Phạm Thị Hoài's Blog, page 38

June 17, 2013

Chỉ tiêu

Chỉ tiêu


Với tôi, cuộc nổi dậy ngày này tròn sáu mươi năm trước ở Cộng hòa Dân chá»§ Đức trước hết liên quan đến hai cái tên lừng lẫy trong văn học Đức: Bertolt Brecht và Walter Benjamin. Về người thứ nhất, tôi đã có lần viết trong bài “Vẫn còn một lời nói sau” (2009). Còn người thứ hai đã tá»± tá»­ năm 1940, trên đường chạy nạn Hitler. Song lịch sá»­ vốn không màng tiết kiệm chua chát đã khiến người ta phải nhớ đến ông, vì cái tên Benjamin nổi tiếng và cái tên Benjamin khét tiếng. Em trai ông, bác sÄ© Georg Benjamin chết trong trại tập trung Quốc xã năm 1942 nhưng vợ là bà Giáo sư Tiến sÄ© luật Hilde Benjamin trở thành người đứng đầu nền tư pháp Đông Đức. Trước khi ngồi ghế Bộ trưởng Tư pháp, bà chánh án tối cao được mệnh danh “Hilde sát máu” đã không phải xấu hổ với người thày Xô-viết cá»§a mình, ông công tố tối cao Andrey Vyshinsky trong các vụ án thanh trừng cá»§a Stalin những năm 30. Bà cần không đầy 4 năm để ra 2 bản án tá»­ hình, 15 bản án chung thân và 550 năm tù trong 13 vụ án chính trị mở đầu lịch sá»­ CHDC Đức.


Buối sáng ngày 17-6-1953, ông Ernst Jennrich, 42 tuổi, làm việc trong một hợp tác xã ở Magdeburg, đạp xe đến trụ sở hợp tác xã và ngạc nhiên thấy rất nhiều người tụ tập đình công ngoài đường. Không biết thế nào là đình công và chưa bao giờ tham gia một cuộc đình công, ông vội đạp xe đến xí nghiệp, nơi vợ ông làm việc, kể chuyện và hỏi ở đây có đình công không. Sau này trước tòa, câu hỏi ấy bị coi là kích động và xúi giục nổi loạn. Nghe loáng thoáng có bắn nhau ở nhà tù, ông rủ con trai đến xem thực hư thế nào. Khi hai cha con đến, lính canh nhà tù đã bị đám đông tước khí giới. Thấy một thiếu niên còn cầm khẩu cạc-bin của một người lính, ông giằng lấy để ngăn cậu bé dùng súng. Bị áp lực của đám đông, ông bắn hai phát chỉ thiên, đập gãy súng rồi về nhà khi xe tăng Liên Xô xuất hiện. Hai hôm sau ông bị bắt, vì tội kích động chống các cơ quan chính quyền dân chủ nhân dân, tuyên truyền cổ vũ cho chủ nghĩa phát-xít, đe dọa nền hòa bình của nhân dân Đức, kết hợp với tội cố ý giết người vì động cơ thấp hèn, hòng trợ giúp một hành vi tội phạm khác.


Phiên tòa ngày 25-8-1953 tại Magdeburg chỉ có thể kết án ông tù chung thân vì tội kích động bạo loạn chống chính quyền, vì không đủ chứng cứ quy cho ông tội giết một người lính canh tù, theo cáo trạng. Đến đây, bà Bộ trưởng Tư pháp, em dâu của tác gia Walter Benjamin mà tôi yêu mến, xuất hiện. Chính bà chỉ đạo cho Viện Công tố kháng nghị. Chỉ tiêu của nền tư pháp Đông Đức cho vụ bạo loạn này là 2 án tử hình. Sáu tuần sau, theo yêu cầu của Tòa án Tối cao, cũng hội đồng xét xử của Tòa án địa phương Magdeburg từng kết án Ernst Jennrich tù chung thân đã mở tiếp một phiên tòa kéo dài 15 phút, không có thêm một tình tiết mới nào, và tuyên án tử hình. Năm tháng sau, ông bị xử tử bằng máy chém.


Cần phải nói thêm là sau khi cuộc nổi dậy bị đập tan, Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên của CHDC Đức, ông Max Fechner, lên tiếng trên tờ báo của Đảng, tờ Nước Đức mới, bảo vệ quyền đình công của người lao động như chính luật pháp của CHDC Đức quy định và phản đối việc truy tố những người đã tham gia đình công . Ngay lập tức, ông bị quy là kẻ thù của Đảng và Nhà nước, tước mọi chức vụ, khai trừ khỏi Đảng và tống giam với bản án 8 năm tù không kể 2 năm tạm giam. Người kế nhiệm ông, không ai khác, là bà Hilde Benjamin. Thành tích của bà ở cương vị mới là 12000 người liên quan đến cuộc đình công ngày 17 tháng Sáu bị bắt giữ, 1600 người bị kết án, trong đó có 2 án tử hình, 3 án chung thân, 13 án tù 10-15 năm, 99 án tù 5-10 năm, 824 án tù 1-5 năm, còn lại dưới 1 năm. Chỉ tiêu đã hoàn thành.


*


Bao nhiêu năm tháng tù cho những blogger Việt Nam vừa bị bắt trong những ngày qua – Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Đinh Nhật Uy – và bao nhiêu nữa thì đủ chỉ tiêu cá»§a nền tư pháp chuyên chính vô sản Việt Nam, tôi không biết. Chi tiết cuối cùng tôi muốn kể về vụ án Ernst Jennrich tròn 60 năm trước cÅ©ng trong một đất nước chuyên chính vô sản là đơn từ chức cá»§a một hội thẩm nhân dân. Ngày 6-10-1953, ông Fritz Ringenberg, hội thẩm tại Tòa Hình sá»± I b Huyện Magdeburg gá»­i đơn sau đây đến tòa:


Trong cuộc họp và biểu quyết cá»§a Tòa Hình sá»± hôm nay về quyết định cá»§a Tòa án Tối cao nước CHDC Đức ngày 8-9-1953 đề nghị kết án tá»­ hình bị cáo Ernst Jennrich, tôi không thể bỏ phiếu tán thành, vì lương tâm không cho phép tôi định đoạt mạng sống cá»§a một con người, nhất là khi lời khai cá»§a các nhân chứng theo tôi là có những mâu thuẫn đáng kể và bản thân bị cáo cho đến ngày hôm nay hoàn toàn không thừa nhận hành vi tội phạm.”


Hành động ấy thật là lẻ loi, vô ích, dại dột hay thậm chí là ngu ngốc, theo cách nhìn cá»§a đám đông đương thời, song phải nghiêm túc sống với lương tâm cá»§a mình tới mức nào người ta mới đủ sức quyết định như vậy, dưới thời một “Hilde sát máu”.


Một năm sau ngày nước Đức thống nhất, Tòa án Halle khôi phục vụ án và xử Ersnt Jennrich trắng án. Vụ án của ông được dựng thành kịch và bia tưởng niệm ông đặt ở Magdeburg. Bà Hilde Benjamin không chứng kiến bước ngoặt này của lịch sử. Hưởng mọi vinh quang và phần thưởng danh giá nhất của CHDC Đức, bà mất tháng Tư năm 1989, thọ 87 tuổi. Bảy tháng sau Bức tường Berlin sụp đổ.


© 2013 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 17, 2013 06:28

Chỉ tiêu

Chỉ tiêu


Với tôi, cuộc nổi dậy ngày này tròn sáu mươi năm trước ở Cộng hòa Dân chủ Đức trước hết liên quan đến hai cái tên lừng lẫy trong văn học Đức: Bertolt Brecht và Walter Benjamin. Về người thứ nhất, tôi đã có lần viết trong bài “Vẫn còn một lời nói sau” (2009). Còn người thứ hai đã tự tử năm 1940, trên đường chạy nạn Hitler. Song lịch sử vốn không màng tiết kiệm chua chát đã khiến người ta phải nhớ đến ông, vì cái tên Benjamin nổi tiếng và cái tên Benjamin khét tiếng. Em trai ông, bác sĩ Georg Benjamin chết trong trại tập trung Quốc xã năm 1942 nhưng vợ là bà Giáo sư Tiến sĩ luật Hilde Benjamin trở thành người đứng đầu nền tư pháp Đông Đức. Trước khi ngồi ghế Bộ trưởng Tư pháp, bà chánh án tối cao được mệnh danh “Hilde sát máu” đã không phải xấu hổ với người thày Xô-viết của mình, ông công tố tối cao Andrey Vyshinsky trong các vụ án thanh trừng của Stalin những năm 30. Bà cần không đầy 4 năm để ra 2 bản án tử hình, 15 bản án chung thân và 550 năm tù trong 13 vụ án chính trị mở đầu lịch sử CHDC Đức.


Buối sáng ngày 17-6-1953, ông Ernst Jennrich, 42 tuổi, làm việc trong một hợp tác xã ở Magdeburg, đạp xe đến trụ sở hợp tác xã và ngạc nhiên thấy rất nhiều người tụ tập đình công ngoài đường. Không biết thế nào là đình công và chưa bao giờ tham gia một cuộc đình công, ông vội đạp xe đến xí nghiệp, nơi vợ ông làm việc, kể chuyện và hỏi ở đây có đình công không. Sau này trước tòa, câu hỏi ấy bị coi là kích động và xúi giục nổi loạn. Nghe loáng thoáng có bắn nhau ở nhà tù, ông rủ con trai đến xem thực hư thế nào. Khi hai cha con đến, lính canh nhà tù đã bị đám đông tước khí giới. Thấy một thiếu niên còn cầm khẩu cạc-bin của một người lính, ông giằng lấy để ngăn cậu bé dùng súng. Bị áp lực của đám đông, ông bắn hai phát chỉ thiên, đập gãy súng rồi về nhà khi xe tăng Liên Xô xuất hiện. Hai hôm sau ông bị bắt, vì tội kích động chống các cơ quan chính quyền dân chủ nhân dân, tuyên truyền cổ vũ cho chủ nghĩa phát-xít, đe dọa nền hòa bình của nhân dân Đức, kết hợp với tội cố ý giết người vì động cơ thấp hèn, hòng trợ giúp một hành vi tội phạm khác.


Phiên tòa ngày 25-8-1953 tại Magdeburg chỉ có thể kết án ông tù chung thân vì tội kích động bạo loạn chống chính quyền, vì không đủ chứng cứ quy cho ông tội giết một người lính canh tù, theo cáo trạng. Đến đây, bà Bộ trưởng Tư pháp, em dâu của tác gia Walter Benjamin mà tôi yêu mến, xuất hiện. Chính bà chỉ đạo cho Viện Công tố kháng nghị. Chỉ tiêu của nền tư pháp Đông Đức cho vụ bạo loạn này là 2 án tử hình. Sáu tuần sau, theo yêu cầu của Tòa án Tối cao, cũng hội đồng xét xử của Tòa án địa phương Magdeburg từng kết án Ernst Jennrich tù chung thân đã mở tiếp một phiên tòa kéo dài 15 phút, không có thêm một tình tiết mới nào, và tuyên án tử hình. Năm tháng sau, ông bị xử tử bằng máy chém.


Cần phải nói thêm là sau khi cuộc nổi dậy bị đập tan, Bộ trưởng Tư pháp đầu tiên của CHDC Đức, ông Max Fechner, lên tiếng trên tờ báo của Đảng, tờ Nước Đức mới, bảo vệ quyền đình công của người lao động như chính luật pháp của CHDC Đức quy định và phản đối việc truy tố những người đã tham gia đình công . Ngay lập tức, ông bị quy là kẻ thù của Đảng và Nhà nước, tước mọi chức vụ, khai trừ khỏi Đảng và tống giam với bản án 8 năm tù không kể 2 năm tạm giam. Người kế nhiệm ông, không ai khác, là bà Hilde Benjamin. Thành tích của bà ở cương vị mới là 12000 người liên quan đến cuộc đình công ngày 17 tháng Sáu bị bắt giữ, 1600 người bị kết án, trong đó có 2 án tử hình, 3 án chung thân, 13 án tù 10-15 năm, 99 án tù 5-10 năm, 824 án tù 1-5 năm, còn lại dưới 1 năm. Chỉ tiêu đã hoàn thành.


*


Bao nhiêu năm tháng tù cho những blogger Việt Nam vừa bị bắt trong những ngày qua – Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào, Đinh Nhật Uy – và bao nhiêu nữa thì đủ chỉ tiêu của nền tư pháp chuyên chính vô sản Việt Nam, tôi không biết. Chi tiết cuối cùng tôi muốn kể về vụ án Ernst Jennrich tròn 60 năm trước cũng trong một đất nước chuyên chính vô sản là đơn từ chức của một hội thẩm nhân dân. Ngày 6-10-1953, ông Fritz Ringenberg, hội thẩm tại Tòa Hình sự I b Huyện Magdeburg gửi đơn sau đây đến tòa:


Trong cuộc họp và biểu quyết của Tòa Hình sự hôm nay về quyết định của Tòa án Tối cao nước CHDC Đức ngày 8-9-1953 đề nghị kết án tử hình bị cáo Ernst Jennrich, tôi không thể bỏ phiếu tán thành, vì lương tâm không cho phép tôi định đoạt mạng sống của một con người, nhất là khi lời khai của các nhân chứng theo tôi là có những mâu thuẫn đáng kể và bản thân bị cáo cho đến ngày hôm nay hoàn toàn không thừa nhận hành vi tội phạm.”


Hành động ấy thật là lẻ loi, vô ích, dại dột hay thậm chí là ngu ngốc, theo cách nhìn của đám đông đương thời, song phải nghiêm túc sống với lương tâm của mình tới mức nào người ta mới đủ sức quyết định như vậy, dưới thời một “Hilde sát máu”.


Một năm sau ngày nước Đức thống nhất, Tòa án Halle khôi phục vụ án và xử Ersnt Jennrich trắng án. Vụ án của ông được dựng thành kịch và bia tưởng niệm ông đặt ở Magdeburg. Bà Hilde Benjamin không chứng kiến bước ngoặt này của lịch sử. Hưởng mọi vinh quang và phần thưởng danh giá nhất của CHDC Đức, bà mất tháng Tư năm 1989, thọ 87 tuổi. Bảy tháng sau Bức tường Berlin sụp đổ.


© 2013 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 17, 2013 06:28

June 11, 2013

Quét rác

Phạm Thị Hoài


Cho đến nay tôi chưa xóa một bình luận nào trên trang Facebook cá nhân, địa chỉ tương tác của blog pro&contra. Bây giờ tôi ân hận về sự dễ dãi đó. Ngôi nhà của tôi vẫn tiếp tục rộng mở cho bất kì ai muốn ghé thăm, song kể từ nay tôi sẽ mời tất cả những phát ngôn rác rưởi về với nhau trong đặc khu của chúng: thùng rác.


Khả năng sống chung với rác ở mỗi người tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Về phần mình, tại thời điểm này của cuộc đời, tuy sức chịu đựng vẫn còn đủ mạnh nhưng tôi không thấy có một lí do nào để mình phải kiên nhẫn hơn với những độc giả rác. Tôi tuyệt đối không có nhu cầu được họ quan tâm và càng không có nhu cầu biết họ nghĩ gì, nghe họ nói gì, dù chỉ về thời tiết.


Họ là ai, tôi thường không rõ. Phần lớn họ tự khai báo sự hèn nhát của mình qua một căn cước chế biến, ít nhiều nặc danh, và rất tiếc phần lớn họ là nam giới. Hãy tin tôi, tôi biết đọc ra giọng một người đàn ông hay một người đàn bà.


Giọt nước làm tràn chiếc li kiên nhẫn của tôi là những phát ngôn hạ cấp của họ về sự kiện ông Phạm Hồng Sơn bắt đầu đồng hành tuyệt thực với người tù chính trị Cù Huy Hà Vũ.


Tuyệt thá»±c là lấy chính mình ra làm vÅ© khí phản kháng. Những người quyết định đi đến cùng cuộc phản kháng ấy, khi không còn một vÅ© khí nào khác, là những nhân cách đặc biệt mà lòng dÅ©ng cảm và kiên định khiến cả kẻ thù cá»§a họ cÅ©ng phải khâm phục [1]. Song phần lớn các cuộc tuyệt thá»±c, đặc biệt là tuyệt thá»±c tập thể, hiện nay thường được tiến hành trong một khuôn khổ định trước, có lịch trình rõ ràng. Ở các nước phương Tây, ban tổ chức một cuộc tuyệt thá»±c như thế còn có trách nhiệm bố trí bác sÄ© và chuyên gia tâm lí đi kèm. Quan niệm tuyệt thá»±c như một sá»± đánh đổi tính mạng cho lí tưởng và mục đích đã nhường chỗ cho quan niệm về tuyệt thá»±c như một hình thức phản kháng bất bạo động quyết liệt hÆ¡n, cá»±c đoan hÆ¡n, khó khăn hÆ¡n, nguy hiểm hÆ¡n nhưng có thể có hiệu quả truyền thông hÆ¡n và gây tác động mạnh hÆ¡n những hình thức khác, chẳng hạn đình công hay diễu hành, biểu tình. Bảy ngày là giới hạn thường được chọn cho tuyệt thá»±c “ướt” – tức không ăn, chỉ uống nước – vì đạt được nó không dễ dàng, mà vượt quá nó thì những hậu quả lâu dài cho sức khỏe có thể không kiểm soát được. Tuyệt thá»±c “khô” – tức cá»± tuyệt cả nước uống – như ông Mikhail Khodorkovsky trong một nhà tù ở Moskva, chỉ sau hai ngày cÆ¡ thể có thể hoàn toàn suy sụp.


Đã nhiều lần trong thời gian vừa qua, một số bạn bè và tôi thảo luận – đôi khi rất gay gắt và không hoàn toàn đồng thuận –  về sá»± cần thiết và tính khả thi cá»§a tuyệt thá»±c như một hình thức á»§ng hộ các tù nhân chính trị và phản đối chính sách trấn áp cá»§a chính quyền Việt Nam. Rất nhiều ví dụ, không chỉ ở các quốc gia toàn trị, cung cấp những bài học bổ ích và cả những câu hỏi không dễ tranh luận thấu đáo: cuộc tuyệt thá»±c tập thể năm 2010 cá»§a 5 tù nhân chính trị Cuba sau cái chết vì tuyệt thá»±c cá»§a một tù nhân chính trị là Orlando Zapata; cuộc tuyệt thá»±c thành công, kéo dài 4 tuần, tháng Tư năm nay cá»§a 60 thành viên tổ chức dân chá»§ Unión Patriótica de Cuba đòi thả nhà bất đồng chính kiến Lozada Igarza; cuộc tuyệt thá»±c kéo dài 1 tuần cá»§a hÆ¡n 500 tù nhân thuộc 39 nhà tù tại Đức năm 2008 cùng những người đồng hành tuyệt thá»±c với họ tại Thụy SÄ©, Bỉ và Hà Lan; cuộc tuyệt thá»±c kéo dài 9 ngày cá»§a 12 tù nhân chính trị tại Iran năm 2011 sau cái chết vì tuyệt thá»±c cá»§a nhà báo và nhà hoạt động chính trị Hoda Saber; những cuộc tuyệt thá»±c tập thể không dứt tại nhà tù Guantanamo, từ thời Bush đến thời Obama…


Tôi, người viết bài cho blog bằng một chiếc computer không bao giờ bị lục soát, tại một căn hộ không bao giờ bị khám xét, cách xa Việt Nam hơn vạn dặm và không nhịn đói nổi một ngày, đã lấy bao nhiêu lí lẽ thông minh để ngăn bạn tôi không thực hiện hành động này, trong một sự kiện khác. Nay ngay sau Phạm Hồng Sơn, theo , 5 người Việt Nam khác đã tuyên bố đồng hành tuyệt thực với Cù Huy Hà Vũ, trong số đó có Phạm Thanh Nghiên, người phụ nữ vừa rời nhà tù sau 4 năm với một sức khỏe hết sức suy nhược. Thực tế đã đi nhanh hơn những cuộc thảo luận. Phong trào đấu tranh cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam lần đầu tiên đã thực hành một hình thức phản kháng mới và trước hết: một hình thức đoàn kết mới.


Phong trào ấy cần cả những tiếng nói khích lệ lẫn những phê bình khe khắt. Nó thậm chí cần chịu đựng cả sự vu khống và xúc phạm. Điều nó không cần và không cần bận tâm là những lời thị phi hạ cấp.


Ở nhà mình, điều tối thiểu tôi phải làm là quét sạch những phát ngôn rác rưởi ấy.


© 2013 pro&contra






[1] Bạn có thể không ủng hộ đường lối và hành động của tổ chức IRA, nhưng thật khó mà không nghiêng mình trước cuộc tuyệt thực của Bobby Sands và các thành viên IRA tại nhà tù Long Kesh ở Bắc Ireland năm 1981, dưới thời Margaret Thatcher. Và chính là nền điện ảnh Anh cuối cùng đã xây đài tưởng niệm Bobby Sands với bộ phim cùng cực của bi tráng, bàng hoàng, không khoan nhượng: Hunger (2008) của Steve McQueen.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 11, 2013 15:07

Quét rác

Phạm Thị Hoài


Cho đến nay tôi chưa xóa một bình luận nào trên trang Facebook cá nhân, địa chỉ tương tác của blog pro&contra. Bây giờ tôi ân hận về sự dễ dãi đó. Ngôi nhà của tôi vẫn tiếp tục rộng mở cho bất kì ai muốn ghé thăm, song kể từ nay tôi sẽ mời tất cả những phát ngôn rác rưởi về với nhau trong đặc khu của chúng: thùng rác.


Khả năng sống chung với rác ở mỗi người tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Về phần mình, tại thời điểm này của cuộc đời, tuy sức chịu đựng vẫn còn đủ mạnh nhưng tôi không thấy có một lí do nào để mình phải kiên nhẫn hơn với những độc giả rác. Tôi tuyệt đối không có nhu cầu được họ quan tâm và càng không có nhu cầu biết họ nghĩ gì, nghe họ nói gì, dù chỉ về thời tiết.


Họ là ai, tôi thường không rõ. Phần lớn họ tự khai báo sự hèn nhát của mình qua một căn cước chế biến, ít nhiều nặc danh, và rất tiếc phần lớn họ là nam giới. Hãy tin tôi, tôi biết đọc ra giọng một người đàn ông hay một người đàn bà.


Giọt nước làm tràn chiếc li kiên nhẫn của tôi là những phát ngôn hạ cấp của họ về sự kiện ông Phạm Hồng Sơn bắt đầu đồng hành tuyệt thực với người tù chính trị Cù Huy Hà Vũ.


Tuyệt thực là lấy chính mình ra làm vũ khí phản kháng. Những người quyết định đi đến cùng cuộc phản kháng ấy, khi không còn một vũ khí nào khác, là những nhân cách đặc biệt mà lòng dũng cảm và kiên định khiến cả kẻ thù của họ cũng phải khâm phục [1]. Song phần lớn các cuộc tuyệt thực, đặc biệt là tuyệt thực tập thể, hiện nay thường được tiến hành trong một khuôn khổ định trước, có lịch trình rõ ràng. Ở các nước phương Tây, ban tổ chức một cuộc tuyệt thực như thế còn có trách nhiệm bố trí bác sĩ và chuyên gia tâm lí đi kèm. Quan niệm tuyệt thực như một sự đánh đổi tính mạng cho lí tưởng và mục đích đã nhường chỗ cho quan niệm về tuyệt thực như một hình thức phản kháng bất bạo động quyết liệt hơn, cực đoan hơn, khó khăn hơn, nguy hiểm hơn nhưng có thể có hiệu quả truyền thông hơn và gây tác động mạnh hơn những hình thức khác, chẳng hạn đình công hay diễu hành, biểu tình. Bảy ngày là giới hạn thường được chọn cho tuyệt thực “ướt” – tức không ăn, chỉ uống nước – vì đạt được nó không dễ dàng, mà vượt quá nó thì những hậu quả lâu dài cho sức khỏe có thể không kiểm soát được. Tuyệt thực “khô” – tức cự tuyệt cả nước uống – như ông Mikhail Khodorkovsky trong một nhà tù ở Moskva, chỉ sau hai ngày cơ thể có thể hoàn toàn suy sụp.


Đã nhiều lần trong thời gian vừa qua, một số bạn bè và tôi thảo luận – đôi khi rất gay gắt và không hoàn toàn đồng thuận –  về sự cần thiết và tính khả thi của tuyệt thực như một hình thức ủng hộ các tù nhân chính trị và phản đối chính sách trấn áp của chính quyền Việt Nam. Rất nhiều ví dụ, không chỉ ở các quốc gia toàn trị, cung cấp những bài học bổ ích và cả những câu hỏi không dễ tranh luận thấu đáo: cuộc tuyệt thực tập thể năm 2010 của 5 tù nhân chính trị Cuba sau cái chết vì tuyệt thực của một tù nhân chính trị là Orlando Zapata; cuộc tuyệt thực thành công, kéo dài 4 tuần, tháng Tư năm nay của 60 thành viên tổ chức dân chủ Unión Patriótica de Cuba đòi thả nhà bất đồng chính kiến Lozada Igarza; cuộc tuyệt thực kéo dài 1 tuần của hơn 500 tù nhân thuộc 39 nhà tù tại Đức năm 2008 cùng những người đồng hành tuyệt thực với họ tại Thụy Sĩ, Bỉ và Hà Lan; cuộc tuyệt thực kéo dài 9 ngày của 12 tù nhân chính trị tại Iran năm 2011 sau cái chết vì tuyệt thực của nhà báo và nhà hoạt động chính trị Hoda Saber; những cuộc tuyệt thực tập thể không dứt tại nhà tù Guantanamo, từ thời Bush đến thời Obama…


Tôi, người viết bài cho blog bằng một chiếc computer không bao giờ bị lục soát, tại một căn hộ không bao giờ bị khám xét, cách xa Việt Nam hơn vạn dặm và không nhịn đói nổi một ngày, đã lấy bao nhiêu lí lẽ thông minh để ngăn bạn tôi không thực hiện hành động này, trong một sự kiện khác. Nay ngay sau Phạm Hồng Sơn, theo , 5 người Việt Nam khác đã tuyên bố đồng hành tuyệt thực với Cù Huy Hà Vũ, trong số đó có Phạm Thanh Nghiên, người phụ nữ vừa rời nhà tù sau 4 năm với một sức khỏe hết sức suy nhược. Thực tế đã đi nhanh hơn những cuộc thảo luận. Phong trào đấu tranh cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam lần đầu tiên đã thực hành một hình thức phản kháng mới và trước hết: một hình thức đoàn kết mới.


Phong trào ấy cần cả những tiếng nói khích lệ lẫn những phê bình khe khắt. Nó thậm chí cần chịu đựng cả sự vu khống và xúc phạm. Điều nó không cần và không cần bận tâm là những lời thị phi hạ cấp.


Ở nhà mình, điều tối thiểu tôi phải làm là quét sạch những phát ngôn rác rưởi ấy.


© 2013 pro&contra






[1] Bạn có thể không ủng hộ đường lối và hành động của tổ chức IRA, nhưng thật khó mà không nghiêng mình trước cuộc tuyệt thực của Bobby Sands và các thành viên IRA tại nhà tù Long Kesh ở Bắc Ireland năm 1981, dưới thời Margaret Thatcher. Và chính là nền điện ảnh Anh cuối cùng đã xây đài tưởng niệm Bobby Sands với bộ phim cùng cực của bi tráng, bàng hoàng, không khoan nhượng: Hunger (2008) của Steve McQueen.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 11, 2013 15:07

June 9, 2013

Tôi tuyệt thực để ủng hộ

Phạm Hồng Sơn


Ngày 08/06/2013 khi vụ tuyệt thực của người tù lương tâm Cù Huy Hà Vũ đã bước sang ngày thứ 13 trong nhà tù – Trại giam số 5 Thanh Hóa – để phản đối những hành xử phi pháp và phi nhân của nhà chức trách, tác giả Từ Linh đã đưa ra nhiều gợi ý có tính đồng hành với ông Vũ.


Dĩ nhiên, có nhiều điểm trong những gợi ý đó không hẳn đã phù hợp với hiện trạng và tâm thức của giới đấu tranh tại Việt Nam, nhưng tôi tuyệt đối tâm đắc và chia sẻ về một tinh thần toát lên trong đó:


Chúng ta – những người yêu mến Tự do và đang còn ở ngoài nhà tù – cần phải làm một điều gì đó nhiều hơn là viết bài hay chỉ xướng lên tiếng nói ủng hộ xót xa.


Cho đến nay không có dấu hiệu nào cho thấy ông Vũ đã dừng tuyệt thực.


Vì những lẽ trên, tôi quyết định tự nguyện tuyệt thực 07 ngày đêm kể từ ngày 10/06/2013 đến ngày 17/06/2013 tại nhà riêng (Số 21 ngõ 72B Thụy Khuê, Hà Nội) để bày tỏ sự khâm phục và chia sẻ tinh thần đấu tranh và những rủi ro mà Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ đang đối mặt. Đồng thời sự tuyệt thực này cũng là một bày tỏ đồng cảm, chia sẻ với tất cả những người đã và đang chịu sự sách nhiễu, bách hại của cường quyền tại Việt Nam.


Tôi biết có thể còn có nhiều cách bày tỏ khác hiệu quả hơn là đồng tuyệt thực và cũng có thể có nhiều cách tuyệt thực khác hiệu quả hơn cách tuyệt thực của riêng tôi. Nhưng trong bối cảnh hiện nay của tôi sự tự nguyện, tự phát đồng tuyệt thực là một cách bày tỏ khả thi và hiệu quả nhất đối với sự  dũng cảm của ông Cù Huy Hà Vũ và các nhà đấu tranh khác.


Trong thời gian tuyệt thực tôi sẽ giữ nhịp độ sinh hoạt và làm việc bình thường khi cơ thể vẫn cho phép.


Tôi tin sẽ có những nghi vấn về tính xác thực của sự tuyệt thực này. Đó là những nghi vấn hữu lý. Nhưng trong trường hợp này tôi không còn cách nào khác là đặt niềm tin tuyệt đối vào sự tin tưởng tuyệt đối của mọi người. Bởi mọi phương tiện thông tin (hữu hay vô tuyến) của tôi đều có thể bị nhà chức trách cắt bỏ bất cứ lúc nào. Và theo tôi đây cũng là một cơ hội để chúng ta tự củng cố và xây dựng niềm tin, chữ tín cho bản thân mình, cho nhau và cho những vận động tiến bộ chung của toàn xã hội.


*


Bản tiếng Anh của tác giả


I begin a supportive hunger strike


Pham Hong Son


On June 08, 2013, the 13th day of hunger strike, on which a prisoner of conscience, Mr  Cu Huy Ha Vu, has been going in prison since May 27, 2013 to protest illegal and inhumane conduct of the authorities, Tu Linh wrote an article proposing many ideas to support Mr Cu Huy Ha Vu’s brave protest. I do not think all of these ideas are feasible in or fit to the current circumstances/pro-democracy strugglers of Vietnam but I do agree to the main idea:


We – people aspiring to Freedoms and still un-imprisoned – should do more than writing or voicing for Mr Cu Huy Ha Vu’s life-risking action.


And so far there have been no signs to indicate Mr Vu stops hunger strike.


Therefore, I decide to begin a 7-day hunger strike at my home (No 21 Alley 72B, Thuy Khue Street, Hanoi), starting from June 10, 2013 through June 17, 2013, in order to express my admiration and support to Mr Vu and also to other Vietnamese non-violent strugglers.


I will maintain daily activities as normal as my health permits.


Though there may be other more effective methods than hunger strike and even other more impressive ways of hunger strike than mine to support Mr Cu Huy Ha Vu a personal, spontaneous hunger strike now seems the most feasible and effective to me in standing by Mr Cu Huy Ha Vu and other courageous fellow compatriots.


I do know there may be doubts on the authenticity of my hunger strike at home. These questions are reasonable and understandable. However I allow myself to entrust my absolute confidence in your absolute trust because I could not rely on any means of communication, both wire or wireless, due to the authorities’ capacity in absolute control. In addition, it is providing us a great opportunity to build up or strengthen self-confidence, mutual trust and the credibility for a progressive movement.


© 2013 Phạm Hồng Sơn & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 09, 2013 06:08

Tôi tuyệt thực để ủng hộ

Phạm Hồng Sơn


Ngày 08/06/2013 khi vụ tuyệt thực của người tù lương tâm Cù Huy Hà Vũ đã bước sang ngày thứ 13 trong nhà tù – Trại giam số 5 Thanh Hóa – để phản đối những hành xử phi pháp và phi nhân của nhà chức trách, tác giả Từ Linh đã đưa ra nhiều gợi ý có tính đồng hành với ông Vũ.


Dĩ nhiên, có nhiều điểm trong những gợi ý đó không hẳn đã phù hợp với hiện trạng và tâm thức của giới đấu tranh tại Việt Nam, nhưng tôi tuyệt đối tâm đắc và chia sẻ về một tinh thần toát lên trong đó:


Chúng ta – những người yêu mến Tự do và đang còn ở ngoài nhà tù – cần phải làm một điều gì đó nhiều hơn là viết bài hay chỉ xướng lên tiếng nói ủng hộ xót xa.


Cho đến nay không có dấu hiệu nào cho thấy ông Vũ đã dừng tuyệt thực.


Vì những lẽ trên, tôi quyết định tự nguyện tuyệt thực 07 ngày đêm kể từ ngày 10/06/2013 đến ngày 17/06/2013 tại nhà riêng (Số 21 ngõ 72B Thụy Khuê, Hà Nội) để bày tỏ sự khâm phục và chia sẻ tinh thần đấu tranh và những rủi ro mà Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ đang đối mặt. Đồng thời sự tuyệt thực này cũng là một bày tỏ đồng cảm, chia sẻ với tất cả những người đã và đang chịu sự sách nhiễu, bách hại của cường quyền tại Việt Nam.


Tôi biết có thể còn có nhiều cách bày tỏ khác hiệu quả hơn là đồng tuyệt thực và cũng có thể có nhiều cách tuyệt thực khác hiệu quả hơn cách tuyệt thực của riêng tôi. Nhưng trong bối cảnh hiện nay của tôi sự tự nguyện, tự phát đồng tuyệt thực là một cách bày tỏ khả thi và hiệu quả nhất đối với sự  dũng cảm của ông Cù Huy Hà Vũ và các nhà đấu tranh khác.


Trong thời gian tuyệt thực tôi sẽ giữ nhịp độ sinh hoạt và làm việc bình thường khi cơ thể vẫn cho phép.


Tôi tin sẽ có những nghi vấn về tính xác thực của sự tuyệt thực này. Đó là những nghi vấn hữu lý. Nhưng trong trường hợp này tôi không còn cách nào khác là đặt niềm tin tuyệt đối vào sự tin tưởng tuyệt đối của mọi người. Bởi mọi phương tiện thông tin (hữu hay vô tuyến) của tôi đều có thể bị nhà chức trách cắt bỏ bất cứ lúc nào. Và theo tôi đây cũng là một cơ hội để chúng ta tự củng cố và xây dựng niềm tin, chữ tín cho bản thân mình, cho nhau và cho những vận động tiến bộ chung của toàn xã hội.


*


Bản tiếng Anh của tác giả


I begin a supportive hunger strike


Pham Hong Son


On June 08, 2013, the 13th day of hunger strike, on which a prisoner of conscience, Mr  Cu Huy Ha Vu, has been going in prison since May 27, 2013 to protest illegal and inhumane conduct of the authorities, Tu Linh wrote an article proposing many ideas to support Mr Cu Huy Ha Vu’s brave protest. I do not think all of these ideas are feasible in or fit to the current circumstances/pro-democracy strugglers of Vietnam but I do agree to the main idea:


We – people aspiring to Freedoms and still un-imprisoned – should do more than writing or voicing for Mr Cu Huy Ha Vu’s life-risking action.


And so far there have been no signs to indicate Mr Vu stops hunger strike.


Therefore, I decide to begin a 7-day hunger strike at my home (No 21 Alley 72B, Thuy Khue Street, Hanoi), starting from June 10, 2013 through June 17, 2013, in order to express my admiration and support to Mr Vu and also to other Vietnamese non-violent strugglers.


I will maintain daily activities as normal as my health permits.


Though there may be other more effective methods than hunger strike and even other more impressive ways of hunger strike than mine to support Mr Cu Huy Ha Vu a personal, spontaneous hunger strike now seems the most feasible and effective to me in standing by Mr Cu Huy Ha Vu and other courageous fellow compatriots.


I do know there may be doubts on the authenticity of my hunger strike at home. These questions are reasonable and understandable. However I allow myself to entrust my absolute confidence in your absolute trust because I could not rely on any means of communication, both wire or wireless, due to the authorities’ capacity in absolute control. In addition, it is providing us a great opportunity to build up or strengthen self-confidence, mutual trust and the credibility for a progressive movement.


© 2013 Phạm Hồng Sơn & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 09, 2013 06:08

June 8, 2013

Tuyệt thực trong tuyệt vọng?

Từ Linh


Nhân ngày tuyệt thực thứ 13 của người tù lương tâm Cù Huy Hà Vũ, 8/6/2013


1.


Tôi tưởng tượng:


người tù tuyệt thực đến ngày thứ 13 đang ngồi trước mặt tôi.


Anh ngồi bất động


ngực nhô lên, hạ xuống, rất chậm


hơi thở mỏng


tôi ngửi được cái mùi nao nao quen thuộc của người tuyệt thực.


Không có âm thanh gì


cũng nhiều giờ rồi anh không nói gì


có lẽ


đây là lúc những người yêu mến anh phải nói.


***


Tôi tưởng tượng:


Vợ anh lòng như lửa đốt


chị gọi người này, hỏi người kia


chị kêu cứu khắp nơi, mong mọi người can thiệp.


Chị được đáp ứng chân tình


nhưng tiếc thay


chỉ nhỏ giọt


đếm trên đầu ngón tay.


Chị làm hết cách rồi


chị viết rồi, kêu cứu rồi, gào thét rồi, tự làm khổ rồi


giờ chị cũng không nói thêm được gì.


Sức chị cũng yếu dần


như hơi thở anh yếu dần.


2.


Giữa tĩnh lặng của những ngày qua, và của ngày thứ 13, tôi tưởng tượng ra một cảnh tượng khác, thế này:


13 trí thức thân thiết với anh quyết định tuyệt-thực-đồng-hành-cùng-tù-nhân-lương-tâm.


Cuộc tuyệt thực đồng hành diễn ra ở một nơi nào đó bí mật, để không bị ngăn cản, nhưng hình ảnh sẽ được truyền hình trực tiếp trên YouTube.


Hưởng ứng việc này, rất nhiều người khác, thoạt đầu là 7 thanh niên trong đội bóng chống đường lưỡi bò, cũng tuyệt thực.


Một ngày sau, 77 người khác ở Sài Gòn, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, California, Sydney, Paris, Toronto… cũng tuyệt thực.


Con số cứ thế tăng dần, có người tuyệt thực 24 giờ, có người 12 giờ, có người 6 giờ, 3 giờ.


Và sẽ có lúc được 1.000 giờ, 10.000 giờ, 100.000 giờ tuyệt thực cùng tù nhân lương tâm, thu hút 1 triệu view, 10 triệu view, 100 triệu view.


Lại có người mở blog với đồng hồ tuyệt thực đếm xuôi: ngày thứ 13, ngày thứ 14, 15… Mỗi ngày sẽ có hàng chục, hàng trăm người lên tiếng, câu chuyện của anh được kể lại, hình ảnh của anh được nhắc lại.


Không có cửa cơ quan hữu trách nào trên thế giới không được gõ, không có nhà đấu tranh nhân quyền nào không được báo động để lên tiếng cho anh, kể cả các nghệ sĩ dấn thân, kể cả Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc, Tổng thống các nước tự do.


Rất nhiều nhà thờ, chùa chiền, đền đài, thánh thất sẽ thắp nến trong những đêm không ngủ cầu nguyện cho anh.


Tất cả đều nói rằng:


Này nhân loại, có một người đang vì người mà thoi thóp!


Không cần phong thánh cho người đâu,


Người ấy chỉ bằng xương thịt, cũng biết căm ghét, cũng giận dữ, cũng đói khát như mọi người bình thường,


Nhưng người ấy tin vào sự thật,


Và người ấy sắp chết.


Chỉ cần vậy thôi.


Chỉ một người còn chịu bất công trong cõi ta bà này thì cũng đủ cho bồ tát từ chối niết bàn rồi.


***


Đó là điều tôi tưởng tượng.


Không tưởng tượng thì thấy im ắng quá.


Chưa nhiều người nói gì, trừ một vài cá nhân, vài bài tường trình, vài tổ chức phi chính phủ.


Cũng có thể thấy đàng sau người tù tuyệt thực chẳng có “thế lực thù địch” nào hậu thuẫn, chẳng có tổ chức, đơn vị nào đỡ đầu.


Chỉ là một người đơn độc, với vài người thân thiết, chống chọi với thần chết.


Và thần chết đang đứng ngoài đầu ngõ.


3.


Một điều tôi xin được chia sẻ cùng mọi người, nhỏ thôi, là chuyện này:


Người làm kinh doanh, marketing, PR, quảng cáo, truyền thông… thường tin rằng: Chẳng có gì hữu xạ tự nhiên hương! Tất cả phải dùng đến “PR”, marketing, quảng cáo… gọi chung là quảng bá.


Không quảng bá thì chẳng ai biết sản phẩm của anh, cái đẹp của em, nỗi khổ của mẹ, sự oan ức của bà, hay cả cái chết vì lương tâm rất đẹp của anh.


Quảng bá từ lâu đã trở thành một công nghiệp, với đầy đủ hệ thống nhân sự, quy trình làm việc, mạng lưới các công ty khách hàng, công ty cung cấp dịch vụ, công ty sản xuất, đơn vị tổ chức sự kiện, in ấn, phát sóng, phát hình… Người ta nói đến kế hoạch quảng bá cho từng giai đoạn, ý tưởng sáng tạo, chất lượng nghệ thuật, chất lượng hình ảnh và ngôn ngữ của các mẫu quảng bá, cũng có rất nhiều giải thưởng quốc tế cho hoạt động quảng bá hàng năm.


Hợp chung lại, đó là một lực lượng hùng hậu tạo dư luận xã hội, điều hướng tuyệt đại đa số người dân (được xem như khán giả, thính giả, độc giả) vào những trận khóc cười, phấn khích, thổn thức, phẫn nộ hay hành động.


Dĩ nhiên, quảng bá cho đảng và cho đời thì lúc nào cũng vui vẻ: Quảng bá chính trị thì tô vẽ chính khách như giáo chủ tốt lắm, tô vẽ chế độ như đất thánh sướng lắm! Quảng bá kinh doanh thì thúc mua, kích cầu, cứ tiêu đi, thụ đi, chơi đi, đời vẫn đẹp lắm!


4.


Vậy thì ai sẽ quảng bá cho những người tù lương tâm?


Không có câu trả lời, tôi chỉ xin phép nêu ra ở đây vài ý ngắn, ít nhiều chủ quan, để tham khảo:


Việc quảng bá luôn là quảng bá trên một kênh thông tin.


Đảng có trên 700 tờ báo và đài khắp các địa phương chỉ đế nói một điều: Đảng là đúng! Vậy để quảng bá cho người tù lương tâm hiện đang có kênh thông tin nào?


Tất nhiên không thể không kể đến lực lượng hàng trăm, hàng ngàn tờ báo mạng, blog, Facebook của những cá nhân tự nguyện lên tiếng vì sự thật, nhân quyền, dân chủ. Họ đã hoạt động hiệu quả.


Nhưng có lẽ chỉ hiệu quả trên mặt trận tiếng Việt, cho độc giả người Việt là chính.


Bài báo đọc được hôm nay, 8/6/2013, trên Bauxite Vietnam của giáo sư Tương Lai, “Những bàn chân nổi giận / Vietnam’s Angry Feet” được dịch qua tiếng Anh đăng trên The New York Times hôm 6/6 cũng nhắc đến một cách nhìn mới, hướng đến độc giả nói tiếng Anh toàn cầu.


Và đây vẫn là một thiếu sót lớn trong công cuộc vận động, quảng bá cho nhân quyền của người Việt.


Một thực tế nên được nhìn ra là: Hiện có 3 triệu người Việt hải ngoại, trong số có rất nhiều người giỏi, kể cả những nhà báo quốc tế, nhưng đến nay vẫn chưa có tờ báo tiếng Anh nào sánh được với tờ Irrawaddy [i] của người lưu vong Miến Điện.


Đó là tờ báo có lập trường độc lập, với phong cách làm báo chuyên nghiệp, tiếng Anh đẳng cấp quốc tế, và tạo được ảnh hưởng toàn cầu.


Trong khi đó, các đơn vị thông tin lớn dành cho khán giả người Việt hiện nay vẫn chỉ là các đài Việt ngữ của chính phủ Mỹ, Anh, Pháp, Úc, không phải của “mình”.


(Đó là chưa kể đến chuyện BBC tiếng Việt hiện đang dùng một thứ tiếng Việt “làng xa” nào đó trong cách dịch, cách viết tựa, cách đưa tin. [ii] Thiếu hẳn tính chuyên nghiệp cần có, ít nhất tương tự như phiên bản BBC tiếng Anh.)


***


Cũng ngày tuyệt thực thứ 13 hôm nay, khi lướt qua các trang văn học có uy tín như Tienve.org, Damau.org… tôi cũng thấy buồn buồn.


Rất đông các nhà văn, nhà thơ Việt ở nước ngoài, trong nước cũng vậy, nhiều người có tài năng, nhưng cứ như lạc loài sao ấy.


Trong khi họ làm công việc rất chính đáng, cần được bảo vệ và cổ vũ, là sáng tác những gì trái tim và cái đầu mách bảo, thì phần lớn những gì họ viết ra dường như lại cho thấy họ đang ở một cõi nào đó lẻ loi lắm.


Rất ít người cho thấy họ đang thực sự nối mạng với định mệnh của đồng bào mình, với thực tại đau đớn từng ngày của nhiều người trong nước.


(Đó cũng là tình trạng chung của nhiều trí thức, nghệ sĩ lưu vong Tiệp Khắc, Ba Lan, Nga… thời cộng sản, không chỉ của người Việt.)


***


Không chỉ những nghệ sĩ nhạy cảm, hơn 30 triệu người Việt dùng internet trong nước cũng vậy, họ cũng chưa thực sự nối mạng với nhau.


Biết rằng ai nấy trên thế giới đều dùng Facebook, Twitter để hẹn cà phê, hỏi thăm sức khỏe, khen chê, tán tỉnh, mua bán… nhưng ở xứ tự do, khi có thiên tai, biến động, nạn nhân cần trợ giúp thì lập tức Facebook, Twitter trở thành những bệ phóng thông tin siêu nhanh.


Ở Việt Nam khi có “biến” như chuyện người tù lương tâm tuyệt thực thì mới thấy sự lỏng lẻo của mạng liên kết những trái tim và những cái miệng này.


Nỗi sợ vẫn còn đó, như bức tường sừng sững.


Nhưng sự thờ ơ, không biết mình không biết, thiếu thông tin, thiếu quảng bá lại còn lớn hơn nhiều.


***


Quảng bá cũng cần một nhạc trưởng.


Nhưng nhạc trưởng ấy, trong trường hợp người tù tuyệt thực ở đây dường như chưa thấy.


[image error](Hay người tù lương tâm kia cũng không đáng được chú ý đến thế? Nếu đúng vậy thì tôi và quần chúng bình thường không được biết. Nó khác hẳn với sự ủng hộ đầy ngưỡng mộ và rầm rộ khi ông chứng tỏ sự bất khuất trước tòa, biểu tượng bằng hình ảnh ông tay bị còng nhưng đầu vẫn ngẩng cao.)


5.


Tôi thích Ngải Vị Vị, dù có bài báo chê ông gần đây, nhưng tôi cho đó là tiếng chê lẻ loi, dù đáng trân trọng.


Ngải hay ở chỗ ông rất giỏi quảng bá nỗi đau của dân mình, bằng các hình thức nghệ thuật, và tác phẩm của ông không phải là tuyên truyền.


Tôi tự hỏi những nghệ sĩ lớn của Việt Nam mình hiện nay, trong lẫn ngoài nước, có ai có thể nói về nỗi đau của dân mình và khiến dư luận thế giới chú ý ở mức tương tự như Ngải không?


Dư luận thế giới không phải là kẻ mù mờ, không biết thế nào là nghệ thuật. Sự tự phong không có giá trị gì trước một dư luận như thế.


Mới nhất, tôi thích đoạn clip Dumbass [xuẩn động] vừa post trên YouTube của Ngải, ông tự đóng vai người tù, kể lại chuyện ăn, ngủ, tắm, vệ sinh, linh tinh gái gú 24/24 cùng hai tên cai ngục tả hữu. [iii]


Cũng trong clip này, Ngải tự hát lời rock do mình viết.


Trước đây ít tháng ông cũng từng nhảy, hát, giễu nhại với cái còng số 8 trên nền nhạc Gangnam Style, phiên bản “Địt-Mẹ-Mày Style” (Ciaonima Style) [iv] báng bổ nhà nước cộng sản Trung Quốc.


Nếu Ngải góp phần cải hóa hai cai tù tả hữu và giúp họ bộc lộ tính người, thì 81 ngày giam dữ cũng lại biến Ngải thành một kẻ quái gở khác, và đó là kết thúc gây sốc của clip này.


Kể chuyện tù bằng clip nhạc rock gây sốc rồi đăng trên YouTube và tạo hiệu ứng như Ngải quả là không dễ!


Cũng là chuyện người tù, nhưng câu chuyện của ông được biết đến và lan nhanh như một cơn sốt.


6.


Một ghi chú nhỏ: Cùng lúc với chuyện người tù tuyệt thực, cũng có một bài viết khác trên mạng về một người tù khác bị biệt giam 10 ngày.


Nhưng, câu chuyện 10 ngày biệt giam có kết thúc hết biệt giam này đã được kể với tất cả sự trịnh trọng, trong khi chuyện người tù tuyệt thực thì không.


Sự quảng bá có khác nhau.


Hữu xạ không còn tự nhiên hương nữa, ở xứ sở có quá nhiều thông tin tranh nhau số pixel giới hạn trong đầu người đọc.


Dân gian đã nói lâu rồi: Con không khóc làm sao mẹ cho bú!


Nhưng khóc ra sao cũng là vấn đề rất cần bàn.


7.


Trở lại câu chuyện người tù lương tâm đang tuyệt thực.


Rất có thể anh sẽ chết.


Tôi lại tự hỏi: Liệu cái chết của anh có gây được một tác động lớn như cái chết của Hồ Diệu Bang mà cuộc tưởng niệm đã biến thành cuộc đấu tranh cho dân chủ tại Thiên An Môn kết thúc ngày 6/4/1989; hay cái chết của Mohamed Bouazizi mở màn cho những cuộc xuống đường khổng lồ lật đổ nhà độc tài Ben Ali tại Tunisia năm 2011?


Rồi tôi tự trả lời: Không nối mạng, thì dù có tin cũng sẽ không thông. Không có người, không có phương tiện, không có bài bản thì nhiều sự kiện sẽ trôi qua mà không có bất cứ cơn sốt nào.


Hay mọi sự đã sẵn sàng rồi cho một mồi lửa, chỉ cần thời điểm đến?


Không ai dám chắc điều gì.


Nhưng có lẽ ai cũng hiểu: để quảng bá tốt cần có sự kiện tốt.


Và sự kiện tốt chỉ xuất phát từ trái tim.


Václav Havel từng nói rằng ranh giới của thiện ác chạy qua trái tim từng người. Nó không nằm ngoài, không nằm nơi trái tim người khác.


Trong tim mỗi người cũng có những dãy số 1-0, yes-no, có- không, khi “click” một trong hai thì làn ranh thiện ác được phân định. Và điều đó diễn ra từng giây, ngay lúc này, tại đây, trong lòng tôi, chứ không phải lòng ai khác.


Nhiều khi lịch sử thay đổi nhờ sự đồng cảm của hàng ngàn người hành động cùng lúc.


Cũng nhiều khi lịch sử thay đổi vì cú click trong lương tri của chỉ một người, sự tỉnh thức hốt nhiên của một người.


Vậy thì tôi phải làm gì, bây giờ?


Hay là tôi tự thiêu trên YouTube?


 © 2013 Từ Linh & pro&contra




[i] Irrawaddy là tờ báo mạng, báo giấy – có phiên bản tiếng Anh và tiếng Miến – cá»§a người lưu vong Miến Điện, đặt trụ sở tại Thái Lan. Ra đời từ năm 1992, do những người trẻ thuộc “Thế hệ 88” thành lập, tờ báo tồn tại đến nay, có đông đảo độc giả khắp thế giới, tạo được nhiều ảnh hưởng và điều đáng chú ý là họ có cách làm báo chí rất chuyên nghiệp và độc lập, không lệ thuộc đảng phái nào. Xem: Irrawaddy.org




[ii] Trong khi độc giả chờ xem Tập Cận Bình và Obama gặp nhau bàn chuyện gì, thì trong mục “Tin hàng đầu” cá»§a BBC Tiếng Việt đọc được sáng ngày 8/6/2013, tiêu đề đầu tiên lại có tá»±a “Tập Cận Bình còn gặp Obama nhiều”. Bài này cÅ©ng có một loạt các sai sót lặt vặt – ví dụ: “Dù beef ngoài có vẻ dễ ưa” : vài giờ sau “beef” được sá»­a thành “bề”; “Christopher K. Johnsontừ Viện nghiên cứu CSIS”: quên khoảng cách trước chữ “từ” – và những cách dịch tối nghÄ©a – ví dụ:“Dù có vẻ dễ gần, ông Tập đã cho thấy xu hướng dễ gây căng thẳng …”: “xu hướng” này là cá»§a ông Tập hay cá»§a Trung Quốc?; “Ông Tập phải tỏ ra là ông sẽ không chịu để Hoa Kỳ kiềm chế Trung Quốc, hay coi một công dân hạng hai. Ông Obama thì phải tỏ ra là ông tấn công Trung Quốc mạnh mẽ về chuyện tội phạm trên mạng và bệnh bảo hộ mậu dịch” [gạch dưới và in đậm là cá»§a người viết]




[iii] Đọc thêm bài “81 ngày giam giữ của Ngải Vị Vị tại Triểm lãm Venise”, của Trọng Thành, trên RFI Tiếng Việt, ngày 1/6/2013




[iv] Ciaonima: Thảo-Nễ-Mã: Cỏ- Bùn-Ngựa. Âm của cụm từ này nghe như câu chửi trong tiếng Hoa, tương đương “đ-mẹ-mày” (nễ: nị; mã: mẹ). Biểu tượng của nó là hình con “ngựa cỏ” nhìn giống con lạc đà không bướu Lama Nam Mỹ. Mỗi lần nguyền rủa, thay vì nói thẳng “ĐM mày Trung Quốc!” thì chỉ cần nói “Thảo-nễ-mã Trung Quốc!” Cụm từ tiếng Việt tương đối gần về âm có thể là “đèo-mạ-mi/ đèo-mã-mây”.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 08, 2013 08:55

Tuyệt thực trong tuyệt vọng?

Từ Linh


Nhân ngày tuyệt thực thứ 13 của người tù lương tâm Cù Huy Hà Vũ, 8/6/2013


1.


Tôi tưởng tượng:


người tù tuyệt thực đến ngày thứ 13 đang ngồi trước mặt tôi.


Anh ngồi bất động


ngực nhô lên, hạ xuống, rất chậm


hơi thở mỏng


tôi ngửi được cái mùi nao nao quen thuộc của người tuyệt thực.


Không có âm thanh gì


cũng nhiều giờ rồi anh không nói gì


có lẽ


đây là lúc những người yêu mến anh phải nói.


***


Tôi tưởng tượng:


Vợ anh lòng như lửa đốt


chị gọi người này, hỏi người kia


chị kêu cứu khắp nơi, mong mọi người can thiệp.


Chị được đáp ứng chân tình


nhưng tiếc thay


chỉ nhỏ giọt


đếm trên đầu ngón tay.


Chị làm hết cách rồi


chị viết rồi, kêu cứu rồi, gào thét rồi, tự làm khổ rồi


giờ chị cũng không nói thêm được gì.


Sức chị cũng yếu dần


như hơi thở anh yếu dần.


2.


Giữa tĩnh lặng của những ngày qua, và của ngày thứ 13, tôi tưởng tượng ra một cảnh tượng khác, thế này:


13 trí thức thân thiết với anh quyết định tuyệt-thực-đồng-hành-cùng-tù-nhân-lương-tâm.


Cuộc tuyệt thực đồng hành diễn ra ở một nơi nào đó bí mật, để không bị ngăn cản, nhưng hình ảnh sẽ được truyền hình trực tiếp trên YouTube.


Hưởng ứng việc này, rất nhiều người khác, thoạt đầu là 7 thanh niên trong đội bóng chống đường lưỡi bò, cũng tuyệt thực.


Một ngày sau, 77 người khác ở Sài Gòn, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, California, Sydney, Paris, Toronto… cũng tuyệt thực.


Con số cứ thế tăng dần, có người tuyệt thực 24 giờ, có người 12 giờ, có người 6 giờ, 3 giờ.


Và sẽ có lúc được 1.000 giờ, 10.000 giờ, 100.000 giờ tuyệt thực cùng tù nhân lương tâm, thu hút 1 triệu view, 10 triệu view, 100 triệu view.


Lại có người mở blog với đồng hồ tuyệt thực đếm xuôi: ngày thứ 13, ngày thứ 14, 15… Mỗi ngày sẽ có hàng chục, hàng trăm người lên tiếng, câu chuyện của anh được kể lại, hình ảnh của anh được nhắc lại.


Không có cửa cơ quan hữu trách nào trên thế giới không được gõ, không có nhà đấu tranh nhân quyền nào không được báo động để lên tiếng cho anh, kể cả các nghệ sĩ dấn thân, kể cả Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc, Tổng thống các nước tự do.


Rất nhiều nhà thờ, chùa chiền, đền đài, thánh thất sẽ thắp nến trong những đêm không ngủ cầu nguyện cho anh.


Tất cả đều nói rằng:


Này nhân loại, có một người đang vì người mà thoi thóp!


Không cần phong thánh cho người đâu,


Người ấy chỉ bằng xương thịt, cũng biết căm ghét, cũng giận dữ, cũng đói khát như mọi người bình thường,


Nhưng người ấy tin vào sự thật,


Và người ấy sắp chết.


Chỉ cần vậy thôi.


Chỉ một người còn chịu bất công trong cõi ta bà này thì cũng đủ cho bồ tát từ chối niết bàn rồi.


***


Đó là điều tôi tưởng tượng.


Không tưởng tượng thì thấy im ắng quá.


Chưa nhiều người nói gì, trừ một vài cá nhân, vài bài tường trình, vài tổ chức phi chính phủ.


Cũng có thể thấy đàng sau người tù tuyệt thực chẳng có “thế lực thù địch” nào hậu thuẫn, chẳng có tổ chức, đơn vị nào đỡ đầu.


Chỉ là một người đơn độc, với vài người thân thiết, chống chọi với thần chết.


Và thần chết đang đứng ngoài đầu ngõ.


3.


Một điều tôi xin được chia sẻ cùng mọi người, nhỏ thôi, là chuyện này:


Người làm kinh doanh, marketing, PR, quảng cáo, truyền thông… thường tin rằng: Chẳng có gì hữu xạ tự nhiên hương! Tất cả phải dùng đến “PR”, marketing, quảng cáo… gọi chung là quảng bá.


Không quảng bá thì chẳng ai biết sản phẩm của anh, cái đẹp của em, nỗi khổ của mẹ, sự oan ức của bà, hay cả cái chết vì lương tâm rất đẹp của anh.


Quảng bá từ lâu đã trở thành một công nghiệp, với đầy đủ hệ thống nhân sự, quy trình làm việc, mạng lưới các công ty khách hàng, công ty cung cấp dịch vụ, công ty sản xuất, đơn vị tổ chức sự kiện, in ấn, phát sóng, phát hình… Người ta nói đến kế hoạch quảng bá cho từng giai đoạn, ý tưởng sáng tạo, chất lượng nghệ thuật, chất lượng hình ảnh và ngôn ngữ của các mẫu quảng bá, cũng có rất nhiều giải thưởng quốc tế cho hoạt động quảng bá hàng năm.


Hợp chung lại, đó là một lực lượng hùng hậu tạo dư luận xã hội, điều hướng tuyệt đại đa số người dân (được xem như khán giả, thính giả, độc giả) vào những trận khóc cười, phấn khích, thổn thức, phẫn nộ hay hành động.


Dĩ nhiên, quảng bá cho đảng và cho đời thì lúc nào cũng vui vẻ: Quảng bá chính trị thì tô vẽ chính khách như giáo chủ tốt lắm, tô vẽ chế độ như đất thánh sướng lắm! Quảng bá kinh doanh thì thúc mua, kích cầu, cứ tiêu đi, thụ đi, chơi đi, đời vẫn đẹp lắm!


4.


Vậy thì ai sẽ quảng bá cho những người tù lương tâm?


Không có câu trả lời, tôi chỉ xin phép nêu ra ở đây vài ý ngắn, ít nhiều chủ quan, để tham khảo:


Việc quảng bá luôn là quảng bá trên một kênh thông tin.


Đảng có trên 700 tờ báo và đài khắp các địa phương chỉ đế nói một điều: Đảng là đúng! Vậy để quảng bá cho người tù lương tâm hiện đang có kênh thông tin nào?


Tất nhiên không thể không kể đến lực lượng hàng trăm, hàng ngàn tờ báo mạng, blog, Facebook của những cá nhân tự nguyện lên tiếng vì sự thật, nhân quyền, dân chủ. Họ đã hoạt động hiệu quả.


Nhưng có lẽ chỉ hiệu quả trên mặt trận tiếng Việt, cho độc giả người Việt là chính.


Bài báo đọc được hôm nay, 8/6/2013, trên Bauxite Vietnam của giáo sư Tương Lai, “Những bàn chân nổi giận / Vietnam’s Angry Feet” được dịch qua tiếng Anh đăng trên The New York Times hôm 6/6 cũng nhắc đến một cách nhìn mới, hướng đến độc giả nói tiếng Anh toàn cầu.


Và đây vẫn là một thiếu sót lớn trong công cuộc vận động, quảng bá cho nhân quyền của người Việt.


Một thực tế nên được nhìn ra là: Hiện có 3 triệu người Việt hải ngoại, trong số có rất nhiều người giỏi, kể cả những nhà báo quốc tế, nhưng đến nay vẫn chưa có tờ báo tiếng Anh nào sánh được với tờ Irrawaddy [i] của người lưu vong Miến Điện.


Đó là tờ báo có lập trường độc lập, với phong cách làm báo chuyên nghiệp, tiếng Anh đẳng cấp quốc tế, và tạo được ảnh hưởng toàn cầu.


Trong khi đó, các đơn vị thông tin lớn dành cho khán giả người Việt hiện nay vẫn chỉ là các đài Việt ngữ của chính phủ Mỹ, Anh, Pháp, Úc, không phải của “mình”.


(Đó là chưa kể đến chuyện BBC tiếng Việt hiện đang dùng một thứ tiếng Việt “làng xa” nào đó trong cách dịch, cách viết tựa, cách đưa tin. [ii] Thiếu hẳn tính chuyên nghiệp cần có, ít nhất tương tự như phiên bản BBC tiếng Anh.)


***


Cũng ngày tuyệt thực thứ 13 hôm nay, khi lướt qua các trang văn học có uy tín như Tienve.org, Damau.org… tôi cũng thấy buồn buồn.


Rất đông các nhà văn, nhà thơ Việt ở nước ngoài, trong nước cũng vậy, nhiều người có tài năng, nhưng cứ như lạc loài sao ấy.


Trong khi họ làm công việc rất chính đáng, cần được bảo vệ và cổ vũ, là sáng tác những gì trái tim và cái đầu mách bảo, thì phần lớn những gì họ viết ra dường như lại cho thấy họ đang ở một cõi nào đó lẻ loi lắm.


Rất ít người cho thấy họ đang thực sự nối mạng với định mệnh của đồng bào mình, với thực tại đau đớn từng ngày của nhiều người trong nước.


(Đó cũng là tình trạng chung của nhiều trí thức, nghệ sĩ lưu vong Tiệp Khắc, Ba Lan, Nga… thời cộng sản, không chỉ của người Việt.)


***


Không chỉ những nghệ sĩ nhạy cảm, hơn 30 triệu người Việt dùng internet trong nước cũng vậy, họ cũng chưa thực sự nối mạng với nhau.


Biết rằng ai nấy trên thế giới đều dùng Facebook, Twitter để hẹn cà phê, hỏi thăm sức khỏe, khen chê, tán tỉnh, mua bán… nhưng ở xứ tự do, khi có thiên tai, biến động, nạn nhân cần trợ giúp thì lập tức Facebook, Twitter trở thành những bệ phóng thông tin siêu nhanh.


Ở Việt Nam khi có “biến” như chuyện người tù lương tâm tuyệt thực thì mới thấy sự lỏng lẻo của mạng liên kết những trái tim và những cái miệng này.


Nỗi sợ vẫn còn đó, như bức tường sừng sững.


Nhưng sự thờ ơ, không biết mình không biết, thiếu thông tin, thiếu quảng bá lại còn lớn hơn nhiều.


***


Quảng bá cũng cần một nhạc trưởng.


Nhưng nhạc trưởng ấy, trong trường hợp người tù tuyệt thực ở đây dường như chưa thấy.


(Hay người tù lương tâm kia cũng không đáng được chú ý đến thế? Nếu đúng vậy thì tôi và quần chúng bình thường không được biết. Nó khác hẳn với sự ủng hộ đầy ngưỡng mộ và rầm rộ khi ông chứng tỏ sự bất khuất trước tòa, biểu tượng bằng hình ảnh ông tay bị còng nhưng đầu vẫn ngẩng cao.)


5.


Tôi thích Ngải Vị Vị, dù có bài báo chê ông gần đây, nhưng tôi cho đó là tiếng chê lẻ loi, dù đáng trân trọng.


Ngải hay ở chỗ ông rất giỏi quảng bá nỗi đau của dân mình, bằng các hình thức nghệ thuật, và tác phẩm của ông không phải là tuyên truyền.


Tôi tự hỏi những nghệ sĩ lớn của Việt Nam mình hiện nay, trong lẫn ngoài nước, có ai có thể nói về nỗi đau của dân mình và khiến dư luận thế giới chú ý ở mức tương tự như Ngải không?


Dư luận thế giới không phải là kẻ mù mờ, không biết thế nào là nghệ thuật. Sự tự phong không có giá trị gì trước một dư luận như thế.


Mới nhất, tôi thích đoạn clip Dumbass [xuẩn động] vừa post trên YouTube của Ngải, ông tự đóng vai người tù, kể lại chuyện ăn, ngủ, tắm, vệ sinh, linh tinh gái gú 24/24 cùng hai tên cai ngục tả hữu. [iii]


Cũng trong clip này, Ngải tự hát lời rock do mình viết.


Trước đây ít tháng ông cũng từng nhảy, hát, giễu nhại với cái còng số 8 trên nền nhạc Gangnam Style, phiên bản “Địt-Mẹ-Mày Style” (Ciaonima Style) [iv] báng bổ nhà nước cộng sản Trung Quốc.


Nếu Ngải góp phần cải hóa hai cai tù tả hữu và giúp họ bộc lộ tính người, thì 81 ngày giam dữ cũng lại biến Ngải thành một kẻ quái gở khác, và đó là kết thúc gây sốc của clip này.


Kể chuyện tù bằng clip nhạc rock gây sốc rồi đăng trên YouTube và tạo hiệu ứng như Ngải quả là không dễ!


Cũng là chuyện người tù, nhưng câu chuyện của ông được biết đến và lan nhanh như một cơn sốt.


6.


Một ghi chú nhỏ: Cùng lúc với chuyện người tù tuyệt thực, cũng có một bài viết khác trên mạng về một người tù khác bị biệt giam 10 ngày.


Nhưng, câu chuyện 10 ngày biệt giam có kết thúc hết biệt giam này đã được kể với tất cả sự trịnh trọng, trong khi chuyện người tù tuyệt thực thì không.


Sự quảng bá có khác nhau.


Hữu xạ không còn tự nhiên hương nữa, ở xứ sở có quá nhiều thông tin tranh nhau số pixel giới hạn trong đầu người đọc.


Dân gian đã nói lâu rồi: Con không khóc làm sao mẹ cho bú!


Nhưng khóc ra sao cũng là vấn đề rất cần bàn.


7.


Trở lại câu chuyện người tù lương tâm đang tuyệt thực.


Rất có thể anh sẽ chết.


Tôi lại tự hỏi: Liệu cái chết của anh có gây được một tác động lớn như cái chết của Hồ Diệu Bang mà cuộc tưởng niệm đã biến thành cuộc đấu tranh cho dân chủ tại Thiên An Môn kết thúc ngày 6/4/1989; hay cái chết của Mohamed Bouazizi mở màn cho những cuộc xuống đường khổng lồ lật đổ nhà độc tài Ben Ali tại Tunisia năm 2011?


Rồi tôi tự trả lời: Không nối mạng, thì dù có tin cũng sẽ không thông. Không có người, không có phương tiện, không có bài bản thì nhiều sự kiện sẽ trôi qua mà không có bất cứ cơn sốt nào.


Hay mọi sự đã sẵn sàng rồi cho một mồi lửa, chỉ cần thời điểm đến?


Không ai dám chắc điều gì.


Nhưng có lẽ ai cũng hiểu: để quảng bá tốt cần có sự kiện tốt.


Và sự kiện tốt chỉ xuất phát từ trái tim.


Václav Havel từng nói rằng ranh giới của thiện ác chạy qua trái tim từng người. Nó không nằm ngoài, không nằm nơi trái tim người khác.


Trong tim mỗi người cũng có những dãy số 1-0, yes-no, có- không, khi “click” một trong hai thì làn ranh thiện ác được phân định. Và điều đó diễn ra từng giây, ngay lúc này, tại đây, trong lòng tôi, chứ không phải lòng ai khác.


Nhiều khi lịch sử thay đổi nhờ sự đồng cảm của hàng ngàn người hành động cùng lúc.


Cũng nhiều khi lịch sử thay đổi vì cú click trong lương tri của chỉ một người, sự tỉnh thức hốt nhiên của một người.


Vậy thì tôi phải làm gì, bây giờ?


Hay là tôi tự thiêu trên YouTube?


 © 2013 Từ Linh & pro&contra




[i] Irrawaddy là tờ báo mạng, báo giấy – có phiên bản tiếng Anh và tiếng Miến – của người lưu vong Miến Điện, đặt trụ sở tại Thái Lan. Ra đời từ năm 1992, do những người trẻ thuộc “Thế hệ 88” thành lập, tờ báo tồn tại đến nay, có đông đảo độc giả khắp thế giới, tạo được nhiều ảnh hưởng và điều đáng chú ý là họ có cách làm báo chí rất chuyên nghiệp và độc lập, không lệ thuộc đảng phái nào. Xem: Irrawaddy.org




[ii] Trong khi độc giả chờ xem Tập Cận Bình và Obama gặp nhau bàn chuyện gì, thì trong mục “Tin hàng đầu” của BBC Tiếng Việt đọc được sáng ngày 8/6/2013, tiêu đề đầu tiên lại có tựa “Tập Cận Bình còn gặp Obama nhiều”. Bài này cũng có một loạt các sai sót lặt vặt – ví dụ: “Dù beef ngoài có vẻ dễ ưa” : vài giờ sau “beef” được sửa thành “bề”; “Christopher K. Johnsontừ Viện nghiên cứu CSIS”: quên khoảng cách trước chữ “từ” – và những cách dịch tối nghĩa – ví dụ:“Dù có vẻ dễ gần, ông Tập đã cho thấy xu hướng dễ gây căng thẳng …”: “xu hướng” này là của ông Tập hay của Trung Quốc?; “Ông Tập phải tỏ ra là ông sẽ không chịu để Hoa Kỳ kiềm chế Trung Quốc, hay coi một công dân hạng hai. Ông Obama thì phải tỏ ra là ông tấn công Trung Quốc mạnh mẽ về chuyện tội phạm trên mạng và bệnh bảo hộ mậu dịch” [gạch dưới và in đậm là của người viết]




[iii] Đọc thêm bài “81 ngày giam giữ của Ngải Vị Vị tại Triểm lãm Venise”, của Trọng Thành, trên RFI Tiếng Việt, ngày 1/6/2013




[iv] Ciaonima: Thảo-Nễ-Mã: Cỏ- Bùn-Ngựa. Âm của cụm từ này nghe như câu chửi trong tiếng Hoa, tương đương “đ-mẹ-mày” (nễ: nị; mã: mẹ). Biểu tượng của nó là hình con “ngựa cỏ” nhìn giống con lạc đà không bướu Lama Nam Mỹ. Mỗi lần nguyền rủa, thay vì nói thẳng “ĐM mày Trung Quốc!” thì chỉ cần nói “Thảo-nễ-mã Trung Quốc!” Cụm từ tiếng Việt tương đối gần về âm có thể là “đèo-mạ-mi/ đèo-mã-mây”.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 08, 2013 08:55

June 6, 2013

Tay mẹ nối đầu rồng

Nguyễn Hoàng Văn


Chưa thấy nghệ sĩ nào làm xấu quê hương của mình như Phạm Văn Hạng. Cũng chưa thấy nghệ sĩ nào dai dẳng bám trụ cái công việc ngu muội hóa nhận thức thẩm mỹ dân mình bằng nhà điêu khắc ấy, qua hai công trình mang tính dấu mốc của Đà Nẵng: Mẹ Nhu cứng đờ chỉ lối 1985 và Đầu Rồng loè loẹt bê vàng 2013, nghĩa là suýt soát ba thập niên.


Suýt soát ba thập niên nhưng chỉ nhích nhắc một đọan đường rất ngắn mà, thậm chí, không đáng mặt là “đường” dẫu chỉ một đoạn thực ngắn. Chỉ lởn vởn, xà quần. Xà quần từ thứ mỹ học “công nông binh trí tiến lên” cho đến “mỹ học nhà đòn”, quan niệm màu mè về cái đẹp theo kiểu ma chay tang tế của mấy bang hội người Hoa.


Có thể thấy ngay cái mỹ học màu mè ấy ở con rồng sắt bò trên cây cầu bắc qua sông Hàn, vàng choé và đồng bóng, nhìn xa như một cái cáng khiêng hòm, một món hàng mã hạng sang hay một thứ vật dụng trang trí phong thủy của người Trung Quốc. Nhưng tôi phải nói ngay rằng nhà điêu khắc này không phải là tác giả của mớ hổ lốn ấy. Cây cầu là tham vọng khẳng định mình của đám vua vùng, thứ lãnh chúa tân thời mà, đến thế kỷ 21 rồi, trình độ thẩm mỹ vẫn chưa thoát khỏi mỹ học “lân rồng” và phần việc của kẻ mệnh danh nghệ sĩ này, tập trung ở điểm nhấn đầu rồng, chỉ là tiếp tay phụ họa.


Nhưng vấn đề là vai trò của người nghệ sĩ. Nếu chúng ta kỳ vọng ở giới trí thức sự dũng cảm của trí tuệ và lương thức qua việc thách thức những chính sách gây hại cho đất nước và nhân quần thì, trong lĩnh vực thẩm mỹ, chúng ta cũng có quyền kỳ vọng tương tự với người nghệ sĩ. Là người, họ phải ngay thẳng với cái chân và cái thiện. Là nghệ sĩ, họ phải tự trọng với cái đẹp. Vạn nhất, không ngăn cản nổi những công trình vừa làm kiệt quệ sức dân, vừa tầm thường hoá nhận thức thẩm mỹ của người dân thì, ít ra, họ phải có sự tự trọng tối thiểu để bất hợp tác, không tiếp tay với những công trình vừa hút kiệt nguồn sống của nhân dân, vừa hoàn toàn hủ lậu và bệnh hoạn về cái đẹp.


Thế nhưng trải dài gần ba mươi năm, qua hai công trình thật tốn kém, nhà điêu khắc mệnh danh “người con đất Quảng” vẫn vậy. Vẫn chưa lớn, chưa thật sự trưởng thành trong tư cách nghệ sĩ mà, tệ hơn, còn lún sâu hơn trong cốt cách “văn công”. Mẹ Nhu giữa ngã tư Thanh Khê và Đầu Rồng ở đoạn giữa sông Hàn. Mẹ đồng, đầu rồng sắt. Mẹ ghép đâu từ gần hai ngàn vỏ đại bác Mỹ và đầu rồng cũng hàn, cũng ghép, bằng thép, chẳng rõ thép Mỹ hay thép Tàu. Nhưng cả mẹ cả rồng, như là đồng lòng, đều cùng nhìn một hướng.


Đầu tiên là Mẹ Nhu, một hình mẫu “mẹ đào hầm” [i]. Xưa mẹ đào hầm và mẹ hy sinh rồi, đến lúc đó, 1985, kỷ niệm 10 năm chiến thắng, mẹ vụt đứng lên ở cửa ngõ của Đà Nẵng để chỉ lối soi đường.


Nhưng mẹ, ở đâu, và bao giờ, cũng là… mẹ. Nghệ sĩ phải có khả năng cảm nhận tinh tế hơn người, tinh tế đến mức có thể nghe được cả tiếng cây cỏ bật mầm trong khoảng lặng hiếm hoi giữa hai đợt xung phong ngay trên trận tuyến thì, với mẹ, họ phải thấy được đâu là vòng tay nên đặt chứ? Tay mẹ, dẫu xương xẩu nắng mưa hay êm đềm vị sữa, không nên là cánh tay chỉ hướng. Tay mẹ, nên mở ra, rộng rãi. Tay mẹ, cần khoanh lại, vỗ về. Mẹ rộng mở bao dung và mẹ khép lại chở che, chở che cho cả những đứa con hư lúc thất bại cùng đường huống hồ đây đã chính danh là bà mẹ “Che chở mỗi bước chân con bước”? [ii] Nhưng theo cái mỹ học “tiến lên dưới ánh soi đường”, mẹ cứng đờ chỉ hướng tiến lên. Tiến như những công-nông-binh hùng hục tiến trong những công trình điêu khắc đại trà, những bảng hiệu tuyên truyền cũng rất đại trà: tiến theo hướng phất cán cờ, tiến theo mũi nhọn lưỡi lê, tiến theo đầu ruồi AK-47, tiến với tay súng binh, tay búa công, tay liềm nông và màu mè thêm, là tay sách cùng cặp mắt kính trí. Cứ thế mẹ chỉ. Chỉ như ông Lenin sắt máu Hai sách lược của Đảng Dân chủ – Xã hội trong thời kỳ dân chủ, như ông Mao gian manh và tàn bạo Mâu thuẫn luận, như ông Hồ trần sì tác phong Sửa đổi lối làm việc hay như, con người quyền lực nhất thời ấy, cái ông Lê Duẫn ít chữ lắm lời: Dưới là cờ vẻ vang cuả đảng vì độc lập, tự do vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới [iii].


Nhưng mẹ rất kiệm lời, chỉ đẫn đờ đưa tay về biển. Oái ăm thay, theo hướng mẹ, lớp lớp đàn con âm thầm và hồi hộp dắt díu nhau ra biển, dẫu dắt díu trong đớn đau ray rứt với ý nghĩ một đi không trở lại, cơ hồ chỉ thấy mỗi “thắng lợi” ở tận bên kia biển. Rồi thì đàn con thầm lặng, không ít đứa, đã nhởn nhơ ngược hướng, lăng xăng nhăng nhít với những “thắng lợi” mang về. Rồi thì những mẹ khác, bằng xương bằng thịt, cũng từng là “mẹ đào hầm”, lò dò lặn lội những bước chân ngược hướng theo từng chặng hành trình oan ức [iv]. Chỉ có cái Đầu Rồng thời thượng. Chỉ cái đầu loè loẹt này là theo mẹ để ngóc nhìn cùng một hướng trong âm hưởng của khẩu hiệu “Tiến ra biển lớn” đã rỗng tuếch, sáo mòn.


Cái Đầu Rồng nhìn lên lưng lửng là phần “nghệ thuật” nhất của công trình xây dựng tốn kém theo tham vọng chứng tỏ mình và lưu dấu đời sau, thứ tham vọng mà những pharaoh Ai Cập đã thành hay một Saddam Hussein đã cố nhưng hoàn toàn thất bại. Tham vọng của đám vua vùng hãnh tiến mà tài kinh bang tế thế chẳng qua là vét sạch tài nguyên để dựng lên một bề mặt hào nhoáng: tài nguyên không nằm sâu trong lòng đất thì tài nguyên chính là bề mặt của đất và họ đã đua đòi như những ông lý trưởng khi vét sạch đất hương hỏa của mình hay của người để cung phụng cho cái nhu cầu “khẳng định mình” trong quan niệm thẩm mỹ “sơn son thép vàng”. Phong cách “kinh bang” không khá. Cảm quan thẩm mỹ cũng không khá. Gắng gượng khẳng định mình bao nhiêu đi nữa kết cuộc cũng chỉ là một thứ sản phẩm chắp vá nên, dẫu đã vẽ vời bằng những khẩu hiệu rung trời với mục tiêu “biển lớn”, chỉ mới vượt một con sông không lớn lắm thôi, con rồng mỏng manh đã hụt hơi, tận sức.


Rồng, không tiến ra biển nổi mà, cơ hồ, phải bám trụ, ở bờ Đông sông Hàn.


Bờ Đông của một thời là An Hải, làng chài, còn được thi vị hoá trong vài cái tên là Đông Giang. Bờ Đông của một thời chiến tranh là đất của dân tản cư, của những trại lính, của những snack-bar, của gái điếm và của cô hồn cắc đảng. Bờ Đông của thời bình, lúc mẹ đứng lên ở Thanh Khê chỉ lối, từng bị dè bỉu trong cái nhìn trịch thượng của những thị dân bờ Tây như là “Quận Ba”, đất “nhà quê”, thứ đất của thứ dân chài và những thị dân hạng hai nửa quê nửa tỉnh. Nhưng rồi thì bờ ấy cũng đổi đời như một mảnh đất bê vàng để “rồng” – ví như một biểu tượng “tinh hoa” — bị lụy bờ, sụm xuống. “Khát vọng hoá rồng” đã bị nhấn chìm trong ma lực bê vàng.


Không ai có thể đưa ra một dự phóng chính danh là “khát vọng” khi ngang tàng chà đạp lên sức người và sức đất nhưng đó lại là những chuyện mỉa mai rất thực. Những đám “nhà quê” – bờ Đông hay bờ Tây – đã bị đuổi đi và những cao ốc, những biệt thự lộng lẫy, những khu đô thị khang trang đã nối đuôi nhau mọc lên, choáng ngợp. Một dải biển dài đã bị “ngăn sông cấm chợ” và những resort hạng sang nối tiếp mọc lên, san sát. Dân chài đang mất biển và những thị dân, nửa quê nửa tỉnh hay toàn phần là tỉnh, cũng bị mất biển: không được sống bằng biển quê hương, họ cũng không được tắm cả biển của quê hương. Sức dân và sức đất đã bị chà đạp tàn mạt thế nên “rồng” cứ là yếu ớt mỏng manh, không thể bay ra tới biển.


Nhưng dù không là như thế, dù mãnh liệt và vũ bão, dù hừng hực khát vọng thì rồng vẫn là… rồng. Chúng ta có thể nói thao thao bất tuyệt về con rồng thời Lý, thời Trần hay thời Lê; chúng ta có thể bơm thổi cho rồng vàng “tiến ra biển lớn”, có thể chôn vùi “rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc” của thực dân Pháp một thời nhưng, suy cho cùng, rồng nào cũng là rồng, cũng là một thứ sản phẩm thực dân. Nếu thực dân là một thế lực ăn cướp, cướp đất và cướp cả tư cách con người thì dân tộc chúng ta đã bị đặt trên đe và trên thớt của của bao nhiêu là kẻ cướp. Sau bọn cướp đất phương Bắc thì đến bọn cướp đất phương Tây. Hết băng cướp đất phương Tây thì đến đảng cướp đất toàn trị [v]. Chưa thoát ra khỏi cái búa của giặc cướp toàn trị thì lại lấp ló cái mã tấu của giặc cướp phương Bắc, tình thế thật là rối ren và bi đát quá.


Rối ren và bi đát hệt tình cảnh mà những thế hệ như Phan Chu Trinh đã đối mặt khi thức tỉnh ra rằng, để cứu lấy mình, tộc Việt phải tự “đả phá” lấy chính mình: ngày nào còn tiếp tục nhai lại những giáo điều đã học của ông thầy Tàu, như là một sản phẩm của thực dân cũ, ngày đó tộc Việt không thể nào mạnh lên để thoát khỏi ách thực dân mới, không thể “ngửng mặt nhìn năm châu bốn bể”. Và chính sự thức tỉnh này đã mở lối cho cuộc vận động “chấn hưng dân khí và dân trí” nhằm đục bỏ sự nô lệ về tinh thần để xây dựng một ý thức quốc gia mới.


Tôi vẫn nhớ như in nét mặt của điêu khắc gia kiêm hoạ sĩ Lê Thành Nhơn, cách đây mười mấy năm, trong một lần họp mặt tại nhà của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc. Lê Thành Nhơn say sưa nói về một ý tưởng sáng tạo mà, cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng, anh vẫn không có cơ hội thực hiện: một hình khối nửa người nửa đá, hai tay vung ra, tay đục và tay búa, dùng chính sức của mình đục nên hình vóc của chính mình.


Tác phẩm chưa thành của người nghệ sĩ sống hết mình cho nghệ thuật, cơ hồ, cũng là giấc mơ chung bất thành sau bao thế hệ. Bởi vượt qua kiếp đá, vươn lên thành người, hiểu trong hoàn cảnh của chúng ta, là “mạnh lên”, là “ngửng mặt nhìn năm châu bốn bể”. Kể ra thì đó cũng chính là điều gói ghém trong khẩu hiệu “Tiến ra biển lớn” khi ngụ ý ước vọng thoát khỏi hoàn cảnh nhược tiểu để hòa nhập với thế giới như một sân chơi bình đẳng. Và đó vẫn tiếp tục là một giấc mơ xa vời khi “dân trí” và “dân khí” chưa được “chấn hưng”.


Rõ ràng là “dân trí” từng thấp lắm nên bọn ăn cướp toàn trị mới có thế thành công với những lớp mặt nạ mỵ dân “bình đẳng”, “tự do” và “độc lập”. Nhưng cả khi những lớp mặt nạ ấy đã rớt xuống để hở bộ mặt của thứ đầu trộm đuôi cướp ra rồi thì “dân khí” phải thế nào đó nên mới có những thế hệ tiếp nối nhau nhẫn nhịn sống chung. Một dân tộc sống chung với bầy ăn cướp. Một dân tộc tự điều chỉnh mình để thích nghi với những trò ăn cướp. Một dân tộc cam tâm trong vai của một nạn nhân trường kỳ.


Để dân tộc vượt qua thân phận yếu hèn không thể “ngửng mặt nhìn năm châu bốn bể” thì từng cá nhân phải ngửng mặt sống như những con người. Phải vượt qua cái tâm lý nhẫn nhịn và thích nghi trường kỳ, phải vung đôi tay của mình lên đục bỏ những căn tính nô lệ đã kết tủa trong chính não trạng của mình. Công việc lớn lao đó đòi hỏi sự góp phần của người nghệ sĩ bởi, nếu không nâng được cảm quan của công chúng về những giá trị chân thiện mỹ lên thì, ít ra, họ cũng không thể cam tâm dìm  nó xuống, không thể cam tâm bắt tay hợp tác với những trò mỵ dân cực kỳ hao tổn tài nguyên nấp dưới cái bóng nghệ thuật.


Mà tự thân người nghệ sĩ cũng vậy. Hắn phải tự vung tay lên để tự tạo lấy hình vóc và tầm cỡ của hắn hay ít ra là để tự giải thoát cho hắn. Ngoan ngoãn đục đẽo tô nắn theo ngón tay duy ý chí của những kẻ đang thao túng nguồn sống của nhân dân thì, dù thực hiện hết công trình “phì đại” này đến công trình “phì đại” khác, trọn kiếp hắn cũng chỉ “tròn kiếp văn công”. Những tác phẩm minh hoạ càng đồ sộ và hoành tráng theo cuồng vọng khẳng định mình của những kẻ cầm quyền hãnh tiến, tư cách nghệ sĩ của hắn càng bé lại, choắt lại, co rúm trong vòng khép của đôi tay cơ hồ hoá đá.


Nhưng thế, hóa đá, kể cũng là sang. Đã “tròn kiếp văn công” thì nói gì là đá, con tim hắn, khối óc của hắn còn tệ hơn, không đáng mặt là đá mà, xét cho cùng, chỉ là một nhúm đất bạc màu.


Đà Nẵng – Sydney 1.6.2013


© 2013 Nguyễn Hoàng Văn & pro&contra






[i] Tên thật là Lê Thị Dãnh (? – 1968), từ năm 1967 đã đào hầm bí mật trong nhà để nuôi giấu cán bộ nằm vùng, đặc biệt là “biệt động thành”. Ngày 21-12-1968, cơ sở bị bố ráp. Theo tài liệu tuyên truyền thì 7 “biệt động thành” vùng chống trả và thoát ra khu, riêng bà mẹ thì bị giết.


Cổng thông tin điện tử Đà Nẵng viết về bức tượng: “Sau ngày thành phố Đà Nẵng được giải phóng, nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng đã tác tượng Mẹ Nhu bằng cách ghép nối hàng nghìn vỏ đạn đồng đại bác của Mỹ. Bức tượng đồ sộ cao hơn chục mét của bà mẹ anh hùng mặt hướng về phía cửa biển Đà Nẵng, trong tư thế đang phất tay ra lệnh “tiến lên”, được đặt trên đại lộ Điện Biên Phủ dẫn vào trung tâm thành phố.”




[ii] Trích từ bài thơ “Đất quê ta mênh mông” của Dương Hương Ly (Bùi Minh Quốc)




[iii] Tên những tác phẩm sặc mùi giáo điều của các lãnh tụ cộng sản này




[iv] Tôi thử google mấy chữ “Mẹ liệt sĩ khiếu kiện” thì chỉ trong vòng 0.31 giây đã nhận được 515,000 kết quả. Thử liệt kê những kết quả đầu tiên:


i/ Mẹ liệt sỹ 90 tuổi trong túp lều xiêu vẹo


ii/ Khiếu nại của mẹ liệt sĩ Nguyễn Thị Ngùy về đất bị thu hồi: Những …


iii/ Đừng để mẹ liệt sĩ phải hoài công khiếu nại


iv/ Một mẹ liệt sĩ mỏi mòn chờ đợi phép công




[v] Xem: “Thực dân, nô lệ, ăn mày”: 1/ http://www.talawas.org/?p=21228, 2/ http://www.talawas.org/?p=21230


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 06, 2013 04:15

June 4, 2013

Muôn thuở “Vợ chồng A Phủ”

Phạm Thị Hoài


Kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông ở Việt Nam vừa kết thúc. Đề thi môn Ngữ văn, phần chính, yêu cầu thí sinh “phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị qua cảnh đêm mùa xuân Mị muốn đi chơi và bị trói trong tác phẩm ‘Vợ chồng A Phủ’ của Tô Hoài“. Năm ngoái, đề thi tuyển sinh vào đại học môn Ngữ văn khối D đặt câu hỏi: “Việc Mị nhìn thấy ‘dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại’ của A Phủ diễn ra trong hoàn cảnh nào? Sự việc ấy có ý nghĩa gì đối với tâm lí của nhân vật Mị?


Việc “Vợ chồng A Phủ”, một tác phẩm thuộc dòng văn học “Hiện thực Đoán trước”, trung bình về mọi phương diện dù đã được chiếu cố mầu sắc miền ngược [i], thường xuyên được chọn làm cửa ải để học sinh Việt Nam vượt qua bậc tú tài và thậm chí để vào đại học cũng đáng chú ý như các yêu cầu đặt ra cho thí sinh. Muôn thuở là phân tích giá trị (nhân đạo, hiện thực) của tác phẩm, phân tích nhân vật Mị (hành động, tâm lí), phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân, phân tích Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, phân tích Mị mặt buồn rười rượi, phân tích Mị sức sống tiềm tàng, phân tích hình tượng nắm lá ngón Mị ném xuống đất, phân tích hình tượng tiếng sáo Mị nghe, so sánh hình tượng Mị bị trói đứng và A Phủ bị trói đứng…


Khổ quá, đó là một tác phẩm hoàn toàn đơn giản, bố cục phẳng, tình tiết dễ hiểu, các nhân vật được đặt đúng những chỗ đã đánh dấu, tốc độ kể thong thả, ngôn ngữ không có gì đặc biệt, thủ pháp không có gì đặc sắc. Có gì mà phân tích ở đó? Đào sâu một tác phẩm như thế chỉ chọc rách mặt giấy, vì vậy tiêu chuẩn khả dĩ duy nhất là thuộc bài và phát biểu cảm tưởng trong khuôn khổ và theo định hướng. Thuộc bài ở đây là thuộc làu làu. Chẳng hạn thí sinh phải nhớ đúng tình tiết Mị đã nhìn thấy A Phủ khóc trong hoàn cảnh nào. Không phải khóc chung chung. Phải là khóc chính xác với “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại”.


Vì thế mà có quy định “thí sinh không được sử dụng tài liệu. Giám thị không giải thích gì thêm.”


*


Sau đây là yêu cầu đặt ra với thí sinh Đức trong một đề thi tốt nghiệp trung học, môn Ngữ văn:


Trích đoạn Vladimir Nabokov nói về tác phẩm “Hóa thân” của Franz Kafka:


Bây giờ trước khi nói về “Hóa thân”, tôi muốn xác định rõ là tôi phản đối hai quan điểm mà một số người đại diện. Tôi hoàn toàn bác bỏ khẳng định của Max Brod rằng chỉ có thể dùng phạm trù thiêng liêng (nhưng không phải sự thiêng liêng của văn học) để nhìn nhận sự nghiệp của Kafka. Kafka trước hết là một nghệ sĩ, nhưng dù cho rằng nghệ sĩ nào cũng có chút thiêng liêng (một nhận định khá trùng với quan niệm của tôi) thì tôi vẫn không tin rằng có thể đọc ra tính tôn giáo trong thiên tài của Kafka. Tiếp theo, tôi bác bỏ quan điểm của phái Freud. Thí dụ, những người dùng học thuyết của Freud để diễn giải Kafka (như Charles Neider trong “The Frozen Sea” [1948]) cho rằng “Hóa thân” dựa trên mặc cảm Oedipus của Kafka và cảm giác cả đời có lỗi với người cha. Phái này còn lí giải rằng trong ngôn ngữ biểu tượng thần bí, trẻ con xuất hiện dưới hình hài của sâu bọ – tôi hoài nghi điều đó -, và biểu tượng con bọ trong “Hóa thân” của Kafka là để diễn tả nhân vật người con, theo tinh thần của học thuyết Freud. Cũng theo phái này, biểu tượng con bọ đó khắc họa chính xác cảm giác thua kém và vô giá trị của người con đối với người cha. Tôi bác bỏ cái mớ vớ vẩn này, vì điều tôi quan tâm là con bọ của Kafka chứ không phải mấy con dế trong đầu các nhà diễn giải đó. Kafka giữ thái độ hết sức phê phán với học thuyết Freud, vì ông thấy các lí thuyết của Freud hiện lên như những hình ảnh mơ hồ, sơ lược, không thấu được những góc độ riêng biệt, và điều quan trọng hơn là không thấu được bản chất của vấn đề. Ông coi phân tâm học (xin trích) là một “nhầm lẫn bất lực”. Đó là lí do tiếp theo khiến tôi bác bỏ cách nhìn theo phái Freud và muốn tập trung vào khoảnh khắc thao tác nghệ thuật. (…)


Nhân vật chính của “Hóa thân” là Gregor Samsa, con trai một gia đình trung lưu ở Praha. Các thành viên gia đình này là những con người tẻ nhạt, đầu óc tầm thường, chỉ coi trọng những giá trị vật chất, như những nhân vật trong tác phẩm của Flaubert. Năm năm trước, người cha bị thiệt hại mất gần hết gia sản nên Gregor phải làm thuê cho một chủ nợ của cha, nghề rao mẫu hàng vải. Người cha hết việc, cô em gái Grete chưa đủ tuổi đi làm và bà mẹ mắc chứng hen phế quản, nên chàng trai trẻ Gregor là người nuôi cả gia đình. Chàng còn tìm được cho gia đình một căn hộ để sinh sống: trong một chung cư cho thuê, chính xác là tại phố Charlottenstraße, và căn hộ ấy được chia nhỏ, như sau này Gregor cũng bị chia nhỏ. Đó là năm 1912, câu chuyện diễn ra tại Praha, ở Châu Âu xưa. Lương giúp việc rẻ, nên gia đình Samsa có một cô người ở mười sáu tuổi (ít hơn Grete một tuổi) tên Anna và một bà nấu bếp. Gregor thường rong ruổi đi công việc, nhưng đêm mà sau đó câu chuyện bắt đầu thì chàng ngủ ở nhà, giữa hai chuyến công cán. Và đến đây, sự kinh hoàng xảy ra. (…)


Ta hãy xem xét kĩ hơn vụ biến dạng vừa xảy ra đó. Tuy sự thay đổi có khủng khiếp và đáng bàng hoàng thật, nhưng không hề lạ lùng như thoạt tiên ta tưởng. Một nhà phê bình có đầu óc (Paul L. Landsberg trong “The Kafka Problem” [1946], Angel Flores chủ biên) đã nhận định: “Ngủ trong một môi trường lạ, lúc tỉnh dậy ta hay bị một thoáng bàng hoàng, một cảm giác hoang đường bất chợt, và một người làm nghề đi rao mẫu hàng thì chắc phải thường xuyên gặp cảnh này, vì không thể có sự ổn định nào trong hoàn cảnh sống đó.” Cảm giác về hiện thực phụ thuộc vào sự ổn định, vào sự bền vững. Rốt cuộc thì tỉnh dậy thấy mình là Napoléon, là George Washington hay là một con bọ cũng không có gì khác nhau lắm. (Tôi từng quen một người lúc tỉnh dậy thấy mình là hoàng đế Brazil.) Mặt khác, sự cô đơn đi cùng với đặc thù lạ lùng của cái mà chúng ta gọi là hiện thực là điều xưa nay vẫn đặc trưng cho người nghệ sĩ, cho thiên tài, (…). Gia đình Samsa vây quanh con bọ hoang đường kia chẳng qua chỉ là biểu tượng của sự tầm thường vây quanh thiên tài.


Yêu cầu thí sinh:


1. Hãy tóm tắt và giải thích cách diễn giải của Nabokov


2. Bằng kiến thức của mình về các tác phẩm của Kafka và các cách diễn giải chúng, hãy bình luận và đánh giá quan điểm của Nabokov.


Thí sinh được phép sử dụng tài liệu tùy ý trong phòng thi.


*


So sánh trên đây cho thấy học sinh Đức không cần phải thuộc bài (không có bài nào để thuộc). Nhưng cần: Thứ nhất, khả năng đọc hiểu đối với một văn bản khá phức tạp cả về nội dung lẫn hình thức biểu đạt (đoạn tiểu luận của Nabokov); thứ hai, kiến thức đủ rộng (các tác phẩm của Kafka chứ không chỉ 5000 chữ như đoạn trích “Vợ chồng A Phủ” trong sách Ngữ văn 12); và thứ ba, khả năng cọ sát quan điểm của riêng mình (với quan điểm của Nabokov) về Kafka.


Môn Ngữ văn ở bậc trung học phổ thông không có gì kì bí, vô tận hay phức tạp hơn các môn khác. Trong nhà trường ở Việt Nam, nó thất bại không phải vì quá khó, quá nặng, mà vì quá nhẹ và nông, với muôn thuở “Vợ chồng A Phủ”.


© 2013 pro&contra






[i]  Có lẽ tôi không ưa “Vợ chồng A Phủ” cũng vì trong phần lớn các tác phẩm có mầu sắc folklore miền ngược, viết từ hình dung của người miền xuôi, các nhân vật đều được gán cho những cách nghĩ, cách nói, đặc biệt là cách xưng hô, có phần ngồ ngộ, ngu ngơ, sơ đẳng, ít nhiều bán khai. Và người đọc, tất nhiên cũng là người miền xuôi, tự động thấy mình ở một vị thế khác.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 04, 2013 13:58

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.