập dữ liệu để giám sát các công dân và rút ra kết luận về hành vi tiềm năng của họ nhằm phục vụ cho việc triển khai các trách nhiệm mà nó đặt ra đối với chính nó. Giống như các cơ quan khác của nhà nước (phúc lợi xã hội, an ninh quốc gia), nhà nước giám sát cung cấp một loại an ninh dành cho công dân thông qua sự thao túng về kiến thức và nguồn lực. Cũng giống như các cơ quan khác của nhà nước, nhà nước giám sát chống lại những nỗ lực dân chủ trong việc đòi hỏi trách nhiệm giải trình và tính minh bạch.


Cái tên này xuất phát từ một bài viết năm 2008, “Hiến pháp trong Nhà nước giám sát toàn quốc”, của giáo sư luật trường Yale, ông Jack Balkin. Ông ta đưa ra lập luận gây nhiều tranh cãi rằng “vấn đề không phải là ở chỗ liệu chúng ta sẽ có một nhà nước giám sát trong những năm tới hay không, mà là chúng ta sẽ có như thế nào.”


Nếu đó là sự thật, làm thế nào chúng ta có thể phân biệt giữa các quốc gia giám sát tốt hơn hoặc tồi tệ hơn? Balkin xác định và đưa ra hai hình ảnh tương phản. Đầu tiên là một nhà nước giám sát độc tài, còn thứ hai là một nhà nước giám sát dân chủ. Những vụ bê bối gần đây rõ ràng cho thấy rằng chúng ta đang sống trong một nhà nước độc tài.


Các quốc gia giám sát độc tài sẽ làm những việc gì? Họ hành xử như những kẻ “háu thông tin và bủn xỉn về thông tin.” Khi háu thông tin, họ có càng nhiều càng tốt. Nhiều hơn luôn là tốt hơn, truy cập không phân biệt tốt hơn là đối phó có mục đích, và một giả định chung rằng họ sẽ có thể truy cập bất cứ điều gì họ muốn bất cứ lúc nào.


Nhưng các quốc gia giám sát độc tài cũng hoạt động như kẻ bủn xỉn về thông tin, ngăn ngừa việc phổ biến bất kỳ thông tin nào liên quan đến bản thân. Những hành động của họ cũng như những thông tin mà họ thu thập được bị giữ kín trước cả công chúng lẫn phần còn lại của chính phủ.


Mặc dù nghiên cứu này có từ năm 2008, mô tả về một nhà nước giám sát độc tài hoàn toàn phù hợp với những khám phá gần đây về chính quyền Obama. Những thông tin mà Cơ quan An ninh Quốc gia đã tìm kiếm, từ lý lịch dữ liệu điện thoại cho đến truy cập máy chủ, bao trùm đến mức có thể tưởng tượng. Trong khi đó, cuộc chiến của bộ máy chính quyền nhắm vào những người tố cáo đã thu hút được sự chú ý của công chúng sau khi các phóng viên AP tiết lộ thông tin về hành động giám sát, cho thấy bộ máy chính quyền thiếu quan tâm đến các biện pháp minh bạch và trách nhiệm giải trình.


Còn một nhà nước giám sát dân chủ sẽ như thế nào? Balkin lập luận rằng các nước này sẽ là những kẻ “sành thông tin và rộng lượng về thông tin.” Một nhà nước giám sát dân chủ sẽ hạn chế đến tối thiểu các dữ liệu thu thập được. Trong khi đó, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình tối đa sẽ được nhấn mạnh ở khắp nơi. Quốc hội và công chúng cần phải được lôi kéo vào cuộc nhiều hơn nữa.


Một nhà nước giám sát dân chủ cũng sẽ coi trọng việc phá hủy các dữ liệu mà chính phủ thu thập. Bệnh mất trí nhớ từng là tuyến phòng thủ đầu tiên chống lại sự giám sát. Mọi người vẫn quên mọi thứ theo thời gian, cho phép người dân có một tuyến phòng thủ chống lại sự xâm nhập. Tuy nhiên, trong thời đại của công nghệ kỹ thuật số, không còn tồn tại tình trạng mất trí nhớ, vì vậy nó cần phải được quy định bởi luật.


Một nhà nước giám sát dân chủ cũng sẽ yêu cầu trách nhiệm giải trình công khai về hành vi đúng đắn của các công ty tư nhân trong việc xử lý và mua bán thông tin cá nhân. Mọi người rất dễ hoài nghi về việc không thể kiểm soát quyền riêng tư của họ khi bản thân chính phủ cũng cảm thấy bất lực trước các công ty tư nhân.


Một nhà nước “giám sát dân chủ” nghe có vẻ như là một nghịch lý, giống như có trong tay một quả lựu đạn đáng ôm ấp. Có lẽ sẽ tốt hơn nếu triệt hạ hoàn toàn và giải quyết dứt điểm nhà nước giám sát. Việc loại bỏ các luật liên quan đến “Cuộc chiến Toàn cầu chống Khủng bố” thực sự sẽ loại bỏ các yếu tố độc tài của nhà nước này.


Nhưng trong thời đại của công nghệ kỹ thuật số giá rẻ và khối dữ liệu lớn, nhà nước giám sát đã bành trướng rộng hơn chúng ta nghĩ. Từ các mô hình xử lý dữ liệu của COMPSTAT cho phép xác định hạn ngạch bắt giữ tội phạm cần sa để cảnh sát triển khai các hoạt động ngăn chặn và lục soát cho đến các camera giao thông phạt tốc độ, việc giám sát và nguồn dữ liệu thay đổi cách nhà nước thực hiện nhiệm vụ của nó. Câu hỏi quan trọng sau đó là, phải đặt ra giới hạn nào cho quyền lực của nhà nước.


Trách nhiệm giải trình dân chủ cũng cần thiết bởi vì các tòa án, những tuyến phòng thủ chính của các những người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tự do cổ điển, không đưa ra một cơ chế kiểm tra hiến pháp khi liên quan đến thông tin. Tu chính án thứ tư (Fourth Amendment) không ghi nhận những nhu cầu cần thiết về quyền riêng tư để cho phép kiểm tra nhà nước. Các tòa án, bất kể tốt hay không, thấy rằng hầu hết các thông tin mà chính phủ thu thập trong thời đại kỹ thuật số mới nằm ngoài những mong đợi về quyền riêng tư.


Trong khi đó, Hiến pháp không có các quy định kiểm tra công khai khi chính phủ lấy thông tin được thu thập từ các bên tư nhân. Điều này đặc biệt gây vấn đề trong một thời đại mà cả hai đảng chính trị coi trọng việc tư nhân hóa các dịch vụ chính phủ. Sự bảo vệ hiến pháp và tính minh bạch dân chủ không nhân rộng khi chính phủ bàn giao lại, hoặc thậm chí ủy quyền, cho khu vực tư nhân.


Như Aaron Bady đã lập luận trong tờ Technology Review của trường MIT, ngôn ngữ và khái niệm về quyền riêng tư xuất hiện trong một thế giới mà “những bức tường” vẫn là những ẩn dụ nổi bật. Nhìn trộm qua một bức tường là đủ để chứng minh bạn đã vi phạm sự riêng tư của người khác. Nhưng công nghệ đã mở ra một thế giới hoàn toàn mới, không còn có những bức tường, hoặc những sự việc xuất hiện ở nhiều nơi khiến cho ý tưởng bức tường không còn ý nghĩa. Nếu không còn có chúng, ta cần những khái niệm mới.


Như vẫn thường xảy ra, cuộc chiến giữa độc tài và dân chủ có thể dẫn tới nhiều hoạt động trí tuệ. Một trong những điều tuyệt vời về dân chủ là khả năng kiểm tra quyền lực của tư nhân và chính phủ, cũng như tạo ra cơ cấu thể chế thúc đẩy trách nhiệm giải trình và tính minh bạch. Tôi e rằng đó là cách duy nhất để thoát ra khỏi tình trạng mà nước ta đang phải đối mặt.


* Mike Konczal là một nhà nghiên cứu tại Viện Roosevelt, nơi ông tập trung vào các vấn đề   về   quy định tài chính, bất bình đẳng và thất nghiệp. Ông viết một mục báo hàng tuần cho Wonkblog. Theo dõi ông ta trên Twitter (ở đây).


Nguồn: Mike Konczal, ”Is a democratic surveillance state possible?“, The Washington Post, ngày 8 Tháng Sáu 2013.


Bản Tiếng Việt © 2013 The Pacific Chronicle


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 05, 2013 07:52

July 1, 2013

Xã hội Mỹ sẽ biết cách tự vệ

Noam Chomsky trả lời phỏng vấn


Phạm Thị Hoài dịch


Khi tôi dịch bài phỏng vấn này, chính phá»§ Đức sau nhiều ngày im lặng đã chính thức bày tỏ thái độ phản đối gay gắt việc cÆ¡ quan tình báo Hoa Kỳ NSA thá»±c hiện do thám quy mô lớn với cả các đồng minh châu Âu, trong đó có Đức. Một cao á»§y EU yêu cầu ngưng các cuộc thương lượng Hiệp định Thương mại Tá»± do giữa EU và Hoa Kỳ, cho đến khi Hoa Kỳ triệt để giải trình mọi cáo buộc do thám, và Đảng Xanh trong Nghị viện EU đề nghị Liên minh châu Âu cấp quy chế tị nạn chính trị và trao giải thưởng mang tên nhà bất đồng chính kiến Xô-viết Sakharov cho Edward Snowden, người tiết lộ những bí mật tình báo cá»§a NSA. Quả thật, chúng ta còn biết nói gì nếu một dissident cá»§a thời hiện đại như Snowden phải chạy trốn chính quyền cá»§a một quốc gia dân chá»§, một xứ sở nổi tiếng là “thế giới tá»± do”, để tị nạn tại một quốc gia chuyên chế?


Vì thế, chút lạc quan vang lên về cuối, từ Noam Chomsky, người phê phán bền bỉ và mạnh mẽ nhất chủ nghĩa tư bản toàn cầu, chủ nghĩa đế quốc và đặc biệt là chính sách đối ngoại của các chính phủ Hoa Kỳ, khiến tôi không thể không dùng để giật tít.


Người dịch


_______________


Zeit: Thưa Giáo sư Chomsky, khi được biết về vụ bê bối giám sát internet của Hoa Kỳ lần đầu tiên ông nghĩ gì? Ông có ngạc nhiên không?


Chomsky: Không, tôi không ngạc nhiên, có gì mà ngạc nhiên. Khả năng dùng internet để giám sát dân chúng đã sẵn có trong công nghệ đó, là một bộ phận nội tại của nó. Đi liền với điều đó là một số thứ khá khó chịu, như ta đang chứng kiến. Chỉ cần đọc các tạp chí của Học viện [i] nơi tôi làm việc là thấy. Với các chuyên gia thì chế ra một kĩ thuật để ghi lại toàn bộ những gì anh làm trong máy vi tính và chuyển cho một người kiếm soát là việc dễ như chơi. Trớ trêu là: tất cả những chuyện đó xảy ra mà anh không hay biết. Hay chiếc kính của Google chẳng hạn. Nó cho phép vừa nhìn vừa chụp hình tất cả mà không ai để ý. Anh có biết khi được hỏi, liệu những công nghệ như vậy có xâm phạm ranh giới riêng tư của con người không, người điều hành Google, ông Eric Schmidt, đã trả lời thế nào không?


Ông ấy nói đại ý: Nếu có điều gì mà bạn không muốn ai biết thì có lẽ đằng nào bạn cũng không nên làm [ii].


Chính xác, ông ấy nói như thế. Và chính phủ Mỹ tất nhiên cũng tư duy như thế. Cùng một cách lập luận, cùng một cách nhìn. Nhưng không chỉ riêng chính quyền Obama, mà mọi hệ thống quyền lực đều tư duy như vậy.


Ông nói như thể giám sát là chuyện hoàn toàn bình thường ở các nước dân chủ.


Chúng ta vừa được biết là nhân viên của cơ quan tình báo quân sự NSA cũng được quyền theo dõi email. Từ nhiều năm nay tôi đã nói rồi: nếu muốn giữ một điều gì đó trong vòng riêng tư, không rơi vào tay các cơ quan nhà nước, thì đừng đưa nó lên mạng.


Chúng ta đã ảo tưởng về tự do trên mạng chăng?


Tôi mừng là có internet, đó là một công nghệ tuyệt vời và tôi thường xuyên sử dụng. Nhưng mặt khác, càng ngày chúng ta càng ý thức rõ hơn những khía cạnh tiêu cực của internet. Dùng internet là bày mình ra, là thả mình cho giám sát và kiểm soát.


Thời những năm 60 ở Mỹ người ta đã lo ngại là nhà nước theo dõi người dân. Cái đó được gọi là tổ hợp chính trị-quân sự.


Tôi cũng thấy được gợi lại thời đó. Khi tham gia ủng hộ các phong trào chống chiến tranh Việt Nam, chúng tôi không đời nào nói rõ trong điện thoại. Chúng tôi biết là mình bị nghe lén. Chỉ trong các nhóm nhỏ hay giữa những người biết nhau chúng tôi mới được nói thoải mái. Nhưng với một hệ thống nhà nước muốn kiểm soát phản kháng xã hội thì đó là điều hoàn toàn bình thường. Về việc này thì xã hội Mỹ đằng nào cũng khá kì cục.


NSA là một cơ quan thuần túy quân sự. Sự phân biệt giữa quân sự và dân sự ở Mỹ đã biến mất hay sao? Ranh giới giữa chính trị, xã hội và quân sự đã nhòa vào nhau chăng?


Không, câu hỏi này dẫn chúng ta đi lạc đường. Không thể quy trách nhiệm của những biện pháp nghe lén cho giới quân sự Hoa Kỳ. Nguyện vọng giám sát xuất phát từ chính trị và từ xã hội. Hệt như trong chiến tranh: thường thì giới quân sự không có hứng xung trận, không bao giờ tham gia với tinh thần hồ hởi.


Nghe ông nói thì dường như chức năng của các cơ quan tình báo không phải là bảo vệ nhà nước trước kẻ thù bên ngoài, mà là trước chính người dân của mình.


Tôi đã mất nhiều thời gian trong đời để đọc hồ sơ tình báo sau khi được giải mật. Anh có biết điều gì đáng lưu ý ở đó không? Chỉ một phần rất nhỏ liên quan đến an ninh quốc gia. Còn thực ra, chủ yếu là liên quan đến dân chúng. Người ta gọi cái trạng thái mà chính quyền được an toàn trước người dân là an ninh. Thí dụ như Hồ sơ Lầu Năm góc. An ninh của Hợp chúng quốc Hoa kỳ chẳng ăn nhằm gì ở đó. Các hồ sơ này tập trung cao độ, tới mức đáng ngạc nhiên, vào việc nắm thông tin để kiểm soát – vào câu hỏi: điều gì đang diễn ra trong dân chúng Mỹ.


Những hồ sơ mà WikiLeaks công bố cũng như vậy?


Đúng thế. Ở đó các lợi ích an ninh quốc gia cũng hầu như không hề bị chạm đến. Các văn bản mật chỉ thường xuyên đề cập việc bảo vệ chính phủ trước dân chúng như thế nào.


Nhưng Barack Obama sẽ bảo ông rằng: phòng trước chắc chắn là tốt hơn một vụ khủng bố mới ở Hoa Kỳ. Ông ấy sẽ nói rằng muốn đảm bảo an ninh thì đành chấp nhận một mức độ giám sát nhất định. Không thể muốn hết mọi thứ cùng một lúc.


Xin lỗi, tôi thấy lập luận ấy quá chung chung. Tổng thống Hoa Kỳ nên thay đổi đường lối thì tốt hơn. Obama nên chấm dứt hẳn việc điều hành một cỗ máy sản xuất khủng bố trên khắp thế giới.


Nhưng trong chuyện khủng bố thì Obama đâu có lỗi.


Mỗi người dân thường bị máy bay không người lái của Hoa Kỳ giết hại lại sinh ra những kẻ khủng bố mới. Đấy không phải là một điều bí mật. Tướng Stanley A. McChrystal là một trong số ít những người hiểu ra điều đó, rằng chương trình được thực thi khắp thế giới của Obama đẻ ra những kẻ khủng bố tiềm năng nhanh hơn tốc độ mà Hoa Kỳ có thể tiêu diệt những đối tượng bị tình nghi. Hãy nhớ đến chiến tranh Iraq. Các cơ quan tình báo đã chẩn đoán chính xác rằng lực lượng khủng bố sẽ tăng lên sau khi Mỹ vào chiếm đóng, so với trước đó. Thực tế đã diễn ra đúng như vậy. Người ta biết rõ, nhưng chẳng ai thèm quan tâm.


Những ngày này Barack Obama đang đến thăm Đức. Theo ông, bà Angela Merkel nên nói gì về vụ bê bối nghe lén?


Cái đó phụ thuộc vào việc bà Merkel có tin vào tự do và dân chủ không, và tôi nghĩ rằng bà Thủ tướng Đức có niềm tin đó. Bất kì ai tin vào tự do và dân chủ đều nên yêu cầu Obama chấm dứt việc giám sát dân chúng. Để tránh hiểu lầm: Không phải chỉ nên yêu cầu chính phủ Mỹ, mà gần như mọi chính phủ. Tiếc rằng chỉ có ít người đủ dũng cảm làm như vậy.


Ông có tin rằng chính phủ Đức thực sự không biết đến việc thực thi giám sát ở Mỹ?


Tôi không rõ. Biết đâu người Đức cũng làm hệt như Obama?


Bộ trưởng Nội vụ Friedrich thì chắc chắn là “rất hàm Æ¡n sá»± hợp tác tốt đẹp với các cÆ¡ quan tình báo Hoa Kỳ”. Còn Cục Tình báo Liên bang BND thì được một ngân sách hàng triệu Euro cho một chương trình giám sát.


Tôi không muốn can thiệp vào việc của các vị. Tôi chỉ biết rằng: Công nghệ để giám sát người dân đang có đó. Và tiếc rằng chúng ta phải tính đến khả năng là mọi chính phủ đều sử dụng các phương tiện kĩ thuật để thâu tóm và kiểm soát dân chúng càng nhiều càng tốt.


Google, Apple, Amazon, Facebook đóng vai trò gì trong tấn trò này?


Khó xác định. Họ theo dấu vết ta suốt ngày đêm. Ta chỉ cần mua một cuốn sách ở Amazon là họ có thể nói ngay, sắp tới ta sẽ mua cái gì. Họ tìm cách thu thập thông tin tối đa. Với thông tin, họ hái ra tiền.


Nhưng Google và các doanh nghiệp ấy đại diện cho quyền lợi của ai? Của tự do, của internet, của chính phủ…?


Rất đơn giản: họ đại diện cho quyền lợi của chính họ, và đương nhiên đó là những quyền lợi thương mại. Họ muốn bán một cái gì đó. Cho nên họ muốn biết mọi thứ về khách hàng.


Nếu những núi dữ liệu này rơi vào tay các chính phủ thì một hình thức thực thi quyền lực và kiểm soát xã hội kiểu mới sẽ xuất hiện. Michel Foucault sẽ gọi đó là “Vật lí vi mô của quyền lực”. [iii]


Ồ, cần gì đến Foucault ở đây. Mắt thường cũng nhìn ra sự thay đổi hình dạng của quyền lực. Công nghiệp quảng cáo là một ví dụ tốt. Nghề “quan hệ công chúng” (PR) được phát minh ở đâu? Ở các xã hội tự do nhất thế giới, tại Mỹ và Anh. Và lí do? Vì ở các nước tự do, khó kiểm soát người dân bằng cách trực tiếp áp đặt quyền lực. Cho nên phải kiểm soát kiểu khác: bằng cách tác động vào ý kiến, vào quan điểm và thái độ của người dân. Trong các xã hội tự do, vấn đề là đưa đầu óc con người vào quy định. Giống như quân đội đưa thân thể lính tráng vào quy định.


Ông có coi Edward Snowden, người đã tiết lộ bí mật của NSA, là một anh hùng không?


Có.


Nhưng anh ấy đã phạm luật. Với Obama thì Snowden là một kẻ phản bội.


Edward Snowden đã làm điều phải làm: Thông tin cho công luận biết rằng mình  bị nghe lén.


Vì sao những người như Julian Assange, Bradley Manning hay Edward Snowden lại nguy hiểm cho nhà nước như vậy?


Cái đó thì hai mươi năm trước, một nhà nghiên cứu chính trị nổi tiếng cũng được đọc nhiều ở Đức đã tóm gọn chính xác: Quyền lực phải ẩn trong bóng tối. Lôi nó ra ánh sáng là nó tan biến – nó bốc hơi luôn. Muốn duy trì quyền lực thì phải lo sao cho người dân không biết quyền lực đang làm gì với mình. Tên của học giả đó là Samuel Huntington.


WikiLeaks có phải là một quyền lực dân chủ không?


WikiLeaks đã bóc trần nhiều điều mà công luận nên được biết đến. Tất nhiên, phần lớn trong số đó khá hời hợt. Tôi đặc biệt sửng sốt về những cảnh báo của đại sứ Hoa Kỳ tại Pakistan. Ông ấy đã nói rất rõ rằng chính sách chống khủng bố của Hoa Kỳ đẩy dân chúng Pakistan sang phía Hồi giáo và cực đoan. Nhưng chẳng ai buồn quan tâm đến ý kiến đó.


Có thông tin rằng chỉ trong vòng một tháng, NSA đã thu thập gần 100 tỉ tập hợp dữ liệu. Có thể cưỡng được ấn tượng tai hại, rằng nước Mỹ dân chủ và nền độc tài Trung Quốc giống nhau đến bất ngờ ở một điểm: cả hai cùng giám sát dân chúng nước mình không?


Thú thật là điều này tôi không nghĩ đến. Hoa Kỳ là một nước dân chủ, còn Trung Quốc thì rõ ràng không là một nước dân chủ. Có lần tôi đến Bắc Kinh giảng bài, một sinh viên hỏi tôi nghĩ gì về nền dân chủ Trung Quốc. Tôi đáp: nền dân chủ Trung Quốc ở đâu, xin anh chỉ cho tôi được không, vì ở ngoài kia tôi không phát hiện ra nó. Mỗi năm ở Trung Quốc có hàng ngàn cuộc nổi dậy của công nhân.


Các blogger Trung Quốc đang giễu: Phương Tây rao giảng tự do và giám sát chính người dân của mình.


Họ cứ việc giễu. Ta còn chưa hề biết chính phủ Hoa Kỳ có thể làm gì với những đống thông tin kia. Như cái danh sách kẻ thù của Richard Nixon [iv] – anh thấy đấy, có làm được gì nhiều đâu. Hơn nữa, tôi hi vọng thế, xã hội Mỹ sẽ biết cách tự vệ.


Nguồn: Phần chính của bài phỏng vấn đăng trên tuần báo Zeit, 21-6-2013. Người thực hiện: Thomas Assheuer. Nhan đề của bản tiếng Việt do người dịch đặt. Các chú thích đều của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra






[i] Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT)




[ii] Eric Schmidt trả lời phỏng vấn cá»§a Maria Bartiromo trên CNBC ngày 3-12-2009. Nguyên văn tiếng Anh: “If you have something that you don’t want anyone to know, maybe you shouldn’t be doing it in the first place.”




[iii] Khái niệm “microphysique du pouvoir” cá»§a Michel Foucault




[iv] Xem: http://www.enemieslist.info/

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 01, 2013 13:28

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.