Phạm Thị Hoài's Blog, page 35

July 25, 2013

Ai phản đối thạc sĩ Đỗ Thị Thoan?

Lê Chính Duật


 của phóng viên Mặc Lâm liên quan đến cuộc phê bình tập thể luận văn của thạc sĩ Đỗ Thị Thoan, tức nhà văn Nhã Thuyên, hé lộ một chi tiết mới. Nhà phê bình Chu Giang trong phần trả lời phỏng vấn đã cho biết, sở dĩ “sự việc bị bùng ra” là bởi vì “sinh viên họ phản đối dữ dội” việc thạc sĩ Đỗ Thị Thoan, trên cương vị giảng viên, “chắc là cũng do hăng hái quá, phát biểu cái quan niệm của cô quá khích”, dẫn tới việc “các cơ quan phải can thiệp”.


Khác với cách đặt vấn đề của những bài báo trước, vốn chỉ rào đón liệu thứ thơ rác rưởi này có được truyền bá trên giảng đường, những tư tưởng phản văn hóa và phi chính trị có được truyền lại cho thế hệ trẻ, nhà phê bình Chu Giang lần này đã trực tiếp đặt vai trò mở màn lên vai của các sinh viên. Bởi không có “sự phản đối dữ dội” của họ thì “ai biết được bên trong nó như thế”.


Chi tiết mới này đã phần nào giúp tôi củng cố cách giải thích của mình cho cuộc tấn công trễ tràng một luận văn kích động phản loạn. Nếu thạc sĩ Đỗ Thị Thoan không nhận công việc giảng dạy ở Đại học Sư phạm Hà Nội vào tháng 9 năm ngoái, không có cơ hội tiếp xúc và chia sẻ tri thức cũng như niềm say mê văn chương của mình cho sinh viên, thì bản luận văn ba năm tuổi của cô chắc đã không phải chịu đựng những quy chụp tào lao đến vậy.


Chi tiết mới này cũng đặt cho tôi một câu hỏi chính và một câu hỏi phụ. Liệu có hay không việc “sinh viên phản đối dữ dội” những quan điểm mà cô Thoan truyền đạt? Và những quan điểm đó là gì? Không ai đáng tin cậy hơn ngoài chính Nhã Thuyên và những sinh viên mà cô đứng lớp lên tiếng.


Về phần mình, tôi không tin có sinh viên nào ở thời đại này, nếu không vì một lý do phản hoặc phi giáo dục, lại có ý định tố cáo giảng viên vì những quan điểm phi chính thống. Từng kinh qua nền giáo dục Việt Nam, tôi đã trải thấy cái cảm giác sung sướng của mình và bạn bè khi được hít hà dù chỉ chút ít những mùi vị bị cấm đoán.


Và nếu niềm tin của tôi tin là đúng, đùn đẩy trách nhiệm châm ngòi tấn tuồng bôi nhọ và dọa nạt bẩn thỉu cho sinh viên, những người cũng gánh phần tổn thất khi cô giáo của họ bị đuổi việc, là một điều thực sự đáng phẫn nộ.


© 2013 Lê Chính Duật & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 25, 2013 15:12

Chúng ta có thể im lặng mà nhìn anh hay chị ấy chết sao?

Lê Tuấn Huy


Tôi vừa đọc thông tin cấp báo ý định của chị Dương Thị Tân tự thiêu để cứu mạng Điếu Cày! Ngay sau đó, tôi cũng đọc câu hỏi thống thiết của Nguyễn Thị Từ Huy: Chúng ta có thể im lặng mà nhìn anh ấy chết sao?


Những ngày này, khi theo dõi thông tin về Điếu Cày, tôi cảm nhận về cái hèn của bản thân.


Hèn vì tin vào con người và hành động vì dân tộc và dân chủ của Nguyễn Văn Hải, nhưng không lên tiếng khi anh nguy cấp vì buộc phải phản kháng bằng sinh mạng trước sự đàn áp tàn ác, phi pháp và phi nhân!


Hèn vì tin vào con người và thông tin của Dương Thị Tân và Nguyễn Trí Dũng nhưng chỉ im lặng mà nghe họ phẫn uất!


Tôi không dám lấy cái hèn của mình để nói chung về “tôi và chúng ta”.


Tôi chỉ có thể nói chúng ta không vô cảm, nhưng chỉ là đã giữ một thái độ cẩn trọng không cần thiết và không đúng lúc, đúng chỗ. Mà cũng có lẽ, chúng ta đã để cho tư duy thân hữu và thái độ định tính sự việc, quan điểm hay nhân vật thông qua định lượng về vị trí xã hội, từ hoạt động câu chữ lan sang việc bảo vệ sinh mạng con người, khi mà một đằng thì trì trệ đến đâu cũng “chẳng chết thằng tây nào”, một đằng thì hết sức cấp bách về mạng sống.


Im lặng để chị Tân tự thiêu chết, Điếu Cày tuyệt thực chết, hoặc cả hai người họ đều chết, thì tất cả chúng ta – những người tự cảm thấy có chút lương tâm – đều có tội!


Ps: Viết xong, tôi cập nhật thông tin, được biết đã thuyết phục được chị Tân bỏ dự tính ban đầu.


25/07/2013


© 2013 Lê Tuấn Huy & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 25, 2013 00:32

July 22, 2013

Tôi là Điếu Cày

Từ Linh


22/7/2013, ngày tuyệt thực thứ 30 của tù nhân lương tâm Điếu Cày, Nguyễn Văn Hải.


1.


Lạy Chúa tôi!


Con không nhận ra bố nữa rồi!


Bố đi không được nữa rồi, ngồi cũng không thẳng lưng được nữa rồi.


Trời đất ơi!


Bố phải lấy hai tay chống cằm cho cái đầu thẳng lên kìa, cho hơi thông lên cổ họng để bố thều thào cho con nghe rằng: bố sẽ tiếp tục tuyệt thực, thà chết, không chịu được bất công.


2.


Chuyện Điếu Cày không chỉ xúc động mà chấn động.


Đó là chuyện của vợ với chồng:


Ba người vợ của ba người chồng tù lương tâm ở cùng trại.


Đó là chị Dương Thị Tân, vợ Điếu Cày (bị kết án 12 năm tù vì tội tuyên truyền chống nhà nước), lặn lội từ Sài Gòn ra tận Nghệ An đến trại giam hai lần, 16/7 và 20/7, mà không được gặp, chỉ được đội mưa, hắt hủi, rồi lủi thủi ra về.


Đó là chị Nguyễn Thị Nga, vợ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa (bị kết án 6 năm tù vì tội tuyên truyền chống nhà nước), đi thăm chồng ngày 17/7 và được chồng thảng thốt báo tin Điếu Cày đã tuyệt thực 25 ngày.


Đó là chị Ngô Thị Lộc, vợ anh Nguyễn Kim Nhàn (bị kết án 5 năm tù vì tội tuyên truyền chống nhà nước) khi thăm chồng thấy chồng mặt mày bầm tím vì bị đánh đập trù dập.


Nếu đang có những tù nhân lương tâm dự khuyết thì cũng có những người vợ tù dự khuyết. Họ có nhiều điều để học hỏi từ những người vợ tù hiện tại này.


Đó là chuyện của con với cha:


Người con trai Nguyễn Trí Dũng, 27 tuổi, thương bố và biết hành xử, khôn ngoan không bị sập bẫy tuân thủ quản trại. Dũng xin mọi người hãy loan tin, tin dữ, để mọi người biết sự dữ đang đè bẹp sự thật và sự thiện.


Sẽ có nhiều người, kể cả những đại gia, ghen tị với Điếu Cày vì ông có được người con như thế.


Đó là chuyện bạn với bạn:


Người bạn tù Nguyễn Xuân Nghĩa thà chịu bịt miệng, đánh đập chứ nhất định không thể im lặng để Điếu Cày phải chết trong bóng tối bưng bít của tội ác.


Rõ là bạo lực không bẻ được người ngay, và rõ là bạo quyền đã cố tình im để giết.


Đó cũng là chuyện của những người dưng thân thiết:


Đó là Thuy Trang Nguyen, viết comment trên trang Basam, ngày 18/7:


“… Tôi đang làm hết sức mình, kêu gọi những đứa em bên Mỹ vào quảng bá tin tức Điếu Cày ở các nhà thờ Mỹ, xin chữ ký để vận động Nghị sĩ lên tiếng nói. Xin các bạn bên Úc, Pháp, Ba Lan… Hãy cùng nhau giúp một tay vận động cho các giới chức của mình, viết bài đăng lên báo nơi địa phương mình ở, viết blog quảng bá rộng tin tức Điếu Cày đang bị nguy hiểm vì tuyệt thực đã sang ngày 26 rồi. PLEASE PLEASE PLEASE!”


Đó là Muthuhanoi trên trang Basam, ngày 21/7:


“… hãy ra tay cứu vớt một con người có đầy khí phách của một anh hùng dân tộc Việt Nam – Anh Nguyễn Văn Hải tức Điếu Cày […] một người đã vì dân tộc Việt Nam mà bị giam cầm và khủng bố tàn bạo…”


Đó là Lê Bình Nam trên trang Basam, cùng ngày 21/7:


“Chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại chịu cảnh nhục nhã đớn đau như thế này: người dân chống bọn bành trướng xâm lược Đại Hán lại chịu cảnh biệt giam tù đày, bọn tham quan cúi đầu khom lưng thì vênh vang áo mão rượu thơm thảm đỏ.”…


Nhìn thấy những con người có tâm tình chân thật và thống thiết như thế ai lại không thấy tim mình thắt lại, ngực mình đau đau, cần phải hít một hơi, thật sâu.


3.


Điều kỳ diệu là vai trò của những người phụ nữ ở đây.


Bản năng và trực giác của phụ nữ khiến họ phản ứng rất nhanh và chính xác, không cần qua khâu “kiểm dịch” nhiều lúc mất thì giờ của cái đầu lý luận mà các bậc trí thức thường mắc phải.


Nguyễn Huy Thiệp từng tin rằng đất nước này còn ít nhiều tử tế là nhờ tính nữ của những người nữ.


Cũng có thể nói quá lên rằng “phụ nữ sẽ cứu thế giới”, giống như cái đẹp, hay văn hóa, sẽ cứu thế giới, ít nhất là nhanh hơn cái đúng, cái thiện.


Nhưng,


chẳng lẽ chúng ta lại thua kém lòng dũng cảm của người tù Nguyễn Xuân Nghĩa, người đã dám thét lên cho mọi người biết Điếu Cày đang tuyệt thực, dù sau đó là bị bịt miệng, lôi đi, trừng phạt. Chẳng lẽ ở ngoài trại tù, chúng ta lại không thể thét lên cho thế giới nghe điều tương tự?


Chẳng lẽ các đấng mày râu lại cứ kể các phụ nữ một mình lặn lội thân cò giữa cánh đồng chết toàn trị, còn mình thì cứ ung dung đi xơi tái những con cò, những con gà móng đỏ, những con “ghệ”, trên bàn nhậu, trong quán, trong khách sạn đèn mờ mờ?



Xin thêm: Đừng để chế độ toàn trị giúi đầu anh em xuống lỗ đàn bà và chỉ chú trọng đến những gì quanh đó.


Còn lâu toàn trị mới dẹp bỏ mại dâm vì đó là nơi xả xú bắp tuyệt hảo – giống như Bắc Hàn sẽ không bao giờ từ bỏ những event hoành tráng đầy tiếng hát và hoa, để che tiếng súng, tiếng búa, tiếng giết người và tiếng thét la ở ngay sau sân nhà.


Không xả được vào gái, xin lỗi, thì đàn ông dứt khoát sẽ đập, sẽ đá, sẽ đánh và đạp đổ Đảng lúc nào cũng giả vờ cấm đụ! Xin lỗi.



4.


Không phải tình cờ mà báo The Economist gọi nhà thơ Nguyễn Chí Thiện là Solzhenitsyn của Việt Nam [i] khi ông mất năm 2012.


Nguyễn Chí Thiện đã liều lĩnh chấp nhận tù tội, đọa đầy và cả cái chết để đưa tập thơ 400 bài vào tòa Đại sứ Anh Quốc tại Hà Nội ngày 16/7/1978, cách đây đúng 35 năm và sáu ngày, để thế giới biết đến bóng tối dày đặc của tù ngục cộng sản Việt Nam.


Cũng không phải tình cờ mà từ 1958 đến 1968 Solzhenitsyn đã viết – và sẵn sàng chịu trừng phạt vì viết – Quần đảo Ngục tù để vạch trần trước công luận thực tại nhà tù cộng sản Liên Xô.


Từ 22/6/2013, Điều Cày đã tuyệt thực, đến nay là ngày thứ 30, và sẵn sàng chấp nhận cái chết cho mọi người biết đến sự bất công, vô lý, vô sỉ không thể tưởng tượng được của hệ thống nhà tù cộng sản Việt Nam thời hiện đại.



Có nơi nào không, tội ác và trừng phạt không dính líu gì với nhau. Dù không có tội, người tù vẫn cứ bị trừng phạt!?


Có nơi nào không, cai tù bắt tù nhân nhận tội mình không hề phạm. Không nhận thì bắt biệt giam ba tháng!?


Có nơi nào không, người tù tuyệt thực bị bỏ mặc, sống chết mặc bay; tin về cuộc tuyệt thực bị giấu nhẹm, bị bóp méo, bị bác bỏ; và ai mạnh dạn lên tiếng thay cho bạn tù thì bị bịt miệng, bị trừng trị.


Luật gì thế? Luật của mafia, của bọn cướp của giết người man rợ vô lý vô nhân?


So như thế nhiều khi đã là xúc phạm mafia hay trộm cướp! Trộm cướp nếu xuất phát từ nỗi đau nghèo khó thì vẫn còn tính người đâu đó. Cai tù cộng sản xuất phát từ quyền lực chia nhau. Mà quyền lực tuyệt đối thì làm con người hư hoại đến tuyệt đối!



5.


Đương nhiên, vài trăm tờ báo và nhà đài nhà nước không nói một câu nào!


Nhưng chẳng lẽ 70.000 nhà báo Việt Nam không đọc báo mạng à!?


Chẳng lẽ họ có đọc mà cứ ngậm miệng để ngày mai bình thản đi làm à!?


Chẳng lẽ họ cứ ngậm miệng đi làm và cứ viết những chuyện lăng nhăng nhạt nhẽo theo đơn đặt hàng được chỉ đạo từ trên, còn sự thật đắng ngắt thì lại bị nén chặt trong bụng à!?


Tôi không tin họ mất hẳn lương tri. Họ viết thì biết thế nào là láo và thế nào là thật, như biết thế nào là đúng chính tả và không sai văn phạm.


Hãy tưởng tượng sẽ có một ngày nào đó hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn nhà báo nộp đơn nghỉ việc vì không chịu nổi sự cắn rứt của lương tâm.


Đó sẽ là ngày đại phúc.


Và họ sẽ gia nhập Câu lạc bộ Nhà báo Tự do!


Cũng vậy, chẳng lẽ hàng triệu đảng viên không đọc báo mạng à!?


Chẳng lẽ họ sợ đọc thì ruột gan ngứa ngáy cắn rứt khó xử nên thôi cứ giả vờ như không hay biết à!?


Tôi không tin họ mất hẳn khả năng suy nghĩ. Đã biết nghĩ thì ắt biết thế nào là ngụy biện mờ đục cong queo, thế nào là thẳng thắn trong veo.


Hãy tưởng tượng một ngày nào đó có hàng chục, hàng trăm rồi hàng ngàn đảng viên ra khỏi Đảng, trả lại huân chương, tiền thưởng, bằng khen… để không thấy nhục vì đồng lõa.


Đó sẽ là ngày đại phúc.


Và họ sẽ trở thành những đảng viên tự do!



Có người bảo “tôi ở trong guồng máy để thay đổi guồng máy từ trong ra ngoài.”


Nói thì dễ. Lưu Hiểu Ba cũng từng viết về hiện tượng này, nhưng ông cho rằng đó chỉ là ngụy biện, là trấn an lương tâm. Rút cuộc, họ chỉ tiếp tục nuôi dưỡng chế độ bằng sự thỏa hiệp, và luôn luôn “cạo gió” lương tâm bằng cách thủ dâm tư tưởng rằng: tôi đang tìm cách thay đổi nó từ bên trong. Thân tôi ở Tào nhưng lòng tôi bên Lưu Bị! Họ cho rằng: càng lên cao tôi càng nhập sâu, càng dễ nối kết trong với ngoài làm cuộc chuyển đổi hòa bình. Chuyển đâu chẳng thấy, chỉ thấy họ giàu thêm và ngày càng có nhiều thành phần trẻ vào Đảng chỉ để vinh thân phì gia. [ii]


Thôi, cho em xin! Hãy thẳng thắn nhìn vào chính mình! Ai làm thật thì chẳng nói. Thằng hay nói thường chẳng làm! Xin lỗi.



6.


Chắc chắn cộng đồng sẽ lên tiếng, sẽ hành động, nhiều hơn những gì đã làm khi Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực.


Vì lần này còn cấp bách hơn rất nhiều:


Cù Huy Hà Vũ kết thúc tuyệt thực vào ngày 21/6, tại Trại giam Số 5, tỉnh Thanh Hóa, thì ngay ngày sau đó, 22/6, Điếu Cày đã bắt đầu cuộc tuyệt thực tại Trại giam Số 6, tỉnh Nghệ An.


Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực 25 ngày và kết thúc, trong khi mọi người chỉ được biết Điếu Cày tuyệt thực khi cuộc tuyệt thực đã bước vào ngày thứ 25!


Có nghĩa là trong 25 ngày trước đó, thay vì được dư luận quốc tế chú ý, Điếu Cày đã tuyệt thực trong âm thầm, thế giới bên ngoài không ai hay biết.


Đến khi mọi người biết thì sức lực anh đã kiệt quệ rồi, đi không được nữa rồi.


Vì vậy cần hành động rất nhanh, để bù lại khoảng thời gian đã mất, và vì sức lực của Điếu Cày đang lụi tàn cũng rất nhanh.


7.


Sẽ rất ý nghĩa nếu chị Nguyễn Thị Dương Hà, vợ người tù lương tâm Cù Huy Hà Vũ, lên tiếng ủng hộ tinh thần và cùng đồng hành với các chị Dương Thị Tân, Nguyễn Thị Nga, Ngô Thị Lộc, và những chị khác có chồng đang bị đọa đầy trong tù vì lương tâm.


Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân, chị Phạm Thanh Nghiêm, tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm, anh Đỗ Thành Công, cựu thẩm phán Phan Quang Tuệ, chị Trần Khải Thanh Thủy, anh Tưởng Năng Tiến, các anh chị ở Little Saigon, ở Adelaide, Canberra, anh Nguyễn Văn Dũng cùng nhóm viết Tâm Thư của anh Nguyễn Xuân Diện và bằng hữu, các nhân sĩ trí thức của trang Bauxite Việt Nam, rất nhiều tác giả đã viết những bài tâm huyết, đông đảo những anh chị khác tham gia cuộc vận động dư luận bằng nhiều cách ở khắp nơi, từ Úc đến Mỹ, Ba Lan, Tiệp Khắc…, cho lãnh đạo Việt Nam bày tỏ quan ngại… họ đã là những cá nhân tạo nên cơn sốt truyền thông, kích hoạt hàng loạt những phản ứng dây chuyền, góp phần rất lớn vào kết quả của đợt đấu tranh cho Cù Huy Hà Vũ.


Chúng ta có thể tiếp tục tin vào sự tự phát của những cá nhân khác, và của những nhóm người có cùng mục tiêu, gắn kết chặt chẽ, có kỹ năng, có điều kiện, có tổ chức và có ý tưởng. Đó là những đơn vị phản ứng nhanh, trong khi cộng đồng hải ngoại nói chung sẽ là người hỗ trợ.


Hãy nghĩ “TÔI LÀ ĐIẾU CẦY” để thấy mình là một với anh.


Hãy dành một ngày, ba ngày, một tuần để là Điếu Cày, để sống như Điếu Cày, tuyệt thực như Điếu Cày, bất khuất như Điếu Cày, quyết chí như Điếu Cày cho công lý hiển lộ.


8.


Tôi vào mạng tìm chữ “PR stunts”, và đọc được 100 hình thức PR ngoạn mục trong thế kỷ vừa qua. Từ một số những hình thức tạo dư luận gây sốc và gây sốt này, xin phép có vài tưởng tượng như sau cho cuộc vận động dư luận vì Điếu Cày. Rất nhiều đề nghị là không tưởng, nhưng trong việc sáng tạo không tưởng của người này có thể gợi mở tưởng tượng của người khác và ngọn đèn trên đầu có thể bất ngờ sáng lên:


Sẽ có 30, hay 300, hay 3000 người, xếp thành một hàng dài, ôm bình bát khất thực. Họ đi 70 cây số, từ Nghệ An đến Trại tù Số 6. Lại có 300, hay 3000 người khác cùng đi đường dài tới Nhà Trắng, hoặc đi khất thực quanh Quốc hội các nước Úc, Mỹ, Pháp, Canada, Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan. Họ không xin ăn, họ xin chữ ký. Quần chúng cũng có thể bỏ vào bình bát mỗi người một đồng, để dùng cho những hoạt động kế tiếp khi đoàn người đến đích.


Lại có hàng ngàn người nắm tay nhau đứng bao vây tòa đại sứ hay lãnh sự quán Việt Nam ở Canberra, Sydney, Melbourne, Adelaide, ở San Francisco, Los Angeles, Houston, Paris, Berlin, Praha, Moscow, Bắc Kinh… trong nhiều giờ để lên tiếng cho Điếu Cày…


Những nghệ sĩ tạo hình sẽ làm 300 tượng Điếu Cày cỡ người thật bằng thạch cao hay bằng giấy bồi và mang ra làm một cuộc sắp đặt trước tháp Eiffel ở Paris. (Về vụ này xin nhờ các nghệ sĩ tạo hình và yêu dân chủ như Đỗ Trung Quân, và các nhà phê bình mỹ thuật góp ý.) Cũng có thể dùng tượng “Bịnh” trong bộ Sinh Lão Bịnh Tử của Lê Thành Nhơn – diễn tả một người chỉ còn da bọc xương, xương sườn nhô ra như vòng cung ôm lấy khoảng không ổ bụng – làm biểu tượng chiến dịch “Tôi là Điếu Cày!”


Lại có những triệu phú viết thư gửi chính phủ Mỹ, đồng gửi báo chí thế giới, đề nghị đổi tên Washington DC thành Washington Điếu Cày trong 24 giờ đồng hồ, với số tiền là 1 triệu đô cho mỗi tiếng. Nếu điều đó quá không tưởng, thì 1000 người, 10.000 người hay 100.000 người sẽ “tràn ngập” Washington, mặc áo mang dòng chữ “I AM DIEU CAY” và phổ biến poster có dòng chữ “Washington DC = Washington Dieu Cay”.


Lại có những ngọn đèn không tắt. Mỗi người ủng hộ có thế đóng 1 USD để trang trải chi phí lắp một ngọn đèn, tiền điện, sắp đặt, bảo trì… hàng chục ngàn ngọn đèn sẽ sáng rực hàng đêm, cho tới ngày Điều Cày ngưng tuyệt thực.


Lại có những mạnh thường quân đồng loạt gửi thư đề nghị mua huyệt mộ tại các nghĩa trang dành cho người có công nhất của nhân loại, huyệt mộ này sẽ mang tên Điếu Cày và để dành cho ông nếu chẳng may ông chết vì tuyệt thực.


Những nghệ sĩ vĩ cầm, hồ cầm, đại hồ cầm sẽ mang đàn ra quảng trường ở Vienna, ở Berlin, ở Paris, hay ở giữa Hà Nội (nghệ sĩ Tạ Trí Hải đã từng nhiều lần kéo vĩ cầm xuống đường cùng Hà Nội), tại Saigon, Nghệ An, hoặc ở ngay cổng Trại tù Số 6… như Mischa Maisky đã cầu nguyện bằng nhạc của Bach trong Tổ khúc dành cho hồ cầm, cung Sol trưởng [iii] giữa một thánh đường.


Lại có 30 phụ nữ tự nguyện chụp hình nude, (dùng tay hoặc phụ liệu che chỗ kín), nhưng “chỗ ấy” thì mặc quần có hình ổ khóa to, để tỏ thái độ “tuyệt tình” – không biểu tình thì không làm tình[iv] – nếu chồng mình là nhà báo, nghệ sĩ, trí thức, cán bộ nhà nước biết chuyện Điếu Cầy mà cứ im thin thít trước cái chết cận kề của người tù lương tâm, và vẫn cứ đòi… làm tình bình thường!


Lại có những người thay nhau tự nguyện nhốt mình và tuyệt thực trong những chiếc cũi dựng lên tại những địa điểm trọng yếu trong ba ngày, một tuần.


Lại có một nhóm bạn lập trang blog dieucaytuyetthuc, họ đếm từng ngày tuyệt thực, kể lại lại câu chuyện về Điếu Cày, cập nhật từng ngày những cuộc đấu tranh, những lời phát biểu, kết nối những hoạt động vì Điếu Cày…


Còn nhiều nhiều nữa những hình thức vận động dư luận mà nhiều người sẽ nghĩ ra, khả thi hơn, thuyết phục hơn.


Dư luận thế giới giữa trùng trùng thông tin luôn cần những cú hích truyền thông, những thông điệp ngắn [sound bite] nhưng nghe là nhớ, đầy hình tượng và ấn tượng, để thông tin được lên báo, lên TV, lên mạng, lên miệng người nghe, và từ đó khiến giới chức có thẩm quyền không thể không lên tiếng.


9.


Nếu cần một chính nghĩa thì có thể nói đấu tranh bênh vực Điếu Cày – một tù nhân lương tâm mà sự chính trực không ai có thể nghi ngờ, trừ những kẻ dối trá – là một cuộc đấu tranh rất chính đáng.


Nếu có ai đó còn nghi ngại, còn chưa tin điều gì, có lẽ chỉ cần nhớ rằng: Giữa những thông tin của một bên là người con trai và người vợ của Điếu Cày vừa dũng cảm vừa chịu thương chịu khó, và của một bên là những cán bộ trại giam và hệ thống truyền thông nhà nước chuyên xuyên tạc sự thật, chúng ta chỉ được chọn một trong hai.


Và nếu anh chết, cái chết của anh rất có thể sẽ làm rất nhiều người trong chúng ta mất ngủ nhiều ngày, vì chúng ta có thể đã vì chủ quan vô tình mà hành động chưa đủ nhanh, hoặc vì đã thản nhiên, bất động, thụ động, đã cứ làm khán giả, chờ xem có ai đó làm gì ngoài kia, thay vì tự ra lệnh cho mình hành động trong điều kiện cho phép.


Khi đấu tranh chỉ được thực hiện vào “giờ rảnh” thì kết quả cũng sẽ cầm chừng, và nếu soi lại, sẽ thấy không xứng đáng với sự hy sinh cả đến tính mạng của một người dám mất hết mà không hề vì quyền lợi cá nhân.


Điếu Cày, anh chỉ đơn giản nói rằng “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” và bị đầy đọa đến gần chết. Anh chỉ đơn giản muốn bảo vệ tổ quốc cho mọi người.


Vì vậy, cũng là hợp lý và hợp tình khi thấy rằng bổn phận của chúng ta cũng là góp sức bảo vệ anh.


Cấp bách lắm rồi, con đã không nhận ra cha nữa rồi.


© 2013 Từ Linh & pro&contra



 




[i] The Economist, số ra ngày 13/10/2012. Bài báo kể lại chuyện này:


Nguyễn Chí Thiện giấu 400 bài thơ trong áo. Thời điểm là ngày 16/7/1979, tức hai ngày sau ngày kỷ niệm phá ngục Bastille [Cách mạng Pháp 1789]. Với Nguyễn Chí Thiện, đó là ngày tự do. Ông chạy băng qua cổng tòa đại sứ Anh ở Hà Nội, băng qua người gác cổng, đòi gặp đại sứ. Người gác cổng không thể ngăn ông. Trong khu tiếp khách, vài nhân người Việt ngồi tại bàn. Ông giằng co với họ, đẩy họ sang một bên, đạp đổ cả cái bàn. Trong phòng thay quần áo cạnh đó, một cô gái Ăng-lê đang chải tóc, sợ quá cô đánh rớt cả chiếc lược. Nghe tiếng động, ba người đàn ông Ăng-lê chạy ra, ông vội đưa tập bản thảo cho một trong số họ. Rồi bình tĩnh trở lại, ông chấp nhận bị bắt.


Bài báo cũng trích đoạn thơ sau đây của Nguyễn Chí Thiện:


Đảng đầy tôi trong rừng

Mong tôi xác bón từng gốc sắn

Tôi hóa thành người săn bắn

Và trở ra đầy ngọc rắn, sừng tê


Đảng dìm tôi xuống bể

Mong tôi đáy nước chìm sâu

Tôi hóa thành người thợ lặn

Và nổi lên ngời sáng ngọc châu.


[ii] Liu Xiao Bo, No Enemies, No Hatred, 2012, chương “The Spiritual Landscape of the Urban Young in Post-Totalitarian China”, trang 47-57.




[iii] Xem “Mischa Maisky plays Bach Cello Suite No.1 in G (full)” trên mạng Youtube.




[iv] Cách đấu tranh này đã được phụ nữ Liberia, do bà Leymah Gbowee lãnh đạo, áp dụng hiệu quả. “No peace, no sex” không hòa bình thì không làm tình, không yên thì không yêu. Bà Leymah cũng từng nói trước mặt nhà độc tài Charles Taylor rằng:




“[… ] Chúng tôi đã quá mệt mỏi vì chạy trốn rồi […]


Chúng tôi không muốn thấy con cái mình bị hãm hiếp nữa


Hôm nay, chúng tôi cất tiếng nói để bảo vệ tương lai con cái mình.


Vì chúng tôi, người giữ giềng mối của xã hội, tin rằng mai này con cái chúng tôi sẽ hỏi:


“Mẹ ơi, trong thời kỳ đen tối đó, mẹ đã làm những gì?”


Vui lòng chuyển đến Tổng thống Liberia thông điệp này.”


(Trích từ bài “Ngủ trên giường, cởi truồng giữa chợ” đăng trên Damau.org, ngày 19/11/2011)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 22, 2013 14:15

Tôi là Điếu Cày

Từ Linh


22/7/2013, ngày tuyệt thực thứ 30 của tù nhân lương tâm Điếu Cày, Nguyễn Văn Hải.


1.


Lạy Chúa tôi!


Con không nhận ra bố nữa rồi!


Bố đi không được nữa rồi, ngồi cũng không thẳng lưng được nữa rồi.


Trời đất ơi!


Bố phải lấy hai tay chống cằm cho cái đầu thẳng lên kìa, cho hơi thông lên cổ họng để bố thều thào cho con nghe rằng: bố sẽ tiếp tục tuyệt thực, thà chết, không chịu được bất công.


2.


Chuyện Điếu Cày không chỉ xúc động mà chấn động.


Đó là chuyện của vợ với chồng:


Ba người vợ của ba người chồng tù lương tâm ở cùng trại.


Đó là chị Dương Thị Tân, vợ Điếu Cày (bị kết án 12 năm tù vì tội tuyên truyền chống nhà nước), lặn lội từ Sài Gòn ra tận Nghệ An đến trại giam hai lần, 16/7 và 20/7, mà không được gặp, chỉ được đội mưa, hắt hủi, rồi lủi thủi ra về.


Đó là chị Nguyễn Thị Nga, vợ nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa (bị kết án 6 năm tù vì tội tuyên truyền chống nhà nước), đi thăm chồng ngày 17/7 và được chồng thảng thốt báo tin Điếu Cày đã tuyệt thực 25 ngày.


Đó là chị Ngô Thị Lộc, vợ anh Nguyễn Kim Nhàn (bị kết án 5 năm tù vì tội tuyên truyền chống nhà nước) khi thăm chồng thấy chồng mặt mày bầm tím vì bị đánh đập trù dập.


Nếu đang có những tù nhân lương tâm dự khuyết thì cũng có những người vợ tù dự khuyết. Họ có nhiều điều để học hỏi từ những người vợ tù hiện tại này.


Đó là chuyện của con với cha:


Người con trai Nguyễn Trí Dũng, 27 tuổi, thương bố và biết hành xử, khôn ngoan không bị sập bẫy tuân thủ quản trại. Dũng xin mọi người hãy loan tin, tin dữ, để mọi người biết sự dữ đang đè bẹp sự thật và sự thiện.


Sẽ có nhiều người, kể cả những đại gia, ghen tị với Điếu Cày vì ông có được người con như thế.


Đó là chuyện bạn với bạn:


Người bạn tù Nguyễn Xuân Nghĩa thà chịu bịt miệng, đánh đập chứ nhất định không thể im lặng để Điếu Cày phải chết trong bóng tối bưng bít của tội ác.


Rõ là bạo lực không bẻ được người ngay, và rõ là bạo quyền đã cố tình im để giết.


Đó cũng là chuyện của những người dưng thân thiết:


Đó là Thuy Trang Nguyen, viết comment trên trang Basam, ngày 18/7:


“… Tôi đang làm hết sức mình, kêu gọi những đứa em bên Mỹ vào quảng bá tin tức Điếu Cày ở các nhà thờ Mỹ, xin chữ ký để vận động Nghị sĩ lên tiếng nói. Xin các bạn bên Úc, Pháp, Ba Lan… Hãy cùng nhau giúp một tay vận động cho các giới chức của mình, viết bài đăng lên báo nơi địa phương mình ở, viết blog quảng bá rộng tin tức Điếu Cày đang bị nguy hiểm vì tuyệt thực đã sang ngày 26 rồi. PLEASE PLEASE PLEASE!”


Đó là Muthuhanoi trên trang Basam, ngày 21/7:


“… hãy ra tay cứu vớt một con người có đầy khí phách của một anh hùng dân tộc Việt Nam – Anh Nguyễn Văn Hải tức Điếu Cày […] một người đã vì dân tộc Việt Nam mà bị giam cầm và khủng bố tàn bạo…”


Đó là Lê Bình Nam trên trang Basam, cùng ngày 21/7:


“Chưa bao giờ dân tộc Việt Nam lại chịu cảnh nhục nhã đớn đau như thế này: người dân chống bọn bành trướng xâm lược Đại Hán lại chịu cảnh biệt giam tù đày, bọn tham quan cúi đầu khom lưng thì vênh vang áo mão rượu thơm thảm đỏ.”…


Nhìn thấy những con người có tâm tình chân thật và thống thiết như thế ai lại không thấy tim mình thắt lại, ngực mình đau đau, cần phải hít một hơi, thật sâu.


3.


Điều kỳ diệu là vai trò của những người phụ nữ ở đây.


Bản năng và trực giác của phụ nữ khiến họ phản ứng rất nhanh và chính xác, không cần qua khâu “kiểm dịch” nhiều lúc mất thì giờ của cái đầu lý luận mà các bậc trí thức thường mắc phải.


Nguyễn Huy Thiệp từng tin rằng đất nước này còn ít nhiều tử tế là nhờ tính nữ của những người nữ.


Cũng có thể nói quá lên rằng “phụ nữ sẽ cứu thế giới”, giống như cái đẹp, hay văn hóa, sẽ cứu thế giới, ít nhất là nhanh hơn cái đúng, cái thiện.


Nhưng,


chẳng lẽ chúng ta lại thua kém lòng dũng cảm của người tù Nguyễn Xuân Nghĩa, người đã dám thét lên cho mọi người biết Điếu Cày đang tuyệt thực, dù sau đó là bị bịt miệng, lôi đi, trừng phạt. Chẳng lẽ ở ngoài trại tù, chúng ta lại không thể thét lên cho thế giới nghe điều tương tự?


Chẳng lẽ các đấng mày râu lại cứ kể các phụ nữ một mình lặn lội thân cò giữa cánh đồng chết toàn trị, còn mình thì cứ ung dung đi xơi tái những con cò, những con gà móng đỏ, những con “ghệ”, trên bàn nhậu, trong quán, trong khách sạn đèn mờ mờ?



Xin thêm: Đừng để chế độ toàn trị giúi đầu anh em xuống lỗ đàn bà và chỉ chú trọng đến những gì quanh đó.


Còn lâu toàn trị mới dẹp bỏ mại dâm vì đó là nÆ¡i xả xú bắp tuyệt hảo – giống như Bắc Hàn sẽ không bao giờ từ bỏ những event hoành tráng đầy tiếng hát và hoa, để che tiếng súng, tiếng búa, tiếng giết người và tiếng thét la ở ngay sau sân nhà.


Không xả được vào gái, xin lỗi, thì đàn ông dứt khoát sẽ đập, sẽ đá, sẽ đánh và đạp đổ Đảng lúc nào cũng giả vờ cấm đụ! Xin lỗi.



4.


Không phải tình cờ mà báo The Economist gọi nhà thơ Nguyễn Chí Thiện là Solzhenitsyn của Việt Nam [i] khi ông mất năm 2012.


Nguyễn Chí Thiện đã liều lĩnh chấp nhận tù tội, đọa đầy và cả cái chết để đưa tập thơ 400 bài vào tòa Đại sứ Anh Quốc tại Hà Nội ngày 16/7/1978, cách đây đúng 35 năm và sáu ngày, để thế giới biết đến bóng tối dày đặc của tù ngục cộng sản Việt Nam.


CÅ©ng không phải tình cờ mà từ 1958 đến 1968 Solzhenitsyn đã viết – và sẵn sàng chịu trừng phạt vì viết – Quần đảo Ngục tù để vạch trần trước công luận thá»±c tại nhà tù cộng sản Liên Xô.


Từ 22/6/2013, Điều Cày đã tuyệt thực, đến nay là ngày thứ 30, và sẵn sàng chấp nhận cái chết cho mọi người biết đến sự bất công, vô lý, vô sỉ không thể tưởng tượng được của hệ thống nhà tù cộng sản Việt Nam thời hiện đại.



Có nơi nào không, tội ác và trừng phạt không dính líu gì với nhau. Dù không có tội, người tù vẫn cứ bị trừng phạt!?


Có nơi nào không, cai tù bắt tù nhân nhận tội mình không hề phạm. Không nhận thì bắt biệt giam ba tháng!?


Có nơi nào không, người tù tuyệt thực bị bỏ mặc, sống chết mặc bay; tin về cuộc tuyệt thực bị giấu nhẹm, bị bóp méo, bị bác bỏ; và ai mạnh dạn lên tiếng thay cho bạn tù thì bị bịt miệng, bị trừng trị.


Luật gì thế? Luật của mafia, của bọn cướp của giết người man rợ vô lý vô nhân?


So như thế nhiều khi đã là xúc phạm mafia hay trộm cướp! Trộm cướp nếu xuất phát từ nỗi đau nghèo khó thì vẫn còn tính người đâu đó. Cai tù cộng sản xuất phát từ quyền lực chia nhau. Mà quyền lực tuyệt đối thì làm con người hư hoại đến tuyệt đối!



5.


Đương nhiên, vài trăm tờ báo và nhà đài nhà nước không nói một câu nào!


Nhưng chẳng lẽ 70.000 nhà báo Việt Nam không đọc báo mạng à!?


Chẳng lẽ họ có đọc mà cứ ngậm miệng để ngày mai bình thản đi làm à!?


Chẳng lẽ họ cứ ngậm miệng đi làm và cứ viết những chuyện lăng nhăng nhạt nhẽo theo đơn đặt hàng được chỉ đạo từ trên, còn sự thật đắng ngắt thì lại bị nén chặt trong bụng à!?


Tôi không tin họ mất hẳn lương tri. Họ viết thì biết thế nào là láo và thế nào là thật, như biết thế nào là đúng chính tả và không sai văn phạm.


Hãy tưởng tượng sẽ có một ngày nào đó hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn nhà báo nộp đơn nghỉ việc vì không chịu nổi sự cắn rứt của lương tâm.


Đó sẽ là ngày đại phúc.


Và họ sẽ gia nhập Câu lạc bộ Nhà báo Tự do!


Cũng vậy, chẳng lẽ hàng triệu đảng viên không đọc báo mạng à!?


Chẳng lẽ họ sợ đọc thì ruột gan ngứa ngáy cắn rứt khó xử nên thôi cứ giả vờ như không hay biết à!?


Tôi không tin họ mất hẳn khả năng suy nghĩ. Đã biết nghĩ thì ắt biết thế nào là ngụy biện mờ đục cong queo, thế nào là thẳng thắn trong veo.


Hãy tưởng tượng một ngày nào đó có hàng chục, hàng trăm rồi hàng ngàn đảng viên ra khỏi Đảng, trả lại huân chương, tiền thưởng, bằng khen… để không thấy nhục vì đồng lõa.


Đó sẽ là ngày đại phúc.


Và họ sẽ trở thành những đảng viên tự do!



Có người bảo “tôi ở trong guồng máy để thay đổi guồng máy từ trong ra ngoài.”


Nói thì dễ. Lưu Hiểu Ba cũng từng viết về hiện tượng này, nhưng ông cho rằng đó chỉ là ngụy biện, là trấn an lương tâm. Rút cuộc, họ chỉ tiếp tục nuôi dưỡng chế độ bằng sự thỏa hiệp, và luôn luôn “cạo gió” lương tâm bằng cách thủ dâm tư tưởng rằng: tôi đang tìm cách thay đổi nó từ bên trong. Thân tôi ở Tào nhưng lòng tôi bên Lưu Bị! Họ cho rằng: càng lên cao tôi càng nhập sâu, càng dễ nối kết trong với ngoài làm cuộc chuyển đổi hòa bình. Chuyển đâu chẳng thấy, chỉ thấy họ giàu thêm và ngày càng có nhiều thành phần trẻ vào Đảng chỉ để vinh thân phì gia. [ii]


Thôi, cho em xin! Hãy thẳng thắn nhìn vào chính mình! Ai làm thật thì chẳng nói. Thằng hay nói thường chẳng làm! Xin lỗi.



6.


Chắc chắn cộng đồng sẽ lên tiếng, sẽ hành động, nhiều hơn những gì đã làm khi Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực.


Vì lần này còn cấp bách hơn rất nhiều:


Cù Huy Hà Vũ kết thúc tuyệt thực vào ngày 21/6, tại Trại giam Số 5, tỉnh Thanh Hóa, thì ngay ngày sau đó, 22/6, Điếu Cày đã bắt đầu cuộc tuyệt thực tại Trại giam Số 6, tỉnh Nghệ An.


Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực 25 ngày và kết thúc, trong khi mọi người chỉ được biết Điếu Cày tuyệt thực khi cuộc tuyệt thực đã bước vào ngày thứ 25!


Có nghĩa là trong 25 ngày trước đó, thay vì được dư luận quốc tế chú ý, Điếu Cày đã tuyệt thực trong âm thầm, thế giới bên ngoài không ai hay biết.


Đến khi mọi người biết thì sức lực anh đã kiệt quệ rồi, đi không được nữa rồi.


Vì vậy cần hành động rất nhanh, để bù lại khoảng thời gian đã mất, và vì sức lực của Điếu Cày đang lụi tàn cũng rất nhanh.


7.


Sẽ rất ý nghĩa nếu chị Nguyễn Thị Dương Hà, vợ người tù lương tâm Cù Huy Hà Vũ, lên tiếng ủng hộ tinh thần và cùng đồng hành với các chị Dương Thị Tân, Nguyễn Thị Nga, Ngô Thị Lộc, và những chị khác có chồng đang bị đọa đầy trong tù vì lương tâm.


Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Quân, chị Phạm Thanh Nghiêm, tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm, anh Đỗ Thành Công, cựu thẩm phán Phan Quang Tuệ, chị Trần Khải Thanh Thủy, anh Tưởng Năng Tiến, các anh chị ở Little Saigon, ở Adelaide, Canberra, anh Nguyễn Văn Dũng cùng nhóm viết Tâm Thư của anh Nguyễn Xuân Diện và bằng hữu, các nhân sĩ trí thức của trang Bauxite Việt Nam, rất nhiều tác giả đã viết những bài tâm huyết, đông đảo những anh chị khác tham gia cuộc vận động dư luận bằng nhiều cách ở khắp nơi, từ Úc đến Mỹ, Ba Lan, Tiệp Khắc…, cho lãnh đạo Việt Nam bày tỏ quan ngại… họ đã là những cá nhân tạo nên cơn sốt truyền thông, kích hoạt hàng loạt những phản ứng dây chuyền, góp phần rất lớn vào kết quả của đợt đấu tranh cho Cù Huy Hà Vũ.


Chúng ta có thể tiếp tục tin vào sự tự phát của những cá nhân khác, và của những nhóm người có cùng mục tiêu, gắn kết chặt chẽ, có kỹ năng, có điều kiện, có tổ chức và có ý tưởng. Đó là những đơn vị phản ứng nhanh, trong khi cộng đồng hải ngoại nói chung sẽ là người hỗ trợ.


Hãy nghĩ “TÔI LÀ ĐIẾU CẦY” để thấy mình là một với anh.


Hãy dành một ngày, ba ngày, một tuần để là Điếu Cày, để sống như Điếu Cày, tuyệt thực như Điếu Cày, bất khuất như Điếu Cày, quyết chí như Điếu Cày cho công lý hiển lộ.


8.


Tôi vào mạng tìm chữ “PR stunts”, và đọc được 100 hình thức PR ngoạn mục trong thế kỷ vừa qua. Từ một số những hình thức tạo dư luận gây sốc và gây sốt này, xin phép có vài tưởng tượng như sau cho cuộc vận động dư luận vì Điếu Cày. Rất nhiều đề nghị là không tưởng, nhưng trong việc sáng tạo không tưởng của người này có thể gợi mở tưởng tượng của người khác và ngọn đèn trên đầu có thể bất ngờ sáng lên:


Sẽ có 30, hay 300, hay 3000 người, xếp thành một hàng dài, ôm bình bát khất thực. Họ đi 70 cây số, từ Nghệ An đến Trại tù Số 6. Lại có 300, hay 3000 người khác cùng đi đường dài tới Nhà Trắng, hoặc đi khất thực quanh Quốc hội các nước Úc, Mỹ, Pháp, Canada, Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan. Họ không xin ăn, họ xin chữ ký. Quần chúng cũng có thể bỏ vào bình bát mỗi người một đồng, để dùng cho những hoạt động kế tiếp khi đoàn người đến đích.


Lại có hàng ngàn người nắm tay nhau đứng bao vây tòa đại sứ hay lãnh sự quán Việt Nam ở Canberra, Sydney, Melbourne, Adelaide, ở San Francisco, Los Angeles, Houston, Paris, Berlin, Praha, Moscow, Bắc Kinh… trong nhiều giờ để lên tiếng cho Điếu Cày…


Những nghệ sÄ© tạo hình sẽ làm 300 tượng Điếu Cày cỡ người thật bằng thạch cao hay bằng giấy bồi và mang ra làm một cuộc sắp đặt trước tháp Eiffel ở Paris. (Về vụ này xin nhờ các nghệ sÄ© tạo hình và yêu dân chá»§ như Đỗ Trung Quân, và các nhà phê bình mỹ thuật góp ý.) CÅ©ng có thể dùng tượng “Bịnh” trong bộ Sinh Lão Bịnh Tá»­ cá»§a Lê Thành NhÆ¡n – diễn tả một người chỉ còn da bọc xương, xương sườn nhô ra như vòng cung ôm lấy khoảng không ổ bụng – làm biểu tượng chiến dịch “Tôi là Điếu Cày!”


Lại có những triệu phú viết thư gửi chính phủ Mỹ, đồng gửi báo chí thế giới, đề nghị đổi tên Washington DC thành Washington Điếu Cày trong 24 giờ đồng hồ, với số tiền là 1 triệu đô cho mỗi tiếng. Nếu điều đó quá không tưởng, thì 1000 người, 10.000 người hay 100.000 người sẽ “tràn ngập” Washington, mặc áo mang dòng chữ “I AM DIEU CAY” và phổ biến poster có dòng chữ “Washington DC = Washington Dieu Cay”.


Lại có những ngọn đèn không tắt. Mỗi người ủng hộ có thế đóng 1 USD để trang trải chi phí lắp một ngọn đèn, tiền điện, sắp đặt, bảo trì… hàng chục ngàn ngọn đèn sẽ sáng rực hàng đêm, cho tới ngày Điều Cày ngưng tuyệt thực.


Lại có những mạnh thường quân đồng loạt gửi thư đề nghị mua huyệt mộ tại các nghĩa trang dành cho người có công nhất của nhân loại, huyệt mộ này sẽ mang tên Điếu Cày và để dành cho ông nếu chẳng may ông chết vì tuyệt thực.


Những nghệ sĩ vĩ cầm, hồ cầm, đại hồ cầm sẽ mang đàn ra quảng trường ở Vienna, ở Berlin, ở Paris, hay ở giữa Hà Nội (nghệ sĩ Tạ Trí Hải đã từng nhiều lần kéo vĩ cầm xuống đường cùng Hà Nội), tại Saigon, Nghệ An, hoặc ở ngay cổng Trại tù Số 6… như Mischa Maisky đã cầu nguyện bằng nhạc của Bach trong Tổ khúc dành cho hồ cầm, cung Sol trưởng [iii] giữa một thánh đường.


Lại có 30 phụ nữ tá»± nguyện chụp hình nude, (dùng tay hoặc phụ liệu che chỗ kín), nhưng “chỗ ấy” thì mặc quần có hình ổ khóa to, để tỏ thái độ “tuyệt tình” – không biểu tình thì không làm tình[iv] – nếu chồng mình là nhà báo, nghệ sÄ©, trí thức, cán bộ nhà nước biết chuyện Điếu Cầy mà cứ im thin thít trước cái chết cận kề cá»§a người tù lương tâm, và vẫn cứ đòi… làm tình bình thường!


Lại có những người thay nhau tự nguyện nhốt mình và tuyệt thực trong những chiếc cũi dựng lên tại những địa điểm trọng yếu trong ba ngày, một tuần.


Lại có một nhóm bạn lập trang blog dieucaytuyetthuc, họ đếm từng ngày tuyệt thực, kể lại lại câu chuyện về Điếu Cày, cập nhật từng ngày những cuộc đấu tranh, những lời phát biểu, kết nối những hoạt động vì Điếu Cày…


Còn nhiều nhiều nữa những hình thức vận động dư luận mà nhiều người sẽ nghĩ ra, khả thi hơn, thuyết phục hơn.


Dư luận thế giới giữa trùng trùng thông tin luôn cần những cú hích truyền thông, những thông điệp ngắn [sound bite] nhưng nghe là nhớ, đầy hình tượng và ấn tượng, để thông tin được lên báo, lên TV, lên mạng, lên miệng người nghe, và từ đó khiến giới chức có thẩm quyền không thể không lên tiếng.


9.


Nếu cần một chính nghĩa thì có thể nói đấu tranh bênh vực Điếu Cày – một tù nhân lương tâm mà sự chính trực không ai có thể nghi ngờ, trừ những kẻ dối trá – là một cuộc đấu tranh rất chính đáng.


Nếu có ai đó còn nghi ngại, còn chưa tin điều gì, có lẽ chỉ cần nhớ rằng: Giữa những thông tin của một bên là người con trai và người vợ của Điếu Cày vừa dũng cảm vừa chịu thương chịu khó, và của một bên là những cán bộ trại giam và hệ thống truyền thông nhà nước chuyên xuyên tạc sự thật, chúng ta chỉ được chọn một trong hai.


Và nếu anh chết, cái chết của anh rất có thể sẽ làm rất nhiều người trong chúng ta mất ngủ nhiều ngày, vì chúng ta có thể đã vì chủ quan vô tình mà hành động chưa đủ nhanh, hoặc vì đã thản nhiên, bất động, thụ động, đã cứ làm khán giả, chờ xem có ai đó làm gì ngoài kia, thay vì tự ra lệnh cho mình hành động trong điều kiện cho phép.


Khi đấu tranh chỉ được thực hiện vào “giờ rảnh” thì kết quả cũng sẽ cầm chừng, và nếu soi lại, sẽ thấy không xứng đáng với sự hy sinh cả đến tính mạng của một người dám mất hết mà không hề vì quyền lợi cá nhân.


Điếu Cày, anh chỉ đơn giản nói rằng “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” và bị đầy đọa đến gần chết. Anh chỉ đơn giản muốn bảo vệ tổ quốc cho mọi người.


Vì vậy, cũng là hợp lý và hợp tình khi thấy rằng bổn phận của chúng ta cũng là góp sức bảo vệ anh.


Cấp bách lắm rồi, con đã không nhận ra cha nữa rồi.


© 2013 Từ Linh & pro&contra



 




[i] The Economist, số ra ngày 13/10/2012. Bài báo kể lại chuyện này:


Nguyễn Chí Thiện giấu 400 bài thơ trong áo. Thời điểm là ngày 16/7/1979, tức hai ngày sau ngày kỷ niệm phá ngục Bastille [Cách mạng Pháp 1789]. Với Nguyễn Chí Thiện, đó là ngày tự do. Ông chạy băng qua cổng tòa đại sứ Anh ở Hà Nội, băng qua người gác cổng, đòi gặp đại sứ. Người gác cổng không thể ngăn ông. Trong khu tiếp khách, vài nhân người Việt ngồi tại bàn. Ông giằng co với họ, đẩy họ sang một bên, đạp đổ cả cái bàn. Trong phòng thay quần áo cạnh đó, một cô gái Ăng-lê đang chải tóc, sợ quá cô đánh rớt cả chiếc lược. Nghe tiếng động, ba người đàn ông Ăng-lê chạy ra, ông vội đưa tập bản thảo cho một trong số họ. Rồi bình tĩnh trở lại, ông chấp nhận bị bắt.


Bài báo cũng trích đoạn thơ sau đây của Nguyễn Chí Thiện:


Đảng đầy tôi trong rừng

Mong tôi xác bón từng gốc sắn

Tôi hóa thành người săn bắn

Và trở ra đầy ngọc rắn, sừng tê


Đảng dìm tôi xuống bể

Mong tôi đáy nước chìm sâu

Tôi hóa thành người thợ lặn

Và nổi lên ngời sáng ngọc châu.


[ii] Liu Xiao Bo, No Enemies, No Hatred, 2012, chương “The Spiritual Landscape of the Urban Young in Post-Totalitarian China”, trang 47-57.




[iii] Xem “Mischa Maisky plays Bach Cello Suite No.1 in G (full)” trên mạng Youtube.




[iv] Cách đấu tranh này đã được phụ nữ Liberia, do bà Leymah Gbowee lãnh đạo, áp dụng hiệu quả. “No peace, no sex” không hòa bình thì không làm tình, không yên thì không yêu. Bà Leymah cũng từng nói trước mặt nhà độc tài Charles Taylor rằng:




“[… ] Chúng tôi đã quá mệt mỏi vì chạy trốn rồi […]


Chúng tôi không muốn thấy con cái mình bị hãm hiếp nữa


Hôm nay, chúng tôi cất tiếng nói để bảo vệ tương lai con cái mình.


Vì chúng tôi, người giữ giềng mối của xã hội, tin rằng mai này con cái chúng tôi sẽ hỏi:


“Mẹ ơi, trong thời kỳ đen tối đó, mẹ đã làm những gì?”


Vui lòng chuyển đến Tổng thống Liberia thông điệp này.”


(Trích từ bài “Ngủ trên giường, cởi truồng giữa chợ” đăng trên Damau.org, ngày 19/11/2011)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 22, 2013 14:15

July 21, 2013

Vụ xử án một giáo viên dạy văn

Nguyễn Mạnh Tường


Trong đoạn trích sau đây, luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) thuật lại lời đối đáp giữa chánh án và bị cáo ở một vụ xử án mà ông cho là “quái lạ duy nhất được biết trong lịch sử ngành tư pháp văn minh ngày nay“. Theo lời kể của ông, “sau khi tiếp quản Hà Nội, các lãnh đạo cao cấp đã ra lệnh để tòa kết án một giáo sư dạy văn đã đầu độc tâm hồn sinh viên vì đã giảng dạy tác phẩm có tên là ‘Nỗi cô đơn’ (L’Isolement) của nhà văn người Pháp Lamartine“. Vị quan tòa này đồng thời là Tổng Thư kí Đảng Xã hội, phân bộ Hà Nội, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bị cáo là một giảng viên đại học tại Hà Nội, không đi theo kháng chiến. Ông bị tuyên án 4 năm tù. Đó là năm 1954.


Sáu mươi năm sau, không ai ở Việt Nam có thể bị tống giam vì giảng dạy Lamartine nữa. Đuổi một luận văn thạc sĩ về một nhóm thơ ngoài luồng khỏi môi trường hàn lâm chính thống là thành tích oanh liệt nhất mà các vị chánh án văn chương thời nay có thể đạt được. Dù sự ngu xuẩn và giáo điều thời nay vẫn giống hệt sự ngu xuẩn và giáo điều thời xưa, tôi tin rằng chính các vị này cũng không muốn bánh xe lịch sử quay lùi.


Phạm Thị Hoài


_____________


Chánh án: Bị cáo! Ông có nhận thấy là ông có tội là đã dạy cho thanh niên của chúng ta một loại triết lý đầy thê lương, mất niềm tin, bi quan, trong khi Đảng Cộng sản của chúng ta được giao phó trách nhiệm tuyên truyền cho sự lạc quan, hy vọng và vui sống?


Bị cáo: Thưa ngài chánh án, làm sao tôi biết được là Đảng Cộng sản đang dạy về một cuộc sống đầy niềm vui, hy vọng và lạc quan? Theo chỗ tôi biết, những người làm việc cho chế độ cũ được chính phủ kháng chiến giữ lại làm việc chưa bao giờ học hay đọc bất kỳ ở đâu là Đảng Cộng sản đã dạy những điều như thế. Ngay cả nếu điều đó có thật, tôi cũng ngại rằng một nền giáo dục như thế khó mà đạt được kết quả. Thực vậy, lãnh vực cảm xúc không phải là đối tượng nằm trong phạm vi quyền hạn của thế quyền. Những gì xảy ra trong nội tâm của con người nó không biết về những qui luật về logic và lý lẽ, những ràng buộc về luật lệ, công lý và ngay cả về đạo đức. Một cảm xúc được hình thành, lớn lên, tàn phai rồi biến mất hay tự mình biến thể tùy theo những thôi thúc, kích động hay những tác động bởi thế giới bên ngoài và tùy theo cá tính chủ quan của con người trong một nền luân lý, nếu tôi có thể nói thêm về nó, là có liên quan đến con người khi mỗi người thu nhận hay gạt bỏ những gì đến từ môi trường chung quanh theo cách riêng của họ. Đây là lãnh vực mà quyền lực muốn áp dụng những điều răn dạy để chứng minh niềm kiêu hãnh của mình thì cũng sẽ buông tay chịu thua. Nhà chính trị có thể mong muốn mang lại cho nhân dân hy vọng, niềm lạc quan và vui sống. Nhưng việc làm không đi đôi với lời nói, nếu những thực tiễn không đi theo những lý thuyết trừu tượng thì chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ chuyện làm phù thuỷ bắt ma! Hy vọng không thể có nếu không có lý do nào để hy vọng và cũng chẳng có gì để mà hy vọng. Lạc quan và vui sống sẽ thấm vào lòng người khi mà ở đâu cũng có trật tự xã hội và phồn vinh, có tối thiểu tự do và có những quyền mà một xã hội loài người văn minh đòi hỏi phải có. Người ta có thể thành điên khùng như lão Don Quichotte khi bị tay Dulchinée mặt mày nhăn nheo, miệng mồm không một chiếc răng lừa phỉnh. Một người trí thức, nhỏ nhoi như tôi, không thể chấp nhận theo đường lối của Đảng Cộng sản, một đường lối tạo dựng bằng hy vọng, lạc quan và vui sống. Nó chỉ là một điều mong muốn mà sự thành công là tùy thuộc Đảng Cộng sản. Lời buộc tội duy nhất đưa tôi tới trước vòng móng ngựa ô nhục này không có một cơ sở nào đứng vững. Tôi cho rằng tôi không có tội là đã làm hại đến một đường lối chính trị mà nói một cách bình thường và đúng đắn là không hiện diện. Ngoài ra, tôi sẽ rất vui nếu được biết là dựa trên điều khoản nào của luật pháp, những điều mà chưa bao giờ có, để các ông kết án tôi trước toà?


Chánh án: Chúng ta đừng chơi nhau trên chữ nghĩa, ném vào nhau những điều này nọ của bộ Luật Hình sự. Sự việc đã hiển nhiên. Có hay không có việc ông giảng dạy cho sinh viên tác phẩm Cô đơn (L’Isolement) của tác giả Lamartine và ca tụng nhà thơ này? Có hay không có việc ông tán tụng những vần thơ chán chường, mất hy vọng và bi quan yếm thế và hậu quả là đầu độc tâm hồn của giới trẻ đã nghe theo tiếng gọi của Đảng Cộng sản của chúng ta mà đứng lên muôn người như một để xây dựng lại nền Tự do, Độc lập và Tự hào Dân tộc?


Bị cáo: Thưa ngài, tôi không học luật, nhưng bất cứ người trí thức nào cũng đều hiểu là muốn kết án ai đều phải dựa vào một hay nhiều điều Luật Hình sự định rõ tính chất và những điều kiện để cấu thành tội. Hơn nữa họ cũng biết là chính trị và luật là hai lãnh vực không giống nhau, giống như ước mơ và sự thật. Mơ ước là điều cho phép nhà chính trị làm khi mà những việc làm của họ là nhắm tới tương lai, nhưng luật là được xây dựng vững chắc trên những cơ bản vững chắc, của hiện tại và cụ thể vì nó hoạt động trong hiện tại để mà duy trì và xây dựng nên một xã hội phù hợp với ước vọng của mọi người. Mọi lẫn lộn giữa mơ và thực, giống như trường hợp giữa chính trị và luật, là một bước nhảy lùi về quá khứ hàng thế kỷ.


Lời buộc tội giờ đây có chút thay đổi. Tôi không phê phán đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản, nhưng tôi ca tụng một nhà thơ mơ mộng, biện hộ cho tư tưởng chán chường, thất vọng và bi quan, tôi tự nhắc với tôi là người trí thức có tiếng tăm không làm chuyện ca tụng bất cứ ai, biện hộ cho bất cứ người nào. Hai từ ngữ đó phải được lấy ra khỏi trong mọi lời lẽ buộc tội: đó là một sự lạc đề không đúng với ý nghĩa chính thức của hai từ đó. Có thể nói một cách chính đáng, đây là một hành động hạ nhục và xúc phạm đến lòng tự trọng của người trí thức. Ngay khi đang lúc tán dương, người trí thức tự kềm chế mình để không bị bất ngờ vì tán dương rởm và luôn luôn giữ một sự dè dặt nào đó. Nụ cười và thái độ quỳ lạy không nằm trong nghề của họ, mà làm vũ khí của những người đã bán rẻ lòng tự trọng để chắt mót được những lợi lộc tồi tàn. Tôi xin nhắc lại: tôi không tán dương một ai, ngay cả đó là người được mọi người ca tụng. Tôi không đứng ra bào chữa cho một chủ thuyết nào, ngay cả khi có hàng triệu người theo nó và ca tụng nó. Không, tôi chỉ phân tích, giải thích, cố gắng làm cho sinh viên hiểu cái trạng thái tình cảm mà không một kẻ độc tài nào, không một chế độ độc tài nào có thể xoá bỏ, khi mà tác phẩm ấy đã có mặt hơn một thế kỷ nay. Chính trị có thể thực hiện quyền lực của mình ở hiện tại, đôi khi trong tương lai, nhưng cũng phải chấp nhận là đối với quá khứ thì không thể làm được gì.


Vì vậy tình cảm mơ mộng, một trạng thái của tâm hồn, là chuyện đã có từ lâu, nếu ngài cho phép tôi có ý kiến, là mọi người đều có thể chứng minh đó là một điều chân thành, con người ai cũng liên tục mơ mộng cho đến một tuổi nào đó và trong một hoàn cảnh sống nào đó. Chỉ có những người cộng sản lão đời, những người khắc khổ không còn nước mắt mới cho rằng không thể có những giọt nước mắt khốn cùng của loài người, để tự nâng mình thành một loại siêu nhân.


Thưa ngài, tôi không tự biện hộ cho tôi, tôi chỉ làm công việc trả lời sự kết án của ngài. Tôi đã biết trước số phận của tôi: không có người nào bị Toà án Nhân dân xử mà bước ra khỏi đó để về nhà. Tôi có thể nghe buổi xét xử. Tôi có thể đơn giản nhận tội và nhờ sự khoan hồng của Đảng Cộng sản, và với những cố gắng cá nhân, tôi hứa rằng tôi sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào nhằm cải thiện và làm trong sạch những suy nghĩ của tôi để đi đúng đường lối của Đảng Cộng sản. Nhưng tôi mong mỏi rằng, ít nhất một lần, tiếng nói trung chính của người trí thức được nghe đến, để cho những thế hệ ngày nay và mai sau hiểu chính xác thế nào là một nền công lý cách mạng.


Nguồn: Trích phần II (“Mỏm đá Tarpéienne”), chương 2 (“Ông quan tòa Việt Nam”) trong cuốn hồi kí Kẻ bị mất phép thông công của luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997), nguyên bản tiếng Pháp Un Excommunié. Hanoi: 1954-1991: Procès d’un intellectuel, do Nguyễn Quốc Vỹ dịch và đăng trên Thông luận năm 2009.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 21, 2013 11:28

Vụ xử án một giáo viên dạy văn

Nguyễn Mạnh Tường


Trong đoạn trích sau đây, luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) thuật lại lời đối đáp giữa chánh án và bị cáo ở một vụ xá»­ án mà ông cho là “quái lạ duy nhất được biết trong lịch sá»­ ngành tư pháp văn minh ngày nay“. Theo lời kể cá»§a ông, “sau khi tiếp quản Hà Nội, các lãnh đạo cao cấp đã ra lệnh để tòa kết án một giáo sư dạy văn đã đầu độc tâm hồn sinh viên vì đã giảng dạy tác phẩm có tên là ‘Nỗi cô đơn’ (L’Isolement) cá»§a nhà văn người Pháp Lamartine“. Vị quan tòa này đồng thời là Tổng Thư kí Đảng Xã hội, phân bộ Hà Nội, á»§y viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bị cáo là một giảng viên đại học tại Hà Nội, không đi theo kháng chiến. Ông bị tuyên án 4 năm tù. Đó là năm 1954.


Sáu mươi năm sau, không ai ở Việt Nam có thể bị tống giam vì giảng dạy Lamartine nữa. Đuổi một luận văn thạc sĩ về một nhóm thơ ngoài luồng khỏi môi trường hàn lâm chính thống là thành tích oanh liệt nhất mà các vị chánh án văn chương thời nay có thể đạt được. Dù sự ngu xuẩn và giáo điều thời nay vẫn giống hệt sự ngu xuẩn và giáo điều thời xưa, tôi tin rằng chính các vị này cũng không muốn bánh xe lịch sử quay lùi.


Phạm Thị Hoài


_____________


Chánh án: Bị cáo! Ông có nhận thấy là ông có tội là đã dạy cho thanh niên của chúng ta một loại triết lý đầy thê lương, mất niềm tin, bi quan, trong khi Đảng Cộng sản của chúng ta được giao phó trách nhiệm tuyên truyền cho sự lạc quan, hy vọng và vui sống?


Bị cáo: Thưa ngài chánh án, làm sao tôi biết được là Đảng Cộng sản đang dạy về một cuộc sống đầy niềm vui, hy vọng và lạc quan? Theo chỗ tôi biết, những người làm việc cho chế độ cũ được chính phủ kháng chiến giữ lại làm việc chưa bao giờ học hay đọc bất kỳ ở đâu là Đảng Cộng sản đã dạy những điều như thế. Ngay cả nếu điều đó có thật, tôi cũng ngại rằng một nền giáo dục như thế khó mà đạt được kết quả. Thực vậy, lãnh vực cảm xúc không phải là đối tượng nằm trong phạm vi quyền hạn của thế quyền. Những gì xảy ra trong nội tâm của con người nó không biết về những qui luật về logic và lý lẽ, những ràng buộc về luật lệ, công lý và ngay cả về đạo đức. Một cảm xúc được hình thành, lớn lên, tàn phai rồi biến mất hay tự mình biến thể tùy theo những thôi thúc, kích động hay những tác động bởi thế giới bên ngoài và tùy theo cá tính chủ quan của con người trong một nền luân lý, nếu tôi có thể nói thêm về nó, là có liên quan đến con người khi mỗi người thu nhận hay gạt bỏ những gì đến từ môi trường chung quanh theo cách riêng của họ. Đây là lãnh vực mà quyền lực muốn áp dụng những điều răn dạy để chứng minh niềm kiêu hãnh của mình thì cũng sẽ buông tay chịu thua. Nhà chính trị có thể mong muốn mang lại cho nhân dân hy vọng, niềm lạc quan và vui sống. Nhưng việc làm không đi đôi với lời nói, nếu những thực tiễn không đi theo những lý thuyết trừu tượng thì chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ chuyện làm phù thuỷ bắt ma! Hy vọng không thể có nếu không có lý do nào để hy vọng và cũng chẳng có gì để mà hy vọng. Lạc quan và vui sống sẽ thấm vào lòng người khi mà ở đâu cũng có trật tự xã hội và phồn vinh, có tối thiểu tự do và có những quyền mà một xã hội loài người văn minh đòi hỏi phải có. Người ta có thể thành điên khùng như lão Don Quichotte khi bị tay Dulchinée mặt mày nhăn nheo, miệng mồm không một chiếc răng lừa phỉnh. Một người trí thức, nhỏ nhoi như tôi, không thể chấp nhận theo đường lối của Đảng Cộng sản, một đường lối tạo dựng bằng hy vọng, lạc quan và vui sống. Nó chỉ là một điều mong muốn mà sự thành công là tùy thuộc Đảng Cộng sản. Lời buộc tội duy nhất đưa tôi tới trước vòng móng ngựa ô nhục này không có một cơ sở nào đứng vững. Tôi cho rằng tôi không có tội là đã làm hại đến một đường lối chính trị mà nói một cách bình thường và đúng đắn là không hiện diện. Ngoài ra, tôi sẽ rất vui nếu được biết là dựa trên điều khoản nào của luật pháp, những điều mà chưa bao giờ có, để các ông kết án tôi trước toà?


Chánh án: Chúng ta đừng chÆ¡i nhau trên chữ nghÄ©a, ném vào nhau những điều này nọ cá»§a bộ Luật Hình sá»±. Sá»± việc đã hiển nhiên. Có hay không có việc ông giảng dạy cho sinh viên tác phẩm Cô đơn (L’Isolement) cá»§a tác giả Lamartine và ca tụng nhà thÆ¡ này? Có hay không có việc ông tán tụng những vần thÆ¡ chán chường, mất hy vọng và bi quan yếm thế và hậu quả là đầu độc tâm hồn cá»§a giới trẻ đã nghe theo tiếng gọi cá»§a Đảng Cộng sản cá»§a chúng ta mà đứng lên muôn người như một để xây dá»±ng lại nền Tá»± do, Độc lập và Tá»± hào Dân tộc?


Bị cáo: Thưa ngài, tôi không học luật, nhưng bất cứ người trí thức nào cũng đều hiểu là muốn kết án ai đều phải dựa vào một hay nhiều điều Luật Hình sự định rõ tính chất và những điều kiện để cấu thành tội. Hơn nữa họ cũng biết là chính trị và luật là hai lãnh vực không giống nhau, giống như ước mơ và sự thật. Mơ ước là điều cho phép nhà chính trị làm khi mà những việc làm của họ là nhắm tới tương lai, nhưng luật là được xây dựng vững chắc trên những cơ bản vững chắc, của hiện tại và cụ thể vì nó hoạt động trong hiện tại để mà duy trì và xây dựng nên một xã hội phù hợp với ước vọng của mọi người. Mọi lẫn lộn giữa mơ và thực, giống như trường hợp giữa chính trị và luật, là một bước nhảy lùi về quá khứ hàng thế kỷ.


Lời buộc tội giờ đây có chút thay đổi. Tôi không phê phán đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản, nhưng tôi ca tụng một nhà thơ mơ mộng, biện hộ cho tư tưởng chán chường, thất vọng và bi quan, tôi tự nhắc với tôi là người trí thức có tiếng tăm không làm chuyện ca tụng bất cứ ai, biện hộ cho bất cứ người nào. Hai từ ngữ đó phải được lấy ra khỏi trong mọi lời lẽ buộc tội: đó là một sự lạc đề không đúng với ý nghĩa chính thức của hai từ đó. Có thể nói một cách chính đáng, đây là một hành động hạ nhục và xúc phạm đến lòng tự trọng của người trí thức. Ngay khi đang lúc tán dương, người trí thức tự kềm chế mình để không bị bất ngờ vì tán dương rởm và luôn luôn giữ một sự dè dặt nào đó. Nụ cười và thái độ quỳ lạy không nằm trong nghề của họ, mà làm vũ khí của những người đã bán rẻ lòng tự trọng để chắt mót được những lợi lộc tồi tàn. Tôi xin nhắc lại: tôi không tán dương một ai, ngay cả đó là người được mọi người ca tụng. Tôi không đứng ra bào chữa cho một chủ thuyết nào, ngay cả khi có hàng triệu người theo nó và ca tụng nó. Không, tôi chỉ phân tích, giải thích, cố gắng làm cho sinh viên hiểu cái trạng thái tình cảm mà không một kẻ độc tài nào, không một chế độ độc tài nào có thể xoá bỏ, khi mà tác phẩm ấy đã có mặt hơn một thế kỷ nay. Chính trị có thể thực hiện quyền lực của mình ở hiện tại, đôi khi trong tương lai, nhưng cũng phải chấp nhận là đối với quá khứ thì không thể làm được gì.


Vì vậy tình cảm mơ mộng, một trạng thái của tâm hồn, là chuyện đã có từ lâu, nếu ngài cho phép tôi có ý kiến, là mọi người đều có thể chứng minh đó là một điều chân thành, con người ai cũng liên tục mơ mộng cho đến một tuổi nào đó và trong một hoàn cảnh sống nào đó. Chỉ có những người cộng sản lão đời, những người khắc khổ không còn nước mắt mới cho rằng không thể có những giọt nước mắt khốn cùng của loài người, để tự nâng mình thành một loại siêu nhân.


Thưa ngài, tôi không tự biện hộ cho tôi, tôi chỉ làm công việc trả lời sự kết án của ngài. Tôi đã biết trước số phận của tôi: không có người nào bị Toà án Nhân dân xử mà bước ra khỏi đó để về nhà. Tôi có thể nghe buổi xét xử. Tôi có thể đơn giản nhận tội và nhờ sự khoan hồng của Đảng Cộng sản, và với những cố gắng cá nhân, tôi hứa rằng tôi sẽ không từ bỏ một nỗ lực nào nhằm cải thiện và làm trong sạch những suy nghĩ của tôi để đi đúng đường lối của Đảng Cộng sản. Nhưng tôi mong mỏi rằng, ít nhất một lần, tiếng nói trung chính của người trí thức được nghe đến, để cho những thế hệ ngày nay và mai sau hiểu chính xác thế nào là một nền công lý cách mạng.


Nguồn: Trích phần II (“Mỏm đá Tarpéienne”), chương 2 (“Ông quan tòa Việt Nam”) trong cuốn hồi kí Kẻ bị mất phép thông công cá»§a luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997), nguyên bản tiếng Pháp Un Excommunié. Hanoi: 1954-1991: Procès d’un intellectuel, do Nguyễn Quốc Vỹ dịch và đăng trên Thông luận năm 2009.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 21, 2013 11:28

July 18, 2013

Phê bình kiểm dịch

Trần Đình Sử    


Đọc bài tiểu luận sau đây, nhiều lần tôi bật cười vì cái hài hước ẩn trong giọng văn kiềm chế của một nhà nghiên cứu hàn lâm, một nhà sư phạm: GS Trần Đình Sử đã giảng dạy Lí luận Văn học hơn hai mươi năm tại Trường ĐHSP Hà Nội, nơi ông cũng từng làm Chủ nhiệm khoa Ngữ văn. Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ cho cụm công trình nghiên cứu về Thi pháp học. Từ mười năm nay ông là ủy viên Hội đồng Lí luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương. Với một sự nghiệp như vậy, những nhận định của ông về nền “phê bình kiểm dịch” trong bài viết này không phải là đúc kết của một người đứng bên lề. Tôi tin rằng một “bộ phận không nhỏ” thuộc giới nghiên cứu và phê bình văn học trong môi trường chính thống ở Việt Nam hiện nay, dù không hay chưa hiển ngôn, chia sẻ quan điểm của ông. Tôi xin nồng nhiệt quảng cáo bài viết này đến tận màn hình của các công chức văn học đang cố gắng lo tròn bổn phận kiểm dịch “luận văn Mở Miệng“.


Phạm Thị Hoài


________________


Theo quan điểm của nhà phê bình văn học Pháp Albert Thibaudet (1874-1936) trong sách Sinh lí học phê bình (1922) thì phê bình chuyên nghiệp đối lập với phê bình tự phát. Phê bình tự phát là loại phê bình tự nhiên của người đọc. Đọc xong một cuốn sách hay thì vỗ đùi khen, nếu đọc cuốn sách dở, buột miệng chửi một tiếng, hay khi trà dư tửu hậu, hoặc lúc dạo chơi với bạn bè, bàn bạc mấy câu về cuốn sách nào đó… Đó là phê bình tự phát. Loại phê bình này chủ yếu là phê bằng miệng, bằng động tác, như phẩy tay, dẩu miệng… đều là tự phát cả. Sau này trong các xa lông sang trọng của các bà quý tộc, các bà mệnh phụ sau cuộc chơi bài, đàm đạo mấy cuốn sách vừa xem, đó vẫn là phê bình tự phát. Anh Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, khi nghe vợ đọc Tam quốc diễn nghĩa, đến chỗ hay, vỗ đùi đánh đét khen: “Tài thật, Tài thật. Tài đến thế là cùng. Tiên sư anh Tào Tháo!”, “Tiểu thuyết thì nhất anh Tàu”. Đó cũng là phê bình tự phát. Phê bình tự phát có mọi nơi, mọi lúc, đồng hành cùng sinh hoạt văn học của con người. Dù cho phê bình chuyên nghiệp có chết hết đi thì phê bình tự phát vẫn sống. Phê bình tự phát khi thành dư luận mạnh mẽ buộc phê bình chuyên nghiệp phải nhào vô giải thích. Phê bình tự phát thường có ba nhược điểm. Một là thường nói theo, nói leo. Người đã đọc sách nhận xét đã đành, người không đọc cũng nghe rồi nói theo, bàn tán, thực ra là nói mò. Hai là phê bình tự phát dễ biến thành ý kiến nhóm, có thói quen riêng, thiếu cái nhìn toàn bộ, dễ thiên lệch. Ba là dễ chạy theo thời thượng, đồng thời cũng nhanh chóng bị thay thế, thiếu bền vững, hôm nay vừa khen, ngày mai thấy nói khác, lại nói theo, số phận ngắn ngủi. Có một thời, sách xuất bản xong liền có cán bộ đi thu thập ý kiến bạn đọc các giới, kết quả thu được chỉ là các dư luận như thế, rất ít tính khoa học. Tất nhiên phê bình chuyên nghiệp cũng góp phần định hướng cho phê bình tự phát, giúp nó sâu sắc hơn.


Phê bình văn học phát triển đến một lúc nào đó thì nảy sinh ra sự phân công, và thế là xuất hiện các loại phê bình, trong đó có loại phê bình kiểm dịch. Nhà tư tưởng Khai sáng Pháp là Voltaire (1694–1778) có lần nói: “Chúng ta nhìn thấy, trong các nước hiện đại, khi người ta ra sức phát triển văn học thì có một số người trở thành nhà phê bình chuyên nghiệp, cũng giống như người ta muốn kiểm tra các loại lợn đem ra thị trường có bệnh hay không, người ta đã thiết lập những người chuyên môn kiểm tra lưỡi lợn. Những người kiểm tra lưỡi lợn trong văn học không phát hiện được một nhà văn nào là lành mạnh cả” (Sách đã dẫn của Thibaudet, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, năm 2002, tiếng Trung, tr. 74). Xin chú ý mấy chữ này của Voltaire: phê bình kiểm dịch trong văn học không phát hiện được ai là lành mạnh cả. Nó là nghề phát hiện bệnh của văn học. Như thế, có thể coi nhà phê bình chuyên nghiệp đầu tiên là người có chức năng giống như nhân viên thú y kiểm dịch ngoài chợ, thấy có bệnh thì kêu lên, để mọi người tránh xa, không mua hàng đó. Cứ theo chức năng ấy thì nhà phê bình chuyên nghiệp kiểm dịch đầu tiên của nhân loại phải kể đến Đức Khổng Tử bên Tàu. Khổng Tử đã lựa hàng vạn bài ca dao, dân ca của các nước trong lãnh thổ Trung Hoa cổ đại, chọn lấy 305 bài, theo tiêu chí “tư vô tà”, tức là tư tưởng không có gì sai trái, lệch lạc, đồi trụy, có thể lưu hành. Còn các bài khác “có tà” đã bị ông vứt bỏ, thất truyền hết. Nhưng Khổng Tử là nhà kiểm dịch lỗi lạc, bởi trong tư tưởng của ông, lấy ngôn chí, tải đạo làm gốc, có sự thống nhất giữa mĩ và thiện, chấp nhận thi ca có thể hứng, quan, quần, oán, văn chất thống nhất với nhau, cho nên 305 bài vẫn bao hàm đủ các tác phẩm xuất sắc, đa dạng. Platon, người Hi Lạp (427– 327), sống sau Khổng Tử 100 năm (552-479) cũng là nhà phê bình kiểm dịch. Nhưng khác với Khổng Tử, Platon quá cực đoan, ông coi thi ca (văn học) đều là ôn dịch, nên ông đuổi tất ra khỏi nước Cộng hòa lí tưởng của ông.


Nhìn theo lịch sử như vậy ta sẽ thấy từ khởi thủy phê bình chuyên nghiệp, phân biệt với phê bình tự phát, trước hết là loại phê bình kiểm dịch mà Voltaire đã nói. Nhưng phê bình kiểm dịch đời sau ngày một kém. Nó chỉ quan tâm tới sự lành mạnh của văn học theo tiêu chí hình thức, hay tiêu chí đạo đức hay chính trị quốc gia, mà không hề quan tâm đến giá trị nghệ thuật đích thực. Các nhà quản lí quốc gia bao giờ cũng ưu tiên phát triển loại phê bình kiểm dịch này.


Theo Thibaudet, thế kỉ XVII Tể tướng của vua Louis XIII là Richelieu đã đem phê bình kiểm dịch áp đặt cho Viện Hàn lâm Pháp. Bất đắc dĩ Viện Hàn lâm Pháp phải chấp nhận, nhưng cũng chỉ sử dụng có một lần duy nhất rồi thôi. Phê bình kiểm dịch Pháp chỉ đơn giản là đem tác phẩm văn học ra đối chiếu với các quy phạm thể loại, tuy nó thấy tác phẩm nào cũng không hợp chuẩn, nhưng văn học “lệch chuẩn” không bị nó đem ra đốt, văn sĩ không mấy người bị đem đi chôn. Sau thế kỉ XVII phê bình chuyên nghiệp châu Âu chuyển sang phê bình học thuật và hàn lâm, phê bình kiểm dịch tất nhiên vẫn còn, nhưng nói chung không còn trở ngại cho các công trình nghiên cứu học thuật.


Ở Trung Quốc xưa kia phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng phát hiện các vụ án văn tự ngục khiến bao nhiêu văn sĩ rơi đầu. Đó là lối đọc văn cắt xén, suy diễn để quy tội phản lại triều đình, phản loạn, nhằm khép đối tượng vào tội chết. Vụ án văn tự ngục đầu tiên của Trung Quốc xảy ra vào thời Chiến Quốc, quyền thần nước Tề gian ác, giết vua, sử quan ghi đúng sự thật, bị khép vào tội chết, đem chém đầu. Suốt lịch sử Trung Quốc, đã có hàng chục vạn người chết vì văn tự ngục. Riêng đời Thanh văn tự ngục giết chết 200 người, liên lụy trên ba nghìn người. Thời phong kiến nước ta cũng thế. Trong các cuộc đấu tranh tư tưởng ở Trung Quốc suốt thời kì Mao Trạch Đông thống trị, đến Cách mạng Văn hóa, phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng chỉ ra đâu là dấu hiệu của tư tưởng phong kiến, đế quốc, tư sản, xét lại, đồi trụy, chống Đảng, chỉ ra ai là kẻ thù, đẩy hàng chục vạn người đi lao động cải tạo, bức hại, nhiều người tự tử. Diêu Văn Nguyên, một trong lũ bốn tên, là nhà phê bình kiểm dịch khét tiếng nhất, gian ác nhất. Chu Dương suốt đời trung thành với Mao, thế mà cuối cùng bị Diêu Văn Nguyên tố cáo chống lại tư tưởng của Mao, phải đi lao động trong chuồng lợn. Ở nước ta, trong thời kì bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, phê bình chuyên nghiệp cũng thực hiện nhiệm vụ kiểm dịch, chỉ ra các biểu hiện tư sản, phản động, đồi trụy, xét lại, bôi đen chế độ… Ở nhiều giai đoạn, loại phê bình kiểm dịch này cũng thịnh hành ở nước ta. Thế cho nên, hàng loạt tác phẩm, ví như Vào đời, Sắp cưới, Mùa hoa dẻ, Sương tan, Phá vây, Chuyện kể năm 2000, Miền hoang tưởng, Cây táo ông Lành, Sẹo đất, Vòng trắng, từng bị phê bình chuyên nghiệp phanh phui, lên án, xem đó là những tác phẩm “có vấn đề”, dù sau này nhìn lại hầu như chẳng có vấn đề tư tưởng quan trọng nào cả. Lấy tác phẩm Vào đời (1963) của Hà Minh Tuân làm ví dụ. Người đầu tiên “có công” phát hiện Vào đời “có vấn đề” là Nguyễn Phan Ngọc, người kết luận nặng nề nhất là Hồng Chương, giữa thời gian đó, theo thông tin trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 3–1963, trong hơn một tháng đã có 43 bài phê bình lớn nhỏ đăng trên hầu hết các báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Tiền phong, Cứu quốc, Thống nhất, Độc lập, Thủ đô Hà Nội.., hầu hết đều ghi tên biệt hiệu, không ghi tên thật. Kết quả là Hà Minh Tuân bị cách chức Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, điều chuyển sang Bộ Thủy sản, làm chuyên viên cá nước lợ, mãi đến năm 90 ông mới đuợc phục hồi.


Các dẫn chứng nói trên cho thấy, phê bình kiểm dịch có lịch sử lâu đời và có chức năng đảm bảo cho văn học được lành mạnh theo quan điểm nhà nước. Ngày nay ở Trung Quốc phê bình kiểm dịch cũng thịnh hành. Các tác phẩm như Phế đô, Báu vật của đời, Búp bê Thượng Hải,… đều bị cấm, nhưng Báu vật của đời lại được Giải Nobel. Điều này cho thấy phê bình kiểm dịch tuy có tính chuyên nghiệp, đúng hơn là tính nghiệp vụ, song chất lượng thực tế có nhiều vấn đề đáng bàn, có những sai sót và nhiều khi gây hậu quả không thể sửa chữa được. Phê bình kiểm dịch thường có mấy đặc điểm chung như sau:


Thứ nhất: Vì văn học là hiện tượng phức tạp, nên phê bình kiểm dịch không thể làm thí nghiệm, khó tìm được những tiêu chí khách quan để kiểm dịch văn học giống như bác sĩ thú y kiểm dịch lưỡi lợn ngoài chợ. Nguyên tắc “phương pháp luận” mà phê bình kiểm dịch thường dựa vào để phát hiện “dịch bệnh” là cắt xén, suy diễn, quy chụp, cốt rút ra cho được cái mục tiêu tư tưởng của mình.


Thứ hai: Phê bình kiểm dịch thường tố lên tác hại nghiêm trọng của ổ dịch, kích động xã hội cảnh giác, gieo rắc niềm lo lắng sợ hãi, gây không khí bất an trong đời sống xã hội.


Thứ ba: Sau khi phát hiện ổ bệnh trong văn học, các nhà phê bình kiểm dịch rất hồ hởi, tự hào về công lao phát hiện luận điệu sai trái, chỉ tên kẻ thù địch trong nội bộ để xử lí. Đặc biệt không mảy may quan tâm số phận những người hữu quan. Hình như, đã là kẻ thù của chế độ thì còn tiếc thương gì nữa?! Đối với họ văn học chỉ có một nghĩa là nghĩa xấu, các nghĩa khác đều bị giản lược.


Nhưng nhìn lại sản phẩm phát hiện của các vụ kiểm dịch om sòm trên văn đàn, ví như những bài báo của các tác giả thuộc nhóm Nhân văn-Giai phẩm, hoặc các bài báo của Trương Tửu, hay tác phẩm Sương tan của nhà văn Hoàng Tiến, tôi cứ băn khoăn tự hỏi, không hiểu họ chống Đảng, đồi trụy ở chỗ nào?


Phê bình kiểm dịch là một tồn tại khách quan. Nó cũng là phê bình chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ. Nhà nước rất hậu đãi loại phê bình kiểm dịch này. Các nhà phê bình kiểm dịch đầu đàn thường được trao nhiều giải thưởng cao quý. Nhưng rõ ràng, phê bình kiểm dịch không quan tâm tới tính nghệ thuật của văn học. Cho nên, tôi rất hoài nghi giá trị và ý nghĩa tồn tại của nó với tư cách là phê bình văn học đích thực.


Có thể nó cũng là một loại loại phê bình, nhưng không phải phê bình văn học.


17–7–2013


Nguồn: Blog Trần Đình Sử


Xem thêm: Trần Đình Sử, “Các xu hướng phê bình văn học Việt Nam hôm nay“, “Lí luận văn học – Khủng hoảng và lối thoát“, “Văn học và ý thức hệ xã hội“, “Lí luận văn học Trung Quốc chuyển đổi hình thái diễn ngôn“, “Hệ hình phê bình văn học Trung Quốc – Từ chính trị sang thẩm mĩ và học thuật

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 18, 2013 13:51

Phê bình kiểm dịch

Trần Đình Sử    


Đọc bài tiểu luận sau đây, nhiều lần tôi bật cười vì cái hài hước ẩn trong giọng văn kiềm chế cá»§a một nhà nghiên cứu hàn lâm, một nhà sư phạm: GS Trần Đình Sá»­ đã giảng dạy Lí luận Văn học hÆ¡n hai mươi năm tại Trường ĐHSP Hà Nội, nÆ¡i ông cÅ©ng từng làm Chá»§ nhiệm khoa Ngữ văn. Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ cho cụm công trình nghiên cứu về Thi pháp học. Từ mười năm nay ông là á»§y viên Hội đồng Lí luận Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương. Với một sá»± nghiệp như vậy, những nhận định cá»§a ông về nền “phê bình kiểm dịch” trong bài viết này không phải là đúc kết cá»§a một người đứng bên lề. Tôi tin rằng một “bộ phận không nhỏ” thuộc giới nghiên cứu và phê bình văn học trong môi trường chính thống ở Việt Nam hiện nay, dù không hay chưa hiển ngôn, chia sẻ quan điểm cá»§a ông. Tôi xin nồng nhiệt quảng cáo bài viết này đến tận màn hình cá»§a các công chức văn học đang cố gắng lo tròn bổn phận kiểm dịch “luận văn Mở Miệng“.


Phạm Thị Hoài


________________


Theo quan điểm của nhà phê bình văn học Pháp Albert Thibaudet (1874-1936) trong sách Sinh lí học phê bình (1922) thì phê bình chuyên nghiệp đối lập với phê bình tự phát. Phê bình tự phát là loại phê bình tự nhiên của người đọc. Đọc xong một cuốn sách hay thì vỗ đùi khen, nếu đọc cuốn sách dở, buột miệng chửi một tiếng, hay khi trà dư tửu hậu, hoặc lúc dạo chơi với bạn bè, bàn bạc mấy câu về cuốn sách nào đó… Đó là phê bình tự phát. Loại phê bình này chủ yếu là phê bằng miệng, bằng động tác, như phẩy tay, dẩu miệng… đều là tự phát cả. Sau này trong các xa lông sang trọng của các bà quý tộc, các bà mệnh phụ sau cuộc chơi bài, đàm đạo mấy cuốn sách vừa xem, đó vẫn là phê bình tự phát. Anh Hoàng trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao, khi nghe vợ đọc Tam quốc diễn nghĩa, đến chỗ hay, vỗ đùi đánh đét khen: “Tài thật, Tài thật. Tài đến thế là cùng. Tiên sư anh Tào Tháo!”, “Tiểu thuyết thì nhất anh Tàu”. Đó cũng là phê bình tự phát. Phê bình tự phát có mọi nơi, mọi lúc, đồng hành cùng sinh hoạt văn học của con người. Dù cho phê bình chuyên nghiệp có chết hết đi thì phê bình tự phát vẫn sống. Phê bình tự phát khi thành dư luận mạnh mẽ buộc phê bình chuyên nghiệp phải nhào vô giải thích. Phê bình tự phát thường có ba nhược điểm. Một là thường nói theo, nói leo. Người đã đọc sách nhận xét đã đành, người không đọc cũng nghe rồi nói theo, bàn tán, thực ra là nói mò. Hai là phê bình tự phát dễ biến thành ý kiến nhóm, có thói quen riêng, thiếu cái nhìn toàn bộ, dễ thiên lệch. Ba là dễ chạy theo thời thượng, đồng thời cũng nhanh chóng bị thay thế, thiếu bền vững, hôm nay vừa khen, ngày mai thấy nói khác, lại nói theo, số phận ngắn ngủi. Có một thời, sách xuất bản xong liền có cán bộ đi thu thập ý kiến bạn đọc các giới, kết quả thu được chỉ là các dư luận như thế, rất ít tính khoa học. Tất nhiên phê bình chuyên nghiệp cũng góp phần định hướng cho phê bình tự phát, giúp nó sâu sắc hơn.


Phê bình văn học phát triển đến một lúc nào đó thì nảy sinh ra sự phân công, và thế là xuất hiện các loại phê bình, trong đó có loại phê bình kiểm dịch. Nhà tư tưởng Khai sáng Pháp là Voltaire (1694–1778) có lần nói: “Chúng ta nhìn thấy, trong các nước hiện đại, khi người ta ra sức phát triển văn học thì có một số người trở thành nhà phê bình chuyên nghiệp, cũng giống như người ta muốn kiểm tra các loại lợn đem ra thị trường có bệnh hay không, người ta đã thiết lập những người chuyên môn kiểm tra lưỡi lợn. Những người kiểm tra lưỡi lợn trong văn học không phát hiện được một nhà văn nào là lành mạnh cả” (Sách đã dẫn của Thibaudet, Nxb Tam Liên, Thượng Hải, năm 2002, tiếng Trung, tr. 74). Xin chú ý mấy chữ này của Voltaire: phê bình kiểm dịch trong văn học không phát hiện được ai là lành mạnh cả. Nó là nghề phát hiện bệnh của văn học. Như thế, có thể coi nhà phê bình chuyên nghiệp đầu tiên là người có chức năng giống như nhân viên thú y kiểm dịch ngoài chợ, thấy có bệnh thì kêu lên, để mọi người tránh xa, không mua hàng đó. Cứ theo chức năng ấy thì nhà phê bình chuyên nghiệp kiểm dịch đầu tiên của nhân loại phải kể đến Đức Khổng Tử bên Tàu. Khổng Tử đã lựa hàng vạn bài ca dao, dân ca của các nước trong lãnh thổ Trung Hoa cổ đại, chọn lấy 305 bài, theo tiêu chí “tư vô tà”, tức là tư tưởng không có gì sai trái, lệch lạc, đồi trụy, có thể lưu hành. Còn các bài khác “có tà” đã bị ông vứt bỏ, thất truyền hết. Nhưng Khổng Tử là nhà kiểm dịch lỗi lạc, bởi trong tư tưởng của ông, lấy ngôn chí, tải đạo làm gốc, có sự thống nhất giữa mĩ và thiện, chấp nhận thi ca có thể hứng, quan, quần, oán, văn chất thống nhất với nhau, cho nên 305 bài vẫn bao hàm đủ các tác phẩm xuất sắc, đa dạng. Platon, người Hi Lạp (427– 327), sống sau Khổng Tử 100 năm (552-479) cũng là nhà phê bình kiểm dịch. Nhưng khác với Khổng Tử, Platon quá cực đoan, ông coi thi ca (văn học) đều là ôn dịch, nên ông đuổi tất ra khỏi nước Cộng hòa lí tưởng của ông.


Nhìn theo lịch sử như vậy ta sẽ thấy từ khởi thủy phê bình chuyên nghiệp, phân biệt với phê bình tự phát, trước hết là loại phê bình kiểm dịch mà Voltaire đã nói. Nhưng phê bình kiểm dịch đời sau ngày một kém. Nó chỉ quan tâm tới sự lành mạnh của văn học theo tiêu chí hình thức, hay tiêu chí đạo đức hay chính trị quốc gia, mà không hề quan tâm đến giá trị nghệ thuật đích thực. Các nhà quản lí quốc gia bao giờ cũng ưu tiên phát triển loại phê bình kiểm dịch này.


Theo Thibaudet, thế kỉ XVII Tể tướng của vua Louis XIII là Richelieu đã đem phê bình kiểm dịch áp đặt cho Viện Hàn lâm Pháp. Bất đắc dĩ Viện Hàn lâm Pháp phải chấp nhận, nhưng cũng chỉ sử dụng có một lần duy nhất rồi thôi. Phê bình kiểm dịch Pháp chỉ đơn giản là đem tác phẩm văn học ra đối chiếu với các quy phạm thể loại, tuy nó thấy tác phẩm nào cũng không hợp chuẩn, nhưng văn học “lệch chuẩn” không bị nó đem ra đốt, văn sĩ không mấy người bị đem đi chôn. Sau thế kỉ XVII phê bình chuyên nghiệp châu Âu chuyển sang phê bình học thuật và hàn lâm, phê bình kiểm dịch tất nhiên vẫn còn, nhưng nói chung không còn trở ngại cho các công trình nghiên cứu học thuật.


Ở Trung Quốc xưa kia phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng phát hiện các vụ án văn tự ngục khiến bao nhiêu văn sĩ rơi đầu. Đó là lối đọc văn cắt xén, suy diễn để quy tội phản lại triều đình, phản loạn, nhằm khép đối tượng vào tội chết. Vụ án văn tự ngục đầu tiên của Trung Quốc xảy ra vào thời Chiến Quốc, quyền thần nước Tề gian ác, giết vua, sử quan ghi đúng sự thật, bị khép vào tội chết, đem chém đầu. Suốt lịch sử Trung Quốc, đã có hàng chục vạn người chết vì văn tự ngục. Riêng đời Thanh văn tự ngục giết chết 200 người, liên lụy trên ba nghìn người. Thời phong kiến nước ta cũng thế. Trong các cuộc đấu tranh tư tưởng ở Trung Quốc suốt thời kì Mao Trạch Đông thống trị, đến Cách mạng Văn hóa, phê bình kiểm dịch thực hiện chức năng chỉ ra đâu là dấu hiệu của tư tưởng phong kiến, đế quốc, tư sản, xét lại, đồi trụy, chống Đảng, chỉ ra ai là kẻ thù, đẩy hàng chục vạn người đi lao động cải tạo, bức hại, nhiều người tự tử. Diêu Văn Nguyên, một trong lũ bốn tên, là nhà phê bình kiểm dịch khét tiếng nhất, gian ác nhất. Chu Dương suốt đời trung thành với Mao, thế mà cuối cùng bị Diêu Văn Nguyên tố cáo chống lại tư tưởng của Mao, phải đi lao động trong chuồng lợn. Ở nước ta, trong thời kì bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, phê bình chuyên nghiệp cũng thực hiện nhiệm vụ kiểm dịch, chỉ ra các biểu hiện tư sản, phản động, đồi trụy, xét lại, bôi đen chế độ… Ở nhiều giai đoạn, loại phê bình kiểm dịch này cũng thịnh hành ở nước ta. Thế cho nên, hàng loạt tác phẩm, ví như Vào đời, Sắp cưới, Mùa hoa dẻ, Sương tan, Phá vây, Chuyện kể năm 2000, Miền hoang tưởng, Cây táo ông Lành, Sẹo đất, Vòng trắng, từng bị phê bình chuyên nghiệp phanh phui, lên án, xem đó là những tác phẩm “có vấn đề”, dù sau này nhìn lại hầu như chẳng có vấn đề tư tưởng quan trọng nào cả. Lấy tác phẩm Vào đời (1963) của Hà Minh Tuân làm ví dụ. Người đầu tiên “có công” phát hiện Vào đời “có vấn đề” là Nguyễn Phan Ngọc, người kết luận nặng nề nhất là Hồng Chương, giữa thời gian đó, theo thông tin trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 3–1963, trong hơn một tháng đã có 43 bài phê bình lớn nhỏ đăng trên hầu hết các báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân, Tiền phong, Cứu quốc, Thống nhất, Độc lập, Thủ đô Hà Nội.., hầu hết đều ghi tên biệt hiệu, không ghi tên thật. Kết quả là Hà Minh Tuân bị cách chức Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, điều chuyển sang Bộ Thủy sản, làm chuyên viên cá nước lợ, mãi đến năm 90 ông mới đuợc phục hồi.


Các dẫn chứng nói trên cho thấy, phê bình kiểm dịch có lịch sử lâu đời và có chức năng đảm bảo cho văn học được lành mạnh theo quan điểm nhà nước. Ngày nay ở Trung Quốc phê bình kiểm dịch cũng thịnh hành. Các tác phẩm như Phế đô, Báu vật của đời, Búp bê Thượng Hải,… đều bị cấm, nhưng Báu vật của đời lại được Giải Nobel. Điều này cho thấy phê bình kiểm dịch tuy có tính chuyên nghiệp, đúng hơn là tính nghiệp vụ, song chất lượng thực tế có nhiều vấn đề đáng bàn, có những sai sót và nhiều khi gây hậu quả không thể sửa chữa được. Phê bình kiểm dịch thường có mấy đặc điểm chung như sau:


Thứ nhất: Vì văn học là hiện tượng phức tạp, nên phê bình kiểm dịch không thể làm thí nghiệm, khó tìm được những tiêu chí khách quan để kiểm dịch văn học giống như bác sĩ thú y kiểm dịch lưỡi lợn ngoài chợ. Nguyên tắc “phương pháp luận” mà phê bình kiểm dịch thường dựa vào để phát hiện “dịch bệnh” là cắt xén, suy diễn, quy chụp, cốt rút ra cho được cái mục tiêu tư tưởng của mình.


Thứ hai: Phê bình kiểm dịch thường tố lên tác hại nghiêm trọng của ổ dịch, kích động xã hội cảnh giác, gieo rắc niềm lo lắng sợ hãi, gây không khí bất an trong đời sống xã hội.


Thứ ba: Sau khi phát hiện ổ bệnh trong văn học, các nhà phê bình kiểm dịch rất hồ hởi, tự hào về công lao phát hiện luận điệu sai trái, chỉ tên kẻ thù địch trong nội bộ để xử lí. Đặc biệt không mảy may quan tâm số phận những người hữu quan. Hình như, đã là kẻ thù của chế độ thì còn tiếc thương gì nữa?! Đối với họ văn học chỉ có một nghĩa là nghĩa xấu, các nghĩa khác đều bị giản lược.


Nhưng nhìn lại sản phẩm phát hiện của các vụ kiểm dịch om sòm trên văn đàn, ví như những bài báo của các tác giả thuộc nhóm Nhân văn-Giai phẩm, hoặc các bài báo của Trương Tửu, hay tác phẩm Sương tan của nhà văn Hoàng Tiến, tôi cứ băn khoăn tự hỏi, không hiểu họ chống Đảng, đồi trụy ở chỗ nào?


Phê bình kiểm dịch là một tồn tại khách quan. Nó cũng là phê bình chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ. Nhà nước rất hậu đãi loại phê bình kiểm dịch này. Các nhà phê bình kiểm dịch đầu đàn thường được trao nhiều giải thưởng cao quý. Nhưng rõ ràng, phê bình kiểm dịch không quan tâm tới tính nghệ thuật của văn học. Cho nên, tôi rất hoài nghi giá trị và ý nghĩa tồn tại của nó với tư cách là phê bình văn học đích thực.


Có thể nó cũng là một loại loại phê bình, nhưng không phải phê bình văn học.


17–7–2013


Nguồn: Blog Trần Đình Sử


Xem thêm: Trần Đình Sá»­, “Các xu hướng phê bình văn học Việt Nam hôm nay“, “Lí luận văn học – Khá»§ng hoảng và lối thoát“, “Văn học và ý thức hệ xã hội“, “Lí luận văn học Trung Quốc chuyển đổi hình thái diễn ngôn“, “Hệ hình phê bình văn học Trung Quốc – Từ chính trị sang thẩm mÄ© và học thuật

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 18, 2013 13:51

July 15, 2013

Ngục tù của trí tuệ


Phạm Vũ Lửa Hạ dịch


Ở TÙ xứ nào cũng khổ, nhưng mỗi xã hội có những cách hành xử văn hóa riêng để đày đọa người tù. Óc tưởng tượng tàn ác của giới cai tù Trung Quốc tuy không phải là độc nhất vô nhị, nhưng thường rất khác thường. Mà chính các tù nhân, những người tự phân chia đẳng cấp và lập nên nhà tù trong nhà tù, cũng có óc tưởng tượng khác thường.


Ví dụ, ở Trung tâm Điều tra thuộc Sở Công An Thành phố Trùng Khánh, còn gọi là Trung tâm Điều tra Tung Sơn, những tay trùm xà lim sáng chế một thực đơn gồm các món tra tấn quái dị. Thử điểm qua vài món:


Vịt hun khói kiểu Tứ Xuyên: Kẻ tra tấn đốt lông hạ bộ của tù nhân, tụt da quy đầu rồi dùng lửa đốt đen đầu dương vật.


Hoặc:


Mì nước trong : Những dải giấy vệ sinh được nhúng trong một bát nước tiểu, rồi tù nhân bị buộc ăn giấy vệ sinh và uống nước tiểu.


Hoặc:


Canh mai rùa và da heo: Kẻ tra tấn đánh hai đầu gối của tù nhân cho đến khi chúng thâm tím và sưng lên như mai rùa. Hết đi nổi.


Còn nhiều trò tra tấn khác nữa, được ban phát tùy theo tài ứng biến của kẻ thực hiện. Trong hồi ký lao tù lạ thường có nhan đề “Vì một bài hát và một trăm bài hát” (For a Song and a Hundred Songs, do Hoàng Văn Quảng dịch từ tiếng Trung, nhà xuất bản New Harvest), Liệu Diệc Vũ kể chuyện một tiều phu bị tâm thần phân liệt đã chặt chính vợ mình vì cô ta hốc hác đến nỗi anh tưởng lầm cô là một bó củi. Trùm xà lim pha thuốc nhuận trường vào nước súp của anh, rồi không cho anh dùng chậu đi tiêu đi tiểu chung, thế là anh chàng buồn đi cầu đến tuyệt vọng đành ỉa vấy lên khắp người một bạn tù. Vì cái tội đáng kinh tởm này, anh bị đập mặt vào bồn nước. Rồi đến lượt bọn quản giáo vì tưởng anh muốn tự tử, một trọng tội trong tù, nên dùng dùi cui điện đánh anh nhừ tử.


Alexis de Tocqueville đến Mỹ vào năm 1831 để nghiên cứu hệ thống nhà tù của nước Mỹ, nhưng rốt cuộc viết nên tác phẩm Dân chủ ở Mỹ (Democracy in America).[i] Quan sát hệ thống nhà tù Trung Quốc từ bên trong, với tư cách là một “tù nhân phản cách mạng” từ năm 1990 đến 1994, Liệu Diệc Vũ kể cho chúng ta biết rất nhiều về xã hội Trung Quốc, cả truyền thống lẫn cộng sản, trong đó có tác động của kiểu tuyên truyền cách mạng khoa trương, đấu tố vì bị ép buộc và thú tội công khai, và, khi thời thế thay đổi kể từ sau thời kỳ cai trị sai lầm của Mao Trạch Đông, áp dụng chủ nghĩa tư bản dưới những hình thức đồi bại. Ông kết thúc câu chuyện của mình bằng nhận xét “Trung Quốc vẫn còn là một nhà tù của trí tuệ: thịnh vượng nhưng không có tự do”.


LIỆU DIỆC VŨ bị tống giam vì sáng tác Thảm sát – một bài thơ theo phong cách dòng-ý-thức (stream-of-consciousness) tưởng niệm hàng ngàn người bị sát hại vào ngày 4/6/1989,[ii] khi phong trào đòi dân chủ bị đàn áp trên toàn Trung Quốc. Bài thơ (theo bản dịch tiếng Anh của Michael Day) mở đầu như sau:


Lại thêm một kiểu thảm sát diễn ra ở trung tâm xứ hoang tưởng

Thủ tướng cảm lạnh, nhân dân phải ho theo;

thiết quân luật ban bố bao lần.

Cỗ máy không răng của nhà nước cán lên những người can đảm không chịu bệnh theo.


Liệu Diệc Vũ không phải là nhà hoạt động chính trị, hay nói đúng hơn, một người bất đồng chính kiến, và sự phản kháng của ông mang tính tự phát. Ông không quan tâm lắm đến chính trị, ngay cả trong những năm 1980 khi mà nhiều thanh niên Trung Quốc chẳng nghĩ đến gì khác ngoài chính trị. Ông có cuộc sống khá phóng đãng, lang bạt kỳ hồ như một “kẻ đạo đức giả ăn mặc bảnh bao, một nhà thơ tự khắc họa mình là một tấm gương mẫu mực nhưng đồng thời lại hít thở bằng đàn bà như tôi đang hít thở bằng không khí, tìm chỗ trú ẩn và hơi ấm trong thú ăn nằm lang chạ”.


Cũng như nhiều người Trung Quốc lớn lên trong thời Cách mạng Văn hóa, Liệu Diệc Vũ coi như tự học văn chương, tuy ông được cha là thầy giáo truyền thụ nền tảng căn bản về Tứ Thư Ngũ Kinh. Rải rác trong hồi ký của ông, ta bắt gặp tên những tác giả phương Tây – Orwell, Kundera, Proust – một số tác phẩm của họ thậm chí lọt qua được những bức tường nhà tù ở Trùng Khánh. Trong số đó, đáng chú ý là có cả cuốn Một chín tám tư của Orwell. Liệu Diệc Vũ viết: “Trên trang sách là một nhà tù tưởng tượng, còn xung quanh tôi là nhà tù thật”.


Khác với người bạn Lưu Hiểu Ba, nhà phê bình được Giải Nobel và là một tác giả có chính kiến mãnh liệt, Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ muốn liều lĩnh chấp nhận rủi ro. Ông mô tả mình là một nghệ sĩ chỉ muốn được tự do viết theo ý thích của mình. Mới hồi năm 2011, ông nói với nhà báo Ian Johnson: “Tôi không muốn phạm luật của họ. Tôi không quan tâm đến họ và mong muốn họ chẳng quan tâm đến tôi”. Nhưng, năm 1989, ông tự đẩy mình “vào con đường tự hủy diệt” khi đến các tửu quán và hội quán khiêu vũ để ngâm bài thơ của mình bằng giọng than khóc theo lối cầu siêu truyền thống của Trung Quốc. Một băng thu âm bài thơ này được lén lút phát tán, và một nhóm nghệ sĩ và bạn bè đồng cảm đã làm một bộ phim mang tên Lễ cầu hồn (Requiem) quay những cảnh ông ngâm bài thơ này. Theo Liệu Diệc Vũ, không một ai trong số đó có thể được liệt vào hạng “kẻ bất đồng” hay “nhà tranh đấu dân chủ”. Nhưng tất cả đều bị bắt, tác phẩm của họ bị tịch thu, và nhờ đó “Sở Công An triệt hạ một cộng đồng văn chương bí mật hoạt động mạnh ở Tứ Xuyên”.


Thời gian ở tù cũng không biến Liệu Diệc Vũ thành một nhà hoạt động chính trị. Có lúc một người cũng thuộc phong trào Bát Cửu (89) muốn khởi xướng một tổ chức gồm các tù nhân chính trị đã tiếp xúc với ông. Liệu Diệc Vũ không chịu tham gia, và giải thích lý do tại sao ban đầu ông viết bài thơ Thảm sát. Ông nói ông “buộc phải phản kháng” vì “ý thức hệ nhà nước mâu thuẫn dữ dội với quyền tự do diễn đạt của nhà thơ”. Trong hồi ký, ông kể rằng đối với chuyện này, “ông không hề có ý định làm anh hùng, nhưng ở một đất nước mà sự điên rồ ngự trị, tôi phải có lập trường. Thảm sát là tác phẩm nghệ thuật của tôi, và tác phẩm nghệ thuật của tôi là cách phản kháng của tôi”.


Nhiều nhà bất đồng nổi tiếng đã viết khá sinh động về kiếp lao tù của họ. Lòng can đảm để đứng một mình của Ngụy Kinh Sinh kể chuyện 18 năm ông ở tù sau khi ông lãnh đạo phong trào Bức tường Dân chủ trong những năm 1970. Những ngọn gió rét của Ngô Hoằng Đạt (Harry Wu) mô tả kiếp đọa đày của ông ở những trại lao động cưỡng bức trong thập niên 1960 và 1970. Những câu chuyện quả cảm của họ chuyển tải một thông điệp chính trị mạnh mẽ về việc đứng lên chống lại chế độ độc tài. Liệu Diệc Vũ là một văn nhân, và nhờ đó hồi ký ở tù của ông càng có sức thuyết phục hơn. Trước hết, ông thành thực đến tàn nhẫn về các nhược điểm và nỗi sợ của mình. Ông chẳng có gì đặc biệt anh hùng cả. Nhìn bọn quản giáo tập dượt chiến đấu trong ngày đầu tiên ở tù, ông “rùng mình như một con chuột nơm nớp lo sợ”. Buộc phải hát đi hát lại nhiều bài với cổ họng khô rát trong trời lạnh cóng người để mua vui cho bọn quản giáo, ông bị đánh bằng dùi cui điện. Khi không thể hát tiếp được nữa, ông bị lột hết áo quần và quật ngã xuống đất: “Tôi có thể cảm nhận được cái dùi cui trên hậu môn của mình, nhưng tôi không chịu đầu hàng. Đầu dùi cui đi vào người tôi. Tôi hét lên rồi rên khóc như một con chó”. Liệu Diệc Vũ đã hai lần tìm cách tự vẫn, một lần bằng cách đập đầu vào tường. Chuyện này khiến những tù nhân cùng xà lim chế nhạo ông; họ tố ông đóng kịch, cho rằng đó là trò tiêu biểu của một nhà thơ mọt sách. Nếu thực sự đã muốn vỡ sọ, lẽ ra ông nên đập đầu vào gờ tường.


Liệu Diệc Vũ mô tả rất tỉ mỉ tâm trạng của kẻ lúc nào cũng sợ hãi, phải sống trong một xà lim chật chội với quá nhiều người khác đến nỗi chẳng có chỗ nằm, đói ăn và thiếu tình dục. Có tù nhân đói lả bắt được một con chuột bèn lột da khi nó đang còn sống rồi ăn tươi. Có người vục mặt vào xô đồ ăn thừa mà ngoạm đầy miệng. Sinh hoạt tình dục vẫn diễn ra, nhưng theo kiểu đê tiện. Một tù nhân suýt đốt trụi giường vì thủ dâm với một cái bật lửa khi bật lên thì hiện ra hình ảnh một phụ nữ khỏa thân. Có người chỉ cần thấy một ngôi sao phim sến trên truyền hình là không nhịn được lòng thèm muốn nhục dục. Liệu Diệc Vũ chứng kiến đám tù nhân bu quanh cửa sổ, tay trùm xà lim được đôn lên vai những kẻ nô lệ của mình, khi cả đám thủ dâm trong lúc cố nhìn cho được một người đàn bà bên ngoài. Một anh tù nhân trẻ bị trùm xà lim hãm hiếp, đem lòng yêu hắn, rồi bị ruồng bỏ bằng một cái tát vào mặt khi tay trùm bị bất lực.


MỘT trong những lý do không mấy đáng khoe khiến ta đọc các hồi ký lao tù như cuốn này với cảm giác thích thú pha lẫn khiếp đảm là nỗi thống khổ của kẻ khác lại có thể có sức hấp dẫn khiêu dâm ghê gớm. Nhưng tác phẩm của Liệu Diệc Vũ hết sức lôi cuốn chính nhờ tài quan sát của ông. Tuy bản thân cũng chịu đau khổ, ông luôn tò mò về những người khác, về tính cách của họ, về những câu chuyện của họ, và về cách họ đối phó với bao nỗi kinh hoàng của đời sống ngục tù. Những lần tiếp xúc của ông với các tù nhân khác được khéo léo biến thành các truyện ngắn. Vì một số tù nhân này đang chịu án tử hình, truyện thường bàn chuyện đối mặt với cái chết cận kề. Một tay buôn lậu ma túy có biệt danh Tử Thường muốn mượn tập sách bản đồ của Liệu Diệc Vũ để chuẩn bị cho kiếp sau làm con ma lang thang. Tử Thường đã lạc lối quá nhiều lần ở kiếp này, và muốn tới thăm những nơi hắn thích lai vãng sau khi hắn bị kết liễu bằng một viên đạn vào cổ. Nghe kẻ tử tù này nói họ có thể gặp lại nhau ở kiếp sau, Liệu Diệc Vũ thấy “tứ chi tôi run rẩy”. Tử Thường hỏi ông có sao không, rồi “bật ra tiếng cười quái gở. Vết nhăn hằn sâu giữa hai chân mày của hắn cứ như mở toang hoác giống cái miệng chực nuốt chửng tôi”.


Một số trong những tù nhân này được khắc họa trong một cuốn sách khác của Liệu Diệc Vũ, được xuất bản ở Đài Loan với nhan đề Phỏng vấn những người ở dưới đáy xã hội (Interviews with People from the Bottom Rungs of Society, 中国底层访谈录, 2001), và ở Mỹ với nhan đề Người vác thi thể (The Corpse Walker, 2008). Trong đó có truyện về một nông dân mù chữ tuyên bố làng quê của mình là một nền quân chủ độc lập, tự phong mình làm hoàng đế. Vì hành động lật đổ phản cách mạng này, ông bị tù chung thân. Liệu Diệc Vũ thấy “hoàng đế nông dân” lý thú ở chỗ các ảo tưởng của ông bắt nguồn từ Tứ Thư Ngũ Kinh. Một trong những tuyên bố của ông là dải băng vàng mang niên hiệu của ông được tìm thấy trong một con cá. Khi Liệu Diệc Vũ chỉ ra rằng cái mẹo này đã được một nông dân phiến loạn sử dụng hai ngàn năm trước để phỉnh dụ thiên hạ theo ông, vị hoàng đế nông dân bảo ông câm mồm: “Ngươi quả là thất lễ vì dám nói với Trẫm như vậy. Trẫm biết ngươi là ký giả giả trang do vương quốc Trung Hoa thù địch phái tới đây. Ngươi đã âm mưu cấu kết với bọn cán bộ quản giáo để lừa Trẫm cung cấp bằng chứng kết tội”.


Văn học có thể dùng làm lối thoát, như khi Liệu Diệc Vũ thả mình dạt theo những ký ức về Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez. Ông thấy mình đặc biệt giống một nhân vật trong tiểu thuyết này: đó là Đại tá Buendia, mất trí sau khi bị cột vào một cây dẻ trong nhiều năm. Giống như Đại tá, Liệu Diệc Vũ rút lui vào trong tâm trí của mình. Những lúc khác, các tác phẩm văn học minh họa các khía cạnh sơ khai nhất của kiếp tù. Liệu Diệc Vũ nhớ trong Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being),[iii] Milan Kundera định nghĩa cái kitsch toàn trị (totalitarian kitsch) là “sự hoàn toàn phủ nhận cứt”. Liệu Diệc Vũ viết rằng ông không thể nâng phân người lên một tầng ẩn dụ cao hơn: “Trong cuốn hồi ký tầm thường này của tôi, cứt là cứt. Tôi cứ nhắc mãi đến cứt vì tôi suýt chết đuối trong cứt”. Thực tế quả gần đúng như vậy; là ma mới trong xà lim, hoặc nếu không còn được lòng một trong những tay trùm xà lim, ông thường phải ngủ kề mặt bên chậu đi tiêu đi tiểu.


Song, ông không nhịn được cách nhìn ẩn dụ về cứt, như trong nhận xét ông đang sống “trong một chuồng heo đầy cứt gọi là Trung Quốc”. Bệnh tật cũng được nâng lên thành một ẩn dụ. “Nếu Trung Quốc là một bệnh nhân bị ung thư ruột, thành phố Trùng Khánh là điểm cuối bẩn thỉu của khúc ruột đó, cái hậu môn bệnh hoạn”. Trong sách, nhà tù thường được mô tả là một nhà tù bên trong một nhà tù khổng lồ của một xã hội Trung Quốc bệnh hoạn, một tấm gương lố bịch của các thể chế chính trị và sự khoa trương khoác lác của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.


NGÔN NGỮ của chủ nghĩa Mao, nay gần như đã thấm nhuần vào đời sống Trung Quốc như các giáo điều Khổng giáo đã từng ăn sâu, thường được dùng theo lối tương tự, cứ liên tục bật ra giữa các cuộc trò chuyện trong tù. Tù nhân thường nhại các phát biểu của Mao với vẻ mỉa mai, như khi anh tiều phu bị cấm dùng chậu đi tiêu đi tiểu sau khi dính thuốc nhuận trường, đám tù nhạo anh: “Không có kỷ cương và phép tắc thì cách mạng sẽ không thành công”. Đôi khi Mao được trích dẫn nghiêm chỉnh. Một tay trùm xà lim có cảm tính với Liệu Diệc Vũ cảnh báo ông đừng kết bạn với một người khác cũng là trí thức: “Đừng có mà sách vở quá … Hãy nhớ lời dạy của Mao Chủ tịch về đấu tranh giai cấp – đừng bao giờ mất cảnh giác đối với kẻ thù giai cấp của anh”.


Ngoài suy nghĩ đượm chất Mao, chính hệ thống chính quyền kiểu Trung Quốc được sao chép bên trong nhà tù. Một phần là do cách tổ chức Đảng Leninist, nhưng phần lớn là do những tập quán truyền thống. Khi Liệu Diệc Vũ nhập trại ở Trung tâm Điều tra Tung Sơn, trùm xà lim của ông giải thích cơ chế vận hành xà lim. Hắn so sánh hệ thống tôn ti trong xà lim với Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương; ủy viên BCT và Quân ủy đứng trên dân thường. Họ muốn làm gì cũng được. Nhưng, để duy trì trật tự, họ phải áp đặt tính đoàn kết tuyệt đối trong xà lim. Dấu hiệu phản loạn đầu tiên sẽ bị bóp nát không thương tiếc. Tuy nhiên, phản ánh hàng trăm năm theo Khổng giáo, trùm xà lim nói giới cai trị không thể quá tàn nhẫn: “Chúng ta cần để những người dưới quyền chúng ta có cảm giác chúng ta là cha mẹ của họ”. Khi Liệu Diệc Vũ phản đối, trích lời Mao Chủ tịch nói rằng nhân dân là cha mẹ của Đảng, trùm xà lim tỏ vẻ hiểu rõ hơn về thực tế Trung Quốc: “Tào lao! Nếu một tên trộm ở đây muốn có một bữa ăn đường hoàng đủ no, chuyện đó do tao quyết định”.


Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi giới quản giáo cũng dựa các phương pháp của mình theo các tập quán phổ biến ở Cộng hòa Nhân dân. Chẳng hạn như việc sử dụng các chiến dịch chính trị. Tù nhân ở Trung tâm Điều tra bị ép buộc tham gia một chiến dịch hàng năm gọi là “Tự thú tội và đấu tố người khác”. Những cuộc mít-tinh chính thức được tổ chức trong sân trại, giống như dưới thời Mao, với các khẩu hiệu chính trị hô vang trời, và những bài phát biểu dài lê thê của những cán bộ công an và quản giáo. Tù nhân phải dành hàng giờ để viết lời tự thú và đấu tố. Các trùm xà lim được khuyến khích chọn những món hấp dẫn nhất trong thực đơn tra tấn cho những tù nhân bị xem là chưa đủ nhiệt tình tự thú hay đấu tố người khác.


Chiến thuật này cũng là một kết hợp hiểm độc giữa truyền thống và sáng tạo hiện đại. Tự thú theo lễ nghi xưa nay đã luôn là một phần trong công lý Khổng giáo. Việc bị buộc phải đấu tố người khác, tuy không phải là không có trong quá khứ, là một thủ đoạn tinh vi của chế độ toàn trị nhằm triệt tiêu lòng tin giữa người với người, để họ chỉ còn biết trung thành với Đảng. Liệu Diệc Vũ kể những chiến dịch tự thú và đấu tố quá ác nghiệt đến nỗi nhiều người chết do tra tấn. Song, khi tình hình có nguy cơ vượt quá tầm kiểm soát, cấp quản lý trại giam cho ngừng các màn xử tội, và đúng theo kiểu hành xử Maoist thường thấy, trở mặt đổ tội cho các thủ phạm bằng cách mở một chiến dịch khác, lần này gọi là “Xử lý những kẻ bắt nạt bạn tù”. Chính những kẻ trước đây được khuyến khích trấn áp những tù nhân ngoan cố nay lại bị đàn áp.


Nhưng, dĩ nhiên, Trung Quốc đã tiến tới kể từ sau mấy chục năm dưới chế độ kinh hoàng của Mao. Khi Liệu Diệc Vũ ở tù, Trung Quốc đã mở cửa làm ăn với thế giới tư bản hơn mười năm. Cải cách kinh tế bắt đầu vào đầu thập niên 1980 dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình. Năm 1992, Đặng Tiểu Bình kêu gọi tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nữa. Chính vì thế, theo lời của Liệu Diệc Vũ, “cán bộ quản giáo không để lỡ nhịp và nhanh chóng lợi dụng sức lao động miễn phí để tư lợi đầy túi”.


Lao động miễn phí là mỹ từ để chỉ nạn nô lệ. Mỗi tù nhân buộc phải đóng gói thuốc men ít nhất mười giờ mỗi ngày, trong khi tai phải nghe loa phóng thanh ra rả những lời hô hào chính trị – cách kết hợp thường thấy của Đảng Cộng sản Trung Quốc giữa áp bức ý thức hệ và bóc lột kinh tế. Liệu Diệc Vũ nhận xét rằng kiểu lao động chân tay lặp đi lặp lại này đã bị các nhà máy địa phương bãi bỏ. Nhưng giới quản giáo có thể kiếm bộn lợi nhuận nhờ ép buộc các nô lệ bị cầm tù hoàn thành chỉ tiêu tới ba ngàn gói mỗi ngày. Tù nhân nào tìm cách trốn hoặc phản đối chế độ nhà tù sẽ bị đánh đập hoặc tống vào ‘xà lim tối” chỉ đủ chỗ để bò vào rồi nằm bẹp xuống. Liệu Diệc Vũ viết: “Sau chừng một năm, da của kẻ ở xà lim tối trở nên nhợt nhạt, xương yếu đi, còn tóc trắng bệt. Da trong suốt đến nỗi ta thấy rõ những gân máu xanh”.


Liệu Diệc Vũ nhắc đến vài giây phút thư thái. Có nhiều ví dụ về lòng tốt của những trùm xà lim ưu ái ông, đôi khi nhờ là nhà thơ; lòng tôn trọng văn chương chưa chết ở Trung Quốc. Một thầy tu đạo Phật dạy ông thổi sáo. Và thảng hoặc, điều kiện sinh hoạt trong tù có khá lên đôi chút vì nước ngoài gây áp lực buộc Trung Quốc cải thiện về nhân quyền. Điều này có thể khiến những người trong chúng ta đã hết hy vọng gây ảnh hưởng từ bên ngoài đối với cách hành xử chính thức của Trung Quốc sẽ bớt hoài nghi hơn đôi chút.


Trong khi đó, Liệu Diệc Vũ cố gắng lưu giữ ký ức về những điều tai nghe mắt thấy trong tù bằng cách chép vội trong một cuốn Tam quốc chí. Ngày 31/1/1994, ông được trả tự do. Nhưng, theo ông kể, việc ra tù của ông chỉ là khởi đầu của một kiểu đọa đày khác, có lẽ còn cay đắng hơn theo cách riêng của nó. Người gây rối và người bất đồng hiếm khi được ưa chuộng ở các xã hội áp bức. Họ gây rắc rối cho người khác vì xúi giục trả đũa, và họ khiến đa số những người không chịu chống đối thấy bất an về thái độ phục tùng của mình. Liệu Diệc Vũ ghét về quê ăn tết và vào các dịp lễ lạt gia đình khác, vì ông biết mình sẽ bị chỉ trích. Vợ ông quyết định ly dị ông – có lẽ cũng chẳng đáng ngạc nhiên, vì Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ tự nhận là một người chồng tận tụy. Tệ hơn nữa là ông bị chính bạn cũ ruồng bỏ. Sau bốn năm ở tù, ông viết, “tôi chẳng khác nào một đống cứt chó dưới mắt những bạn văn của tôi”. Sự ruồng bỏ này có thể thể hiện một kiểu nhẫn tâm đặc thù Trung Quốc, nhưng thực ra chủ yếu là do cách quản lý Trung Quốc hiện nay. Sau cuộc dấy loạn bất thành năm 1989, chính quyền cộng sản đã có một thỏa thuận khôn khéo với các giới có học: nếu những người thuộc thành phần ưu tú ở thành thị tránh xa chính trị, họ sẽ được tự do mở mang trí tuệ cho chính mình. Liệu Diệc Vũ viết: “Cả nước ta đột nhiên mải mê kiếm tiền, đó chính là axít ăn mòn làm hòa tan chính kiến bất đồng. Cũng chính những người từng can đảm tuần hành trên đường phố đòi dân chủ nay lại hóa ra “phi chính trị” trong thời đại hiện nay khi ai cũng chạy theo vật chất tiền tài – theo kiểu cộng sản”. Nhiều bạn văn nghệ đồng chí hướng với ông đã trở thành doanh nhân.


Trong những hoàn cảnh như vậy, thiên hướng thông thường khiến con người lảng tránh kẻ gây rối càng được củng cố bởi cái ý thức không kiềm nén được về việc đã chấp nhận một thỏa thuận đê hèn. Cũng giống như trong thực tế thường xảy ra với những người sống trong chế độ độc tài, các độc giả hăng hái nhất của Liệu Diệc Vũ là các cán bộ ăn lương để kiểm duyệt ngôn từ của ông. Buộc phải chấp nhận kiếp sống của một kẻ lang thang có học, đôi khi thổi sáo ngoài đường để kiếm sống, và sợ bị tống giam trở lại, Liệu Diệc Vũ xoay xở vượt biên sang Việt Nam, rồi từ đó ông tìm đường sang Đức, nơi ông sinh sống hiện nay. Và thế là chính nhà thơ Trung Quốc đầy tài năng này trình diễn những buổi ngâm thơ tưởng niệm của ông để mua vui cho khán giả ở Berlin và New York – một “người bất đồng” kỳ lạ ở nước ngoài, tiếng nói của ông được nghe ở khắp nơi ngoại trừ nơi nó cần được nghe nhất.


Nguồn: Ian Buruma, Prison of the Mind, The New Yorker, 1/7/2013


Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra


______________


Liệu Diệc Vũ bị cầm tù từ năm 1990 đến 1994 sau khi sáng tác bài thơ Thảm sát để tưởng niệm những người biểu tình đòi dân chủ. Minh họa của Peter và Maria Hoey.




[i] Bản dịch tiếng Việt có nhan đề Nền dân trị Mỹ. Trả lời phỏng vấn của Ban Việt ngữ Đài VOA, dịch giả Phạm Toàn cho biết ông và Nhà xuất bản Tri Thức chủ động đổi nhan đề vì hiểu tâm lý chính quyền Việt Nam dị ứng với từ “dân chủ”.




[ii] Sự kiện Thiên An Môn




[iii] Bản dịch tiếng Việt của Trịnh Y Thư

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 15, 2013 04:12

Ngục tù của trí tuệ


Phạm Vũ Lửa Hạ dịch


Ở TÙ xứ nào cũng khổ, nhưng mỗi xã hội có những cách hành xử văn hóa riêng để đày đọa người tù. Óc tưởng tượng tàn ác của giới cai tù Trung Quốc tuy không phải là độc nhất vô nhị, nhưng thường rất khác thường. Mà chính các tù nhân, những người tự phân chia đẳng cấp và lập nên nhà tù trong nhà tù, cũng có óc tưởng tượng khác thường.


Ví dụ, ở Trung tâm Điều tra thuộc Sở Công An Thành phố Trùng Khánh, còn gọi là Trung tâm Điều tra Tung Sơn, những tay trùm xà lim sáng chế một thực đơn gồm các món tra tấn quái dị. Thử điểm qua vài món:


Vịt hun khói kiểu Tứ Xuyên: Kẻ tra tấn đốt lông hạ bộ của tù nhân, tụt da quy đầu rồi dùng lửa đốt đen đầu dương vật.


Hoặc:


Mì nước trong : Những dải giấy vệ sinh được nhúng trong một bát nước tiểu, rồi tù nhân bị buộc ăn giấy vệ sinh và uống nước tiểu.


Hoặc:


Canh mai rùa và da heo: Kẻ tra tấn đánh hai đầu gối của tù nhân cho đến khi chúng thâm tím và sưng lên như mai rùa. Hết đi nổi.


[image error]Còn nhiều trò tra tấn khác nữa, được ban phát tùy theo tài ứng biến của kẻ thực hiện. Trong hồi ký lao tù lạ thường có nhan đề “Vì một bài hát và một trăm bài hát” (For a Song and a Hundred Songs, do Hoàng Văn Quảng dịch từ tiếng Trung, nhà xuất bản New Harvest), Liệu Diệc Vũ kể chuyện một tiều phu bị tâm thần phân liệt đã chặt chính vợ mình vì cô ta hốc hác đến nỗi anh tưởng lầm cô là một bó củi. Trùm xà lim pha thuốc nhuận trường vào nước súp của anh, rồi không cho anh dùng chậu đi tiêu đi tiểu chung, thế là anh chàng buồn đi cầu đến tuyệt vọng đành ỉa vấy lên khắp người một bạn tù. Vì cái tội đáng kinh tởm này, anh bị đập mặt vào bồn nước. Rồi đến lượt bọn quản giáo vì tưởng anh muốn tự tử, một trọng tội trong tù, nên dùng dùi cui điện đánh anh nhừ tử.


Alexis de Tocqueville đến Mỹ vào năm 1831 để nghiên cứu hệ thống nhà tù của nước Mỹ, nhưng rốt cuộc viết nên tác phẩm Dân chủ ở Mỹ (Democracy in America).[i] Quan sát hệ thống nhà tù Trung Quốc từ bên trong, với tư cách là một “tù nhân phản cách mạng” từ năm 1990 đến 1994, Liệu Diệc Vũ kể cho chúng ta biết rất nhiều về xã hội Trung Quốc, cả truyền thống lẫn cộng sản, trong đó có tác động của kiểu tuyên truyền cách mạng khoa trương, đấu tố vì bị ép buộc và thú tội công khai, và, khi thời thế thay đổi kể từ sau thời kỳ cai trị sai lầm của Mao Trạch Đông, áp dụng chủ nghĩa tư bản dưới những hình thức đồi bại. Ông kết thúc câu chuyện của mình bằng nhận xét “Trung Quốc vẫn còn là một nhà tù của trí tuệ: thịnh vượng nhưng không có tự do”.


LIỆU DIỆC VŨ bị tống giam vì sáng tác Thảm sát – một bài thơ theo phong cách dòng-ý-thức (stream-of-consciousness) tưởng niệm hàng ngàn người bị sát hại vào ngày 4/6/1989,[ii] khi phong trào đòi dân chủ bị đàn áp trên toàn Trung Quốc. Bài thơ (theo bản dịch tiếng Anh của Michael Day) mở đầu như sau:


Lại thêm một kiểu thảm sát diễn ra ở trung tâm xứ hoang tưởng

Thủ tướng cảm lạnh, nhân dân phải ho theo;

thiết quân luật ban bố bao lần.

Cỗ máy không răng của nhà nước cán lên những người can đảm không chịu bệnh theo.


Liệu Diệc Vũ không phải là nhà hoạt động chính trị, hay nói đúng hơn, một người bất đồng chính kiến, và sự phản kháng của ông mang tính tự phát. Ông không quan tâm lắm đến chính trị, ngay cả trong những năm 1980 khi mà nhiều thanh niên Trung Quốc chẳng nghĩ đến gì khác ngoài chính trị. Ông có cuộc sống khá phóng đãng, lang bạt kỳ hồ như một “kẻ đạo đức giả ăn mặc bảnh bao, một nhà thơ tự khắc họa mình là một tấm gương mẫu mực nhưng đồng thời lại hít thở bằng đàn bà như tôi đang hít thở bằng không khí, tìm chỗ trú ẩn và hơi ấm trong thú ăn nằm lang chạ”.


Cũng như nhiều người Trung Quốc lớn lên trong thời Cách mạng Văn hóa, Liệu Diệc Vũ coi như tự học văn chương, tuy ông được cha là thầy giáo truyền thụ nền tảng căn bản về Tứ Thư Ngũ Kinh. Rải rác trong hồi ký của ông, ta bắt gặp tên những tác giả phương Tây – Orwell, Kundera, Proust – một số tác phẩm của họ thậm chí lọt qua được những bức tường nhà tù ở Trùng Khánh. Trong số đó, đáng chú ý là có cả cuốn Một chín tám tư của Orwell. Liệu Diệc Vũ viết: “Trên trang sách là một nhà tù tưởng tượng, còn xung quanh tôi là nhà tù thật”.


Khác với người bạn Lưu Hiểu Ba, nhà phê bình được Giải Nobel và là một tác giả có chính kiến mãnh liệt, Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ muốn liều lĩnh chấp nhận rủi ro. Ông mô tả mình là một nghệ sĩ chỉ muốn được tự do viết theo ý thích của mình. Mới hồi năm 2011, ông nói với nhà báo Ian Johnson: “Tôi không muốn phạm luật của họ. Tôi không quan tâm đến họ và mong muốn họ chẳng quan tâm đến tôi”. Nhưng, năm 1989, ông tự đẩy mình “vào con đường tự hủy diệt” khi đến các tửu quán và hội quán khiêu vũ để ngâm bài thơ của mình bằng giọng than khóc theo lối cầu siêu truyền thống của Trung Quốc. Một băng thu âm bài thơ này được lén lút phát tán, và một nhóm nghệ sĩ và bạn bè đồng cảm đã làm một bộ phim mang tên Lễ cầu hồn (Requiem) quay những cảnh ông ngâm bài thơ này. Theo Liệu Diệc Vũ, không một ai trong số đó có thể được liệt vào hạng “kẻ bất đồng” hay “nhà tranh đấu dân chủ”. Nhưng tất cả đều bị bắt, tác phẩm của họ bị tịch thu, và nhờ đó “Sở Công An triệt hạ một cộng đồng văn chương bí mật hoạt động mạnh ở Tứ Xuyên”.


Thời gian ở tù cũng không biến Liệu Diệc Vũ thành một nhà hoạt động chính trị. Có lúc một người cũng thuộc phong trào Bát Cửu (89) muốn khởi xướng một tổ chức gồm các tù nhân chính trị đã tiếp xúc với ông. Liệu Diệc Vũ không chịu tham gia, và giải thích lý do tại sao ban đầu ông viết bài thơ Thảm sát. Ông nói ông “buộc phải phản kháng” vì “ý thức hệ nhà nước mâu thuẫn dữ dội với quyền tự do diễn đạt của nhà thơ”. Trong hồi ký, ông kể rằng đối với chuyện này, “ông không hề có ý định làm anh hùng, nhưng ở một đất nước mà sự điên rồ ngự trị, tôi phải có lập trường. Thảm sát là tác phẩm nghệ thuật của tôi, và tác phẩm nghệ thuật của tôi là cách phản kháng của tôi”.


Nhiều nhà bất đồng nổi tiếng đã viết khá sinh động về kiếp lao tù của họ. Lòng can đảm để đứng một mình của Ngụy Kinh Sinh kể chuyện 18 năm ông ở tù sau khi ông lãnh đạo phong trào Bức tường Dân chủ trong những năm 1970. Những ngọn gió rét của Ngô Hoằng Đạt (Harry Wu) mô tả kiếp đọa đày của ông ở những trại lao động cưỡng bức trong thập niên 1960 và 1970. Những câu chuyện quả cảm của họ chuyển tải một thông điệp chính trị mạnh mẽ về việc đứng lên chống lại chế độ độc tài. Liệu Diệc Vũ là một văn nhân, và nhờ đó hồi ký ở tù của ông càng có sức thuyết phục hơn. Trước hết, ông thành thực đến tàn nhẫn về các nhược điểm và nỗi sợ của mình. Ông chẳng có gì đặc biệt anh hùng cả. Nhìn bọn quản giáo tập dượt chiến đấu trong ngày đầu tiên ở tù, ông “rùng mình như một con chuột nơm nớp lo sợ”. Buộc phải hát đi hát lại nhiều bài với cổ họng khô rát trong trời lạnh cóng người để mua vui cho bọn quản giáo, ông bị đánh bằng dùi cui điện. Khi không thể hát tiếp được nữa, ông bị lột hết áo quần và quật ngã xuống đất: “Tôi có thể cảm nhận được cái dùi cui trên hậu môn của mình, nhưng tôi không chịu đầu hàng. Đầu dùi cui đi vào người tôi. Tôi hét lên rồi rên khóc như một con chó”. Liệu Diệc Vũ đã hai lần tìm cách tự vẫn, một lần bằng cách đập đầu vào tường. Chuyện này khiến những tù nhân cùng xà lim chế nhạo ông; họ tố ông đóng kịch, cho rằng đó là trò tiêu biểu của một nhà thơ mọt sách. Nếu thực sự đã muốn vỡ sọ, lẽ ra ông nên đập đầu vào gờ tường.


Liệu Diệc Vũ mô tả rất tỉ mỉ tâm trạng của kẻ lúc nào cũng sợ hãi, phải sống trong một xà lim chật chội với quá nhiều người khác đến nỗi chẳng có chỗ nằm, đói ăn và thiếu tình dục. Có tù nhân đói lả bắt được một con chuột bèn lột da khi nó đang còn sống rồi ăn tươi. Có người vục mặt vào xô đồ ăn thừa mà ngoạm đầy miệng. Sinh hoạt tình dục vẫn diễn ra, nhưng theo kiểu đê tiện. Một tù nhân suýt đốt trụi giường vì thủ dâm với một cái bật lửa khi bật lên thì hiện ra hình ảnh một phụ nữ khỏa thân. Có người chỉ cần thấy một ngôi sao phim sến trên truyền hình là không nhịn được lòng thèm muốn nhục dục. Liệu Diệc Vũ chứng kiến đám tù nhân bu quanh cửa sổ, tay trùm xà lim được đôn lên vai những kẻ nô lệ của mình, khi cả đám thủ dâm trong lúc cố nhìn cho được một người đàn bà bên ngoài. Một anh tù nhân trẻ bị trùm xà lim hãm hiếp, đem lòng yêu hắn, rồi bị ruồng bỏ bằng một cái tát vào mặt khi tay trùm bị bất lực.


MỘT trong những lý do không mấy đáng khoe khiến ta đọc các hồi ký lao tù như cuốn này với cảm giác thích thú pha lẫn khiếp đảm là nỗi thống khổ của kẻ khác lại có thể có sức hấp dẫn khiêu dâm ghê gớm. Nhưng tác phẩm của Liệu Diệc Vũ hết sức lôi cuốn chính nhờ tài quan sát của ông. Tuy bản thân cũng chịu đau khổ, ông luôn tò mò về những người khác, về tính cách của họ, về những câu chuyện của họ, và về cách họ đối phó với bao nỗi kinh hoàng của đời sống ngục tù. Những lần tiếp xúc của ông với các tù nhân khác được khéo léo biến thành các truyện ngắn. Vì một số tù nhân này đang chịu án tử hình, truyện thường bàn chuyện đối mặt với cái chết cận kề. Một tay buôn lậu ma túy có biệt danh Tử Thường muốn mượn tập sách bản đồ của Liệu Diệc Vũ để chuẩn bị cho kiếp sau làm con ma lang thang. Tử Thường đã lạc lối quá nhiều lần ở kiếp này, và muốn tới thăm những nơi hắn thích lai vãng sau khi hắn bị kết liễu bằng một viên đạn vào cổ. Nghe kẻ tử tù này nói họ có thể gặp lại nhau ở kiếp sau, Liệu Diệc Vũ thấy “tứ chi tôi run rẩy”. Tử Thường hỏi ông có sao không, rồi “bật ra tiếng cười quái gở. Vết nhăn hằn sâu giữa hai chân mày của hắn cứ như mở toang hoác giống cái miệng chực nuốt chửng tôi”.


Một số trong những tù nhân này được khắc họa trong một cuốn sách khác của Liệu Diệc Vũ, được xuất bản ở Đài Loan với nhan đề Phỏng vấn những người ở dưới đáy xã hội (Interviews with People from the Bottom Rungs of Society, 中国底层访谈录, 2001), và ở Mỹ với nhan đề Người vác thi thể (The Corpse Walker, 2008). Trong đó có truyện về một nông dân mù chữ tuyên bố làng quê của mình là một nền quân chủ độc lập, tự phong mình làm hoàng đế. Vì hành động lật đổ phản cách mạng này, ông bị tù chung thân. Liệu Diệc Vũ thấy “hoàng đế nông dân” lý thú ở chỗ các ảo tưởng của ông bắt nguồn từ Tứ Thư Ngũ Kinh. Một trong những tuyên bố của ông là dải băng vàng mang niên hiệu của ông được tìm thấy trong một con cá. Khi Liệu Diệc Vũ chỉ ra rằng cái mẹo này đã được một nông dân phiến loạn sử dụng hai ngàn năm trước để phỉnh dụ thiên hạ theo ông, vị hoàng đế nông dân bảo ông câm mồm: “Ngươi quả là thất lễ vì dám nói với Trẫm như vậy. Trẫm biết ngươi là ký giả giả trang do vương quốc Trung Hoa thù địch phái tới đây. Ngươi đã âm mưu cấu kết với bọn cán bộ quản giáo để lừa Trẫm cung cấp bằng chứng kết tội”.


Văn học có thể dùng làm lối thoát, như khi Liệu Diệc Vũ thả mình dạt theo những ký ức về Trăm năm cô đơn của Gabriel García Márquez. Ông thấy mình đặc biệt giống một nhân vật trong tiểu thuyết này: đó là Đại tá Buendia, mất trí sau khi bị cột vào một cây dẻ trong nhiều năm. Giống như Đại tá, Liệu Diệc Vũ rút lui vào trong tâm trí của mình. Những lúc khác, các tác phẩm văn học minh họa các khía cạnh sơ khai nhất của kiếp tù. Liệu Diệc Vũ nhớ trong Đời nhẹ khôn kham (The Unbearable Lightness of Being),[iii] Milan Kundera định nghĩa cái kitsch toàn trị (totalitarian kitsch) là “sự hoàn toàn phủ nhận cứt”. Liệu Diệc Vũ viết rằng ông không thể nâng phân người lên một tầng ẩn dụ cao hơn: “Trong cuốn hồi ký tầm thường này của tôi, cứt là cứt. Tôi cứ nhắc mãi đến cứt vì tôi suýt chết đuối trong cứt”. Thực tế quả gần đúng như vậy; là ma mới trong xà lim, hoặc nếu không còn được lòng một trong những tay trùm xà lim, ông thường phải ngủ kề mặt bên chậu đi tiêu đi tiểu.


Song, ông không nhịn được cách nhìn ẩn dụ về cứt, như trong nhận xét ông đang sống “trong một chuồng heo đầy cứt gọi là Trung Quốc”. Bệnh tật cũng được nâng lên thành một ẩn dụ. “Nếu Trung Quốc là một bệnh nhân bị ung thư ruột, thành phố Trùng Khánh là điểm cuối bẩn thỉu của khúc ruột đó, cái hậu môn bệnh hoạn”. Trong sách, nhà tù thường được mô tả là một nhà tù bên trong một nhà tù khổng lồ của một xã hội Trung Quốc bệnh hoạn, một tấm gương lố bịch của các thể chế chính trị và sự khoa trương khoác lác của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.


NGÔN NGỮ của chủ nghĩa Mao, nay gần như đã thấm nhuần vào đời sống Trung Quốc như các giáo điều Khổng giáo đã từng ăn sâu, thường được dùng theo lối tương tự, cứ liên tục bật ra giữa các cuộc trò chuyện trong tù. Tù nhân thường nhại các phát biểu của Mao với vẻ mỉa mai, như khi anh tiều phu bị cấm dùng chậu đi tiêu đi tiểu sau khi dính thuốc nhuận trường, đám tù nhạo anh: “Không có kỷ cương và phép tắc thì cách mạng sẽ không thành công”. Đôi khi Mao được trích dẫn nghiêm chỉnh. Một tay trùm xà lim có cảm tính với Liệu Diệc Vũ cảnh báo ông đừng kết bạn với một người khác cũng là trí thức: “Đừng có mà sách vở quá … Hãy nhớ lời dạy của Mao Chủ tịch về đấu tranh giai cấp – đừng bao giờ mất cảnh giác đối với kẻ thù giai cấp của anh”.


Ngoài suy nghĩ đượm chất Mao, chính hệ thống chính quyền kiểu Trung Quốc được sao chép bên trong nhà tù. Một phần là do cách tổ chức Đảng Leninist, nhưng phần lớn là do những tập quán truyền thống. Khi Liệu Diệc Vũ nhập trại ở Trung tâm Điều tra Tung Sơn, trùm xà lim của ông giải thích cơ chế vận hành xà lim. Hắn so sánh hệ thống tôn ti trong xà lim với Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương; ủy viên BCT và Quân ủy đứng trên dân thường. Họ muốn làm gì cũng được. Nhưng, để duy trì trật tự, họ phải áp đặt tính đoàn kết tuyệt đối trong xà lim. Dấu hiệu phản loạn đầu tiên sẽ bị bóp nát không thương tiếc. Tuy nhiên, phản ánh hàng trăm năm theo Khổng giáo, trùm xà lim nói giới cai trị không thể quá tàn nhẫn: “Chúng ta cần để những người dưới quyền chúng ta có cảm giác chúng ta là cha mẹ của họ”. Khi Liệu Diệc Vũ phản đối, trích lời Mao Chủ tịch nói rằng nhân dân là cha mẹ của Đảng, trùm xà lim tỏ vẻ hiểu rõ hơn về thực tế Trung Quốc: “Tào lao! Nếu một tên trộm ở đây muốn có một bữa ăn đường hoàng đủ no, chuyện đó do tao quyết định”.


Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi giới quản giáo cũng dựa các phương pháp của mình theo các tập quán phổ biến ở Cộng hòa Nhân dân. Chẳng hạn như việc sử dụng các chiến dịch chính trị. Tù nhân ở Trung tâm Điều tra bị ép buộc tham gia một chiến dịch hàng năm gọi là “Tự thú tội và đấu tố người khác”. Những cuộc mít-tinh chính thức được tổ chức trong sân trại, giống như dưới thời Mao, với các khẩu hiệu chính trị hô vang trời, và những bài phát biểu dài lê thê của những cán bộ công an và quản giáo. Tù nhân phải dành hàng giờ để viết lời tự thú và đấu tố. Các trùm xà lim được khuyến khích chọn những món hấp dẫn nhất trong thực đơn tra tấn cho những tù nhân bị xem là chưa đủ nhiệt tình tự thú hay đấu tố người khác.


Chiến thuật này cũng là một kết hợp hiểm độc giữa truyền thống và sáng tạo hiện đại. Tự thú theo lễ nghi xưa nay đã luôn là một phần trong công lý Khổng giáo. Việc bị buộc phải đấu tố người khác, tuy không phải là không có trong quá khứ, là một thủ đoạn tinh vi của chế độ toàn trị nhằm triệt tiêu lòng tin giữa người với người, để họ chỉ còn biết trung thành với Đảng. Liệu Diệc Vũ kể những chiến dịch tự thú và đấu tố quá ác nghiệt đến nỗi nhiều người chết do tra tấn. Song, khi tình hình có nguy cơ vượt quá tầm kiểm soát, cấp quản lý trại giam cho ngừng các màn xử tội, và đúng theo kiểu hành xử Maoist thường thấy, trở mặt đổ tội cho các thủ phạm bằng cách mở một chiến dịch khác, lần này gọi là “Xử lý những kẻ bắt nạt bạn tù”. Chính những kẻ trước đây được khuyến khích trấn áp những tù nhân ngoan cố nay lại bị đàn áp.


Nhưng, dĩ nhiên, Trung Quốc đã tiến tới kể từ sau mấy chục năm dưới chế độ kinh hoàng của Mao. Khi Liệu Diệc Vũ ở tù, Trung Quốc đã mở cửa làm ăn với thế giới tư bản hơn mười năm. Cải cách kinh tế bắt đầu vào đầu thập niên 1980 dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình. Năm 1992, Đặng Tiểu Bình kêu gọi tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nữa. Chính vì thế, theo lời của Liệu Diệc Vũ, “cán bộ quản giáo không để lỡ nhịp và nhanh chóng lợi dụng sức lao động miễn phí để tư lợi đầy túi”.


Lao động miễn phí là mỹ từ để chỉ nạn nô lệ. Mỗi tù nhân buộc phải đóng gói thuốc men ít nhất mười giờ mỗi ngày, trong khi tai phải nghe loa phóng thanh ra rả những lời hô hào chính trị – cách kết hợp thường thấy của Đảng Cộng sản Trung Quốc giữa áp bức ý thức hệ và bóc lột kinh tế. Liệu Diệc Vũ nhận xét rằng kiểu lao động chân tay lặp đi lặp lại này đã bị các nhà máy địa phương bãi bỏ. Nhưng giới quản giáo có thể kiếm bộn lợi nhuận nhờ ép buộc các nô lệ bị cầm tù hoàn thành chỉ tiêu tới ba ngàn gói mỗi ngày. Tù nhân nào tìm cách trốn hoặc phản đối chế độ nhà tù sẽ bị đánh đập hoặc tống vào ‘xà lim tối” chỉ đủ chỗ để bò vào rồi nằm bẹp xuống. Liệu Diệc Vũ viết: “Sau chừng một năm, da của kẻ ở xà lim tối trở nên nhợt nhạt, xương yếu đi, còn tóc trắng bệt. Da trong suốt đến nỗi ta thấy rõ những gân máu xanh”.


Liệu Diệc Vũ nhắc đến vài giây phút thư thái. Có nhiều ví dụ về lòng tốt của những trùm xà lim ưu ái ông, đôi khi nhờ là nhà thơ; lòng tôn trọng văn chương chưa chết ở Trung Quốc. Một thầy tu đạo Phật dạy ông thổi sáo. Và thảng hoặc, điều kiện sinh hoạt trong tù có khá lên đôi chút vì nước ngoài gây áp lực buộc Trung Quốc cải thiện về nhân quyền. Điều này có thể khiến những người trong chúng ta đã hết hy vọng gây ảnh hưởng từ bên ngoài đối với cách hành xử chính thức của Trung Quốc sẽ bớt hoài nghi hơn đôi chút.


Trong khi đó, Liệu Diệc Vũ cố gắng lưu giữ ký ức về những điều tai nghe mắt thấy trong tù bằng cách chép vội trong một cuốn Tam quốc chí. Ngày 31/1/1994, ông được trả tự do. Nhưng, theo ông kể, việc ra tù của ông chỉ là khởi đầu của một kiểu đọa đày khác, có lẽ còn cay đắng hơn theo cách riêng của nó. Người gây rối và người bất đồng hiếm khi được ưa chuộng ở các xã hội áp bức. Họ gây rắc rối cho người khác vì xúi giục trả đũa, và họ khiến đa số những người không chịu chống đối thấy bất an về thái độ phục tùng của mình. Liệu Diệc Vũ ghét về quê ăn tết và vào các dịp lễ lạt gia đình khác, vì ông biết mình sẽ bị chỉ trích. Vợ ông quyết định ly dị ông – có lẽ cũng chẳng đáng ngạc nhiên, vì Liệu Diệc Vũ chưa bao giờ tự nhận là một người chồng tận tụy. Tệ hơn nữa là ông bị chính bạn cũ ruồng bỏ. Sau bốn năm ở tù, ông viết, “tôi chẳng khác nào một đống cứt chó dưới mắt những bạn văn của tôi”. Sự ruồng bỏ này có thể thể hiện một kiểu nhẫn tâm đặc thù Trung Quốc, nhưng thực ra chủ yếu là do cách quản lý Trung Quốc hiện nay. Sau cuộc dấy loạn bất thành năm 1989, chính quyền cộng sản đã có một thỏa thuận khôn khéo với các giới có học: nếu những người thuộc thành phần ưu tú ở thành thị tránh xa chính trị, họ sẽ được tự do mở mang trí tuệ cho chính mình. Liệu Diệc Vũ viết: “Cả nước ta đột nhiên mải mê kiếm tiền, đó chính là axít ăn mòn làm hòa tan chính kiến bất đồng. Cũng chính những người từng can đảm tuần hành trên đường phố đòi dân chủ nay lại hóa ra “phi chính trị” trong thời đại hiện nay khi ai cũng chạy theo vật chất tiền tài – theo kiểu cộng sản”. Nhiều bạn văn nghệ đồng chí hướng với ông đã trở thành doanh nhân.


Trong những hoàn cảnh như vậy, thiên hướng thông thường khiến con người lảng tránh kẻ gây rối càng được củng cố bởi cái ý thức không kiềm nén được về việc đã chấp nhận một thỏa thuận đê hèn. Cũng giống như trong thực tế thường xảy ra với những người sống trong chế độ độc tài, các độc giả hăng hái nhất của Liệu Diệc Vũ là các cán bộ ăn lương để kiểm duyệt ngôn từ của ông. Buộc phải chấp nhận kiếp sống của một kẻ lang thang có học, đôi khi thổi sáo ngoài đường để kiếm sống, và sợ bị tống giam trở lại, Liệu Diệc Vũ xoay xở vượt biên sang Việt Nam, rồi từ đó ông tìm đường sang Đức, nơi ông sinh sống hiện nay. Và thế là chính nhà thơ Trung Quốc đầy tài năng này trình diễn những buổi ngâm thơ tưởng niệm của ông để mua vui cho khán giả ở Berlin và New York – một “người bất đồng” kỳ lạ ở nước ngoài, tiếng nói của ông được nghe ở khắp nơi ngoại trừ nơi nó cần được nghe nhất.


Nguồn: Ian Buruma, Prison of the Mind, The New Yorker, 1/7/2013


Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra


______________


[image error]Liệu Diệc Vũ bị cầm tù từ năm 1990 đến 1994 sau khi sáng tác bài thơ Thảm sát để tưởng niệm những người biểu tình đòi dân chủ. Minh họa của Peter và Maria Hoey.




[i] Bản dịch tiếng Việt có nhan đề Nền dân trị Mỹ. Trả lời phỏng vấn của Ban Việt ngữ Đài VOA, dịch giả Phạm Toàn cho biết ông và Nhà xuất bản Tri Thức chủ động đổi nhan đề vì hiểu tâm lý chính quyền Việt Nam dị ứng với từ “dân chủ”.




[ii] Sự kiện Thiên An Môn




[iii] Bản dịch tiếng Việt của Trịnh Y Thư

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 15, 2013 04:12

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.