Phạm Thị Hoài's Blog, page 34

August 12, 2013

Phong cảnh tinh thần thời hậu toàn trị (3)

Lưu Hiểu Ba


Phạm Thị Hoài dịch


Xem kì 1, kì 2 và toàn bài trong bản PDF


Phần lớn trong số những sinh viên bơi theo thời cuộc chính là những người chủ động muốn vào Đảng. Không phải vì niềm tin lí tưởng, mà vì những mục đích cá nhân. Bởi lẽ, những người cộng sản trước sau vẫn cầm quyền ở Đại lục, vậy sau khi tốt nghiệp muốn làm gì chăng nữa, nếu muốn thật nhanh thành đạt thì vào Đảng vẫn tốt hơn. Điều tra xã hội những năm gần đây về khuynh hướng chọn nghề trong sinh viên cho thấy rõ: nguyện vọng hàng đầu của sinh viên là vào Đảng và được tuyển làm công chức trong một cơ quan nhà nước. Khi phát biểu về động cơ gia nhập Đảng, họ hoàn toàn không dùng ngôn ngữ khẩu hiệu nhàm chán mà trái lại, họ cực kì hùng biện và thực dụng.


Một sinh viên năm thứ ba mặt đỏ tía tai tranh luận với tôi, nói như sau: “Ở Trung Quốc nếu muốn đạt được điều gì thì phải vào Đảng; là công chức thì phải vào Đảng mới có cơ hội tiến thân, phải vào Đảng mới thâu tóm nhiều quyền lực, mới đạt được điều mình mong muốn. Vào Đảng thì có gì là xấu? Thành công chức và kiếm nhiều tiền thì có gì là xấu? Vừa lo được cho mình, vừa giúp gia đình có địa vị, lại cống hiến cho xã hội nhiều hơn bất kì người nào làm những nghề bình thường.”


Lối sống của giới sinh viên trẻ giống lối sống của những người cộng sản như hai giọt nước. Thoạt nhìn thì nó không liên quan gì đến những lời rao giảng cộng sản, nhưng ai biết rõ quy trình thẳng tiến tới quyền lực của những người cộng sản – tiếm quyền, nắm quyền và giữ quyền – thì nhận ra ngay sự giống nhau nói trên, giống nhau về bản chất và thường trực, trong tinh thần cơ hội, đặt lợi ích của riêng mình lên trên tất cả và không từ một phương tiện nào.


Cho nên phương châm của họ đối với thiên hạ gồm những châm ngôn đại loại: “giữ mình, chờ thời”, “ăn cơm chúa, múa tối ngày”, “muốn quỳ thì phải cong”… Những châm ngôn trơ trẽn đó, không hề xuất phát từ một khát khao siêu hình hay xác tín đạo đức căn bản nào, vậy là lại xuyên qua bao nhiêu thế kỉ trong lịch sử để lặp lại không một mảy may thay đổi. Những lí tưởng cộng sản thời Mao đã bị chôn vùi trong thời “mèo đen – mèo trắng” thực dụng của Đặng Tiểu Bình, điều đó thường được coi là một trong những khác biệt chính giữa hai giai đoạn lịch sử. Nhưng sự thực thì toàn bộ chiến lược tồn tài và nguyên tắc hành xử của Mao chỉ xoay quanh quyền lực. Lúc nào cũng giương cao ngọn cờ lí tưởng và đạo đức, nhưng khẩu hiệu giải phóng nhân loại của Mao chẳng hề khiến ông ta chùn tay hạch tội và sát nhân; thậm chí để nhuộm đỏ cả hành tinh, Mao sẵn sàng nướng một phần ba nhân loại.


Nói cách khác, bất kể là ai, sinh viên hay giới tinh hoa trí thức đang chen nhau vào Đảng để trở thành công chức trong hệ thống hay doanh nhân trong kinh tế, từ khía cạnh đạo đức thì gần như không một ai tán thành chế độ hiện tại, nhưng hành động trong thực tế của họ lại giúp củng cố chế độ này.


Hiện tượng sống ung dung và tự hài lòng trong tâm thế đạo đức bị xé rách ấy nhất quán với trạng thái phân thân về tinh thần trong toàn bộ xã hội. Tấn trò lớn diễn ra ở Đại lục sau Thiên An Môn gồm những thông tin không chính thức, những bài vè chính trị nhạo báng, những chuyện tiếu lâm tục tĩu, qua đó người ta xả bất bình, người ta chê cười chính trị, đồng thời điều hòa không khí lúc tiệc tùng và giảm bớt căng thẳng. Trung Quốc quả thật đã bước vào một “thời đại hí lộng”. Không kể các kiểu chương trình buổi tối, kênh giải trí, hài kịch và những tiết mục hề trên truyền hình, giới lãnh đạo và bộ sậu quan liêu chính là nguồn vô tận cung cấp chuyện cười và vè dân gian giễu cợt; hầu như ai trong dân chúng cũng có sẵn một chuyện tiếu lâm tục tĩu nhuốm mầu chính trị trên môi; ở địa phương nào cũng lan truyền những bài vè nhạo. Tất cả những thứ đó là ngôn ngữ chung thực sự của dân chúng Đại lục, công khai đối diện với ngôn ngữ trong vòng kiểm soát của nhà nước trên các phương tiện truyền thông công cộng ở đầu bên kia trục đường kính. Chỉ hấp thu những thông tin thường nhật trên truyền thông nhà nước, ta tưởng đang sống trong thiên đường. Chỉ hàng ngày góp nhặt thông tin từ những chuyện bàn tán vỉa hè, ta lại thấy đang ở trong địa ngục. Bên này miêu tả toàn ánh sáng, bên kia chỉ trưng ra bóng đêm tăm tối. Những thông tin trong nội bộ dân chúng không thể đem ra ánh sáng công bố và truyền bá giữa thanh thiên bạch nhật, chúng dừng lại trong phạm vi cá nhân hạn hẹp. Cấm đoán chính thức hay bán chính thức đủ mọi kiểu của chính quyền sinh ra một hệ thống ngầm, nơi giới thống trị chia nhau tài sản quốc dân và sắp đặt mưu mô chính trị sau cánh gà. Tin tức phi chính thống lan truyền trong dân chúng cũng sinh ra một hệ thống ngầm, lời đáp cho chế độ đàn áp, nơi nỗi bất bình của dân chúng tìm kênh xả sau cánh gà. Trong cấu trúc kép của hệ thống ngầm ấy, tất cả dân chúng Đại lục cùng tuân thủ những luật lệ như nhau, dù đó là những luật lệ vô hình của một hệ thống chính quy.


Sống trong sự tương phản khổng lồ này, những kẻ vô liêm sỉ không hề thấy có gì là thiếu nhất quán: chế độ cộng sản bị nguyền rủa và phỉ nhổ sau lưng vẫn đứng vững, giới quan chức cộng sản cao cấp bị toàn dân Trung Quốc chửi nát vẫn sống khỏe, bên bàn tiệc đi kèm những phi vụ làm ăn người ta vẫn thi tài tiếu lâm chính trị, kể chuyện bậy về lãnh đạo là thông lệ lúc cụng li.


Nếu uất ức, khổ đau, bất công và bức xúc ở các tầng lớp dưới trong xã hội xuất phát từ cảm xúc thực thì sự căm phẫn ở những người đang hưởng lợi từ hệ thống hiện tại (tức tầng lớp thống trị, mọi giới tinh hoa và cổ cồn ở thành thị) biến hóa thành một trạng thái tự sướng trong những buổi chiêu đãi tiệc tùng.


Nhưng bất bình và nhạo báng đã đánh mất độ sắc nhọn và sức mạnh đạo đức thực sự của nó từ lâu. Tiệc tan thì nó cũng tàn. Nó không có một tác động nhỏ nhất nào đến lối hành xử của người ta trước công luận. Sự tự sướng ấy trong xã hội dân sự là một thứ ma túy, công dụng là gây mê, người ta mê man trong tiếng lật bài xì phé, trong tiếng lách tách của những quân mạt chược và trong những trận cười bên bàn nhậu. Khổ đau, u tối và bất bình cũng là những món hàng tiêu thụ. Song khi những trận cười qua đi thì mọi sự vẫn nguyên như cũ: Cần nói dối thì nói dối, cần đê tiện thì đê tiện, cần thủ đoạn thì phương tiện nào cũng không từ…


Trạng thái tinh thần ở Đại lục thời hậu toàn trị vừa phân liệt, vừa thống nhất. Ứng xử trong hệ thống và ứng xử ngoài hệ thống, ngôn ngữ chính quy và ngôn ngữ của xã hội dân sự, khoảng cách giữa thái độ ngoài mặt và lời thậm thụt sau lưng, giữa hiện thực bi đát và sân khấu hí lộng, tất cả đã đạt tới một quy mô kinh hoàng. Nhưng sự phân liệt đó lại thống nhất một cách thần kì trong lối sống vô liêm sỉ, khi hiện thực đau đớn được chuyển thành trò cười của toàn dân, bất bình xã hội hóa thân thành tự mê man, nhạo báng giới thống trị thoái hóa thành tự sướng. Ngoài hưởng thụ và tiêu thụ dường như chẳng còn lại gì, trừ hình ảnh méo mó của “tư duy quản trị”: chà đạp lên tất cả để tối ưu hóa lợi nhuận cho bản thân.


Viết tại nhà, Bắc Kinh ngày 15-9-2004


Nguồn: Dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die geistige Landschaft in posttotalitärer Zeit”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 34-45. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Các chú thích đều của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra


Ảnh: Hàng chục ngàn thanh niên trong lễ kỉ niệm 90 năm ngày thành lập ĐCS Trung Quốc tại Trùng Khánh. Ảnh: Tân Hoa xã

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 12, 2013 05:37

August 10, 2013

Phong cảnh tinh thần thời hậu toàn trị (2)

Lưu Hiểu Ba


Phạm Thị Hoài dịch


Xem kì 1


Về môi trường xã hội, hệ tư tưởng của những người cộng sản Trung Quốc bị cắt rời khỏi lịch sử, và kí ức của nhiều thế hệ thì hoàn toàn trống rỗng. Từ khi Đảng Cộng sản giành được chính quyền, dân chúng ở Đại lục Trung Hoa đã trải qua đủ kiểu thảm họa khó lòng hình dung, nhưng thế hệ sau 1989 là thế hệ tuyệt đối không phải mang nặng một kí ức nào về một thời cơ cực, không nếm trải sự đàn áp có hệ thống và nhà nước công an trị, chỉ thỉnh thoảng có chút kinh nghiệm trực tiếp của bản thân rằng “có tiền là xong hết” và “có quyền là có tiền”; còn để có được “ảnh hưởng xã hội” thì “không từ một phương tiện nào”, trong mắt họ người thành đạt là người trở thành tỉ phú qua đêm và tung tẩy như minh tinh trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Vì thế, hiển nhiên họ không có lấy một gram kiên nhẫn khi nghe kể về những thảm họa trong lịch sử và những bóng đen trong hiện tại. Họ cho rằng cứ lải nhải mãi về những kẻ hữu khuynh, về Đại nhảy vọt, về Cách mạng Văn hóa, về Sự kiện Lục Tứ, cứ suốt ngày phê phán chính phủ và triền miên vạch trần những mặt tối của xã hội thì nào có ích gì. Chẳng phải là chính họ, với đời sống đầy đủ tiện nghi và thông tin chính thống đủ loại do nhà nước cung cấp, đang là bằng chứng cho thấy Trung Quốc đã tiến bộ vượt bậc đó sao.


Ngoài mặt thì anh hùng, bên trong thì thỏ đế, đạo đức và lương tri thì hoàn toàn trống vắng.


Về môi trường gia đình, giới trẻ ngày nay phần lớn đều là con một, vì thế ở nhà họ là những ông “vua con”. Từ nhỏ đến lớn họ hưởng thụ một lối sống ích kỉ, chẳng bao giờ phải lo chuyện cơm áo. Họ không đích thân nếm trải sự cực nhọc mà thế hệ cha mẹ họ phải kinh qua để vươn lên. Họ được giáo dục thuần túy trong ý thức lấy mình làm trung tâm, tất cả đều phải chiều theo ý họ, họ thiếu hẳn cảm giác về những vấn đề của người khác. Nếu thi đỗ đại học, họ trở thành những chú chó cưng trong gia đình và những đứa trẻ được thường xuyên xoa đầu trong xã hội. Cho nên họ được gia đình nuông thành những kẻ tuyệt đối vị kỉ và được xã hội đẩy đến chỗ lấy tính toán thiệt hơn về thành công và tiêu thụ làm niềm vui sống. Cũng như vậy, bận tâm lớn nhất của đại đa số học sinh nông thôn thi đỗ vào các trường lớn không phải là làm cách nào giúp nông dân thoát nghèo và kì thị, mà là làm cách nào sau khi tốt nghiệp trở thành một siêu nhân thành thị thành đạt, để rũ bỏ hẳn kiếp lầm than của cha mẹ. Sinh viên ở những vùng nông thôn coi quan điểm đó là đương nhiên.


Những năm gần đây, cơn cuồng loạn của chủ nghĩa dân tộc trong xã hội dân sự ở Đại lục còn vượt xa thái độ chính thức của nhà nước; giới trẻ là những người hân hoan nhất với chủ nghĩa dân tộc; đặc biệt chủ nghĩa bài Mỹ, bài Nhật và phản đối sự độc lập của Đài Loan từ lâu đã trở thành những chủ đề quan trọng để thế hệ trẻ ở Đại lục bày tỏ ý thức dấn thân cho Tổ quốc và xả hận thù quốc gia. Vụ máy bay Mỹ đụng máy bay Trung Quốc [i], vụ thác loạn tập thể của người Nhật trong một khách sạn ở Châu Hải [ii], vụ sinh viên Nhật “nhục mạ Trung Quốc” tại Đại học Tây Bắc [iii], vụ Thủ tướng Nhật Koizumi viếng thăm Đền Yasukuni, vụ một phụ nữ người Hoa, bà Zhao Yan, bị cảnh sát Mỹ hành hung [iv], trận chung kết Cúp bóng đá châu Á giữa Trung Quốc và Nhật Bản [v] – tất cả những sự kiện đó đều là dịp để các nhà yêu nước trẻ tuổi hun nóng cảm xúc và phẫn nộ tập thể, và biến một con muỗi thành một con voi. Trong cái ngôn ngữ côn đồ ngày càng dữ dằn của chủ nghĩa dân tộc trên mạng, lòng ái quốc lẫn vào những lời chửi rủa văng mạng và tiếng la hét đòi nợ máu. Nhưng cái chủ nghĩa yêu nước đang trỗi dậy này không đủ sức để ngăn cản lối sống cơ hội, chưa nói đến sự im lặng phổ biến trước bạo lực từ phía chính quyền, còn bản thân chính quyền lại làm ngơ trước bạo lực xã hội. Bào mòn năng lực cảm thông và triệt tiêu ý thức về công lí đã trở thành một thứ bệnh thời thượng của xã hội; chẳng ai buồn đoái hoài tới người già gục ngã ven đường, chẳng ai cứu cô bé nhà quê trượt chân rơi xuống nước; cướp đường xông lên tàu, hành hung và hãm hiếp phụ nữ ngay tại chỗ mà không một ai trong số trai tráng tuổi từ 20 đến 40 ngồi chật toa đứng lên chống cự; du đãng bắt cóc và kéo lê hai thiếu nữ cả trăm mét cho thiên hạ thấy mà tất cả đều trố mắt đứng nhìn, không một ai giơ tay ra giúp… Những tin tức về hiện trạng xã hội khiến ta phải rùng mình như thế không phải là hiếm trên truyền thông ở Đại lục, ngay cả trong một số chương trình trên Truyền hình Trung ương.


Chủ nghĩa dân tộc của thế hệ những người Trung Quốc trẻ tuổi là thế: bề ngoài khua võ miệng, bề trong đớn hèn. Cô sinh viên đứng dậy hỏi ông Clinton một câu không mấy thân thiện và đầy tinh thần ái quốc khi ông đến Đại học Bắc Kinh diễn thuyết nhân chuyến thăm Trung Quốc năm nào, bây giờ đã kết hôn với một người Mỹ. Những câu chuyện kịch tính như vậy tất nhiên là đề tài cho truyền thông khai thác và cũng khuấy động dư luận một thời gian. Nhưng đáng buồn hơn nhiều là đối diện cái mâu thuẫn giữa lời nói và hành động ấy, giới trẻ không hề thấy rối trí hay phải tự hoài nghi gì hết; họ chửi Mỹ cũng thản nhiên như việc họ sang Mỹ du học. Khi chửi Mỹ, họ đầy lòng phẫn nộ thành thực. Khi ngồi trên máy bay thẳng hướng Boston họ vui như Tết, và niềm vui ấy cũng lại thành thực nốt.


Cách đây vài ngày tôi đọc trên mạng một lời mời kí tên leonphoenix, mở đầu như sau: “Tôi thích sản phẩm Mỹ, tôi thích phim bom tấn của Mỹ. Tôi thích tinh thần tự do của Mỹ. Tôi ngưỡng mộ sự vĩ đại và phồn vinh của Mỹ, nhưng suốt ngày tôi cùng bạn bè hô ‘Đả đảo bọn Yankee!!!’, vì đó là phản ứng bản năng tất yếu của đám đông nhu nhược.” Đó là sự thật về cái chủ nghĩa yêu nước vô liêm sỉ mà những con người này truyền bá nặc danh trên Internet.


Không có gì đáng ngạc nhiên khi một số giáo sư có khuynh hướng cởi mở phải than rằng: sinh viên là những người chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nền giáo dục theo hệ tư tưởng chính thống suốt thập niên 90.


Trong những vấn đề liên quan đến Đảng Cộng sản, thái độ của thế hệ trẻ cũng vô liêm sỉ chẳng kém. Tuy gần đây số sinh viên làm đơn xin vào Đảng tăng mạnh, nhưng số người thực sự tin ở chủ nghĩa cộng sản cũng hiếm như những người trong giới trẻ dám nói “Không” với tiến trình dã man hóa xã hội một cách hệ thống và đi liền với nó là bạo lực.


Cô sinh viên năm xưa ở Đại học Bắc Kinh, nay đã kết hôn với một người Mỹ, có từng là hay vẫn đang là đảng viên cộng sản hay không, tôi không biết. Nếu không thì thái độ của cô không hoàn toàn khớp với lối sống điển hình của giới trẻ ở Đại lục. Nếu có thì những phát ngôn của cô khi còn ở trong trường và lựa chọn sau khi tốt nghiệp là ví dụ hết sức điển hình cho giới trẻ ở Đại lục: một sự chú trọng những tính toán vật chất quá mức bình thường, một lối sống đặt tiêu điểm vào nỗ lực tìm kiếm lợi nhuận cao nhất cho bản thân. Nói cho có phần nhẹ nhàng thì đó là sự bừng tỉnh của ý thức lợi nhuận ở các cá nhân, còn không thì có thể đơn giản gọi đó là bon chen cơ hội. Họ không tin ở chủ nghĩa cộng sản nhưng lại muốn vào Đảng, họ ngây ngất trong tinh thần ái quốc đả đảo Mỹ nhưng lại chạy theo mọi thứ mốt từ Mỹ tràn sang. Song điều đáng kinh ngạc nhất là: họ không hề thấy thái độ của mình có gì là mâu thuẫn và lại càng không hề thấy có gì phải băn khoăn. Trái lại, họ tự thấy mình rất ổn. Chừng nào còn kiếm chác được, họ còn thấy mình đã khôn ngoan chọn đúng đường.


(Còn tiếp)



Nguồn: Dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die geistige Landschaft in posttotalitärer Zeit”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 34-45. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Các chú thích đều của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra


Ảnh: Biểu tình chống Nhật tại Trung Quốc 2012. Nguồn: New York Times




[i]  Ngày 1-4-2001, một máy bay do thám của hải quân Mỹ đụng độ một máy bay tiêm kích Trung Quốc ở không phận gần đảo Hải Nam.




[ii] Tháng 9-2003, một công ti xây dựng Nhật Bản tổ chức 15 năm ngày thành lập trong một khách sạn 5 sao tại Châu Hải, với 400 đàn ông Nhật và 500 gái điếm Trung Quốc ba ngày liên tục, đúng dịp 72 năm ngày Nhật chiếm đóng Mãn Châu.




[iii] Tháng 10-2003, một nhóm sinh viên Nhật tại Đại học Tây Bắc đeo dương vật giả và vú giả đến một buổi khiêu vũ, rồi thóa mạ rằng đó chính là hình ảnh của người Hoa.




[iv] Tháng 7-2004, bà Zhao Yan, một doanh nhân Trung Quốc bị nghi oan là tòng phạm trong một vụ buôn lậu cần sa và bị cảnh sát Hoa Kỳ hành hung thô bạo.




[v] Năm 2004, kết quả: Nhật chiếm giải vô địch châu Á

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 10, 2013 16:46

August 8, 2013

Phong cảnh tinh thần thời hậu toàn trị (1)

Lưu Hiểu Ba


Phạm Thị Hoài dịch


Đặc điểm quan trọng nhất của thời hậu toàn trị là: một mặt, trong sự khủng hoảng tính chính danh của mình, giới thống trị tìm mọi cách bám chặt lấy nền chuyên chế, nhưng hiệu quả của sự cai trị ấy suy giảm từng ngày;  mặt khác, dân chúng không còn tự đồng nhất với các hệ thống chuyên chế nữa, một xã hội dân sự bột phát lan rộng, tuy trước mắt chưa đủ sức thay đổi những guồng máy hiện tồn tại, nhưng với sự đa nguyên hóa xã hội mỗi ngày một mạnh trong kinh tế và trong các quan niệm về giá trị đang như những giọt nước không ngừng xói ruỗng sự trơ cứng vôi đá của hệ đồng phục chính trị.


Cụ thể về tinh thần, Trung Quốc hậu toàn trị đã bước vào “thời đại vô liêm sỉ”: không còn một đức tin nào nữa, lời nói một đằng hành động một ngả, trái tim và cửa miệng không cùng một ngôn ngữ. Mọi người (kể cả cán bộ cao cấp và đảng viên) không còn tin vào những văn bản quy định chính thức, người ta hết mình cho lợi nhuận thay vì cho sự trung thành và lí tưởng; nguyền rủa, phê phán và nhạo báng “Đảng vĩ đại, quang vinh và tốt đẹp“ từ lâu đã trở thành mốt trong những buổi tiệc tùng và giải trí của xã hội dân sự, để rồi trước cám dỗ và áp lực của lợi nhuận đại đa số lại đồng thanh ca ngợi theo đúng giọng Nhân dân Nhật báo khi chính thức xuất hiện trước công luận. Dường như hết lời tụng ca trước mặt và hùng hồn chửi bới sau lưng từ lâu đã biến thành một phản ứng theo tập quán của người Trung Quốc.


Giới tinh hoa trong hệ thống thì phân liệt. Họ là lớp người thế hệ trung niên, thành công trong hệ thống và bề ngoài gây ấn tượng là những kẻ hoạt động trong “hậu trường”. Trước công luận họ trả bài như vẹt, họ không bỏ qua dịp nào để tiến thân, nhưng ở chốn tiệc tùng riêng tư thì họ lại dùng một ngôn ngữ hoàn toàn khác, đại loại: “Mình trong guồng, cậu ngoài guồng, nhưng đều nghĩ như nhau cả thôi, chỉ hình thức là khác. Ở ngoài thì cậu hô hoán, còn mình thì xắn tay giải quyết việc bên trong…” Họ có thể rỉ tai ta vài ba tin tức, gọi là tin nội bộ, và phân tích tình hình chính trị cũng như các hậu quả; họ có thể miêu tả cá tính của từng vị trên thượng tầng quyền lực và tiết lộ ai là người nhiều triển vọng nhất để trở thành một Tưởng Kinh Quốc[1] ở Đại lục; đúng thế, họ thậm chí có thể giải thích về diễn biến hòa bình khiến ta phải ngỡ ngàng.  Họ tin rằng động lực mạnh nhất cho thắng lợi của diễn biến hòa bình bắt nguồn từ phe cấp tiến của họ trong guồng máy, gồm những người “tuy ở trong hệ thống nhưng trái tim đặt ra ngoài”; hơn nữa càng lên cao thì mặt nạ càng tinh xảo, những động thái trong bóng tối càng gây tác dụng và tỉ suất thành công của đòn tấn công kép, từ trong ra và từ ngoài vào, càng cao. Câu mà tất cả bọn họ hay nói nhất là: Có rất nhiều người tốt trong hệ thống đang tìm cách thay đổi và đang làm những điều quan trọng cho cải cách chính trị hơn hẳn những mũi tấn công từ bên ngoài. Mỗi lần trò chuyện với họ ta đều có ấn tượng rằng người nào cũng kiên định theo đuổi những lí tưởng cao đẹp, cũng đầy khả năng kháng cự, cũng bền bỉ và cũng đủ khôn ngoan chính trị như Gorbachev. Có lẽ thuở bé tôi đã xem hơi quá nhiều phim về các lãnh tụ cách mạng, có lẽ tôi đã quá bị đầu độc để thỉnh thoảng có thể thực sự hình dung họ như những nhà hoạt động hậu trường khôn ngoan và sành sỏi đang lặn sâu vào hang ổ kẻ thù.


Không chỉ trong giới công chức nhà nước, ở mọi lĩnh vực khác: trong giới truyền thông, giáo dục, văn hóa, kinh tế… ở đâu ta cũng gặp những hiện tượng như trên. Một người quen của tôi, sau sự kiện Thiên An Môn xoay sang làm kinh tế và phất mạnh, tỉnh thoảng thể nào cũng mời bạn đến ăn uống linh đình, lần nào anh ta cũng hăng say luận tình hình thế giới và lấy cả lương tâm lẫn danh dự ra mà thề rằng mình làm kinh tế và kiếm tiền hoàn toàn không phải vì đồng tiền, mà vì những dự định lớn lao sẽ thực hiện một ngày nào đó trong tương lai.


Họ liệt kê những ý nghĩa của bước đi này: Thứ nhất, rằng việc tham dự trực tiếp vào tiến trình định hướng thị trường và tư hữu hóa sẽ cung cấp những nền tảng kinh tế quan trọng nhất cho tiến trình dân chủ hóa chính trị. Thứ hai, rằng trong tương lai, những người bạn có thể lâm nạn vì rời bỏ guồng máy để quay về với giới đối lập chính trị bên ngoài hệ thống sẽ được dựa vào nguồn kinh tế mà họ thâu tóm được. Câu mà họ ưa nói nhất là: Không có tiền thì không thể làm cách mạng, càng muốn thắng lợi nhiều trong tương lai thì hiện tại càng phải làm ra nhiều tiền để đảm bảo một nền tảng kinh tế vững chắc. Thứ ba và quan trọng hơn, họ tin rằng một cuộc cách mạng do những người có tiền thực hiện sẽ là một cuộc cách mạng ít tốn kém nhất, vì thị trường đã dạy họ rằng với một dự toán chính xác về chi phí và lợi ích thì sẽ không thể xảy ra một cuộc cách mạng giá thành quá cao mà chẳng mang lại điều gì. Nếu những người có tiền có chân trong chính phủ thì xác suất xảy ra một cuộc cách mạng bạo lực sẽ nhỏ nhất và ngược lại, cơ hội cho một cuộc cách mạng hòa bình, từng bước, sẽ rất lớn.


Vì thế họ không ủng hộ mà cũng không phê phán Học thuyết Ba Đại diện[2] và Chủ nghĩa Tam dân Mới [3]. Họ cho rằng tuy những thứ đó luôn mạnh hơn thuyết cách mạng của Mao Trạch Đông và cũng mạnh hơn thuyết bốn nguyên tắc của Đặng Tiểu Bình [4], thậm chí một số người còn tin rằng chúng là bước mở đầu, đánh dấu sự chuyển biến trong thái độ thù địch nhân tính của chính quyền cộng sản, giống như việc dùng bông xốp của văn hóa đại chúng bọc giai điệu rực lửa cách mạng, nhưng so với lưỡi dao lạnh lùng của khẩu hiệu thì như thế vẫn tốt hơn.


Điều đáng tiếc nhất trong tình trạng bỏ bễ cả một thế hệ những người trẻ tuổi là họ cũng bị sự vô liêm sỉ hóa cuộc sống này nuốt chửng.


Hậu quả của những cuộc thanh trừng sau Sự kiện Lục Tứ là hàng loạt vụ khai trừ Đảng, nhưng những người tự động ra khỏi Đảng còn nhiều hơn, và mỗi năm số lượng đảng viên mới kết nạp cứ giảm dần. Tuy nhiên, sau một thập niên theo lệnh chôn vùi kí ức cùng những cám dỗ của đặc quyền đặc lợi, ngày nay số người trẻ làm đơn xin gia nhập Đảng lại tăng dần. Những năm gần đây, để minh họa sự hấp dẫn của Đảng Cộng sản đối với giới trẻ, cứ đến dịp kỉ niệm ngày thành lập Đảng mồng 1 tháng Bảy chính quyền lại công khai nhấn mạnh số đơn xin gia nhập Đảng của giới trẻ, đặc biệt là trong giới sinh viên. Theo Truyền hình Trung ương Trung Quốc, số sinh viên xin gia nhập Đảng tăng lên đến 60 %. Thông tin này cũng khớp với một số liệu khác mà truyền thông nhà nước loan báo: 65 % giới trẻ đánh giá cao Đảng Cộng sản Trung Quốc. Về động cơ xin gia nhập Đảng và thái độ ủng hộ Đảng thì những bản tin này chuyển trọng tâm từ lí tưởng sang thực dụng: Không ai nhắc đến cương lĩnh, mục tiêu của Đảng hay những lí tưởng cộng sản cao đẹp, tinh thần chiến đấu của Đảng lại càng không. Người ta tránh xa những thứ ấy và chỉ nhấn mạnh những thành tích vinh quang của những người cộng sản Trung Quốc, từ tuyên ngôn “nhân dân Trung Quốc đã vùng lên” của Mao Trạch Đông đến khẩu hiệu “nhân dân Trung Quốc đã giàu lên” dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình, để rốt cuộc là áp dụng Ba Đại diện và Tam dân Mới. Phương thức tuyên truyền ấy nhằm truyền đi thông điệp: Từ khi có chính sách mở cửa và cải cách, những người cộng sản Trung Quốc đã đạt được những thành công đập ngay vào mắt: một quốc gia hùng cường với uy tín lớn mạnh và phồn vinh cho tất cả mọi người – và vì thế Đảng Cộng sản sẽ ngày càng hấp dẫn trong mắt giới trẻ.


Người đứng ngoài quan sát có thể ngờ vực những con số chính thức nêu trên, nhưng chỉ cần hiểu chút ít về giới trẻ ngày nay là có lẽ không ai còn hoài nghi nữa. Thế hệ sau 1989, bạc nhược bởi phồn vinh và thực dụng, quan tâm chủ yếu đến những điều chẳng liên quan gì đến dấn thân xã hội, nhân văn cao cả, suy tư sâu lắng, chính trị tỉnh táo và những giá trị siêu hình. Đối diện với cuộc sống, thái độ của họ là thực dụng và cơ hội; những mục tiêu quan trọng trong cuộc đời họ là một biên chế công chức, tiền bạc hay xuất ngoại; những sở thích chính của họ là thời trang, tiêu thụ, phong cách sành điệu của các ngôi sao điện ảnh, trò chơi điện tử và những cuộc tình chớp nhoáng. Bởi lẽ trước khi một thế hệ thanh niên kịp trưởng thành thì nó đã bị môi trường nhỏ là gia đình và môi trường lớn là xã hội nhấn vào cái vạc nhuộm của ranh mãnh và ý thức đặc quyền.


(Còn tiếp)


Nguồn: Dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die geistige Landschaft in posttotalitärer Zeit”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 34-45. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Các chú thích đều của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra






[1] Tưởng Kinh Quốc (1910-1988), con trai Tưởng Giới Thạch, Tổng thống Đài Loan 1978-1988, mở đường cho tiến trình dân chủ hóa Đài Loan.




[2] Học thuyết Ba Đại diện do Giang Trạch Dân đề xướng năm 2002 (Đảng Cộng sản Trung Quốc đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, đại diện nền văn hóa tiên tiến và đại diện lợi ích của đông đảo nhân dân Trung Quốc) được đưa vào Hiến pháp Trung Quốc năm 2004.




[3] Chủ nghĩa Tam dân Mới do Mao Trạch Đông đề xướng năm 1940 (Dựa vào Liên Xô, dựa vào chủ nghĩa cộng sản, dựa vào nông dân) thay thế Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc, dân quyền, dân sinh).




[4] Bốn nguyên tắc do Đặng Tiểu Bình đề xướng sau Cách mạng Văn hóa: Trung thành với chủ nghĩa Marx-Lenin, trung thành với Đảng, trung thành với lãnh đạo, trung thành với tư tưởng Mao Trạch Đông.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 08, 2013 17:03

August 7, 2013

Người mình

Tưởng Năng Tiến


Mỗi công dân Việt Nam, nếu cố gắng vượt qua sự sợ hãi và vô cảm thì chắc chắn sẽ chấn hưng được dân khí. Dân khí mạnh buộc kẻ ác phải chùn tay và phải cư xử đúng mực.”


Võ Thị Hảo


Chinh nhân, lữ khách, người viễn xứ, kẻ tha hương, và những buổi sáng biệt ly “tiếng còi tàu như xé đôi lòng,” với những buổi chiều “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà,” cùng vô số những con thuyền không bến (đỗ) đều là những hình ảnh rất thường thấy trong thơ nhạc Việt Nam


Óc tưởng tượng của người mình quả là phong phú, sự phong phú quá cỡ này hoàn toàn tương phản với nếp sống tẻ nhạt (và ru rú như gián ngày) của phần lớn chúng ta. Phải đợi đến 1891 người Pháp mới tìm giùm ra Đà Lạt, và qua năm 2009 người Anh mới khám phá ra Hang Sơn Đoòng thuộc quần thể hang động Phong Nha – Kẻ Bàng ở Quảng Bình.


Tuy chả dám đi đến đâu nhưng khi đã lỡ phải bước ra khỏi nhà là người mình lại hay than thở, cứ như là sắp chết đến nơi vậy:


Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương!


Xa cố hương muôn trùng… chiều đông sương xuống lòng giá băng!


“Cố hương” ở tận mãi chân trời hay góc biển nào mà xa tới “muôn trùng,” nghe dữ dằn quá vậy?


Trong cuốn Một mảnh tình riêng, do nhà Văn Nghệ (VN) xuất bản năm 2000, Sơn Nam tâm sự:“Mẹ tôi đi làm dâu nơi xa nhà hàng năm mươi cây số đường giao thông hồi đầu thế kỷ khó khăn, vượt rừng qua hai con sông đầy sóng gió… Lâu năm lắm mẹ tôi với về quê thăm xứ một lần, tình trạng này tôi thử hư cấu, qua truyện ngắn ‘Gả thiếp về rừng’…


Khoảng cách “năm mươi cây số” này đủ làm cho không ít cô dâu kêu gào thảm thiết:


Má ơi đừng gả con xa.

Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?


Đàn bà, con gái đa cảm – đã đành. Đàn ông Việt Nam cũng vậy. Nhà văn Bình Nguyên Lộc chớ ai:


Lạnh thấm lòng, mưa mai lác đác,

Quán bên hè, uống tách cà-phê.

Nhìn ghe bỗng chạnh tình quê,

Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng.


Mà quê ông Bình Nguyên Lộc ở tận đâu lận? Chốn “muôn trùng” nào vậy cà? Thưa Tân Uyên, Bình Dương chớ đâu, cách cái quán cà phê mà ổng đang ngồi (bỗng chạnh tình quê) ở Sài Gòn cỡ chừng… ba mươi cây số!


Năm 1986 tôi có gặp lại tác giả Đò dọc (đôi lần) nơi một thành phố nhỏ, phía cực Bắc của tiểu bang California. Lần nào chúng tôi cũng ra ngồi ở cái quán tầu của người Hồ Nam, có tên là Hunan Restaurant chỉ vì “họ có bán cơm” – theo như nhà văn giới thiệu.


Trông ông buồn hiu và hơi lạc lõng khiến tôi thốt nhớ đến cái câu thơ cũ nhưng chỉ dám đọc thầm:


Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng .


Ông qua đời vào năm sau, năm 1987. Ông sống hết nổi (chắc) tại quá buồn!


Người di tản nào cũng buồn nhưng không mấy ai buồn tới chết (luôn) như vậy. Phần lớn, với thời gian rồi ai cũng nguôi ngoai, quên hết những chuyện phũ phàng nơi chốn cũ để lật đật hội nhập vào đời sống mới – theo ghi nhận của Người Buôn Gió:


Hóa ra mấy triệu người Việt ở hải ngoại, không phải tất cả là những người quan tâm đến đất nước như ta gọi tế nhị là  ‘lề trái’. Cũng như ở Việt Nam, nhiều người trong số họ sống hưởng thụ, ăn chơi, kiếm tiền gửi về cho người thân, thỉnh thoảng tham gia vài chương trình do sứ quán kêu gọi để lấy quan hệ thân thiện…


Y hệt trong nước, những người có tiền được khuyến khích từ đại sứ là thôi giờ đất nước đã ổn định rồi, có lòng với quê hương thì đóng góp từ thiện, quan tâm ba cái chuyện chính trị làm gì. Đại khái là đừng tham gia những chuyện mà chính quyền Việt Nam không ưa, cứ kiếm tiền rồi về Việt Nam tiêu, gửi về cho người thân, đóng góp từ thiện là cách hay nhất, an toàn nhất.


Số người Việt ở Châu Âu đa phần theo xu hướng sống này, nó cũng là bản chất chung của người Việt mấy chục năm gần đây ở trong nước… Dân Vệ chỉ thế thôi, đi đâu cũng vẫn thế.”


Ở Mỹ cũng thế sao?


Thì cũng gần như thế thôi, chứ biết làm thế nào hơn được. Xin xem qua bản tin (“Việt – Phi biểu tình chống Trung Quốc & CSVN”) của ký giả Thanh Hà, trên tuần báo Việt Tribune, số phát hành hôm 26 tháng 7 năm 2013:


“Nhờ vào sự phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ giữa các cộng đồng người Việt với nhau, và nhất là với cộng đồng người Phi Luật Tân, một cuộc biểu tình có tính cách lịch sử đã diễn ra rầm rộ tại trước hai sứ quán Trung Cộng và Việt Nam vào trưa ngày thứ Tư, 24 tháng 7, 2013 vừa qua…


Riêng tại California, rất nhiều hội đoàn, tổ chức cộng đồng xã hội nhiều thành phần từ khắp nơi đã đáp lại lời kêu gọi của ông Nguyễn Phú, Chủ tịch Hội HO San Franciso tổ chức phối hợp với cộng đồng người Phi. Tuy cuộc biểu tình do cộng đồng người Phi đứng ra kêu gọi, nhưng sự hưởng ứng tích cực và đông đảo đồng bào người Việt tham dự đã đem lại niềm phấn khởi và ý nghĩa đặc biệt cho cuộc biểu tình nầy.


Vùng Bắc Cali có các phái đoàn đồng bào quân dân đến từ Sacramento, San Rafael, Fresno, v.v… San Jose có phái đoàn hùng hậu trên 50 người do ông Trương Thành Minh, chủ tịch Cộng đồng Người Việt Quốc gia, hướng dẫn, gồm nhiều đồng bào, hội đoàn quân dân, và cả người hùng Lý Tống. Lại thêm có phái đoàn cũng khá đông đảo cùng đi với các ông Nguyễn Ngọc Tiên và Phan Quang Nghiệp tham dự với cờ xí biểu ngữ đủ loại.


Đặc biệt phải nói đến hai phái đoàn từ Nam Cali: Một từ Quận Cam gồm ông Phan Kỳ Nhơn cùng liên ủy ban chống CS và tay sai, và cô Phương Nam với 5 hội đoàn trẻ, lái xe từ 4 giờ sáng. Và phái đoàn từ San Diego do ông Bùi Sơn đã khởi hành từ 2 giờ sáng để lên SFO cho kịp giờ biểu tình vào buổi trưa. Sự đông đảo bất ngờ nói lên tinh thần đoàn kết cao độ của cộng đồng người Việt khắp nơi, cùng sung công góp sức đấu tranh cho một mục tiêu chung nhằm yểm trợ cho các tiếng nói đấu tranh trong nước để đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.”


Theo blogger Bùi Văn Phú (người mà tôi đã có dịp bắt tay trong cuộc biểu tình “có tính cách lịch sử” và “rầm rộ”này) thì khoảng 500 người Việt và Philippines trưa ngày 24-7-2013 đã tụ họp… trước Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc ở San Francisco để phản đối chính quyền Bắc Kinh lấn chiếm vùng biển Đông nam Á.”


Con số (hơi) hào phóng vừa nêu, xem ra, không chỉ khiêm tốn mà còn có vẻ tương phản với số lượng hàng trăm “hội đoàn quân dân” ở tiểu bang California – nơi mà người Việt tị nạn cộng sản quần tụ đông đúc nhất trên thế giới.


Nói cách khác, và nói nào ngay “tinh thần đoàn kết cao độ của cộng đồng người Việt khắp nơi, cùng sung công góp sức đấu tranh cho một mục tiêu chung nhằm yểm trợ cho các tiếng nói đấu tranh trong nước để đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam” – ngó bộ – cũng không cao gì mấy. Chắc cũng không hơn bên Đông Âu nhiều lắm đâu (vẫn) theo như nhận xét của Người Buôn Gió:


Tóm lại thì chuyện đấu tranh, dân chủ thì bên ngoài hải ngoại, chẳng phải ai cũng quan tâm đến. Phần lớn cũng muốn an phận, giữ hòa khí với chính quyền, thậm chí nhiều người dù ở bên ngoài vẫn còn sợ chính quyền Việt Nam…”


Về nỗi sợ hãi này, cách đây khá lâu, bà đã có lần phải năn nỉ: “Tôi e rằng chúng ta đã sợ quá mức cần thiết.” Tuần rồi, tôi lại nghe môt vị anh thư khác, nhà văn Võ Thị Hảo van nài:


Mỗi công dân Việt Nam, nếu cố gắng vượt qua sự sợ hãi và vô cảm thì chắc chắn sẽ chấn hưng được dân khí. Dân khí mạnh buộc kẻ ác phải chùn tay và phải cư xử đúng mực.”


Kẻ ác, bọn giặc ngoại lẫn nội xâm – rõ ràng – có đủ lý do để không “chùn tay” cũng như không “cư xử đúng mực” với… người mình!


______________


Ảnh: Khoảng 200 người, một số từ Quận Cam và San Diego đi xe đò qua đêm lên San Francisco tham gia biểu tình. Ảnh: Bùi Văn Phú


© 2013 Tưởng Năng Tiến & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 07, 2013 10:32

August 4, 2013

Đường sữa trong tù

Phạm Thị Hoài


Truyền thông nhà nước lại vừa trưng ra danh sách thực phẩm mà gia đình gửi vào cho người tù Nguyễn Văn Hải Điếu Cày để kết luận rằng ông dựng “màn kịch tuyệt thực”. Cách đây không lâu, nghe ông rằng ông Cù Huy Hà Vũ “sẽ không chết, trong tù đường sữa rất nhiều”, tôi bất giác nhớ đến câu chuyện ly sữa của nhà văn Nhã Ca [1].


Bà Nhã Ca, có tên trong danh sách những tên “biệt kích văn hóa”, bị bắt trong chiến dịch khởi động ngày 3 tháng Tư năm 1976, một năm sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, cùng hàng trăm nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, nhân sĩ miền Nam bị xếp hạng “phản động”: Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Hữu Hiệu, Hoàng Anh Tuấn, Thân Trọng Kỳ, Hoàng Vĩnh Lộc, Trịnh Viết Thành, họa sĩ Chóe, Như Phong Lê Văn Tiến,  linh mục Trần Hữu Thanh, linh mục Đinh Bình Định, thượng tọa Thích Huyền Quang… Một trong những người trực tiếp thẩm cung bà là họa sĩ Ớt, tức nhà báo Huỳnh Bá Thành, sau này là Tổng biên tập báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh.


Sau mấy tháng biệt giam trong cát-sô vì “ngoan cố” không chịu nhận tội và không chịu tố giác người khác, sức khỏe bà suy kiệt. Một cán bộ thuộc Sở Bảo vệ Văn hóa Chính trị sai nhân viên đem đến cho bà một ly sữa. Sữa ấy không phải của nhà tù cấp, mà do con bà gửi vào. Ông ta cho biết lí do bà được uống sữa: “Chúng tôi đã cứu xét xong trường hợp của chị. Tôi được lãnh đạo cử tới chỉ để giúp đỡ chị. Từ nay chị sẽ có cơ hội được bồi dưỡng để hồi sức. Đợt làm việc này có thể là lần chót, để giúp chị an tâm tư tưởng. Chị Nhã Ca, chị uống sữa đi chứ.”


Sáng nào nhân vật này cũng hộ tống bà từ phòng giam nữ, diễu qua những dãy phòng giam tập thể khác đến lớp học về nọc độc của văn hóa Mỹ ngụy và chính sách nhân đạo của cách mạng. Theo sau là một nhân viên cung kính bưng ly sữa bốc khói. Bà không chịu nổi đám rước sữa trình diễn lòng nhân đạo hay đòn phép ơn huệ ấy. Xin nhắc lại, sữa ấy không do nhà tù cấp, mà là của gia đình gửi vào. Nhưng bà không từ chối được. Người ta ép bà uống, vì “chúng tôi chỉ muốn tạo điều kiện [2] giúp chị mau phục hồi, trở về với các cháu”. Ly sữa được đặt lên bàn bà. Cán bộ giảng chính sách khoan hồng của cách mạng nói: “Như chị Nhã Ca kìa. Trong những buổi lên lớp vừa qua, tôi đã phân tích rõ các cuốn sách phản động, cản bước tiến cách mạng của chị ấy. Vậy mà các anh quay lại coi. Cách mạng đã đối xử với chị ấy như thế nào.” Bà Nhã Ca kể, nhiều người từ bàn trên đã quay lại và hình như tất cả đều tủm tỉm cười, không phải với bà mà với ly sữa để trước mặt bà. Ở một đoạn khác bà được giải thích rõ hơn về ơn huệ của cách mạng: “Cách mạng muốn giết chị, không cần phí một viên đạn. Bắt chị vào đây chỉ là thi hành chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng. Muốn giết, đã giết rồi.”


*


Cả hai vụ tuyệt thực của Cù Huy Hà Vũ và Nguyễn Văn Hải Điếu Cày đều cùng một diễn biến.


1. Người tù khiếu nại vì thấy mình bị đối xử bất công.


2. Khiếu nại không được tiếp nhận hay chuyển tới cấp có thẩm quyền. Người tù tuyên bố tuyệt thực cho đến khi nào khiếu nại được giải quyết.


3. Gia đình người tù ngẫu nhiên biết về vụ tuyệt thực qua một lần thăm viếng hoặc qua một bạn tù, khi vụ tuyệt thực đã kéo dài nhiều ngày.


4. Gia đình cùng đồng chí và bạn hữu của người tù gõ cửa các cấp có thẩm quyền và đánh động dư luận.


5. Truyền thông nhà nước hoàn toàn im lặng, trong khi truyền thông độc lập và truyền thông quốc tế đồng loạt lên tiếng.


6. Gần một tháng (trường hợp Cù Huy Hà Vũ) hoặc hơn một tháng (trường hợp Điếu Cày) từ ngày người tù tuyên bố tuyệt thực, các cơ quan chức năng mới đáp ứng yêu cầu của người tù là tiếp nhận hoặc trả lời khiếu nại.


7. Người tù chấm dứt tuyệt thực.


8. Truyền thông nhà nước, chủ yếu dựa trên thông tin do báo và truyền hình công an cung cấp, đồng loạt đưa tin và hình ảnh vạch trần màn kịch tuyệt thực của người tù và các thế lực chống phá nhà nước.


9. Truyền thông độc lập và dư luận trên các mạng xã hội đáp trả bằng vạch trần sự lừa bịp của truyền thông nhà nước.


Tất cả những diễn biến điên rồ ấy, tất cả những khổ đau mất mát của người trong cuộc, tất cả bầu không khí đầy độc tố nhả ra từ nghi ngờ, thù địch, phẫn uất ấy lẽ ra không cần phải có, nếu chính quyền không muốn mọi chuyện phải xảy ra như thế. Không có gì đơn giản, dễ dàng, nhẹ nhàng và hữu hiệu hơn một cuộc gặp mặt công khai giữa ban giám thị trại giam, người tù, gia đình cùng đông đảo giới truyền thông trong và ngoài nước – chứ không chỉ một vài nhà báo công an – ngay khi có dư luận về cuộc tuyệt thực. Song dường như sông có thể cạn, núi có thể mòn, chính quyền Việt Nam sẽ không bao giờ hành động như vậy. Tất cả những diễn biến điên rồ ấy, tất cả những khổ đau mất mát của người trong cuộc, tất cả bầu không khí đầy độc tố nhả ra từ nghi ngờ, thù địch, phẫn uất ấy sẽ lặp lại, như chẳng bao giờ, chẳng bao giờ nguôi.


*


Nhà tù cho ta biết về một đất nước nhiều hơn nhà triển lãm quốc gia. Nếu được chọn một quốc gia để ngồi tù, tôi tin rằng không ai tự nguyện chọn Việt Nam, kể cả các ông chủ của hệ thống nhà tù ở đó. Một phòng giam như trong trường hợp ông Cù Huy Hà Vũ, được truyền thông nhà nước coi là ưu đãi, thậm chí là vương giả, nếu ở Đức sẽ bị coi là xúc phạm phẩm giá con người [3]. Song vấn đề không chỉ là sự khác biệt về điều kiện vật chất. Nhà tù xây bằng đá của luật pháp [4]. Luật pháp Việt Nam trên giấy trông cũng đẹp như ở nhiều nơi khác, nhưng nó chết ngay trong văn bản để sống bằng những chỉ dẫn siêu văn bản. Như chỉ dẫn “muốn giết, đã giết rồi”.


© 2013 pro&contra






[1] Nhã Ca. Hồi kí Một người mất ngày tháng, California 1991




[2] Trong chưa đầy hai phút trả lời phỏng vấn của Truyền hình Công an về việc Cù Huy Hà Vũ tuyệt thực, viên giám thị Trại giam tạo điều kiện đến 7 lần. Chẳng hạn, tạo điều kiện cho mua một cái quạt, như bằng chứng về sự quan tâm, nhân đạo của Ban Giám thị, mặc dù Cù Huy Hà Vũ không có thành tích, không “lập công”. Đơn giản là một cái quạt, vật dụng tối thiểu ở một đất nước nhiệt đới, trong một phòng giam chật chội và đóng kín, mua bằng tiền của chính tù nhân hay gia đình tù nhân.


[3] Bang Nordrhein-Westfalen ở Đức bị hai cựu tù nhân kiện vì họ phải ở chung trong một phòng giam chỉ rộng 7,6 mét vuông mà buồng vệ sinh chỉ được ngăn bằng một tấm vách chứ không khép kín, và đã phải trả tổng cộng 6700 Euro tiền đền bù thiệt hại, tính ra mỗi ngày 25 Euro. Một cựu tù nhân khác đang đòi bang Berlin trả 16.000 Euro tiền đền bù cho 659 ngày trong một phòng giam không xứng đáng với nhân phẩm. Bức hình kèm theo là ảnh chụp phòng giam đó.




[4] “Nhà tù xây bằng đá của luật pháp, nhà thổ xây bằng gạch của tôn giáo” (Prisons are built with stones of law, brothels with bricks of religion. – William Blake, The Marriage of Heaven and Hell, 1793)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 04, 2013 16:07

August 1, 2013

Những Tiếng Nói Ngầm và một thái độ nghiên cứu, phê bình cần được trân trọng

Diên Vỹ


Gửi Chu Giang, tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh,


Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội


Bài viết này bàn về “thái độ chính trị” Nhã Thuyên thể hiện trong tập tiểu luận Những tiếng nói ngầm đăng trên Da Màu từ 18 đến 26 tháng 10 năm 2012. Nó phản hồi bài viết “Có giải thiêng lịch sử được không?” của Chu Giang đăng trên tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh số 256, xuất bản ngày 30 tháng 5 năm 2013. Theo quan điểm của tôi “thái độ chính trị” của Nhã Thuyên không mâu thuẫn với một vị trí trong trường đại học chính thống của nhà nước. Tôi là bạn đọc, không có thẩm quyền gì để quyết định giữ Nhã Thuyên ở lại hay không, nhưng vẫn muốn góp lời. Khi một tác phẩm đã được biết tới thì người đọc là người có trách nhiệm với nó hơn.


Tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh không đăng ý kiến trái chiều. Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội đã yêu cầu Nhã Thuyên thôi việc. Sau đó báo chí dòng chính chuyển sự chú ý sang luận văn thạc sỹ về nhóm Mở Miệng Nhã Thuyên thực hiện và bảo vệ năm 2010, một văn bản chưa được công bố rộng rãi. Như Chu Giang viết trong số tiếp theo của Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, loạt tiểu luận của Nhã Thuyên không đáng bàn nhiều vì nó chỉ đăng trên internet, không mang tính pháp quy như luận văn. Tôi tưởng bài viết của mình đã thành “cũ” thì gần đây bắt gặp một bài báo lật lại Những tiếng nói ngầm với những phán xét nặng nề khiến tôi lại thấy mình muốn lên tiếng. Khi tiếp cận một tác phẩm chúng ta cần suy xét kĩ lưỡng từng câu chữ của nó chứ không nên căn cứ vào đề tài nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu hay một chuyện bên ngoài là tác giả nhận được tài trợ của một tổ chức quốc tế để quy kết những điều xấu. Nếu như người ta muốn phê phán những tư tưởng “sai lệch” thì tôi e rằng việc lấy Nhã Thuyên ra làm đối tượng là một nhầm lẫn đáng tiếc. Để góp lời vào một câu chuyện chung, tôi xin gửi bài viết của mình cho các diễn đàn, báo chí.


Hà Nội ngày 01 tháng 08 năm 2013


___________________


1. Giới thiệu


Trước cùng một văn bản người ta có thể có những đọc hiểu rất khác nhau. Dù không đồng tình, tôi xin ghi nhận cách Chu Giang tiếp cận chuỗi tiểu luận Những tiếng nói ngầm của Nhã Thuyên với bài viết “Có giải thiêng lịch sử được không?” đăng trên trang 16-17 tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh số 256, bộ mới, xuất bản ngày 30 tháng 5 năm 2013. Theo tôi hiểu, Chu Giang quan tâm đến việc đánh giá thái độ chính trị của người viết thể hiện qua tác phẩm. Ông cho rằng Nhã Thuyên đã lựa chọn một vị trí rõ ràng là chống đối chính quyền và phỉ báng lịch sử dân tộc, giống như những tác phẩm, tác giả mà cô ca tụng. Một người có thái độ chính trị như vậy theo ông không đủ tư cách để đảm nhận công tác giáo dục văn học trong nhà trường xã hội chủ nghĩa và bài viết của ông đề gửi Khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nơi Nhã Thuyên công tác. Đó là một nỗ lực bảo vệ thế hệ trẻ, chính quyền hiện thời và lịch sử của dân tộc đã qua. Nỗ lực này không phải là vô ích; tuy nhiên, tôi hiểu Nhã Thuyên khác với Chu Giang nên mong được trao đổi.


Tại thời điểm này cá nhân tôi đang làm việc cho một cơ quan nhà nước, có lòng tự hào dân tộc, kính trọng Hồ Chí Minh và ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng. Tuy vậy tôi vẫn xin được bất đồng với tất cả những luận điểm của Chu Giang về Nhã Thuyên. Thái độ chính trị của Nhã Thuyên nếu đúng như Chu Giang mô tả có mâu thuẫn với nhiệm vụ giảng dạy văn học trong nhà trường chính thống hay không, không phải là điều mà tôi quan tâm bởi thực sự tôi thấy Nhã Thuyên không có thái độ như thế. Trong bài viết này, tôi sẽ trình bày cách hiểu của tôi về thái độ chính trị Nhã Thuyên thể hiện qua chuỗi tiểu luận Những tiếng nói ngầm đăng trên Da Màu từ 18 đến 26 tháng 10 năm 2012. Tôi cho rằng cô ấy đã thể hiện một thái độ đúng đắn với đạo đức của một người làm công tác nghiên cứu và phê bình văn học. Đó là một thái độ trung lập với các đảng phái chính trị và chế độ xã hội nhưng cam kết theo đuổi trí tuệ và các giá trị nhân văn trong phạm vi nghiên cứu của mình. Theo tôi đây không phải là thái độ đúng đắn duy nhất nhưng đó là một lựa chọn cần được tôn trọng nếu như ngành nhân văn của Việt Nam muốn đem lại những giá trị nhân văn cho đời sống. Những tiếng nói ngầm chưa tìm được chỗ đứng trên diễn đàn văn học chính thống (Da Màu là một diễn đàn văn học mạng phi chính thống) nhưng việc Nhã Thuyên giảng dạy tại Khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội là một dấu hiệu đáng mừng hơn là đáng lo.


2. Vị trí của nhà phê bình: trung lập với các đảng phái chính trị, chế độ xã hội và cam kết với những giá trị nhân văn


Tôi không thấy Nhã Thuyên lựa chọn vị trí ca tụng “những tiếng nói ngầm”. Nhã Thuyên lựa chọn tìm hiểu “một phiến cảnh thơ ca còn chưa sáng rõ” và đã làm điều đó với sự trân trọng đối tượng nghiên cứu của mình. Người nghiên cứu, ngay cả khi tìm hiểu kẻ thù hay những tội nhân bị cả xã hội nguyền rủa, có lẽ cũng cần giữ cái đức ấy.


Tôi xin dẫn lại đoạn văn trong lời ngỏ của Nhã Thuyên mà chính Chu Giang đã trích: “Tôi muốn làm nổi bật lên qua các tiểu luận hình ảnh của một không gian văn học năng động với những tác giả tỏ ra cam kết với lựa chọn phản biện và đổi mới văn chương, những người dường như đang giữ chặt lấy vị trí bên lề của mình để nuôi dưỡng một kinh nghiệm chống đối, nuôi dưỡng tiềm năng sáng tạo một năng lực chống đối, sáng tạo một thế giới thay thế.”


Khi đọc đoạn văn bản này tôi để ý đến việc Nhã Thuyên dùng hai từ “tỏ ra” và “dường như” để bày ra một thái độ cẩn trọng. Còn không gian văn học đó có “năng động” hay không thì tùy quan niệm của từng người. Tôi đồng tình với cách dùng từ “năng động” của tác giả và không cho rằng tính từ ấy có nghĩa ngợi ca. Những sáng tác và ấn phẩm phi chính thống đang có đời sống của chúng. Dòng văn học phản kháng tồn tại trong bất cứ một chế độ xã hội nào chứ không phải chỉ là sản phẩm riêng của Việt Nam.


Đoạn văn vừa trích dẫn chỉ thể hiện đối tượng nghiên cứu của tác phẩm còn vị trí của người nghiên cứu được Nhã Thuyên trình bày ở một đoạn văn khác trong lời ngỏ: “Tôi đang ở giữa cái bên lề và trung tâm, ở giữa hiện tại và quá khứ, ở giữa những đứt gãy và kết nối, giữa những phân lập và sự nhập nhằng, giữa sự sáng tỏ và rối loạn, giữa sự đi lên và thoái hóa, tôi đang đứng chênh vênh để nhìn ra bên ngoài và nhìn vào bên trong, vừa như kẻ ngoại cuộc vừa như người trong cuộc, nhưng là lựa chọn không đứng về phía sự trấn áp.”


Vị trí Nhã Thuyên lựa chọn là sự chênh vênh ở giữa. Chu Giang trích dẫn lại rằng Nhã Thuyên lựa chọn “không đứng về phía trấn áp” và tự ngầm hiểu phía trấn áp là phía chính quyền. Thật ra bất cứ một cá nhân nào cũng có thể trấn áp những người khác. Theo tôi hiểu, “không đứng về phía trấn áp” có nghĩa là nhà phê bình không tìm hiểu dòng văn học phản kháng với sẵn mong muốn trấn áp nó.


Nhã Thuyên không viết phê bình với sự khách quan lạnh lùng của khoa học. Cô ấy chọn một đường hướng nghiên cứu nhân văn cam kết với sự trân trọng giá trị văn chương của “những hiện diện vắng mặt”. Sự trung lập mà tôi muốn nói ở đây là sự trung lập với các tham vọng chính trị nhằm xây dựng hay lật đổ một chính quyền. Nhã Thuyên đã rất kỹ tính khi không tự mình dùng một từ ngữ nào thể hiện định kiến với chính quyền và lịch sử dân tộc. Không biết nhầm lẫn của Chu Giang đã diễn ra như thế nào nhưng toàn bộ những từ ngữ thể hiện định kiến với chính quyền và lịch sử dân tộc là của các tác giả và tác phẩm mà Nhã Thuyên nghiên cứu hoặc chúng mô tả một vấn đề là đối tượng quan tâm của các tác giả và tác phẩm đó. Tôi đã cất công tìm xem cụm từ “sự thống trị dai dẳng của tư tưởng Hồ Chí Minh” mà Chu Giang trích dẫn được Nhã Thuyên sử dụng trong trường hợp nào và tìm thấy nó trong một câu viết tại đó nó được nhắc tới như một vấn đề mà các nhà thơ phản kháng quan tâm. Trong khi các nhà thơ phản kháng bày tỏ thái độ chống đối chế độ thì Nhã Thuyên không chọn vị trí đó. Người ta có thể đặt ra câu hỏi rằng tại sao Nhã Thuyên lại hứng thú với không gian văn học phản kháng nếu như cô ấy không muốn trấn áp hay tuyên truyền những luận điểm chống chính quyền. Tôi không biết rõ câu trả lời, và cũng không cần phải biết, nhưng nếu thử suy đoán, ta có thể thấy những lý do rất con người. Sự cấm kỵ một số đề tài nghiên cứu trong nhà trường có thể đã khơi gợi trí tò mò của nhà nghiên cứu. Cũng có thể cô ấy giàu lòng trắc ẩn với các thân phận bên lề. Hoặc thơ ca phản kháng có những giá trị văn chương thực sự cuốn hút.


3. Vấn đề nghiên cứu của Những tiếng nói ngầm: Mối quan hệ giữa thơ ca và chính trị


Tôi đã dành nhiều công sức để đọc các tiểu luận của Nhã Thuyên và thấy rằng nhà phê bình này xác định công việc của mình là đi tìm giá trị văn chương của những tiếng nói chống đối chứ không phải là phán xét thái độ chính trị của những tiếng nói ấy. Dòng văn học ngầm thường hấp dẫn người đọc bởi thái độ chính trị của nó, và Nhã Thuyên muốn hướng sự quan tâm của mình và bạn đọc sang một vấn đề khác: tính văn học nghệ thuật của những sáng tác có đặc trưng chính trị đó. Có thể nói văn học nghệ thuật không tách khỏi chính trị, nhưng chúng cũng không trùng khớp hoàn toàn nên tra vấn mối quan hệ giữa thơ ca và chính trị là một lao động trí tuệ có ý nghĩa. Với tôi, cách đặt vấn đề của nhà phê bình không hề gượng ép, nó hợp với những băn khoăn của tôi. Tôi không sẵn một tâm thế ngợi ca dòng văn học phản kháng. Tôi đã gặp những tác phẩm mà nếu không phải là bàn chuyện chính trị thì chẳng đáng chú ý vì chúng không có gì thú vị về ý tưởng hay ngôn từ. Ở một chiều khác, tôi nghĩ rằng không tìm hiểu giá trị văn chương của dòng văn học này thì không công bằng, với bản thân mình và nhất là với văn chương.


Chu Giang có thể không thừa nhận những giá trị văn chương của các tác phẩm và tác giả như Nhã Thuyên nêu ra, nhưng Nhã Thuyên không hề ca ngợi lập trường chống chế độ và phỉ báng lịch sử. Nhã Thuyên chỉ nhận định rằng trong lịch sử văn học Việt Nam thì dòng văn học phản kháng mà cô nghiên cứu đặt ra những câu hỏi về mối quan hệ giữa nhà thơ và thể chế, trình diễn những quan niệm mới về thi ca, và để lại một vài bài thơ làm cô xúc động. Nhã Thuyên xúc động trước Nguyễn Quốc Chánh chắc chắn không phải là vì cô có chung quan điểm chống chế độ và phỉ báng lịch sử mà vì ông là một con người có những nỗi đau, những tìm tòi và những câu thơ đẹp. Cô viết: “Đến giờ, tôi vẫn xúc động khi lần giở những trang sách cũ, lần giở những trang mạng để đọc ông, không phải một biểu tượng của chịu đựng và phản kháng, mà như một thi sĩ, kẻ luôn tìm cách vượt qua những giới hạn của cá nhân mình để tra vấn những tiềm năng thơ ca mới, những không gian mới cho thơ.” Chu Giang phê phán tư tưởng của Nguyễn Quốc Chánh, tuy nhiên điều này lại không hề liên quan tới Nhã Thuyên bởi cô không quan tâm tới việc phán xét thái độ chính trị của các tác giả đúng hay là sai, lợi hay hại cho sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Nhã Thuyên không thể trả lời câu hỏi nghiên cứu của Chu Giang vì đây không phải là công trình cộng tác giữa Nhã Thuyên và Chu Giang. Chu Giang sẽ cần tự viết riêng một tập tiểu luận khác để phát triển cách nhìn của mình. Những tiếng nói ngầm là sự xử lý hai câu hỏi nghiên cứu chính:



Mối quan hệ giữa nhà thơ về thể chế được gợi ra như thế nào từ những tiếng nói ngầm?
Đâu là những đóng góp mang tính thi ca của những tiếng nói ngầm?

Theo tôi đó là những câu hỏi nghiên cứu có chất lượng – nghĩa là chúng đáng để hỏi và có thể trả lời.


Khi một nhà phê bình tìm kiếm giá trị văn chương của dòng văn học ngầm thì chưa chắc ấy đã là một sự thiên vị bởi càng khát khao nhìn thấy cái hay cái đẹp thì người ta lại càng phải chất vấn những gì mình gặp. Nhã Thuyên chất vấn những tiếng nói ngầm một cách quyết liệt, nhưng không phải là chất vấn về tính đúng sai của quan điểm chính trị. Như tôi đã trình bày ở trên, đó không phải là câu hỏi nghiên cứu Nhã Thuyên đặt ra. Cô chất vấn tính thi ca và diễn đạt những chất vấn của mình với một thứ ngôn ngữ tôn trọng mọi người. Những người chờ đợi một thứ ngôn ngữ nhạo báng dòng văn học chống đối có thể thất vọng, nhưng những người có một số khúc mắc về giá trị văn chương của dòng văn học này có thể tìm thấy những sẻ chia. Nhã Thuyên không chỉ trình bày về các đóng góp của những tiếng nói ngầm mà còn chỉ ra những nguy cơ mà thơ ca phản kháng chế độ có thể rơi vào. Từ những phần viết của Nhã Thuyên tôi nhìn thấy ba nguy cơ chính. Một là phản kháng chế độ có thể bị biến thành một yếu tố câu khách. Nó thỏa mãn sự hiếu kỳ của người đời hoặc có thể tận dụng cho các mưu đồ chính trị. Hai là thơ ca phản kháng có thể không có giá trị thơ ca mà chỉ giống như việc người ta chống đối hoặc ủng hộ chế bộ bằng các hành vi khác. Ba là thơ ca phản kháng có khi cũng chỉ là sản phẩm nô lệ mà thôi. Cô viết: “Có điều, tự do là bất khả nếu chúng ta chỉ là sản phẩm nô lệ, dù ngợi ca hay chống đối…” Ở tiểu luận “Thơ ca của sự phủ định và sự phủ định thơ ca”, Nhã Thuyên gợi ra rằng tính chính trị của thơ ca không thể chỉ hiểu đơn giản là sự quan tâm tới việc chống đối hoặc ủng hộ chế độ. Thơ phản kháng cũng chẳng khác vì những văn bản tuyên truyền mà chính nó ghét bỏ nếu như nó không đạt tới tính chính trị của thơ ca- sự khơi dậy những điều mới mẻ.


Tóm lại, với cách đọc hiểu của tôi, tác phẩm Những tiếng nói ngầm của Nhã Thuyên về cơ bản là một nghiên cứu mang tính chất vấn chứ không phải là một trình hiện những luận điểm ca tụng. Nếu có cái gì đó khiến người ta có thể nhầm lẫn với sự tán dương thì ấy là sự trân trọng tác giả dành cho đối tượng nghiên cứu, sự tìm tòi và nâng niu những giá trị nhân văn.


4. Lời kết


Tác phẩm phê bình của Nhã Thuyên “có vấn đề” có lẽ chủ yếu là vì nó tìm hiểu một chủ đề bị cho là cấm kỵ. Cô nghiên cứu một mảng thơ ca viết bởi những người chống lại các định chế xã hội, nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là cô ra sức ủng hộ sự chống chế độ và giải thiêng lịch sử. Lẽ dĩ nhiên người ta có thể lý luận rằng những xúc động của Nhã Thuyên trước dòng văn học ngầm có thể xui khiến người đọc có cảm tình với dòng văn học này và từ đó họ có thể bị tiêm nhiễm những quan điểm, ngôn ngữ độc hại nào đó. Cứ cho là có khả năng như vậy đi thì tôi nghĩ rằng khả năng đó là quá nhỏ. Văn chương của Nhã Thuyên không phải là thứ dễ đọc. Người đọc của cô là những người có học và tự chủ về lập trường chính trị.


Chu Giang và Nhã Thuyên là những người phê bình ở những thế hệ cách nhau khá xa. Trong đời sống chính trị của cả nước, có những chủ đề cấm kỵ thời xưa nay đã được đem ra thảo luận công khai trước Quốc hội, ví dụ như luật hôn nhân đồng tính và đề xuất đổi tên đất nước. Có cần coi dòng văn học phản kháng là một đề tài cấm kỵ nữa không? Về bản chất, dòng văn học này khác với các vấn đề xã hội nêu trên ở chỗ nó công khai chống lại chính quyền hiện thời. Tôi không cho rằng các diễn đàn chính thống của nhà nước cần ủng hộ dòng văn học này bằng cách xuất bản những tác phẩm của nó hay đem vào nội dung giảng dạy của nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, tôi cũng không cho rằng cần phải cản trở và loại trừ những nỗ lực tìm hiểu dòng văn học phản kháng hay quy định sẵn rằng bất cứ nghiên cứu nào về dòng văn học này cũng phải nói xấu nó. Chúng ta có thể cần quan tâm tới thái độ chính trị của một người để xét duyệt một vị trí trong nhà trường chính thống, thì ngay cả khi ấy thái độ chính trị Nhã Thuyên thể hiện ở Những tiếng nói ngầm là một thái độ mang tính xây dựng nên được hệ thống trân trọng. Việc cô có một vị trí ở Khoa Văn trường Đại học Sư phạm đem lại môt hình ảnh tốt đẹp về một chính quyền tôn trọng tự do tư tưởng và ngôn luận. Đấy chẳng phải là một thành tựu hay sao?


© 2013 Diên Vỹ & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 01, 2013 15:22

July 31, 2013

Thẩm định Luận văn Thạc sỹ của Đỗ Thị Thoan: tính pháp lý và sự hợp lý

Lê Tuấn Huy


Về chuyên môn, sơ bộ, một số khía cạnh của Luận văn Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa đã được TS. Vũ Thị Phương Anh nêu ra trong bài “Về nhóm Mở miệng và chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism)”, và có thêm ý kiến qua cuộc [i]. Về pháp lý, nhà văn Phạm Xuân Nguyên đã nêu quan điểm tại báo Pháp luật TP. HCM.


Thật ra, việc Đỗ Thị Thoan bị cắt hợp đồng, PGS, TS. Nguyễn Thị Bình bị cách chức có thể được những người ra quyết định biện minh “hợp lý” bằng cách viện dẫn thẩm quyền nội bộ và lý do chuyên môn nào đó ít nhiều không liên quan, mà lời của người ngoài chỉ được tiếp nhận một cách vô thưởng vô phạt. Nhưng khi ta kêu gọi nếu có “thẩm định” Luận văn thì phải đúng mực về mặt khoa học (vấn đề giữa hai hội đồng) và pháp lý (về trình tự và chứng lý), là đã rơi vào cái bẫy mà những người muốn tiêu diệt nó đang tìm cách giăng ra để hợp lý hóa cho việc làm ấy.


Thực tế, không có cơ sở pháp lý cho việc được gọi là “thẩm định” đối với bất cứ luận văn thạc sỹ nào.


Văn bản pháp lý hiện hành liên quan đến học vị Thạc sỹ là Quy chế Đào tạo Trình độ Thạc sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 10/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ký ngày 28 tháng Hai 2011. Theo đó, chỉ có thẩm quyền về việc thẩm định kết quả tuyển sinh (Điều 19), chứ không có thẩm quyền về việc thẩm định kết quả chấm luận văn hay thẩm định hội đồng chấm luận văn.


Điều 26 của Quy chế này đã bao hàm toàn bộ vấn đề đánh giá một luận văn. Nội dung đó, chỉ có các vấn đề về thành lập hội đồng đánh giá luận văn, nhóm họp hội đồng và tiêu chí về kết quả của luận văn. Ngoài ra, hoàn toàn không có một điều nào, khoản nào, ý nào cho phép lập hội đồng thẩm định để đánh giá lại một luận văn đã có kết quả đánh giá.


Cách duy nhất để có thể chặn lại một luận văn là bị khiếu nại, tố cáo về nội dung khoa học (Điều 25, khoản 4, điểm c), nhưng điều này chỉ thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị đưa luận văn ra đánh giá, chứ không phải để tái thẩm.


Kể cả những nội dung về thanh tra, kiểm tra (Điều 30), và khiếu nại, tố cáo (Điều 31) cũng không thể vận dụng được để làm công việc đó. Trong nội dung mà Bộ Giáo dục và Đào tạo được quyền thanh tra, kiểm tra (Điều 30, khoản 2), chữ “quản lý đào tạo” mang nội hàm của công việc quản lý hành chính đối với học viên và chương trình đào tạo (việc chấp hành quy chế đào tạo, xét điều kiện thỏa mãn để đưa luận văn ra bảo vệ, điều tiết chương trình, điều động giảng viên, xét gia hạn thời gian bảo vệ luận văn, khen thưởng, kỷ luật…), mà không bao hàm việc đánh giá kết quả luận văn, vốn là công việc khoa học độc lập và cụ thể của mỗi hội đồng chấm luận văn (và đã được quy định trọn trong Điều 26).


Như vậy, việc lập hội đồng thẩm định Luận văn của Đỗ Thị Thoan – nếu có – là phi pháp.


Phải chăng đây là sơ hở của pháp luật, do những người làm Quy chế đã không lường hết tình huống?


Không phải như thế. Đơn giản là, về điểm này, Quy chế đã được xây dựng phù hợp với đặc trưng của giáo dục sau đại học.


Khác giáo dục phổ thông – cấp phổ cập kiến thức cơ bản, khác với giáo dục đại học – cấp truyền thụ kiến thức và phương pháp chuyên môn, giáo dục sau đại học truyền đạt kiến thức và phương pháp nghiên cứu chuyên sâu. Về chuyên môn, khác biệt giữa bậc thạc sỹ và tiến sỹ là ở bậc sau, tiêu chí là cái mới về mặt khoa học cùng với giá trị lý thuyết (lý luận) và thực tiễn của nó, trong khi ở bậc trước chỉ chú trọng vào phương pháp nghiên cứu, sự riêng biệt về ý tưởng cùng với tính hệ thống và logic về nội dung và trình bày.


Do khác biệt đó mà ở cấp phổ thông, học sinh có thể làm bài giống nhau, một đề có đáp án chung tất cả, ai có chức năng và chung bộ môn, chung phạm vi đều có thể chấm bài. Do có chuẩn định về nội dung, thẩm quyền về chấm phúc khảo, phúc tra được đặt ra. (Tất nhiên, giữa hệ thống giáo dục thiên về áp nội dung với hệ thống thiên về mở nội dung, những điều vừa nói có biến thiên.)


Đến bậc đại học, trọng tâm là hướng dẫn để sinh viên tự trang bị kiến thức và nhắm vào một hệ thống kiến thức mở, nên dù vẫn còn chuyện sinh viên làm bài tương đối như nhau, thì mức độ độc lập của người học và người đánh giá đã có, bởi vậy việc phúc khảo và phúc tra không còn là thẩm quyền cố định.


Ở bậc sau đại học, sự giống nhau dù vô ý hay cố ý đều bị xem là đạo văn, và là tiêu chí (cấm) tuyệt đối duy nhất về nội dung. Ngoài ra, người làm luận văn, người hướng dẫn, người phản biện, người chấm, người nhận xét luận văn, với tư cách những người nghiên cứu khoa học độc lập, hoàn toàn có quyền độc lập nhau về quan điểm, phương pháp (miễn có nền tảng phương pháp luận phù hợp) trong trình bày và đánh giá. Không có chuẩn pháp lý hay giáo (dục) lý về nội dung cho các luận văn vốn đã khác biệt nhau. Cho nên, chỉ có hội đồng chấm luận văn lần hai dành cho học viên không đạt ở lần bảo vệ đầu, chứ không cần có hội đồng phúc khảo cho luận văn đã có kết quả không đạt. Lần bảo vệ sau mà vẫn không đạt, theo quy chế, học viên không có quyền trình bày luận văn lần thứ ba. Do đó – xuất phát từ tính độc lập nghiên cứu khoa học của học viên, tính độc lập của hội đồng chấm (từng) luận văn, và từ quy trình quyết định trực tiếp đối với kết quả việc bảo vệ luận văn – càng không cần gì đến hội đồng phúc tra.


Bên cạnh đó, nghiên cứu sau đại học không phải là hoạt động tư pháp mà cần đến thẩm quyền phúc thẩm hay tái thẩm của cấp cao hơn khi học viên hay thành viên hội đồng chấm luận văn chống lại kết quả đã chấm (giống như hai bên bị hại bị cáo, nguyên đơn – bị đơn có thể chống lại phán quyết). Cũng vậy, nghiên cứu sau đại học không nhằm bảo vệ công lý tư pháp mà cần đến thẩm quyền giám đốc thẩm khi có những bên bất kỳ “phát hiện tình tiết mới” và yêu cầu trình tự xử lý mới từ đầu.


Các bên thứ ba – không phải học viên, không phải thành viên hội đồng chấm luận văn – có thể có thẩm quyền công luận, thẩm quyền khoa học trong việc nhận xét nội dung và phương pháp, nhưng không có thẩm quyền khoa học trong việc phán xét kết quả, càng không có thẩm quyền pháp lý trong việc định đoạt hay thúc đẩy định đoạt kết quả chấm luận văn.


Những người chống đối, với tư cách thành viên của xã hội dân sự, có thể phản bác từng điểm một của luận văn, có thể tập hợp lại, ra tuyên bố phủ nhận nội dung của nó, nhưng đó quyết không phải là quan điểm quyết định hay có thẩm quyền quyết định đối với kết quả luận văn[ii].


Tất nhiên, trong một xã hội cai trị bằng sắc lệnh dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp (từ luật định giới hạn lại hiến pháp, rồi nghị quyết, nghị định, thông tư, công văn, cho đến cả thư tay), thì việc ban hành thông tư khác thay cho thông tư đang có hiệu lực về đào tạo thạc sỹ, mở đường hợp pháp hóa việc tiêu diệt Luận văn của Đỗ Thị Thoan và diệt cả từ trong trứng nước những luận văn theo hướng độc lập trong tương lai, là việc làm hết sức dễ dàng. Nhưng mong rằng tất cả những người liên quan hãy cân nhắc những điều sau đây:


1. Đối với Thạc sỹ Đỗ Thị Thoan và Phó giáo sư Nguyễn Thị Bình, nếu vào lúc cần thiết mà không tự vệ khoa học trên cơ sở pháp lý cho phép, để phủ nhận bất cứ thẩm quyền phi pháp và phi lý nào đối với mình, thì đó không chỉ là cái nhược về khoa học vì không biết bảo vệ những gì tâm đắc của chính mình, mà có thể còn tạo tiền lệ cho việc đầu hàng của giới nghiên cứu trong môi trường hàn lâm khi có sự xâm phạm từ bên ngoài.


2. Đối với giới khoa bảng, nếu im lặng để chấp nhận sự thay đổi theo hướng tước bỏ quyền bất khả xâm phạm của việc đánh giá kết quả khoa học trong đào tạo, xin các vị hãy thử hình dung một tương lai không xa, là bên cạnh các hội đồng chấm luận văn thạc sỹ, tiến sỹ sẽ là những “hội đồng giám sát (của) nhân dân” hoặc “hội đồng tư vấn (của) nhân dân” mà thành viên sẽ là đại diện của quân đội nhân dân, công an nhân dân, lão làng nhân dân, đoàn thể nhân dân, và cả địa phương nhân dân; hoặc có thể, họ sẽ là thành phần chính thức trong cơ cấu của hội đồng chấm luận văn của các vị.


3. Đối với những người làm chính sách giáo dục, nếu có thay quy chế để cho phép quyền phúc tra, thẩm tra đối với kết quả luận văn, xin đừng quên một điều hợp lý gắn liền, là phải quy định công khai hóa tất cả luận văn thạc sỹ, tiến sỹ từ thời điểm 10, 15 năm qua (thời gian mà Việt Nam đã hóa siêu rồng trong đào tạo sau đại học), để toàn bộ nhân dân có thể thực thi quyền yêu cầu “giám đốc tra” đối với luận văn của bất cứ ai.


4. Đối với các nhà lãnh đạo, nếu muốn khoa học phủ phục trước chính trị, thì xin trước hết ôn lại hai bài học sau đây ở nơi từng là đất nước xã hội chủ nghĩa vĩ đại nhất:


Thứ nhất là một trường hợp trong khoa học tự nhiên. Đó là sự thao túng tư tưởng hệ đối với sinh học ở Liên Xô cho đến tận giữa những năm 1960. Nhà sinh học Trofim Lysenko (1898-1976) được sự đồng tình của giới lãnh đạo, đã kiên quyết phủ nhận thuyết di truyền học Mendel-Morgan, khăng khăng về cuộc đấu tranh ý thức hệ của sinh học[iii]. Hậu quả của việc cưỡng bức khoa học quỳ gối, là trong khi các ngành vật lý, hóa học, thiên văn Xô Viết có độ phát triển ngang tầm Phương Tây, thì các ngành thuộc sinh học như di truyền học, sinh nông học, sinh y học, sinh dược học cho đến tận thời nước Nga ngày nay vẫn chưa bắt kịp kẻ thù ý thức hệ khi xưa.


Thứ hai là chính ngay trường hợp của khoa học lý luận. Nó phải tuyệt đối tuân thủ những chỉ đạo chủ quan về ý thức hệ khi xây dựng triết lý về một chủ nghĩa xã hội đã ở giai đoạn phát triển hoàn thiện, chuẩn bị tiến vào thời kỳ của chủ nghĩa cộng sản, mà hậu quả là không có sự báo động của lý luận khoa học về một xã hội trì trệ mọi mặt, và vực thẳm mà nó sắp rơi xuống thay cho thiên đường “đáng lý” phải bay lên.


Quay về Việt Nam, gần gũi với vấn đề ở đây, xin các vị thử nghĩ xem, văn học phải quy buộc vào cái chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã đạt được thành quả nhân loại nào không, dù chỉ so với người anh em cùng ý thức hệ cận kề?


29-30/07/2013


© 2013 Lê Tuấn Huy & pro&contra






[i] Một trình bày ít nhiều có tính chuyên môn khác, là bài “Từ một công trình ngụy khoa học, lệch lạc về tư tưởng học thuật…” của PGS, TS. Nguyễn Ngọc Thiện. Tuy nhiên, với nhận định mang thái độ miệt thị ngay từ đầu, rằng “Trong cái mớ xô bồ lý thuyết từ Âu – Mỹ dội vào, ảnh hưởng vào nước ta…”, thì tác giả này đã thiếu ngay đến cả năng lực khách quan tối thiểu. Đó là chưa kể, ở cuối bài, dù ông kêu gọi rằng những người có “vai trò liên đới trách nhiệm” của luận văn này “cần được nhìn nhận thấu đáo, có lý, có tình” thì đó chỉ là [cách đề xuất xử lý cả về hành chính lẫn chính trị] theo “Luật Công chức và theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) của Đảng”. Đó cũng là chưa kể ông đã cố tình đánh lộn sòng, từ việc hiển nhiên là thơ của nhóm Mở Miệng tuyệt đối không thể nào xuất hiện trên các kênh “chính thống”, lại trở thành “họ không dám xuất hiện một cách đàng hoàng, phải lén lút tự ấn hành, photocopy, tự xuất bản theo kiểu đối phó với sự kiểm duyệt của Nhà nước, gọi là kiểu xuất bản ”.




[ii] Cần nói thêm, Luận văn Thạc sỹ của Đỗ Thị Thoan không phải là văn học mà là nghiên cứu khoa học về văn học (dẫu là văn học bên lề), nên không phải là đối tượng cho những người phê bình theo kiểu đọc văn, đọc thơ rồi khen chê về văn phong, hình tượng, giá trị tư tưởng của tác phẩm.




[iii] Gần gũi với đề tài sinh học, có thể tìm đọc cuốn Những vấn đề triết học của y học (Nxb Khoa Học, HN, 1966), là tài liệu dịch của Liên Xô, ta sẽ thấy buồn cười vì những lý lẽ ý thức hệ kỳ quặc của những phê phán về sự duy tâm và siêu hình trong y học, vì những yêu cầu về nhận thức luận và biện chứng trong chẩn đoán…

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 31, 2013 15:08

July 30, 2013

Lịch sử của bệnh dịch

Nguyễn Hoàng Văn


Nhà văn Chu Giang – Nguyễn Văn Lưu và những kẻ a tòng trong vụ đấu tố luận văn của Nhã Thuyên – Đỗ Thị Thoan nên tìm đọc công trình nghiên cứu History of Shit của Dominique Laporte [i].


Họ cần đọc để may ra ngộ thêm, sáng thêm một vài điều. Họ cần đọc để hiểu rằng bất cứ thứ gì liên quan đến con người và cuộc sống, dù vĩ đại hay bé tí, dù thanh cao hay ghê tởm như là shit, sản phẩm của quá trình bài tiết, cũng đều đáng để nghiên cứu cả. Và họ cần đọc để hiểu rằng, chính họ, như những quân binh chỉ điểm và đấu tố, cũng rất đáng trở thành đối tượng nghiên cứu trong một công trình hàn lâm tương tự.


Trong cuốn sách trên Laporte đã nhìn lại lịch sử văn minh qua cách thức mà nhân loại ứng xử trách nhiệm với cặn bã bài tiết mà mình thải ra: theo từng thời kỳ, những thế cách ấy đã tăng tiến một cách phù hợp với những tiến trình văn minh khác, trong đó có tiến trình hình thành ý thức cái Tôi, ý thức về con người cá nhân, đặc biệt là cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng. Nói cho gọn thì đây là sự phát triển của “văn hoá bài tiết”: càng ý thức về những tác động từ sự “bài tiết” của mình, nhân loại càng đường hoàng và chính trực hơn trong việc thể hiện trách nhiệm trước những đống bài tiết mình thải ra.


Từ chuyện bài tiết sinh học này, hãy nhìn đến sự bài tiết ý thức – tư tưởng của những hệ thống cầm quyền.


Sự sống là một tiến trình trao đổi chất, ở đó từng hệ thống hấp thụ chất dinh dưỡng bên ngoài và thải hồi những cặn bã sau một tiến trình xử lý. Để sống thì hệ thống sinh học của từng cá nhân phải trao đổi chất qua tiến trình hô hấp, tiêu hoá và bài tiết. Và để sống, từng hệ thống cầm quyền phải tiến hành công việc tương tự về mặt ý thức và tư tưởng: “hô hấp” và “tiêu hoá” để hấp thụ những tư tưởng mới của thời đại và thải hồi cái đã lỗi thời.


Vấn đề cần nêu ra ở đây cũng là “văn hoá bài tiết” và nói theo ngôn ngữ tuyên giáo của hệ thống toàn trị là phải “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”.  Nếu cá nhân không được phép vô trách nhiệm trước những thứ mà cơ thể mình bài tiết thì hệ thống chính trị cũng không được dửng dưng trước những cặn bã nó thải ra. “Không được phép vô trách nhiệm” hay “dửng dưng” chỉ là một cách nói. Một cách bình dân, nôm na, có thể nói thẳng là “ỉa bậy” hay “ỉa vất”: cá nhân không đuợc ỉa vất, chế độ cầm quyền không được ỉa vất.


Thế nhưng những bằng chứng lịch sử hiển nhiên lại cho thấy rằng cái hệ thống toàn trị hô hào “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” là một hệ thống chuyên ỉa vất, chuyên ứng xử vô trách nhiệm, luôn phủi tay trước những đống cặn bã mà nó thải ra. Nó ỉa bậy trên phương diện ý thức – tư tưởng đến độ, cho đến nay, sau gần ba phần tư thế kỷ, vẫn chưa chịu xây cho mình một cái hố xí hai ngăn.


Một thời, hệ thống toàn trị xây dựng sự sống còn của mình trên tư tưởng đấu tranh giai cấp cứng nhắc theo mô hình Stalinist hay Maoist mà hai thí dụ đau đớn nhất là phong trào đấu tố địa chủ trong Cải cách Ruộng đất vào thập niên 50, là phong trào đấu tố văn nghệ trong vụ Nhân văn – Giai phẩm vào thập niên 60. Nhưng để tiếp tục sống còn thì phải thải hồi những tư tưởng cứng nhắc ấy và, theo góc độ “văn minh bài tiết” mà Laporte đã chỉ ra, hệ thống trị vẫn chưa đủ trưởng thành để bài tiết một cách đàng hoàng và tử tế trong tinh thần “dám chịu trách nhiệm”.


Nó không bao giờ “sai lầm” hay “ấu trĩ”, chỉ có “một thời sai lầm và ấu trĩ”. Nó không có lỗi, chỉ “lịch sử” và “thời đại” là có lỗi. Nó thải, nhưng không nhận đó là chất thải. Nó bài tiết, nhưng không dám vứt thẳng vào hầm tiêu. Không thừa nhận là chất thải, cũng không dám vứt vào hầm cầu, nó đã hiện nguyên hình là một hệ thống ỉa bậy.


Trở lại với câu chuyện Nhã Thuyên và công trình nghiên cứu về nhóm Mở Miệng. Lịch sử chắc chắn sẽ lặp lại và một mai, khi quyền “Mở Miệng” được công nhận hay, ít ra, được đối xử công bằng và tử tế, cái chu kỳ ỉa bậy và “từng một thời ấu trĩ” kia cũng sẽ lặp lại. Nó lặp lại để những kẻ đang hăng hái lập công bằng cách chỉ điểm hay đấu tố sẽ kết thúc sinh mệnh văn nghệ hay “nghiên cứu” của mình tương tự sự nghiệp chỉ điểm và đấu tố của những bậc quân binh đi trước trong thập niên 50 và 60, những tên tuổi hiên đang trôi nổi trong đống chất thải vô thừa nhận của hệ thống toàn trị.


Có người gọi đoàn quân chỉ điểm và đấu tố ấy là những nhà “phê bình kiểm dịch” nhưng gọi vậy e không chính xác [ii]. “Kiểm dịch” là để ngăn ngừa bệnh dịch. Còn những cây bút ấy, khi đã tự nguyện nhảy vào hàng ngũ của đống chất thải vô thừa nhận, đã là hiện thân của một thứ mầm dịch, thứ dịch đã và đang phá hoại sự phát triển bình thường của nền văn học nói riêng và của đất nước nói chung [iii].


Như thế, nếu có một dự án nghiên cứu toàn diện về hệ thống toàn trị, cần có một chương trình nghiên cứu đặc biệt, chuyên sâu về quá trình ỉa bậy của hệ thống, cái quá trình “không dám chịu trách nhiệm” với những cặn bã gây dịch mà nó liên tiếp thải ra. Nhìn lại lịch sử nhân loại qua lăng kính bài tiết, Laporte đã có công trình đặc sắc History of Shit và chúng ta, nếu nhìn lại một chặng đường của đất nước trong phối cảnh riêng về chất thải mà hệ thống toàn trị đã bài tiết, chúng ta sẽ có gì?


Một History of Plague, Lịch sử của bệnh dịch chăng?


Từ History of Shit đến History of Plague: đáng gọi như thế lắm vì cái ổ dịch một thời của đất nước đang ngo ngoe sống lại, đang âm thầm truyền nhiễm và đang cố gây không khí khủng bố qua những hành động chỉ điểm và đấu tố một luận văn cao học.


30.7.2013


© 2013 Nguyễn Hoàng Văn & pro&contra






[i] Dominique Laporte, (2001), History of Shit. Cambridge: The Massachusetts Institutes of Technology Press. [Nguyên tác: Histoire de la Merde, bản Anh ngữ của Nadia Benabid và Rodolphe el-Khoury .]




[ii] Trần Đình Sử, “Phê bình kiểm dịch”, 17-7-2013




[iii] Về phong trào đấu tố luận văn cao học “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hoá” (Bảo vệ năm 2010 tại khoa Ngữ Văn, ĐH Sư phạm Hà Nội) của Nhã Thuyên, có thể đọc các bài viết: Phạm Thị Hoài. “Cú giãy cuối cùng của nền phê bình chỉnh huấn” (10.7.2013) và: Trần Đình Sử. “Cuộc phê phán luận văn của Đõ Thị Thoan hay là sự xung đột về khung tri thức và thế hệ” (26.7.2013).


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 30, 2013 13:14

July 29, 2013

Vì Điếu Cày: Thứ năm không ăn sáng. Thứ năm không đổ xăng. Thứ năm không đi làm. Thứ năm mặc áo trắng

Từ Linh


Nhân ngày thứ 37 Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tuyệt thực, 29/7/2013


1.


Hôm nay là ngày thứ 37 Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tuyệt thực tại Trại giam Số 6 tỉnh Nghệ An, để phản đối cai tù bắt ông biệt giam vì không nhận tội không phạm.


Đến nay, gần 60 nhân sĩ trí thức đã viết kiến nghị gửi Chủ tịch Nước và Thủ tướng, yêu cầu giải quyết vụ việc và trả tự do vô điều kiện cho Điếu Cày.


10 tổ chức quốc tế đã lên tiếng. Phóng viên Không Biên giới đã lên tiếng. Hội Ân xá Quốc tế đã lên tiếng kêu gọi mọi người hành động bằng cách viết thư cho các giới chức có thẩm quyền yêu cầu họ can thiệp.


Trí Nhân Media đăng danh sách 26 người Việt khắp nơi đã và đang đồng hành tuyệt thực cùng Điếu Cày. Nhiều nhân sĩ, trí thức, blogger đã viết bài, lên tiếng. Nhiều người đã cùng vợ con Điếu Cày đi gõ cửa các cơ quan công quyền.


Nhưng, tình hình vẫn vậy.


Sau 37 ngày Điếu Cày tuyệt thực, quan chức Trại giam Số 6 vẫn im lặng, ẩn hiện như ma; Viện kiểm sát Nghệ An vẫn đùn đẩy; Tổng cục 8 Bộ Công an vẫn né tránh; Thanh tra Công an vẫn trì hoãn. Một anh công an hứa sẽ giải quyết, rất có thể anh hứa vì thiện chí, nhưng đó chỉ là hứa suông không có gì bảo chứng, dường như anh cũng không thực sự đại diện cho ai, cũng chẳng có thẩm quyền gì, thiện chí của anh vẫn có thể bị các đồng chí có quyền trói chặt.


Chẳng lẽ có người dám mở miệng giải quyết khi Thủ tướng vẫn còn đang im lặng? Chủ tịch Nước thì hình như đi Mỹ chưa về. Nhưng chắc rồi cũng sẽ như thường lệ, dù có nhận kiến nghị, họ cũng sẽ giả vờ như không, không có gì quý hơn im lặng.


Nghĩa là đến ngày thứ 37 Điếu Cày tuyệt thực vẫn chưa có kết quả gì, dù là thêm một lần thăm gặp để biết Điếu Cày sống hay chết.


2.


Lần này, phản ứng của người trong và ngoài nước dường như vẫn chưa đủ mạnh để mang lại kết quả lớn. Trả lời phỏng vấn trên RFI ngày thứ sáu 26/7, giáo sư Tương Lai cũng đồng ý với phóng viên Thụy My là phản ứng của xã hội dân sự vẫn chưa “tương xứng” với mức độ nghiệm trọng của tình trạng Điếu Cày.


Điều gì xảy ra vậy?


Vì sao phản ứng của cộng đồng trong và ngoài nước dường như lặng lẽ hơn, dù rằng vụ việc của Điếu Cày cấp bách hơn vụ Cù Huy Hà Vũ nhiều lần?


Hay là từ khi tin lọt ra vào ngày tuyệt thực thứ 25, cộng đồng đến nay mới biết được 12 ngày, và 12 ngày thì chưa đủ để chuẩn bị hay hành động gì có ý nghĩa mạnh mẽ?


Hay là vì cộng đồng hải ngoại chưa có lực lượng phản ứng nhanh, sự gắn kết của các hội đoàn còn lỏng lẻo, sự gắn kết trong và ngoài nước chưa thực có?


Hay là vì có gì khuất tất từ vụ Cù Huy Hà Vũ, khiến mọi người chần chừ vào cuộc lần này?


Khó có thể biết được, nhưng tôi tin rằng, những người thực tâm lo lắng cho mạng sống Điếu Cày trong lúc cấp bách này sẽ tạm gác mọi sự ra ngoài, sẽ bàn luận về những đề tài kia vào lúc khác, còn bây giờ, họ sẽ chỉ tập trung vào việc tìm cách làm gì thêm nữa để cứu sống Điếu Cày.


Thà là hết lòng với một người chính trực đang chống chọi với cái chết trong gang tấc, còn hơn là lọt vào bẫy thờ ơ.


Khi kẻ ác càng cố tình im để giết và muốn mọi người im, im vì hoài nghi hay im vì sợ “hố” đều gây tê liệt, thì những người thực tâm với Điều Cày sẽ càng phải làm ầm lên để cứu.


Nhưng làm gì bây giờ?


Tôi thấy câu hỏi đó trên gương mặt băn khoăn của tiến sĩ Nguyễn Quang A sáng hôm qua, chủ nhật, khi ông cùng mọi người tham dự buổi giao lưu cạnh Nhà hát Lớn Hà Nội với vợ và con Điếu Cày, chị Dương Thị Tân và cháu Nguyễn Trí Dũng.


Tôi thấy điều đó trên gương mặt của những người đứng trương biểu ngữ “Tự do cho Blogger Điếu Cày”, “Hãy cứu lấy tính mạng Blogger Điếu Cầy” trước cổng Trại giam Số 6 ở Nghệ An, hay  trước Bộ Công an ở Hà Nội.


Giáo sư Tương Lai trong cuộc phỏng vấn vừa kể một lần nữa kêu gọi hãy “đánh thức công luận để bảo vệ những tù nhân lương tâm như Điếu Cày.”


Nhưng, ngoài lên tiếng bằng thư, bằng kiến nghị, còn có thể đánh thức công luận bằng cách nào nữa?


Tôi tin rằng câu hỏi đó đang cháy bỏng trong lòng nhiều người. Nhiều người sẽ trả lời, và tôi xin phép góp vài ý kiến thô thiển.


3.


Sắp tới là ngày thứ năm 1/8/2013, ngày thứ 40 Điếu Cày Nguyễn Văn Hải tuyệt thực. Không biết anh còn sống đến ngày đó không, nhưng dù sống hay không, người Việt trong và ngoài nước vẫn có thể biến ngày này thành một ngày đầy sự kiện để đánh thức công luận.


Đó sẽ là ngày


Thứ năm không ăn sáng:


Hãy tưởng tượng sáng thứ năm, mọi cửa hàng ăn sáng từ Bắc chí Nam đều vắng ngắt người. Chúng ta bỏ một bữa sáng để nhớ đến người tù lương tâm đã bỏ ăn liên tiếp 40 ngày rồi.


Người Việt nước ngoài vào sáng thứ năm 1/8 cũng sẽ không một ai ghé McDonald’s, hay những cửa hàng ăn nhanh ăn chậm khác… Và quan trọng không kém là HÃY ĐƯA TIN cho báo chí thế giới biết rằng: đó là buổi sáng đầu tiên trong lịch sử fast-food thế giới không có một người Mỹ, người Úc, người Pháp, người Canada… gốc Việt nào ăn fast-food, để đồng hành với một tù nhân lương tâm họ yêu quý đang tuyệt thực.


Và cũng sẽ là tin rất đáng chú ý nếu sáng thứ năm 1/8 cũng là buổi sáng mà không một người Việt hải ngoại hay trong nước nào ăn phở hay bánh mì, những món ăn sáng “đại sứ du lịch” của Việt Nam, tất cả chỉ vì họ muốn kêu gọi thế giới chú ý để lên tiếng, cứu tính mạng Điếu Cày.


Thứ năm không đổ xăng:


Hãy tưởng tượng tất cả các cây xăng tại Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Saigon, Cần Thơ… đều vườn không nhà trống. Đó có lẽ sẽ là một ngày kinh hoàng cho giới kinh doanh xăng dầu và nhà nước. TIN TỨC về tất cả mọi trạm xăng trên toàn quốc không có người mua có lẽ sẽ chấn động gần như vụ mất điện toàn miền Nam Việt Nam cách đây không lâu.


Dòng xăng chảy như máu trong nền kinh tế sẽ đột nhiên ứ lại, nghẽn mạch. Nhưng sẽ chẳng có ai đổ được trách nhiệm nào cho dân. Sẽ có người ngồi trên lửa hay lên cơn đột quỵ ngoài ý muốn, nhưng hy vọng, cũng sẽ có những người thấy rằng quần chúng quyết tâm lên tiếng, lên tiếng thật, và sẽ còn lên tiếng nữa, nếu chính quyền vẫn đùn đẩy, không chịu giải quyết yêu cầu chính đáng của Điếu Cày.


Thứ năm mặc áo trắng:


Hãy tưởng tượng sáng thứ năm 1/8, hàng trăm người tập thể dục quanh Hồ Gươm mặc toàn trắng. Cũng vậy, người tập thể dục ở Công viên Tao Đàn, ở Hồ Bán Nguyệt tại Quận 7 Saigon, và ở mọi công viên trên cả nước tất cả đều mặc áo trắng.


Hàng triệu tín đồ Công giáo ở Hố Nai, Gia Kiệm, Long Khánh, hàng triệu tín đồ ở các xứ đạo Vườn Xoài, Bùi Phát, Tân Chí Linh, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, nhà thờ Chánh Tòa, nhà thờ Tân Định, rồi hàng triệu tín đồ ở Bùi Chu, Phát Diệm, Nam Định, Hà Nội… đi dự lễ thứ năm đầu tháng 1/8 sẽ chỉ mặc áo trắng. Cũng vậy, hàng triệu triệu người Việt khác ở Việt Nam lẫn hải ngoại đều hẹn nhau ra đường mặc áo trắng.


Trắng là màu tang. Chúng ta để tang cho nhân quyền đang bị xâm phạm, cho những người đã chết và đang chết trong lao tù.


HÃY ĐƯA TIN: Hàng triệu người Việt hôm thứ năm 1/8 để tang cho nhân quyền bằng áo trắng.


Phụ nữ Cuba cũng đã mặc toàn trắng (Ladies in White) dự lễ mỗi chủ nhật, rồi họ xuống đường diễu hành trong im lặng dọc đường phố Havana để đòi công lý cho những tù nhân lương tâm là chồng con của họ. Cuộc đấu tranh này của đông đảo phụ nữ Cuba đã được Nghị viện Châu Âu trao Giải Sakharov vì Tự do Tư tưởng năm 2005.


Thứ năm không ra quán:


Nếu đã không ăn sáng, thì buổi tối chúng ta sẽ khước từ luôn cảnh lê la hàng quán. Hãy tưởng tượng mọi quán vỉa hè, bia hơi, bia tô, bia ôm, mọi quán karaoke, quán bar sành điệu ở các khu khu thương mại cao cấp, trong các khách sạn 5-sao đều không người vào đêm thứ năm 1/8.


Và sáng hôm sau, TIN TỨC sẽ chạy dòng chữ: Đêm không bia ở Saigon. Ngày Điếu Cày không rượu. Người Việt Nam không nhậu ngày 1/8…


Tương tự như ở Thái Lan, mỗi lần bầu cử, sinh nhật vua, sinh nhật nữ hoàng, mọi hàng quán đều không bán bia rượu. Tất cả các cửa hàng, siêu thị hay cửa hàng tiện dụng 24/24 đều cất toàn bộ bia rượu. Họ muốn mọi người tỉnh táo trong những ngày trọng đại cần phải có trách nhiệm này. Riêng ngày Phật Đản, ngoài việc không rượu bia, tất cả khu đèn đỏ đều đóng cửa và mọi lao động tình dục đều được nghỉ, họ và khách hàng cũng cần có trách nhiệm.


Thứ năm không mua bán:


Điều gì sẽ xảy ra khi đột nhiên siêu thị không ai đến, chợ không ai mua, từ thành đến tỉnh mọi người yên tịnh? Một ngày thứ năm như thế có thể sẽ là bước đầu tiên của một phong trào bãi thị rộng khắp.


Thứ năm không đi làm:


Điều gì sẽ xảy ra khi người Việt khắp nơi trong và ngoài nước sẽ nộp đơn từ thứ hai hôm nay, báo trước rằng họ sẽ nghỉ làm một ngày vì lý do lương tâm vào thứ năm 1/8?


Cộng đồng người Việt hải ngoại ở từng tiểu bang, từng thành phố sẽ thay mặt người Việt trong cộng đồng viết thư gửi các công ty, các dân biểu, chính quyền tiểu bang, liên bang… thông báo người Việt sẽ không đi làm, ít nhất một ngày, để biểu lộ tinh thần đồng hành với tù nhân lương tâm Điếu Cày đang hấp hối.


Nếu Cộng đồng người Việt hải ngoại đã thu được 150.000 chữ ký để đòi tự do cho nhạc sĩ Việt Khang, thì hãy tưởng tượng sẽ có 150.000 người Việt hải ngoại không đi làm vào thứ năm 1/8 vì Điếu Cày. Có lẽ hiện tượng đó sẽ khiến giới doanh nghiệp, giới hữu trách, các dân biểu địa phương và liên bang chú ý và sẽ phải lên tiếng mạnh hơn vì Điếu Cày.


Thứ năm 40 tiếng chuông


Hãy tưởng tượng tất cả các tháp chuông nhà thờ, các tháp chuông nhà chùa của người Việt khắp năm châu đều gióng lên 40 tiếng chuông vào lúc 6 giờ sáng, 12 giờ trưa và 6 giờ tối để nhắc mọi người nhớ đến Điều Cày đang tuyệt thực đến ngày thứ 40.


Thứ năm đọc Kinh Bát nhã và Kinh Lạy Cha


Các nam nữ tín đồ, người cao tuổi, thanh niên, trẻ em Công giáo sẽ đọc 40 Kinh Lạy Cha cầu nguyện cho Điếu Cày. Các nam nữ tín đồ, người cao tuổi, thanh niên, trẻ em Phật giáo sẽ đọc 40 Kinh Bát Nhã cầu nguyện cho Điếu Cày. Tất cả sẽ tụ tập tại nhà chùa, nhà thờ, hội trường…, từ sáng đến tối để đọc kinh, tụng niệm và thắp nến cầu nguyện cho Điếu Cày.


Đó cũng có thể là thứ năm không ngủ, thứ năm biểu tình, thứ năm ngồi thiền giữa nơi công cộng hướng về Điếu Cày…


4.


Tôi cũng hình dung rằng:


Để những việc vừa kể có thể làm được và đạt hiệu quả tại hải ngoại, cần có sự điều phối của các đơn vị như cộng đồng người Việt tại các tiểu bang ở Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Na Uy, Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga, Úc, Tân Tây Lan… Cũng vậy, để làm được và đạt hiệu quả trong nước, cần có sự điều phối và cần rất đông người được thông báo, được vận động để đồng loạt tham gia.


Những hành động đồng loạt, rộng khắp từ trong ra ngoài như thế sẽ cần thiết sau khi những nhân sĩ trí thức – những người mà mọi người luôn đặt kỳ vọng, những người đại diện không chính thức của đông đảo những người khát khao sự thật – đã tận dụng mọi kênh thông tin chính thức rồi, nhưng kết quả vẫn chỉ là im lặng:


Kiến nghị gửi lên trên không thấy ai trả lời.


Đến gõ cửa cơ quan công quyền thì công quyền úp úp mở mở như sợ dân, như đang ngó nghiêng xem các đồng chí lãnh đạo cao nhất bảo gì. Lãnh đạo cao nhất thì dường như đang phân vân toan tính, hay cố tình chủ trương hoãn binh, hay chủ trương im để giết. Không ai biết.


Trong khi người tù lương tâm tuyệt thực thì có thể chết bất cứ lúc nào.


Có lẽ chúng ta cần ra tối hậu thư, rằng: Chúng tôi sẽ làm những điều như trên và nhiều điều khác nữa chỉ để yêu cầu chính đáng của Điếu Cày được xem xét thỏa đáng, đề người thân vào thăm, để anh chấm dứt tuyệt thực, được chăm sóc y tế và được trả tự do vô điều kiện vì vô tội.


Một khi các kiến nghị chính đáng bị xem thường thì cộng đồng cần có những hành động trực tiếp khác, bằng không sẽ không lay chuyển được gì.


5.


Nhưng đó là tưởng tượng.


Tưởng tượng xong rồi tôi lại thấy mình hoang mang.


Vì để làm được những việc như thế và nhiều việc lớn hơn nhiều thì trước hết phải có “chúng ta”, tức đông đảo, hàng ngàn, hàng trăm ngàn, hàng triệu người biết về Điếu Cày, yêu quý Điếu Cày, tự nguyện tham gia vì Điếu Cày. Trong khi đó, khi hỏi 10 người bình thường quanh mình, có đến tám người chưa biết Điều Cày là ai. Blogger Mẹ Nấm đã rất có lý khi viết bài “Nguyễn Văn Hải – Blogger Điếu Cày – Anh là ai?” để nhiều người hơn nữa biết về anh.


Cũng chưa có lực lượng hạt nhân nồng cốt cho hành động dân sự, gồm những người tự nguyện, sẵn sàng cam kết tham gia bền bỉ và vận động người khác cùng hành động.


Tuy Internet có thể truyền tải thông tin rộng khắp và tức thời, nhưng để người nhận thông tin có phản ứng tích cực, hoặc tham gia một cuộc vận động rộng lớn, lại cũng cần có thời gian để họ được chuẩn bị, trước khi bắt tay vào cuộc…


Thôi thì nếu chưa có “chúng ta” lớn thì vẫn còn có nhiều những “tôi” nhỏ.


Như người Nhật, người Hàn Quốc, người Hồng Kông, và đặc biệt là người Tây Tạng, thường viết những lời nguyện trên dải lụa rồi treo lên trong gió, như muốn gió gửi giúp lời nguyện qua biên giới cho người thân xa cách, qua thế giới bên kia cho người đã khuất, hoặc gửi lên cao xanh cho động lòng trời đất và chạm vào lòng người hướng thiện, những điều tưởng tượng ở đây tôi cũng xin được treo lên mạng, như một lời cầu nguyện.


Đó cũng là điều tôi sẽ làm, vào ngày thứ năm 1/8, lại cũng như một lời cầu nguyện, để hiệp thông với anh Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải, cùng gia đình anh, và những người cầu nguyện khác. Tôi sẽ:


Thứ năm không ăn sáng

Thứ năm không đổ xăng

Thứ năm mặc áo trắng

Thứ năm không ra quán

Thứ năm không mua bán

Thứ năm không đi làm.

Tôi cũng sẽ gõ 40 tiếng chuông

Đọc 40 Kinh Bát Nhã và 40 Kinh Lạy Cha.


© 2013 Từ Linh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 29, 2013 12:44

July 28, 2013

Hai động tác của Obama

Phạm Thị Hoài


 



Đó là hai động tác trong cuộc gặp ở Nhà Trắng mà nếu là Chủ tịch Trương Tấn Sang, tôi sẽ thấy ít nhiều bị xúc phạm.


Ở phút thứ 12:15, trong khi ông Chủ tịch Việt Nam đang phát biểu thì ông Tổng thống Hoa Kì điềm nhiên thò tay vào túi áo vét, lấy một mảnh giấy ra nghiên cứu. Trong 20 giây đồng hồ tiếp theo, Obama bỏ mặc vị khách của mình để “tranh thủ làm việc riêng”, ngay cả khi ông Trương Tấn Sang đã dứt lời và người phiên dịch đã bắt đầu phần mình. Chỉ thiếu điều ngài Tổng thống rút điện thoại ra tranh thủ nhắn tin cho vợ.


Ở phút thứ 15:43, ngài Tổng thống duỗi mạnh tay trái để cổ tay áo vét co lên, mặt đồng hồ ở cổ tay áo sơ-mi hiện ra, và kín đáo một cách lộ liễu liếc đồng hồ, nếu không muốn nói là trong một phần mười giây ông đã giơ đồng hồ vào mặt Chủ tịch Sang. Obama là người hoàn hảo trong các thủ tục về trang phục. Ông thừa biết rằng để cổ tay áo sơ mi thò ra ngoài cổ tay áo vét quá 2 phân là hỏng. Song ở đây ông cho nó thò hẳn ra cả mươi phân, bất cần lịch lãm, để làm nhiệm vụ rung chuông báo hết giờ. Trong thời gian biểu ngày 25-7 của Obama, phần dành cho vị nguyên thủ quốc gia từ Việt Nam quả thật rất khiêm tốn.


Ngoại giao, theo nhà văn Ý Giovanni Guareschi, là nghệ thuật nói những điều mình không nghĩ. Tôi thường thán phục những nhà bình luận chính trị, họ chẻ nhỏ, săm soi và lắp ghép từng lời đầu môi chót lưỡi của giới chính khách dưới kính hiển vi để dự báo những điều không thể dự báo. Tất nhiên tôi rất mừng vì quan hệ Việt-Mỹ đã được đẩy lên một tầm cao mới. Song sự trọng vọng của phía Mỹ với đối tác Việt ở tầm cao mới như thế nào, hai động tác nêu trên của Obama đã gửi đi một thông điệp không che giấu. Còn đâu là những động tác giả, đâu là những động tác thật, đó lại là công việc không đáng ghen tị của các nhà bình luận mà tôi thán phục.


Nhưng người đáng thán phục nhất là ông Trương Tấn Sang. Hoặc ông không để ý đến hai động tác này. Hoặc có để ý, nhưng không bận tâm. Hoặc có bận tâm nhưng không tỏ thái độ. Rút cuộc thì chuyến công du của ông không được phép sứt mẻ chỉ vì một sự nhạy cảm thái quá.


© 2013 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 28, 2013 12:07

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.