Phạm Thị Hoài's Blog, page 31

September 10, 2013

Bí quyết thành công của Bắc Âu

The Economist


Phạm Vũ Lửa Hạ dịch và chú thích


pro&contra – Mô hình dân chá»§ xã hội như một khả năng cạnh tranh hoặc chuyển đổi cho thể chế xã hội chá»§ nghÄ©a trên danh nghÄ©a cá»§a Việt Nam gần đây được quan tâm trở lại, sau lời kêu gọi thành lập một Đảng Dân chá»§ Xã hội cá»§a ông Lê Hiếu Đằng và ông Hồ Ngọc Nhuận. Không ở đâu mô hình này đồng nghÄ©a với thành công hÆ¡n ở các nước Bắc Âu, nÆ¡i các đảng dân chá»§ xã hội cầm quyền trong một thời gian dài – ở Na Uy thậm chí từ 86 năm nay. Song bí quyết thành công cá»§a Bắc Âu hiện tại có phải chỉ bắt nguồn từ mô hình dân chá»§ xã hội? Tháng Hai năm nay, tờ The Economist có loạt bài phân tích Bắc Âu như một “siêu mô hình” đáng cho thế giới học hỏi. Chúng tôi xin giới thiệu sau đây hai bài trong số đó.


________________


Các nước Bắc Âu có lẽ trị quốc tốt nhất thế giới


Cecil Rhodes[i] từng nhận xét rằng “sinh ra là người Anh coi như trúng số độc đắc”. Ngày nay ta cũng có thể nói như vậy về người sinh ra ở Bắc Âu. Các nước Bắc Âu không chỉ tránh được phần lớn những vấn nạn kinh tế đang làm rung chuyển vùng Địa Trung Hải; mà còn tránh được phần lớn những căn bệnh xã hội đang hành hạ nước Mỹ. Xét về bất cứ chỉ số nào đo lường tình trạng ổn định và lành mạnh của một xã hội – từ các chỉ số kinh tế như năng suất và đổi mới sáng tạo đến các chỉ số xã hội như tình trạng bất bình đẳng và tội ác – các nước Bắc Âu quần hội ở gần đầu bảng xếp hạng (xem bảng).


[image error]


Tại sao khu vực hẻo lánh, dân cư thưa thớt, với mùa đông băng giá và những vùng hoang vu mênh mông này lại thành công đến vậy? Đã có thời đa số người dân các nước này chẳng ngần ngại ca ngợi chính phủ của họ, cái chính phủ mà trong phần lớn thế kỷ 20 chính là những nhà dân chủ xã hội nấp dưới một trong những vỏ bọc dân tộc khác nhau của họ. Chính phủ đó đã cung cấp cho người dân các dịch vụ phúc lợi trọn đời, từ lúc lọt lòng cho đến khi xuống mồ, cứu họ thoát khỏi cảnh sống khắc nghiệt của tổ tiên họ hồi thế kỷ 19, và can thiệp để cứu các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thoát khỏi những cuộc khủng hoảng định kỳ.


Nhưng giới chủ trương thị trường tự do bới lông tìm vết trong cách lý giải của giới ủng hộ vai trò can thiệp của chính phủ, và đưa một cách giải thích khác đầy thuyết phục. Trong giai đoạn từ 1870 đến 1970, các nước Bắc Âu nằm trong số các nước tăng trưởng nhanh nhất thế giới, nhờ một loạt các cải cách có lợi cho kinh doanh chẳng hạn như thành lập các ngân hàng và tư hữu hóa các khu rừng. Nhưng trong những năm 1970 và 1980 sự bành trướng thiếu kỷ cương của chính phủ  khiến những cải cách đó chựng lại. Giới chủ trương thị trường tự do nhận định rằng thành tựu đáng nể gần đây của khu vực này là nhờ họ quyết tâm giảm chi tiêu chính phủ và để cho giới kinh doanh được tự do hành động.


Vai trò của chính phủ trong việc cải thiện tình trạng bình đẳng cũng đang bị đặt câu hỏi. Andreas Bergh, thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế học Công nghiệp của Thụy Điển, nhận định rằng thu nhập [quốc dân] của Thụy Điển đã giảm sút trước khi nhà nước phúc lợi xuất hiện, mà nhà nước phúc lợi này là một hệ quả chứ không phải nguyên nhân của sự thịnh vượng của Bắc Âu – và suýt giết chết con ngỗng đẻ trứng vàng.


Bản tường trình đặc biệt này [của tạp chí The Economist] tán thành một số lập luận của giới chủ trương thị trường tự do. Các nước Bắc Âu đã từng nhiễm thói quen chi tiêu cho phúc lợi nhiều hơn khả năng trang trải của họ và thói quen dựa dẫm quá nhiều vào một số ít công ty lớn. Họ hành động đúng khi cố gắng tinh giản nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho kinh doanh. Nhưng sẽ sai lầm nếu [họ] hoàn toàn phớt lờ vai trò của chính phủ.


Các nước Bắc Âu hãnh diện về tính trung thực và minh bạch của chính phủ nước họ. Các chính phủ Bắc Âu bị giám sát chặt chẽ: ví dụ, ở Thụy Điển ai cũng có quyền xem tất cả các hồ sơ chính thức. Các chính khách bị bêu diếu, nếu họ nhảy khỏi yên xe đạp và chui vào xe limousine công.


Người Bắc Âu đã cộng thêm hai phẩm chất quan trọng vào tính minh bạch: tính thực dụng và tính quyết đoán. Khi phát hiện rằng kiểu đồng thuận dân chủ xã hội cũ không còn tác dụng, họ sẵn sàng từ bỏ nó mà chẳng một lời bàn cãi ầm ĩ và áp dụng những ý tưởng mới từ đóng góp của mọi giới chính trị bất kể tả hữu. Họ cũng tỏ ra hết sức quyết tâm trong việc thực hiện triệt để các cải cách. Nếu thấy người Bắc Âu tử tế mà tưởng họ nhu nhược yếu đuối là ta nhầm to.


Tính thực dụng giải thích tại sao sự đồng thuận mới đã nhanh chóng thay thế sự đồng thuận cũ. Ví dụ, hiếm có chính khách Dân chủ Xã hội Thụy Điển nào muốn bãi bỏ những cải cách bảo thủ được thực hiện trong những năm gần đây. Tính thực dụng cũng giải thích tại sao dường như các nước Bắc Âu thường có thể là nơi tập hợp đủ kiểu chính sách thiên tả và thiên hữu.


Tính thực dụng cũng giải thích tại sao người Bắc Âu liên tục nâng cấp mô hình của họ. Họ vẫn còn gặp nhiều vấn đề. Các chính phủ của họ vẫn còn quá cồng kềnh và khu vực tư nhân ở các nước này còn quá nhỏ. Thuế của họ vẫn còn quá cao và một số khoản phúc lợi của họ quá hào phóng. Hệ thống đảm bảo công ăn việc làm linh hoạt (flexicurity) của Đan Mạch quá coi trọng đến sự bảo đảm việc làm, nhưng quá coi nhẹ tính linh hoạt. Sự phát triển bùng nổ dầu hỏa của Na Uy đang có nguy cơ tiêu diệt tinh thần làm việc siêng năng cần mẫn. Quả là dấu hiệu xấu khi ở bất cứ thời điểm nào cũng có hơn 6% lực lượng lao động nghỉ bệnh và khoảng 9% dân số trong độ tuổi lao động sống bằng trợ cấp bệnh tật. Nhưng người Bắc Âu tiếp tục áp dụng các cải cách cơ cấu mới, có lẽ là hơi chậm nhưng đầy dứt khoát và cương quyết. Họ lại đang thực hiện những điều này mà không hề hy sinh các đặc tính khiến mô hình Bắc Âu vô cùng có giá trị: khả năng đầu tư vào vốn con người và bảo vệ cho người dân tránh khỏi những xáo trộn vốn là một phần của hệ thống tư bản chủ nghĩa.


Noi gương Đan Mạch[ii]


Phần lớn các nước giàu hiện nay đang gặp những vấn đề mà người Bắc Âu đã gặp vào đầu những năm 1990 – chi tiêu công cộng vượt quá tầm kiểm soát và các chương trình phúc lợi an sinh quá hào phóng. Nam Âu cần đôi chút tính quyết đoán của Bắc Âu nếu muốn kiểm soát tài chính công. Và Mỹ cần đôi chút tính thực dụng của Bắc Âu nếu mong có cơ hội kiềm chế phúc lợi an sinh và cải cách khu vực công cộng.


Người Bắc Âu chẳng hề đỏ mặt ngượng ngùng khi cần quảng bá các ưu điểm của mô hình của họ. Các tổ chức nghiên cứu của Bắc Âu tiến hành những nghiên cứu chi tiết bằng tiếng Anh về cách họ cải cách nhà nước. Các chính khách tích cực bảo vệ quan điểm của mình ở các cuộc họp quốc tế và các chuyên viên tư vấn Bắc Âu mang kinh nghiệm chuyên môn của mình về khu vực công cộng đi bán khắp thế giới. Dag Detter đã đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tái cấu trúc danh mục đầu tư thương mại của nhà nước Thụy Điển trong những năm 1990, chiếm hơn một phần tư khu vực kinh doanh. Từ đó ông đã cố vấn cho chính phủ các nước ở Châu Á và Châu Âu.


Song khó mà hình dung được mô hình trị quốc của Bắc Âu có thể truyền bá nhanh chóng, chủ yếu bởi vì tài năng trị quốc Bắc Âu mang tính đặc thù, không giống ai. Việc trị quốc ở Bắc Âu xuất phát từ sự kết hợp địa lý khắc nghiệt và lịch sử ôn hòa. Tất cả các nước Bắc Âu đều có dân số ít,bởi vậy những người thuộc tầng lớp chóp bu cầm quyền phải hòa đồng với nhau. Vua chúa các nước này sống ở những nơi tương đối giản dị và giới quý tộc cũng phải kỳ kèo mặc cả với các nông dân và thủy thủ có suy nghĩ độc lập.


Họ sớm đi theo chủ nghĩa tự do. Thụy Điển bảo đảm tự do báo chí vào năm 1766, và kể từ những năm 1840 về sau Thụy Điển bãi bỏ chế độ ưu tiên cho quý tộc khi giao phó những chức vụ cao cấp trong chính phủ, và tạo ra hệ thống công quyền dựa trên năng lực và không có tham nhũng. Họ cũng theo đạo Tin Lành – một tôn giáo giảm vai trò của giáo hội xuống chỉ còn là người hỗ trợ và nhấn mạnh đến mối quan hệ trực tiếp giữa con người và Thượng Đế. Một trong những ưu tiên chính của giáo hội Tin Lành là dạy nông dân biết đọc.


Sự kết hợp giữa địa lý và lịch sử đã cung cấp cho các chính phủ Bắc Âu hai nguồn lực quan trọng: sự tín nhiệm người lạ và lòng tin vào các quyền cá nhân. Một khảo sát của Eurobarometer[iii] về sự tín nhiệm xã hội tổng quát (khác với lòng tin trong gia đình) cho thấy các nước Bắc Âu nằm ở các vị trí dẫn đầu (xem biểu đồ dưới đây). Giới kinh tế học cho rằng sự tín nhiệm ở mức độ cao dẫn đến chi phí giao dịch thấp hơn – không cần đến kiện tụng kiểu Mỹ hay những thương vụ “có qua có lại mới toại lòng nhau” kiểu Ý để được việc. Nhưng các ưu điểm của Bắc Âu không chỉ dừng lại ở đó. Sự tín nhiệm đồng nghĩa với việc những người tài đức tham gia bộ máy công quyền. Công dân đóng thuế và tuân thủ luật lệ. Các quyết định của chính phủ được nhiều giới tán thành.


Mức tín nhiệm của công chúng đối với các thể chế*


Tháng 11/2012, % trả lời “có xu hướng tín nhiệm”
Finland = Phần Lan; Denmark = Đan Mạch; Sweden = Thụy Điển; Russia = Nga

[image error]


*Gồm báo chí, các đảng phái chính trị, chính phủ quốc gia, Liên hiệp Châu Âu (EU) và Liên Hiệp Quốc
Nguồn: Ủy hội Châu Âu

Cuộc Khảo sát Các Giá trị Thế giới (The World Values Survey), đã thăm dò các giá trị ở hơn 100 nước từ năm 1981, cho biết dân Bắc Âu là những người có lòng tin lớn nhất thế giới về quyền tự chủ của cá nhân. Sự kết hợp kiểu Bắc Âu giữa chính phủ quy mô lớn và chủ nghĩa cá nhân có thể nghe kỳ lạ đối với một số người, nhưng theo Lars Tragardh, thuộc Đại học Ersta Skondal University College ở Stockholm, người Bắc Âu dễ dàng hòa hợp hai yếu tố này: họ xem công việc chính của nhà nước là cổ xúy quyền tự chủ của cá nhân và tính cơ động xã hội (social mobility).[iv] Bất cứ luật lệ xã hội nào của Bắc Âu – đặc biệt là các luật gia đình trong những năm gần đây – cũng có thể được chứng minh là ủng hộ quyền tự chủ của cá nhân. Dịch vụ giữ trẻ phổ quát[v] giúp cho sinh viên thuộc mọi tầng lớp và hoàn cảnh đạt được tiềm năng của mình. Việc đánh thuế tách bạch đối với các cặp vợ chồng giúp người vợ được bình đẳng với người chồng. Dịch vụ giữ trẻ phổ quát tạo điều kiện cho cả hai bậc cha mẹ có thể đi làm toàn thời gian. Ông Tragardh có một cụm từ hữu ích để mô tả tâm lý này: “chủ nghĩa cá nhân có sự can thiệp của nhà nước” (statist individualism).


Người Bắc Âu mang theo thái độ này đối với chính phủ khi họ ra nước ngoài. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khoảng 1,3 triệu người, một phần tư dân số Thụy Điển lúc đó, di cư, chủ yếu sang Mỹ. Nước Mỹ sáng tác cả thể loại chuyện tiếu lâm về “những người Thụy Điển khờ khạo” và thái độ sẵn sàng tuân thủ luật lệ của họ. Chính những người Thụy Điển khờ khạo đã tạo nên các cộng đồng được quản lý tốt nhất ở Mỹ, chẳng hạn như Minnesota. Thậm chí ngày nay những người Mỹ gốc gác Bắc Âu có khả năng cao hơn 10% so với người Mỹ trung bình về chuyện tin rằng “phần lớn mọi người có thể tin được”.


Quy mô lớn nhỏ không phải yếu tố duy nhất


Giới kinh tế học thường ngỡ ngàng về thành công kinh tế gần đây của các nước Bắc Âu trong khi chính phủ các nước này có quy mô quá lớn. Theo một quy tắc không chính thức trong giới chuyên môn, nếu số thu thuế tính theo tỉ lệ phần trăm của GDP tăng lên 10 điểm phần trăm, thì thường có tương quan với mức giảm nửa điểm phần trăm về tỉ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Nhưng các con số như vậy cần được điều chỉnh để phản ánh các lợi ích của tính trung thực và hiệu quả. Ví dụ, chính phú Ý ấn một gánh nặng kinh khủng đè lên vai xã hội vì các chính khách điều hành chính phủ chủ yếu lo chuyện vơ vét lợi lộc chứ không phải cung cấp dịch vụ công cộng. Goran Persson, cựu thủ tướng Thụy Điển, từng so sánh nền kinh tế Thụy Điển với một con ong – “với một cơ thể quá nặng nề và đôi cánh nhỏ, cứ tưởng con ong không bay nổi, nhưng nó bay được”. Ngày nay con ong đó vẫn đang giữ thể trạng khỏe mạnh và đang bay khỏe hơn nhịp bay của nó trong mấy chục năm qua.


Nguồn: The Economist, 02-2-2013


Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra




[i] Cecil John Rhodes (1853-1902) là doanh nhân Anh, nhà tài phiệt ngành khai khoáng (chủ tịch đầu tiên của công ty kim cương De Beers), và chính khách ở Nam Phi. Ông dùng gia sản của mình lập học bổng Rhodes tài trợ cho sinh viên xuất sắc nước ngoài học ở Đại học Oxford. Học bổng này được nhiều nguồn như tạp chí Time, nhà xuất bản Yale University Press, báo The McGill Reporter,và Associated Press xem là học bổng quốc tế danh giá nhất thế giới. (Wikipedia)




[ii] Nguyên văn: “getting to Denmark”. Theo Ian Morris, chủ đề trọng tâm của tác phẩm Sự cáo chung của lịch sử và con người cuối cùng (The End of History and the Last Man, 1999) của Francis Fukuyama là “noi gương Đan Mạch”. Tác giả Fukuyama ý muốn nói đến việc tạo ra những xã hội ổn định, thanh bình, thịnh vượng, dung nạp mọi thành phần và tầng lớp, và trung thực. Cũng như trong tiểu luận nổi tiếng Sự cáo chung của lịch sử làm tiền đề cho cuốn sách này, Fukuyama xem đây là điểm tận cùng hợp lý của phát triển xã hội, và cho rằng tính chất Đan Mạch đòi hỏi phải có ba yếu tố: các nhà nước vận hành hiệu quả, chế độ pháp trị, và chính phủ có trách nhiệm giải trình. (Ian Morris, How To Get to the End of History, Slate, 2 May 2011)




[iii] Eurobarometer là loạt khảo sát dư luận được thực hiện định kỳ nhân danh Ủy hội Châu Âu kể từ năm 1973, về nhiều loại chủ đề liên quan đến Liên hiệp Châu Âu ở các nước thành viên. (Wikipedia).




[iv] Tính cơ động xã hội (social mobility) là khái niệm về sự dịch chuyển của các cá nhân, gia đình, hay nhóm người, trong một hệ thống đẳng cấp hay giai tầng xã hội. Nếu sự dịch chuyển đó là thay đổi về vị trí/chức vụ mà không thay đổi về tầng lớp xã hội, thì gọi là “cơ động theo chiều ngang” (horizontal mobility). Ví dụ một người dịch chuyển từ một chức vụ quản lý ở công ty này sang một chức vụ tương tự ở một công ty khác. Nhưng nếu sự dịch chuyển làm thay đổi tầng lớp xã hội thì gọi là “cơ động theo chiều dọc” (vertical mobility), và có thể “cơ động hướng lên” (upward mobility) hoặc “cơ động hướng xuống” (downward mobility). Một công nhân trở thành doanh nhân giàu có dịch chuyển lên giai cấp cao hơn; một quý tộc có đất bị mất hết gia sản trong một cuộc cách mạng dịch chuyển xuống giai cấp thấp hơn. (Bách khoa toàn thư Britannica)




[v] Dịch vụ giữ trẻ phổ quát (universal day care) là hệ thống bảo đảm mọi bậc phụ huynh đều có chỗ gửi con ở nhà trẻ mà không phải chờ đợi, thường có mức phí thấp và cố định. Ví dụ, ở Thụy Điển hệ thống này chủ yếu do nhà nước điều hành, chỉ có 20% đi nhà trẻ tư nhân. Năm 2002, nhà nước Thụy Điển áp dụng khung phí tối đa, giúp hệ thống này càng dễ trang trải hơn vì phí giữ trẻ mà phụ huynh đóng chiếm không quá 1 đến 3% thu nhập của họ. (Devine, Dympna & Kilkenny, Ursula, Nordic childcare model best for economic and social wellbeing, Irish Times, 9 June 2011)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 10, 2013 15:01

September 9, 2013

Trí thức và cách mạng – Nhà thơ Syria Adonis trả lời phỏng vấn

Phạm Thị Hoài dịch và giới thiệu


Trước một biển thông tin về Nội chiến Syria và Mùa Xuân Ả-rập, càng đọc càng bối rối, với kiến thức ít ỏi về khu vá»±c thế giới vốn xa lạ với người Việt này tôi tìm tư vấn ở Adonis, một trí thức Syria khả kính, được coi là nhà thÆ¡ Ả-rập đương đại quan trọng nhất hiện còn sống, ứng viên thường trá»±c cho Giải Nobel Văn chương, người không ngừng chất vấn cả văn hóa và xã hội Ả-rập truyền thống lẫn văn hóa và xã hội phương Tây hiện đại. Song khóa tư vấn mà tôi theo đuổi từ nhiều tháng nay lại đặt ra những câu hỏi mới, trong đó nổi bật lên chá»§ đề “Trí thức và Cách mạng”.


Adonis (sinh năm 1930, sống lưu vong tại Paris) viết cho một cột thường kì trên Al-Hayat, tờ báo hàng đầu cá»§a khu vá»±c Ả-rập, tập hợp nhiều trí thức Ả-rập cởi mở. Uy tín và trọng lượng tinh thần cá»§a ông khiến không chỉ những nhận định mà trước hết là thái độ cá»§a ông trước những biến đổi rung chuyển thế giới Ả-rập từ gần ba năm nay được đặc biệt chú ý. Thái độ ấy,  tóm tắt thật ngắn gọn như sau: Từ chỗ dè dặt bày tỏ cảm tình với Mùa Xuân Ả-rập, ông chuyển dần sang hoài nghi, cảnh báo, phê phán và gần đây nhất, ông tuyên bố thẳng là mình không đứng về phía “cách mạng”, tức quân nổi dậy tại Syria. Thậm chí còn có dư luận rằng ông bênh vá»±c nhà độc tài Assad. Có vẻ như Adonis không phải là trường hợp cá biệt. Phần lớn các trí thức và văn nghệ sÄ© Ả-rập đã thành danh và không còn trẻ, những người từng đi đầu, từng là những nhân vật nổi loạn trong văn hóa và nghệ thuật, từng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống tinh thần ở các quốc gia khu vá»±c này, nay dường như không theo kịp tốc độ cá»§a các sá»± kiện chính trị đang diễn ra. Hầu như không một ai trong số họ đóng một vai trò nổi bật trong Mùa Xuân Ả-rập. Họ không nói cùng ngôn ngữ cá»§a các nhà cách mạng trẻ tuổi và khó đi cùng cuộc cách mạng này.


Ở trường hợp Maxim Gorky, người cũng có một quan hệ đầy xung đột với một cuộc cách mạng chống lại ách chuyên chế: Cách mạng tháng Mười Nga, lịch sử cuối cùng đã trả lời nhiều câu hỏi quan trọng cho những kẻ hậu sinh. Còn ở trường hợp Adonis, lịch sử đang quá bận với chính nó. Nhưng bản thân các vấn đề từ Ả-rập xa lạ lại gần với những câu hỏi trong bối cảnh chính trị Việt Nam đến bất ngờ. Vì thế tôi giới thiệu bài phỏng vấn Adonis trên tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung (FAZ) sau đây, để nhường suy ngẫm cho người đọc.


Người dịch


_________________


FAZ: Khi Mùa Xuân Ả-rập bắt đầu, ông có nói rằng: “Tôi không thể tham gia một cuộc cách mạng xuất phát từ thánh đường Hồi giáo. Cái đó chẳng liên quan gì đến tá»± do và dân chá»§.” Sao ông bi quan thế?


Adonis: Không phải bi quan, mà thực tế là như vậy. Nếu hệ thống chính trị được dựng trên một nền tảng tôn giáo thì đó không phải là dân chủ. Hoặc chúng ta theo dân chủ và sống trong tự do, hoặc chúng ta theo tôn giáo. Tôi chọn cái thứ nhất – dân chủ và tự do. Nhưng thế không có nghĩa là tôi chống tôn giáo. Tôi rất tôn trọng cái tín ngưỡng mà cá nhân mỗi người thực hành từ xác tín của riêng mình. Nhưng khi chúng ta phải tuân phục tôn giáo như một thiết chế thì đó là độc tài. Bởi lẽ, còn có những người không theo tôn giáo nào hay theo một tôn giáo khác. Một xã hội lấy luật lệ tôn giáo làm nền tảng, theo tôi là một nền độc tài. Thậm chí còn tồi tệ hơn chế độ độc tài quân sự.


Độc tài tôn giáo và độc tài quân sự khác nhau ở điểm nào?


Độc tài quân sự kiểm soát bộ óc và tư duy chính trị của ta. Thế đã là tệ lắm rồi. Nhưng độc tài tôn giáo thì kiểm soát bộ óc, trái tim, tâm hồn và cả thân thể ta, tức toàn bộ cuộc đời ta. Hiển nhiên cả hai kiểu độc tài này đều phi dân chủ.


Có nghĩa là khi tôn giáo thực thi quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước thì nó phi dân chủ?


Còn tệ hơn thế. Không chỉ phi dân chủ mà đơn giản là bất công. Tôn giáo bắt mọi nhóm trong xã hội phải chấp hành những nghĩa vụ như nhau, nhưng lại không cho hưởng những quyền lợi giống nhau. Ví dụ, vì sao theo luật lệ Hồi giáo thì một người đàn ông Hồi giáo được phép cưới một phụ nữ Thiên chúa giáo, nhưng một người đàn ông Thiên chúa giáo lại phải cải đạo theo Hồi giáo mới được cưới một phụ nữ Hồi giáo? Vì sao ở những nước đậm nét Hồi giáo hoặc Hồi giáo thống trị thì người Hồi giáo được đảm nhiệm chức bộ trưởng hay những chức vụ quan trọng khác, còn người Thiên chúa giáo thì không? Ở một số quốc gia nhất định, cái quyền đó chỉ thuộc về người Hồi giáo. Đó là cưỡng hiếp, là xử tử quyền công dân. Nếu quyền lực chính trị dựa duy nhất vào tôn giáo và xã hội được cai trị nhân danh tôn giáo thì mọi quyền dân sự bị vô hiệu hóa. Tín đồ Hồi giáo khẳng định rằng đạo Hồi là bảo hiểm cho tự do. Nhưng tôn giáo không bảo đảm và cũng chẳng bảo hiểm tự do cho bất kì ai, tuyệt đối không có ngoại lệ! Chức năng ấy chỉ thuộc về Tuyên ngôn Nhân quyền, và chỉ một Hiến pháp mới bảo đảm cho tôi quyền tự do của tôi mà thôi. Nền dân chủ ở các nước Ả-rập chỉ có thể đạt được bằng những quyền lực nhà nước thế tục và dân sự, trên cơ sở bình đẳng về quyền công dân và tách nhà nước khỏi nhà thờ.


Vậy giải pháp là tách nhà nước khỏi nhà thờ?


Đương nhiên. Không tách ra như vậy thì không thể xây dá»±ng một xã hội hiện đại. Nếu mục tiêu là thiết lập một xã hội “Ả-rập” tá»± do và dân chá»§ thì mọi nhóm thiểu số và bất đồng chính kiến đều phải được thừa nhận vô điều kiện. Chỉ như vậy mới tạo lập được một xã hội tiến bộ và hội nhập với thế giới. Tách nhà nước khỏi nhà thờ không phải là chống đức tin cá»§a mỗi cá nhân. Mỗi người đều có quyền tín ngưỡng, đó là tá»± do cá nhân. Trong chế độ dân chá»§, tá»± do cá nhân phải được tôn trọng.


Xã hội Ả-rập hiện tại có thích hợp cho việc tách nhà nước khỏi nhà thờ không?


Đáng tiếc là không. Nhưng đó là hiện thực.


Vì sao?


Vì những xã hội này vẫn tiếp tục nói tiếng nói của những triều đại Caliphate và nguyên lí chinh phục vẫn tồn tại. Chỉ riêng cái cách phân một xã hội thành đa số và thiểu số theo quan niệm tôn giáo đã cho thấy các cấu trúc phi dân chủ của nó.


Đã bao giờ xã hội Ả-rập trải qua một chế độ dân chủ trong lịch sử chưa?


Chưa bao giờ. Từ 1500 năm nay người Ả-rập chúng tôi giậm chân tại chỗ. Trong mười lăm thế kỉ ấy, khát vọng chủ đạo của chúng tôi là giành quyền lực chính trị mà không hề đếm xỉa đến những biến đổi theo hướng tiến bộ xã hội. Thay nhân sự ở thượng tầng quyền lực, nhưng đổi nền móng thì không. Chẳng ai thử xoay chuyển xã hội. Chẳng ai tìm đường cải thiện những phát triển trong văn hóa và xã hội. Chẳng ai tìm kiếm những khả năng biến một người Ả-rập thành một con người hiện đại.


Phong trào được mệnh danh là Mùa Xuân Ả-rập không phải là bước mở đầu cho tiến trình dân chủ hóa xã hội hay sao?


Sau chính biến, có thể chúng tôi sẽ có một chính phủ ít tàn bạo hơn chính phủ trước hoặc chỉ đơn thuần là có vẻ ít tệ hại hơn. Vì thế mà tôi phải nhấn mạnh rằng không thể có dân chủ với một hệ thống dựa trên tôn giáo.


Phe đối lập ở Syria đòi tự do và dân chủ. Một số người cũng đưa ý tưởng về xã hội dân sự ra để thảo luận. Đó không phải là viên gạch xây nên một xã hội dân sự hiện đại hay sao?


Những chuyện đang được bàn luận trong xã hội Ả-rập đó không có ý nghÄ©a gì hết. Phe giải phóng thậm chí chưa bao giờ nhắc đến khái niệm “tách nhà nước khỏi nhà thờ” trong các cương lÄ©nh chính trị cá»§a họ. Một khái niệm mà cÅ©ng sợ thì cách mạng cái nỗi gì?


Tổ chức Huynh đệ Hồi giáo có tuyên bố rằng hòm phiếu sẽ quyết định, ai sẽ cầm quyền ở đất nước này trên nền tảng dân chủ. Tuyên bố ấy khả tín đến mức nào?


Hoàn toàn không. Họ có chấp nhận để một người Thiên chúa giáo lên làm Tổng thống Syria không? Họ có chấp nhận một Tổng thống Ai Cập theo Thiên chúa Coptic không? Không. Vì cái giáo điều phân chia xã hội thành đa số và thiểu số tôn giáo vẫn ngự trị trong não trạng họ.


Nhưng trong chế độ dân chủ thì mọi chính đảng đều có thể ra ứng cử.


Tôi tán thành tuyển cử tự do và tôi tôn trọng chế độ dân chủ. Tôi sẽ đi bỏ phiếu, nhưng tất nhiên là không bầu cho Huynh đệ Hồi giáo. Tôi cực lực phản đối việc họ gây ảnh hưởng trong chính trị. Đáng tiếc là trong một số trường hợp, bầu cử dân chủ không phải là giải pháp, vì số đông cũng có thể chuyên chế, ngay cả khi nó giành được chính quyền nhờ bầu cử tự do, hãy xem trường hợp Hitler.


Tín đồ Thiên chúa và các nhóm tôn giáo khác ở Syria đứng ở vị trí nào trong cuộc cách mạng này? Ông bị coi là người ủng hộ chế độ Assad?


Tôi phản đối sá»± quy chụp đó. HÆ¡n nữa, nếu phải tham gia cách mạng thì họ tham gia với tư cách những công dân chứ không phải như những tín đồ Thiên chúa. Nhưng nghÄ©a vụ đó nằm ở thái độ cá»§a bản thân họ, dù họ là người Thiên chúa giáo, người Alawite, người Druze hay ai khác. Chính họ nên chống lại việc phân biệt, chẳng hạn giữa các nhà cách mạng Hồi giáo và các nhà cách mạng Thiên chúa giáo. Trong Hội đồng Quốc gia hoặc trong Liên minh Quốc gia, những người Thiên chúa giáo nên lấy tư cách đại diện cho nhân dân Syria chứ không phải đại diện riêng cho tín đồ Thiên chúa. Lời kêu gọi tham gia cách mạng với tư cách một thiểu số tôn giáo – trong thá»±c tế – chẳng khác gì một sá»± kì thị.


Trí thức Ả-rập nói chung có đóng vai trò gì trong biến chuyển này không?


Tất nhiên là có. Những điều đang diễn ra tại Syria và các nước Ả-rập khác đều hình thành từ những ý tưởng, nguyện vọng và hình dung về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những ý tưởng đó không bỗng nhiên tuôn ra. Nhiều nhà văn và trí thức Ả-rập đã lên tiếng cho tự do và dân chủ. Nhờ đó mới có một phong trào xuất phát từ bối cảnh chính trị.


Vì sao ông không đứng về phía cách mạng?


Cuộc cách mạng hiện tại này thì làm sao tôi ủng hộ được? Thử hỏi, cương lĩnh chính trị của nó là gì? Lúc đầu, nó là cuộc cách mạng đòi tự do dân chủ, diễn ra trong hòa bình. Bây giờ thì nó đầy bạo lực. Nó đã trở thành một cuộc bạo loạn vũ trang. Trong hàng ngũ cách mạng có lính đánh thuê từ đủ thứ quốc gia Hồi giáo khác nhau. Còn vũ khí thì do Qatar, Ả-rập Saudi và Hoa Kỳ cung cấp. Nó không còn là cách mạng. Nó chỉ là một tập hợp những nhóm bạo loạn riêng lẻ muốn lật đổ chính quyền. Làm sao tôi có thể ủng hộ cái thứ đó được?


Còn vai trò của phương Tây trong Khủng hoảng Syria hiện tại?


Trong vụ này, phương Tây xử sự như một kẻ hoàn toàn không biết gì. Phương Tây không thiếu chuyên gia và nhà tư vấn, nhưng họ không thật sự đóng góp để làm sáng tỏ hiện trạng. Họ chỉ đưa ra những thông tin bề mặt. Đây là tôi đang nói về lĩnh vực chính trị. Nhiều trí thức phương Tây nắm vững tình hình chính trị, nhưng họ không phải là những người ra quyết định. Thêm vào đó, trước hết là trong những vấn đề chính trị nhưng trong cả những vấn đề văn hóa cũng vậy, phương Tây đối xử với các nước Ả-rập và với Hồi giáo không mấy tương kính. Hiện nay phương Tây đang rơi vào khủng hoảng kinh tế. Và phần lớn các nước Ả-rập đều giầu. Cho nên phương Tây sẽ làm tất cả để giải quyết các vấn đề kinh tế của mình, dù có phải vi phạm những thành tựu văn hóa, những nguyên tắc dân chủ và nhân quyền của mình.


Vì sao cho đến nay vẫn chưa có một giải pháp chính trị nào?


Có một số thế lực, cả bên trong lẫn bên ngoài, phản đối một giải pháp chính trị. Vì thế mà bạo lực leo thang. Phe cách mạng là những người đầu tiên phản đối một giải pháp chính trị. Họ được tài trợ bằng tiền của một số quốc gia không hề muốn cảnh bạo loạn ở Syria kết thúc. Một số thế lực bên ngoài muốn thấy xã hội Syria bị tàn phá, đất nước Syria bị suy yếu vì kiệt quệ nguồn nhân lực và tài lực. Một số quốc gia còn hô hào phải can thiệp bằng quân sự để Syria suy yếu. Bởi lẽ, một đất nước bị suy yếu và chia cắt thì không có gì để ra điều kiện bên bàn đàm phán. Nó phải chấp nhận áp đặt của kẻ khác.


Vậy là có khả năng rằng Syria sẽ bị chia thành nhiều nước?


Mọi thứ đều có thể. Nó phụ thuộc vào vai trò của các cường quốc thế giới ở Syria.


Một số nước phương Tây đang đe là sẽ can thiệp quân sự vào Syria.


Tôi không tin điều đó sẽ xảy ra. Syria là một tổng thể phức tạp: Ả-rập Saudi, Qatar và Thổ Nhĩ Kì muốn nhân danh một chế độ Hồi giáo ôn hòa để tập hợp cả một loạt quốc gia từ Maroc đến Pakistan dưới trướng Hồi giáo Sunni. Từ đó sẽ hình thành một vùng thống nhất mới, trải dài từ Địa Trung Hải, qua Caucasus đến tận biên giới Nga. Hệ quả sẽ là, một mặt cô lập được Nga, mặt khác ngăn chặn được ảnh hưởng của Hồi giáo Shia. Ngoài ra còn công cụ hóa được cả người Hồi giáo ở Nga và ở Trung Quốc. Còn Nga và Trung Quốc thì lại theo đuổi những quyền lợi riêng ở Syria. Xung đột ở đây vì thế hết sức phức tạp. Syria giáp với Thổ, Địa Trung Hải, Lebanon, Israel, Jordan và Iraq. Từ đây cũng có thể tiến thẳng vào các vùng của người Kurd. Ả-rập Saudi, các nước vùng Vịnh Ba Tư, Iran về hướng Trung Á, Ai Cập về hướng châu Phi cũng như Đảo Cyprus và Hy Lạp về hướng châu Âu đều không xa. Nếu can thiệp quân sự xảy ra, có khả năng Syria sẽ rơi vào tay các thế lực thánh chiến Hồi giáo. Họ sẽ gây ảnh hưởng với toàn bộ những khu vực vừa kể. Phương Tây có thực sự chịu chấp nhận như vậy không? Tôi tin là không.


Nguồn: FAZ, 28-8-2013. Nhan đề của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 09, 2013 13:53

Trí thức và cách mạng – Nhà thơ Syria Adonis trả lời phỏng vấn

Phạm Thị Hoài dịch và giới thiệu


Trước một biển thông tin về Nội chiến Syria và Mùa Xuân Ả-rập, càng đọc càng bối rối, với kiến thức ít ỏi về khu vực thế giới vốn xa lạ với người Việt này tôi tìm tư vấn ở Adonis, một trí thức Syria khả kính, được coi là nhà thơ Ả-rập đương đại quan trọng nhất hiện còn sống, ứng viên thường trực cho Giải Nobel Văn chương, người không ngừng chất vấn cả văn hóa và xã hội Ả-rập truyền thống lẫn văn hóa và xã hội phương Tây hiện đại. Song khóa tư vấn mà tôi theo đuổi từ nhiều tháng nay lại đặt ra những câu hỏi mới, trong đó nổi bật lên chủ đề “Trí thức và Cách mạng”.


Adonis (sinh năm 1930, sống lưu vong tại Paris) viết cho một cột thường kì trên Al-Hayat, tờ báo hàng đầu của khu vực Ả-rập, tập hợp nhiều trí thức Ả-rập cởi mở. Uy tín và trọng lượng tinh thần của ông khiến không chỉ những nhận định mà trước hết là thái độ của ông trước những biến đổi rung chuyển thế giới Ả-rập từ gần ba năm nay được đặc biệt chú ý. Thái độ ấy,  tóm tắt thật ngắn gọn như sau: Từ chỗ dè dặt bày tỏ cảm tình với Mùa Xuân Ả-rập, ông chuyển dần sang hoài nghi, cảnh báo, phê phán và gần đây nhất, ông tuyên bố thẳng là mình không đứng về phía “cách mạng”, tức quân nổi dậy tại Syria. Thậm chí còn có dư luận rằng ông bênh vực nhà độc tài Assad. Có vẻ như Adonis không phải là trường hợp cá biệt. Phần lớn các trí thức và văn nghệ sĩ Ả-rập đã thành danh và không còn trẻ, những người từng đi đầu, từng là những nhân vật nổi loạn trong văn hóa và nghệ thuật, từng có ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống tinh thần ở các quốc gia khu vực này, nay dường như không theo kịp tốc độ của các sự kiện chính trị đang diễn ra. Hầu như không một ai trong số họ đóng một vai trò nổi bật trong Mùa Xuân Ả-rập. Họ không nói cùng ngôn ngữ của các nhà cách mạng trẻ tuổi và khó đi cùng cuộc cách mạng này.


Ở trường hợp Maxim Gorky, người cũng có một quan hệ đầy xung đột với một cuộc cách mạng chống lại ách chuyên chế: Cách mạng tháng Mười Nga, lịch sử cuối cùng đã trả lời nhiều câu hỏi quan trọng cho những kẻ hậu sinh. Còn ở trường hợp Adonis, lịch sử đang quá bận với chính nó. Nhưng bản thân các vấn đề từ Ả-rập xa lạ lại gần với những câu hỏi trong bối cảnh chính trị Việt Nam đến bất ngờ. Vì thế tôi giới thiệu bài phỏng vấn Adonis trên tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung (FAZ) sau đây, để nhường suy ngẫm cho người đọc.


Người dịch


_________________


FAZ: Khi Mùa Xuân Ả-rập bắt đầu, ông có nói rằng: “Tôi không thể tham gia một cuộc cách mạng xuất phát từ thánh đường Hồi giáo. Cái đó chẳng liên quan gì đến tự do và dân chủ.” Sao ông bi quan thế?


Adonis: Không phải bi quan, mà thực tế là như vậy. Nếu hệ thống chính trị được dựng trên một nền tảng tôn giáo thì đó không phải là dân chủ. Hoặc chúng ta theo dân chủ và sống trong tự do, hoặc chúng ta theo tôn giáo. Tôi chọn cái thứ nhất – dân chủ và tự do. Nhưng thế không có nghĩa là tôi chống tôn giáo. Tôi rất tôn trọng cái tín ngưỡng mà cá nhân mỗi người thực hành từ xác tín của riêng mình. Nhưng khi chúng ta phải tuân phục tôn giáo như một thiết chế thì đó là độc tài. Bởi lẽ, còn có những người không theo tôn giáo nào hay theo một tôn giáo khác. Một xã hội lấy luật lệ tôn giáo làm nền tảng, theo tôi là một nền độc tài. Thậm chí còn tồi tệ hơn chế độ độc tài quân sự.


Độc tài tôn giáo và độc tài quân sự khác nhau ở điểm nào?


Độc tài quân sự kiểm soát bộ óc và tư duy chính trị của ta. Thế đã là tệ lắm rồi. Nhưng độc tài tôn giáo thì kiểm soát bộ óc, trái tim, tâm hồn và cả thân thể ta, tức toàn bộ cuộc đời ta. Hiển nhiên cả hai kiểu độc tài này đều phi dân chủ.


Có nghĩa là khi tôn giáo thực thi quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước thì nó phi dân chủ?


Còn tệ hơn thế. Không chỉ phi dân chủ mà đơn giản là bất công. Tôn giáo bắt mọi nhóm trong xã hội phải chấp hành những nghĩa vụ như nhau, nhưng lại không cho hưởng những quyền lợi giống nhau. Ví dụ, vì sao theo luật lệ Hồi giáo thì một người đàn ông Hồi giáo được phép cưới một phụ nữ Thiên chúa giáo, nhưng một người đàn ông Thiên chúa giáo lại phải cải đạo theo Hồi giáo mới được cưới một phụ nữ Hồi giáo? Vì sao ở những nước đậm nét Hồi giáo hoặc Hồi giáo thống trị thì người Hồi giáo được đảm nhiệm chức bộ trưởng hay những chức vụ quan trọng khác, còn người Thiên chúa giáo thì không? Ở một số quốc gia nhất định, cái quyền đó chỉ thuộc về người Hồi giáo. Đó là cưỡng hiếp, là xử tử quyền công dân. Nếu quyền lực chính trị dựa duy nhất vào tôn giáo và xã hội được cai trị nhân danh tôn giáo thì mọi quyền dân sự bị vô hiệu hóa. Tín đồ Hồi giáo khẳng định rằng đạo Hồi là bảo hiểm cho tự do. Nhưng tôn giáo không bảo đảm và cũng chẳng bảo hiểm tự do cho bất kì ai, tuyệt đối không có ngoại lệ! Chức năng ấy chỉ thuộc về Tuyên ngôn Nhân quyền, và chỉ một Hiến pháp mới bảo đảm cho tôi quyền tự do của tôi mà thôi. Nền dân chủ ở các nước Ả-rập chỉ có thể đạt được bằng những quyền lực nhà nước thế tục và dân sự, trên cơ sở bình đẳng về quyền công dân và tách nhà nước khỏi nhà thờ.


Vậy giải pháp là tách nhà nước khỏi nhà thờ?


Đương nhiên. Không tách ra như vậy thì không thể xây dựng một xã hội hiện đại. Nếu mục tiêu là thiết lập một xã hội “Ả-rập” tự do và dân chủ thì mọi nhóm thiểu số và bất đồng chính kiến đều phải được thừa nhận vô điều kiện. Chỉ như vậy mới tạo lập được một xã hội tiến bộ và hội nhập với thế giới. Tách nhà nước khỏi nhà thờ không phải là chống đức tin của mỗi cá nhân. Mỗi người đều có quyền tín ngưỡng, đó là tự do cá nhân. Trong chế độ dân chủ, tự do cá nhân phải được tôn trọng.


Xã hội Ả-rập hiện tại có thích hợp cho việc tách nhà nước khỏi nhà thờ không?


Đáng tiếc là không. Nhưng đó là hiện thực.


Vì sao?


Vì những xã hội này vẫn tiếp tục nói tiếng nói của những triều đại Caliphate và nguyên lí chinh phục vẫn tồn tại. Chỉ riêng cái cách phân một xã hội thành đa số và thiểu số theo quan niệm tôn giáo đã cho thấy các cấu trúc phi dân chủ của nó.


Đã bao giờ xã hội Ả-rập trải qua một chế độ dân chủ trong lịch sử chưa?


Chưa bao giờ. Từ 1500 năm nay người Ả-rập chúng tôi giậm chân tại chỗ. Trong mười lăm thế kỉ ấy, khát vọng chủ đạo của chúng tôi là giành quyền lực chính trị mà không hề đếm xỉa đến những biến đổi theo hướng tiến bộ xã hội. Thay nhân sự ở thượng tầng quyền lực, nhưng đổi nền móng thì không. Chẳng ai thử xoay chuyển xã hội. Chẳng ai tìm đường cải thiện những phát triển trong văn hóa và xã hội. Chẳng ai tìm kiếm những khả năng biến một người Ả-rập thành một con người hiện đại.


Phong trào được mệnh danh là Mùa Xuân Ả-rập không phải là bước mở đầu cho tiến trình dân chủ hóa xã hội hay sao?


Sau chính biến, có thể chúng tôi sẽ có một chính phủ ít tàn bạo hơn chính phủ trước hoặc chỉ đơn thuần là có vẻ ít tệ hại hơn. Vì thế mà tôi phải nhấn mạnh rằng không thể có dân chủ với một hệ thống dựa trên tôn giáo.


Phe đối lập ở Syria đòi tự do và dân chủ. Một số người cũng đưa ý tưởng về xã hội dân sự ra để thảo luận. Đó không phải là viên gạch xây nên một xã hội dân sự hiện đại hay sao?


Những chuyện đang được bàn luận trong xã hội Ả-rập đó không có ý nghĩa gì hết. Phe giải phóng thậm chí chưa bao giờ nhắc đến khái niệm “tách nhà nước khỏi nhà thờ” trong các cương lĩnh chính trị của họ. Một khái niệm mà cũng sợ thì cách mạng cái nỗi gì?


Tổ chức Huynh đệ Hồi giáo có tuyên bố rằng hòm phiếu sẽ quyết định, ai sẽ cầm quyền ở đất nước này trên nền tảng dân chủ. Tuyên bố ấy khả tín đến mức nào?


Hoàn toàn không. Họ có chấp nhận để một người Thiên chúa giáo lên làm Tổng thống Syria không? Họ có chấp nhận một Tổng thống Ai Cập theo Thiên chúa Coptic không? Không. Vì cái giáo điều phân chia xã hội thành đa số và thiểu số tôn giáo vẫn ngự trị trong não trạng họ.


Nhưng trong chế độ dân chủ thì mọi chính đảng đều có thể ra ứng cử.


Tôi tán thành tuyển cử tự do và tôi tôn trọng chế độ dân chủ. Tôi sẽ đi bỏ phiếu, nhưng tất nhiên là không bầu cho Huynh đệ Hồi giáo. Tôi cực lực phản đối việc họ gây ảnh hưởng trong chính trị. Đáng tiếc là trong một số trường hợp, bầu cử dân chủ không phải là giải pháp, vì số đông cũng có thể chuyên chế, ngay cả khi nó giành được chính quyền nhờ bầu cử tự do, hãy xem trường hợp Hitler.


Tín đồ Thiên chúa và các nhóm tôn giáo khác ở Syria đứng ở vị trí nào trong cuộc cách mạng này? Ông bị coi là người ủng hộ chế độ Assad?


Tôi phản đối sự quy chụp đó. Hơn nữa, nếu phải tham gia cách mạng thì họ tham gia với tư cách những công dân chứ không phải như những tín đồ Thiên chúa. Nhưng nghĩa vụ đó nằm ở thái độ của bản thân họ, dù họ là người Thiên chúa giáo, người Alawite, người Druze hay ai khác. Chính họ nên chống lại việc phân biệt, chẳng hạn giữa các nhà cách mạng Hồi giáo và các nhà cách mạng Thiên chúa giáo. Trong Hội đồng Quốc gia hoặc trong Liên minh Quốc gia, những người Thiên chúa giáo nên lấy tư cách đại diện cho nhân dân Syria chứ không phải đại diện riêng cho tín đồ Thiên chúa. Lời kêu gọi tham gia cách mạng với tư cách một thiểu số tôn giáo – trong thực tế – chẳng khác gì một sự kì thị.


Trí thức Ả-rập nói chung có đóng vai trò gì trong biến chuyển này không?


Tất nhiên là có. Những điều đang diễn ra tại Syria và các nước Ả-rập khác đều hình thành từ những ý tưởng, nguyện vọng và hình dung về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những ý tưởng đó không bỗng nhiên tuôn ra. Nhiều nhà văn và trí thức Ả-rập đã lên tiếng cho tự do và dân chủ. Nhờ đó mới có một phong trào xuất phát từ bối cảnh chính trị.


Vì sao ông không đứng về phía cách mạng?


Cuộc cách mạng hiện tại này thì làm sao tôi ủng hộ được? Thử hỏi, cương lĩnh chính trị của nó là gì? Lúc đầu, nó là cuộc cách mạng đòi tự do dân chủ, diễn ra trong hòa bình. Bây giờ thì nó đầy bạo lực. Nó đã trở thành một cuộc bạo loạn vũ trang. Trong hàng ngũ cách mạng có lính đánh thuê từ đủ thứ quốc gia Hồi giáo khác nhau. Còn vũ khí thì do Qatar, Ả-rập Saudi và Hoa Kỳ cung cấp. Nó không còn là cách mạng. Nó chỉ là một tập hợp những nhóm bạo loạn riêng lẻ muốn lật đổ chính quyền. Làm sao tôi có thể ủng hộ cái thứ đó được?


Còn vai trò của phương Tây trong Khủng hoảng Syria hiện tại?


Trong vụ này, phương Tây xử sự như một kẻ hoàn toàn không biết gì. Phương Tây không thiếu chuyên gia và nhà tư vấn, nhưng họ không thật sự đóng góp để làm sáng tỏ hiện trạng. Họ chỉ đưa ra những thông tin bề mặt. Đây là tôi đang nói về lĩnh vực chính trị. Nhiều trí thức phương Tây nắm vững tình hình chính trị, nhưng họ không phải là những người ra quyết định. Thêm vào đó, trước hết là trong những vấn đề chính trị nhưng trong cả những vấn đề văn hóa cũng vậy, phương Tây đối xử với các nước Ả-rập và với Hồi giáo không mấy tương kính. Hiện nay phương Tây đang rơi vào khủng hoảng kinh tế. Và phần lớn các nước Ả-rập đều giầu. Cho nên phương Tây sẽ làm tất cả để giải quyết các vấn đề kinh tế của mình, dù có phải vi phạm những thành tựu văn hóa, những nguyên tắc dân chủ và nhân quyền của mình.


Vì sao cho đến nay vẫn chưa có một giải pháp chính trị nào?


Có một số thế lực, cả bên trong lẫn bên ngoài, phản đối một giải pháp chính trị. Vì thế mà bạo lực leo thang. Phe cách mạng là những người đầu tiên phản đối một giải pháp chính trị. Họ được tài trợ bằng tiền của một số quốc gia không hề muốn cảnh bạo loạn ở Syria kết thúc. Một số thế lực bên ngoài muốn thấy xã hội Syria bị tàn phá, đất nước Syria bị suy yếu vì kiệt quệ nguồn nhân lực và tài lực. Một số quốc gia còn hô hào phải can thiệp bằng quân sự để Syria suy yếu. Bởi lẽ, một đất nước bị suy yếu và chia cắt thì không có gì để ra điều kiện bên bàn đàm phán. Nó phải chấp nhận áp đặt của kẻ khác.


Vậy là có khả năng rằng Syria sẽ bị chia thành nhiều nước?


Mọi thứ đều có thể. Nó phụ thuộc vào vai trò của các cường quốc thế giới ở Syria.


Một số nước phương Tây đang đe là sẽ can thiệp quân sự vào Syria.


Tôi không tin điều đó sẽ xảy ra. Syria là một tổng thể phức tạp: Ả-rập Saudi, Qatar và Thổ Nhĩ Kì muốn nhân danh một chế độ Hồi giáo ôn hòa để tập hợp cả một loạt quốc gia từ Maroc đến Pakistan dưới trướng Hồi giáo Sunni. Từ đó sẽ hình thành một vùng thống nhất mới, trải dài từ Địa Trung Hải, qua Caucasus đến tận biên giới Nga. Hệ quả sẽ là, một mặt cô lập được Nga, mặt khác ngăn chặn được ảnh hưởng của Hồi giáo Shia. Ngoài ra còn công cụ hóa được cả người Hồi giáo ở Nga và ở Trung Quốc. Còn Nga và Trung Quốc thì lại theo đuổi những quyền lợi riêng ở Syria. Xung đột ở đây vì thế hết sức phức tạp. Syria giáp với Thổ, Địa Trung Hải, Lebanon, Israel, Jordan và Iraq. Từ đây cũng có thể tiến thẳng vào các vùng của người Kurd. Ả-rập Saudi, các nước vùng Vịnh Ba Tư, Iran về hướng Trung Á, Ai Cập về hướng châu Phi cũng như Đảo Cyprus và Hy Lạp về hướng châu Âu đều không xa. Nếu can thiệp quân sự xảy ra, có khả năng Syria sẽ rơi vào tay các thế lực thánh chiến Hồi giáo. Họ sẽ gây ảnh hưởng với toàn bộ những khu vực vừa kể. Phương Tây có thực sự chịu chấp nhận như vậy không? Tôi tin là không.


Nguồn: FAZ, 28-8-2013. Nhan đề của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2013 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 09, 2013 13:53

September 8, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (11)

Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4, kì 5, kì 6, kì 7, kì 8, kì 9, kì 10


CHƯƠNG IV: ĐỐI LẬP CHÍNH TRỊ


Mục I: ĐỊNH NGHĨA VÀ CÁC QUAN NIỆM VỀ ĐỐI LẬP


Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA


Chúng ta đã dùng nhiều danh từ đối lập. Mà đối lập là gì? Thế nào là đối lập ? Đứng về phương diện lịch sử mà suy xét, đối lập phát sinh ở sự thực hành chính trị và liên quan đến lịch trình biến chuyển của chế độ đại nghị. Nói đến đối lập tức là nói đến cái gì ở ngoài đa số, ngoài Chính phủ. Đối lập là thiểu số. Đây là khía cạnh nghị viện của vấn đề. Ý niệm đối lập cần phải được phân tích rõ ràng hơn nữa để phân biệt nó với những hiện tượng tương tự. Đối lập có ba đặc điểm: một sự bất đồng về chính trị, có tính cách tập thể và có tính cách hợp pháp.


A. Trước nhất, đối lập phải là một sự bất đồng về chính trị. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào những kẻ chống đối có thể tổng hợp lại tất cả những vấn đề đã được đặt ra, đưa những vấn đề ấy lên một mực độ đại cương, và phán đoán theo một tiêu chuẩn chính trị. Có thể có một số đông nông dân chặn đường chặn xá để phản đối một chính sách của Chính phủ. Có thể có một số đông sinh viên, một đoàn thể văn hóa hay tôn giáo biểu tình đòi hỏi những cái gì. Đành rằng những sự kiện ấy có thể có hậu quả chính trị, nhưng đó không phải là đối lập. Đó chỉ là một sự khước từ, kháng cự hay phản đối. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào sự khước từ ấy, sự kháng cự ấy, sự phản đối ấy được chính trị hóa.


B. Là một sự bất đồng về chính kiến, đối lập phải có tính cách tập thể. Trong bất cứ nước nào, luôn luôn có những người bất đồng chính kiến với chính quyền. Có thể có một số đông anh em, thỉnh thoảng họp nhau, rồi trong lúc trà dư tửu hậu, bàn quốc sự, có một thái độ chống đối đường lối chủ trương của Chính phủ. Đó là những kẻ chống đối, những cá nhân đối lập. Và những kẻ chống đối ấy có thể có trong chính thể cộng sản độc tài. Đó không phải là đối lập. Đối lập chỉ có khi nào sự bất đồng chính kiến ấy có tính cách tập thể, khi nào nó là kết quả biểu hiện một sự hành động có tổ chức của những kẻ chống đối. Nói đến sự hành động có tổ chức là nghĩ ngay đến chính đảng. Chỉ có đối lập khi nào có một chính đảng đối lập.


C. Là một sự bất đồng về chính kiến, có tính cách tập thể, đối lập phải hợp pháp nữa. Có thể vì một lí do gì mà một đoàn thể chính trị phải dùng võ lực chống lại chính quyền. Có thể vì một lí do gì mà chính đảng phải hoạt động âm thầm trong bóng tối. Những hành động ấy, đành rằng nó có tính cách tập thể và kết quả của một sự bất đồng chính kiến, không được xem là đối lập. Những hành động ấy chỉ được xem là những cuộc âm mưu cuộc phiến loạn hay kháng chiến, nó không còn là đối lập nữa. Vì đối lập chỉ hoạt động trong vòng pháp luật.


Đoạn 2: CÁC QUAN NIỆM VỀ ĐỐI LẬP


Một khi đã ý thức danh từ đối lập và nhận định tầm quan trọng của nó trong cuộc sinh hoạt chính trị, vấn đề then chốt được đặt ra là xác định địa vị của đối lập trong các chính thể. Nếu tinh túy của dân chủ là lòng độ lượng, khoan dung và tự do chính trị, thì lẽ tất nhiên lòng độ lượng, khoan dung ấy được thể hiện và sự hiện diện của đối lập chỉ là kết quả của sự thừa nhận tự do chính trị. Đối lập chỉ có giá trị và hiệu quả trong một chế độ mà triết học chính trị là chủ nghĩa tự do. Vì đối lập dựa trên tinh thần khoan dung, trên sự chính đáng của bất đồng chính kiến. Vì thừa nhận đối lập, tức là thừa nhận tính cách tương đối của chân lí chính trị.


Một quan niệm đối lập như thế, dựa trên chủ nghĩa tự do, chính thể độc tài không thể chấp nhận được. Trong những chính thể này, chính quyền là tất cả, còn đối lập chẳng những vô ích mà còn nguy hiểm nữa. Vô ích vì những nhà độc tài luôn luôn cho rằng ý thức hệ của mình là bất di bất dịch và vai trò của cơ quan công quyền không phải tìm lấy một ý chí đi sát với nguyện vọng của quốc gia mà trái lại chỉ có nhiệm vụ áp dụng mệnh lệnh của chính đảng nắm quyền lãnh đạo. Chẳng những vô ích, đối lập còn nguy hiểm nữa. Nguy hiểm cho sự thực hiện nguyện vọng của quần chúng, vì hành động của đối lập phân li quần chúng. Bởi thế, đối lập cần phải được thanh trừng và những cái mà người ta gọi là tự do công cộng, những lợi khí mà đối lập dùng để hoạt động, lợi khí ấy cần phải được cấm nhặt.


Bị khước từ bởi những chính thể độc tài, đối lập chỉ được thừa nhận trong chính thể dân chủ thật sự. Và trong chính thể dân chủ, chẳng những trên bình diện triết lí chính trị, đối lập còn được chứng minh qua khía cạnh cuộc điều hành thực tiễn, của định chế. Chính sự hiện diện của đối lập phản ảnh tính cách chân chính của ý chí quốc gia. Trong những chế độ mệnh danh là «nhất tề, nhất trí», trong những chế độ mà người ta chỉ nghe đến 99 phần trăm, đành rằng không phải không thể có được, nhưng sự vắng mặt của đối lập làm cho người ta lắm lúc phải hoài nghi. Chỉ trên bình diện thực tại, vai trò của đối lập chứng tỏ rằng, mặc dù bị loại ngoài hệ thống chính quyền, đối lập cần có mặt và phát biểu.


Một quan niệm quá ư rộng rãi về dân chá»§ – lẽ tất nhiên – dá»±a trên một sá»± đối lập chân thành, xây dá»±ng. Nhưng ý niệm đối lập ngày nay quá biến chuyển. Một hiện tượng mới đã xẩy ra, một đối lập, không phải trong chính thể, mà chống chính thể dân chá»§, một sá»± đối lập hoàn toàn phá»§ nhận nguyên tắc dân chá»§, một sá»± đối lập về ý thức hệ. Tất cả vấn đề là thá»­ hỏi, trước một sá»± đối lập như thế, thái độ cá»§a chính thể dân chá»§ phải như thế nào. Một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và trên bình diện quốc tế, những giải pháp bảo vệ chính thể dân chá»§ tùy thuộc hoàn cảnh thá»±c tại chính trị cá»§a mỗi nước.


Dù sao – để trở lại vấn đề đối lập trong chính thể dân chá»§ – không ai có thể chối cãi tính cách chính đáng cá»§a sá»± hiện diện cá»§a đối lập. Nhưng đối lập, chẳng những phải có mặt mà còn phải có thể phát biểu nữa. Mà đối lập phát biểu để làm gì và hành động cá»§a đối lập sẽ có tác dụng gì trong guồng máy chính trị quốc gia? Và theo thá»§ tục nào, dưới hình thức nào, với những bảo đảm nào, đối lập có thể mạnh dạn và thành thá»±c phát biểu ý kiến?


Đó là hai vấn đề cực kì quan trọng, vấn đề vai trò của đối lập và vấn đề quy chế của đối lập, hai vấn đề căn bản mà chính thể dân chủ cần phải giải quyết một cách phân minh để ổn định cuộc sinh hoạt chính trị và để đối lập làm tròn sứ mạng của nó.


Mục II: VAI TRÒ CỦA ĐỐI LẬP


Trong chính thể dân chủ thật sự, hiện diện của đối lập là một điều hết sức chính đáng. Chính đáng vì thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tự do chính trị. Chẳng những chính đáng, đối lập còn cần thiết nữa. Cần thiết cho phẩm tính của đa số chính quyền. Cần thiết cho phẩm tính, đối lập còn cần thiết cho sự hiện hữu của chính quyền nữa. Trong cuộc sinh hoạt chính trị ổn định, đa số ở đâu ra, chính quyền hiện tại ở đâu ra, nếu không phải là kết tinh của sự tranh chấp với đối lập? Trên khía cạnh này, đối lập đóng vai trò căn bản: vai trò hợp tác với chính quyền. Hạn chế và kiểm soát chính quyền, hợp tác với chính quyền, đó là hai khía cạnh của vai trò đối lập.


Đoạn 1: VAI TRÒ HẠN CHẾ VÀ KIỂM SOÁT CHÍNH QUYỀN


A. Hạn chế và kiểm soát chính quyền, đó là một trong những hoạt động cốt yếu của đối lập ở bất cứ lúc nào trong cuộc sinh hoạt chính trị. Trước hết, ở giai đoạn tuyển cử. Đối lập có mặt, có thể phát biểu ý kiến, đối lập có quyền phủ nhận làm cho chính quyền bỏ bớt thái độ cứng rắn, những chương trình mị dân, những hứa hẹn hão huyền. Đối lập chặn đứng lại những tư tưởng hẹp hòi, những quan điểm thiển cận, tư tưởng và quan điểm không phải của một Chính phủ quốc gia mà hoàn toàn lệ thuộc vào mệnh lệnh của đảng phái.


B. Đối lập bảo đảm tính cách đích xác công khai của những quyết định của Nhà nước. Thật vậy, khi mà chúng ta nói đến ý chí của toàn dân, ý chí của quốc gia, cần phải nhận định rằng đó chỉ là ý chí của đa số. Ý chí của đa số là ý chí của Quốc gia, cái phương trình ấy chỉ có giá trị khi nào quyết định của đa số được chấp thuận trong một bầu không khí cởi mở, sáng tỏ và tự do. Chính đối lập bảo đảm tính cách đích xác của quyết định của đa số và bắt buộc đa số nắm chính quyền phải tham dự một cuộc tranh luận công khai. Vẫn biết rằng, trong chế độ Tổng thống hay trong chế độ đại nghị mà Chính phủ có đa số ở Quốc hội, đối lập không thể ngăn cản chính quyền hành động theo ý của họ. Nhưng tự do chỉ trích, đối lập bắt buộc địch thủ phải tiết lộ dự định của họ, những lí do của quyết định của họ. Và như thế, đối lập bảo đảm rằng, khi một biện pháp hay chính sách được chấp thuận, những lí lẽ chống đối hay binh vực biện pháp, chính sách ấy, đều được công khai đưa ra dư luận. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền, đối lập đảm đương một cách thiết thực hơn nữa trên diễn đàn Quốc hội.


C. Với phương tiện nào đối lập đóng vai trò của nó trên bình diện Nghị viện? Phương tiện ở đây rất khác biệt về bản chất và hiệu quả. Đành rằng cơ cấu Chính phủ nước này không giống nước kia, nhưng, trong bất cứ chính thể dân chủ nào, người ta cũng tìm thấy từng ấy phương tiện cho phép đối lập phát biểu công khai ý kiến của họ. Trong những lúc bàn cãi và biểu quyết ngân sách quốc gia, sự hiện hữu của đối lập bắt buộc chính quyền bỏ hẳn chương trình mị dân, thái độ cứng rắn, và nhất là chính quyền hết sức dè dặt khi bắt buộc toàn dân phải hi sinh quá độ. Cuộc đối thoại giữa Chính phủ và Quốc hội – chung quy giữa chính quyền và đối lập – qua những buổi tranh luận, những câu hỏi, những cuộc tiếp xúc với ủy ban hay giữa phiên họp công khai là những dịp mà các vị dân biểu đối lập nói lên những lạm dụng của cơ quan hành chính, hay nhận được – qua cuộc trình bày của các vị bộ trưởng – tin tức về một vấn đề nhất định hay câu trả lời đích xác. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền được biểu hiện một cách thiết thực nữa qua nguyên tắc trách nhiệm chính trị. Chúng ta biết rằng trong chế độ đại nghị, Chính phủ bắt buộc phải từ chức khi đa số ở Quốc hội biểu quyết chống Chính phủ. Yếu điểm này sẽ là một ảo mộng nếu không có một đối lập thật sự.


Vậy qua từng giai đoạn của sự khởi thảo chương trình và trong hành động hằng ngày, chính quyền luôn luôn để ý đến lập trường của đối lập, tự kiểm soát lấy mình và trong việc ấn định kế hoạch quốc gia, lắm lúc phải nhận lấy chủ trương của đối lập. Thái độ này không nhằm làm vui lòng đối lập, mà cho toàn dân vì để ý đến lập trường của đối lập trong việc xác định đường lối chính trị, chính quyền hướng về nguyện vọng của quốc gia.


D. Hạn chế và kiểm soát chính quyền, vai trò tối quan trọng này, không phải đối lập luôn luôn đảm đương với tất cả hiệu quả thật sự. Không, vấn đề không phải ở chỗ đó. Vấn đề là ở khía cạnh tâm lí của toàn dân. Vấn đề là mỗi công dân có thể chắc chắn rằng, ngoài Quốc hội hay trên diễn đàn Quốc hội, có những người đại diện có thể phát biểu ý kiến của mình, không phải theo đường lối của chính quyền mà khác hẳn chính quyền: Và dù rằng ý kiến đó không được chấp thuận đi nữa, họ có cảm giác rằng sự kiện ấy do nơi quyền lợi tối cao của Quốc gia, chứ không phải vì tính thị hiếu nhất thời, chuyên chế. Cần phải nhận định rằng, đối lập không những là tượng trưng cho một khuynh hướng chính trị, đối lập còn có giá trị tự bản chất nó nữa. Vì chỉ có đối lập và bởi đối lập mà việc kiểm soát của toàn dân mới có tính cách chân thành và hiệu lực trong một chế độ thương nghị.


Không những hạn chế kiểm soát chính quyền, đối lập còn cộng tác với chính quyền nữa.


Đoạn 2: VAI TRÒ CỘNG TÁC VỚI CHÍNH QUYỀN


Cho rằng đối lập cộng tác với chính quyền, đó là một khẳng định có hơi mâu thuẫn. Tuy nhiên chính đó là khía cạnh tích cực của vai trò đối lập. Và chúng ta có thể quả quyết rằng cái lợi của chính quyền là dung túng đối lập.


A. Thật vậy, qua những cuộc tranh luận trong một bầu không khí cởi mở, những ý tưởng khích động tinh thần, những định kiến bớt phần cứng rắn, những ý kiến được chọn lọc và uy quyền sáng tỏ. Bất cứ một chính quyền nào cũng có khuynh hướng tự giam mình trong những tình trạng cô đơn, chỉ nghe lời của đồng chí và lấy quyết định phù hợp với ảo vọng hoang đường qua những nhận xét riêng biệt của mình về thời cuộc. Đối lập có mặt, nhắc lại cho đoàn thể ở chính quyền tính cách phức tạp của thực tại chính trị, đem lại những mầu sắc chính trị và đôi khi phản kháng lại những truyền tin báo cáo đơn phương của Chính phủ. Qua những hành vi tích cực ấy, chính quyền thâu lượm được những dấu hiệu quý giá về tình trạng tinh thần của dư luận. Chẳng những trong lĩnh vực thông tin, vai trò cộng tác với chính quyền của đối lập nổi bật lên nữa qua khía cạnh Nghị viện.


B. Tất cả những công việc thuộc về thiết lập chương trình nghị sự, về những vấn đề cần phải được thảo luận, những dự án ưu-tiên, những cuộc tiếp xúc. Tóm lại, vấn đề liên hệ đến việc tổ chức công tác của Quốc hội, sự thỏa thuận giữa đối lập và chính quyền là điều kiện cốt yếu của một tình trạng chính trị ổn định. Và lịch sử đã chứng minh rằng, trong những trường hợp đặc biệt, trong những tình trạng khẩn cấp, tối cần, trong những trường hợp mà sinh tồn của quốc gia được đặt ra, trong những trường hợp ấy, lịch sử đã chứng minh rằng đối lập từ khước độc lập và lắm lúc lại ủng hộ chính quyền để bảo vệ uy thế của chính quyền lúc phải đương đầu với mọi cuộc ngoại xâm.


C. Hướng dẫn chính quyền, tham gia vào cuộc điều hành công tác Quốc hội, một sự đối lập có tổ chức, có hệ thống đóng một vai trò cực kì quan trọng là chủ trương một chính sách để thay thế cho chính sách chính quyền. Cần phải nhấn mạnh đặc điểm này. Trong những xứ mà tình trạng chính trị chưa ổn định, trong những xứ mà đối lập vắng mặt, người ta luôn luôn lo ngại cho tương lai chính trị quốc gia. Ai sẽ thay thế nhà lãnh tụ hôm nay? Viễn tượng những cuộc cách mạng đẫm máu, những cuộc chính biến, viễn tượng những gián đoạn chính trị đầy hậu quả làm cho cuộc sinh hoạt chính trị kém phần tích cực. Đối lập, trong chính thể dân chủ, cho phép Quốc gia xoay chiều, đổi hướng trong khung cảnh của định chế và không làm tổn thương đến sự liên tục của cuộc sinh hoạt chính trị. Đối lập là Chính phủ của ngày mai, đối lập tượng trưng sự tin tưởng vào định chế quốc gia, đối lập duy trì sự liên tục của chính quyền.


Một sự đối lập hữu hiệu là một lực lượng tích cực. Cần phải nhận định rằng đối lập không phải là lực lượng luôn luôn chống đối chính quyền. Đối lập và chính quyền là hai yếu tố căn bản của thế quân bình chính trị trong chính thể dân chủ.


Hạn chế và kiểm soát chính quyền, cộng tác với chính quyền, một khi đã hiểu như thế vai trò của đối lập, vấn đề được đặt ra bây giờ thử hỏi trong điều kiện nào đối lập có thể đảm đương vai trò chủ yếu ấy. Lẽ tất nhiên, đối lập chỉ có thể làm tròn sứ mạng của nó, trong một bầu không khí khoan dung, khi mà một số quyền hạn của đối lập được xem là bất khả xâm phạm và đồng thời đối lập thông suốt nhiệm vụ của mình. Kê khai những quyền hạn ấy, ấn định nghĩa vụ của đối lập, tức là bàn đến vấn đề quy chế của đối lập.


Mục III: QUY CHẾ CỦA ĐỐI LẬP


Vấn đề ấn định quy chế của đối lập tùy thuộc mỗi quan niệm riêng về đối lập. Nếu đối lập chỉ được xem là một quyền đối lập, nó chỉ là hậu quả tất nhiên của chủ nghĩa chính trị tự do. Đối lập tức là có quyền sử dụng tất cả những tự do hợp pháp. Trái lại, nếu đối lập được đưa lên hàng một chức vụ, rất cần thiết cũng như chính quyền, nếu đối lập được xem không phải là một việc bất đắc dĩ, mà là một liều thuốc kích thích chính quyền, thì theo quan niệm này, quy chế chẳng những bảo đảm tự do của đối lập mà còn chú ý tới công hiệu của nó nữa. Tổ chức đối lập, định chế hóa đối lập đó là quan niệm thứ hai của đối lập.


Nhưng dù có được định chế hóa hay không, đối lập để có thể đảm đương vai trò chủ yếu của nó, phải là một đối lập tự do và xây dựng. Nói đến đối lập tự do là phải nghĩ ngay đến quyền hạn của nó; nói đến đối lập xây dựng là nghĩ ngay đến nghĩa vụ của nó.


Đoạn 1: NHỮNG QUYỀN HẠN CỦA ĐỐI LẬP


Một trong những quyền hạn của đối lập là quyền không thể bị tiêu diệt. Vì đối lập luôn luôn là một chướng ngại, chính quyền hay có khuynh hướng, thừa một cơ hội nào đó, tẩy trừ phần tử rối loạn ấy đi. Vẫn biết rằng, có những lúc, những giờ phút nguy nan, đối lập hoặc tự mình, hoặc thỏa thuận với chính quyền, ngưng hẳn những phê bình hay chỉ trích. Nhưng đó chỉ là im hơi, lặng tiếng; chớ quyền sinh tồn vẫn là quyền tối cao của đối lập. Tiêu diệt đối lập tức là dọn đường cho chủ nghĩa độc tài. Đối thoại trở thành độc thoại.


Quyền thứ hai của đối lập là quyền phát biểu. Và quyền phát biểu này được thể hiện bởi những cái mà người ta gọi là tự do công cộng. Số phận của đối lập sẽ ra sao nếu đối lập không tự do có ý kiến khác hẳn ý kiến chính quyền, và tự do phát biểu ý kiến ấy trên báo chí và sách vở? Nếu đối lập không được tự do hội họp? Chỉ có đối lập thực sự trong một chế độ mà các tự do này được ấn định và chế tài một cách hợp lí.


Chúng ta có nói rằng thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tính cách tương đối của chân lí chính trị. Tính cách tương đối này được thể hiện qua sự tự do tuyển cử. Tự do tuyển cử tức là tự do trình ứng cử viên, tự do cổ động và nhất là sự bảo đảm tính cách chân thành của kết quả cuộc bầu cử.


Trên bình diện đại nghị, đối lập cần phải được đặc biệt bảo vệ. Trường hợp dân biểu đối lập bị bắt bớ hay tống giam không phải là những trường hợp hiếm có. Vì thế mà quyền bất khả xâm phạm của dân biểu là một thực tại.


Những quyền hạn mà chúng tôi đã sơ lược kê khai không phải chỉ dành riêng cho đối lập. Đó là những quyền bảo vệ tất cả công dân trong chính thể dân chủ. Nhưng phải thành thật mà nhận định rằng tự do phát biểu, tự do tuyển cử, quyền bất khả xâm phạm v.v…, là những điều kiện quý giá cho đối lập luôn luôn bị chánh quyền đe dọa.


Đó là điều kiện tối thiểu. Một quan niệm cấp tiến đã đi đến chỗ định chế hóa đối lập. Đối lập trở thành một thực thể có hiến tính. Đó là trường hợp của Anh Quốc vậy.


Ở nước Anh, đối lập có một tước vị chính thức: Đối lập của Nữ hoàng. Và đối lập của Nữ hoàng có cả Chính phủ riêng của họ, một nội các bóng trong Hạ Nghị viện. Vị lãnh tụ đối lập của Nữ hoàng là một nhân vật cao cấp đầy uy thế, luôn luôn được mời đến cùng vị Thủ tướng tham dự những buổi lễ chính thức và luôn luôn được tham khảo ý kiến về những vấn đề chính trị trọng đại. Và xin nhắc lại một điều rất lí thú là: Nhà nước lại phải trả lương cho vị lãnh tụ đối lập.


Nhưng dù sao, định chế hóa hay không, quyền sinh tồn và những điều kiện thuận tiện để tự do phát biểu, chỉ có ý nghĩa khi nào đối lập tin tưởng có quyền nắm lấy chính quyền. Chính sự bình đẳng trong vận hội ấy làm cho cuộc sinh hoạt chính trị thêm phần phấn khởi.


Đối lập có vài quyền hạn để đảm đương vai trò của nó. Nhưng đối lập không phải chỉ có quyền. Một số nghĩa vụ hạn chế hoạt động của đối lập, nghĩa vụ nhằm mục tiêu tôn trọng tinh thần dân chủ.


Đoạn 2: NHỮNG NGHĨA VỤ CỦA ĐỐI LẬP


Một trong những nghĩa vụ của đối lập là thừa nhận quy luật đa số. Những ai quan tâm đến bầu cử đều rõ rằng có thể xảy ra trường hợp mà vị Tổng thống đắc cử hay một chính đảng chiếm đa số ở Quốc hội trong lúc phiếu của mình lại kém địch thủ thất bại. Nhưng đó chỉ là hậu quả kĩ thuật của luật tuyển cử. Và công lí là một chuyện mà hợp pháp là một chuyện khác nữa. Trường chính trị là một cuộc đấu tranh công nhận quy luật đa số, tức là thẳng thắn tham gia cuộc đấu tranh, vì đó là luật lệ của đấu tranh vậy.


Nghĩa vụ thứ hai của đối lập là hoạt động một cách ôn hòa xây dựng và có tinh thần trách nhiệm. Những chỉ trích vớ vẩn, những vu khống không một căn bản chính trị của những kẻ tự cho là chính khách, những phê bình chỉ đem lại hoài nghi và bất mãn, đó là những tệ đoan của sự đối lập không xứng với danh hiệu của nó. Vì đâu lại có một hiện tượng bất thường như thế? Ngoài tham vọng cá nhân, hiện tượng này phát sinh từ một hệ thống chính đảng nhất định và liên quan đến khía cạnh ý thức hệ của một vài chính đảng.


Trong một xứ một hệ thống đa đảng là một thực tại chính trị khi mà không một chính đảng nào chiếm đa số hay ưu thế trên sân khấu chính trị, Chính phủ luôn luôn là một chính phủ liên hiệp. Mà liên hiệp tức là tập hợp những khuynh hướng mâu thuẫn, dung hòa những chính sách tương phản. Chính cái viễn tượng không bao giờ tự mình chiếm được toàn quyền và thực hiện những chương trình hứa hẹn làm cho chính đảng thiếu ý thức xây dựng và tinh thần trách nhiệm. Tính cách rời rạc và chia rẽ của đối lập, chỉ biết phá hoại biến đổi hẳn mối tương quan truyền thống giữa đa số và thiểu số. Đối lập không còn là đối lập ngoài và chống Chính phủ, đối lập ở đây là đối lập trong Chính phủ.


Chẳng những thế, khía cạnh ý thức của một vài chính đảng là nguyên do thứ nhì của sự thiếu tinh thần xây dựng. Đối lập chỉ có nghĩa trong một khung cảnh chính trị nhất định. Nếu chúng ta đồng ý về một số nguyên tắc căn bản, nếu chúng ta thừa nhận chủ quyền nhân dân, nguyên tắc phân nhiệm, tự do chính trị, nếu chúng ta tôn trọng nhân vị, sự độc lập của thẩm phán hay quyền tự do phát biểu, thì cuộc tranh chấp chính trị chỉ nhằm trên lĩnh vực thực tiễn qua những nguyên tắc thứ yếu. Trái lại, nếu đối lập nhằm chống lại, không phải một khuynh hướng chính trị hay một chính sách nhất định, mà chính cả nền tảng của xã hội, nghĩa là chống cả chính thể, thì khẳng định rằng đối lập là Chính phủ tương lai không còn giá trị nữa. Vì đặc tính của đối lập về ý thức hệ là chiếm chính quyền để rồi thủ tiêu quyền đối lập.


Trong một tình trạng như thế, trước tình trạng mà đối lập không thi hành nghĩa vụ của nó, những quyền hạn không còn lí do tồn tại nữa. Và chính thể dân chủ cần phải có những biện pháp thích nghi để đối phó. Sa thải những phần tử bất chính trong hành chính, bắt buộc đối lập phải có một chương trình và có năng lực nắm chính quyền trước khi lật đổ Chính phủ, sửa đổi luật bầu cử, đặt ngoài vòng pháp luật những chính đảng quá khích, đó là một vài thí dụ cụ thể về biện pháp được áp dụng để bảo vệ chính thể dân chủ. [1]


Mục IV: ĐỐI LẬP TRONG CÁC QUỐC GIA CHẬM TIẾN


Phác họa như thế vai trò và quy chế đối lập trong chính thể dân chủ qua sự biến chuyển của ý niệm trong xã hội cận đại, chúng ta không khỏi tự nhủ rằng đó là lí tưởng. Và tự hỏi rằng lí tưởng ấy có phù hợp với những tân quốc gia, với hiện tình những nước vừa thu hồi độc lập.


Thực tại chính trị, cho chúng ta biết rằng, đối lập nếu không hoàn toàn vắng mặt, thì chỉ được dung túng một phần nào, một phần nhỏ nào, trong những nước mới này, những nước mệnh danh là dân chủ và đồng thời cũng được xem là những chính thể không độc tài. Tại sao lại có một sự kiện oái oăm như thế?


Lí do thứ nhất mà người ta đưa ra là sự đe dọa trầm trọng của Cộng sản. Những nước mới này, là những nước bị nạn Cộng sản đe dọa và có nước lại đang chiến đấu một mất một còn với Cộng sản. Dung túng đối lập tức là cho Cộng sản cơ hội, núp sau lá cờ đối lập để phá hoại nền dân chủ. Đối lập Cộng sản là đối lập về ý thức hệ, và chúng ta biết rằng đối lập về ý thức hệ là đối lập chống chính thể dân chủ.


Lí do thứ hai là trình độ giáo dục của quần chúng. Người ta cho rằng dân chúng chưa có một trình độ giáo dục về chính trị khác đầy đủ để có thể sử dụng một cách hoàn hảo những quyền tự do công cộng. Và như thế, đối lập chỉ có hại vì nó sẽ là bức bình phong của những tham vọng cá nhân của những kẻ không có cơ sở chính trị chỉ dựa trên cuộc chinh đồ sinh hoạt.


Hơn nữa, thì giờ gấp rút, nâng cao mực sống của toàn dân là một việc tối cần, lúc kiến quốc không phải là lúc bàn cãi, phê bình hay chỉ trích.


Những lí do mà chúng ta vừa nêu ra rất là chính đáng. Nhưng chính đáng không có nghĩa là phải chấp nhận. Trong lĩnh vực chính trị và xã hội, sự hoàn hảo của định chế là kết quả của kinh nghiệm. Làm sao hi vọng một nhận thức khá cao của quần chúng, nếu hôm nay không có học tập hướng về dân chủ? Không phải nhất thiết áp dụng tất cả những gì đã có hay đang có ở Tây phương. Thực tại chính trị, xã hội, văn hóa của mỗi nước là yếu tố căn bản. Nhưng điều kiện tối thiểu phải có để đối lập được phép khởi đầu và phát triển.


Vả lại, vì thiếu đối lập mà Cộng sản và những phần tử phản dân chủ nắm mất chính nghĩa đối lập và lợi dụng khai thác những bất mãn, than phiền của quần chúng. Vậy để tránh mọi sự ngộ nhận giữa chính quyền và nhân dân, để cho trạng thái tinh thần khủng hoảng của dư luận được thể hiện một cách ôn hòa, để cho những phần tử phiến loạn hết cơ hội lợi dụng tuyên truyền và khai thác, vấn đề đối lập tự do và xây dựng cần phải được đặt ra. Và như thế không những trong những nước tiền tiến, mà chính ngay trong những tân quốc gia, công cuộc kiến quốc và cứu quốc, công cuộc xây dựng nền dân chủ phải là kết tinh của hoạt động song phương giữa chính quyền và đối lập.


(Hết phần thứ nhất: Lí thuyết đại cương. Đón xem phần thứ hai: Thế giới chính trị hiện đại)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.




[1] Có lẽ tác giả ám chỉ tới các hoạt động của “lực lượng thứ ba” thời Việt Nam Cộng hòa giúp ích cho lực lượng cộng sản miền Bắc lúc đó. Những gì xảy ra sau 30/04/1975 đã cho thấy sự sáng suốt có tính tiên tri của tác giả: “chiếm chính quyền để rồi thủ tiêu quyền đối lập.” (p&c)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 08, 2013 11:01

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (11)

Xem kì 1, kì 2kì 3kì 4, kì 5, kì 6kì 7, kì 8, kì 9, kì 10


CHƯƠNG IV: ĐỐI LẬP CHÍNH TRỊ


Mục I: ĐỊNH NGHĨA VÀ CÁC QUAN NIỆM VỀ ĐỐI LẬP


Đoạn 1: ĐỊNH NGHĨA


Chúng ta đã dùng nhiều danh từ đối lập. Mà đối lập là gì? Thế nào là đối lập ? Đứng về phương diện lịch sử mà suy xét, đối lập phát sinh ở sự thực hành chính trị và liên quan đến lịch trình biến chuyển của chế độ đại nghị. Nói đến đối lập tức là nói đến cái gì ở ngoài đa số, ngoài Chính phủ. Đối lập là thiểu số. Đây là khía cạnh nghị viện của vấn đề. Ý niệm đối lập cần phải được phân tích rõ ràng hơn nữa để phân biệt nó với những hiện tượng tương tự. Đối lập có ba đặc điểm: một sự bất đồng về chính trị, có tính cách tập thể và có tính cách hợp pháp.


A. Trước nhất, đối lập phải là một sự bất đồng về chính trị. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào những kẻ chống đối có thể tổng hợp lại tất cả những vấn đề đã được đặt ra, đưa những vấn đề ấy lên một mực độ đại cương, và phán đoán theo một tiêu chuẩn chính trị. Có thể có một số đông nông dân chặn đường chặn xá để phản đối một chính sách của Chính phủ. Có thể có một số đông sinh viên, một đoàn thể văn hóa hay tôn giáo biểu tình đòi hỏi những cái gì. Đành rằng những sự kiện ấy có thể có hậu quả chính trị, nhưng đó không phải là đối lập. Đó chỉ là một sự khước từ, kháng cự hay phản đối. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào sự khước từ ấy, sự kháng cự ấy, sự phản đối ấy được chính trị hóa.


B. Là một sự bất đồng về chính kiến, đối lập phải có tính cách tập thể. Trong bất cứ nước nào, luôn luôn có những người bất đồng chính kiến với chính quyền. Có thể có một số đông anh em, thỉnh thoảng họp nhau, rồi trong lúc trà dư tửu hậu, bàn quốc sự, có một thái độ chống đối đường lối chủ trương của Chính phủ. Đó là những kẻ chống đối, những cá nhân đối lập. Và những kẻ chống đối ấy có thể có trong chính thể cộng sản độc tài. Đó không phải là đối lập. Đối lập chỉ có khi nào sự bất đồng chính kiến ấy có tính cách tập thể, khi nào nó là kết quả biểu hiện một sự hành động có tổ chức của những kẻ chống đối. Nói đến sự hành động có tổ chức là nghĩ ngay đến chính đảng. Chỉ có đối lập khi nào có một chính đảng đối lập.


C. Là một sự bất đồng về chính kiến, có tính cách tập thể, đối lập phải hợp pháp nữa. Có thể vì một lí do gì mà một đoàn thể chính trị phải dùng võ lực chống lại chính quyền. Có thể vì một lí do gì mà chính đảng phải hoạt động âm thầm trong bóng tối. Những hành động ấy, đành rằng nó có tính cách tập thể và kết quả của một sự bất đồng chính kiến, không được xem là đối lập. Những hành động ấy chỉ được xem là những cuộc âm mưu cuộc phiến loạn hay kháng chiến, nó không còn là đối lập nữa. Vì đối lập chỉ hoạt động trong vòng pháp luật.


Đoạn 2: CÁC QUAN NIỆM VỀ ĐỐI LẬP


Một khi đã ý thức danh từ đối lập và nhận định tầm quan trọng của nó trong cuộc sinh hoạt chính trị, vấn đề then chốt được đặt ra là xác định địa vị của đối lập trong các chính thể. Nếu tinh túy của dân chủ là lòng độ lượng, khoan dung và tự do chính trị, thì lẽ tất nhiên lòng độ lượng, khoan dung ấy được thể hiện và sự hiện diện của đối lập chỉ là kết quả của sự thừa nhận tự do chính trị. Đối lập chỉ có giá trị và hiệu quả trong một chế độ mà triết học chính trị là chủ nghĩa tự do. Vì đối lập dựa trên tinh thần khoan dung, trên sự chính đáng của bất đồng chính kiến. Vì thừa nhận đối lập, tức là thừa nhận tính cách tương đối của chân lí chính trị.


Một quan niệm đối lập như thế, dựa trên chủ nghĩa tự do, chính thể độc tài không thể chấp nhận được. Trong những chính thể này, chính quyền là tất cả, còn đối lập chẳng những vô ích mà còn nguy hiểm nữa. Vô ích vì những nhà độc tài luôn luôn cho rằng ý thức hệ của mình là bất di bất dịch và vai trò của cơ quan công quyền không phải tìm lấy một ý chí đi sát với nguyện vọng của quốc gia mà trái lại chỉ có nhiệm vụ áp dụng mệnh lệnh của chính đảng nắm quyền lãnh đạo. Chẳng những vô ích, đối lập còn nguy hiểm nữa. Nguy hiểm cho sự thực hiện nguyện vọng của quần chúng, vì hành động của đối lập phân li quần chúng. Bởi thế, đối lập cần phải được thanh trừng và những cái mà người ta gọi là tự do công cộng, những lợi khí mà đối lập dùng để hoạt động, lợi khí ấy cần phải được cấm nhặt.


Bị khước từ bởi những chính thể độc tài, đối lập chỉ được thừa nhận trong chính thể dân chủ thật sự. Và trong chính thể dân chủ, chẳng những trên bình diện triết lí chính trị, đối lập còn được chứng minh qua khía cạnh cuộc điều hành thực tiễn, của định chế. Chính sự hiện diện của đối lập phản ảnh tính cách chân chính của ý chí quốc gia. Trong những chế độ mệnh danh là «nhất tề, nhất trí», trong những chế độ mà người ta chỉ nghe đến 99 phần trăm, đành rằng không phải không thể có được, nhưng sự vắng mặt của đối lập làm cho người ta lắm lúc phải hoài nghi. Chỉ trên bình diện thực tại, vai trò của đối lập chứng tỏ rằng, mặc dù bị loại ngoài hệ thống chính quyền, đối lập cần có mặt và phát biểu.


Một quan niệm quá ư rộng rãi về dân chủ – lẽ tất nhiên – dựa trên một sự đối lập chân thành, xây dựng. Nhưng ý niệm đối lập ngày nay quá biến chuyển. Một hiện tượng mới đã xẩy ra, một đối lập, không phải trong chính thể, mà chống chính thể dân chủ, một sự đối lập hoàn toàn phủ nhận nguyên tắc dân chủ, một sự đối lập về ý thức hệ. Tất cả vấn đề là thử hỏi, trước một sự đối lập như thế, thái độ của chính thể dân chủ phải như thế nào. Một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và trên bình diện quốc tế, những giải pháp bảo vệ chính thể dân chủ tùy thuộc hoàn cảnh thực tại chính trị của mỗi nước.


Dù sao – để trở lại vấn đề đối lập trong chính thể dân chủ – không ai có thể chối cãi tính cách chính đáng của sự hiện diện của đối lập. Nhưng đối lập, chẳng những phải có mặt mà còn phải có thể phát biểu nữa. Mà đối lập phát biểu để làm gì và hành động của đối lập sẽ có tác dụng gì trong guồng máy chính trị quốc gia? Và theo thủ tục nào, dưới hình thức nào, với những bảo đảm nào, đối lập có thể mạnh dạn và thành thực phát biểu ý kiến?


Đó là hai vấn đề cực kì quan trọng, vấn đề vai trò của đối lập và vấn đề quy chế của đối lập, hai vấn đề căn bản mà chính thể dân chủ cần phải giải quyết một cách phân minh để ổn định cuộc sinh hoạt chính trị và để đối lập làm tròn sứ mạng của nó.


Mục II: VAI TRÒ CỦA ĐỐI LẬP


Trong chính thể dân chủ thật sự, hiện diện của đối lập là một điều hết sức chính đáng. Chính đáng vì thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tự do chính trị. Chẳng những chính đáng, đối lập còn cần thiết nữa. Cần thiết cho phẩm tính của đa số chính quyền. Cần thiết cho phẩm tính, đối lập còn cần thiết cho sự hiện hữu của chính quyền nữa. Trong cuộc sinh hoạt chính trị ổn định, đa số ở đâu ra, chính quyền hiện tại ở đâu ra, nếu không phải là kết tinh của sự tranh chấp với đối lập? Trên khía cạnh này, đối lập đóng vai trò căn bản: vai trò hợp tác với chính quyền. Hạn chế và kiểm soát chính quyền, hợp tác với chính quyền, đó là hai khía cạnh của vai trò đối lập.


Đoạn 1: VAI TRÒ HẠN CHẾ VÀ KIỂM SOÁT CHÍNH QUYỀN


A. Hạn chế và kiểm soát chính quyền, đó là một trong những hoạt động cốt yếu của đối lập ở bất cứ lúc nào trong cuộc sinh hoạt chính trị. Trước hết, ở giai đoạn tuyển cử. Đối lập có mặt, có thể phát biểu ý kiến, đối lập có quyền phủ nhận làm cho chính quyền bỏ bớt thái độ cứng rắn, những chương trình mị dân, những hứa hẹn hão huyền. Đối lập chặn đứng lại những tư tưởng hẹp hòi, những quan điểm thiển cận, tư tưởng và quan điểm không phải của một Chính phủ quốc gia mà hoàn toàn lệ thuộc vào mệnh lệnh của đảng phái.


B. Đối lập bảo đảm tính cách đích xác công khai của những quyết định của Nhà nước. Thật vậy, khi mà chúng ta nói đến ý chí của toàn dân, ý chí của quốc gia, cần phải nhận định rằng đó chỉ là ý chí của đa số. Ý chí của đa số là ý chí của Quốc gia, cái phương trình ấy chỉ có giá trị khi nào quyết định của đa số được chấp thuận trong một bầu không khí cởi mở, sáng tỏ và tự do. Chính đối lập bảo đảm tính cách đích xác của quyết định của đa số và bắt buộc đa số nắm chính quyền phải tham dự một cuộc tranh luận công khai. Vẫn biết rằng, trong chế độ Tổng thống hay trong chế độ đại nghị mà Chính phủ có đa số ở Quốc hội, đối lập không thể ngăn cản chính quyền hành động theo ý của họ. Nhưng tự do chỉ trích, đối lập bắt buộc địch thủ phải tiết lộ dự định của họ, những lí do của quyết định của họ. Và như thế, đối lập bảo đảm rằng, khi một biện pháp hay chính sách được chấp thuận, những lí lẽ chống đối hay binh vực biện pháp, chính sách ấy, đều được công khai đưa ra dư luận. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền, đối lập đảm đương một cách thiết thực hơn nữa trên diễn đàn Quốc hội.


C. Với phương tiện nào đối lập đóng vai trò của nó trên bình diện Nghị viện? Phương tiện ở đây rất khác biệt về bản chất và hiệu quả. Đành rằng cơ cấu Chính phủ nước này không giống nước kia, nhưng, trong bất cứ chính thể dân chủ nào, người ta cũng tìm thấy từng ấy phương tiện cho phép đối lập phát biểu công khai ý kiến của họ. Trong những lúc bàn cãi và biểu quyết ngân sách quốc gia, sự hiện hữu của đối lập bắt buộc chính quyền bỏ hẳn chương trình mị dân, thái độ cứng rắn, và nhất là chính quyền hết sức dè dặt khi bắt buộc toàn dân phải hi sinh quá độ. Cuộc đối thoại giữa Chính phủ và Quốc hội – chung quy giữa chính quyền và đối lập – qua những buổi tranh luận, những câu hỏi, những cuộc tiếp xúc với ủy ban hay giữa phiên họp công khai là những dịp mà các vị dân biểu đối lập nói lên những lạm dụng của cơ quan hành chính, hay nhận được – qua cuộc trình bày của các vị bộ trưởng – tin tức về một vấn đề nhất định hay câu trả lời đích xác. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền được biểu hiện một cách thiết thực nữa qua nguyên tắc trách nhiệm chính trị. Chúng ta biết rằng trong chế độ đại nghị, Chính phủ bắt buộc phải từ chức khi đa số ở Quốc hội biểu quyết chống Chính phủ. Yếu điểm này sẽ là một ảo mộng nếu không có một đối lập thật sự.


Vậy qua từng giai đoạn của sự khởi thảo chương trình và trong hành động hằng ngày, chính quyền luôn luôn để ý đến lập trường của đối lập, tự kiểm soát lấy mình và trong việc ấn định kế hoạch quốc gia, lắm lúc phải nhận lấy chủ trương của đối lập. Thái độ này không nhằm làm vui lòng đối lập, mà cho toàn dân vì để ý đến lập trường của đối lập trong việc xác định đường lối chính trị, chính quyền hướng về nguyện vọng của quốc gia.


D. Hạn chế và kiểm soát chính quyền, vai trò tối quan trọng này, không phải đối lập luôn luôn đảm đương với tất cả hiệu quả thật sự. Không, vấn đề không phải ở chỗ đó. Vấn đề là ở khía cạnh tâm lí của toàn dân. Vấn đề là mỗi công dân có thể chắc chắn rằng, ngoài Quốc hội hay trên diễn đàn Quốc hội, có những người đại diện có thể phát biểu ý kiến của mình, không phải theo đường lối của chính quyền mà khác hẳn chính quyền: Và dù rằng ý kiến đó không được chấp thuận đi nữa, họ có cảm giác rằng sự kiện ấy do nơi quyền lợi tối cao của Quốc gia, chứ không phải vì tính thị hiếu nhất thời, chuyên chế. Cần phải nhận định rằng, đối lập không những là tượng trưng cho một khuynh hướng chính trị, đối lập còn có giá trị tự bản chất nó nữa. Vì chỉ có đối lập và bởi đối lập mà việc kiểm soát của toàn dân mới có tính cách chân thành và hiệu lực trong một chế độ thương nghị.


Không những hạn chế kiểm soát chính quyền, đối lập còn cộng tác với chính quyền nữa.


Đoạn 2: VAI TRÒ CỘNG TÁC VỚI CHÍNH QUYỀN


Cho rằng đối lập cộng tác với chính quyền, đó là một khẳng định có hơi mâu thuẫn. Tuy nhiên chính đó là khía cạnh tích cực của vai trò đối lập. Và chúng ta có thể quả quyết rằng cái lợi của chính quyền là dung túng đối lập.


A. Thật vậy, qua những cuộc tranh luận trong một bầu không khí cởi mở, những ý tưởng khích động tinh thần, những định kiến bớt phần cứng rắn, những ý kiến được chọn lọc và uy quyền sáng tỏ. Bất cứ một chính quyền nào cũng có khuynh hướng tự giam mình trong những tình trạng cô đơn, chỉ nghe lời của đồng chí và lấy quyết định phù hợp với ảo vọng hoang đường qua những nhận xét riêng biệt của mình về thời cuộc. Đối lập có mặt, nhắc lại cho đoàn thể ở chính quyền tính cách phức tạp của thực tại chính trị, đem lại những mầu sắc chính trị và đôi khi phản kháng lại những truyền tin báo cáo đơn phương của Chính phủ. Qua những hành vi tích cực ấy, chính quyền thâu lượm được những dấu hiệu quý giá về tình trạng tinh thần của dư luận. Chẳng những trong lĩnh vực thông tin, vai trò cộng tác với chính quyền của đối lập nổi bật lên nữa qua khía cạnh Nghị viện.


B. Tất cả những công việc thuộc về thiết lập chương trình nghị sự, về những vấn đề cần phải được thảo luận, những dự án ưu-tiên, những cuộc tiếp xúc. Tóm lại, vấn đề liên hệ đến việc tổ chức công tác của Quốc hội, sự thỏa thuận giữa đối lập và chính quyền là điều kiện cốt yếu của một tình trạng chính trị ổn định. Và lịch sử đã chứng minh rằng, trong những trường hợp đặc biệt, trong những tình trạng khẩn cấp, tối cần, trong những trường hợp mà sinh tồn của quốc gia được đặt ra, trong những trường hợp ấy, lịch sử đã chứng minh rằng đối lập từ khước độc lập và lắm lúc lại ủng hộ chính quyền để bảo vệ uy thế của chính quyền lúc phải đương đầu với mọi cuộc ngoại xâm.


C. Hướng dẫn chính quyền, tham gia vào cuộc điều hành công tác Quốc hội, một sự đối lập có tổ chức, có hệ thống đóng một vai trò cực kì quan trọng là chủ trương một chính sách để thay thế cho chính sách chính quyền. Cần phải nhấn mạnh đặc điểm này. Trong những xứ mà tình trạng chính trị chưa ổn định, trong những xứ mà đối lập vắng mặt, người ta luôn luôn lo ngại cho tương lai chính trị quốc gia. Ai sẽ thay thế nhà lãnh tụ hôm nay? Viễn tượng những cuộc cách mạng đẫm máu, những cuộc chính biến, viễn tượng những gián đoạn chính trị đầy hậu quả làm cho cuộc sinh hoạt chính trị kém phần tích cực. Đối lập, trong chính thể dân chủ, cho phép Quốc gia xoay chiều, đổi hướng trong khung cảnh của định chế và không làm tổn thương đến sự liên tục của cuộc sinh hoạt chính trị. Đối lập là Chính phủ của ngày mai, đối lập tượng trưng sự tin tưởng vào định chế quốc gia, đối lập duy trì sự liên tục của chính quyền.


Một sự đối lập hữu hiệu là một lực lượng tích cực. Cần phải nhận định rằng đối lập không phải là lực lượng luôn luôn chống đối chính quyền. Đối lập và chính quyền là hai yếu tố căn bản của thế quân bình chính trị trong chính thể dân chủ.


Hạn chế và kiểm soát chính quyền, cộng tác với chính quyền, một khi đã hiểu như thế vai trò của đối lập, vấn đề được đặt ra bây giờ thử hỏi trong điều kiện nào đối lập có thể đảm đương vai trò chủ yếu ấy. Lẽ tất nhiên, đối lập chỉ có thể làm tròn sứ mạng của nó, trong một bầu không khí khoan dung, khi mà một số quyền hạn của đối lập được xem là bất khả xâm phạm và đồng thời đối lập thông suốt nhiệm vụ của mình. Kê khai những quyền hạn ấy, ấn định nghĩa vụ của đối lập, tức là bàn đến vấn đề quy chế của đối lập.


Mục III: QUY CHẾ CỦA ĐỐI LẬP


Vấn đề ấn định quy chế của đối lập tùy thuộc mỗi quan niệm riêng về đối lập. Nếu đối lập chỉ được xem là một quyền đối lập, nó chỉ là hậu quả tất nhiên của chủ nghĩa chính trị tự do. Đối lập tức là có quyền sử dụng tất cả những tự do hợp pháp. Trái lại, nếu đối lập được đưa lên hàng một chức vụ, rất cần thiết cũng như chính quyền, nếu đối lập được xem không phải là một việc bất đắc dĩ, mà là một liều thuốc kích thích chính quyền, thì theo quan niệm này, quy chế chẳng những bảo đảm tự do của đối lập mà còn chú ý tới công hiệu của nó nữa. Tổ chức đối lập, định chế hóa đối lập đó là quan niệm thứ hai của đối lập.


Nhưng dù có được định chế hóa hay không, đối lập để có thể đảm đương vai trò chủ yếu của nó, phải là một đối lập tự do và xây dựng. Nói đến đối lập tự do là phải nghĩ ngay đến quyền hạn của nó; nói đến đối lập xây dựng là nghĩ ngay đến nghĩa vụ của nó.


Đoạn 1: NHỮNG QUYỀN HẠN CỦA ĐỐI LẬP


Một trong những quyền hạn của đối lập là quyền không thể bị tiêu diệt. Vì đối lập luôn luôn là một chướng ngại, chính quyền hay có khuynh hướng, thừa một cơ hội nào đó, tẩy trừ phần tử rối loạn ấy đi. Vẫn biết rằng, có những lúc, những giờ phút nguy nan, đối lập hoặc tự mình, hoặc thỏa thuận với chính quyền, ngưng hẳn những phê bình hay chỉ trích. Nhưng đó chỉ là im hơi, lặng tiếng; chớ quyền sinh tồn vẫn là quyền tối cao của đối lập. Tiêu diệt đối lập tức là dọn đường cho chủ nghĩa độc tài. Đối thoại trở thành độc thoại.


Quyền thứ hai của đối lập là quyền phát biểu. Và quyền phát biểu này được thể hiện bởi những cái mà người ta gọi là tự do công cộng. Số phận của đối lập sẽ ra sao nếu đối lập không tự do có ý kiến khác hẳn ý kiến chính quyền, và tự do phát biểu ý kiến ấy trên báo chí và sách vở? Nếu đối lập không được tự do hội họp? Chỉ có đối lập thực sự trong một chế độ mà các tự do này được ấn định và chế tài một cách hợp lí.


Chúng ta có nói rằng thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tính cách tương đối của chân lí chính trị. Tính cách tương đối này được thể hiện qua sự tự do tuyển cử. Tự do tuyển cử tức là tự do trình ứng cử viên, tự do cổ động và nhất là sự bảo đảm tính cách chân thành của kết quả cuộc bầu cử.


Trên bình diện đại nghị, đối lập cần phải được đặc biệt bảo vệ. Trường hợp dân biểu đối lập bị bắt bớ hay tống giam không phải là những trường hợp hiếm có. Vì thế mà quyền bất khả xâm phạm của dân biểu là một thực tại.


Những quyền hạn mà chúng tôi đã sơ lược kê khai không phải chỉ dành riêng cho đối lập. Đó là những quyền bảo vệ tất cả công dân trong chính thể dân chủ. Nhưng phải thành thật mà nhận định rằng tự do phát biểu, tự do tuyển cử, quyền bất khả xâm phạm v.v…, là những điều kiện quý giá cho đối lập luôn luôn bị chánh quyền đe dọa.


Đó là điều kiện tối thiểu. Một quan niệm cấp tiến đã đi đến chỗ định chế hóa đối lập. Đối lập trở thành một thực thể có hiến tính. Đó là trường hợp của Anh Quốc vậy.


Ở nước Anh, đối lập có một tước vị chính thức: Đối lập của Nữ hoàng. Và đối lập của Nữ hoàng có cả Chính phủ riêng của họ, một nội các bóng trong Hạ Nghị viện. Vị lãnh tụ đối lập của Nữ hoàng là một nhân vật cao cấp đầy uy thế, luôn luôn được mời đến cùng vị Thủ tướng tham dự những buổi lễ chính thức và luôn luôn được tham khảo ý kiến về những vấn đề chính trị trọng đại. Và xin nhắc lại một điều rất lí thú là: Nhà nước lại phải trả lương cho vị lãnh tụ đối lập.


Nhưng dù sao, định chế hóa hay không, quyền sinh tồn và những điều kiện thuận tiện để tự do phát biểu, chỉ có ý nghĩa khi nào đối lập tin tưởng có quyền nắm lấy chính quyền. Chính sự bình đẳng trong vận hội ấy làm cho cuộc sinh hoạt chính trị thêm phần phấn khởi.


Đối lập có vài quyền hạn để đảm đương vai trò của nó. Nhưng đối lập không phải chỉ có quyền. Một số nghĩa vụ hạn chế hoạt động của đối lập, nghĩa vụ nhằm mục tiêu tôn trọng tinh thần dân chủ.


Đoạn 2: NHỮNG NGHĨA VỤ CỦA ĐỐI LẬP


Một trong những nghĩa vụ của đối lập là thừa nhận quy luật đa số. Những ai quan tâm đến bầu cử đều rõ rằng có thể xảy ra trường hợp mà vị Tổng thống đắc cử hay một chính đảng chiếm đa số ở Quốc hội trong lúc phiếu của mình lại kém địch thủ thất bại. Nhưng đó chỉ là hậu quả kĩ thuật của luật tuyển cử. Và công lí là một chuyện mà hợp pháp là một chuyện khác nữa. Trường chính trị là một cuộc đấu tranh công nhận quy luật đa số, tức là thẳng thắn tham gia cuộc đấu tranh, vì đó là luật lệ của đấu tranh vậy.


Nghĩa vụ thứ hai của đối lập là hoạt động một cách ôn hòa xây dựng và có tinh thần trách nhiệm. Những chỉ trích vớ vẩn, những vu khống không một căn bản chính trị của những kẻ tự cho là chính khách, những phê bình chỉ đem lại hoài nghi và bất mãn, đó là những tệ đoan của sự đối lập không xứng với danh hiệu của nó. Vì đâu lại có một hiện tượng bất thường như thế? Ngoài tham vọng cá nhân, hiện tượng này phát sinh từ một hệ thống chính đảng nhất định và liên quan đến khía cạnh ý thức hệ của một vài chính đảng.


Trong một xứ một hệ thống đa đảng là một thực tại chính trị khi mà không một chính đảng nào chiếm đa số hay ưu thế trên sân khấu chính trị, Chính phủ luôn luôn là một chính phủ liên hiệp. Mà liên hiệp tức là tập hợp những khuynh hướng mâu thuẫn, dung hòa những chính sách tương phản. Chính cái viễn tượng không bao giờ tự mình chiếm được toàn quyền và thực hiện những chương trình hứa hẹn làm cho chính đảng thiếu ý thức xây dựng và tinh thần trách nhiệm. Tính cách rời rạc và chia rẽ của đối lập, chỉ biết phá hoại biến đổi hẳn mối tương quan truyền thống giữa đa số và thiểu số. Đối lập không còn là đối lập ngoài và chống Chính phủ, đối lập ở đây là đối lập trong Chính phủ.


Chẳng những thế, khía cạnh ý thức của một vài chính đảng là nguyên do thứ nhì của sự thiếu tinh thần xây dựng. Đối lập chỉ có nghĩa trong một khung cảnh chính trị nhất định. Nếu chúng ta đồng ý về một số nguyên tắc căn bản, nếu chúng ta thừa nhận chủ quyền nhân dân, nguyên tắc phân nhiệm, tự do chính trị, nếu chúng ta tôn trọng nhân vị, sự độc lập của thẩm phán hay quyền tự do phát biểu, thì cuộc tranh chấp chính trị chỉ nhằm trên lĩnh vực thực tiễn qua những nguyên tắc thứ yếu. Trái lại, nếu đối lập nhằm chống lại, không phải một khuynh hướng chính trị hay một chính sách nhất định, mà chính cả nền tảng của xã hội, nghĩa là chống cả chính thể, thì khẳng định rằng đối lập là Chính phủ tương lai không còn giá trị nữa. Vì đặc tính của đối lập về ý thức hệ là chiếm chính quyền để rồi thủ tiêu quyền đối lập.


Trong một tình trạng như thế, trước tình trạng mà đối lập không thi hành nghĩa vụ của nó, những quyền hạn không còn lí do tồn tại nữa. Và chính thể dân chủ cần phải có những biện pháp thích nghi để đối phó. Sa thải những phần tử bất chính trong hành chính, bắt buộc đối lập phải có một chương trình và có năng lực nắm chính quyền trước khi lật đổ Chính phủ, sửa đổi luật bầu cử, đặt ngoài vòng pháp luật những chính đảng quá khích, đó là một vài thí dụ cụ thể về biện pháp được áp dụng để bảo vệ chính thể dân chủ. [1]


Mục IV: ĐỐI LẬP TRONG CÁC QUỐC GIA CHẬM TIẾN


Phác họa như thế vai trò và quy chế đối lập trong chính thể dân chủ qua sự biến chuyển của ý niệm trong xã hội cận đại, chúng ta không khỏi tự nhủ rằng đó là lí tưởng. Và tự hỏi rằng lí tưởng ấy có phù hợp với những tân quốc gia, với hiện tình những nước vừa thu hồi độc lập.


Thực tại chính trị, cho chúng ta biết rằng, đối lập nếu không hoàn toàn vắng mặt, thì chỉ được dung túng một phần nào, một phần nhỏ nào, trong những nước mới này, những nước mệnh danh là dân chủ và đồng thời cũng được xem là những chính thể không độc tài. Tại sao lại có một sự kiện oái oăm như thế?


Lí do thứ nhất mà người ta đưa ra là sự đe dọa trầm trọng của Cộng sản. Những nước mới này, là những nước bị nạn Cộng sản đe dọa và có nước lại đang chiến đấu một mất một còn với Cộng sản. Dung túng đối lập tức là cho Cộng sản cơ hội, núp sau lá cờ đối lập để phá hoại nền dân chủ. Đối lập Cộng sản là đối lập về ý thức hệ, và chúng ta biết rằng đối lập về ý thức hệ là đối lập chống chính thể dân chủ.


Lí do thứ hai là trình độ giáo dục của quần chúng. Người ta cho rằng dân chúng chưa có một trình độ giáo dục về chính trị khác đầy đủ để có thể sử dụng một cách hoàn hảo những quyền tự do công cộng. Và như thế, đối lập chỉ có hại vì nó sẽ là bức bình phong của những tham vọng cá nhân của những kẻ không có cơ sở chính trị chỉ dựa trên cuộc chinh đồ sinh hoạt.


Hơn nữa, thì giờ gấp rút, nâng cao mực sống của toàn dân là một việc tối cần, lúc kiến quốc không phải là lúc bàn cãi, phê bình hay chỉ trích.


Những lí do mà chúng ta vừa nêu ra rất là chính đáng. Nhưng chính đáng không có nghĩa là phải chấp nhận. Trong lĩnh vực chính trị và xã hội, sự hoàn hảo của định chế là kết quả của kinh nghiệm. Làm sao hi vọng một nhận thức khá cao của quần chúng, nếu hôm nay không có học tập hướng về dân chủ? Không phải nhất thiết áp dụng tất cả những gì đã có hay đang có ở Tây phương. Thực tại chính trị, xã hội, văn hóa của mỗi nước là yếu tố căn bản. Nhưng điều kiện tối thiểu phải có để đối lập được phép khởi đầu và phát triển.


Vả lại, vì thiếu đối lập mà Cộng sản và những phần tử phản dân chủ nắm mất chính nghĩa đối lập và lợi dụng khai thác những bất mãn, than phiền của quần chúng. Vậy để tránh mọi sự ngộ nhận giữa chính quyền và nhân dân, để cho trạng thái tinh thần khủng hoảng của dư luận được thể hiện một cách ôn hòa, để cho những phần tử phiến loạn hết cơ hội lợi dụng tuyên truyền và khai thác, vấn đề đối lập tự do và xây dựng cần phải được đặt ra. Và như thế không những trong những nước tiền tiến, mà chính ngay trong những tân quốc gia, công cuộc kiến quốc và cứu quốc, công cuộc xây dựng nền dân chủ phải là kết tinh của hoạt động song phương giữa chính quyền và đối lập.


(Hết phần thứ nhất: Lí thuyết đại cương. Đón xem phần thứ hai: Thế giới chính trị hiện đại)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.




[1] Có lẽ tác giả ám chỉ tới các hoạt động của “lực lượng thứ ba” thời Việt Nam Cộng hòa giúp ích cho lực lượng cộng sản miền Bắc lúc đó. Những gì xảy ra sau 30/04/1975 đã cho thấy sự sáng suốt có tính tiên tri của tác giả: “chiếm chính quyền để rồi thủ tiêu quyền đối lập.” (p&c)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 08, 2013 11:01

September 6, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (10)

Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4, kì 5, kì 6, kì 7, kì 8, kì 9


CHƯƠNG III: THAM GIA VÀ BẤT THAM GIA


Mục I: THÁI ĐỘ PHI CHÍNH TRỊ


Trong cuộc sinh hoạt chính trị hiện nay, người ta nhận thấy có hai trào lưu tư tưởng, hai khuynh hướng, tuy khác biệt nhau, nhưng chung quy chỉ là hai hình thức của thái độ phi chính trị. Khuynh hướng thứ nhất đưa đến việc phủ nhận tính cách chính trị của hoạt động của mình. Khuynh hướng thứ hai nhằm đề cao thái độ thụ động của công dân trước thời cuộc.


Chúng ta lần lượt phân tích và phê bình hai khuynh hướng quan trọng này.


Đoạn 1: PHỦ NHẬN TÍNH CÁCH CHÍNH TRỊ CỦA HOẠT ĐỘNG


Như chúng ta đã biết, công dân không tham gia thật sự vào cuộc sinh hoạt chính trị, phần đông vì chán ghét chính trị, vì thiếu thì giờ hoặc vì cho rằng chính trị là một địa hạt không liên quan đến họ, là địa hạt của những nhà chuyên môn chính trị. Loại công dân này thường có một thái độ thụ động.


Trái lại, một số người có những hành vi, những hoạt động liên hệ với cuộc sinh hoạt chính trị, nhưng đối với những người này, những hành vi đó không có tính cách chính trị. Họ phủ nhận rằng hành động của họ, lập trường của họ có tính cách chính trị. Thái độ phi chính trị này, vì tầm quan trọng của nó, vì tính cách phổ thông của nó, cần được phân tích rõ rệt vì thái độ này là một khía cạnh quan trọng của sự tham gia chính trị. Chúng ta có thể nói một cách tổng quát rằng có 3 trạng thái khác nhau về thái độ phi chính trị: hoặc đó chỉ là một ảo tưởng, chỉ là một chiến thuật, chỉ là một nhiệm vụ.


A. Một ảo tưởng


Thái độ phi chính trị, một ảo tưởng, là lập trường của tất cả những người tham gia và cuộc sinh hoạt chính trị, nhưng đồng thời lại phủ nhận tính cách chính trị của hoạt động ấy. Và họ phủ nhận một cách cương quyết, thành thật. Tại sao? Sở dĩ như thế là vì những người này có một quan niệm quá hẹp hòi; quá khắt khe về chính trị, và đôi khi lại chống chính trị.


* Hoặc họ cho rằng chính trị là cái gì liên quan đến chính đảng, đến bè phái. Vì thế khi mà hoạt động của họ trên đảng phái hay ngoài đảng phái, khi mà hoạt động của họ không có tính cách chia rẽ, phân li thì họ quan niệm rằng đó không phải là chính trị, đó là những hành vi không có tính cách chính trị.


* Hoặc họ cho rằng chính trị là cái gì liên quan đến ý thức hệ, đến sự đấu tranh về ý thức hệ. Vì thế mà khi hoạt động của họ bề ngoài, có tính cách kĩ thuật, dựa trên kinh nghiệm thực hành, thì không bao giờ nhận rằng hành vi ấy là hành vi chính trị.


Đó là một quan niệm quá chật hẹp về chính trị. Họ không chấp nhận được rằng chính trị chi phối những địa hạt quan trọng và rộng rãi của mối tương quan của con người, chứ không phải chỉ vỏn vẹn nằm trong lĩnh vực định chế và chính quyền. Họ từ khước việc xem xét, việc cân nhắc những hậu quả chính trị của hành vi mà họ cho rằng chỉ có tính cách riêng tư.


Tâm trạng này là tâm trạng của rất nhiều người. Ví dụ:


* Trường hợp của những đạo sĩ, những vị tu hành. Những vị này, trong những ngày cách mạng, giữa lúc chính biến, có những hành vi như: góp tiền để giúp tù nhân chính trị, cho ở trong nhà mình, giấu trong nhà mình những kẻ đối lập chính trị. Đó là những hành vi hoàn toàn và không thể chối cãi có tính cách chính trị. Nhưng vì lòng từ thiện của họ, vì họ cho rằng làm như thế ngoài mục đích chính trị, mà trái lại vì đó là bổn phận, vì đó là để tránh cho con người những đau khổ. Họ thành thật cho rằng không vì lí do chính trị, nhưng họ quên rằng những hành vi ấy có hậu quả chính trị.


* Trường hợp của những người cầm bút, của văn sĩ: nghề nghiệp của họ đưa đến một lập trường chính trị, hoặc một hậu quả chính trị mà họ không ý thức. Những người cầm bút, trong những bộ tiểu thuyết hay những quyển tùy bút, tiểu luận v.v… Khi họ tố cáo những tệ đoan trong xã hội, khi họ miêu tả chính giới với những đặc điểm như loạn luân lãng mạng, những con buôn chính trị, khi họ tố cáo những thối nát của chính quyền, thì dù muốn dù không, dù cho họ có phủ nhận rằng họ không bao giờ có ý định phán đoán giá trị xã hội mà họ phác họa hay phân tích, dù muốn dù không, hành vi của họ có tính cách chính trị, có hậu quả chính trị và đôi khi, nhận định của họ có ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc sinh hoạt chính trị.


* Trường hợp của những nhà bác học: khi họ tố cáo thảm họa của thí nghiệm nguyên tử hay chiến tranh nguyên tử, lời tuyên bố hay hành vi của họ hoàn toàn có tính cách khách quan, trên cả ý thức hệ và đảng phái chính trị. Vẫn biết rằng hành vi ấy chỉ nhằm mục tiêu cao cả, nhân đạo và sự tồn vong của nhân loại, nhưng họ không thể ngăn cản được sự kiện là lời tuyên bố của họ sẽ được khai thác trên phương diện chính trị, lời tuyên bố của họ không thể không có ảnh hưởng chính trị và là một yếu tố quan trọng trong lãnh vực bang giao quốc tế.


Đấy là một vài ví dụ tâm trạng, thường thường của nhiều người tưởng mình đứng ngoài chính trị. Lập trường phi chính trị này dựa trên những hành vi mà người ta cho rằng tự nó không có tính chất chính trị, nhưng đó chỉ là ảo tưởng vì, dù tự nó không có tính chất chính trị đó là hành vi có hậu quả chính trị. Mà tất cả những hành vi có hậu quả chính trị là những hành vi chính trị.


Thái độ phi chính trị này, chúng ta lại tìm thấy được đề cao bởi những tổ chức, nhưng đây không phải vì một ảo tưởng: nó trở thành một chiến thuật.


B. Một chiến thuật


Thái độ phi chính trị, một chiến thuật, là thái độ của những ai, và nhất là của những tổ chức, chối cãi rằng mình tham gia chính trị, mà kỳ thật thì trong thâm tâm lại nghĩ khác.


Vì chính trị có tiếng không tốt, như chúng ta đã biết, cho nên các nhà lãnh đạo các nghiệp đoàn, hiệp hội ngại rằng có một thái độ rõ rệt hay là dùng những danh từ hơi chính trị một chút có thể sẽ làm sứt mẻ tình đoàn kết của nhân viên, và làm cho họ hoảng sợ. Bởi thế các nhà lãnh đạo khôn khéo luôn luôn quả quyết rằng lập trường của mình hay là quyết định của mình chỉ nhằm việc bảo vệ quyền lợi của đoàn thể, đứng ngoài mọi tranh chấp chính trị. Họ cố tránh danh từ chính trị và chỉ dùng nào là quyền lợi nghiệp đoàn, quyền lợi công dân, quyền lợi quốc gia v.v…


Mặc dù họ can thiệp vào chính quyền, và sự can thiệp có tính cách chính trị không thể chối cãi, họ vẫn tuyên bố nhân danh quyền lợi của đoàn thể và đứng ngoài đảng phái. “Chúng tôi bảo vệ quyền lợi của chúng tôi chứ chúng tôi không có làm chính trị.”


Đó chỉ là thái độ phi chính trị bề ngoài và ai cũng thừa hiểu rằng những tổ chức không mục tiêu chính trị có những hành vi chính trị và không có thời nào mà người ta không nghe thỉnh thoảng dư luận tố cáo sự can thiệp của giới thương mại, của bức tường tiền bạc vào nội bộ chính trị.


Sở dĩ những nhà lãnh đạo phải bao trùm trên những hành vi chính trị một bức màn có vẻ khách quan, trung lập, đó chỉ là một chiến thuật nhằm đạt kết quả mong muốn mà thôi.


C. Một nhiệm vụ


Đây là khía cạnh thứ ba của lập trường phi chính trị. Ở đây người ta nhằm mong mỏi hoặc đòi hỏi nhân viên chính quyền nên đứng ngoài cuộc sinh hoạt chính trị. Đây là một vấn đề liên hệ đến tình trạng của công chức nói chung.


Trong một chính thể dân chủ, chính thể mà mọi chính kiến đều phải được tự do phát biểu và bảo đảm, mối tương quan giữa nhân viên chính quyền và công dân đặt nhiều vấn đề tế nhị. Để tránh mọi thiên vị và bảo vệ tính cách vô tư của người công chức, Nhà nước bắt buộc công chức phải có một thái độ khách quan khi thừa hành chức vụ. Nghĩa là, trên mọi phương diện nghề nghiệp, họ phải có một thái độ thận trọng đối với tất cả lực lượng chính trị và phải luôn luôn đặt quyền lợi của công vụ trên hết. Và bổn phận của công chức là tuân mệnh lệnh của Chính phủ, bất cứ là Chính phủ nào.


Đây là tình trạng thông thường của công chức trong chính thể dân chủ. Và trước một tình trạng như thế, người ta gán danh từ phi chính trị.


Thật ra khi chúng ta nói đến công chức không làm chính trị, đứng ngoài chính trị, chúng ta chỉ nêu lên một khía cạnh công chức không nên vì cảm tình đảng phái mà quyền công vụ, mà có những hoạt động hoặc quyết định thiên vị. Thái độ phi chính trị nhằm mục tiêu đó, và chỉ có thế thôi.


Nhưng yếu tố bè phái chỉ là một yếu tố trong những yếu tố khác của các quyết định hành chính hay chính trị quan trọng. Công chức, nhất là công chức cao cấp, tham gia trực tiếp vào việc soạn thảo các quyết định chính trị; công chức không thể không xem vào chính trị.


Đoạn 2: ĐỀ CAO THÁI ĐỘ THỤ ĐỘNG CỦA CÔNG DÂN ĐỐI VỚI THỜI CUỘC


Đây là một khuynh hướng chính trị được thể hiện trong rất nhiều nước, nhất là sau một khủng hoảng chính trị.


Người ta tố cáo chính trị, cho rằng vì chính trị nhiều quá mà hỏng việc tất cả.


A. Và đây là lí luận của những người chủ trương thái độ thụ động của công dân:


“Con người – vấn đề chính của họ là sống, sống đời sống hằng ngày của họ; những lo âu cá nhân hay của gia đình họ chiếm hết thì giờ. Số công dân theo dõi các vấn đề quốc gia với ý muốn tham gia rất hiếm có. Và như thế là tốt lắm! Xứ nào, nước nào mà trong ấy công dân tham gia, thảo luận quá nhiều về chính trị, xứ ấy, nước ấy gần đến ngày tàn.”


Theo khuynh hướng này, thì chính trị là cái gì cao siêu khó khăn và chỉ có một nhóm người am hiểu và đủ thẩm quyền đề cập đến. Những người này chấp nhận nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc bầu cử, nhưng giữa hai cuộc bầu cử, công dân nên trở về công việc hàng ngày riêng tư. Sự tham gia của công dân có tính cách bất thường và khi nào cần đến.


Tóm lại, những người chỉ trích sự tham gia chính trị của công dân và đề cao thái độ thụ động của công dân, cho đó là triệu chứng tốt đẹp của cuộc sinh hoạt chính trị. Thái độ này dựa trên hai ý tưởng chính:


* Quần chúng vô thẩm quyền, để định đoạt những vấn đề ấy, và trong trường hợp quần chúng có am hiểu đi nữa, nếu họ phải quyết định chắc chắn là họ quyết định theo quyền lợi riêng tư của họ.


* Quyền lực vô chính trị, trên chính trị rất cần thiết để giải quyết những vấn đề trọng đại; nói một cách khác chính trị đóng vai trò của nó nơi mà có sự tranh chấp về quyền lợi nho nhỏ; khi có việc đại sự cần có một quyền lực trên tất cả chính trị


B. Chúng ta nghĩ sao về khuynh hướng và lí luận này?


Cần phải nói ngay rằng là một lập luận không đứng vững.


* Quần chúng không thẩm quyền? Đó là một luận cứ không đứng vững nếu chúng ta nhận thức rằng chính quyền thường thường bao trùm màn bí mật trên các vấn đề quốc gia đại sự. Rồi những kẻ có quyền lực, núp sau bức màn này để tha hồ định đoạt. Họ tuyên bố rầm rĩ lên là khó, họ cố tình làm rối beng công việc nào là hồ sơ chồng chất lên cao, nào là tính cách kĩ thuật của vấn đề, để làm công dân chán ngán. Sau đó, kết luận rằng công dân vô thẩm quyền.


Sự thật ra, không có một vấn đề chính trị nào mà không thể giải nghĩa rõ ràng, và vấn đề quần chúng vô thẩm quyền chỉ là bịa đặt và lí do để gạt sự tham gia của công dân ra ngoài.


* Một quyền lực vô chính trị để giải quyết những vấn đề trọng đại? Luận cứ này chỉ là phản ảnh của một ảo tưởng. Cho rằng có thể lấy một quyết định chính trị và chỉ dựa trên một tiêu chuẩn, hay một quan điểm không chính trị, là một ảo tưởng. Bất cứ một người nào, một nhân vật nào, dù là ngự trị ở tận mây xanh đi nữa, khi mà họ quyết định về phương diện chính trị, là đương nhiên họ lấy một quyết định chính trị và họ trở thành một nhân vật chính trị.


Đấy, những luận cứ của những ai chỉ trích sự tham gia không thể đứng vững.


Vẫn biết rằng khi mà công dân có một thái độ hơi tách rời chính trị, không chú ý nhiều đến cuộc sinh hoạt chính trị có thể đó là triệu chứng của một sinh hoạt chính trị ổn định. Thật vậy, khi mà guồng máy chính trị, hành chính của quốc gia chạy đều và trong nước thanh bình, thịnh vượng thì lẽ tất nhiên các vấn đề chính trị kém phần sôi nổi.


Vẫn biết rằng những nhà cầm quyền cần có một chút tự do, một phần tự trị nào đó đối với dư luận, đối với công dân, mới có thể thi hành nhiệm vụ một cách hữu hiệu. Chính quyền không thể làm gì được nếu dư luận cứ thọc gậy bánh xe, cứ quấy nhiễu mãi. Mới lên nắm chính quyền có vài tháng mà mỗi ngày bị gán cho danh từ con rùa thì không làm sao mà làm việc được. Chính quyền – và bất cứ một chính quyền nào cũng cần phải có thì giờ và được yên trí để thi hành nhiệm vụ. Nếu sự tham gia của công dân đưa đến hậu quả nói trên, thì sự tham gia nguy hiểm hơn sự bất tham gia.


Đấy, những chỉ trích sự tham gia chính trị là cho chúng ta phải để ý mực tự trị tương đối của chính quyền. Nhưng không vì lẽ đó mà lại đề cao thái độ thụ động của công dân.


Rất nhiều chế độ chính trị đã bị lật đổ vì đã trốn chính trị và từ khước biến đổi, làm sai lạc sự tham gia chính trị của công dân. Thay vì giữa chính quyền và nhân dân nên có một luồng điện để thông cảm và cùng giải quyết những vấn đề, người ta chỉ nhìn thấy trong những chế độ này, tinh thần vô trách nhiệm, những diễn văn rườm rà, những danh từ trống rỗng.


Chính thể dân chủ đòi hỏi một chính quyền vững mạnh và sự hữu hiệu của những phần tử tinh hoa chính trị có trách nhiệm. Nhưng để có thể lựa chọn những phần tử này một cách tự do, và nếu muốn các phần tử tinh nhuệ ấy có tinh thần trách nhiệm, cần phải có một sự kiểm soát chặt chẽ bởi một dư luận hoạt động và thông thạo. Tức là tham gia chính trị.


Mục II: LẬP TRƯỜNG MÁC-XÍT: SỰ THAM GIA TRONG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ LÀ MỘT TRÒ BỊP BỢM


Đoạn 1: NỘI DUNG CỦA LẬP TRƯỜNG


A. Lập trường này không hẳn là cá»§a Marx, mà chính là cá»§a Lenin. Theo Lenin không thể có sá»± tham gia trong xã hội tư bản được. Cho đến ngày nào còn giai cấp đấu tranh, mà còn người bóc lột người, tham gia chính trị – và đồng thời danh từ dân chá»§ – chỉ là một trò hề.


Tại sao? Vì thượng tầng kiến tạo  – nghÄ©a là các định chế chính trị  – hoàn toàn bị chi phối bởi hạ tầng cÆ¡ sở kinh tế và xã hội. Quốc gia, Nhà nước – cái thượng tầng kiến tạo này – chỉ là bộ máy chỉ huy và đàn áp ở trong tay giai cấp thống trị. Vì thế, trong xã hội tư bản ngày nay, Quốc gia, Nhà nước là công cụ cá»§a giai cấp trung lưu. Hiểu như thế, thì tất cả những thá»§ tục tinh vi, cÅ©ng như hệ thống pháp lí và chính trị trong xã hội tư bản, chung quy chỉ là những trò bịp bợm hoặc những phương tiện khéo léo hầu bảo đảm sá»± thống trị cá»§a giai cấp nắm quyền. Trong một khung cảnh chính trị như thế, tất cả những quyền lợi, tá»± do mà xã hội tư bản đã nhìn nhận cho cá nhân và đoàn thể cùng những hiện tượng tham gia hoàn toàn có tính cách trừu tượng, pháp lí chứ không có một nội dung thá»±c sá»±. Lenin cÅ©ng nhìn nhận rằng dân chá»§ kiểu Âu-Mỹ ngày nay là một bước tiến, một giai đoạn cần thiết và là một con đường ngắn nhất để tiến đến độc tài vô sản[1].


A. Thuyết Mác-xít không phủ nhận sự có thể có được của một xã hội dân chủ. Nhưng dân chủ chỉ có thể có được sau một cuộc cách mạng phá vỡ xã hội giai cấp ngày nay và thiết lập độc tài vô sản. Mà độc tài vô sản có phải dân chủ không? Lenin, trong quyển Nhà nước và Cách mạng đã cố gắng trả lời câu hỏi quan trọng này. Ông cho rằng không thể phán đoán độc tài vô sản mà không chú ý đến điều kiện sinh hoạt của xã hội trong ấy độc tài vô sản được thiết lập. Vì độc tài vô sản là một chế độ độc tài, một chế độ trong ấy vẫn còn giai cấp này đàn áp giai cấp nọ, một hệ thống cưỡng bách, thế không thể xem độc tài vô sản là một chế độ thực hiện dân chủ được. Vì chỗ nào có cưỡng bách áp bức, chỗ ấy không có dân chủ được. Tuy nhiên, đối với tình trạng trước, độc tài vô sản là một bước tiến trên đường dân chủ, vì trong xã hội tư bản ngày trước, dân chủ là một thứ dân chủ của một thiểu số thống trị đa số; trái lại, với độc tài vô sản là một thứ độc tài của đa số bị bóc lột đối với thiểu số xưa kia từng bóc lột.


Và Lenin kết luận rằng sự tiến triển của độc tài vô sản sẽ đưa đến một xã hội không giai cấp trong ấy nền dân chủ thực sự sẽ nẩy nở mau chóng.


Đoạn 2: NHẬN XÉT


Lập trường Mác-xít trên đây rất là quan trọng. Trên phương diện lí thuyết và triết học, vấn đề được đặt ra là vấn đề tự do của con người. Những người theo chủ nghĩa Mác-Lê quan niệm rằng tự do, không phải là một dữ kiện đồng thời tồn tại với con người, mà là sản phẩm của sự tiến triển của con người. Bởi thế cho nên, con người trở thành tự do, con người tự đặt điều kiện để có tự do và điều kiện ấy là cách mạng vô sản. Thuyết Mác-xít cho rằng nói đến tự do có trước hay đồng thời tồn tại với con người, trong xã hội tư bản, chỉ là ảo tưởng.


Vấn đề đặt ra là thử hỏi tự do là sản phẩm của con người hay là có tính cách siêu việt vượt hẳn mọi tiến triển của con người? Một vấn đề hoàn toàn triết lí, rất quan trọng. Cuộc tranh luận đã và đang tiếp diễn.


Trên phương diện thực thể, cần phải nhận định rằng chủ nghĩa Mác-Lê phủ nhận sự có thể có một thay đổi toàn diện trong xã hội bởi những phương thức bất bạo động. Vì con người chỉ có thể có tự do sau một cuộc cách mạng vô sản và với sự độc tài vô sản.


Tuy nhiên, lịch sử chính trị cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều trường hợp phủ nhận hoàn toàn khẳng định trên của thuyết Mác-xít.


Đó là trường hợp của nhiều xã hội tân tiến ngày nay trong ấy, sự phát triển theo một chiều hướng mà cách mạng và độc tài vô sản có thể nói khó lòng có được thực hiện. Xin nhắc lại rằng theo thuyết Mác-Lê, chính những xã hội tân tiến, kĩ nghệ hóa nhiều nhất lại là những xã hội có thể đưa đến một tình trạng cách mạng bùng nổ.


Nhưng, có thể chắc chắn rằng không phải Hoa Kỳ, Anh Quốc, Đức Quốc, những xứ kĩ nghệ hóa nhiều nhất là những xứ mà tình trạng chính trị đem đến một sự bùng nổ cách mạng và độc tài vô sản. Đó là một sự kiện không thể chối cãi. Trái lại, chính tình trạng kém mở mang lại là tình trạng thúc đẩy cách mạng.


Hơn nữa, lịch sử đã chứng minh rằng thuyết Mác-xít đã quá tin ở sự bất hữu hiệu của thủ tục dân chủ. Vẫn biết rằng lá phiếu không thể đưa đến một thay đổi hẳn căn bản, lá phiếu không phải như thuyết Mác-xít khẳng định – là một ảo tưởng mà chính là phương tiện dân chủ có tính cách quyết định và đã đưa đến những thay đổi quan trọng mà trường hợp Anh Quốc, Pháp Quốc, Hoa Kỳ và các nước Âu Châu là trường hợp điển hình.


Thật ra, vấn đề tham gia chính trị là một vấn đề quan trọng phức tạp và hiện đang thảo luận sôi nổi. Tuy nhiên cần phải xác nhận lại rằng, sự kiện đã chứng minh rằng sự tham gia ấy không phải chỉ là trò bịp bợm.


TỔNG KẾT


Qua những hình thức tham gia chính trị và sau khi phân tích những nguyên do của sự bất tham gia hay thiếu tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị, chúng ta nhìn thấy một sự kiện, đầy hậu quả cho tương lai của nền dân chủ, sự kiện ấy là thái độ thụ động của công dân trong cuộc sinh hoạt chính trị.


Và nếu chúng ta không đồng ý với những người cho rằng thái độ như thế là một triệu chứng của tình thế chính trị tốt đẹp, thì chúng ta bắt buộc phải mong mỏi một sự đảo ngược cái khuynh hướng ấy và phác họa phương tiện để đi đến kết quả. Cần phải nhấn mạnh ngay rằng đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong cuộc phục hồi danh dự tầm quan trọng của chính trị trong nhân sinh quan.


Theo chiều hướng nào? Hai điểm chính: giáo dục công dân và chỉnh đốn cuộc sinh hoạt địa phương.


1. Giáo dục công dân


Như chúng ta đã biết, chính trị có tiếng không tốt. Vì đó mà mọi vấn đề liên quan đến chính trị đều không tốt cả. Và cũng vì đó mà nhiều người thường hay phản đối rằng hành vi của mình có tính cách chính trị. Công dân khi nói đến quyền lợi chung, đến công vụ họ nghĩ ngay đến hành chính hơn là chính trị. Bởi thế, biện hộ cho chính trị, bào chữa cho chính trị là một điều hết sức cần thiết ở mọi trình độ, ở mọi địa hạt mà công dân được huấn luyện. Một vấn đề giáo dục, và vấn đề giáo dục này cần phải đặt ngay tại nhà trường. Vấn đề là khêu gợi cho học sinh ý thức được sự hiện hữu của cuộc sinh hoạt công cộng và tầm quan trọng của vai trò chính trị trong việc chuyển hướng quốc gia.


Thật ra, vấn đề này đã được giải quyết và – như các bạn đã trải qua, học sinh bắt buộc phải học cái môn mà người ta gọi là “Công dân Giáo dục”. Đó là một điều hay nhưng không đạt nhiều kết quả vì người ta làm sai lạc hướng đi của công dân giáo dục. Thật vậy, trong môn Công dân Giáo dục người ta chú trọng quá nhiều đến những giá trị tinh thần luân lí, đến bản chất chung cho tất cả công dân, đến trạng thái nhất trí của toàn dân của quốc gia, dân tộc. Quá lí tưởng! Trái lại, cuộc sinh hoạt chính trị dựa trên những bất đồng, dị biệt, dựa trên sự hòa giải giữa những điểm bất tương đồng, hòa giải những mâu thuẫn. Chính trị dựa trên một sự lựa chọn có thể chấp nhận được cho một số đông người giữa những giải pháp có thể được.


Chính cái tính cách đa nguyên ấy và tính cách tương đối của nhận thức chính trị cần phải được nhấn mạnh.


Hơn nữa, khi nói đến công dân, nghĩa vụ hay quyền lợi công dân, cần phải đặt ngay câu hỏi: khi đề cập đến vấn đề công dân, người ta quan niệm như thế nào? Sở dĩ cần phải đặt câu hỏi như thế là vì, trong xã hội cận đại, khi nói vấn đề công dân, người ta chỉ nghĩ đến – và người ta ở đây thường thường là những người cầm quyền – người ta chỉ nghĩ đến nghĩa vụ, nào có bổn phận tuân hành luật lệ, nào là hi sinh cho Tổ-quốc, cho tương lai dân tộc. Và kinh nghiệm cho biết rằng trong những giờ phút nguy biến, khi chính thể dân chủ trải qua những cuộc khủng hoảng, chính quyền hay dùng tới danh từ công dân với khía cạnh nghĩa vụ mà thôi.


Chúng ta không thể chối cãi rằng nghĩa vụ là đức tính quan trọng của công dân trong chính thể dân chủ, nhưng khi đề cập đến công dân chúng ta không nên quên khía cạnh tham gia. Hô hào, kêu gọi lòng ái quốc, đến công dân, không nhằm nghĩa vụ mà đồng thời phải chú trọng đến công việc đem lại cho công dân một niềm tin, một ý nghĩa và tinh thần trách nhiệm của họ.


Hô hào, kêu gọi đến sự tham gia của công dân mà không gợi cho họ một giá trị nào, giá trị chính trị, không gợi cho họ một công cuộc thực hiện một mục tiêu nhất định, mà trái lại chỉ nhấn mạnh những nguyên tắc tinh thần luân lí, nhấn mạnh khía cạnh bổn phận, làm như thế là một khuyết điểm. Có thể sự tham gia của công dân được tăng cường nhưng sự tăng cường đó chỉ có tính cách bề ngoài. Công dân không ý thức tầm quan trọng của chính trị. Công dân có thể làm tròn nghĩa vụ của mình, có thể thực hiện một vài hành động chính trị, nhưng không nắm vững ý nghĩa thực sự. Mà, hành động không đủ, ý chí tham gia mới là cần thiết, và ý chí tham gia này do nơi sự chú ý đến cuộc sinh hoạt chính trị.


Nếu không ham muốn tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị, nếu không ý thức rằng mình tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị, thì công dân không dự vào việc quyết định số mệnh quốc gia và họ chỉ còn là một yếu tố, một đơn vị, ít nhiều thụ động, của một guồng máy độc đoán dùng họ mà thôi.


Giáo dục công dân không những ở nhà trường và nhấn mạnh đến khía cạnh tham gia, mà còn là một vấn đề quan trọng của chính đảng. Nói đến vấn đề giáo dục công dân và chính đảng là phải nghĩ ngay đến công việc cải tổ và đem lại nguồn sinh lực cho hệ thống chính đảng và phong trào chính trị.


Như chúng ta đã biết những tổ chức này rất có nhiều tiếng tăm, nhất là ở Việt Nam, nhưng toàn là tiếng tăm bất hảo. Vì chính đảng thường thường là một nhóm người họp nhau để có một lực lượng, rồi dùng lực lượng này với tính cách lực lượng áp lực nhằm mục đích chiếm ngôi thứ.


Công cuộc cải tổ những chính đảng và phong trào chính trị nhằm đem lại một quan niệm mới và thiết thực về vai trò của chính đảng trong cuộc sinh hoạt chính trị là một vấn đề cấp bách.


Chính đảng không phải chỉ là một dụng cụ, để bảo vệ quyền lợi của một nhóm người hay một thành phần xã hội; chính đảng còn phải là một phương tiện để đề cao một chủ nghĩa và thực hiện một chương trình. Quan niệm như thế thì vai trò chính yếu của chính đảng là vai trò trung gian. Một mặt chính đảng đặt vấn đề chính quyền đúng với trình độ hiểu biết của công dân; mặt khác chính đảng giúp vào công việc thể hiện sự tín nhiệm của công dân vào chính quyền.


Đặt các vấn đề chính quyền đúng với trình độ hiểu biết của công dân là như thế này: công dân, đa số, không thể nào thấu hiểu những vấn đề Chính phủ, những vấn đề càng ngày càng phức tạp và có tính cách chuyên môn, vì thế mà đã có khuynh hướng giao cho các nhà chuyên môn giải quyết các vấn đề này. Vì công dân không hiểu mà chính đảng phải thông tin và có thể thông tin. Chính đảng là một nhà trường tự do, cần thiết cho việc điều hành nền dân chủ. Công tác của Chính phủ càng phức tạp, khó khăn chừng nào, thì công việc thông tin, giải thích càng sâu xa và đầy đủ chừng ấy. Công dân chỉ thích, chỉ chú ý những gì mà họ biết và chỉ kiểm soát những gì mà họ hiểu.


Công dân có thể không nắm vững được tất cả các quyết định chính trị trong chi tiết. Nhưng họ có thể thấu hiểu đâu là nguyên nhân, đâu là tinh thần và họ phải có thể xét đoán được những giải pháp mà Chính phủ đưa ra. Đấy chính đảng và phong trào chính trị đóng vai trò quan trọng là giáo dục chính trị công dân.


Không những chính đảng đặt vấn đề chính trị đúng tầm hiểu biết của công dân, các tổ chức này còn giúp vào công việc thể hiện sự tín nhiệm của công dân đối với chính quyền. Tại sao chính đảng giúp vào việc thể hiện sự tín nhiệm?


Chính thể dân chủ dựa trên một phương thức tổ chức, trên một hình thức cấu tạo về phương diện tín nhiệm cũng như về phương diện kiểm soát. Nói rằng công dân tín nhiệm chính quyền chỉ có nghĩa là công dân tín nhiệm chính quyền qua sự trung gian của đại diện. Danh từ đại diện ở đây bao gồm không những đại diện chính thức – các vị dân biểu Quốc hội mà luôn cả cán bộ của chính đảng. Vì những cán bộ của chính đảng, những phần tử ưu tú của chính đảng là thành phần của đoàn thể nắm chính quyền.


Tóm lại, không thể có một nền dân chủ linh động nếu không có một sự tín nhiệm của công dân đối với các phần tử ưu tú của chính đảng và những phong trào chính trị. Nhưng cần phải nhấn mạnh ngay rằng sự tín nhiệm này, cái cảm tính này không có nghĩa là thoái vị. Tín nhiệm nhưng đồng thời được giáo dục, huấn luyện người dân thấu hiểu các vấn đề và tham gia thường xuyên vào việc định hướng cho tương lai. Và chúng ta có thể kết luận rằng không có nhà trường nào quý giá hơn nhà trường chính đảng và không có chỗ nào công dân tích cực tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị bằng chính đảng.


Nói như thế không có nghĩa là chúng ta đặt tất cả hi vọng vào chính đảng. Có lẽ cũng cần thêm rằng, chúng ta không có một mảy may hi vọng vào khả năng của chính đảng hiện nay để đảm đương vai trò ấy, vai trò giáo dục và trung gian giữa chính quyền và công dân. Những trò gian lận, bịp bợm của họ, những sự dối trá, những chương trình, hành động mị dân của họ là những yếu tố đưa đến sự mất uy tín của chính đảng hiện nay.


Vậy nhu cầu hiện tại  – để tăng cường sá»± tham gia chính trị cá»§a công dân – là gầy dá»±ng lại những tổ chức chính trị có trách nhiệm. Cần phải thành thật mà nhận rằng công cuộc xây dá»±ng này đòi hỏi một công trình nặng nề và không bao giờ hoàn hảo. Soạn thảo một bản Hiến pháp dễ gấp trăm lần việc thiết lập và khích động một hệ thống chính đảng đáp ứng với nhu cầu cá»§a một xã hội tân tiến.


Nhưng dù sao, công tác chính trị là công tác trường kỳ và cố gắng hàng ngày. Giữa một trạng thái nô lệ, lỗi thời và một tình trạng dân chủ bề ngoài, không có lối thoát nào khác.


2. Chỉnh đốn cuộc sinh hoạt địa phương


Giáo dục công dân đem lại cho họ một niềm tin và khích lệ họ chú ý đến cuộc sinh hoạt chính trị chưa hẳn là đủ. Còn cần phải duy trì phong trào này. Cuộc sinh hoạt chính trị địa phương là dịp để công dân tham gia vào chính trị.


Các chính trị gia đều đồng ý rằng cái mà người ta gọi là “chính phủ địa phương” là nền tảng của chính thể dân chủ và sự tham gia của công dân vào đời sống chính trị xã thôn là trường học quý giá trong việc giáo dục công dân. Chính ngay trong thôn xã là nơi tập trung sức mạnh của những dân tộc tự do. Những định chế xã thôn đối với tự do, dân chủ có thể ví như những trường tiểu học đối với khoa học. Chính ngay ở trường tiểu học mà con em tìm thấy những bước đầu tiên của kiến thức. Chính ngay ở cuộc sống xã thôn mà công dân thưởng thức tự do, dân chủ. Cuộc sinh hoạt địa phương đem lại và duy trì tinh thần công cộng, một quan niệm của sự ích lợi của làng của nước. Cuộc sinh hoạt địa phương đặt những vấn đề đúng tầm hiểu biết của họ, là dịp họ luyện tập tham gia. Những định chế gần họ, chính quyền kề bên họ, và họ thấy ngay đâu là quyền lợi chung và tinh thần trách nhiệm.


Đem lại một luồng sinh lực mới cho cuộc sinh hoạt địa phương là một công tác tối cần. Vì ở địa phương, công dân ý thức tinh thần tự do, ý thức trạng thái một công dân chứ không phải con người nô lệ.


Ý tưởng tham gia – và cuộc sinh hoạt dân chá»§ – có nghÄ©a một sá»± tán đồng cá»§a mỗi người và cá»§a mọi người, tán đồng một công trình cùng nhau trù liệu, một công trình có tính cách siêu việt đầy hứa hẹn.


Sự tán đồng này dĩ nhiên đòi hỏi mỗi người một sự gia nhập hoàn toàn, sức can đảm để khắc phục khó khăn có thể xẩy đến và, đôi khi, nhiều hi sinh đau đớn. Vì không có một công trình vĩ đại nào mà không có sự hi sinh về con người cũng như về khát vọng ích kỉ.


Hi sinh, làm sao có được nếu không có một động lực gây một mối cảm tình sâu rộng và một bầu không khí nồng nhiệt tập đoàn?


Nghĩ cho cùng, ý tưởng tham gia nhấn mạnh một sự phủ nhận cá nhân và đồng thời đề cao sự thực hiện giá trị bản thân trong công trình xây dựng chung.



(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.





[1] Tức “độc tài của giai cấp vô sản” (dictature du prolétariat), tác giả dịch đúng nghĩa, khác với cách dịch của Đảng Cộng sản Việt Nam là chuyên chính vô sản. (p&r)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 06, 2013 16:01

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (10)

Xem kì 1, kì 2kì 3kì 4, kì 5, kì 6kì 7, kì 8, kì 9


CHƯƠNG III: THAM GIA VÀ BẤT THAM GIA


Mục I: THÁI ĐỘ PHI CHÍNH TRỊ


Trong cuộc sinh hoạt chính trị hiện nay, người ta nhận thấy có hai trào lưu tư tưởng, hai khuynh hướng, tuy khác biệt nhau, nhưng chung quy chỉ là hai hình thức của thái độ phi chính trị. Khuynh hướng thứ nhất đưa đến việc phủ nhận tính cách chính trị của hoạt động của mình. Khuynh hướng thứ hai nhằm đề cao thái độ thụ động của công dân trước thời cuộc.


Chúng ta lần lượt phân tích và phê bình hai khuynh hướng quan trọng này.


Đoạn 1: PHỦ NHẬN TÍNH CÁCH CHÍNH TRỊ CỦA HOẠT ĐỘNG


Như chúng ta đã biết, công dân không tham gia thật sự vào cuộc sinh hoạt chính trị, phần đông vì chán ghét chính trị, vì thiếu thì giờ hoặc vì cho rằng chính trị là một địa hạt không liên quan đến họ, là địa hạt của những nhà chuyên môn chính trị. Loại công dân này thường có một thái độ thụ động.


Trái lại, một số người có những hành vi, những hoạt động liên hệ với cuộc sinh hoạt chính trị, nhưng đối với những người này, những hành vi đó không có tính cách chính trị. Họ phủ nhận rằng hành động của họ, lập trường của họ có tính cách chính trị. Thái độ phi chính trị này, vì tầm quan trọng của nó, vì tính cách phổ thông của nó, cần được phân tích rõ rệt vì thái độ này là một khía cạnh quan trọng của sự tham gia chính trị. Chúng ta có thể nói một cách tổng quát rằng có 3 trạng thái khác nhau về thái độ phi chính trị: hoặc đó chỉ là một ảo tưởng, chỉ là một chiến thuật, chỉ là một nhiệm vụ.


A. Một ảo tưởng


Thái độ phi chính trị, một ảo tưởng, là lập trường của tất cả những người tham gia và cuộc sinh hoạt chính trị, nhưng đồng thời lại phủ nhận tính cách chính trị của hoạt động ấy. Và họ phủ nhận một cách cương quyết, thành thật. Tại sao? Sở dĩ như thế là vì những người này có một quan niệm quá hẹp hòi; quá khắt khe về chính trị, và đôi khi lại chống chính trị.


* Hoặc họ cho rằng chính trị là cái gì liên quan đến chính đảng, đến bè phái. Vì thế khi mà hoạt động của họ trên đảng phái hay ngoài đảng phái, khi mà hoạt động của họ không có tính cách chia rẽ, phân li thì họ quan niệm rằng đó không phải là chính trị, đó là những hành vi không có tính cách chính trị.


* Hoặc họ cho rằng chính trị là cái gì liên quan đến ý thức hệ, đến sự đấu tranh về ý thức hệ. Vì thế mà khi hoạt động của họ bề ngoài, có tính cách kĩ thuật, dựa trên kinh nghiệm thực hành, thì không bao giờ nhận rằng hành vi ấy là hành vi chính trị.


Đó là một quan niệm quá chật hẹp về chính trị. Họ không chấp nhận được rằng chính trị chi phối những địa hạt quan trọng và rộng rãi của mối tương quan của con người, chứ không phải chỉ vỏn vẹn nằm trong lĩnh vực định chế và chính quyền. Họ từ khước việc xem xét, việc cân nhắc những hậu quả chính trị của hành vi mà họ cho rằng chỉ có tính cách riêng tư.


Tâm trạng này là tâm trạng của rất nhiều người. Ví dụ:


* Trường hợp của những đạo sĩ, những vị tu hành. Những vị này, trong những ngày cách mạng, giữa lúc chính biến, có những hành vi như: góp tiền để giúp tù nhân chính trị, cho ở trong nhà mình, giấu trong nhà mình những kẻ đối lập chính trị. Đó là những hành vi hoàn toàn và không thể chối cãi có tính cách chính trị. Nhưng vì lòng từ thiện của họ, vì họ cho rằng làm như thế ngoài mục đích chính trị, mà trái lại vì đó là bổn phận, vì đó là để tránh cho con người những đau khổ. Họ thành thật cho rằng không vì lí do chính trị, nhưng họ quên rằng những hành vi ấy có hậu quả chính trị.


* Trường hợp của những người cầm bút, của văn sĩ: nghề nghiệp của họ đưa đến một lập trường chính trị, hoặc một hậu quả chính trị mà họ không ý thức. Những người cầm bút, trong những bộ tiểu thuyết hay những quyển tùy bút, tiểu luận v.v… Khi họ tố cáo những tệ đoan trong xã hội, khi họ miêu tả chính giới với những đặc điểm như loạn luân lãng mạng, những con buôn chính trị, khi họ tố cáo những thối nát của chính quyền, thì dù muốn dù không, dù cho họ có phủ nhận rằng họ không bao giờ có ý định phán đoán giá trị xã hội mà họ phác họa hay phân tích, dù muốn dù không, hành vi của họ có tính cách chính trị, có hậu quả chính trị và đôi khi, nhận định của họ có ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc sinh hoạt chính trị.


* Trường hợp của những nhà bác học: khi họ tố cáo thảm họa của thí nghiệm nguyên tử hay chiến tranh nguyên tử, lời tuyên bố hay hành vi của họ hoàn toàn có tính cách khách quan, trên cả ý thức hệ và đảng phái chính trị. Vẫn biết rằng hành vi ấy chỉ nhằm mục tiêu cao cả, nhân đạo và sự tồn vong của nhân loại, nhưng họ không thể ngăn cản được sự kiện là lời tuyên bố của họ sẽ được khai thác trên phương diện chính trị, lời tuyên bố của họ không thể không có ảnh hưởng chính trị và là một yếu tố quan trọng trong lãnh vực bang giao quốc tế.


Đấy là một vài ví dụ tâm trạng, thường thường của nhiều người tưởng mình đứng ngoài chính trị. Lập trường phi chính trị này dựa trên những hành vi mà người ta cho rằng tự nó không có tính chất chính trị, nhưng đó chỉ là ảo tưởng vì, dù tự nó không có tính chất chính trị đó là hành vi có hậu quả chính trị. Mà tất cả những hành vi có hậu quả chính trị là những hành vi chính trị.


Thái độ phi chính trị này, chúng ta lại tìm thấy được đề cao bởi những tổ chức, nhưng đây không phải vì một ảo tưởng: nó trở thành một chiến thuật.


B. Một chiến thuật


Thái độ phi chính trị, một chiến thuật, là thái độ của những ai, và nhất là của những tổ chức, chối cãi rằng mình tham gia chính trị, mà kỳ thật thì trong thâm tâm lại nghĩ khác.


Vì chính trị có tiếng không tốt, như chúng ta đã biết, cho nên các nhà lãnh đạo các nghiệp đoàn, hiệp hội ngại rằng có một thái độ rõ rệt hay là dùng những danh từ hơi chính trị một chút có thể sẽ làm sứt mẻ tình đoàn kết của nhân viên, và làm cho họ hoảng sợ. Bởi thế các nhà lãnh đạo khôn khéo luôn luôn quả quyết rằng lập trường của mình hay là quyết định của mình chỉ nhằm việc bảo vệ quyền lợi của đoàn thể, đứng ngoài mọi tranh chấp chính trị. Họ cố tránh danh từ chính trị và chỉ dùng nào là quyền lợi nghiệp đoàn, quyền lợi công dân, quyền lợi quốc gia v.v…


Mặc dù họ can thiệp vào chính quyền, và sự can thiệp có tính cách chính trị không thể chối cãi, họ vẫn tuyên bố nhân danh quyền lợi của đoàn thể và đứng ngoài đảng phái. “Chúng tôi bảo vệ quyền lợi của chúng tôi chứ chúng tôi không có làm chính trị.”


Đó chỉ là thái độ phi chính trị bề ngoài và ai cũng thừa hiểu rằng những tổ chức không mục tiêu chính trị có những hành vi chính trị và không có thời nào mà người ta không nghe thỉnh thoảng dư luận tố cáo sự can thiệp của giới thương mại, của bức tường tiền bạc vào nội bộ chính trị.


Sở dĩ những nhà lãnh đạo phải bao trùm trên những hành vi chính trị một bức màn có vẻ khách quan, trung lập, đó chỉ là một chiến thuật nhằm đạt kết quả mong muốn mà thôi.


C. Một nhiệm vụ


Đây là khía cạnh thứ ba của lập trường phi chính trị. Ở đây người ta nhằm mong mỏi hoặc đòi hỏi nhân viên chính quyền nên đứng ngoài cuộc sinh hoạt chính trị. Đây là một vấn đề liên hệ đến tình trạng của công chức nói chung.


Trong một chính thể dân chủ, chính thể mà mọi chính kiến đều phải được tự do phát biểu và bảo đảm, mối tương quan giữa nhân viên chính quyền và công dân đặt nhiều vấn đề tế nhị. Để tránh mọi thiên vị và bảo vệ tính cách vô tư của người công chức, Nhà nước bắt buộc công chức phải có một thái độ khách quan khi thừa hành chức vụ. Nghĩa là, trên mọi phương diện nghề nghiệp, họ phải có một thái độ thận trọng đối với tất cả lực lượng chính trị và phải luôn luôn đặt quyền lợi của công vụ trên hết. Và bổn phận của công chức là tuân mệnh lệnh của Chính phủ, bất cứ là Chính phủ nào.


Đây là tình trạng thông thường của công chức trong chính thể dân chủ. Và trước một tình trạng như thế, người ta gán danh từ phi chính trị.


Thật ra khi chúng ta nói đến công chức không làm chính trị, đứng ngoài chính trị, chúng ta chỉ nêu lên một khía cạnh công chức không nên vì cảm tình đảng phái mà quyền công vụ, mà có những hoạt động hoặc quyết định thiên vị. Thái độ phi chính trị nhằm mục tiêu đó, và chỉ có thế thôi.


Nhưng yếu tố bè phái chỉ là một yếu tố trong những yếu tố khác của các quyết định hành chính hay chính trị quan trọng. Công chức, nhất là công chức cao cấp, tham gia trực tiếp vào việc soạn thảo các quyết định chính trị; công chức không thể không xem vào chính trị.


Đoạn 2: ĐỀ CAO THÁI ĐỘ THỤ ĐỘNG CỦA CÔNG DÂN ĐỐI VỚI THỜI CUỘC


Đây là một khuynh hướng chính trị được thể hiện trong rất nhiều nước, nhất là sau một khủng hoảng chính trị.


Người ta tố cáo chính trị, cho rằng vì chính trị nhiều quá mà hỏng việc tất cả.


A. Và đây là lí luận của những người chủ trương thái độ thụ động của công dân:


“Con người – vấn đề chính của họ là sống, sống đời sống hằng ngày của họ; những lo âu cá nhân hay của gia đình họ chiếm hết thì giờ. Số công dân theo dõi các vấn đề quốc gia với ý muốn tham gia rất hiếm có. Và như thế là tốt lắm! Xứ nào, nước nào mà trong ấy công dân tham gia, thảo luận quá nhiều về chính trị, xứ ấy, nước ấy gần đến ngày tàn.”


Theo khuynh hướng này, thì chính trị là cái gì cao siêu khó khăn và chỉ có một nhóm người am hiểu và đủ thẩm quyền đề cập đến. Những người này chấp nhận nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc bầu cử, nhưng giữa hai cuộc bầu cử, công dân nên trở về công việc hàng ngày riêng tư. Sự tham gia của công dân có tính cách bất thường và khi nào cần đến.


Tóm lại, những người chỉ trích sự tham gia chính trị của công dân và đề cao thái độ thụ động của công dân, cho đó là triệu chứng tốt đẹp của cuộc sinh hoạt chính trị. Thái độ này dựa trên hai ý tưởng chính:


* Quần chúng vô thẩm quyền, để định đoạt những vấn đề ấy, và trong trường hợp quần chúng có am hiểu đi nữa, nếu họ phải quyết định chắc chắn là họ quyết định theo quyền lợi riêng tư của họ.


* Quyền lực vô chính trị, trên chính trị rất cần thiết để giải quyết những vấn đề trọng đại; nói một cách khác chính trị đóng vai trò của nó nơi mà có sự tranh chấp về quyền lợi nho nhỏ; khi có việc đại sự cần có một quyền lực trên tất cả chính trị


B. Chúng ta nghĩ sao về khuynh hướng và lí luận này?


Cần phải nói ngay rằng là một lập luận không đứng vững.


* Quần chúng không thẩm quyền? Đó là một luận cứ không đứng vững nếu chúng ta nhận thức rằng chính quyền thường thường bao trùm màn bí mật trên các vấn đề quốc gia đại sự. Rồi những kẻ có quyền lực, núp sau bức màn này để tha hồ định đoạt. Họ tuyên bố rầm rĩ lên là khó, họ cố tình làm rối beng công việc nào là hồ sơ chồng chất lên cao, nào là tính cách kĩ thuật của vấn đề, để làm công dân chán ngán. Sau đó, kết luận rằng công dân vô thẩm quyền.


Sự thật ra, không có một vấn đề chính trị nào mà không thể giải nghĩa rõ ràng, và vấn đề quần chúng vô thẩm quyền chỉ là bịa đặt và lí do để gạt sự tham gia của công dân ra ngoài.


* Một quyền lực vô chính trị để giải quyết những vấn đề trọng đại? Luận cứ này chỉ là phản ảnh của một ảo tưởng. Cho rằng có thể lấy một quyết định chính trị và chỉ dựa trên một tiêu chuẩn, hay một quan điểm không chính trị, là một ảo tưởng. Bất cứ một người nào, một nhân vật nào, dù là ngự trị ở tận mây xanh đi nữa, khi mà họ quyết định về phương diện chính trị, là đương nhiên họ lấy một quyết định chính trị và họ trở thành một nhân vật chính trị.


Đấy, những luận cứ của những ai chỉ trích sự tham gia không thể đứng vững.


Vẫn biết rằng khi mà công dân có một thái độ hơi tách rời chính trị, không chú ý nhiều đến cuộc sinh hoạt chính trị có thể đó là triệu chứng của một sinh hoạt chính trị ổn định. Thật vậy, khi mà guồng máy chính trị, hành chính của quốc gia chạy đều và trong nước thanh bình, thịnh vượng thì lẽ tất nhiên các vấn đề chính trị kém phần sôi nổi.


Vẫn biết rằng những nhà cầm quyền cần có một chút tự do, một phần tự trị nào đó đối với dư luận, đối với công dân, mới có thể thi hành nhiệm vụ một cách hữu hiệu. Chính quyền không thể làm gì được nếu dư luận cứ thọc gậy bánh xe, cứ quấy nhiễu mãi. Mới lên nắm chính quyền có vài tháng mà mỗi ngày bị gán cho danh từ con rùa thì không làm sao mà làm việc được. Chính quyền – và bất cứ một chính quyền nào cũng cần phải có thì giờ và được yên trí để thi hành nhiệm vụ. Nếu sự tham gia của công dân đưa đến hậu quả nói trên, thì sự tham gia nguy hiểm hơn sự bất tham gia.


Đấy, những chỉ trích sự tham gia chính trị là cho chúng ta phải để ý mực tự trị tương đối của chính quyền. Nhưng không vì lẽ đó mà lại đề cao thái độ thụ động của công dân.


Rất nhiều chế độ chính trị đã bị lật đổ vì đã trốn chính trị và từ khước biến đổi, làm sai lạc sự tham gia chính trị của công dân. Thay vì giữa chính quyền và nhân dân nên có một luồng điện để thông cảm và cùng giải quyết những vấn đề, người ta chỉ nhìn thấy trong những chế độ này, tinh thần vô trách nhiệm, những diễn văn rườm rà, những danh từ trống rỗng.


Chính thể dân chủ đòi hỏi một chính quyền vững mạnh và sự hữu hiệu của những phần tử tinh hoa chính trị có trách nhiệm. Nhưng để có thể lựa chọn những phần tử này một cách tự do, và nếu muốn các phần tử tinh nhuệ ấy có tinh thần trách nhiệm, cần phải có một sự kiểm soát chặt chẽ bởi một dư luận hoạt động và thông thạo. Tức là tham gia chính trị.


Mục II: LẬP TRƯỜNG MÁC-XÍT: SỰ THAM GIA TRONG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ LÀ MỘT TRÒ BỊP BỢM


Đoạn 1: NỘI DUNG CỦA LẬP TRƯỜNG


A. Lập trường này không hẳn là của Marx, mà chính là của Lenin. Theo Lenin không thể có sự tham gia trong xã hội tư bản được. Cho đến ngày nào còn giai cấp đấu tranh, mà còn người bóc lột người, tham gia chính trị – và đồng thời danh từ dân chủ – chỉ là một trò hề.


Tại sao? Vì thượng tầng kiến tạo  – nghĩa là các định chế chính trị  – hoàn toàn bị chi phối bởi hạ tầng cơ sở kinh tế và xã hội. Quốc gia, Nhà nước – cái thượng tầng kiến tạo này – chỉ là bộ máy chỉ huy và đàn áp ở trong tay giai cấp thống trị. Vì thế, trong xã hội tư bản ngày nay, Quốc gia, Nhà nước là công cụ của giai cấp trung lưu. Hiểu như thế, thì tất cả những thủ tục tinh vi, cũng như hệ thống pháp lí và chính trị trong xã hội tư bản, chung quy chỉ là những trò bịp bợm hoặc những phương tiện khéo léo hầu bảo đảm sự thống trị của giai cấp nắm quyền. Trong một khung cảnh chính trị như thế, tất cả những quyền lợi, tự do mà xã hội tư bản đã nhìn nhận cho cá nhân và đoàn thể cùng những hiện tượng tham gia hoàn toàn có tính cách trừu tượng, pháp lí chứ không có một nội dung thực sự. Lenin cũng nhìn nhận rằng dân chủ kiểu Âu-Mỹ ngày nay là một bước tiến, một giai đoạn cần thiết và là một con đường ngắn nhất để tiến đến độc tài vô sản[1].


A. Thuyết Mác-xít không phủ nhận sự có thể có được của một xã hội dân chủ. Nhưng dân chủ chỉ có thể có được sau một cuộc cách mạng phá vỡ xã hội giai cấp ngày nay và thiết lập độc tài vô sản. Mà độc tài vô sản có phải dân chủ không? Lenin, trong quyển Nhà nước và Cách mạng đã cố gắng trả lời câu hỏi quan trọng này. Ông cho rằng không thể phán đoán độc tài vô sản mà không chú ý đến điều kiện sinh hoạt của xã hội trong ấy độc tài vô sản được thiết lập. Vì độc tài vô sản là một chế độ độc tài, một chế độ trong ấy vẫn còn giai cấp này đàn áp giai cấp nọ, một hệ thống cưỡng bách, thế không thể xem độc tài vô sản là một chế độ thực hiện dân chủ được. Vì chỗ nào có cưỡng bách áp bức, chỗ ấy không có dân chủ được. Tuy nhiên, đối với tình trạng trước, độc tài vô sản là một bước tiến trên đường dân chủ, vì trong xã hội tư bản ngày trước, dân chủ là một thứ dân chủ của một thiểu số thống trị đa số; trái lại, với độc tài vô sản là một thứ độc tài của đa số bị bóc lột đối với thiểu số xưa kia từng bóc lột.


Và Lenin kết luận rằng sự tiến triển của độc tài vô sản sẽ đưa đến một xã hội không giai cấp trong ấy nền dân chủ thực sự sẽ nẩy nở mau chóng.


Đoạn 2: NHẬN XÉT


Lập trường Mác-xít trên đây rất là quan trọng. Trên phương diện lí thuyết và triết học, vấn đề được đặt ra là vấn đề tự do của con người. Những người theo chủ nghĩa Mác-Lê quan niệm rằng tự do, không phải là một dữ kiện đồng thời tồn tại với con người, mà là sản phẩm của sự tiến triển của con người. Bởi thế cho nên, con người trở thành tự do, con người tự đặt điều kiện để có tự do và điều kiện ấy là cách mạng vô sản. Thuyết Mác-xít cho rằng nói đến tự do có trước hay đồng thời tồn tại với con người, trong xã hội tư bản, chỉ là ảo tưởng.


Vấn đề đặt ra là thử hỏi tự do là sản phẩm của con người hay là có tính cách siêu việt vượt hẳn mọi tiến triển của con người? Một vấn đề hoàn toàn triết lí, rất quan trọng. Cuộc tranh luận đã và đang tiếp diễn.


Trên phương diện thực thể, cần phải nhận định rằng chủ nghĩa Mác-Lê phủ nhận sự có thể có một thay đổi toàn diện trong xã hội bởi những phương thức bất bạo động. Vì con người chỉ có thể có tự do sau một cuộc cách mạng vô sản và với sự độc tài vô sản.


Tuy nhiên, lịch sử chính trị cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều trường hợp phủ nhận hoàn toàn khẳng định trên của thuyết Mác-xít.


Đó là trường hợp của nhiều xã hội tân tiến ngày nay trong ấy, sự phát triển theo một chiều hướng mà cách mạng và độc tài vô sản có thể nói khó lòng có được thực hiện. Xin nhắc lại rằng theo thuyết Mác-Lê, chính những xã hội tân tiến, kĩ nghệ hóa nhiều nhất lại là những xã hội có thể đưa đến một tình trạng cách mạng bùng nổ.


Nhưng, có thể chắc chắn rằng không phải Hoa Kỳ, Anh Quốc, Đức Quốc, những xứ kĩ nghệ hóa nhiều nhất là những xứ mà tình trạng chính trị đem đến một sự bùng nổ cách mạng và độc tài vô sản. Đó là một sự kiện không thể chối cãi. Trái lại, chính tình trạng kém mở mang lại là tình trạng thúc đẩy cách mạng.


Hơn nữa, lịch sử đã chứng minh rằng thuyết Mác-xít đã quá tin ở sự bất hữu hiệu của thủ tục dân chủ. Vẫn biết rằng lá phiếu không thể đưa đến một thay đổi hẳn căn bản, lá phiếu không phải như thuyết Mác-xít khẳng định – là một ảo tưởng mà chính là phương tiện dân chủ có tính cách quyết định và đã đưa đến những thay đổi quan trọng mà trường hợp Anh Quốc, Pháp Quốc, Hoa Kỳ và các nước Âu Châu là trường hợp điển hình.


Thật ra, vấn đề tham gia chính trị là một vấn đề quan trọng phức tạp và hiện đang thảo luận sôi nổi. Tuy nhiên cần phải xác nhận lại rằng, sự kiện đã chứng minh rằng sự tham gia ấy không phải chỉ là trò bịp bợm.


TỔNG KẾT


Qua những hình thức tham gia chính trị và sau khi phân tích những nguyên do của sự bất tham gia hay thiếu tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị, chúng ta nhìn thấy một sự kiện, đầy hậu quả cho tương lai của nền dân chủ, sự kiện ấy là thái độ thụ động của công dân trong cuộc sinh hoạt chính trị.


Và nếu chúng ta không đồng ý với những người cho rằng thái độ như thế là một triệu chúng của tình thế chính trị tốt đẹp, thì chúng ta bắt buộc phải mong mỏi một sự đảo ngược cái khuynh hướng ấy và phác họa phương tiện để đi đến kết quả. Cần phải nhấn mạnh ngay rằng đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong cuộc phục hồi danh dự tầm quan trọng của chính trị trong nhân sinh quan.


Theo chiều hướng nào? Hai điểm chính: giáo dục công dân và chỉnh đốn cuộc sinh hoạt địa phương.


1. Giáo dục công dân


Như chúng ta đã biết, chính trị có tiếng không tốt. Vì đó mà mọi vấn đề liên quan đến chính trị đều không tốt cả. Và cũng vì đó mà nhiều người thường hay phản đối rằng hành vi của mình có tính cách chính trị. Công dân khi nói đến quyền lợi chung, đến công vụ họ nghĩ ngay đến hành chính hơn là chính trị. Bởi thế, biện hộ cho chính trị, bào chữa cho chính trị là một điều hết sức cần thiết ở mọi trình độ, ở mọi địa hạt mà công dân được huấn luyện. Một vấn đề giáo dục, và vấn đề giáo dục này cần phải đặt ngay tại nhà trường. Vấn đề là khêu gợi cho học sinh ý thức được sự hiện hữu của cuộc sinh hoạt công cộng và tầm quan trọng của vai trò chính trị trong việc chuyển hướng quốc gia.


Thật ra, vấn đề này đã được giải quyết và – như các bạn đã trải qua, học sinh bắt buộc phải học cái môn mà người ta gọi là “Công dân Giáo dục”. Đó là một điều hay nhưng không đạt nhiều kết quả vì người ta làm sai lạc hướng đi của công dân giáo dục. Thật vậy, trong môn Công dân Giáo dục người ta chú trọng quá nhiều đến những giá trị tinh thần luân lí, đến bản chất chung cho tất cả công dân, đến trạng thái nhất trí của toàn dân của quốc gia, dân tộc. Quá lí tưởng! Trái lại, cuộc sinh hoạt chính trị dựa trên những bất đồng, dị biệt, dựa trên sự hòa giải giữa những điểm bất tương đồng, hòa giải những mâu thuẫn. Chính trị dựa trên một sự lựa chọn có thể chấp nhận được cho một số đông người giữa những giải pháp có thể được.


Chính cái tính cách đa nguyên ấy và tính cách tương đối của nhận thức chính trị cần phải được nhấn mạnh.


Hơn nữa, khi nói đến công dân, nghĩa vụ hay quyền lợi công dân, cần phải đặt ngay câu hỏi: khi đề cập đến vấn đề công dân, người ta quan niệm như thế nào? Sở dĩ cần phải đặt câu hỏi như thế là vì, trong xã hội cận đại, khi nói vấn đề công dân, người ta chỉ nghĩ đến – và người ta ở đây thường thường là những người cầm quyền – người ta chỉ nghĩ đến nghĩa vụ, nào có bổn phận tuân hành luật lệ, nào là hi sinh cho Tổ-quốc, cho tương lai dân tộc. Và kinh nghiệm cho biết rằng trong những giờ phút nguy biến, khi chính thể dân chủ trải qua những cuộc khủng hoảng, chính quyền hay dùng tới danh từ công dân với khía cạnh nghĩa vụ mà thôi.


Chúng ta không thể chối cãi rằng nghĩa vụ là đức tính quan trọng của công dân trong chính thể dân chủ, nhưng khi đề cập đến công dân chúng ta không nên quên khía cạnh tham gia. Hô hào, kêu gọi lòng ái quốc, đến công dân, không nhằm nghĩa vụ mà đồng thời phải chú trọng đến công việc đem lại cho công dân một niềm tin, một ý nghĩa và tinh thần trách nhiệm của họ.


Hô hào, kêu gọi đến sự tham gia của công dân mà không gợi cho họ một giá trị nào, giá trị chính trị, không gợi cho họ một công cuộc thực hiện một mục tiêu nhất định, mà trái lại chỉ nhấn mạnh những nguyên tắc tinh thần luân lí, nhấn mạnh khía cạnh bổn phận, làm như thế là một khuyết điểm. Có thể sự tham gia của công dân được tăng cường nhưng sự tăng cường đó chỉ có tính cách bề ngoài. Công dân không ý thức tầm quan trọng của chính trị. Công dân có thể làm tròn nghĩa vụ của mình, có thể thực hiện một vài hành động chính trị, nhưng không nắm vững ý nghĩa thực sự. Mà, hành động không đủ, ý chí tham gia mới là cần thiết, và ý chí tham gia này do nơi sự chú ý đến cuộc sinh hoạt chính trị.


Nếu không ham muốn tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị, nếu không ý thức rằng mình tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị, thì công dân không dự vào việc quyết định số mệnh quốc gia và họ chỉ còn là một yếu tố, một đơn vị, ít nhiều thụ động, của một guồng máy độc đoán dùng họ mà thôi.


Giáo dục công dân không những ở nhà trường và nhấn mạnh đến khía cạnh tham gia, mà còn là một vấn đề quan trọng của chính đảng. Nói đến vấn đề giáo dục công dân và chính đảng là phải nghĩ ngay đến công việc cải tổ và đem lại nguồn sinh lực cho hệ thống chính đảng và phong trào chính trị.


Như chúng ta đã biết những tổ chức này rất có nhiều tiếng tăm, nhất là ở Việt Nam, nhưng toàn là tiếng tăm bất hảo. Vì chính đảng thường thường là một nhóm người họp nhau để có một lực lượng, rồi dùng lực lượng này với tính cách lực lượng áp lực nhằm mục đích chiếm ngôi thứ.


Công cuộc cải tổ những chính đảng và phong trào chính trị nhằm đem lại một quan niệm mới và thiết thực về vai trò của chính đảng trong cuộc sinh hoạt chính trị là một vấn đề cấp bách.


Chính đảng không phải chỉ là một dụng cụ, để bảo vệ quyền lợi của một nhóm người hay một thành phần xã hội; chính đảng còn phải là một phương tiện để đề cao một chủ nghĩa và thực hiện một chương trình. Quan niệm như thế thì vai trò chính yếu của chính đảng là vai trò trung gian. Một mặt chính đảng đặt vấn đề chính quyền đúng với trình độ hiểu biết của công dân; mặt khác chính đảng giúp vào công việc thể hiện sự tín nhiệm của công dân vào chính quyền.


Đặt các vấn đề chính quyền đúng với trình độ hiểu biết của công dân là như thế này: công dân, đa số, không thể nào thấu hiểu những vấn đề Chính phủ, những vấn đề càng ngày càng phức tạp và có tính cách chuyên môn, vì thế mà đã có khuynh hướng giao cho các nhà chuyên môn giải quyết các vấn đề này. Vì công dân không hiểu mà chính đảng phải thông tin và có thể thông tin. Chính đảng là một nhà trường tự do, cần thiết cho việc điều hành nền dân chủ. Công tác của Chính phủ càng phức tạp, khó khăn chừng nào, thì công việc thông tin, giải thích càng sâu xa và đầy đủ chừng ấy. Công dân chỉ thích, chỉ chú ý những gì mà họ biết và chỉ kiểm soát những gì mà họ hiểu.


Công dân có thể không nắm vững được tất cả các quyết định chính trị trong chi tiết. Nhưng họ có thể thấu hiểu đâu là nguyên nhân, đâu là tinh thần và họ phải có thể xét đoán được những giải pháp mà Chính phủ đưa ra. Đấy chính đảng và phong trào chính trị đóng vai trò quan trọng là giáo dục chính trị công dân.


Không những chính đảng đặt vấn đề chính trị đúng tầm hiểu biết của công dân, các tổ chức này còn giúp vào công việc thể hiện sự tín nhiệm của công dân đối với chính quyền. Tại sao chính đảng giúp vào việc thể hiện sự tín nhiệm?


Chính thể dân chủ dựa trên một phương thức tổ chức, trên một hình thức cấu tạo về phương diện tín nhiệm cũng như về phương diện kiểm soát. Nói rằng công dân tín nhiệm chính quyền chỉ có nghĩa là công dân tín nhiệm chính quyền qua sự trung gian của đại diện. Danh từ đại diện ở đây bao gồm không những đại diện chính thức – các vị dân biểu Quốc hội mà luôn cả cán bộ của chính đảng. Vì những cán bộ của chính đảng, những phần tử ưu tú của chính đảng là thành phần của đoàn thể nắm chính quyền.


Tóm lại, không thể có một nền dân chủ linh động nếu không có một sự tín nhiệm của công dân đối với các phần tử ưu tú của chính đảng và những phong trào chính trị. Nhưng cần phải nhấn mạnh ngay rằng sự tín nhiệm này, cái cảm tính này không có nghĩa là thoái vị. Tín nhiệm nhưng đồng thời được giáo dục, huấn luyện người dân thấu hiểu các vấn đề và tham gia thường xuyên vào việc định hướng cho tương lai. Và chúng ta có thể kết luận rằng không có nhà trường nào quý giá hơn nhà trường chính đảng và không có chỗ nào công dân tích cực tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị bằng chính đảng.


Nói như thế không có nghĩa là chúng ta đặt tất cả hi vọng vào chính đảng. Có lẽ cũng cần thêm rằng, chúng ta không có một mảy may hi vọng vào khả năng của chính đảng hiện nay để đảm đương vai trò ấy, vai trò giáo dục và trung gian giữa chính quyền và công dân. Những trò gian lận, bịp bợm của họ, những sự dối trá, những chương trình, hành động mị dân của họ là những yếu tố đưa đến sự mất uy tín của chính đảng hiện nay.


Vậy nhu cầu hiện tại  – để tăng cường sự tham gia chính trị của công dân – là gầy dựng lại những tổ chức chính trị có trách nhiệm. Cần phải thành thật mà nhận rằng công cuộc xây dựng này đòi hỏi một công trình nặng nề và không bao giờ hoàn hảo. Soạn thảo một bản Hiến pháp dễ gấp trăm lần việc thiết lập và khích động một hệ thống chính đảng đáp ứng với nhu cầu của một xã hội tân tiến.


Nhưng dù sao, công tác chính trị là công tác trường kỳ và cố gắng hàng ngày. Giữa một trạng thái nô lệ, lỗi thời và một tình trạng dân chủ bề ngoài, không có lối thoát nào khác.


2. Chỉnh đốn cuộc sinh hoạt địa phương


Giáo dục công dân đem lại cho họ một niềm tin và khích lệ họ chú ý đến cuộc sinh hoạt chính trị chưa hẳn là đủ. Còn cần phải duy trì phong trào này. Cuộc sinh hoạt chính trị địa phương là dịp để công dân tham gia vào chính trị.


Các chính trị gia đều đồng ý rằng cái mà người ta gọi là “chính phủ địa phương” là nền tảng của chính thể dân chủ và sự tham gia của công dân vào đời sống chính trị xã thôn là trường học quý giá trong việc giáo dục công dân. Chính ngay trong thôn xã là nơi tập trung sức mạnh của những dân tộc tự do. Những định chế xã thôn đối với tự do, dân chủ có thể ví như những trường tiểu học đối với khoa học. Chính ngay ở trường tiểu học mà con em tìm thấy những bước đầu tiên của kiến thức. Chính ngay ở cuộc sống xã thôn mà công dân thưởng thức tự do, dân chủ. Cuộc sinh hoạt địa phương đem lại và duy trì tinh thần công cộng, một quan niệm của sự ích lợi của làng của nước. Cuộc sinh hoạt địa phương đặt những vấn đề đúng tầm hiểu biết của họ, là dịp họ luyện tập tham gia. Những định chế gần họ, chính quyền kề bên họ, và họ thấy ngay đâu là quyền lợi chung và tinh thần trách nhiệm.


Đem lại một luồng sinh lực mới cho cuộc sinh hoạt địa phương là một công tác tối cần. Vì ở địa phương, công dân ý thức tinh thần tự do, ý thức trạng thái một công dân chứ không phải con người nô lệ.


Ý tưởng tham gia – và cuộc sinh hoạt dân chủ – có nghĩa một sự tán đồng của mỗi người và của mọi người, tán đồng một công trình cùng nhau trù liệu, một công trình có tính cách siêu việt đầy hứa hẹn.


Sự tán đồng này dĩ nhiên đòi hỏi mỗi người một sự gia nhập hoàn toàn, sức can đảm để khắc phục khó khăn có thể xẩy đến và, đôi khi, nhiều hi sinh đau đớn. Vì không có một công trình vĩ đại nào mà không có sự hi sinh về con người cũng như về khát vọng ích kỉ.


Hi sinh, làm sao có được nếu không có một động lực gây một mối cảm tình sâu rộng và một bầu không khí nồng nhiệt tập đoàn?


Nghĩ cho cùng, ý tưởng tham gia nhấn mạnh một sự phủ nhận cá nhân và đồng thời đề cao sự thực hiện giá trị bản thân trong công trình xây dựng chung.



(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.





[1] Tức “độc tài của giai cấp vô sản” (dictature du prolétariat), tác giả dịch đúng nghĩa, khác với cách dịch của Đảng Cộng sản Việt Nam là chuyên chính vô sản. (p&r).

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 06, 2013 16:01

September 5, 2013

Ngoại bang & Nước bạn

Tưởng Năng Tiến


Dân vô tín bất lập
Khổng Tử

Cuối tháng rồi – từ Bankok – biên tập viên (RFA) đã có lời tường thuật, với đôi chút băn khoăn:


“Đại diện Mạng lưới các bloggers Việt Nam hôm nay 28  tháng 8 tiếp tục đến trao Tuyên bố 258 cũng như trao đổi vấn đề nhân quyền ở Việt nam với Đại sứ quán Đức ở Hà Nội, sau khi họ vừa thực hiện được hoạt động đó hôm 23 tháng 8 với Đại sứ quán Úc.


Tuy nhiên việc làm đó có phải ‘thuận buồm, xuôi gió’ hay không?”


Câu hỏi này hoàn toàn xác đáng nhưng dường như lại không phải là nỗi bận tâm của một trong những người trong cuộc. Qua FB, blogger Phương Bích tâm sự:


“Là một trong những người ký vào bản tuyên bố 258, đương nhiên tôi nhận lời tham gia trao tuyên bố này cho sứ quán Đức, vào sáng ngày 28/8. Thú thực, tuy các cuộc trao tuyên bố 258 trước đó cho các sứ quán Thụy Điển, Úc, Mỹ đều diễn ra bình thường, nhưng tôi vẫn khá hồi hộp. Tôi chỉ nghĩ duy nhất về một điều: làm thế nào để đến được đó?



Đến gần sứ quán, từ xa đã thấy mấy người đàn ông cả Tây lẫn ta đang đứng trên vỉa hè, ngay trước cổng… Ngay lúc đó, tôi đã cảm thấy được che chở, mặc dù mình đang đứng ngay trên đất nước mình. Một cái gì đó ấm áp, tin cậy khiến tôi rất xúc động…


Vào đến phòng, qua giới thiệu, chúng tôi mới biết những người Đức đứng đợi chúng tôi ngoài cổng chính là tham tán và trưởng phòng văn hóa chính trị của sứ quán Đức. Thực sự tôi rất ngạc nhiên. Họ là đại diện cho một trong những đất nước được coi là văn minh hàng đầu thế giới, nhưng lại sẵn sàng đứng đợi những người dân thường như chúng tôi, để đón tiếp và lắng nghe những nguyện vọng tâm tư của những người chẳng có một chút địa vị nào trong xã hội. Đến bao giờ, quan chức Việt Nam mới đón tiếp người dân của mình được như thế này?


Bỗng nhiên tôi thấy tá»§i thân ghê gớm. Đất nước mình lúc nào cÅ©ng tá»± hào có 4000 năm lịch sá»­, vậy mà hôm nay con cháu Người vẫn nghèo khổ, vẫn thua xa thiên hạ một trời một vá»±c. Bên cạnh họ, năm người phụ nữ chúng tôi đủ lứa tuổi, thật nhỏ bé và yếu đuối. Có lẽ những điều đang xảy ra với chúng tôi và những người dân Việt Nam đang phải chịu đựng, thật xa lạ và khó hiểu đối với họ…


Có thể ai đó cười mỉa mai, rằng sao phải cầu tới ngoại bang? Nếu vậy, xin hầu các quý vị vào dịp khác.”


Hậu vận cá»§a Phương Bích, và những bạn đồng hành – rồi ra – chưa chắc đã “thuận buồm xuôi gió” nên đợi “vào dịp khác” (e) bị hÆ¡i lâu. Trong lúc tôi lại quá rảnh, quá an toàn, và cÅ©ng hÆ¡i chán đời (hay nói theo kiểu Mỹ là đang rất boring) nên xin phép được tiếp nối ngay câu chuyện dở dang này, cho nó… đỡ buồn – chút đỉnh!


Tưởng gì chớ “cầu tới ngoại bang” – trong những năm gần đây – là chuyện đã diễn ra một cách rất hồn nhiên, và tuyệt nhiên chả thấy ai có chút băn khoăn nào ráo. Xin đơn cử một thí dụ, qua một lá đơn đề ngày 17 tháng 6 năm 2009:



V/v Bắt giữ người và xe máy trái pháp luật, lập hồ sơ giả, biên bản giả ép mẹ tôi đi tù


Kính gửi:UB Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, các cơ quan thông tin ngôn luận trong và ngoài nước.


Tên tôi là Nguyễn Thị Hương, 23 tuổi, hộ khẩu tại Xóm Vàng, Hoàng Đan, Tam Dương, Vĩnh Phúc.


Tôi xin được trình bày với nội dung như sau:


…………


Với là đơn này, kính mong các quý cơ quan, ân nhân… hết sức lên tiếng cứu giúp mẹ tôi đang tuyệt thực trong nhà tù cộng sản, lên tiếng cứu giúp một người dân khiếu kiện lâu năm bị đàn áp và bắt bớ vô tội vạ.


Hà Nội, 17/6/2009

Nguyễn Thị Hương

(Liên lạc : +841223247067, Chị Khang +841673061848, chị Mai +84978105604)


Ông Phạm Đỉnh, chủ nhiệm trang – một trong những cơ quan thông tin ngoài nước đã đăng lại toàn văn tờ đơn trên – đã có viết thêm đôi lời phụ chú, xem buồn thấy rõ:


“Đơn tố cáo này của cô Hương được gửi tới ‘Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ’. Chắc chắn nó sẽ không đến được người nhận, Cao Uỷ Nhân Quyền LHQ có những quan tâm lớn khác, nhưng đây chính là điều bi đát trong hoàn cảnh đất nước hiện nay: người dân oan ức không còn biết cầu mong ở ai khi mà chính nhà cầm quyền là kẻ cướp! Họ chỉ còn hy vọng mỏng manh ở một công lý rất xa xôi.”


Cũng đúng vào hôm mà cô Phương Bích, và các đại diện mạng lưới bloggers đang “trao đổi vấn đề nhân quyền ở Việt nam với Đại sứ quán Đức ở Hà Nội” thì một công dân Việt Nam (khác) lại tiếp tục đặt niềm “hy vọng mỏng manh” của mình, qua một tờ đơn khác:


Đơn Kêu Cứu


Phú Yên, ngày 28/8/2013


Kính gởi:


- Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon


- Tổng Thống Hoa Kỳ Obama và Chính Phủ Các Nước Dân Chủ Trên Thế Giới


- Chủ Tịch Thượng Viện và Hạ Nghị Viện của Hoa Kỳ và các Nước

- Ủy Hội Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ

- Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam


- Các Tổ Chức Nhân Quyền Trên Thế Giới

- Các Cơ Quan Truyền Thông Thế Giới


- Các Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Hải Ngoại

- Ban Trị Sự Giáo hội PGHH Trung Ương tại Hải Ngoại


- Các cơ quan thông tấn trong và ngoài nước, đài RFA…


Tôi tên NGUYỄN THỊ KIM LAN, sinh năm 1957, hiện ngụ tại 17/6 Nguyễn Trãi, phường 5, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, Việt Nam. Số điện thoại nhà 01226606052.


Hôm nay, tôi xin trình bày về sá»± việc chồng tôi bị công an tỉnh Phú Yên bắt tạm giam tại trại tam giam tỉnh Phú Yên đã 7 tháng nay mà cho tới nay chúng tôi vẫn chưa rõ thông tin…


Trong tình trạng vô cùng lo lắng cho tính mạng chồng tôi, và trong tình trạng người già lại mang trong người nhiều căn bệnh  như bệnh đau bao tá»­, huyết áp cao… tôi không biết tình trạng cá»§a chồng tôi như thế nào, tôi kính xin Liên Hiệp Quốc, Chính phá»§ các nước, các Tổ chức Nhân quyền, các CÆ¡ quan Truyền thông, các Đoàn thể Người Việt Hải ngoại, các CÆ¡ quan yêu chuộng tá»± do trên thế giới lên tiếng và can thiệp giúp chồng tôi, giúp tôi biết được tình hình chồng tôi, và được trả về sống với gia đình.


Tôi cùng gia đình xin hết lòng cám ơn sự giúp đỡ can thiệp của Quý Tổ Chức và Quý Vị.


Trân trọng kính chào


Cô Nguyễn Thị Hương và bà Nguyễn Thị Kim Lan, cÅ©ng như bao nhiêu triệu công dân Việt khác – rõ ràng – không còn chút tin tưởng (nhỏ nhoi) nào vào luật pháp và giới lãnh đạo ở đất nước này. Khi mất mẹ, mất chồng, hay mất xe (đạp) họ chỉ cầu mong đến sá»± “giúp đỡ” hay “can thiệp” cá»§a… Tổng Thư ký Liên Hiệp quốc và các tổ chức nhân quyền trên thế giới!


Mọi người, xem chừng, đều… hướng ngoại. Hay nói theo cách dùng chữ cá»§a blogger Phương Bích là đều… “cầu tới ngoại bang”!


Sao lại kỳ vậy cà?


Sao một dân tộc vốn có truyền thống “chống ngoại bang” và “vẫn tự hào vì đã đánh thắng ba đế quốc to” đùng lại đùng đùng đâm ra “hảo ngoại” (hay “vọng ngoại,” hoặc “sùng ngoại”) dữ vậy – Trời?


Câu trả lời có thể tìm được sau khi nghe (qua) một…  Tiếng dân kêu:


Hải phòng 16-8-2010


Kính gửi:Giáo sư Nguyễn Huệ Chi – trang mạng boxitvn.net


Tôi Bùi Thị Đóa 72 tuổi, văn hóa lớp 6 bổ túc, trú 550 Tôn đức Thắng HP. Xin được hỏi và nhờ ông giúp đỡ như sau:


Tôi kêu cứu theo Hiến pháp, luật pháp VN, từ quan chức thấp đến cao nhất của Nhà nước, cụ thể là:


1/  Bộ chính trị và UBTV quốc hội: 120 đơn


Ô. Mạnh  Tổng bí thư:                 19 đơn


Ô. Triết  Chủ tịch nước:               25 đơn


Ô.  Trọng Chủ tịch quốc hội:       17 đơn


Ô.   Dũng Thủ tướng CP:             23 đơn


Dù vốn là một kẻ rất vô tâm, và dù chưa đọc hết tờ đơn (xem nội dung “kêu cứu” chuyện gì) tôi cÅ©ng đã cảm thấy vô cùng… ái ngại. Tôi không ái ngại vì hàng trăm lá đơn không người nhận cá»§a bà Bùi Thị Đoá. Tôi cÅ©ng không ái ngại gì vì sá»± “vô tình” cá»§a ông Tổng Bí thư, ông Chá»§ tịch Nước, ông Chá»§ tịch Quốc hội, hay ông Thá»§ tướng. Tôi chỉ ái ngại cho người (duy nhất) chịu nhận tờ đơn là giáo sư Nguyễn Huệ Chi – một nhân vật mà tôi e rằng chưa chắc đã có thể bảo vệ được trang mạng, cÅ©ng như sinh mạng, cá»§a chính mình trong thời buổi (nhiễu nhương) này!


[image error]Vấn đề cũng không chỉ giới hạn ở từng cá nhân. Ở bình diện tập thể, hình ảnh “những người dân oan không còn biết cầu mong ở ai” này – cùng với những biểu ngữ viết bằng ngoại ngữ, sai lỗi chính tả tùm lum – cũng đã xuất hiện mỗi lúc một nhiều, ở khắp mọi nơi.


Thôi thì cũng xin giới lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam hai chữ “đại xá”, chả thèm chấp nhất làm chi với (cái) đám dân đen vốn “ngu quá lợn” ở xứ sở này. Tuy nhiên, nếu rảnh, tưởng quí vị cũng nên xem qua bản “Tuyên bố của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền” và “Kháng thư của Khối 8406” về Nghị định 72 cho biết sự tình. Cả hai nhóm người (đạo cũng như đời) này đều “kính gửi” sự quan tâm của họ đến:


- Quý Chính phủ các Quốc gia tự do dân chủ


- Quý Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc


- Quý Tổ chức Nhân quyền hoàn vũ


- Quý CÆ¡ quan truyền thông quốc tế và quốc nội…


Nói cách khác là mọi tầng lớp dân chúng đều đã đồng lòng…  phá»§ nhận sá»± “lãnh đạo anh minh” cá»§a Đảng và Nhà nước. Còn nói theo ông Phạm Đỉnh, chá»§ nhiệm trang Thông luận, là thiên hạ đã mặc nhiên xem “chính nhà cầm quyền là kẻ cướp” rồi!


Khi kẻ cướp đã chiếm nhà, chĩa súng vào đầu thì kêu cứu là điều không thể tránh, và việc làm này không thể xem là “cầu tới ngoại bang”. Miễn là chúng ta đừng kêu (nhầm) đồng bọn của chúng, cái thằng khốn nạn cũng chuyên nghề vừa đang đánh trống vừa ăn cướp, lại đang rập rình trước


© 2013 Tưởng Năng Tiến & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 05, 2013 14:59

Ngoại bang & Nước bạn

Tưởng Năng Tiến


Dân vô tín bất lập
Khổng Tử

Cuối tháng rồi – từ Bankok – biên tập viên (RFA) đã có lời tường thuật, với đôi chút băn khoăn:


Đại diện Mạng lưới các bloggers Việt Nam hôm nay 28  tháng 8 tiếp tục đến trao Tuyên bố 258 cũng như trao đổi vấn đề nhân quyền ở Việt nam với Đại sứ quán Đức ở Hà Nội, sau khi họ vừa thực hiện được hoạt động đó hôm 23 tháng 8 với Đại sứ quán Úc.


Tuy nhiên việc làm đó có phải ‘thuận buồm, xuôi gió’ hay không?


Câu hỏi này hoàn toàn xác đáng nhưng dường như lại không phải là nỗi bận tâm của một trong những người trong cuộc. Qua FB, blogger Phương Bích tâm sự:


Là một trong những người ký vào bản tuyên bố 258, đương nhiên tôi nhận lời tham gia trao tuyên bố này cho sứ quán Đức, vào sáng ngày 28/8. Thú thực, tuy các cuộc trao tuyên bố 258 trước đó cho các sứ quán Thụy Điển, Úc, Mỹ đều diễn ra bình thường, nhưng tôi vẫn khá hồi hộp. Tôi chỉ nghĩ duy nhất về một điều: làm thế nào để đến được đó?



Đến gần sứ quán, từ xa đã thấy mấy người đàn ông cả Tây lẫn ta đang đứng trên vỉa hè, ngay trước cổng… Ngay lúc đó, tôi đã cảm thấy được che chở, mặc dù mình đang đứng ngay trên đất nước mình. Một cái gì đó ấm áp, tin cậy khiến tôi rất xúc động…


Vào đến phòng, qua giới thiệu, chúng tôi mới biết những người Đức đứng đợi chúng tôi ngoài cổng chính là tham tán và trưởng phòng văn hóa chính trị của sứ quán Đức. Thực sự tôi rất ngạc nhiên. Họ là đại diện cho một trong những đất nước được coi là văn minh hàng đầu thế giới, nhưng lại sẵn sàng đứng đợi những người dân thường như chúng tôi, để đón tiếp và lắng nghe những nguyện vọng tâm tư của những người chẳng có một chút địa vị nào trong xã hội. Đến bao giờ, quan chức Việt Nam mới đón tiếp người dân của mình được như thế này?


Bỗng nhiên tôi thấy tủi thân ghê gớm. Đất nước mình lúc nào cũng tự hào có 4000 năm lịch sử, vậy mà hôm nay con cháu Người vẫn nghèo khổ, vẫn thua xa thiên hạ một trời một vực. Bên cạnh họ, năm người phụ nữ chúng tôi đủ lứa tuổi, thật nhỏ bé và yếu đuối. Có lẽ những điều đang xảy ra với chúng tôi và những người dân Việt Nam đang phải chịu đựng, thật xa lạ và khó hiểu đối với họ…


Có thể ai đó cười mỉa mai, rằng sao phải cầu tới ngoại bang? Nếu vậy, xin hầu các quý vị vào dịp khác.


Hậu vận của Phương Bích, và những bạn đồng hành – rồi ra – chưa chắc đã “thuận buồm xuôi gió” nên đợi “vào dịp khác” (e) bị hơi lâu. Trong lúc tôi lại quá rảnh, quá an toàn, và cũng hơi chán đời (hay nói theo kiểu Mỹ là đang rất boring) nên xin phép được tiếp nối ngay câu chuyện dở dang này, cho nó… đỡ buồn – chút đỉnh!


Tưởng gì chớ “cầu tới ngoại bang” – trong những năm gần đây – là chuyện đã diễn ra một cách rất hồn nhiên, và tuyệt nhiên chả thấy ai có chút băn khoăn nào ráo. Xin đơn cử một thí dụ, qua một lá đơn đề ngày 17 tháng 6 năm 2009:



V/v Bắt giữ người và xe máy trái pháp luật, lập hồ sơ giả, biên bản giả ép mẹ tôi đi tù


Kính gửi:UB Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, các cơ quan thông tin ngôn luận trong và ngoài nước.


Tên tôi là Nguyễn Thị Hương, 23 tuổi, hộ khẩu tại Xóm Vàng, Hoàng Đan, Tam Dương, Vĩnh Phúc.


Tôi xin được trình bày với nội dung như sau:


…………


Với là đơn này, kính mong các quý cơ quan, ân nhân… hết sức lên tiếng cứu giúp mẹ tôi đang tuyệt thực trong nhà tù cộng sản, lên tiếng cứu giúp một người dân khiếu kiện lâu năm bị đàn áp và bắt bớ vô tội vạ.


Hà Nội, 17/6/2009

Nguyễn Thị Hương

(Liên lạc : +841223247067, Chị Khang +841673061848, chị Mai +84978105604)


Ông Phạm Đỉnh, chủ nhiệm trang – một trong những cơ quan thông tin ngoài nước đã đăng lại toàn văn tờ đơn trên – đã có viết thêm đôi lời phụ chú, xem buồn thấy rõ:


Đơn tố cáo này của cô Hương được gửi tới ‘Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ’. Chắc chắn nó sẽ không đến được người nhận, Cao Uỷ Nhân Quyền LHQ có những quan tâm lớn khác, nhưng đây chính là điều bi đát trong hoàn cảnh đất nước hiện nay: người dân oan ức không còn biết cầu mong ở ai khi mà chính nhà cầm quyền là kẻ cướp! Họ chỉ còn hy vọng mỏng manh ở một công lý rất xa xôi.


Cũng đúng vào hôm mà cô Phương Bích, và các đại diện mạng lưới bloggers đang “trao đổi vấn đề nhân quyền ở Việt nam với Đại sứ quán Đức ở Hà Nội” thì một công dân Việt Nam (khác) lại tiếp tục đặt niềm “hy vọng mỏng manh” của mình, qua một tờ đơn khác:


Đơn Kêu Cứu


Phú Yên, ngày 28/8/2013


Kính gởi:


- Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-moon


- Tổng Thống Hoa Kỳ Obama và Chính Phủ Các Nước Dân Chủ Trên Thế Giới


- Chủ Tịch Thượng Viện và Hạ Nghị Viện của Hoa Kỳ và các Nước

- Ủy Hội Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế Hoa Kỳ

- Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam


- Các Tổ Chức Nhân Quyền Trên Thế Giới

- Các Cơ Quan Truyền Thông Thế Giới


- Các Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Hải Ngoại

- Ban Trị Sự Giáo hội PGHH Trung Ương tại Hải Ngoại


- Các cơ quan thông tấn trong và ngoài nước, đài RFA…


Tôi tên NGUYỄN THỊ KIM LAN, sinh năm 1957, hiện ngụ tại 17/6 Nguyễn Trãi, phường 5, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, Việt Nam. Số điện thoại nhà 01226606052.


Hôm nay, tôi xin trình bày về sự việc chồng tôi bị công an tỉnh Phú Yên bắt tạm giam tại trại tam giam tỉnh Phú Yên đã 7 tháng nay mà cho tới nay chúng tôi vẫn chưa rõ thông tin…


Trong tình trạng vô cùng lo lắng cho tính mạng chồng tôi, và trong tình trạng người già lại mang trong người nhiều căn bệnh  như bệnh đau bao tử, huyết áp cao… tôi không biết tình trạng của chồng tôi như thế nào, tôi kính xin Liên Hiệp Quốc, Chính phủ các nước, các Tổ chức Nhân quyền, các Cơ quan Truyền thông, các Đoàn thể Người Việt Hải ngoại, các Cơ quan yêu chuộng tự do trên thế giới lên tiếng và can thiệp giúp chồng tôi, giúp tôi biết được tình hình chồng tôi, và được trả về sống với gia đình.


Tôi cùng gia đình xin hết lòng cám ơn sự giúp đỡ can thiệp của Quý Tổ Chức và Quý Vị.


Trân trọng kính chào


Cô Nguyễn Thị Hương và bà Nguyễn Thị Kim Lan, cũng như bao nhiêu triệu công dân Việt khác – rõ ràng – không còn chút tin tưởng (nhỏ nhoi) nào vào luật pháp và giới lãnh đạo ở đất nước này. Khi mất mẹ, mất chồng, hay mất xe (đạp) họ chỉ cầu mong đến sự “giúp đỡ” hay “can thiệp” của… Tổng Thư ký Liên Hiệp quốc và các tổ chức nhân quyền trên thế giới!


Mọi người, xem chừng, đều… hướng ngoại. Hay nói theo cách dùng chữ của blogger Phương Bích là đều… “cầu tới ngoại bang”!


Sao lại kỳ vậy cà?


Sao một dân tộc vốn có truyền thống “chống ngoại bang” và “vẫn tự hào vì đã đánh thắng ba đế quốc to” đùng lại đùng đùng đâm ra “hảo ngoại” (hay “vọng ngoại,” hoặc “sùng ngoại”) dữ vậy – Trời?


Câu trả lời có thể tìm được sau khi nghe (qua) một…  Tiếng dân kêu:


Hải phòng 16-8-2010


Kính gửi:Giáo sư Nguyễn Huệ Chi – trang mạng boxitvn.net


Tôi Bùi Thị Đóa 72 tuổi, văn hóa lớp 6 bổ túc, trú 550 Tôn đức Thắng HP. Xin được hỏi và nhờ ông giúp đỡ như sau:


Tôi kêu cứu theo Hiến pháp, luật pháp VN, từ quan chức thấp đến cao nhất của Nhà nước, cụ thể là:


1/  Bộ chính trị và UBTV quốc hội: 120 đơn


Ô. Mạnh  Tổng bí thư:                 19 đơn


Ô. Triết  Chủ tịch nước:               25 đơn


Ô.  Trọng Chủ tịch quốc hội:       17 đơn


Ô.   Dũng Thủ tướng CP:             23 đơn


Dù vốn là một kẻ rất vô tâm, và dù chưa đọc hết tờ đơn (xem nội dung “kêu cứu” chuyện gì) tôi cũng đã cảm thấy vô cùng… ái ngại. Tôi không ái ngại vì hàng trăm lá đơn không người nhận của bà Bùi Thị Đoá. Tôi cũng không ái ngại gì vì sự “vô tình” của ông Tổng Bí thư, ông Chủ tịch Nước, ông Chủ tịch Quốc hội, hay ông Thủ tướng. Tôi chỉ ái ngại cho người (duy nhất) chịu nhận tờ đơn là giáo sư Nguyễn Huệ Chi – một nhân vật mà tôi e rằng chưa chắc đã có thể bảo vệ được trang mạng, cũng như sinh mạng, của chính mình trong thời buổi (nhiễu nhương) này!


Vấn đề cũng không chỉ giới hạn ở từng cá nhân. Ở bình diện tập thể, hình ảnh “những người dân oan không còn biết cầu mong ở ai” này – cùng với những biểu ngữ viết bằng ngoại ngữ, sai lỗi chính tả tùm lum – cũng đã xuất hiện mỗi lúc một nhiều, ở khắp mọi nơi.


Thôi thì cũng xin giới lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam hai chữ “đại xá”, chả thèm chấp nhất làm chi với (cái) đám dân đen vốn “ngu quá lợn” ở xứ sở này. Tuy nhiên, nếu rảnh, tưởng quí vị cũng nên xem qua bản “Tuyên bố của Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền”“Kháng thư của Khối 8406” về Nghị định 72 cho biết sự tình. Cả hai nhóm người (đạo cũng như đời) này đều “kính gửi” sự quan tâm của họ đến:


- Quý Chính phủ các Quốc gia tự do dân chủ


- Quý Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc


- Quý Tổ chức Nhân quyền hoàn vũ


- Quý Cơ quan truyền thông quốc tế và quốc nội…


Nói cách khác là mọi tầng lớp dân chúng đều đã đồng lòng…  phủ nhận sự “lãnh đạo anh minh” của Đảng và Nhà nước. Còn nói theo ông Phạm Đỉnh, chủ nhiệm trang Thông luận, là thiên hạ đã mặc nhiên xem “chính nhà cầm quyền là kẻ cướp” rồi!


Khi kẻ cướp đã chiếm nhà, chĩa súng vào đầu thì kêu cứu là điều không thể tránh, và việc làm này không thể xem là “cầu tới ngoại bang”. Miễn là chúng ta đừng kêu (nhầm) đồng bọn của chúng, cái thằng khốn nạn cũng chuyên nghề vừa đang đánh trống vừa ăn cướp, lại đang rập rình trước


© 2013 Tưởng Năng Tiến & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 05, 2013 14:59

September 4, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (9)

Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4, kì 5, kì 6, kì 7, kì 8


CHƯƠNG II: NHỮNG HÌNH THỨC THAM GIA CHÍNH TRỊ


Mục I: CÔNG DÂN CHÚ TRỌNG ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ


Một trong những hình thức tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị là chú trọng đến các vấn đề chính trị. Vì có chú trọng mới am hiểu sự phức tạp của các vấn đề, mới phán đoán một cách chính xác nhà cầm quyền và khi bầu cử mới sử dụng lá phiếu một cách đứng đắn. Cần phải thành thật mà nhận định rằng tỉ số công dân chú trọng đến các vấn đề chính trị rất kém. Thật vậy, qua những cuộc tìm hiểu dư luận, những cuộc điều tra dân ý, người ta đã có những kết quả như sau:



20% chú ý thật đến chính trị.
40% chỉ biết sơ sài về chính trị.
40% không biết gì về chính trị.

Và kết quả này là kết quả chung của rất nhiều nước hiện nay trên thế giới. Tỉ số quá kém này còn thấp hơn nữa trong những nước vừa thâu hồi nền độc lập trong ấy mức sống còn kém và trình độ hiểu biết chưa được phổ thông nhiều.


Khi nói đến công dân chú trọng đến các vấn đề chính trị, chúng ta cần phải nhấn mạnh hai khía cạnh quan trọng là tìm hiểu chính trị và có lập trường chính trị: công dân ít tìm hiểu chính trị và cũng ít có lập trường chính trị.


Đoạn 1: TÌM HIỂU CHÍNH TRỊ


Tìm hiểu chính trị, tức là sự dò thăm, săn tin tức, theo dõi các vấn đề chính trị. Làm thế nào để theo dõi chính trị? Không có phương tiện nào hơn là báo chí. Và ở đây chúng ta đứng trước một vấn đề cực kỳ quan trọng vấn đề mối tương quan giữa chính trị và báo chí. Thật vậy, công dân chỉ bàn cãi chính trị, chú ý đến cuộc sinh hoạt xuyên qua báo chí. Thế mà báo chí ngày nay lại ít nói đến chính trị. Có một hiện tượng tổng quát chung cho các nước trên thế giới – trừ một vài biệt lệ, một hiện tượng đầy ý nghĩa là càng ngày càng khó mà cho xuất bản một tờ báo hoàn toàn chính trị. Và kinh nghiệm cũng cho biết rằng những tờ báo có một mầu sắc chính trị, có một lập trường chính trị rõ rệt lại thấy độc giả của mình ngày càng kém đi.


Vẫn biết rằng làm báo là làm tròn sứ mạng thông tin, đôi khi để thể hiện xu hướng chính trị cá»§a mình, nhưng đó là lí tưởng tốt đẹp. Và lí tưởng tốt đẹp ấy không cho phép các chá»§ nhiệm xao lãng các con số quan trọng liên hệ đến xí nghiệp cá»§a ông: con số in, con số độc giả. Và để ý đến những con số ấy, nhất là sở thích cá»§a độc giả – nhất định là đưa đến hậu quả này: tránh những tin tức chính trị và tăng những tin “sốt dẻo”.


Vì báo bán chạy nhất là những tờ báo có đăng ở trang nhất những câu chuyện tâm tình cùng những bức ảnh đầy tưởng tượng của một nữ danh ca hay một ngôi sao màn ảnh, những đám cưới linh đình của con nhà vua, chúa. Và những chuyện chó cắn, đụng xe, những vụ tạt át-xít, những mẩu chuyện bằng hình, những bộ tiểu thuyết tình cảm xã hội likỳ cùng những bộ “lục mạnh thần kiếm” hay là “cô gái đồ long” tất cả những tin tức ấy chiếm hết cả trang giấy của tờ báo.


Chính trị vỏn vẹn còn lại một vài cột và liên quan đến nhân vật nhiều hơn là vấn đề với những lời bình phẩm bên lề chính trị.


Đó là tình trạng bi đát của báo chí ngày nay. Và chính tình trạng bi đát này giải thích một phần nào sự thiếu thông tin của công dân. Và đó là nguyên nhân và đồng thời là hậu quả của một hiện tượng: công dân không chú ý đến các vấn đề chính trị.


Nếu báo chí không thông tin xác thực và bàn luận thì làm sao công dân hiểu biết để tham gia chính trị. Trái lại, nếu công dân không chú ý đến phần tin tức chính trị, làm sao báo chí có can đảm cho in nhiều về chính trị. Và cái vòng lẩn quẩn này đưa đến một hậu quả chính trị không đẹp là công dân không tham gia tích cực vào cuộc sinh hoạt chính trị. Vì làm sao tham gia nếu không tìm hiểu chính trị?


Đoạn 2: LẬP TRƯỜNG CHÍNH TRỊ


Có những tin tức chính trị, có tìm hiểu chính trị, công dân mới có thể có một lập trường chính trị. Công dân tham gia chính trị khi nào họ công khai có ý kiến, thảo luận về chính trị, cố gắng để thuyết phục người khác về một đường lối chính trị, tham gia một cuộc biểu tình, kí tên dưới một văn kiện có tính cách chính trị. Có những hoạt động này là có một lập trường chính trị.


Cần phải nói ngay rằng tỉ số công dân có một lập trường chính trị lại còn kém nhiều nữa, và về mọi hình thức của lập trường chính trị: thảo luận chính trị, viết thơ cho báo chí hay cơ quan công quyền. Chính ngay ở Mỹ, một cuộc điều tra cho biết rằng, trả lời cho một câu hỏi: “Anh có bao giờ viết thơ cho một dân biểu Quốc hội” 80% trả lời không và 14% có. Và trong số 14% trả lời có này, gần 10% viết thơ để xin một ân huệ, bàn một vấn đề cá nhân không liên quan gì đến chính trị nước nhà.


Tóm lại, dưới khía cạnh lập trường chính trị hay tìm hiểu chính trị, thực tại cho chúng ta thấy rằng công dân ít chú trọng đến vấn đề chính trị. Đây là một nhận xét liên quan đến hình thức tổng quát nhất về tham gia chính trị.


Mục II: CÔNG DÂN CHÚ TRỌNG ĐẾN CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ


Nói đến tổ chức, chúng ta nghĩ ngay đến tổ chức chính trị và tổ chức không chính trị. Đây là những cơ cấu xã hội – mối dây liên lạc – qua đó công dân tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị.


Nói đến tổ chức chính trị, chúng ta nghĩ ngay đến chính đảng, đảng phái chính trị. Nói đến tổ chức không chính trị, chúng ta nghĩ đến những tổ chức không có mục tiêu chính trị, mà trái lại có những mục tiêu văn hóa, xã hội, nghề nghiệp v.v… Những tổ chức, những đoàn thể như Trí thức Công giáo. Thích Quảng Đức, Sinh viên Phật tử, Tổng Hội Sinh viên, tất cả các nghiệp đoàn và hiệp hội. Tất cả đều là những tổ chức không mục tiêu chính trị nhưng chắc chắn là có ảnh hưởng chính trị. Và một khuynh hướng đầy ý nghĩa của nền dân chủ cận đại, là một công dân thích có một lập trường chính trị trong những tổ chức không mục tiêu chính trị hơn là tham gia thẳng thắn vào đảng phái chính trị. Nhận xét quan trọng này chúng ta sẽ có dịp bàn đến.


Điều cần phải nhận thức ngay từ bây giờ là có những chính đảng và tổ chức không mục tiêu chính trị, hai cơ cấu xã hội trung gian của sự tham gia chính trị của công dân.


Đoạn 1: CHÍNH ĐẢNG


Chính đảng là một dụng cụ, phương tiện ưu thế của sự tham gia chính trị. Chính thể dân chủ ngày nay không thể ăn sâu vào quần chúng, không thể tồn tại nếu không có sự hiện diện của chính đảng, vì chính đảng là cơ quan vận dụng và tập trung dư luận.


Nếu không có chính đảng và nếu hệ thống chính đảng không được điều hòa một cách hữu hiệu, tương lai của nền dân chủ sẽ đen tối và cuộc sinh hoạt chính trị kém phần ổn định. Chúng ta có thể so sánh mối tương quan giữa quốc gia và chính đảng với mối tương quan giữa con người và trái tim hay bao tử. Trái tim hay bao tử của chúng ta đã nhiều lần làm cho chúng ta đau khổ. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng con người có thể sống không trái tim hay bao tử. Chính đảng cũng vậy. Chính đảng là một nguồn lo âu và nhiều lúc là trở lực không ít cho cuộc sinh hoạt chính trị. Nhưng không thể nào quan niệm được một nền dân chủ hữu hiệu, một khung cảnh chính trị tự do và hợp lí nếu không có chính đảng. Vì chính đảng là điều kiện tối cần của cuộc sinh hoạt chính trị.


A. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI


1. Đặc tính cá»§a chính đảng là mục tiêu cá»§a nó. Và mục tiêu cá»§a chính đảng là chiếm đoạt chính quyền và hành xá»­ chính quyền một cách hợp pháp. Có rất nhiều đoàn thể – về phương diện tổ chức, điều hành không khác gì chính đảng. Những đoàn thể này cÅ©ng bàn về chính trị, cÅ©ng có lập trường chính trị. Nhưng mục tiêu cá»§a nó – hay nói cho đúng hÆ¡n là mục tiêu công khai – không phải là chiếm đoạt và hành xá»­ chính quyền. Đó là điều dị biệt căn bản giữa chính đảng và những tổ chức khác. Nói rằng lập đảng phái để cứu quốc chứ không nghÄ© đến nắm chính quyền là nói láo hoặc không biết gì. Chính đảng phải có mục tiêu – vì đó là lẽ dÄ© nhiên – chiếm đoạt chính quyền để thá»±c hiện chương trình và lí tưởng chính trị cá»§a đảng, lí tưởng và chương trình mà đảng cho rằng hợp với quyền lợi cá»§a quốc gia.


Và chiếm đoạt và hành xử chính quyền một cách hợp pháp. Danh từ hợp pháp có nghĩa là chính đảng hoạt động công khai để cố thâu nhận nhân viên, thuyết phục công dân theo đường lối chủ trương của mình. Và hoạt động công khai, hợp pháp, dùng những phương tiện dân chủ để chiếm đoạt chính quyền. Những tổ chức bí mật, với những mánh khóe, những phương tiện bạo động là những tổ chức phiến loạn, tổ chức ăn cướp hoặc là tổ chức gì khác chứ không phải chính đảng.


Tóm lại, “Chính đảng là một đoàn thể trong ấy, những người cùng một chủ nghĩa về chính trị, kết hợp nhau dưới một kỉ luật đã định để mưu thực hiện chính kiến chung”.


2. Phân loại


Ở đây, chúng ta đứng trên quan điểm hình thức tổ chức các chính đảng để phân loại:


a. Chính đảng cán bộ và chính đảng quần chúng


Loại thứ nhất gồm các chính đảng được gọi là “Chính đảng cán bộ”. Loại chính đảng này không nhằm thâu nhận đông đảo quần chúng mà hướng về sự thâu nạp những nhân vật có uy tín. Tổ chức nội bộ của đảng thường thường rất thô sơ với một văn phòng trung ương liên lạc, những đơn vị là những ủy ban địa phương. Giữa văn phòng trung ương và các ủy ban địa phương, cũng như giữa các ủy ban này, những mối tương quan rất là rời rạc, mỗi đơn vị giữ sự độc lập của mình. Vì thế mà chính đảng này có tính cách rất phân tán. Trọng tâm của đảng là vận động tuyển cử và hoạt động tại nghị trường. Vấn đề chủ nghĩa về lí thuyết chỉ có tầm quan trọng tương đối nào đó mà thôi. Loại đảng này thường thường là chính đảng tư sản, bảo thủ.


Loại thứ hai “Chính đảng quần chúng”. Các đảng này chú trọng đến việc thâu nạp nhiều đảng viên và không lưu tâm cho mấy đến cá nhân đảng viên. Đây là những chính đảng dựa vào đại chúng. Hệ thống tổ chức nội bộ rất chặt chẽ: việc gia nhập đảng được xác định rõ ràng với bổn phận lấy thẻ và đóng niên liễm. Các đơn vị chi bộ hoạt động tích cực để thâu nhận đảng viên và giáo dục chính trị họ. Bộ máy hành chính của đảng có một tầm quan trọng đặc biệt: đảng có một số đảng viên thường trực làm việc ăn lương của đảng với tư cách cán bộ và có uy quyền thật sự. Hoạt động của đảng không phải chỉ nhằm vận động tuyển cử mà còn chú trọng đặc biệt đến việc giáo dục chính trị, quần chúng, đến những vấn đề ngoài lĩnh vực hoàn toàn chính trị, như văn hóa, xã hội, kinh tế v.v… Vấn đề chủ nghĩa luôn luôn được đề cao trong mọi lập trường của đảng.


b. Chính đảng có tính cách dân chủ và chính đảng có tính cách độc tài


Trong chính đảng có tính cách dân chủ, lãnh tụ và nhân viên cao cấp của đảng một phần nào do chính đảng viên bầu lên. Tôn chỉ, đường lối, lập trường chính trị được thảo luận một cách công khai tại những buổi họp khoáng đại như đại hội toàn quốc mà tất cả đại diện của đảng viên có quyền tham dự. Nguyên tắc tự do phát biểu ý kiến được tôn trọng trong các đại hội, hội đồng hay ủy ban của đảng. Nguyên tắc phân quyền vẫn còn áp dụng trong việc tổ chức nội bộ và một sự bất đồng ý kiến trong chính đảng có thể được chấp nhận.


Trái lại, với các đảng có tính cách độc tài – mà điển hình là đảng cộng sản và phát-xít – nguyên tắc tổ chức là nguyên tắc tập trung tuyệt đối. Kỉ luật rất chặt chẽ: các chỉ thị từ trên đưa xuống phải được thi hành triệt để, nhân viên của đảng phải triệt để tuân lệnh của ủy ban chấp hành trung ương và nếu có lệnh, các tổng trưởng và nghị sĩ sẽ phải từ chức. Hoạt động chính của đảng không phải là vận động tuyển cử mà là tuyên truyền, sách động quần chúng bằng những phương tiện thông thường có tính cách bạo động (biểu tình, đình công, phá hoại v.v…).


B. HỆ THỐNG CHÍNH ĐẢNG


Kinh nghiệm chính trị cho chúng ta thấy rằng hệ thống chính đảng rất mật thiết ảnh hưởng đến cuộc sinh hoạt chính trị của một quốc gia. Một chính thể độc tài thường được dựa trên một chính đảng duy nhất; trái lại sự hiện hữu của nhiều chính đảng trong một quốc gia được xem là dấu hiệu của nền dân chủ. Hơn nữa chính ngay trong chính thể dân chủ, hệ thống đa đảng hay lưỡng đảng làm cho đảo lộn tất cả các nguyên tắc của luật Hiến pháp và chi phối tất cả cuộc sinh hoạt chính trị.


1. Các hệ thống chính đảng


a. Hệ thống đa đảng


Hệ thống đa đảng là hệ thống chính đảng của một quốc gia trong ấy có nhiều chính đảng hoạt động. Hiện tượng đa đảng này có nhiều nguyên nhân liên hệ đến sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân cũng như sự đối lập giữa những khuynh hướng chính trị tổng quát. Thật vậy, trong một chính đảng thường thường ít nhất cũng có hai khuynh hướng “cương” hoặc khuynh hướng “nhu” tức là nhóm quá khích, nhóm ôn hòa. Nếu sự xung đột gồm hai khuynh hướng này không có tính cách quyết liệt và trong chính đảng còn có một lãnh tụ có uy tín thì chính đảng vẫn tồn tại và giữ được sự thống nhất nội bộ. Trái lại, đến một ngày nào cuộc xung đột không thể dàn xếp được, và đi đến sự li khai chính đảng duy nhất ấy sẽ tan vỡ và một chính đảng mới sẽ xuất hiện.


Ngoài ra sự đối lập giữa các khuynh hướng tân Tây phương hay nghiêng về Khối Cộng sản, khuynh hướng bênh vực tôn giáo và khuynh hướng loại tôn giáo ra đời sống chính trị, khuynh hướng nghiêng về nền kinh tế chỉ huy hay kinh tế tự do là nguyên nhân của sự bất hòa hợp và sự xuất hiện nhiều chính đảng trên trường chính trị. Tưởng cũng nhắc thêm rằng cá tính của một dân tộc, hoàn cảnh lịch sử và thể thức đầu phiếu cũng ảnh hưởng một phần nào đến sự thành lập của đảng phái.


b. Hệ thống lưỡng đảng


Nói đến hệ thống lưỡng đảng là nghĩ ngay đến hai chính đảng hoạt động trong một quốc gia. Nhưng hệ thống lưỡng đảng không có nghĩa là chỉ có hai chính đảng hoạt động. Có thể có ba, bốn chính đảng có mặt. Nhưng tình trạng này không được coi là tình trạng đa đảng mà lại được gọi là tình trạng lưỡng đảng là vì mặc dù có nhiều đảng nhưng chỉ có hai chính đảng lớn và chỉ hai chính đảng này mới ảnh hưởng đến cuộc sinh hoạt chính trị.


Ví dụ ở Anh Quốc, ngoài hai Đảng Lao động và Bảo thủ còn có Đảng Tự do. Ở Hoa Kỳ, ngoài hai Đảng Cộng hòa và Dân chủ còn các Đảng Xã hội, Tiến bộ, Lao động, v.v… Tuy nhiên, điều quan trọng trong hệ thống lưỡng đảng, là chỉ có hai đảng mới có hi vọng chiếm đa số tại Quốc hội và tham dự chính quyền.


Điều kiện then chốt của sự tồn tại của hệ thống lưỡng đảng là không có một chính đảng nào – trong hai chính đảng lớn – có tính chất độc tài. Vì nếu một trong hai đảng có tính cách độc tài – kiểu đảng cộng sản hay phát-xít – đảng này chắc chắn, khi chiếm đa số, tìm cách loại trừ thiểu số nghĩa là thủ tiêu đối lập để độc quyền lãnh đạo. Vậy hệ thống lưỡng đảng đòi hỏi một đối lập xây dựng dựa trên những nguyên tắc thiết yếu trong một khung cảnh chính trị tự do. Nếu không, hệ thống lưỡng đảng sẽ nhường bước cho hệ thống độc đảng, khi chính đảng có tính cách độc tài chiếm chính quyền.


c. Hệ thống độc đảng


Tình trạng một quốc gia trong ấy có một chính đảng duy nhất hoạt động là một hiện tượng đặc biệt của thế kỉ 20 này. Hệ thống độc đảng đã xuất hiện với chính thể cộng sản ở Nga-Sô, chính thể Quốc xã ở Đức và chính thể phát-xít ở Ý Đại Lợi. Vì thế nói đến hệ thống độc đảng, người ta liên tưởng đến một chế độ độc tài đảng trị. Hệ thống độc đảng – khác với hệ thống đa đảng hay lưỡng đảng – không phải là kết tinh của một sự thực hành chính trị, mà trái lại được ấn định bởi ý chí của những nhà cầm quyền muốn độc quyền lãnh đạo.


Những người bênh vực cho sự hiện hữu của một chính đảng duy nhất quan niệm rằng, trong xã hội cận đại, dựa trên đại chúng, chính đảng duy nhất là một định chế cần thiết cho sự tiến triển của nền dân chủ. Vì chính đảng sẽ là sợi dây liên lạc giữa chính quyền và nhân dân, đồng thời là trường học đào tạo cán bộ ưu tú cho quốc gia. Những lí do đưa ra, thoạt tiên, rất hữu lí. Nhưng thực tế cho chúng ta biết rằng chính đảng duy nhất luôn luôn đưa đến một sự độc tài, đảng trị. Những tầng lớp ưu tú mới đó chỉ là tầng lớp của những người ưu đãi, một giai cấp mới và mối dây liên lạc thường thường đưa đến một sự tôn thờ lãnh tụ và tuyên truyền nhồi sọ độc địa và khéo léo.


2. Hệ thống chính đảng và sinh hoạt chính trị


Ở đây chúng ta tìm xem ảnh hưởng của hệ thống chính đảng đối với cuộc sinh hoạt chính trị. Để có một ý niệm chính xác chúng ta sẽ lần lượt trình bày hiệu lực của ba hệ thống chính đảng đối với ba khía cạnh quan trọng: khía cạnh cơ cấu chính quyền, khía cạnh đối lập và khía cạnh cử tri.


a. Hiệu lực của hệ thống đa đảng


Hệ thống đa đảng đưa đến một tình trạng là không có một chính đảng nào chiếm đa số tại Quốc hội. Trong chính thể Nghị viện, Chính phủ sẽ là một Chính phủ liên hiệp với tất cả hậu quả tai hại là khủng hoảng chính trị và chính quyền không vững mạnh và bất liên tục. Trong chính thể Tổng thống, mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp sẽ phức tạp hơn và uy tín của Tổng thống sẽ nổi bật lên.


Đối lập sẽ là một đối lập rất tự do và rất hỗn loạn. Biên giới của nhóm đối lập với Chính phủ không rõ rệt vì thành phần của nó là rất hỗn loạn. Chúng ta có thể nói rằng – không phải một đối lập – mà nhiều nhóm đối lập tùy theo vấn đề và tùy theo thời cuộc.


Cử tri – với hệ thống đa đảng – sẽ có nhiều tự do để chọn lựa nhiều mầu sắc chính trị hợp với ý mình. Đồng thời cử tri cũng khó mà lựa chọn: giữa hai thì dễ chứ giữa nhiều thì chắc chắn phải phân vân. Hơn nữa điểm quan trọng về phía cử tri là sự chọn lựa của họ không có tính cách quyết định. Cử tri chỉ định một vị dân biểu thuộc về một chính đảng nào đó. Vị này sẽ hợp cùng các vị khác để cấu thành một đa số tùy theo thời cuộc và vấn đề.


b. Hiệu lực của hệ thống lưỡng đảng


Về phương diện cơ cấu chính quyền hệ thống lưỡng đảng đưa đến một Chính phủ của một chính đảng. Như chúng ta đã thấy – khi đề cập chế độ Nghị viện và Tổng thống – với hệ thống lưỡng đảng, mối tương quan giữa Lập pháp và Hành pháp hoàn toàn thay đổi hẳn. Với chế độ Nghị viện một chính đảng nắm đa số tại Quốc hội và lập Nội các, hoàn toàn tự do áp dụng chương trình của mình. Trong chế độ Tổng thống tùy theo hoàn cảnh – nghĩa là Tổng thống và đa số ở Quốc hội cùng một đảng hay khác đảng – nguyên tắc phân quyền sẽ không còn nữa hoặc trở nên cứng rắn hơn.


Đối lập rất rõ rệt và được định chế hóa như ở Anh Quốc. Đối lập vì có trách nhiệm – thường thường có một thái độ ôn hòa, vì sẽ có dịp áp dụng chương trình của mình và sẽ bị dân chúng phê phán.


Cử tri sẽ đứng trước một sự chọn lựa dễ dàng. Giữa trắng và đen. Lá phiếu của họ có tính cách quyết định: không những chỉ định dân biểu mà còn chỉ định Thủ tướng và tín nhiệm một chính đảng.


c. Hiệu lực của hệ thống độc đảng


Với một chính đảng duy nhất – dù trên Hiến pháp phân quyền được ấn định – nguyên tắc này chỉ là hư ảo vì Hành pháp và Lập pháp chỉ là thừa hành mệnh lệnh của trung ương đảng bộ. Chính phủ gồm toàn nhân viên cao cấp của đảng, còn Quốc hội là cán bộ của đảng chỉ biết hoan hô. Đại hội của đảng có một tầm quan trọng gấp trăm lần phiên họp của Quốc hội.


Đối lập – lẽ dĩ nhiên – không thành vấn đề. Vì chỉ có một chính đảng được phép công khai hoạt động. Không những không có chính đảng đối lập mà cũng không có đối lập trong chính đảng duy nhất ấy.


Cử tri cũng đi bầu vậy nhưng việc đi bầu không có tác dụng gì vì họ không có quyền lựa chọn. Ứng cử viên toàn là do đảng duy nhất đưa ra và phần đông là ứng cử viên duy nhất. Kết quả chắc chắn định trước. Hơn nữa việc kiểm phiếu mất hẳn tính cách trung thực.


C. VAI TRÒ CHÍNH TRỊ CỦA CHÍNH ĐẢNG


Một khi đã biểu danh từ chính đảng và nhận định tầm quan trọng của các hệ thống chính đảng, vấn đề được đặt ra là tại sao phải tham gia vào chính đảng. Công dân tham gia vào chính đảng không phải để giải trí, chơi cho vui mà để tham gia vào sinh hoạt chính trị. Qua vai trò của chính đảng mà chúng ta sẽ phân tích, chúng ta sẽ tìm thấy những hình thức mà công dân tham gia chính trị.


1. Vai trò huấn luyện công dân và những nhà lãnh đạo tương lai


Đây là vai trò hết sức quan trọng mà người ta hay quên khi bàn đến vấn đề chính đảng. Và cùng là một sứ mạng vừa cao cả vừa thực tế nhất.


Sự thật ra, trong một chính thể dân chủ, có hai khuynh hướng khác nhau về vấn đề hành xử chính quyền. Có một ý kiến cho rằng ai cũng có thể làm chính trị được và trong xứ dân chủ, bất cứ ai cũng có thể làm bất cứ cái gì. Có một ý kiến lại cho rằng chính quyền là một việc rất phức tạp, tế nhị lắm và chỉ có những người biết chuyện, quen thuộc, có học lực cao mới có thể sử dụng chính quyền được. Đó là hai ý kiến hoàn toàn quá khích, không thể chấp nhận được. Ý kiến hợp lí và thực tế là chính quyền có thể được hành xử bởi bất cứ cá nhân nào có một trình độ hiểu biết tối thiểu về các vấn đề chính trị. Trình độ hiểu biết tối thiểu ấy, chính những chính đảng là nhà trường nơi ấy công dân tìm thấy. Tại sao?


Vì một chính đảng luôn luôn có những vấn đề tổ chức, vấn đề thông tin, vấn đề giải thích, vấn đề thuyết phục, vấn đề lấy những quyết định chính trị…Tóm lại, tất cả những vấn đề tương tự như những vấn đề của một chính trị gia phải gặp và giải quyết.


Lẽ dĩ nhiên, là một đảng viên, họ có thể có những cái nhìn khác biệt, những quan niệm chính trị hay giải pháp bị lệch lạc hay quá khích. Nhưng đứng trên phương diện kiến thức, hiểu biết thì chắc chắn rằng một công dân có tham gia vào hoạt động của một chính đảng thông thạo các vấn đề chính trị hơn một công dân không phải là một đảng viên. Thật vậy, chính đảng là nơi mà các vấn đề chính quyền được đặt đúng với trình độ hiểu biết của công dân. Đa số công dân không thể nào thấu hiểu những vấn đề Chính phủ, những vấn đề càng ngày càng phức tạp và có tính cách chuyên môn. Vì công dân không hiểu mà chính đảng phải thông tin và có thể thông tin. Công tác của chính quyền càng phức tạp, khó khăn chừng nào thì công việc thông tin, giải thích phải càng sâu xa và đầy đủ chừng ấy. Công dân chỉ thích, chỉ chú ý những gì mà họ biết, và chỉ có thể thể kiểm soát những gì mà họ hiểu. Công dân có thể không nắm vững được tất cả các quyết định chính trị trong chi tiết, nhưng họ có thể thấu hiểu đâu là nguyên nhân, đâu là tinh thần của các quyết định và như thế họ có thể xét đoán những giải pháp mà Chính phủ đưa ra. Tóm lại, chính đảng là lò nung đúc cán bộ chính trị, là trường huấn luyện công dân về phương diện chính trị và đào tạo những nhà lãnh đạo tương lai.


2. Vai trò phác họa danh từ và khái niệm chính trị


Về phương diện chính trị cũng như về phương diện tâm lí cá nhân, tư tưởng con người gắn liền với ngôn ngữ. Muốn thảo luận chính trị, cần phải thấu hiểu một số ngôn ngữ chính trị. Nếu không có danh từ, khái niệm chính trị thì trong một xã hội nào đó, chỉ có những sự biểu lộ tình cảm, đả đảo và hoan hô suông mà thôi. Chính những chính đảng đem lại ngôn ngữ chính trị. Những danh từ hay khái niệm mà chúng ta thường nghe như: dân chủ, độc tài, cách mạng, Quốc hội, Cộng hòa, xã hội v.v… toàn là những danh từ, nhưng dù muốn dù không những danh từ này gợi lại cho chúng ta một nội dung nhất định hay một hiện tượng đặc biệt nào đó.


Chúng ta nói rằng những danh từ ấy gợi cho chúng ta một nội dung nhất định, nhưng cần phải thành thật mà nói rằng sở dĩ như thế là vì chúng ta có cái may mắn hiểu biết ít nhiều về luật pháp hay chính trị. Trái lại, còn hàng triệu công dân không có cái may mắn ấy và không bao giờ nắm vững những ngôn ngữ ấy, nếu không có chính đảng.


Vẫn biết rằng, những khái niệm ấy có thể quá trừu tượng và quá đơn sơ. Nhưng chính nhờ nó mà công dân mới có thể chọn lựa và tỏ ý kiến. Để chứng minh điều này, các bạn nên nhớ rằng trong nhiều nước chậm tiến, chính quyền bắt buộc phải dán tên những chính đảng nào là con voi, con bò hay một hình ảnh nào khác để dễ phân biệt. Tại sao? Vì dân quá dốt nên không hiểu ngôn ngữ chính trị. Lẽ dĩ nhiên trong một xứ mà công dân đều biết đọc, biết viết, trình độ hiểu biết càng ngày càng cao, ngôn ngữ chính trị được tuyên bố nhiều thì hình ảnh không còn lí do tồn tại nữa. Điều cần nhấn mạnh là chính đảng có vai trò phác họa những khái niệm và danh từ chính trị.


3. Vai trò chính trị hóa các vấn đề


Chính đảng là những tổ chức có nhiệm vụ tổng hợp các vấn đề, đưa các vấn đề lên một mực độ đại cương, đặt các vấn đề trong một khung cảnh chính trị và cho mỗi vấn đề một ý nghĩa chính trị. Trong thực tế, mỗi người chúng ta nhìn các vấn đề với khía cạnh riêng biệt, và chỉ để ý đến vấn đề liên hệ trực tiếp đến chúng ta. Trái lại, chính trị là tất cả và đồng thời là đại cương và tổng quát. Một quyết định chính trị là một giải pháp của một vấn đề được đặt ra trong một khung cảnh tổng quát, đối với những vấn đề khác.


Yếu tố quyết định của một giải pháp chính trị không phải tính toán một cách tỉ mỉ, rõ ràng những con số, không phải đi sâu vào chi tiết, mà trái lại là lựa chọn. Một sự lựa chọn căn bản giữa hòa hay chiến, kĩ nghệ nặng hay kĩ nghệ nhẹ, chú trọng đến nông thôn hay thị xã v.v…, tất cả các vấn đề khác phải được đặt và giải quyết đối với những lựa chọn căn bản ấy.


Chính những đảng phái chính trị đem lại cho đảng viên mình, nghĩa là cho một số công dân, cái nhìn tổng quát như thế và làm cho đảng viên nhận thức vấn đề theo một tiêu chuẩn chính trị. (Vai trò này, các đảng cộng sản đảm đương một cách tích cực và hiệu quả.)


Trong cuộc sinh hoạt chính trị dân chủ, chính đảng phải đóng vai trò quan trọng là chính trị hóa các vấn đề được đặt ra. Công dân một khi được huấn luyện như thế, nghĩa là thấu hiểu ý nghĩa chính trị của các vấn đề trong một khung cảnh đại cương chắc chắn sẽ ý thức rõ trách nhiệm của mình không những đối với cuộc sống riêng tư mà còn đối với sự sinh tồn của Tổ quốc.


4. Vai trò tiêu chuẩn


Chính đảng cÅ©ng như lá phiếu là những dụng cụ, phương tiện cá»§a một sá»± chọn lá»±a. Bắt buộc hay yêu cầu công dân đi bầu không có ích lợi gì nếu công việc bầu cá»­ không có cái ý nghÄ©a là lá»±a chọn. Trong những cuộc tuyển cá»­ – khi công dân đi bầu dân biểu Quốc hội hay Tổng thống – làm sao công dân lá»±a chọn nếu không có chính đảng trình ứng cá»­ viên và chương trình cá»§a họ? Vẫn biết rằng bất cứ một cá nhân nào cÅ©ng có quyền ra ứng cá»­ và có thể có chương trình. Nhưng đó là một tình trạng vô kỉ luật và bất hữu hiệu. Chọn lá»±a giữa ba nhân vật hay ba chính đảng là việc khó khăn rồi.


Chính đảng không những là tiêu chuẩn, mà còn đóng vai trò quan trọng là thu hẹp lại, giới hạn những tiêu chuẩn để lựa chọn. Và dân chúng sẽ dựa vào đó mà chọn nhà cầm quyền và bầy tỏ ý chí của mình một cách dễ dàng.


Không những là tiêu chuẩn của một sự lựa chọn, chính đảng còn là tiêu chuẩn của sự thực hiện sự lựa chọn ấy. Công dân đâu phải tín nhiệm một chính đảng rồi thôi. Lựa chọn và tín nhiệm một chính đảng để chính đảng này thực hiện chương trình và chính sách của mình. Xuyên qua sự thực hiện đó, công dân sẽ quyết định tiếp tục hay rút lại sự tín nhiệm của mình. Chính đảng là dụng cụ thể hiện ý chí của dân chúng trong một giai đoạn nhất định.


Tóm lại, xuyên qua những vai trò mà chúng ta vừa kể – huấn luyện công dân và đào tạo nhà lãnh đạo tương lai – phác họa danh từ chính trị hóa các vấn đề – tiêu chuẩn cá»§a sá»± lá»±a chọn – chính đảng có một tầm quan trọng trong cuộc sinh hoạt chính trị và chính đảng là cÆ¡ quan biểu hiện và tạo thành ý chí quốc gia. Và qua sá»± trung gian cá»§a chính đảng, công dân tích cá»±c và trá»±c tiếp tham gia vào sinh hoạt chính trị.


D. MỰC ĐỘ THAM GIA CỦA CÔNG DÂN VÀO CHÍNH ĐẢNG


Tham gia vào chính đảng là một danh từ tổng quát. Ảnh hưởng của sự tham gia rất khác biệt tùy theo ở mực độ tham gia. Một cách tổng quát, chúng ta có thể nhìn thấy bốn loại công dân tham gia vào đời sống chính đảng: cử tri, công dân có cảm tình, hội viên và chiến hữu.


1. Cử tri: là những công dân bỏ phiếu cho chính đảng. Họ không phải là đảng viên, nhưng mỗi khi có tuyển cử là họ bỏ phiếu cho ứng cử viên do đảng đưa ra. Mà sử dụng lá phiếu cho một chính đảng là hành vi tham gia vào cuộc sinh hoạt chính đảng. Nhưng đó là một sự tham gia ở mực độ kém nhất.


2. Cảm tình viên: là những công dân không gia nhập đảng nhưng có nhiều cảm tình với đảng. Họ tán đồng quan điểm chính trị, họ theo dõi hoạt động của chính đảng. Họ mua và đọc báo của đảng và lẽ dĩ nhiên, bầu cho đảng (hạng công dân sợ liên hệ đối với địa vị và nghề nghiệp).


3. Đảng viên: thường tìm thấy ở chính đảng quần chúng là những công dân ghi tên vào đảng, có thẻ và đóng nguyệt liễm hay niên liễm đều đều, tham gia vào các cuộc hội họp của đảng, có thể giữ một chức vụ trong guồng máy hành chính của đảng.


4. Chiến hữu: là những đảng viên hoạt động. Tất cả các công tác của chính đảng dựa trên hoạt động của loại đảng viên này. Tuyên truyền cho đảng, phổ biến khẩu hiệu, dán những bích chương, phát truyền đơn, bán báo cho đảng v.v… Những chiến hữu này là những con người tối cần của đảng nhất là trong giai đoạn vận động tuyển cử. Vì chính họ đảm nhiệm tất cả việc tổ chức và vận động cử tri bỏ phiếu cho đảng.


Đoạn 2: NHỮNG TỔ CHỨC KHÔNG MỤC TIÊU CHÍNH TRỊ


Những tổ chức này là tổ chức có tính cách văn hóa, xã hội, tôn giáo, nghề nghiệp v.v… Mục tiêu không phải là chính quyền, bênh vực hay phổ biến một ý tưởng, một quyền lợi. Hoạt động của các tổ chức này lắm khi có một tính cách chính trị và thực tại xã hội có thể đưa họ trong rất nhiều trường hợp, đến một lập trường chính trị.


Lí do của sự kiện này là giữa các vấn đề trong xã hội ngày nay có một sự liên đới rõ rệt và càng ngày càng gia tăng. Thật vậy, trong xã hội phức tạp ngày nay, rất khó mà phân tích và giải quyết một vấn đề gì – một vấn đề thoạt tiên chỉ có tính cách kĩ thuật, nghề nghiệp hay tôn giáo – nếu không đặt rõ nguyên nhân chính trị của nó.


A. Những tổ chức không mục tiêu chính trị này gồm có hai loại:


Loại thứ nhất gồm những tổ chức không đả động gì đến chính trị và rất dè dặt khi đề cập đến việc huấn luyện chính trị. Họ thường dùng danh từ công dân (hiệp hội, tổ chức, thanh niên, nghiệp đoàn…).


Loại thứ hai gồm những tổ chức thẳng thắn tuyên bố học tập, nghiên cứu chính trị (phong trào hòa bình, phong trào chống kì thị chủng tộc, hội bảo vệ dân quyền và nhân quyền…).


B. Những tổ chức này góp phần vào việc cấu tạo công luận và đưa công dân dự vào sự diễn tiến của quyết định chính trị. Góp phần vào việc cấu tạo công luận, nghĩa là đảm nhiệm trách vụ huấn luyện công dân, và trong cuộc huấn luyện các đoàn thể giúp nhiều cho việc chống lại những hậu quả tai hại của sự hững hờ, thái độ thụ động của công dân. Những buổi nói chuyện, những lớp tu nghiệp hay là báo chí của đoàn thể bổ khuyết một phần nào sự thiếu sót về phương diện thông tin của công dân.


Không những góp phần vào việc cấu tạo công luận, những tổ chức này còn đưa công dân dự vào sự diễn tiến của quyết định chính trị. Thật vậy, dù muốn dù không, những tổ chức này, một phần nào, đóng vai trò những đoàn thể áp lực. Họ có thể dồn hoạt động của Chính phủ theo một chiều hướng nhất định, vào một con đường quyết định. Hoặc họ cố gắng thúc đẩy hay cản trở những quyết định quan trọng liên quan ít nhiều đến đoàn thể họ.


Tóm lại, chúng ta đứng trước một hiện tượng cực kỳ quan trọng: hành vi chính trị của những tổ chức không mục tiêu chính trị. Tuy nhiên, qua hai vai trò mà chúng ta vừa thấy, qua sự trung gian của các tổ chức không mục tiêu chính trị này, công dân tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị. Nói một cách khác, chính những tổ chức này làm cho sự tham gia của công dân – không phải là đảng viên – được dễ dàng hơn nhiều.


KẾT LUẬN CHƯƠNG II: GIẢI THÍCH VỀ SỰ BẤT THAM GIA CHÍNH TRỊ


Tham gia bất thường, yếu ớt, vì tính cách không bó buộc của hoạt động chính trị


a. Chính trị có tiếng xấu.


Đây là một điểm quan trọng và chính yếu. Đối với đa số công dân, nói đến chính trị, người ta liên tưởng đến một địa hạt của những sự mua bán, đổi chác, xảo trá, đến một địa hạt mà quyền lợi của bè phái được xem là hơn cả. Công dân và nhất là cử tri có ý kiến không tốt đối với những sự mua bán ở hành lang Quốc hội, cho rằng các ông dân biểu lãnh lương quá nhiều đối với công việc làm thật sự.


Thêm vào đó, báo chí lại thổi phồng lên: những bức ảnh khôi hài chế nhạo những nhà chính trị, làm sai sự thật và chỉ nêu lên những điều không hay về sinh hoạt chính trị. Những tư tưởng không hay về chính trị được khai thác một cách quá đáng nhằm mục tiêu thương mại làm cho công dân càng thêm có những định kiến sai lầm về chính trị.


Vì thế mà mỗi khi có một sự thay đổi quan trọng nào thì người ta luôn luôn nghe nào là phải quét cho sạch, nào là phải thay đổi hẳn, nào là phải chặn lại những cường hào ác bá, nào là phải nói sự thật cho nhân dân và tất cả sự thật v.v… Những hiện tượng như thế chứng minh một phần nào thành kiến của công dân đối với chính trị: chính trị là xảo trá, thủ đoạn, lường gạt, cường hào ác bá, làm Tổng trưởng để hốt bạc và hách dịch. Chính trị là bệnh dịch hạch.


b. Những nguy cơ của chính trị


Trong những chính thể độc tài, lẽ tất nhiên những tự do chính kiến và tự do phát biểu không được nhìn nhận và bảo đảm, những nguy cơ này là một sự thật.


Nhưng chính trong những chính thể dân chủ, những cuộc chính biến hay những thay đổi tình thế có thể đem lại không ít nguy hiểm đến công dân. Khi mà công dân thấy tận mắt mình, những oai quyền hôm qua, hôm nay lại thành tù tội và phải bị sa lầy, khi họ tận mắt thấy rằng chính trị là lên voi xuống chó, thì dù rằng họ biết lẽ thông thường và sự trừng phạt là đúng đi nữa, họ không thể không rút ra một bài học chính xác, và bài học đó là thận trọng.


Hơn nữa công dân, trước khi tích cực tham gia chính trị, lại nghĩ đến ảnh hưởng của chính trị đến đời tư của họ, đến gia đình hay địa vị xã hội của họ. Chính trị hay phân li. Và một câu đầy ý nghĩa mà người ta thường thường hay nghe là: “Sở dĩ ở đây công việc chạy vì chúng tôi không làm chính trị”.


Những nguy cơ chính trị còn nhiều hơn nữa về phương diện nghề nghiệp: một anh thợ biết rằng ông chủ mình sẽ sa thải những người nào cầm đầu, kẻ chủ mưu, một nhà buôn ngại rằng khách hàng của mình sẽ không

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 04, 2013 12:52

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.