Phạm Thị Hoài's Blog, page 32

September 4, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (9)

Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4, kì 5, kì 6, kì 7, kì 8


CHƯƠNG II: NHỮNG HÌNH THỨC THAM GIA CHÍNH TRỊ


Mục I: CÔNG DÂN CHÚ TRỌNG ĐẾN CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ


Một trong những hình thức tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị là chú trọng đến các vấn đề chính trị. Vì có chú trọng mới am hiểu sự phức tạp của các vấn đề, mới phán đoán một cách chính xác nhà cầm quyền và khi bầu cử mới sử dụng lá phiếu một cách đứng đắn. Cần phải thành thật mà nhận định rằng tỉ số công dân chú trọng đến các vấn đề chính trị rất kém. Thật vậy, qua những cuộc tìm hiểu dư luận, những cuộc điều tra dân ý, người ta đã có những kết quả như sau:



20% chú ý thật đến chính trị.
40% chỉ biết sơ sài về chính trị.
40% không biết gì về chính trị.

Và kết quả này là kết quả chung của rất nhiều nước hiện nay trên thế giới. Tỉ số quá kém này còn thấp hơn nữa trong những nước vừa thâu hồi nền độc lập trong ấy mức sống còn kém và trình độ hiểu biết chưa được phổ thông nhiều.


Khi nói đến công dân chú trọng đến các vấn đề chính trị, chúng ta cần phải nhấn mạnh hai khía cạnh quan trọng là tìm hiểu chính trị và có lập trường chính trị: công dân ít tìm hiểu chính trị và cũng ít có lập trường chính trị.


Đoạn 1: TÌM HIỂU CHÍNH TRỊ


Tìm hiểu chính trị, tức là sự dò thăm, săn tin tức, theo dõi các vấn đề chính trị. Làm thế nào để theo dõi chính trị? Không có phương tiện nào hơn là báo chí. Và ở đây chúng ta đứng trước một vấn đề cực kỳ quan trọng vấn đề mối tương quan giữa chính trị và báo chí. Thật vậy, công dân chỉ bàn cãi chính trị, chú ý đến cuộc sinh hoạt xuyên qua báo chí. Thế mà báo chí ngày nay lại ít nói đến chính trị. Có một hiện tượng tổng quát chung cho các nước trên thế giới – trừ một vài biệt lệ, một hiện tượng đầy ý nghĩa là càng ngày càng khó mà cho xuất bản một tờ báo hoàn toàn chính trị. Và kinh nghiệm cũng cho biết rằng những tờ báo có một mầu sắc chính trị, có một lập trường chính trị rõ rệt lại thấy độc giả của mình ngày càng kém đi.


Vẫn biết rằng làm báo là làm tròn sứ mạng thông tin, đôi khi để thể hiện xu hướng chính trị của mình, nhưng đó là lí tưởng tốt đẹp. Và lí tưởng tốt đẹp ấy không cho phép các chủ nhiệm xao lãng các con số quan trọng liên hệ đến xí nghiệp của ông: con số in, con số độc giả. Và để ý đến những con số ấy, nhất là sở thích của độc giả – nhất định là đưa đến hậu quả này: tránh những tin tức chính trị và tăng những tin “sốt dẻo”.


Vì báo bán chạy nhất là những tờ báo có đăng ở trang nhất những câu chuyện tâm tình cùng những bức ảnh đầy tưởng tượng của một nữ danh ca hay một ngôi sao màn ảnh, những đám cưới linh đình của con nhà vua, chúa. Và những chuyện chó cắn, đụng xe, những vụ tạt át-xít, những mẩu chuyện bằng hình, những bộ tiểu thuyết tình cảm xã hội likỳ cùng những bộ “lục mạnh thần kiếm” hay là “cô gái đồ long” tất cả những tin tức ấy chiếm hết cả trang giấy của tờ báo.


Chính trị vỏn vẹn còn lại một vài cột và liên quan đến nhân vật nhiều hơn là vấn đề với những lời bình phẩm bên lề chính trị.


Đó là tình trạng bi đát của báo chí ngày nay. Và chính tình trạng bi đát này giải thích một phần nào sự thiếu thông tin của công dân. Và đó là nguyên nhân và đồng thời là hậu quả của một hiện tượng: công dân không chú ý đến các vấn đề chính trị.


Nếu báo chí không thông tin xác thực và bàn luận thì làm sao công dân hiểu biết để tham gia chính trị. Trái lại, nếu công dân không chú ý đến phần tin tức chính trị, làm sao báo chí có can đảm cho in nhiều về chính trị. Và cái vòng lẩn quẩn này đưa đến một hậu quả chính trị không đẹp là công dân không tham gia tích cực vào cuộc sinh hoạt chính trị. Vì làm sao tham gia nếu không tìm hiểu chính trị?


Đoạn 2: LẬP TRƯỜNG CHÍNH TRỊ


Có những tin tức chính trị, có tìm hiểu chính trị, công dân mới có thể có một lập trường chính trị. Công dân tham gia chính trị khi nào họ công khai có ý kiến, thảo luận về chính trị, cố gắng để thuyết phục người khác về một đường lối chính trị, tham gia một cuộc biểu tình, kí tên dưới một văn kiện có tính cách chính trị. Có những hoạt động này là có một lập trường chính trị.


Cần phải nói ngay rằng tỉ số công dân có một lập trường chính trị lại còn kém nhiều nữa, và về mọi hình thức của lập trường chính trị: thảo luận chính trị, viết thơ cho báo chí hay cơ quan công quyền. Chính ngay ở Mỹ, một cuộc điều tra cho biết rằng, trả lời cho một câu hỏi: “Anh có bao giờ viết thơ cho một dân biểu Quốc hội” 80% trả lời không và 14% có. Và trong số 14% trả lời có này, gần 10% viết thơ để xin một ân huệ, bàn một vấn đề cá nhân không liên quan gì đến chính trị nước nhà.


Tóm lại, dưới khía cạnh lập trường chính trị hay tìm hiểu chính trị, thực tại cho chúng ta thấy rằng công dân ít chú trọng đến vấn đề chính trị. Đây là một nhận xét liên quan đến hình thức tổng quát nhất về tham gia chính trị.


Mục II: CÔNG DÂN CHÚ TRỌNG ĐẾN CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ


Nói đến tổ chức, chúng ta nghĩ ngay đến tổ chức chính trị và tổ chức không chính trị. Đây là những cơ cấu xã hội – mối dây liên lạc – qua đó công dân tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị.


Nói đến tổ chức chính trị, chúng ta nghĩ ngay đến chính đảng, đảng phái chính trị. Nói đến tổ chức không chính trị, chúng ta nghĩ đến những tổ chức không có mục tiêu chính trị, mà trái lại có những mục tiêu văn hóa, xã hội, nghề nghiệp v.v… Những tổ chức, những đoàn thể như Trí thức Công giáo. Thích Quảng Đức, Sinh viên Phật tử, Tổng Hội Sinh viên, tất cả các nghiệp đoàn và hiệp hội. Tất cả đều là những tổ chức không mục tiêu chính trị nhưng chắc chắn là có ảnh hưởng chính trị. Và một khuynh hướng đầy ý nghĩa của nền dân chủ cận đại, là một công dân thích có một lập trường chính trị trong những tổ chức không mục tiêu chính trị hơn là tham gia thẳng thắn vào đảng phái chính trị. Nhận xét quan trọng này chúng ta sẽ có dịp bàn đến.


Điều cần phải nhận thức ngay từ bây giờ là có những chính đảng và tổ chức không mục tiêu chính trị, hai cơ cấu xã hội trung gian của sự tham gia chính trị của công dân.


Đoạn 1: CHÍNH ĐẢNG


Chính đảng là một dụng cụ, phương tiện ưu thế của sự tham gia chính trị. Chính thể dân chủ ngày nay không thể ăn sâu vào quần chúng, không thể tồn tại nếu không có sự hiện diện của chính đảng, vì chính đảng là cơ quan vận dụng và tập trung dư luận.


Nếu không có chính đảng và nếu hệ thống chính đảng không được điều hòa một cách hữu hiệu, tương lai của nền dân chủ sẽ đen tối và cuộc sinh hoạt chính trị kém phần ổn định. Chúng ta có thể so sánh mối tương quan giữa quốc gia và chính đảng với mối tương quan giữa con người và trái tim hay bao tử. Trái tim hay bao tử của chúng ta đã nhiều lần làm cho chúng ta đau khổ. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng con người có thể sống không trái tim hay bao tử. Chính đảng cũng vậy. Chính đảng là một nguồn lo âu và nhiều lúc là trở lực không ít cho cuộc sinh hoạt chính trị. Nhưng không thể nào quan niệm được một nền dân chủ hữu hiệu, một khung cảnh chính trị tự do và hợp lí nếu không có chính đảng. Vì chính đảng là điều kiện tối cần của cuộc sinh hoạt chính trị.


A. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI


1. Đặc tính của chính đảng là mục tiêu của nó. Và mục tiêu của chính đảng là chiếm đoạt chính quyền và hành xử chính quyền một cách hợp pháp. Có rất nhiều đoàn thể – về phương diện tổ chức, điều hành không khác gì chính đảng. Những đoàn thể này cũng bàn về chính trị, cũng có lập trường chính trị. Nhưng mục tiêu của nó – hay nói cho đúng hơn là mục tiêu công khai – không phải là chiếm đoạt và hành xử chính quyền. Đó là điều dị biệt căn bản giữa chính đảng và những tổ chức khác. Nói rằng lập đảng phái để cứu quốc chứ không nghĩ đến nắm chính quyền là nói láo hoặc không biết gì. Chính đảng phải có mục tiêu – vì đó là lẽ dĩ nhiên – chiếm đoạt chính quyền để thực hiện chương trình và lí tưởng chính trị của đảng, lí tưởng và chương trình mà đảng cho rằng hợp với quyền lợi của quốc gia.


Và chiếm đoạt và hành xử chính quyền một cách hợp pháp. Danh từ hợp pháp có nghĩa là chính đảng hoạt động công khai để cố thâu nhận nhân viên, thuyết phục công dân theo đường lối chủ trương của mình. Và hoạt động công khai, hợp pháp, dùng những phương tiện dân chủ để chiếm đoạt chính quyền. Những tổ chức bí mật, với những mánh khóe, những phương tiện bạo động là những tổ chức phiến loạn, tổ chức ăn cướp hoặc là tổ chức gì khác chứ không phải chính đảng.


Tóm lại, “Chính đảng là một đoàn thể trong ấy, những người cùng một chủ nghĩa về chính trị, kết hợp nhau dưới một kỉ luật đã định để mưu thực hiện chính kiến chung”.


2. Phân loại


Ở đây, chúng ta đứng trên quan điểm hình thức tổ chức các chính đảng để phân loại:


a. Chính đảng cán bộ và chính đảng quần chúng


Loại thứ nhất gồm các chính đảng được gọi là “Chính đảng cán bộ”. Loại chính đảng này không nhằm thâu nhận đông đảo quần chúng mà hướng về sự thâu nạp những nhân vật có uy tín. Tổ chức nội bộ của đảng thường thường rất thô sơ với một văn phòng trung ương liên lạc, những đơn vị là những ủy ban địa phương. Giữa văn phòng trung ương và các ủy ban địa phương, cũng như giữa các ủy ban này, những mối tương quan rất là rời rạc, mỗi đơn vị giữ sự độc lập của mình. Vì thế mà chính đảng này có tính cách rất phân tán. Trọng tâm của đảng là vận động tuyển cử và hoạt động tại nghị trường. Vấn đề chủ nghĩa về lí thuyết chỉ có tầm quan trọng tương đối nào đó mà thôi. Loại đảng này thường thường là chính đảng tư sản, bảo thủ.


Loại thứ hai “Chính đảng quần chúng”. Các đảng này chú trọng đến việc thâu nạp nhiều đảng viên và không lưu tâm cho mấy đến cá nhân đảng viên. Đây là những chính đảng dựa vào đại chúng. Hệ thống tổ chức nội bộ rất chặt chẽ: việc gia nhập đảng được xác định rõ ràng với bổn phận lấy thẻ và đóng niên liễm. Các đơn vị chi bộ hoạt động tích cực để thâu nhận đảng viên và giáo dục chính trị họ. Bộ máy hành chính của đảng có một tầm quan trọng đặc biệt: đảng có một số đảng viên thường trực làm việc ăn lương của đảng với tư cách cán bộ và có uy quyền thật sự. Hoạt động của đảng không phải chỉ nhằm vận động tuyển cử mà còn chú trọng đặc biệt đến việc giáo dục chính trị, quần chúng, đến những vấn đề ngoài lĩnh vực hoàn toàn chính trị, như văn hóa, xã hội, kinh tế v.v… Vấn đề chủ nghĩa luôn luôn được đề cao trong mọi lập trường của đảng.


b. Chính đảng có tính cách dân chủ và chính đảng có tính cách độc tài


Trong chính đảng có tính cách dân chủ, lãnh tụ và nhân viên cao cấp của đảng một phần nào do chính đảng viên bầu lên. Tôn chỉ, đường lối, lập trường chính trị được thảo luận một cách công khai tại những buổi họp khoáng đại như đại hội toàn quốc mà tất cả đại diện của đảng viên có quyền tham dự. Nguyên tắc tự do phát biểu ý kiến được tôn trọng trong các đại hội, hội đồng hay ủy ban của đảng. Nguyên tắc phân quyền vẫn còn áp dụng trong việc tổ chức nội bộ và một sự bất đồng ý kiến trong chính đảng có thể được chấp nhận.


Trái lại, với các đảng có tính cách độc tài – mà điển hình là đảng cộng sản và phát-xít – nguyên tắc tổ chức là nguyên tắc tập trung tuyệt đối. Kỉ luật rất chặt chẽ: các chỉ thị từ trên đưa xuống phải được thi hành triệt để, nhân viên của đảng phải triệt để tuân lệnh của ủy ban chấp hành trung ương và nếu có lệnh, các tổng trưởng và nghị sĩ sẽ phải từ chức. Hoạt động chính của đảng không phải là vận động tuyển cử mà là tuyên truyền, sách động quần chúng bằng những phương tiện thông thường có tính cách bạo động (biểu tình, đình công, phá hoại v.v…).


B. HỆ THỐNG CHÍNH ĐẢNG


Kinh nghiệm chính trị cho chúng ta thấy rằng hệ thống chính đảng rất mật thiết ảnh hưởng đến cuộc sinh hoạt chính trị của một quốc gia. Một chính thể độc tài thường được dựa trên một chính đảng duy nhất; trái lại sự hiện hữu của nhiều chính đảng trong một quốc gia được xem là dấu hiệu của nền dân chủ. Hơn nữa chính ngay trong chính thể dân chủ, hệ thống đa đảng hay lưỡng đảng làm cho đảo lộn tất cả các nguyên tắc của luật Hiến pháp và chi phối tất cả cuộc sinh hoạt chính trị.


1. Các hệ thống chính đảng


a. Hệ thống đa đảng


Hệ thống đa đảng là hệ thống chính đảng của một quốc gia trong ấy có nhiều chính đảng hoạt động. Hiện tượng đa đảng này có nhiều nguyên nhân liên hệ đến sự phát triển của chủ nghĩa cá nhân cũng như sự đối lập giữa những khuynh hướng chính trị tổng quát. Thật vậy, trong một chính đảng thường thường ít nhất cũng có hai khuynh hướng “cương” hoặc khuynh hướng “nhu” tức là nhóm quá khích, nhóm ôn hòa. Nếu sự xung đột gồm hai khuynh hướng này không có tính cách quyết liệt và trong chính đảng còn có một lãnh tụ có uy tín thì chính đảng vẫn tồn tại và giữ được sự thống nhất nội bộ. Trái lại, đến một ngày nào cuộc xung đột không thể dàn xếp được, và đi đến sự li khai chính đảng duy nhất ấy sẽ tan vỡ và một chính đảng mới sẽ xuất hiện.


Ngoài ra sự đối lập giữa các khuynh hướng tân Tây phương hay nghiêng về Khối Cộng sản, khuynh hướng bênh vực tôn giáo và khuynh hướng loại tôn giáo ra đời sống chính trị, khuynh hướng nghiêng về nền kinh tế chỉ huy hay kinh tế tự do là nguyên nhân của sự bất hòa hợp và sự xuất hiện nhiều chính đảng trên trường chính trị. Tưởng cũng nhắc thêm rằng cá tính của một dân tộc, hoàn cảnh lịch sử và thể thức đầu phiếu cũng ảnh hưởng một phần nào đến sự thành lập của đảng phái.


b. Hệ thống lưỡng đảng


Nói đến hệ thống lưỡng đảng là nghĩ ngay đến hai chính đảng hoạt động trong một quốc gia. Nhưng hệ thống lưỡng đảng không có nghĩa là chỉ có hai chính đảng hoạt động. Có thể có ba, bốn chính đảng có mặt. Nhưng tình trạng này không được coi là tình trạng đa đảng mà lại được gọi là tình trạng lưỡng đảng là vì mặc dù có nhiều đảng nhưng chỉ có hai chính đảng lớn và chỉ hai chính đảng này mới ảnh hưởng đến cuộc sinh hoạt chính trị.


Ví dụ ở Anh Quốc, ngoài hai Đảng Lao động và Bảo thủ còn có Đảng Tự do. Ở Hoa Kỳ, ngoài hai Đảng Cộng hòa và Dân chủ còn các Đảng Xã hội, Tiến bộ, Lao động, v.v… Tuy nhiên, điều quan trọng trong hệ thống lưỡng đảng, là chỉ có hai đảng mới có hi vọng chiếm đa số tại Quốc hội và tham dự chính quyền.


Điều kiện then chốt của sự tồn tại của hệ thống lưỡng đảng là không có một chính đảng nào – trong hai chính đảng lớn – có tính chất độc tài. Vì nếu một trong hai đảng có tính cách độc tài – kiểu đảng cộng sản hay phát-xít – đảng này chắc chắn, khi chiếm đa số, tìm cách loại trừ thiểu số nghĩa là thủ tiêu đối lập để độc quyền lãnh đạo. Vậy hệ thống lưỡng đảng đòi hỏi một đối lập xây dựng dựa trên những nguyên tắc thiết yếu trong một khung cảnh chính trị tự do. Nếu không, hệ thống lưỡng đảng sẽ nhường bước cho hệ thống độc đảng, khi chính đảng có tính cách độc tài chiếm chính quyền.


c. Hệ thống độc đảng


Tình trạng một quốc gia trong ấy có một chính đảng duy nhất hoạt động là một hiện tượng đặc biệt của thế kỉ 20 này. Hệ thống độc đảng đã xuất hiện với chính thể cộng sản ở Nga-Sô, chính thể Quốc xã ở Đức và chính thể phát-xít ở Ý Đại Lợi. Vì thế nói đến hệ thống độc đảng, người ta liên tưởng đến một chế độ độc tài đảng trị. Hệ thống độc đảng – khác với hệ thống đa đảng hay lưỡng đảng – không phải là kết tinh của một sự thực hành chính trị, mà trái lại được ấn định bởi ý chí của những nhà cầm quyền muốn độc quyền lãnh đạo.


Những người bênh vực cho sự hiện hữu của một chính đảng duy nhất quan niệm rằng, trong xã hội cận đại, dựa trên đại chúng, chính đảng duy nhất là một định chế cần thiết cho sự tiến triển của nền dân chủ. Vì chính đảng sẽ là sợi dây liên lạc giữa chính quyền và nhân dân, đồng thời là trường học đào tạo cán bộ ưu tú cho quốc gia. Những lí do đưa ra, thoạt tiên, rất hữu lí. Nhưng thực tế cho chúng ta biết rằng chính đảng duy nhất luôn luôn đưa đến một sự độc tài, đảng trị. Những tầng lớp ưu tú mới đó chỉ là tầng lớp của những người ưu đãi, một giai cấp mới và mối dây liên lạc thường thường đưa đến một sự tôn thờ lãnh tụ và tuyên truyền nhồi sọ độc địa và khéo léo.


2. Hệ thống chính đảng và sinh hoạt chính trị


Ở đây chúng ta tìm xem ảnh hưởng của hệ thống chính đảng đối với cuộc sinh hoạt chính trị. Để có một ý niệm chính xác chúng ta sẽ lần lượt trình bày hiệu lực của ba hệ thống chính đảng đối với ba khía cạnh quan trọng: khía cạnh cơ cấu chính quyền, khía cạnh đối lập và khía cạnh cử tri.


a. Hiệu lực của hệ thống đa đảng


Hệ thống đa đảng đưa đến một tình trạng là không có một chính đảng nào chiếm đa số tại Quốc hội. Trong chính thể Nghị viện, Chính phủ sẽ là một Chính phủ liên hiệp với tất cả hậu quả tai hại là khủng hoảng chính trị và chính quyền không vững mạnh và bất liên tục. Trong chính thể Tổng thống, mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp sẽ phức tạp hơn và uy tín của Tổng thống sẽ nổi bật lên.


Đối lập sẽ là một đối lập rất tự do và rất hỗn loạn. Biên giới của nhóm đối lập với Chính phủ không rõ rệt vì thành phần của nó là rất hỗn loạn. Chúng ta có thể nói rằng – không phải một đối lập – mà nhiều nhóm đối lập tùy theo vấn đề và tùy theo thời cuộc.


Cử tri – với hệ thống đa đảng – sẽ có nhiều tự do để chọn lựa nhiều mầu sắc chính trị hợp với ý mình. Đồng thời cử tri cũng khó mà lựa chọn: giữa hai thì dễ chứ giữa nhiều thì chắc chắn phải phân vân. Hơn nữa điểm quan trọng về phía cử tri là sự chọn lựa của họ không có tính cách quyết định. Cử tri chỉ định một vị dân biểu thuộc về một chính đảng nào đó. Vị này sẽ hợp cùng các vị khác để cấu thành một đa số tùy theo thời cuộc và vấn đề.


b. Hiệu lực của hệ thống lưỡng đảng


Về phương diện cơ cấu chính quyền hệ thống lưỡng đảng đưa đến một Chính phủ của một chính đảng. Như chúng ta đã thấy – khi đề cập chế độ Nghị viện và Tổng thống – với hệ thống lưỡng đảng, mối tương quan giữa Lập pháp và Hành pháp hoàn toàn thay đổi hẳn. Với chế độ Nghị viện một chính đảng nắm đa số tại Quốc hội và lập Nội các, hoàn toàn tự do áp dụng chương trình của mình. Trong chế độ Tổng thống tùy theo hoàn cảnh – nghĩa là Tổng thống và đa số ở Quốc hội cùng một đảng hay khác đảng – nguyên tắc phân quyền sẽ không còn nữa hoặc trở nên cứng rắn hơn.


Đối lập rất rõ rệt và được định chế hóa như ở Anh Quốc. Đối lập vì có trách nhiệm – thường thường có một thái độ ôn hòa, vì sẽ có dịp áp dụng chương trình của mình và sẽ bị dân chúng phê phán.


Cử tri sẽ đứng trước một sự chọn lựa dễ dàng. Giữa trắng và đen. Lá phiếu của họ có tính cách quyết định: không những chỉ định dân biểu mà còn chỉ định Thủ tướng và tín nhiệm một chính đảng.


c. Hiệu lực của hệ thống độc đảng


Với một chính đảng duy nhất – dù trên Hiến pháp phân quyền được ấn định – nguyên tắc này chỉ là hư ảo vì Hành pháp và Lập pháp chỉ là thừa hành mệnh lệnh của trung ương đảng bộ. Chính phủ gồm toàn nhân viên cao cấp của đảng, còn Quốc hội là cán bộ của đảng chỉ biết hoan hô. Đại hội của đảng có một tầm quan trọng gấp trăm lần phiên họp của Quốc hội.


Đối lập – lẽ dĩ nhiên – không thành vấn đề. Vì chỉ có một chính đảng được phép công khai hoạt động. Không những không có chính đảng đối lập mà cũng không có đối lập trong chính đảng duy nhất ấy.


Cử tri cũng đi bầu vậy nhưng việc đi bầu không có tác dụng gì vì họ không có quyền lựa chọn. Ứng cử viên toàn là do đảng duy nhất đưa ra và phần đông là ứng cử viên duy nhất. Kết quả chắc chắn định trước. Hơn nữa việc kiểm phiếu mất hẳn tính cách trung thực.


C. VAI TRÒ CHÍNH TRỊ CỦA CHÍNH ĐẢNG


Một khi đã biểu danh từ chính đảng và nhận định tầm quan trọng của các hệ thống chính đảng, vấn đề được đặt ra là tại sao phải tham gia vào chính đảng. Công dân tham gia vào chính đảng không phải để giải trí, chơi cho vui mà để tham gia vào sinh hoạt chính trị. Qua vai trò của chính đảng mà chúng ta sẽ phân tích, chúng ta sẽ tìm thấy những hình thức mà công dân tham gia chính trị.


1. Vai trò huấn luyện công dân và những nhà lãnh đạo tương lai


Đây là vai trò hết sức quan trọng mà người ta hay quên khi bàn đến vấn đề chính đảng. Và cùng là một sứ mạng vừa cao cả vừa thực tế nhất.


Sự thật ra, trong một chính thể dân chủ, có hai khuynh hướng khác nhau về vấn đề hành xử chính quyền. Có một ý kiến cho rằng ai cũng có thể làm chính trị được và trong xứ dân chủ, bất cứ ai cũng có thể làm bất cứ cái gì. Có một ý kiến lại cho rằng chính quyền là một việc rất phức tạp, tế nhị lắm và chỉ có những người biết chuyện, quen thuộc, có học lực cao mới có thể sử dụng chính quyền được. Đó là hai ý kiến hoàn toàn quá khích, không thể chấp nhận được. Ý kiến hợp lí và thực tế là chính quyền có thể được hành xử bởi bất cứ cá nhân nào có một trình độ hiểu biết tối thiểu về các vấn đề chính trị. Trình độ hiểu biết tối thiểu ấy, chính những chính đảng là nhà trường nơi ấy công dân tìm thấy. Tại sao?


Vì một chính đảng luôn luôn có những vấn đề tổ chức, vấn đề thông tin, vấn đề giải thích, vấn đề thuyết phục, vấn đề lấy những quyết định chính trị…Tóm lại, tất cả những vấn đề tương tự như những vấn đề của một chính trị gia phải gặp và giải quyết.


Lẽ dĩ nhiên, là một đảng viên, họ có thể có những cái nhìn khác biệt, những quan niệm chính trị hay giải pháp bị lệch lạc hay quá khích. Nhưng đứng trên phương diện kiến thức, hiểu biết thì chắc chắn rằng một công dân có tham gia vào hoạt động của một chính đảng thông thạo các vấn đề chính trị hơn một công dân không phải là một đảng viên. Thật vậy, chính đảng là nơi mà các vấn đề chính quyền được đặt đúng với trình độ hiểu biết của công dân. Đa số công dân không thể nào thấu hiểu những vấn đề Chính phủ, những vấn đề càng ngày càng phức tạp và có tính cách chuyên môn. Vì công dân không hiểu mà chính đảng phải thông tin và có thể thông tin. Công tác của chính quyền càng phức tạp, khó khăn chừng nào thì công việc thông tin, giải thích phải càng sâu xa và đầy đủ chừng ấy. Công dân chỉ thích, chỉ chú ý những gì mà họ biết, và chỉ có thể thể kiểm soát những gì mà họ hiểu. Công dân có thể không nắm vững được tất cả các quyết định chính trị trong chi tiết, nhưng họ có thể thấu hiểu đâu là nguyên nhân, đâu là tinh thần của các quyết định và như thế họ có thể xét đoán những giải pháp mà Chính phủ đưa ra. Tóm lại, chính đảng là lò nung đúc cán bộ chính trị, là trường huấn luyện công dân về phương diện chính trị và đào tạo những nhà lãnh đạo tương lai.


2. Vai trò phác họa danh từ và khái niệm chính trị


Về phương diện chính trị cũng như về phương diện tâm lí cá nhân, tư tưởng con người gắn liền với ngôn ngữ. Muốn thảo luận chính trị, cần phải thấu hiểu một số ngôn ngữ chính trị. Nếu không có danh từ, khái niệm chính trị thì trong một xã hội nào đó, chỉ có những sự biểu lộ tình cảm, đả đảo và hoan hô suông mà thôi. Chính những chính đảng đem lại ngôn ngữ chính trị. Những danh từ hay khái niệm mà chúng ta thường nghe như: dân chủ, độc tài, cách mạng, Quốc hội, Cộng hòa, xã hội v.v… toàn là những danh từ, nhưng dù muốn dù không những danh từ này gợi lại cho chúng ta một nội dung nhất định hay một hiện tượng đặc biệt nào đó.


Chúng ta nói rằng những danh từ ấy gợi cho chúng ta một nội dung nhất định, nhưng cần phải thành thật mà nói rằng sở dĩ như thế là vì chúng ta có cái may mắn hiểu biết ít nhiều về luật pháp hay chính trị. Trái lại, còn hàng triệu công dân không có cái may mắn ấy và không bao giờ nắm vững những ngôn ngữ ấy, nếu không có chính đảng.


Vẫn biết rằng, những khái niệm ấy có thể quá trừu tượng và quá đơn sơ. Nhưng chính nhờ nó mà công dân mới có thể chọn lựa và tỏ ý kiến. Để chứng minh điều này, các bạn nên nhớ rằng trong nhiều nước chậm tiến, chính quyền bắt buộc phải dán tên những chính đảng nào là con voi, con bò hay một hình ảnh nào khác để dễ phân biệt. Tại sao? Vì dân quá dốt nên không hiểu ngôn ngữ chính trị. Lẽ dĩ nhiên trong một xứ mà công dân đều biết đọc, biết viết, trình độ hiểu biết càng ngày càng cao, ngôn ngữ chính trị được tuyên bố nhiều thì hình ảnh không còn lí do tồn tại nữa. Điều cần nhấn mạnh là chính đảng có vai trò phác họa những khái niệm và danh từ chính trị.


3. Vai trò chính trị hóa các vấn đề


Chính đảng là những tổ chức có nhiệm vụ tổng hợp các vấn đề, đưa các vấn đề lên một mực độ đại cương, đặt các vấn đề trong một khung cảnh chính trị và cho mỗi vấn đề một ý nghĩa chính trị. Trong thực tế, mỗi người chúng ta nhìn các vấn đề với khía cạnh riêng biệt, và chỉ để ý đến vấn đề liên hệ trực tiếp đến chúng ta. Trái lại, chính trị là tất cả và đồng thời là đại cương và tổng quát. Một quyết định chính trị là một giải pháp của một vấn đề được đặt ra trong một khung cảnh tổng quát, đối với những vấn đề khác.


Yếu tố quyết định của một giải pháp chính trị không phải tính toán một cách tỉ mỉ, rõ ràng những con số, không phải đi sâu vào chi tiết, mà trái lại là lựa chọn. Một sự lựa chọn căn bản giữa hòa hay chiến, kĩ nghệ nặng hay kĩ nghệ nhẹ, chú trọng đến nông thôn hay thị xã v.v…, tất cả các vấn đề khác phải được đặt và giải quyết đối với những lựa chọn căn bản ấy.


Chính những đảng phái chính trị đem lại cho đảng viên mình, nghĩa là cho một số công dân, cái nhìn tổng quát như thế và làm cho đảng viên nhận thức vấn đề theo một tiêu chuẩn chính trị. (Vai trò này, các đảng cộng sản đảm đương một cách tích cực và hiệu quả.)


Trong cuộc sinh hoạt chính trị dân chủ, chính đảng phải đóng vai trò quan trọng là chính trị hóa các vấn đề được đặt ra. Công dân một khi được huấn luyện như thế, nghĩa là thấu hiểu ý nghĩa chính trị của các vấn đề trong một khung cảnh đại cương chắc chắn sẽ ý thức rõ trách nhiệm của mình không những đối với cuộc sống riêng tư mà còn đối với sự sinh tồn của Tổ quốc.


4. Vai trò tiêu chuẩn


Chính đảng cũng như lá phiếu là những dụng cụ, phương tiện của một sự chọn lựa. Bắt buộc hay yêu cầu công dân đi bầu không có ích lợi gì nếu công việc bầu cử không có cái ý nghĩa là lựa chọn. Trong những cuộc tuyển cử – khi công dân đi bầu dân biểu Quốc hội hay Tổng thống – làm sao công dân lựa chọn nếu không có chính đảng trình ứng cử viên và chương trình của họ? Vẫn biết rằng bất cứ một cá nhân nào cũng có quyền ra ứng cử và có thể có chương trình. Nhưng đó là một tình trạng vô kỉ luật và bất hữu hiệu. Chọn lựa giữa ba nhân vật hay ba chính đảng là việc khó khăn rồi.


Chính đảng không những là tiêu chuẩn, mà còn đóng vai trò quan trọng là thu hẹp lại, giới hạn những tiêu chuẩn để lựa chọn. Và dân chúng sẽ dựa vào đó mà chọn nhà cầm quyền và bầy tỏ ý chí của mình một cách dễ dàng.


Không những là tiêu chuẩn của một sự lựa chọn, chính đảng còn là tiêu chuẩn của sự thực hiện sự lựa chọn ấy. Công dân đâu phải tín nhiệm một chính đảng rồi thôi. Lựa chọn và tín nhiệm một chính đảng để chính đảng này thực hiện chương trình và chính sách của mình. Xuyên qua sự thực hiện đó, công dân sẽ quyết định tiếp tục hay rút lại sự tín nhiệm của mình. Chính đảng là dụng cụ thể hiện ý chí của dân chúng trong một giai đoạn nhất định.


Tóm lại, xuyên qua những vai trò mà chúng ta vừa kể – huấn luyện công dân và đào tạo nhà lãnh đạo tương lai – phác họa danh từ chính trị hóa các vấn đề – tiêu chuẩn của sự lựa chọn – chính đảng có một tầm quan trọng trong cuộc sinh hoạt chính trị và chính đảng là cơ quan biểu hiện và tạo thành ý chí quốc gia. Và qua sự trung gian của chính đảng, công dân tích cực và trực tiếp tham gia vào sinh hoạt chính trị.


D. MỰC ĐỘ THAM GIA CỦA CÔNG DÂN VÀO CHÍNH ĐẢNG


Tham gia vào chính đảng là một danh từ tổng quát. Ảnh hưởng của sự tham gia rất khác biệt tùy theo ở mực độ tham gia. Một cách tổng quát, chúng ta có thể nhìn thấy bốn loại công dân tham gia vào đời sống chính đảng: cử tri, công dân có cảm tình, hội viên và chiến hữu.


1. Cử tri: là những công dân bỏ phiếu cho chính đảng. Họ không phải là đảng viên, nhưng mỗi khi có tuyển cử là họ bỏ phiếu cho ứng cử viên do đảng đưa ra. Mà sử dụng lá phiếu cho một chính đảng là hành vi tham gia vào cuộc sinh hoạt chính đảng. Nhưng đó là một sự tham gia ở mực độ kém nhất.


2. Cảm tình viên: là những công dân không gia nhập đảng nhưng có nhiều cảm tình với đảng. Họ tán đồng quan điểm chính trị, họ theo dõi hoạt động của chính đảng. Họ mua và đọc báo của đảng và lẽ dĩ nhiên, bầu cho đảng (hạng công dân sợ liên hệ đối với địa vị và nghề nghiệp).


3. Đảng viên: thường tìm thấy ở chính đảng quần chúng là những công dân ghi tên vào đảng, có thẻ và đóng nguyệt liễm hay niên liễm đều đều, tham gia vào các cuộc hội họp của đảng, có thể giữ một chức vụ trong guồng máy hành chính của đảng.


4. Chiến hữu: là những đảng viên hoạt động. Tất cả các công tác của chính đảng dựa trên hoạt động của loại đảng viên này. Tuyên truyền cho đảng, phổ biến khẩu hiệu, dán những bích chương, phát truyền đơn, bán báo cho đảng v.v… Những chiến hữu này là những con người tối cần của đảng nhất là trong giai đoạn vận động tuyển cử. Vì chính họ đảm nhiệm tất cả việc tổ chức và vận động cử tri bỏ phiếu cho đảng.


Đoạn 2: NHỮNG TỔ CHỨC KHÔNG MỤC TIÊU CHÍNH TRỊ


Những tổ chức này là tổ chức có tính cách văn hóa, xã hội, tôn giáo, nghề nghiệp v.v… Mục tiêu không phải là chính quyền, bênh vực hay phổ biến một ý tưởng, một quyền lợi. Hoạt động của các tổ chức này lắm khi có một tính cách chính trị và thực tại xã hội có thể đưa họ trong rất nhiều trường hợp, đến một lập trường chính trị.


Lí do của sự kiện này là giữa các vấn đề trong xã hội ngày nay có một sự liên đới rõ rệt và càng ngày càng gia tăng. Thật vậy, trong xã hội phức tạp ngày nay, rất khó mà phân tích và giải quyết một vấn đề gì – một vấn đề thoạt tiên chỉ có tính cách kĩ thuật, nghề nghiệp hay tôn giáo – nếu không đặt rõ nguyên nhân chính trị của nó.


A. Những tổ chức không mục tiêu chính trị này gồm có hai loại:


Loại thứ nhất gồm những tổ chức không đả động gì đến chính trị và rất dè dặt khi đề cập đến việc huấn luyện chính trị. Họ thường dùng danh từ công dân (hiệp hội, tổ chức, thanh niên, nghiệp đoàn…).


Loại thứ hai gồm những tổ chức thẳng thắn tuyên bố học tập, nghiên cứu chính trị (phong trào hòa bình, phong trào chống kì thị chủng tộc, hội bảo vệ dân quyền và nhân quyền…).


B. Những tổ chức này góp phần vào việc cấu tạo công luận và đưa công dân dự vào sự diễn tiến của quyết định chính trị. Góp phần vào việc cấu tạo công luận, nghĩa là đảm nhiệm trách vụ huấn luyện công dân, và trong cuộc huấn luyện các đoàn thể giúp nhiều cho việc chống lại những hậu quả tai hại của sự hững hờ, thái độ thụ động của công dân. Những buổi nói chuyện, những lớp tu nghiệp hay là báo chí của đoàn thể bổ khuyết một phần nào sự thiếu sót về phương diện thông tin của công dân.


Không những góp phần vào việc cấu tạo công luận, những tổ chức này còn đưa công dân dự vào sự diễn tiến của quyết định chính trị. Thật vậy, dù muốn dù không, những tổ chức này, một phần nào, đóng vai trò những đoàn thể áp lực. Họ có thể dồn hoạt động của Chính phủ theo một chiều hướng nhất định, vào một con đường quyết định. Hoặc họ cố gắng thúc đẩy hay cản trở những quyết định quan trọng liên quan ít nhiều đến đoàn thể họ.


Tóm lại, chúng ta đứng trước một hiện tượng cực kỳ quan trọng: hành vi chính trị của những tổ chức không mục tiêu chính trị. Tuy nhiên, qua hai vai trò mà chúng ta vừa thấy, qua sự trung gian của các tổ chức không mục tiêu chính trị này, công dân tham gia vào cuộc sinh hoạt chính trị. Nói một cách khác, chính những tổ chức này làm cho sự tham gia của công dân – không phải là đảng viên – được dễ dàng hơn nhiều.


KẾT LUẬN CHƯƠNG II: GIẢI THÍCH VỀ SỰ BẤT THAM GIA CHÍNH TRỊ


Tham gia bất thường, yếu ớt, vì tính cách không bó buộc của hoạt động chính trị


a. Chính trị có tiếng xấu.


Đây là một điểm quan trọng và chính yếu. Đối với đa số công dân, nói đến chính trị, người ta liên tưởng đến một địa hạt của những sự mua bán, đổi chác, xảo trá, đến một địa hạt mà quyền lợi của bè phái được xem là hơn cả. Công dân và nhất là cử tri có ý kiến không tốt đối với những sự mua bán ở hành lang Quốc hội, cho rằng các ông dân biểu lãnh lương quá nhiều đối với công việc làm thật sự.


Thêm vào đó, báo chí lại thổi phồng lên: những bức ảnh khôi hài chế nhạo những nhà chính trị, làm sai sự thật và chỉ nêu lên những điều không hay về sinh hoạt chính trị. Những tư tưởng không hay về chính trị được khai thác một cách quá đáng nhằm mục tiêu thương mại làm cho công dân càng thêm có những định kiến sai lầm về chính trị.


Vì thế mà mỗi khi có một sự thay đổi quan trọng nào thì người ta luôn luôn nghe nào là phải quét cho sạch, nào là phải thay đổi hẳn, nào là phải chặn lại những cường hào ác bá, nào là phải nói sự thật cho nhân dân và tất cả sự thật v.v… Những hiện tượng như thế chứng minh một phần nào thành kiến của công dân đối với chính trị: chính trị là xảo trá, thủ đoạn, lường gạt, cường hào ác bá, làm Tổng trưởng để hốt bạc và hách dịch. Chính trị là bệnh dịch hạch.


b. Những nguy cơ của chính trị


Trong những chính thể độc tài, lẽ tất nhiên những tự do chính kiến và tự do phát biểu không được nhìn nhận và bảo đảm, những nguy cơ này là một sự thật.


Nhưng chính trong những chính thể dân chủ, những cuộc chính biến hay những thay đổi tình thế có thể đem lại không ít nguy hiểm đến công dân. Khi mà công dân thấy tận mắt mình, những oai quyền hôm qua, hôm nay lại thành tù tội và phải bị sa lầy, khi họ tận mắt thấy rằng chính trị là lên voi xuống chó, thì dù rằng họ biết lẽ thông thường và sự trừng phạt là đúng đi nữa, họ không thể không rút ra một bài học chính xác, và bài học đó là thận trọng.


Hơn nữa công dân, trước khi tích cực tham gia chính trị, lại nghĩ đến ảnh hưởng của chính trị đến đời tư của họ, đến gia đình hay địa vị xã hội của họ. Chính trị hay phân li. Và một câu đầy ý nghĩa mà người ta thường thường hay nghe là: “Sở dĩ ở đây công việc chạy vì chúng tôi không làm chính trị”.


Những nguy cơ chính trị còn nhiều hơn nữa về phương diện nghề nghiệp: một anh thợ biết rằng ông chủ mình sẽ sa thải những người nào cầm đầu, kẻ chủ mưu, một nhà buôn ngại rằng khách hàng của mình sẽ không lui tới cửa hàng mình nếu anh có một lập trường chính trị.


Vì sợ những nguy cơ ấy, mà công dân tự kìm chế lấy mình, không tham gia vào bất cứ tổ chức nào, chính đảng hay nghiệp đoàn, và sự kìm chế này đi đến một mực độ mà họ từ khước thảo luận chính trị tại sở làm và không mang theo mình tờ báo mà người ta cho rằng của một chính đảng nhất định.


c. Cảm giác bất lực


Công dân có thể liều lĩnh hơn, bớt thận trọng hơn, nếu họ nhận thức được rằng hoạt động chính trị của họ có hiệu quả. Nhưng họ thường có cảm giác rằng, dù họ có làm gì đi nữa, họ vẫn bất lực.


Và cảm giác này có tính cách tổng quát, và dựa trên ý thức rằng con người quá cô đơn trong xã hội và dù cho mình muốn tham gia đi nữa, sự tham gia của một cá nhân giữa hàng ngàn, hàng triệu người có thể ví như một hạt nước ở biển khơi.


Yếu tố địa dư, xã hội: mực sống và điều kiện hiểu biết của công dân.


(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 04, 2013 12:52

September 2, 2013

Nỗi nhục

Phạm Thị Hoài


[image error]“Em là nỗi nhục cá»§a bộ giáo dục”, một cô giáo ở Việt Nam đã phê như thế vào bài kiểm tra bị chấm 1,5 điểm cá»§a học trò. Trang Vietnamnet đưa tin này vào một bài chạy tít “Bật cười với những lời phê hài hước cá»§a thày cô“.


Tôi chỉ thấy mình bật ngửa. Rồi được một người bạn nắn sốc, rằng Hoài đi xa lâu rồi không biết, dân mình là giống ưa nặng, không thượng cẳng chân hạ cẳng tay không được. Còn đã nói thì phải rát mặt, nhiếc móc phải xóc óc, chửi chưa rách mồm chưa đạt nghị quyết. Cái gì cũng phải thật phũ. Phê thế đã ăn thua gì. Ờ, ra vậy. Bên này, nơi tôi vừa mới qua 12 năm đi họp phụ huynh, học trò là Thượng đế toàn tập. Thượng đế có khùng, lười chảy thây, láo toét, dốt không lưu vào ổ nào cho hết, cũng không thể bị tước địa vị. Phê bình Thượng đế ở bên này là việc vô cùng nhạy cảm.


Nên tôi bỏ qua chuyện phong tục mỗi nơi một khác, chỉ bàn về nghĩa của lời phê nói trên. Nó trước hết cho thấy giáo viên quan tâm đến điều gì.


Tác hại duy nhất của học kém đáng cho cô giáo ấy nói đến là nó sỉ nhục Bộ Giáo dục. Như thể mục đích quan trọng nhất của sự học trong nhà trường là vinh danh Bộ này. Suy ra, nông dân thất bát là sỉ nhục Bộ Nông nghiệp, bệnh nhân sâu răng mắt toét là sỉ nhục Bộ Y tế, vượt đèn đỏ là sỉ nhục Bộ Giao thông, doanh nghiệp phá sản là sỉ nhục Bộ Tài chính, giết người là sỉ nhục Bộ Công an, và giữa hoàng hôn cộng sản mà dựng quán cafe nháy mắt với Lenin, hoài niệm một thuở bình minh cộng sản thì tất nhiên là sỉ nhục Bộ Chính trị. Ý nghĩa của toàn bộ thành tích sống, chiến đấu, lao động, học tập và uống cà phê của người Việt được xác định qua vinh và nhục cho các thiết chế chính quyền.


Nỗi nhục có hai khả năng liên đới. Nỗi nhục cá»§a ai, cá»§a cái gì và nỗi nhục cho ai, cho cái gì. Trong văn cảnh đang nói tới, giáo viên đã viết ẩu, ẩu không chừa cả chính tả và dấu chấm câu. Lẽ ra phải sá»­a thành “Em là nỗi nhục cho Bộ Giáo dục.” mới đúng ý xỉ vả muốn gá»­i đến cậu học trò. Còn nỗi nhục cá»§a Bộ Giáo dục là bất lá»±c trước một nền sư phạm không chỉ phÅ© phàng mà còn hoàn toàn nhầm đối tượng phụng sá»±. Không phải cậu học trò, mà cô giáo ấy là nỗi nhục cá»§a Bộ này. Còn nỗi nhục cá»§a truyền thông khi gợi ý cho công luận “bật cười” ở đây, tôi không muốn đếm xỉa.


Một năm học mới ở Việt Nam lại bắt đầu. Bên này cũng thế, các Thượng đế lại lon ton đến trường.


© 2013 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 02, 2013 14:06

Nỗi nhục

Phạm Thị Hoài


“Em là nỗi nhục của bộ giáo dục”, một cô giáo ở Việt Nam đã phê như thế vào bài kiểm tra bị chấm 1,5 điểm của học trò. Trang Vietnamnet đưa tin này vào một bài chạy tít “Bật cười với những lời phê hài hước của thày cô“.


Tôi chỉ thấy mình bật ngửa. Rồi được một người bạn nắn sốc, rằng Hoài đi xa lâu rồi không biết, dân mình là giống ưa nặng, không thượng cẳng chân hạ cẳng tay không được. Còn đã nói thì phải rát mặt, nhiếc móc phải xóc óc, chửi chưa rách mồm chưa đạt nghị quyết. Cái gì cũng phải thật phũ. Phê thế đã ăn thua gì. Ờ, ra vậy. Bên này, nơi tôi vừa mới qua 12 năm đi họp phụ huynh, học trò là Thượng đế toàn tập. Thượng đế có khùng, lười chảy thây, láo toét, dốt không lưu vào ổ nào cho hết, cũng không thể bị tước địa vị. Phê bình Thượng đế ở bên này là việc vô cùng nhạy cảm.


Nên tôi bỏ qua chuyện phong tục mỗi nơi một khác, chỉ bàn về nghĩa của lời phê nói trên. Nó trước hết cho thấy giáo viên quan tâm đến điều gì.


Tác hại duy nhất của học kém đáng cho cô giáo ấy nói đến là nó sỉ nhục Bộ Giáo dục. Như thể mục đích quan trọng nhất của sự học trong nhà trường là vinh danh Bộ này. Suy ra, nông dân thất bát là sỉ nhục Bộ Nông nghiệp, bệnh nhân sâu răng mắt toét là sỉ nhục Bộ Y tế, vượt đèn đỏ là sỉ nhục Bộ Giao thông, doanh nghiệp phá sản là sỉ nhục Bộ Tài chính, giết người là sỉ nhục Bộ Công an, và giữa hoàng hôn cộng sản mà dựng quán cafe nháy mắt với Lenin, hoài niệm một thuở bình minh cộng sản thì tất nhiên là sỉ nhục Bộ Chính trị. Ý nghĩa của toàn bộ thành tích sống, chiến đấu, lao động, học tập và uống cà phê của người Việt được xác định qua vinh và nhục cho các thiết chế chính quyền.


Nỗi nhục có hai khả năng liên đới. Nỗi nhục của ai, của cái gì và nỗi nhục cho ai, cho cái gì. Trong văn cảnh đang nói tới, giáo viên đã viết ẩu, ẩu không chừa cả chính tả và dấu chấm câu. Lẽ ra phải sửa thành “Em là nỗi nhục cho Bộ Giáo dục.” mới đúng ý xỉ vả muốn gửi đến cậu học trò. Còn nỗi nhục của Bộ Giáo dục là bất lực trước một nền sư phạm không chỉ phũ phàng mà còn hoàn toàn nhầm đối tượng phụng sự. Không phải cậu học trò, mà cô giáo ấy là nỗi nhục của Bộ này. Còn nỗi nhục của truyền thông khi gợi ý cho công luận “bật cười” ở đây, tôi không muốn đếm xỉa.


Một năm học mới ở Việt Nam lại bắt đầu. Bên này cũng thế, các Thượng đế lại lon ton đến trường.


© 2013 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 02, 2013 14:06

September 1, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (8)

Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4, kì 5, kì 6, kì 7


THIÊN THỨ BA: SỰ THAM GIA CHÍNH TRỊ CỦA CÔNG DÂN TRONG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ


VẤN ĐỀ THAM GIA CHÍNH TRỊ


Trong những năm gần đây, nhiều cuộc sưu tầm, nghiên cứu của khoa chính trị học tiết lộ rằng sự tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị kém phần đắc lực. Đây là một hiện tượng chính trị mà người ta tìm thấy không những trong các nước mà mức sống đã lên cao, mà luôn cả trong những quốc gia mới nữa. Và là một hiện tượng cực kỳ quan trọng liên hệ mật thiết đến nền dân chủ cận đại. Người ta có thể quả quyết rằng chính vì công dân không lưu tâm cho mấy đến cuộc sinh hoạt chính trị, vì, công dân chịu đựng hơn là hoạt động để ảnh hưởng đến đời sống chính trị mà khuynh hướng độc tài có cơ hội phát triển.


Nếu chính thể dân chá»§ – như mọi người đã biết – có ý nghÄ©a sâu xa là toàn dân tá»± quyết định lấy vận mệnh cá»§a mình, thì vấn đề then chốt là vấn đề công dân tham gia chính trị.


Cần phải nhận định ngay rằng tham gia chính trị không có nghĩa là tham gia chính quyền! Nó cũng không có nghĩa là cúi đầu tuân lệnh.


*


Mỗi người trong chúng ta đương nhiên là phần tử của một xã hội chính trị, vì mỗi người chúng ta đã được sinh ra và sống trong xã hội ấy. Dù muốn dù không, chúng ta thuộc về một xã hội chính trị. Nhưng thuộc về một xã hội chính trị là một chuyện, mà ý thức tầm quan trọng của mối tương quan giữa mình và xã hội ấy và cùng chung một định mệnh là một vấn đề khác nữa.


Thường thường công dân chỉ nhận thức được xã hội chính trị qua những sự kìm chế, sự cưỡng bách đè nén lên đầu họ để rồi khi nói đến Quốc gia, Nhà nước, họ không khỏi có một thái độ thờ ơ, một cái nhìn lãnh đạm. “Chúng nó”, “Các ổng”… là những danh từ chỉ chính quyền và gián tiếp phủ nhận vai trò đại diện, và thái độ thờ ơ đối với thời cuộc vẫn tiếp diễn giữa lúc sự sống còn của đất nước được đặt ra.


Tất cả vấn đề là phải đảo ngược khuynh hướng tai hại này và chỉnh đốn cuộc sinh hoạt chính trị. Nói đến sinh hoạt chính trị là nói đến tất cả những hành vi cá»§a công dân nhằm mục tiêu hướng dẫn bộ máy chính quyền. Tham gia chính trị  – ở đây là tham gia cá»§a công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị  – chỉ có nghÄ©a là khi nó được thể hiện qua sá»± can thiệp cá»§a công dân vào những vấn đề công cộng.


Sá»± tham gia này – điều kiện tất yếu để tránh ngay khuynh hướng độc tài và cá»§ng cố cuộc sinh hoạt chính trị dân chá»§ – không được nhiều người chú ý. Và thái độ bất tham gia, thái độ thụ động vẫn tiếp tục ngá»± trị trong thá»±c tế và trong lòng người.


CHƯƠNG I: TUYỂN CỬ


Mục I: CHẾ ĐỘ TUYỂN CỬ VÀ ĐẶC TÍNH CỦA ĐẦU PHIẾU


Đoạn 1: CHẾ ĐỘ TUYỂN CỬ


Ngày nay, với sá»± tiến triển cá»§a tư tưởng dân chá»§, chế độ tuyển cá»­ là chế độ phổ thông đầu phiếu. Tuy nhiên, cần phải ý thức ngay rằng hiện tượng này là thành quả cá»§a bao thế kỉ đấu tranh cá»§a các dân tộc trên thế giới hầu giành quyền bầu cá»­. Trước đây – và giờ này trong một vài nước – chế độ tuyển cá»­ không có tính cách phổ thông, rộng rãi và trái lại quyền đầu phiếu bị hạn chế rất nhiều: đó là chế độ hạn chế đầu phiếu. Chúng ta sẽ lần lượt trình bày hai chế độ này:


A. Chế độ hạn chế đầu phiếu


Có hạn chế đầu phiếu khi nào quyền bầu cử không phải là quyền đương nhiên của mỗi công dân. Có đầu phiếu hạn chế khi nào quyền bầu cử chỉ dành cho những công dân hội đủ một vài điều kiện như tài sản, học lực, giai cấp xã hội, chủng tộc.


1. Hình thức thứ nhất cá»§a hạn chế đầu phiếu là chế độ đầu phiếu theo thuế ngạch: ở đây điều kiện đòi hỏi là tài sản: nghÄ©a là chỉ có quyền bầu cá»­ những công dân nào có đóng một số thuế tối thiểu được ấn định trước. Những người chá»§ trương chế độ đầu phiếu theo thuế nghạch quan niệm rằng chỉ có những người có thể đóng thuế – nghÄ©a là những người có tài sản mới thá»±c là những công dân tha thiết với việc quốc gia. Chính những người này mới có quyền bầu cá»­, nghÄ©a là tham gia vào việc chọn lá»±a nhà cầm quyền – vì chính họ là những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi những quyết định cá»§a chính quyền.


Trên đây chỉ là một quan niệm quá chật hẹp, quá vật chất về tác dụng của tuyển cử. Không phải có tài sản mới quan tâm đến quốc sự, không phải chỉ có những công dân giầu có mới chịu ảnh hưởng của những quyết định của chính quyền. Thật ra, chế độ đầu phiếu theo thuế ngạch chỉ là một biện pháp nhằm kìm hãm sự tiến triển của phong trào dân chủ bằng cách truất quyền bầu cử của đại đa số công dân mà dành quyền ấy cho các địa chủ trong lúc đương thời. Không quyền bầu cử tất nhiên là không quyền ứng cử, rốt cuộc là đại diện nhân dân và nhà cầm quyền thuộc về một giai cấp nào đó.


2. Hình thức thứ hai của hạn chế đầu phiếu là chế độ tuyển cử theo năng lực; ở đây điều kiện là một trình độ học thức tối thiểu. Mục đích là loại hẳn những người được xem là không xứng đáng, ví dụ như mù chữ, không biết đọc và không biết viết. Tất cả vấn đề là chúng ta tự hỏi chế độ đầu phiếu năng lực có phải là một vi phạm quan trọng đến tính cách phổ thông của cuộc đầu phiếu hay không? Câu trả lời rất tế nhị vì nó tùy thuộc trình độ giáo dục của mỗi quốc gia. Trong một quốc gia mà giáo dục được phổ biến rộng rãi, vấn đề thất học chỉ là một ngoại lệ, thì sự kiện loại những người mù chữ chỉ là một biện pháp hữu hiệu chặn đứng những công dân thiếu năng lực. Trái lại, trong những quốc gia mà giáo dục không được phổ thông lắm, đa số vẫn còn mù chữ, dành quyền bầu cử cho người biết đọc và biết viết tức là áp dụng đầu phiếu hạn chế vi phạm đến tính cách phổ thông của tuyển cử. Áp dụng đầu phiếu hạn chế có thể là chính đáng, nhưng dù sao cũng có tính cách phản dân chủ.


Tóm lại, tùy theo trình độ giáo dục của mỗi xứ, chế độ tuyển cử theo năng lực được xem là vi phạm hay không đến tính cách phổ thông của đầu phiếu.


3. Ngoài những điều kiện về năng lực hay tài sản, người ta còn tìm thấy những hình thức hạn chế khác liên quan đến điều kiện giai cấp hay chủng tộc. Hạn chế đầu phiếu còn có một hình thức khác nữa liên quan đến vấn đề phụ nữ. Phụ nữ có quyền đi bầu hay không là một đầu đề được tranh luận sôi nổi. Vì đây là một khía cạnh của vấn đề nam nữ bình quyền.


Những người chủ trương truất quyền bầu cử của phụ nữ cho rằng:



Phụ nữ, bản tính yếu ớt rồi, tất nhiên là khác nam nhi.
Phụ nữ không gánh vác nhiều việc nước nhất là không thi hành quân dịch.
Phụ nữ có nhiệm vụ thiêng liêng là “tề gia nội trợ” bầu cử để làm gì; những hoạt động ngoài xã hội, nhất là chính trị dành cho nam giới.

Đó là những lí do phủ nhận quyền bầu cử của phụ nữ. Mặc dù ngày nay những lí do trên không còn xác đáng nữa, nhưng nó đã làm cản trở không ít việc phụ nữ bầu. Bằng cớ là ngay giờ phút này, phụ nữ vẫn chưa có quyền đi bầu tại Thụy Sĩ. Và tại Hoa Kỳ phụ nữ có quyền bầu cử ở năm 1920, ở Anh 1928, tại Pháp 1945.


Tóm lại, qua những hình thức mà chúng ta vừa thấy đó, phụ nữ, chủng tộc, giai cấp, năng lực hay tài sản chế độ hạn chế đầu phiếu đã được áp dụng rất lâu. Nhưng đây là một chế độ giao-thời và chế độ này đã nhường chỗ cho chế độ phổ thông đầu phiếu trong rất nhiều quốc gia trên thế giới ngày nay.


B. Chế độ phổ thông đầu phiếu


Có phổ thông đầu phiếu là khi nào quyền bầu cử của công dân không bị hạn chế bởi những điều kiện về tài sản, học lực, giai cấp v.v… Trong chế độ phổ thông đầu phiếu tất cả công dân không phân biệt, có học hay thất học đều có quyền đi bầu.


Tuy nhiên phổ thông đầu phiếu không có nghĩa là bất cứ công dân nào cũng có quyền đi bầu cử. Dù đầu phiếu có phổ thông, cũng còn có những loại người mà quyền đầu phiếu bị phủ nhận.


1. Loại thứ nhất: những vị thành niên


Người ta quan niệm rằng sử dụng lá phiếu là một điều tối quan trọng vì tác dụng của nó là chọn lựa nhà cầm quyền, một điều tối quan trọng như vậy, một hành vi căn bản như thế, những vị thành niên – nghĩa là những con người chưa đủ lí trí, chưa hiểu biết – không thể làm được.


Nhưng tuổi nào là tuổi trưởng thành để có quyền sử dụng lá phiếu? Ấn định một con số tùy thuộc ở mỗi quốc gia và trong giai đoạn lịch sử của quốc gia đó. Thường thường là 21 tuổi nhưng cũng có thể dưới 21 hay trên 21.


Ở Việt Nam ta[i], chiểu theo Dụ số 8 ngày 23-4-1956, tuổi trưởng thành để có quyền đi bầu cá»­ là 18 tuổi. Và Sắc luật ngày 19-6-1966 ấn định thể thức bầu cá»­ Quốc hội Lập hiến trong điều 4 có ấn định rằng: “Cá»­ tri trong mỗi đơn vị bầu cá»­ là những người có quốc tịch Việt Nam, bất luận nam hay nữ, đủ 18 tuổi”.


2. Loại thứ hai: những người điên


Ở đây là những người đã được xác nhận là có bệnh loạn óc và bị giữ tại nhà thương điên. Và những người bị cấm vì trí óc thiếu minh mẫn. Tất cả những người này đều không quyền đi bầu.


3. Loại thứ ba: những người không xứng đáng


Không xứng đáng nghĩa là những ai can tội thường phạm về đại hình hoặc tiểu hình: giết người, trộm cướp, lừa gạt, biển thủ v.v… Tất cả những người này không còn xứng đáng là công dân một nước tự do và mất quyền bầu cử. Có thể xem như không xứng đáng những công dân đã cộng tác với địch hoặc có những hành động phản quyền lợi quốc gia trong thời kỳ bị chiếm đóng.


4. Loại thứ tư: những ngoại kiều


Ngoại kiều cư trú trong nước – vì không phải là công dân – nên không quyền đi bầu. Và dù có nhập tịch đi nữa, họ phải đợi một thời gian mới có quyền bầu cử.


Tóm lại, ngoài những loại kể trên, tất cả đều có quyền bầu cử trong một chế độ phổ thông đầu phiếu.


Đoạn 2: NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA ĐẦU PHIẾU


Đầu phiếu có thể có tính cách công khai hoặc kín, bình đẳng hoặc bất bình đẳng, trực tiếp hoặc gián tiếp, tự do hoặc cưỡng bách.


A. Đầu phiếu công khai và đầu phiếu kín


Đầu phiếu kín, ngày nay được xem là một bảo đảm quan trọng cho tự do của cử tri. Vì nếu phải công khai bầy tỏ lập trường của mình, có thể sợ rằng công dân không còn độc lập tinh thần để quyết định: công chức theo chỉ thị thượng cấp, quân nhân theo lệnh của cấp chỉ huy.


Tuy nhiên, đầu phiếu công khai thường được áp dụng tại Nghị viện trong những trường hợp quan trọng. Người ta quan niệm rằng, ít ra trước những vấn đề quan trọng, thái độ của dân biểu phải thẳng thắn rõ rệt. Và không có biện pháp nào hay cho bằng công bố những biểu quyết của dân biểu để cho các vị này ý thức trách nhiệm của mình đối với quốc gia và cử tri. Và chỉ có đầu phiếu công khai mới biết được lập trường chính trị của vị dân biểu.


B. Đầu phiếu bình đẳng và đầu phiếu phức số


Đầu phiếu bình đẳng có nghĩa là mỗi cử tri có quyền và chỉ có quyền bỏ một lá phiếu. Trái lại, với đầu phiếu phức số, một cử tri có thể bỏ được nhiều phiếu hoặc tại một nơi hoặc ở nhiều nơi, nhưng mỗi nơi bỏ một phiếu. Lịch sử nước Anh cho chúng ta thấy cách đầu phiếu phức số rất lí thú. Mỗi công dân Anh, trước năm 1951, có thể bỏ một phiếu nơi mình cư trú, một phiếu nơi có cửa hàng buôn bán, một nơi có đại học đường mà họ đã tốt nghiệp. Cách đầu phiếu này đã bị bãi bỏ vì tính cách bất công. Chỉ có người cử tri giầu, có phương tiện mới sử dụng được.


Tuy nhiên, dưới một hình thức khác, đầu phiếu phức số còn được chủ trương: đó là đầu phiếu gia đình, người ta cho rằng chủ gia đình phải có quyền bỏ một số phiếu ngang với số con vị thành niên hoặc mỗi chủ gia đình có thêm một phiếu khi con số con bằng hay hơn con số nhất định (ví dụ 3 con trở lên). Lí do đưa ra là chủ gia đình có con đông, có trách nhiệm nhiều trong xã hội. Cần phải nhận định ngay rằng có những chủ gia đình bê bối và có những kẻ độc thân nhưng rất quan tâm đến việc công. Hơn nữa, tại sao lại chủ gia đình đại diện cho con? Hoặc những đứa con này có một ý chí rõ ràng và đủ trí không để thể hiện ý chí đó thì để cho chúng nó quyết định: vấn đề là hạ thấp tuổi trưởng thành để có quyền đi bầu. Hoặc nếu luật pháp cho rằng chúng nó không đủ sáng suốt để sử dụng lá phiếu thì có lí do nào để cho người cha đại diện, và đại diện cho ai?


C. Đầu phiếu trực tiếp và đầu phiếu gián tiếp


Đầu phiếu trá»±c tiếp có nghÄ©a là cá»­ tri bầu thẳng, một cách trá»±c tiếp, những nhà cầm quyền. Trái lại, với đầu phiếu gián tiếp, cá»­ tri bầu trước hết một số đại diện – thường gọi là “cá»­ tri đệ nhị cấp” – rồi các đại diện này mới bầu nhà cầm quyền qua một cuộc bầu cá»­ thứ hai. Đầu phiếu gián tiếp có thể áp dụng với nhiều trật: 2 trật, 3 trật…


Đầu phiếu gián tiếp đã đóng một vai trò quan trọng ở thế kỉ trước, khi mà những phương tiện giao thông cùng những kĩ thuật thông báo không được nhanh lắm thành thử giữa cử tri và đại diện cần phải có một sự trung gian. Ngày nay những lí do này không còn nữa và đầu phiếu trực tiếp được thông dụng.


Tuy nhiên, đầu phiếu gián tiếp vẫn còn được áp dụng trong việc tổ chức cơ quan công quyền của một quốc gia liên bang, nhất là để bầu đại diện ở Thượng Nghị viện.


D. Đầu phiếu tự do và đầu phiếu cưỡng bách


Đầu phiếu tự do có nghĩa là tùy ý cử tri đi hay không đi bầu. Đầu phiếu cưỡng bách có nghĩa là có một sự bắt buộc pháp lí cử tri đi bầu. Cần phải thêm rằng cưỡng bách không có nghĩa một sự kềm chế thân thể cử tri mà trái lại sẽ có một sự chế tài nào đó đối với công dân không tham gia cuộc đầu phiếu. Nguyên tắc cưỡng bách đầu phiếu dựa trên hai ý tưởng chính: thứ nhất bỏ phiếu là một nhiệm vụ mà đương sự không thể tự mình từ chối; thứ hai sự bất tham gia của công dân sẽ làm mất ý nghĩa của cuộc đầu phiếu.[ii]


Mục II: THỂ THỨC ĐẦU PHIẾU


Sau khi đã xét qua chế độ tuyển cử và phân tích đặc tính của đầu phiếu, bây giờ chúng ta tự hỏi theo cách nào, công dân sẽ chọn lựa nhà cầm quyền. Đó là thể thức đầu phiếu. Trong mục này chúng ta sẽ lần lượt trình bày một vài quy tắc trước khi đề cập đến những thể thức của đầu phiếu.


Đoạn 1: MỘT VÀI QUY TẮC TỔ CHỨC


A. NHỮNG VẤN ĐỀ HÀNH CHÍNH


Trong mọi cuộc tuyển cử, luôn luôn có một số vấn đề liên quan đến cử tri và ứng cử viên mà chúng ta cần thấu hiểu.


1. Về phía cử tri


* Số cử tri: tất cả nam nữ công dân có quyền bầu cử.


* Số cử tri có trong danh sách: tất cả công dân có quyền đi bầu và có tên trong danh sách ở mỗi đơn vị bầu cử. Đây là một điều cần ghi nhớ. Để có thể đi bầu, mỗi công dân phải có tên trong danh sách cử tri và có thẻ cử tri hợp lệ.


Thường thường, cơ quan hành chính thiết lập và niêm yết danh sách cử tri trong mỗi đơn vị hai lần: lần thứ nhất lối 2 tháng trước ngày bầu cử và lần thứ nhì lối 1 tháng trước ngày bầu cử.


Công dân nào có đủ điều kiện bầu cử mà bị sót tên hoặc nhận thấy có sự lầm lẫn trong việc ghi tên trong danh sách cử tri, đều có quyền khiếu nại.


* Số cử tri đi bầu: tất cả các cử tri có đến phòng phiếu và bỏ lá phiếu vào thùng phiếu.


* Số phiếu có giá trị: Kể như bất hợp lệ và vô giá trị những trường hợp sau đây: phong bì không đựng gì cả; phong bì đựng những giấy tờ khác lá phiếu đã phát ra; lá phiếu không nằm trong phong bì; lá phiếu bị xé mất hết tên họ ứng cử viên; phong bì đựng hơn một lá phiếu; phong bì hay lá phiếu có viết thêm chữ hay ghi thêm dấu hiệu; tên khác.


2. Về phía ứng cử viên


Ứng cử viên đương nhiên phải là cử tri có quyền đi bầu. Tuy nhiên thường thường luật lệ còn quy định một số điều kiện khắc khe liên quan đến ứng cử viên. Để lấy thí dụ cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến ngày 11-9-1966: có quyền ứng cử Dân biểu Quốc hội Lập hiến những nam nữ công dân hội đủ các điều kiện sau đây:



Có quốc tịch Việt Nam liên tục từ khi sinh hoặc đã nhập tịch Việt ít nhất 5 năm, hoặc đã hồi Việt tịch ít nhất 3 năm tính đến ngày bầu cử.
Đủ 25 tuổi.
Không bị liệt vào những trường hợp vô tư cách. (Ví dụ có án phạt về tiểu hình, đại hình, khánh tận, sa thải v.v…)

Ngoài ra, không được quyền ứng cử trong địa hạt nhiệm sở những người đang đảm nhiệm các chức vụ sau đây và những người phối ngẫu của họ:



Các Đô trưởng, Thị trưởng, thẩm phán, cấp chỉ huy ngành cảnh sát, các sĩ quan, hạ sĩ quan v.v…

Vì đây là những chức vụ điều khiển, người ta ngại rằng có thể có áp lực dễ dàng đối với cử tri và đồng thời dùng phương tiện chính quyền đưa đến sự thiếu bình đẳng giữa ứng cử viên.


B. ĐẦU PHIẾU ĐƠN DANH HAY ĐẦU PHIẾU LIÊN DANH


1. Đầu phiếu được xem là đơn danh là khi nào trong một đơn vị tuyển cử, cử tri chỉ có quyền bầu một ứng cử viên.


Đầu phiếu liên danh có nghĩa là trong mỗi đơn vị tuyển cử, cử tri có quyền bầu hai hay nhiều ứng cử viên. Đầu phiếu liên danh có hai loại:


* Loại thứ nhất: ứng cử viên tranh cử một cách rời rạc.


* Loại thứ hai: một danh sách ứng cử thành lập, tùy theo chính đảng hay nhóm có khuynh hướng chính trị khác nhau. Ví dụ trong một đơn vị tuyển cử, có ba ghế phải bầu, thì mỗi danh sách phải ghi tên ba ứng cử viên. Cử tri khi bỏ phiếu tùy theo luật bầu cử của mỗi xứ có thể có hai thái độ:



Hoặc họ bắt buộc phải bỏ cho cả danh sách.
Hoặc họ có quyền lựa chọn và gạch tên những người mà họ không muốn bầu và thay vào bằng tên ứng cử viên thuộc một danh sách khác.

2. Thể thức đơn danh hay liên danh đầu phiếu liên quan đến vấn đề ấn định địa giới các đơn vị tuyển cá»­. Nếu lãnh thổ được phân chia ra nhiều đơn vị tuyển cá»­ nhỏ bé, và mỗi đơn vị chỉ có một ghế, thì lẽ tất nhiên đầu phiếu phải là đầu phiếu đơn danh. Trái lại, nếu đơn vị tuyển cá»­ được ấn định một cách rộng rãi – ví dụ như nếu chúng ta lấy một tỉnh để làm đơn vị tuyển cá»­ – mỗi tỉnh ít ra cÅ©ng có một số dân biểu thì lẽ tất nhiên đầu phiếu là đầu phiếu liên danh.


3. Đơn danh hay liên danh đầu phiếu đều có những ưu và khuyết điểm.


* Để bênh vực lối đơn danh đầu phiếu, người ta cho rằng theo thể thức này cử tri biết rõ ứng cử viên hơn. Vì đơn vị tuyển cử là một đơn vị nhỏ, ứng cử viên nhất định phải là người mà cử tri biết nhiều. Hơn nữa, ra tranh cử một mình, đơn thương độc mã, ứng cử viên phải cổ động mạnh và như thế, đức độ, tài năng của ứng viên sẽ được cử tri phán đoán một cách xác thực. Trong lúc đó, theo lối liên danh đầu phiếu, thường thường người ta thấy những danh sách với ứng cử viên vô danh bất tài. Họa may chỉ có người đứng đầu danh sách là có tên tuổi, còn lại toàn là người có tên mà chính đảng cố ghép vào để cho danh sách đầy đủ đó thôi.


* Để bênh vực lối liên danh đầu phiếu, người ta cho rằng đơn danh đầu phiếu hay đưa đến những cuộc tranh luận giữa người và người, cuộc tranh giành giữa cá nhân có ảnh hưởng, thế lực hậu quả không tốt đẹp như: xâm phạm đến đời tư, đến thanh danh của ứng cử viên…Toàn là những chi tiết vớ vẩn, những ganh tị thấp hèn. Trái lại, với lối liên danh đầu phiếu – nhất là với hình thức danh sách – cuộc vận động tuyển cử sẽ hướng về chính đảng, và khuynh hướng chính trị, nghĩa là sự phán đoán của cử tri sẽ dựa trên những tiêu chuẩn chính trị, những chương trình, ý tưởng, chính sách v.v…


Đó là những ưu và khuyết điểm mà người ta thường đưa ra để bênh vực cho hai thể thức đơn danh và liên danh. Sự thật, kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng mỗi thể thức không hẳn có những hậu quả đương nhiên như thế. Tùy theo truyền thống, theo tình hình chính trị, tùy theo trình độ giáo dục chính trị của mỗi xứ, đơn danh hay liên danh cũng có thể đưa đến những cuộc tranh luận về chính sách hay những cuộc tranh giành cá nhân.


Đoạn 2: ĐẦU PHIẾU THEO ĐA SỐ VÀ ĐẦU PHIẾU THEO TỶ LỆ


Đây là hai thể thức đầu phiếu quan trọng được áp dụng trong rất nhiều quốc gia.


A. ĐẦU PHIẾU THEO ĐA SỐ


Đầu phiếu theo đa số nghĩa là trong mỗi đơn vị tuyển cử, ứng cử viên nào nhiều phiếu hơn cả thì đắc cử. Đầu phiếu theo đa số có hai hình thức: Đầu phiếu theo đa số với một vòng và đầu phiếu theo đa số với hai vòng. Với thể thức thứ nhất – đầu phiếu theo đa số với một vòng – kết quả sẽ có ngay sau khi đầu phiếu – vì với thể thức này, một đa số tương đối cũng đủ để đắc cử. Và dù trong trường hợp có đồng phiếu, thường vị cao niên đắc cử.


Trái lại với thể thức thứ nhì – đầu phiếu theo đa số với hai vòng – tính cách của đa số được ấn định khắt khe hơn. Trong vòng thứ nhất, chỉ được đắc cử ứng cử viên nào thu được đa số tuyệt đối tổng số phiếu có giá trị. Nếu không một tuần hay hai tuần sau, cử tri lại phải đi bầu lần thứ nhì mà trong vòng thứ nhì này, đa số tương đối đủ để đắc cử.


B. ĐẦU PHIẾU THEO TỈ LỆ


Đầu phiếu được xem là đầu phiếu theo tỉ lệ khi nào số ghế trong một đơn vị tuyển cử được chia cho các danh sách ra tranh cử theo tỉ lệ số phiếu của mỗi danh sách. Đầu phiếu theo tỉ lệ hết sức phức tạp. Có nhiều hình thức về đầu phiếu theo tỉ lệ. Chúng ta chỉ đề cập ở đây thể thức đơn giản nhất nhưng cũng rắc rối rồi. Thể thức đầu phiếu theo tỉ lệ đòi hỏi chúng ta giải quyết nhiều bài toán.


1. Bài toán thứ nhất


Trong một đơn vị tuyển cử nhất định:



Số ghế phải bầu là bao nhiêu?                                        5
Tổng số cử tri đã bỏ phiếu là bao nhiêu?                   100.000

2. Bài toán thứ hai


Ấn định thương số tuyển cử hay là số chia tuyển cử: nghĩa là lấy tổng số cử tri đã bỏ phiếu trong đơn vị tuyển cử chia cho số ghế phải bầu. Thương số đó tức là thương số tuyển cử hay là số chia tuyển cử: 100.000/5 = 20.000


 3. Bài toán thứ ba


Số phiếu của mỗi danh sách


A. 47.000


B. 21.000


C. 19.000


D. 13.000


4.  Bài toán thứ tư


Số ghế của mỗi danh sách hay là số ứng cử viên đắc cử của mỗi danh sách. Chúng ta lấy số phiếu của mỗi danh sách chia cho số chia tuyển cử:


Danh sách A: 2 ghế (47.000 : 20.000)           2


Danh sách B: 1 ghế (21.000 : 20.000)           1


Tóm lại, số ghế của mỗi liên danh sẽ được tính bằng cách chia số phiếu của liên danh cho thương số tuyển cử; cứ có bao nhiều lần thương số tuyển cử trong số phiếu nói trên thì liên danh có bấy nhiêu ghế.


5. Bài toán thứ năm


Hai ghế còn lại sẽ chia cho danh sách nào? Để giải quyết bài toán này, có hai phương pháp:


Phương pháp số dư lớn nhất và phương pháp số trung bình lớn nhất. Theo phương pháp số dư lớn nhất, người ta sẽ phân phối số ghế còn lại cho danh sách nào có số dư lớn nhất. Để lấy thí dụ của chúng ta, danh sách C, D mỗi danh sách một ghế vì hai danh sách còn nhiều phiếu dư. Với phương pháp này, kết quả cuối cùng là: A 2 ghế, B 1 ghế, C 1 ghế, D 1 ghế. Đây là một phương pháp đơn giản nhưng không công bình vì đối với danh sách A, phải có 23.500 cử tri mới được 1 ghế, trong lúc đó danh sách D chỉ cần 13.000 cũng có 1 ghế.


Phương pháp số trung bình lớn nhất, nhằm thực hiện sự công bằng trong việc phân phối các ghế còn lại. Nghĩa là cố gắng làm sao mà số ghế cấp cho mỗi danh sách tương xứng với số phiếu của mỗi danh sách.


Người ta lần lượt phân phối từng ghế một còn lại cho mỗi danh sách và xem số trung bình của danh sách nào lớn nhất. Danh sách nào có số trung bình lớn nhất sẽ thừa hưởng ghế còn lại. Ví dụ: ở trên 3 ghế phân phối rồi, còn ghế thứ tư và thứ năm.



Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách A thì danh sách này sẽ có 3 ghế với 47.000 phiếu, nghĩa là trung bình mỗi ghế 15.700 phiếu.
Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách B thì danh sách này sẽ có hai ghế với 21.000 phiếu, nghĩa là trung bình mỗi ghế 10.500 phiếu.
Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách C thì danh sách này sẽ có một ghế với 19.000 phiếu.
Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách D thì danh sách này sẽ có một ghế với 13.000 phiếu.

Danh sách C được ghế thứ tư, vì được số trung bình cao nhất.


Rồi cũng như vậy nữa cho ghế thứ năm.



Nếu phân phối cho danh sách A – trung bình 15.700
Nếu phân phối cho danh sách B – trung bình 10.500
Nếu phân phối cho danh sách C vừa được 1 ghế (2 ghế với 19.000) – trung bình 9.500
Nếu phân phối cho danh sách D – trung bình 13.000

So sánh chúng ta thấy rằng danh sách A có số trung bình trội nhất, danh sách A sẽ được ghế thứ năm. Kết quả cuối cùng, với phương pháp số trung bình lớn nhất, chúng ta có:



A: 3 ghế
B: 1 ghế
C: 1 ghế

C. Ý NGHĨA CỦA CÁC THỂ THỨC ĐẦU PHIẾU


Người ta đã tranh luận rất nhiều về các thể thức đầu phiếu. Những ưu và khuyết điểm của mỗi cách được đưa ra và dựa trên những yếu tố công bình và đại diện.


a. Đầu phiếu theo tỉ lệ được xem là công bình nhất vì mọi xu hướng chính trị có thể đại diện tại Quốc hội. Các đảng phái, nhỏ, lớn đều có đại diện. Người ta quan niệm rằng một Nghị viện bao gồm tất cả nguồn dư luận, khuynh hướng chính trị, tôn giáo trong nước là một Nghị viện có tính cách hoàn toàn đại diện. Một Quốc hội được bầu với lối đầu phiếu tỉ lệ phản ảnh thực sự thực trạng dư luận của một quốc gia. Đầu phiếu theo đa số, trái lại gạt bỏ một cách trắng trợn thiểu số ra ngoài Nghị viện. Hơn nữa, đôi khi chính đảng có đa số tại Quốc hội lại là thiểu số trên phương diện tổng số phiếu cử tri.


Đứng trên phương diện thuần túy công bằng, những nhận xét trên rất đúng. Tất cả vấn đề là thá»­ hỏi một thứ công bằng giản dị như thế sẽ đưa đến đâu. Khi mà cần phải lấy một quyết định, quyết định do đa số chứ không phải theo tỉ lệ. Chúng ta có thể chọn lá»±a dân biểu theo tỉ lệ nhưng khi phải quyết định nghÄ©a là chọn lá»±a giữa cái này hay cái kia, danh từ tỉ lệ không còn có nghÄ©a nữa. Vấn đề đặt ra là tìm một thể thức đầu phiếu có thể đưa đến một cÆ¡ quan chính trị có khả năng quyết định. Theo quan niệm này – và đây là một quan điểm thá»±c tế nhất – chúng ta có những nhận xét sau đây về giá trị cá»§a thể thức đầu phiếu.


b. Đầu phiếu theo đa số với một vòng đưa đến sự tập trung dư luận. Nói một cách khác thể thức đầu phiếu này giúp nhiều cho sự thành lập một hệ thống lưỡng đảng trong một đơn vị tuyển cử nhất định. Lí do là vì một đa số tương đối đủ để được đắc cử ở vòng đầu là vòng duy nhất, mọi chia rẽ chắc chắn sẽ đưa đến thất bại. Để lấy một ví dụ cụ thể: trong một đơn vị tuyển cử dư luận theo Đảng Bảo thủ chiếm 60% và dư luận theo Đảng Lao động 40%. Ví dụ vì một lí do nào đó, có một sự chia rẽ nội bộ của Đảng Bảo thủ. Thay vì có một ứng cử viên Bảo thủ chống lại một ứng cử viên Lao động, chúng ta thấy hai ứng cử viên Bảo thủ trong đơn vị ấy. Kết quả có thể đưa đến như thế này: 35% cho ứng cử viên Bảo thủ thứ nhất; 25% cho ứng cử viên Bảo thủ thứ nhì và 40% cho ứng cử viên Lao động. Rút cuộc: ứng cử viên Lao động đắc cử mặc dù dư luận theo phe Lao động là thiểu số ở đơn vị ấy, vì một lẽ rất giản dị là họ không bị chia rẽ.


Bởi vậy, đầu phiếu theo đa số với một vòng đưa đến sự thành lập một hệ thống lưỡng đảng trong mỗi đơn vị tuyển cử. Và những lực lượng tác giả của kết quả này là chính đảng và cử tri. Chính đảng – như chúng ta vừa thấy – để tránh kết quả tai hại một sự chia rẽ, sẽ tìm cách để đưa ra tranh cử một ứng viên xứng đáng và duy nhất.


Về phía cá»­ tri cÅ©ng thế. Với một thể thức đầu phiếu vừa đơn giản, vừa cứng rắn như vậy, cá»­ tri có khuynh hướng bỏ phiếu cho ứng cá»­ viên – không phải ứng cá»­ viên lí tưởng – mà gần họ nhất và có nhiều hi vọng đắc cá»­. Thá»±c tại chính trị tại Anh Quốc cho chúng ta thấy điều đó. Ở Anh có Đảng Tá»± do được dư luận chú ý không ít. Nhưng ở Quốc hội đại diện cá»§a Đảng Tá»± do hoàn toàn như không có. Vì trong đa số đơn vị tuyển cá»­, ứng cá»­ viên Đảng Tá»± do không bao giờ có hi vọng đắc cá»­, cá»­ tri cá»§a Đảng Tá»± do có khuynh hướng dồn phiếu mình cho một trong hai ứng cá»­ viên khác. Làm như thế để cho lá phiếu cá»§a họ có một tác dụng cụ thể.


Do đó tâm trạng của cử tri cũng như của chính đảng đưa đến một sự tập trung lực lượng chính trị nếu đầu phiếu theo đa số với một vòng được áp dụng


c. Trái lại, hậu quả cá»§a đầu phiếu theo tỉ lệ là một sá»± li tán chính đảng và dư luận. Nếu mỗi chính đảng chắc chắn rằng mình sẽ có một số đại diện tương xứng với số phiếu mà cá»­ tri bỏ cho mình thì không có lí do gì thúc đẩy các chính đảng kết hợp lại. Các khuynh hướng, các hệ phái sẽ thi đua nhay xuất hiện và cố giữ tính cách tá»± trị và riêng biệt cá»§a mình. Quốc hội gồm nhiều hệ phái, chính đảng lẻ tẻ, nho nhỏ như thế, chắc chắn sẽ trở nên bất lá»±c vì không quyết định được gì. Và với một hệ thống đa đảng như thế trong một chế độ đại nghị – chế độ mà Chính phá»§ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, chắc chắn sẽ có khá»§ng hoảng chính trị trầm trọng, vì Quốc hội chỉ biết lật đổ Chính phá»§ và không có khả năng thành lập Chính phá»§. Và các khá»§ng hoảng chính trị sẽ đưa đến một sá»± hỗn loạn và sẽ là những cÆ¡ hội khuynh hướng độc tài có dịp phát triển.


d. Cần phải nhấn mạnh rằng, những nhận xét trên đây chỉ có tính cách tương đối. Chúng ta không thể nói rằng – ở Việt Nam[iii] – nếu áp dụng đầu phiếu đa số với một vòng – chúng ta đương nhiên sẽ có một hệ thống lưỡng đảng. Nhưng dù sao, thể thức này là một trong những yếu tố đưa đến sá»± cấu tạo những lá»±c lượng tập trung, một hệ thống chính đảng giản dị và hữu hiệu.


Mục III: VẤN ĐỀ BẤT THAM GIA CUỘC ĐẦU PHIẾU


Đi bỏ phiếu là một hành vi cực kỳ quan trọng, thể hiện sự tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị. Vẫn biết rằng đi bầu không có nghĩa là tất cả sự tham gia – vì công dân còn tham gia chính trị với nhiều hình thức khác nữa – nhưng đây là một hình thức tham gia quan trọng, dễ nhận thấy và dễ thảo luận. Thông thường, trước khi tuyển cử, trong lúc tuyển cử, có những sự vận động tuyên truyền, bao nhiêu giấy tờ, bao nhiêu tài liệu, tất cả các sự kiện ấy đều hướng về tuyển cử. Và chính tính cách công khai và vô số tài liệu nhất là về thống kê đã giúp nhiều trong việc khảo cứu tác dụng của tuyển cử trên phương diện chính trị học. Và một trong những vấn đề chính là vấn đề bất tham gia:



Mực độ bất tham gia
Nguyên do của sự bất tham gia

Đoạn 1: MỰC ĐỘ BẤT THAM GIA


Để hiểu trong một quốc gia nào đó, công dân có tham gia hay không tham gia vào một cuộc tuyển cử nhất định, chúng ta chỉ cần so sánh vài con số và biết ngay: con số về cử tri có tên trong danh sách tuyển cử và con số những cử tri đi bầu. Thoạt tiên thì dễ như thế, nhưng sự thật để có một ý niệm chính xác, vấn đề phức tạp hơn nữa. Vì so sánh hai sự kiện trên không cho chúng ta con số chắc chắn:


A. Điểm thứ nhất, chúng ta phải để ý đến những công dân không có tên trong danh sách cử tri không đi bầu mà còn có vô số công dân không chịu xem coi mình có tên trong danh sách cử tri hay không. Có những người không có tên trong danh sách cử tri tại nơi mình cư trú nhưng có tên trong danh sách ở một nơi mà họ không còn ở nữa. Chính những người này là những người không tham gia vào cuộc bầu cử.


B. Điều thứ hai là mặc dù chính quyền nhất là các tòa hành chính cố gắng rất nhiều để lập danh sách cử tri và cập nhật hóa, mặc dù thế vẫn còn nhiều thiếu sót nhất là trường hợp của công dân có tên ở hai nơi: ví dụ cử tri ở quận ba và ở một quận khác nữa.


C. Điểm thứ ba: trong số công dân không đi bỏ phiếu, cần phải ý thức rằng có một số người có lí do chính đáng đã không đi bầu: nghĩa là vì bận thật chứ không phải không muốn tham gia. Trên phương diện thống kê, thì chắc chắn là có một số người đau ốm hoặc bận công vụ.


Đó là điều mà chúng ta phải để ý khi đo lường mức độ tham gia của công dân. Vì khi mà chúng ta xem kỹ, tổng số bất tham gia có thể xuống nhiều, và như thế cuộc sưu tầm mới đem đến những kết luận tương đối khách quan và chính xác.


Đoạn 2: NGUYÊN DO CỦA SỰ BẤT THAM GIA


Tại sao công dân lại không đi bỏ phiếu? Nhất là sau khi đã chịu khó xem còn có tên mình trong danh sách cử tri và lãnh thẻ cử tri. Một câu hỏi quan trọng mà câu trả lời – tùy thuộc ở nguyên nhân – sẽ có ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc sinh hoạt chính trị. Yếu tố liên hệ đến cá nhân, đến thời cuộc về ý nghĩa của cuộc tuyển cử.


A. YẾU TỐ CÁ NHÂN liên hệ đến cá nhân mỗi người cũng như gia đình, nghề nghiệp



Nam giới hay nữ giới: nữ giới ít đi bỏ phiếu.
Tuổi tác: trẻ tuổi và già ít đi bỏ phiếu như những người đứng tuổi.
Giai cấp xã hội và mực độ sinh sống: giai cấp trung lưu; công chức cao cấp hay nghề nghiệp tự do hay là thành phần thương gia; thợ thuyền; công chức hay tư chức hạng B; nông dân.
Địa thế của cư trú: xa hay gần chỗ bỏ phiếu: phương tiện giao thông.

B. YẾU TỐ THỜI CUỘC


Tùy theo lúc, công dân tham gia nhiều hay ít vào cuộc tuyển cử. Một cuộc tuyển cử để lập một chính thể mới, hay là sau một cuộc chính biến, một cuộc khủng hoảng chính trị chắc chắn sẽ có rất đông người tham gia.


C. YẾU TỐ LIÊN HỆ ĐẾN Ý NGHĨA TUYỂN CỬ



Tham gia nhiều về cuộc tuyển cử toàn quốc hơn là địa phương
Tuyển cử có tính cách chính trị hơn là nghề nghiệp
Tuyển cử kết quả biết trước.


(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.





[i] Tức Việt Nam Cộng hòa (p&c)




[ii] Ngày 27-11-65 tại Sydney (Úc) một công dân Úc không chịu nộp phạt 1,5 Úc Kim về tội không bỏ phiếu, đã bị phạt 3 ngày tù. (NVB)




[iii] Tức Việt Nam Cộng hòa (p&c)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 01, 2013 09:04

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (8)

Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4, kì 5, kì 6, kì 7


THIÊN THỨ BA: SỰ THAM GIA CHÍNH TRỊ CỦA CÔNG DÂN TRONG CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ


VẤN ĐỀ THAM GIA CHÍNH TRỊ


Trong những năm gần đây, nhiều cuộc sưu tầm, nghiên cứu của khoa chính trị học tiết lộ rằng sự tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị kém phần đắc lực. Đây là một hiện tượng chính trị mà người ta tìm thấy không những trong các nước mà mức sống đã lên cao, mà luôn cả trong những quốc gia mới nữa. Và là một hiện tượng cực kỳ quan trọng liên hệ mật thiết đến nền dân chủ cận đại. Người ta có thể quả quyết rằng chính vì công dân không lưu tâm cho mấy đến cuộc sinh hoạt chính trị, vì, công dân chịu đựng hơn là hoạt động để ảnh hưởng đến đời sống chính trị mà khuynh hướng độc tài có cơ hội phát triển.


Nếu chính thể dân chủ – như mọi người đã biết – có ý nghĩa sâu xa là toàn dân tự quyết định lấy vận mệnh của mình, thì vấn đề then chốt là vấn đề công dân tham gia chính trị.


Cần phải nhận định ngay rằng tham gia chính trị không có nghĩa là tham gia chính quyền! Nó cũng không có nghĩa là cúi đầu tuân lệnh.


*


Mỗi người trong chúng ta đương nhiên là phần tử của một xã hội chính trị, vì mỗi người chúng ta đã được sinh ra và sống trong xã hội ấy. Dù muốn dù không, chúng ta thuộc về một xã hội chính trị. Nhưng thuộc về một xã hội chính trị là một chuyện, mà ý thức tầm quan trọng của mối tương quan giữa mình và xã hội ấy và cùng chung một định mệnh là một vấn đề khác nữa.


Thường thường công dân chỉ nhận thức được xã hội chính trị qua những sự kìm chế, sự cưỡng bách đè nén lên đầu họ để rồi khi nói đến Quốc gia, Nhà nước, họ không khỏi có một thái độ thờ ơ, một cái nhìn lãnh đạm. “Chúng nó”, “Các ổng”… là những danh từ chỉ chính quyền và gián tiếp phủ nhận vai trò đại diện, và thái độ thờ ơ đối với thời cuộc vẫn tiếp diễn giữa lúc sự sống còn của đất nước được đặt ra.


Tất cả vấn đề là phải đảo ngược khuynh hướng tai hại này và chỉnh đốn cuộc sinh hoạt chính trị. Nói đến sinh hoạt chính trị là nói đến tất cả những hành vi của công dân nhằm mục tiêu hướng dẫn bộ máy chính quyền. Tham gia chính trị  – ở đây là tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị  – chỉ có nghĩa là khi nó được thể hiện qua sự can thiệp của công dân vào những vấn đề công cộng.


Sự tham gia này – điều kiện tất yếu để tránh ngay khuynh hướng độc tài và củng cố cuộc sinh hoạt chính trị dân chủ – không được nhiều người chú ý. Và thái độ bất tham gia, thái độ thụ động vẫn tiếp tục ngự trị trong thực tế và trong lòng người.


CHƯƠNG I: TUYỂN CỬ


Mục I: CHẾ ĐỘ TUYỂN CỬ VÀ ĐẶC TÍNH CỦA ĐẦU PHIẾU


Đoạn 1: CHẾ ĐỘ TUYỂN CỬ


Ngày nay, với sự tiến triển của tư tưởng dân chủ, chế độ tuyển cử là chế độ phổ thông đầu phiếu. Tuy nhiên, cần phải ý thức ngay rằng hiện tượng này là thành quả của bao thế kỉ đấu tranh của các dân tộc trên thế giới hầu giành quyền bầu cử. Trước đây – và giờ này trong một vài nước – chế độ tuyển cử không có tính cách phổ thông, rộng rãi và trái lại quyền đầu phiếu bị hạn chế rất nhiều: đó là chế độ hạn chế đầu phiếu. Chúng ta sẽ lần lượt trình bày hai chế độ này:


A. Chế độ hạn chế đầu phiếu


Có hạn chế đầu phiếu khi nào quyền bầu cử không phải là quyền đương nhiên của mỗi công dân. Có đầu phiếu hạn chế khi nào quyền bầu cử chỉ dành cho những công dân hội đủ một vài điều kiện như tài sản, học lực, giai cấp xã hội, chủng tộc.


1. Hình thức thứ nhất của hạn chế đầu phiếu là chế độ đầu phiếu theo thuế ngạch: ở đây điều kiện đòi hỏi là tài sản: nghĩa là chỉ có quyền bầu cử những công dân nào có đóng một số thuế tối thiểu được ấn định trước. Những người chủ trương chế độ đầu phiếu theo thuế nghạch quan niệm rằng chỉ có những người có thể đóng thuế – nghĩa là những người có tài sản mới thực là những công dân tha thiết với việc quốc gia. Chính những người này mới có quyền bầu cử, nghĩa là tham gia vào việc chọn lựa nhà cầm quyền – vì chính họ là những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi những quyết định của chính quyền.


Trên đây chỉ là một quan niệm quá chật hẹp, quá vật chất về tác dụng của tuyển cử. Không phải có tài sản mới quan tâm đến quốc sự, không phải chỉ có những công dân giầu có mới chịu ảnh hưởng của những quyết định của chính quyền. Thật ra, chế độ đầu phiếu theo thuế ngạch chỉ là một biện pháp nhằm kìm hãm sự tiến triển của phong trào dân chủ bằng cách truất quyền bầu cử của đại đa số công dân mà dành quyền ấy cho các địa chủ trong lúc đương thời. Không quyền bầu cử tất nhiên là không quyền ứng cử, rốt cuộc là đại diện nhân dân và nhà cầm quyền thuộc về một giai cấp nào đó.


2. Hình thức thứ hai của hạn chế đầu phiếu là chế độ tuyển cử theo năng lực; ở đây điều kiện là một trình độ học thức tối thiểu. Mục đích là loại hẳn những người được xem là không xứng đáng, ví dụ như mù chữ, không biết đọc và không biết viết. Tất cả vấn đề là chúng ta tự hỏi chế độ đầu phiếu năng lực có phải là một vi phạm quan trọng đến tính cách phổ thông của cuộc đầu phiếu hay không? Câu trả lời rất tế nhị vì nó tùy thuộc trình độ giáo dục của mỗi quốc gia. Trong một quốc gia mà giáo dục được phổ biến rộng rãi, vấn đề thất học chỉ là một ngoại lệ, thì sự kiện loại những người mù chữ chỉ là một biện pháp hữu hiệu chặn đứng những công dân thiếu năng lực. Trái lại, trong những quốc gia mà giáo dục không được phổ thông lắm, đa số vẫn còn mù chữ, dành quyền bầu cử cho người biết đọc và biết viết tức là áp dụng đầu phiếu hạn chế vi phạm đến tính cách phổ thông của tuyển cử. Áp dụng đầu phiếu hạn chế có thể là chính đáng, nhưng dù sao cũng có tính cách phản dân chủ.


Tóm lại, tùy theo trình độ giáo dục của mỗi xứ, chế độ tuyển cử theo năng lực được xem là vi phạm hay không đến tính cách phổ thông của đầu phiếu.


3. Ngoài những điều kiện về năng lực hay tài sản, người ta còn tìm thấy những hình thức hạn chế khác liên quan đến điều kiện giai cấp hay chủng tộc. Hạn chế đầu phiếu còn có một hình thức khác nữa liên quan đến vấn đề phụ nữ. Phụ nữ có quyền đi bầu hay không là một đầu đề được tranh luận sôi nổi. Vì đây là một khía cạnh của vấn đề nam nữ bình quyền.


Những người chủ trương truất quyền bầu cử của phụ nữ cho rằng:



Phụ nữ, bản tính yếu ớt rồi, tất nhiên là khác nam nhi.
Phụ nữ không gánh vác nhiều việc nước nhất là không thi hành quân dịch.
Phụ nữ có nhiệm vụ thiêng liêng là “tề gia nội trợ” bầu cử để làm gì; những hoạt động ngoài xã hội, nhất là chính trị dành cho nam giới.

Đó là những lí do phủ nhận quyền bầu cử của phụ nữ. Mặc dù ngày nay những lí do trên không còn xác đáng nữa, nhưng nó đã làm cản trở không ít việc phụ nữ bầu. Bằng cớ là ngay giờ phút này, phụ nữ vẫn chưa có quyền đi bầu tại Thụy Sĩ. Và tại Hoa Kỳ phụ nữ có quyền bầu cử ở năm 1920, ở Anh 1928, tại Pháp 1945.


Tóm lại, qua những hình thức mà chúng ta vừa thấy đó, phụ nữ, chủng tộc, giai cấp, năng lực hay tài sản chế độ hạn chế đầu phiếu đã được áp dụng rất lâu. Nhưng đây là một chế độ giao-thời và chế độ này đã nhường chỗ cho chế độ phổ thông đầu phiếu trong rất nhiều quốc gia trên thế giới ngày nay.


B. Chế độ phổ thông đầu phiếu


Có phổ thông đầu phiếu là khi nào quyền bầu cử của công dân không bị hạn chế bởi những điều kiện về tài sản, học lực, giai cấp v.v… Trong chế độ phổ thông đầu phiếu tất cả công dân không phân biệt, có học hay thất học đều có quyền đi bầu.


Tuy nhiên phổ thông đầu phiếu không có nghĩa là bất cứ công dân nào cũng có quyền đi bầu cử. Dù đầu phiếu có phổ thông, cũng còn có những loại người mà quyền đầu phiếu bị phủ nhận.


1. Loại thứ nhất: những vị thành niên


Người ta quan niệm rằng sử dụng lá phiếu là một điều tối quan trọng vì tác dụng của nó là chọn lựa nhà cầm quyền, một điều tối quan trọng như vậy, một hành vi căn bản như thế, những vị thành niên – nghĩa là nhưng con người chưa đủ lí trí, chưa hiểu biết – không thể làm được.


Nhưng tuổi nào là tuổi trưởng thành để có quyền sử dụng lá phiếu? Ấn định một con số tùy thuộc ở mỗi quốc gia và trong giai đoạn lịch sử của quốc gia đó. Thường thường là 21 tuổi nhưng cũng có thể dưới 21 hay trên 21.


Ở Việt Nam ta[i], chiểu theo Dụ số 8 ngày 23-4-1956, tuổi trưởng thành để có quyền đi bầu cử là 18 tuổi. Và Sắc luật ngày 19-6-1966 ấn định thể thức bầu cử Quốc hội Lập hiến trong điều 4 có ấn định rằng: “Cử tri trong mỗi đơn vị bầu cử là những người có quốc tịch Việt Nam, bất luận nam hay nữ, đủ 18 tuổi”.


2. Loại thứ hai: những người điên


Ở đây là những người đã được xác nhận là có bệnh loạn óc và bị giữ tại nhà thương điên. Và những người bị cấm vì trí óc thiếu minh mẫn. Tất cả những người này đều không quyền đi bầu.


3. Loại thứ ba: những người không xứng đáng


Không xứng đáng nghĩa là những ai can tội thường phạm về đại hình hoặc tiểu hình: giết người, trộm cướp, lừa gạt, biển thủ v.v… Tất cả những người này không còn xứng đáng là công dân một nước tự do và mất quyền bầu cử. Có thể xem như không xứng đáng những công dân đã cộng tác với địch hoặc có những hành động phản quyền lợi quốc gia trong thời kỳ bị chiếm đóng.


4. Loại thứ tư: những ngoại kiều


Ngoại kiều cư trú trong nước – vì không phải là công dân – nên không quyền đi bầu. Và dù có nhập tịch đi nữa, họ phải đợi một thời gian mới có quyền bầu cử.


Tóm lại, ngoài những loại kể trên, tất cả đều có quyền bầu cử trong một chế độ phổ thông đầu phiếu.


Đoạn 2: NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA ĐẦU PHIẾU


Đầu phiếu có thể có tính cách công khai hoặc kín, bình đẳng hoặc bất bình đẳng, trực tiếp hoặc gián tiếp, tự do hoặc cưỡng bách.


A. Đầu phiếu công khai và đầu phiếu kín


Đầu phiếu kín, ngày nay được xem là một bảo đảm quan trọng cho tự do của cử tri. Vì nếu phải công khai bầy tỏ lập trường của mình, có thể sợ rằng công dân không còn độc lập tinh thần để quyết định: công chức theo chỉ thị thượng cấp, quân nhân theo lệnh của cấp chỉ huy.


Tuy nhiên, đầu phiếu công khai thường được áp dụng tại Nghị viện trong những trường hợp quan trọng. Người ta quan niệm rằng, ít ra trước những vấn đề quan trọng, thái độ của dân biểu phải thẳng thắn rõ rệt. Và không có biện pháp nào hay cho bằng công bố những biểu quyết của dân biểu để cho các vị này ý thức trách nhiệm của mình đối với quốc gia và cử tri. Và chỉ có đầu phiếu công khai mới biết được lập trường chính trị của vị dân biểu.


B. Đầu phiếu bình đẳng và đầu phiếu phức số


Đầu phiếu bình đẳng có nghĩa là mỗi cử tri có quyền và chỉ có quyền bỏ một lá phiếu. Trái lại, với đầu phiếu phức số, một cử tri có thể bỏ được nhiều phiếu hoặc tại một nơi hoặc ở nhiều nơi, nhưng mỗi nơi bỏ một phiếu. Lịch sử nước Anh cho chúng ta thấy cách đầu phiếu phức số rất lí thú. Mỗi công dân Anh, trước năm 1951, có thể bỏ một phiếu nơi mình cư trú, một phiếu nơi có cửa hàng buôn bán, một nơi có đại học đường mà họ đã tốt nghiệp. Cách đầu phiếu này đã bị bãi bỏ vì tính cách bất công. Chỉ có người cử tri giầu, có phương tiện mới sử dụng được.


Tuy nhiên, dưới một hình thức khác, đầu phiếu phức số còn được chủ trương: đó là đầu phiếu gia đình, người ta cho rằng chủ gia đình phải có quyền bỏ một số phiếu ngang với số con vị thành niên hoặc mỗi chủ gia đình có thêm một phiếu khi con số con bằng hay hơn con số nhất định (ví dụ 3 con trở lên). Lí do đưa ra là chủ gia đình có con đông, có trách nhiệm nhiều trong xã hội. Cần phải nhận định ngay rằng có những chủ gia đình bê bối và có những kẻ độc thân nhưng rất quan tâm đến việc công. Hơn nữa, tại sao lại chủ gia đình đại diện cho con? Hoặc những đứa con này có một ý chí rõ ràng và đủ trí không để thể hiện ý chí đó thì để cho chúng nó quyết định: vấn đề là hạ thấp tuổi trưởng thành để có quyền đi bầu. Hoặc nếu luật pháp cho rằng chúng nó không đủ sáng suốt để sử dụng lá phiếu thì có lí do nào để cho người cha đại diện, và đại diện cho ai?


C. Đầu phiếu trực tiếp và đầu phiếu gián tiếp


Đầu phiếu trực tiếp có nghĩa là cử tri bầu thẳng, một cách trực tiếp, những nhà cầm quyền. Trái lại, với đầu phiếu gián tiếp, cử tri bầu trước hết một số đại diện – thường gọi là “cử tri đệ nhị cấp” – rồi các đại diện này mới bầu nhà cầm quyền qua một cuộc bầu cử thứ hai. Đầu phiếu gián tiếp có thể áp dụng với nhiều trật: 2 trật, 3 trật…


Đầu phiếu gián tiếp đã đóng một vai trò quan trọng ở thế kỉ trước, khi mà những phương tiện giao thông cùng những kĩ thuật thông báo không được nhanh lắm thành thử giữa cử tri và đại diện cần phải có một sự trung gian. Ngày nay những lí do này không còn nữa và đầu phiếu trực tiếp được thông dụng.


Tuy nhiên, đầu phiếu gián tiếp vẫn còn được áp dụng trong việc tổ chức cơ quan công quyền của một quốc gia liên bang, nhất là để bầu đại diện ở Thượng Nghị viện.


D. Đầu phiếu tự do và đầu phiếu cưỡng bách


Đầu phiếu tự do có nghĩa là tùy ý cử tri đi hay không đi bầu. Đầu phiếu cưỡng bách có nghĩa là có một sự bắt buộc pháp lí cử tri đi bầu. Cần phải thêm rằng cưỡng bách không có nghĩa một sự kềm chế thân thể cử tri mà trái lại sẽ có một sự chế tài nào đó đối với công dân không tham gia cuộc đầu phiếu. Nguyên tắc cưỡng bách đầu phiếu dựa trên hai ý tưởng chính: thứ nhất bỏ phiếu là một nhiệm vụ mà đương sự không thể tự mình từ chối; thứ hai sự bất tham gia của công dân sẽ làm mất ý nghĩa của cuộc đầu phiếu.[ii]


Mục II: THỂ THỨC ĐẦU PHIẾU


Sau khi đã xét qua chế độ tuyển cử và phân tích đặc tính của đầu phiếu, bây giờ chúng ta tự hỏi theo cách nào, công dân sẽ chọn lựa nhà cầm quyền. Đó là thể thức đầu phiếu. Trong mục này chúng ta sẽ lần lượt trình bày một vài quy tắc trước khi đề cập đến những thể thức của đầu phiếu.


Đoạn 1: MỘT VÀI QUY TẮC TỔ CHỨC


A. NHỮNG VẤN ĐỀ HÀNH CHÍNH


Trong mọi cuộc tuyển cử, luôn luôn có một số vấn đề liên quan đến cử tri và ứng cử viên mà chúng ta cần thấu hiểu.


1. Về phía cử tri


* Số cử tri: tất cả nam nữ công dân có quyền bầu cử.


* Số cử tri có trong danh sách: tất cả công dân có quyền đi bầu và có tên trong danh sách ở mỗi đơn vị bầu cử. Đây là một điều cần ghi nhớ. Để có thể đi bầu, mỗi công dân phải có tên trong danh sách cử tri và có thẻ cử tri hợp lệ.


Thường thường, cơ quan hành chính thiết lập và niêm yết danh sách cử tri trong mỗi đơn vị hai lần: lần thứ nhất lối 2 tháng trước ngày bầu cử và lần thứ nhì lối 1 tháng trước ngày bầu cử.


Công dân nào có đủ điều kiện bầu cử mà bị sót tên hoặc nhận thấy có sự lầm lẫn trong việc ghi tên trong danh sách cử tri, đều có quyền khiếu nại.


* Số cử tri đi bầu: tất cả các cử tri có đến phòng phiếu và bỏ lá phiếu vào thùng phiếu.


* Số phiếu có giá trị: Kể như bất hợp lệ và vô giá trị những trường hợp sau đây: phong bì không đựng gì cả; phong bì đựng những giấy tờ khác lá phiếu đã phát ra; lá phiếu không nằm trong phong bì; lá phiếu bị xé mất hết tên họ ứng cử viên; phong bì đựng hơn một lá phiếu; phong bì hay lá phiếu có viết thêm chữ hay ghi thêm dấu hiệu; tên khác.


2. Về phía ứng cử viên


Ứng cử viên đương nhiên phải là cử tri có quyền đi bầu. Tuy nhiên thường thường luật lệ còn quy định một số điều kiện khắc khe liên quan đến ứng cử viên. Để lấy thí dụ cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến ngày 11-9-1966: có quyền ứng cử Dân biểu Quốc hội Lập hiến những nam nữ công dân hội đủ các điều kiện sau đây:



Có quốc tịch Việt Nam liên tục từ khi sinh hoặc đã nhập tịch Việt ít nhất 5 năm, hoặc đã hồi Việt tịch ít nhất 3 năm tính đến ngày bầu cử.
Đủ 25 tuổi.
Không bị liệt vào những trường hợp vô tư cách. (Ví dụ có án phạt về tiểu hình, đại hình, khánh tận, sa thải v.v…)

Ngoài ra, không được quyền ứng cử trong địa hạt nhiệm sở những người đang đảm nhiệm các chức vụ sau đây và những người phối ngẫu của họ:



Các Đô trưởng, Thị trưởng, thẩm phán, cấp chỉ huy ngành cảnh sát, các sĩ quan, hạ sĩ quan v.v…

Vì đây là những chức vụ điều khiển, người ta ngại rằng có thể có áp lực dễ dàng đối với cử tri và đồng thời dùng phương tiện chính quyền đưa đến sự thiếu bình đẳng giữa ứng cử viên.


B. ĐẦU PHIẾU ĐƠN DANH HAY ĐẦU PHIẾU LIÊN DANH


1. Đầu phiếu được xem là đơn danh là khi nào trong một đơn vị tuyển cử, cử tri chỉ có quyền bầu một ứng cử viên.


Đầu phiếu liên danh có nghĩa là trong mỗi đơn vị tuyển cử, cử tri có quyền bầu hai hay nhiều ứng cử viên. Đầu phiếu liên danh có hai loại:


* Loại thứ nhất: ứng cử viên tranh cử một cách rời rạc.


* Loại thứ hai: một danh sách ứng cử thành lập, tùy theo chính đảng hay nhóm có khuynh hướng chính trị khác nhau. Ví dụ trong một đơn vị tuyển cử, có ba ghế phải bầu, thì mỗi danh sách phải ghi tên ba ứng cử viên. Cử tri khi bỏ phiếu tùy theo luật bầu cử của mỗi xứ có thể có hai thái độ:



Hoặc họ bắt buộc phải bỏ cho cả danh sách.
Hoặc họ có quyền lựa chọn và gạch tên những người mà họ không muốn bầu và thay vào bằng tên ứng cử viên thuộc một danh sách khác.

2. Thể thức đơn danh hay liên danh đầu phiếu liên quan đến vấn đề ấn định địa giới các đơn vị tuyển cử. Nếu lãnh thổ được phân chia ra nhiều đơn vị tuyển cử nhỏ bé, và mỗi đơn vị chỉ có một ghế, thì lẽ tất nhiên đầu phiếu phải là đầu phiếu đơn danh. Trái lại, nếu đơn vị tuyển cử được ấn định một cách rộng rãi – ví dụ như nếu chúng ta lấy một tỉnh để làm đơn vị tuyển cử – mỗi tỉnh ít ra cũng có một số dân biểu thì lẽ tất nhiên đầu phiếu là đầu phiếu liên danh.


3. Đơn danh hay liên danh đầu phiếu đều có những ưu và khuyết điểm.


* Để bênh vực lối đơn danh đầu phiếu, người ta cho rằng theo thể thức này cử tri biết rõ ứng cử viên hơn. Vì đơn vị tuyển cử là một đơn vị nhỏ, ứng cử viên nhất định phải là người mà cử tri biết nhiều. Hơn nữa, ra tranh cử một mình, đơn thương độc mã, ứng cử viên phải cổ động mạnh và như thế, đức độ, tài năng của ứng viên sẽ được cử tri phán đoán một cách xác thực. Trong lúc đó, theo lối liên danh đầu phiếu, thường thường người ta thấy những danh sách với ứng cử viên vô danh bất tài. Họa may chỉ có người đứng đầu danh sách là có tên tuổi, còn lại toàn là người có tên mà chính đảng cố ghép vào để cho danh sách đầy đủ đó thôi.


* Để bênh vực lối liên danh đầu phiếu, người ta cho rằng đơn danh đầu phiếu hay đưa đến những cuộc tranh luận giữa người và người, cuộc tranh giành giữa cá nhân có ảnh hưởng, thế lực hậu quả không tốt đẹp như: xâm phạm đến đời tư, đến thanh danh của ứng cử viên…Toàn là những chi tiết vớ vẩn, những ganh tị thấp hèn. Trái lại, với lối liên danh đầu phiếu – nhất là với hình thức danh sách – cuộc vận động tuyển cử sẽ hướng về chính đảng, và khuynh hướng chính trị, nghĩa là sự phán đoán của cử tri sẽ dựa trên những tiêu chuẩn chính trị, những chương trình, ý tưởng, chính sách v.v…


Đó là những ưu và khuyết điểm mà người ta thường đưa ra để bênh vực cho hai thể thức đơn danh và liên danh. Sự thật, kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng mỗi thể thức không hẳn có những hậu quả đương nhiên như thế. Tùy theo truyền thống, theo tình hình chính trị, tùy theo trình độ giáo dục chính trị của mỗi xứ, đơn danh hay liên danh cũng có thể đưa đến những cuộc tranh luận về chính sách hay những cuộc tranh giành cá nhân.


Đoạn 2: ĐẦU PHIẾU THEO ĐA SỐ VÀ ĐẦU PHIẾU THEO TỶ LỆ


Đây là hai thể thức đầu phiếu quan trọng được áp dụng trong rất nhiều quốc gia.


A. ĐẦU PHIẾU THEO ĐA SỐ


Đầu phiếu theo đa số nghĩa là trong mỗi đơn vị tuyển cử, ứng cử viên nào nhiều phiếu hơn cả thì đắc cử. Đầu phiếu theo đa số có hai hình thức: Đầu phiếu theo đa số với một vòng và đầu phiếu theo đa số với hai vòng. Với thể thức thứ nhất – đầu phiếu theo đa số với một vòng – kết quả sẽ có ngay sau khi đầu phiếu – vì với thể thức này, một đa số tương đối cũng đủ để đắc cử. Và dù trong trường hợp có đồng phiếu, thường vị cao niên đắc cử.


Trái lại với thể thức thứ nhì – đầu phiếu theo đa số với hai vòng – tính cách của đa số được ấn định khắt khe hơn. Trong vòng thứ nhất, chỉ được đắc cử ứng cử viên nào thu được đa số tuyệt đối tổng số phiếu có giá trị. Nếu không một tuần hay hai tuần sau, cử tri lại phải đi bầu lần thứ nhì mà trong vòng thứ nhì này, đa số tương đối đủ để đắc cử.


B. ĐẦU PHIẾU THEO TỈ LỆ


Đầu phiếu được xem là đầu phiếu theo tỉ lệ khi nào số ghế trong một đơn vị tuyển cử được chia cho các danh sách ra tranh cử theo tỉ lệ số phiếu của mỗi danh sách. Đầu phiếu theo tỉ lệ hết sức phức tạp. Có nhiều hình thức về đầu phiếu theo tỉ lệ. Chúng ta chỉ đề cập ở đây thể thức đơn giản nhất nhưng cũng rắc rối rồi. Thể thức đầu phiếu theo tỉ lệ đòi hỏi chúng ta giải quyết nhiều bài toán.


1. Bài toán thứ nhất


Trong một đơn vị tuyển cử nhất định:



Số ghế phải bầu là bao nhiêu?                                        5
Tổng số cử tri đã bỏ phiếu là bao nhiêu?                   100.000

2. Bài toán thứ hai


Ấn định thương số tuyển cử hay là số chia tuyển cử: nghĩa là lấy tổng số cử tri đã bỏ phiếu trong đơn vị tuyển cử chia cho số ghế phải bầu. Thương số đó tức là thương số tuyển cử hay là số chia tuyển cử: 100.000/5 = 20.000


 3. Bài toán thứ ba


Số phiếu của mỗi danh sách


A. 47.000


B. 21.000


C. 19.000


D. 13.000


4.  Bài toán thứ tư


Số ghế của mỗi danh sách hay là số ứng cử viên đắc cử của mỗi danh sách. Chúng ta lấy số phiếu của mỗi danh sách chia cho số chia tuyển cử:


Danh sách A: 2 ghế (47.000 : 20.000)           2


Danh sách B: 1 ghế (21.000 : 20.000)           1


Tóm lại, số ghế của mỗi liên danh sẽ được tính bằng cách chia số phiếu của liên danh cho thương số tuyển cử; cứ có bao nhiều lần thương số tuyển cử trong số phiếu nói trên thì liên danh có bấy nhiêu ghế.


5. Bài toán thứ năm


Hai ghế còn lại sẽ chia cho danh sách nào? Để giải quyết bài toán này, có hai phương pháp:


Phương pháp số dư lớn nhất và phương pháp số trung bình lớn nhất. Theo phương pháp số dư lớn nhất, người ta sẽ phân phối số ghế còn lại cho danh sách nào có số dư lớn nhất. Để lấy thí dụ của chúng ta, danh sách C, D mỗi danh sách một ghế vì hai danh sách còn nhiều phiếu dư. Với phương pháp này, kết quả cuối cùng là: A 2 ghế, B 1 ghế, C 1 ghế, D 1 ghế. Đây là một phương pháp đơn giản nhưng không công bình vì đối với danh sách A, phải có 23.500 cử tri mới được 1 ghế, trong lúc đó danh sách D chỉ cần 13.000 cũng có 1 ghế.


Phương pháp số trung bình lớn nhất, nhằm thực hiện sự công bằng trong việc phân phối các ghế còn lại. Nghĩa là cố gắng làm sao mà số ghế cấp cho mỗi danh sách tương xứng với số phiếu của mỗi danh sách.


Người ta lần lượt phân phối từng ghế một còn lại cho mỗi danh sách và xem số trung bình của danh sách nào lớn nhất. Danh sách nào có số trung bình lớn nhất sẽ thừa hưởng ghế còn lại. Ví dụ: ở trên 3 ghế phân phối rồi, còn ghế thứ tư và thứ năm.



Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách A thì danh sách này sẽ có 3 ghế với 47.000 phiếu, nghĩa là trung bình mỗi ghế 15.700 phiếu.
Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách B thì danh sách này sẽ có hai ghế với 21.000 phiếu, nghĩa là trung bình mỗi ghế 10.500 phiếu.
Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách C thì danh sách này sẽ có một ghế với 19.000 phiếu.
Nếu phân phối ghế thứ tư cho danh sách D thì danh sách này sẽ có một ghế với 13.000 phiếu.

Danh sách C được ghế thứ tư, vì được số trung bình cao nhất.


Rồi cũng như vậy nữa cho ghế thứ năm.



Nếu phân phối cho danh sách A – trung bình 15.700
Nếu phân phối cho danh sách B – trung bình 10.500
Nếu phân phối cho danh sách C vừa được 1 ghế (2 ghế với 19.000) – trung bình 9.500
Nếu phân phối cho danh sách D – trung bình 13.000

So sánh chúng ta thấy rằng danh sách A có số trung bình trội nhất, danh sách A sẽ được ghế thứ năm. Kết quả cuối cùng, với phương pháp số trung bình lớn nhất, chúng ta có:



A: 3 ghế
B: 1 ghế
C: 1 ghế

C. Ý NGHĨA CỦA CÁC THỂ THỨC ĐẦU PHIẾU


Người ta đã tranh luận rất nhiều về các thể thức đầu phiếu. Những ưu và khuyết điểm của mỗi cách được đưa ra và dựa trên những yếu tố công bình và đại diện.


a. Đầu phiếu theo tỉ lệ được xem là công bình nhất vì mọi xu hướng chính trị có thể đại diện tại Quốc hội. Các đảng phái, nhỏ, lớn đều có đại diện. Người ta quan niệm rằng một Nghị viện bao gồm tất cả nguồn dư luận, khuynh hướng chính trị, tôn giáo trong nước là một Nghị viện có tính cách hoàn toàn đại diện. Một Quốc hội được bầu với lối đầu phiếu tỉ lệ phản ảnh thực sự thực trạng dư luận của một quốc gia. Đầu phiếu theo đa số, trái lại gạt bỏ một cách trắng trợn thiểu số ra ngoài Nghị viện. Hơn nữa, đôi khi chính đảng có đa số tại Quốc hội lại là thiểu số trên phương diện tổng số phiếu cử tri.


Đứng trên phương diện thuần túy công bằng, những nhận xét trên rất đúng. Tất cả vấn đề là thử hỏi một thứ công bằng giản dị như thế sẽ đưa đến đâu. Khi mà cần phải lấy một quyết định, quyết định do đa số chứ không phải theo tỉ lệ. Chúng ta có thể chọn lựa dân biểu theo tỉ lệ nhưng khi phải quyết định nghĩa là chọn lựa giữa cái này hay cái kia, danh từ tỉ lệ không còn có nghĩa nữa. Vấn đề đặt ra là tìm một thể thức đầu phiếu có thể đưa đến một cơ quan chính trị có khả năng quyết định. Theo quan niệm này – và đây là một quan điểm thực tế nhất – chúng ta có những nhận xét sau đây về giá trị của thể thức đầu phiếu.


b. Đầu phiếu theo đa số với một vòng đưa đến sự tập trung dư luận. Nói một cách khác thể thức đầu phiếu này giúp nhiều cho sự thành lập một hệ thống lưỡng đảng trong một đơn vị tuyển cử nhất định. Lí do là vì một đa số tương đối đủ để được đắc cử ở vòng đầu là vòng duy nhất, mọi chia rẽ chắc chắn sẽ đưa đến thất bại. Để lấy một ví dụ cụ thể: trong một đơn vị tuyển cử dư luận theo Đảng Bảo thủ chiếm 60% và dư luận theo Đảng Lao động 40%. Ví dụ vì một lí do nào đó, có một sự chia rẽ nội bộ của Đảng Bảo thủ. Thay vì có một ứng cử viên Bảo thủ chống lại một ứng cử viên Lao động, chúng ta thấy hai ứng cử viên Bảo thủ trong đơn vị ấy. Kết quả có thể đưa đến như thế này: 35% cho ứng cử viên Bảo thủ thứ nhất; 25% cho ứng cử viên Bảo thủ thứ nhì và 40% cho ứng cử viên Lao động. Rút cuộc: ứng cử viên Lao động đắc cử mặc dù dư luận theo phe Lao động là thiểu số ở đơn vị ấy, vì một lẽ rất giản dị là họ không bị chia rẽ.


Bởi vậy, đầu phiếu theo đa số với một vòng đưa đến sự thành lập một hệ thống lưỡng đảng trong mỗi đơn vị tuyển cử. Và những lực lượng tác giả của kết quả này là chính đảng và cử tri. Chính đảng – như chúng ta vừa thấy – để tránh kết quả tai hại một sự chia rẽ, sẽ tìm cách để đưa ra tranh cử một ứng viên xứng đáng và duy nhất.


Về phía cử tri cũng thế. Với một thể thức đầu phiếu vừa đơn giản, vừa cứng rắn như vậy, cử tri có khuynh hướng bỏ phiếu cho ứng cử viên – không phải ứng cử viên lí tưởng – mà gần họ nhất và có nhiều hi vọng đắc cử. Thực tại chính trị tại Anh Quốc cho chúng ta thấy điều đó. Ở Anh có Đảng Tự do được dư luận chú ý không ít. Nhưng ở Quốc hội đại diện của Đảng Tự do hoàn toàn như không có. Vì trong đa số đơn vị tuyển cử, ứng cử viên Đảng Tự do không bao giờ có hi vọng đắc cử, cử tri của Đảng Tự do có khuynh hướng dồn phiếu mình cho một trong hai ứng cử viên khác. Làm như thế để cho lá phiếu của họ có một tác dụng cụ thể.


Do đó tâm trạng của cử tri cũng như của chính đảng đưa đến một sự tập trung lực lượng chính trị nếu đầu phiếu theo đa số với một vòng được áp dụng


c. Trái lại, hậu quả của đầu phiếu theo tỉ lệ là một sự li tán chính đảng và dư luận. Nếu mỗi chính đảng chắc chắn rằng mình sẽ có một số đại diện tương xứng với số phiếu mà cử tri bỏ cho mình thì không có lí do gì thúc đẩy các chính đảng kết hợp lại. Các khuynh hướng, các hệ phái sẽ thi đua nhay xuất hiện và cố giữ tính cách tự trị và riêng biệt của mình. Quốc hội gồm nhiều hệ phái, chính đảng lẻ tẻ, nho nhỏ như thế, chắc chắn sẽ trở nên bất lực vì không quyết định được gì. Và với một hệ thống đa đảng như thế trong một chế độ đại nghị – chế độ mà Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, chắc chắn sẽ có khủng hoảng chính trị trầm trọng, vì Quốc hội chỉ biết lật đổ Chính phủ và không có khả năng thành lập Chính phủ. Và các khủng hoảng chính trị sẽ đưa đến một sự hỗn loạn và sẽ là những cơ hội khuynh hướng độc tài có dịp phát triển.


d. Cần phải nhấn mạnh rằng, những nhận xét trên đây chỉ có tính cách tương đối. Chúng ta không thể nói rằng – ở Việt Nam[iii] – nếu áp dụng đầu phiếu đa số với một vòng – chúng ta đương nhiên sẽ có một hệ thống lưỡng đảng. Nhưng dù sao, thể thức này là một trong những yếu tố đưa đến sự cấu tạo những lực lượng tập trung, một hệ thống chính đảng giản dị và hữu hiệu.


Mục III: VẤN ĐỀ BẤT THAM GIA CUỘC ĐẦU PHIẾU


Đi bỏ phiếu là một hành vi cực kỳ quan trọng, thể hiện sự tham gia của công dân vào cuộc sinh hoạt chính trị. Vẫn biết rằng đi bầu không có nghĩa là tất cả sự tham gia – vì công dân còn tham gia chính trị với nhiều hình thức khác nữa – nhưng đây là một hình thức tham gia quan trọng, dễ nhận thấy và dễ thảo luận. Thông thường, trước khi tuyển cử, trong lúc tuyển cử, có những sự vận động tuyên truyền, bao nhiêu giấy tờ, bao nhiêu tài liệu, tất cả các sự kiện ấy đều hướng về tuyển cử. Và chính tính cách công khai và vô số tài liệu nhất là về thống kê đã giúp nhiều trong việc khảo cứu tác dụng của tuyển cử trên phương diện chính trị học. Và một trong những vấn đề chính là vấn đề bất tham gia:



Mựcđộ bất tham gia
Nguyên do của sự bất tham gia

Đoạn 1: MỰC ĐỘ BẤT THAM GIA


Để hiểu trong một quốc gia nào đó, công dân có tham gia hay không tham gia vào một cuộc tuyển cử nhất định, chúng ta chỉ cần so sánh vài con số và biết ngay: con số về cử tri có tên trong danh sách tuyển cử và con số những cử tri đi bầu. Thoạt tiên thì dễ như thế, nhưng sự thật để có một ý niệm chính xác, vấn đề phức tạp hơn nữa. Vì so sánh hai sự kiện trên không cho chúng ta con số chắc chắn:


A. Điểm thứ nhất, chúng ta phải để ý đến những công dân không có tên trong danh sách cử tri không đi bầu mà còn có vô số công dân không chịu xem coi mình có tên trong danh sách cử tri hay không. Có những người không có tên trong danh sách cử tri tại nơi mình cư trú nhưng có tên trong danh sách ở một nơi mà họ không còn ở nữa. Chính những người này là những người không tham gia vào cuộc bầu cử.


B. Điều thứ hai là mặc dù chính quyền nhất là các tòa hành chính cố gắng rất nhiều để lập danh sách cử tri và cập nhật hóa, mặc dù thế vẫn còn nhiều thiếu sót nhất là trường hợp của công dân có tên ở hai nơi: ví dụ cử tri ở quận ba và ở một quận khác nữa.


C. Điểm thứ ba: trong số công dân không đi bỏ phiếu, cần phải ý thức rằng có một số người có lí do chính đáng đã không đi bầu: nghĩa là vì bận thật chứ không phải không muốn tham gia. Trên phương diện thống kê, thì chắc chắn là có một số người đau ốm hoặc bận công vụ.


Đó là điều mà chúng ta phải để ý khi đo lường mức độ tham gia của công dân. Vì khi mà chúng ta xem kỹ, tổng số bất tham gia có thể xuống nhiều, và như thế cuộc sưu tầm mới đem đến những kết luận tương đối khách quan và chính xác.


Đoạn 2: NGUYÊN DO CỦA SỰ BẤT THAM GIA


Tại sao công dân lại không đi bỏ phiếu? Nhất là sau khi đã chịu khó xem còn có tên mình trong danh sách cử tri và lãnh thẻ cử tri. Một câu hỏi quan trọng mà câu trả lời – tùy thuộc ở nguyên nhân – sẽ có ảnh hưởng sâu rộng đến cuộc sinh hoạt chính trị. Yếu tố liên hệ đến cá nhân, đến thời cuộc về ý nghĩa của cuộc tuyển cử.


A. YẾU TỐ CÁ NHÂN liên hệ đến cá nhân mỗi người cũng như gia đình, nghề nghiệp



Nam giới hay nữ giới: nữ giới ít đi bỏ phiếu.
Tuổi tác: trẻ tuổi và già ít đi bỏ phiếu như những người đứng tuổi.
Giai cấp xã hội và mực độ sinh sống: giai cấp trung lưu; công chức cao cấp hay nghề nghiệp tự do hay là thành phần thương gia; thợ thuyền; công chức hay tư chức hạng B; nông dân.
Địa thế của cư trú: xa hay gần chỗ bỏ phiếu: phương tiện giao thông.

B. YẾU TỐ THỜI CUỘC


Tùy theo lúc, công dân tham gia nhiều hay ít vào cuộc tuyển cử. Một cuộc tuyển cử để lập một chính thể mới, hay là sau một cuộc chính biến, một cuộc khủng hoảng chính trị chắc chắn sẽ có rất đông người tham gia.


C. YẾU TỐ LIÊN HỆ ĐẾN Ý NGHĨA TUYỂN CỬ



Tham gia nhiều về cuộc tuyển cử toàn quốc hơn là địa phương
Tuyển cử có tính cách chính trị hơn là nghề nghiệp
Tuyển cử kết quả biết trước.


(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.





[i] Tức Việt Nam Cộng hòa (p&c)




[ii] Ngày 27-11-65 tại Sydney (Úc) một công dân Úc không chịu nộp phạt 1,5 Úc Kim về tội không bỏ phiếu, đã bị phạt 3 ngày tù. (NVB)




[iii] Tức Việt Nam Cộng hòa (p&c)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 01, 2013 09:04

August 30, 2013

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (7)

Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4, kì 5, kì 6


CHƯƠNG III : NHỮNG ĐỊNH LUẬT CĂN BẢN CỦA NỀN DÂN CHỦ HIỆN ĐẠI


Cho đến đây – và qua những mục liên hệ đến các chế độ tập quyền và hợp quyền, chúng ta đã lần lượt trình bày một cách khoa học, cổ điển những phương thức tổ chức chính quyền cùng những chế độ chính trị liên hệ.


Cách trình bày này – rất cần thiết để có một ý niệm tổng quát nhưng rất lỗi thời và không phù hợp chút nào với điều kiện thực tiễn của cuộc sinh hoạt chính trị ngày nay. Tại sao? Để trả lời, chúng ta sẽ lần lượt trình bày tính cách lỗi thời của cách xếp loại cổ điển và xuyên qua thực tại chính trị chúng ta sẽ tìm một vài định luật căn bản của nền dân chủ hiện đại.


Mục I: NHỮNG HÌNH THỨC TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN CỔ ĐIỂN VÀ THỰC TẠI CHÍNH TRỊ NGÀY NAY


Đoạn 1: NHỮNG BIẾN CHUYỂN CỦA CHẾ ĐỘ NGHỊ VIỆN


Nước Anh – nơi mà chế độ Nghị viện lí tưởng đã phát sinh – cũng là nơi mà chế độ Nghị viện đã nhường chỗ cho một Chính phủ của một chính đảng.


Biến chuyển này là hậu quả của một hiện tượng chính trị quan trọng; đó là sự hiện diện của một hệ thống lưỡng đảng hoàn hảo. Cuộc sinh hoạt chính trị ở Anh Quốc dựa trên hai chính đảng và chính hai đảng này là những tổ chức có quy củ, có kỉ luật, đủ khả năng để bảo đảm một hành động thống nhất của chính đảng trong Chính phủ cũng như ở Quốc hội, và hệ thống lưỡng đảng này đã làm thay đổi hẳn ý nghĩa của chế độ Nghị viện.


A. Ý NGHĨA CỦA CUỘC TUYỂN CỬ


* Bầu cử Quốc hội nhằm mục tiêu chính là chỉ định những người đại diện cho nhân dân tức là các vị dân biểu.


* Nhưng đồng thời tuyển cử lại có một ý nghĩa thứ hai là bầu vị chỉ huy Hành pháp do chính đảng đề nghị. Thật vậy, Nữ hoàng Anh Quốc bắt buộc phải chọn trong chức vụ Thủ tướng, vị lãnh tụ của chính đảng chiếm đa số tại Quốc hội. Như thế bầu Quốc hội tại Anh đồng thời có nghĩa là bầu vị Thủ tướng vì nếu Đảng Lao động chiếm đa số tại Quốc hội, người ta chắc chắn rằng vị lãnh tụ Đảng Lao động sẽ là Thủ tướng.


* Cuộc bầu cử trở thành một cuộc trưng cầu dân ý: các chính đảng khác nhau về lập trường trước một vài vấn đề quan trọng. Trong một hệ thống lưỡng đảng, bỏ phiếu thuận hoặc chống ứng viên của một đảng nào tức là chấp nhận hoặc chống chương trình của chính đảng ấy.


* Đặt vấn đề tín nhiệm chính đảng nắm chính quyền: đây là một khía cạnh quan trọng của tuyển cử. Các bạn còn nhớ khi chúng ta đề cập đến những mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp trong chế độ Nghị viện, chúng ta có nói rằng nguyên tắc trách nhiệm chính trị là một nguyên tắc căn bản. Quốc hội nếu không đồng quan điểm với Chính phủ, có thể lật đổ Nội các bởi một biểu quyết bất tín nhiệm. Nguyên tắc này – trong hệ thống lưỡng đảng – hoàn toàn là lí thuyết. Thật vậy, chính Thủ tướng là lãnh tụ của chính đảng nắm đa số ở Quốc hội, và Nội các gồm toàn là nhân viên của chính đảng ấy. Có lí nào – chỉ trừ ra khi trời nóng nực quá, các dân biểu phát điên lên – có lí nào mà dân biểu đa số tại Quốc hội lại biểu quyết chống Chính phủ, nghĩa là chống chính sách của chính đảng mình đưa ra và thi hành. Vì thế, vấn đề trách nhiệm tại Quốc hội không thành vấn đề và trở thành vấn đề trách nhiệm trước quốc dân. Trong suốt nhiệm kì Quốc hội, Chính phủ đứng vững. Đến khi tuyển cử mới là then chốt. Nếu cử tri thấy rằng trong suốt 4, 5 năm trời nay, Chính phủ bê bối quá, thì họ bỏ phiếu cho đảng đối lập: đảng đang nắm chính quyền mất chính quyền.


Tóm lại, tác dụng thứ tư của tuyển cử là đặt vấn đề trách nhiệm chính trị của đảng nắm chính quyền.


B. Ý NGHĨA CỦA SỰ GIẢI TÁN QUỐC HỘI


Chúng ta đã nói giải tán Quốc hội là một quyền của Chính phủ tương xứng với quyền lật đổ Nội các của Quốc hội nhằm giao cho quốc dân vai trò trọng tài để giải quyết cuộc tranh chấp trầm trọng giữa Hành pháp và Lập pháp. Trong một chế độ lưỡng đảng với một Chính phủ của một chính đảng, vai trò của sự giải tán Quốc hội không còn như thế nữa. Đây là một điều dễ hiểu vì có khi nào có vấn đề bất tín nhiệm, có vấn đề khủng hoảng chính trị đâu mà giải tán và trọng tài. Giải tán Quốc hội đã mất hẳn ý nghĩa sơ khởi của nó và trở thành một phương tiện của chính quyền nhằm tổ chức cuộc tổng tuyển cử trước kỳ hạn. Chính đảng nắm chính quyền, thừa một cơ hội thuận tiện, 5, 6 tháng trước khi Quốc hội mãn nhiệm kì, giải tán Quốc hội, yêu cầu quốc dân bầu một Quốc hội mới. Mục tiêu không phải để giải quyết một cuộc tranh chấp mà để đặt vấn đề tín nhiệm với quốc dân, nghĩa là cố giữ chính quyền.


C. Những nhận xét trên đây về ý nghĩa của tuyển cử cũng như giải tán Quốc hội cho ta thấy một biến chuyển thứ ba liên hệ đến mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp. Trong một chính thể Nghị viện với một hệ thống lưỡng đảng không còn có sự phân chia Chính phủ và Quốc hội. Đa số tại Quốc hội và Nội các chỉ là một hay nói cho đúng hơn – chỉ là hai phân bộ của chính đảng nắm chính quyền. Nội các là bộ tham mưu, cơ quan đầu não và đa số tại Quốc hội là cán bộ. Mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp không còn là mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp mà chỉ là một bộ phận của vấn đề tổng quát của mối tương quan giữa cấp lãnh đạo, cán bộ và chiến hữu của chính đảng nắm chính quyền. Những quyết định quan trọng không phải được ấn định tại Quốc hội mà chính tại Ban Chấp hành Trung ương của đảng. Tuy nhiên nói thế không có nghĩa là Quốc hội không còn giá trị. Quốc hội vẫn còn giữ vai trò quan trọng của nó vì chính nơi đây là nơi mà tiếng nói độc lập vang lên để cảnh cáo và kiểm soát chính quyền.


Tóm lại, qua những biến chuyển của chế độ Nghị viện tại nước Anh – vì sự hiện diện của một hệ thống lưỡng đảng – chúng ta thấy rằng hình ảnh của chế độ Nghị viện cổ điển không còn hợp thời nữa. Ngày nay, để có một nhận xét thích đáng về chế độ Anh Quốc, chúng ta phải nói rằng đó là một Chính phủ của một chính đảng, đối diện với một chính đảng đối lập và dưới sự trọng tài của cử tri đoàn.


Thoáng qua không có gì khác biệt giữa Chính phủ Anh Quốc dân chủ và một Chính phủ độc tài cộng sản. Nhưng nhìn kĩ lại, có hai sự khác biệt quan trọng: một sự đối lập trong chính đảng và một chính đảng đối lập.


Đoạn 2: NHỮNG BIẾN CHUYỂN CỦA CHẾ ĐỘ TỔNG THỐNG


A. Chế độ Tổng thống – được quan niệm sÆ¡ khởi như một chế độ áp dụng nguyên tắc phân quyền – đã trở thành một chế độ trong ấy có một sá»± hợp quyền. Vấn đề đặt ra là thá»­ hỏi tại sao một chế độ như thế – với những đặc điểm cá»§a nó là phân quyền, là Hành pháp không trách nhiệm trước Quốc hội cÅ©ng như Quốc hội không có quyền lật đổ Tổng thống – lại trở thành một chế độ trong ấy các quyền uy có thể cộng tác với nhau? Đây là một biến chuyển quan trọng được giải thích như sau:


* Lí do thứ nhất được đưa ra là: Hành pháp và Lập pháp cộng tác với nhau vì lẽ giản dị là họ bắt buộc phải sống chung với nhau. Lập pháp không thể thực hiện ý chí của mình nếu Hành pháp luôn luôn chống đối, Tổng thống không thể nào thống trị, lãnh đạo quốc dân nếu không có sự thỏa thuận của Quốc hội mặc dù Quốc hội không thể lật đổ Tổng thống: vì muốn thống trị phải cần đến luật lệ, đến kinh phí, đến thuế má những phương tiện mà Quốc hội nắm giữ. Ấy thế, mặc dầu trên phương diện pháp lí, Hành pháp và Lập pháp là những cơ quan hoàn toàn biệt lập, cơ quan này không thể tiêu diệt cơ quan khác, nhưng trong thực tế, muốn làm việc thì phải cố nhường nhịn nhau, cố thỏa thuận nhau vì họ bắt buộc phải hợp tác để sống chung nhau.


* Giải thích như thế rất là xác đáng nhưng cũng chưa đủ và không hoàn toàn thỏa mãn. Người ta có thể trả lời rằng trong những trường hợp có xung khắc, có tranh chấp trầm trọng, có thể có một trong hai cơ quan tìm cách để tiêu diệt kẻ thù của mình bằng võ lực: Vẫn biết họ phải thỏa thuận nhưng cũng có thể có những sự đổ vỡ bằng cách này hay cách khác. Để trả lời, người ta nêu ra một lí do thứ hai để bổ túc giải thích thứ nhất: là sở dĩ trong chế độ Tổng thống Hoa Kỳ không có sự đổ vỡ giữa Hành pháp và Lập pháp, sở dĩ Tổng thống và Quốc hội giữ mãi được một đường lối hành động chiết trung là vì họ làm việc dưới sự kiểm soát thường trực của cử tri đoàn. Thật vậy, mỗi hai năm, tại Hoa Kỳ, tất cả các dân biểu tại Hạ Nghị viện và 1/3 tại Thượng Nghị viện được bầu lại. Hai năm thì nhanh lắm. Trong từng khoảng thời gian ngắn ngủi, dư luận được phát biểu ý kiến. Tổng thống và Quốc hội không thể không để ý đến dư luận này. Tổng thống không thể liều lĩnh chống đối Quốc hội vì ông còn phải ra tranh cử, nếu không còn chính đảng ông sau lưng ông. Quốc hội nghĩa là các dân biểu cũng không tài nào chống đối Tổng thống một cách vô lí – nếu Tổng thống có một đường lối phản ảnh trung thực dư luận.


* Vì những lí do trên, chế độ Tổng thống đã trở thành một chế độ Nghị viện ở hành lang. Nghĩa là trong Hiến pháp có quy định một sự phân quyền cứng rắn, nhưng thực tế cũng có những sự trao đổi, sự thương thuyết, sự dàn xếp, không khác gì trong chế độ Nghị viện.


Tóm lại một sự cộng tác giữa các cơ quan công quyền.


B. Biến chuyển thứ hai là chế độ Tổng thống không phải là một chế độ vô trách nhiệm. Trên phương diện hoàn toàn pháp lí. Tổng thống không có trách nhiệm trước Quốc hội. Tuy nhiên, ông vẫn có một trách nhiệm không kém nặng nề: đó là trách nhiệm trước quốc dân.


Thật vậy, Tổng thống Hoa Kỳ có thể được tái cử một lần, và thường thường thì các Tổng thống ra ứng cử lần thứ nhì sau khi mãn nhiệm kì 4 năm. Như vậy, sau 4 năm, ông sẽ bị dư luận xét đoán. Và ví dụ như trường hợp mà ông không ra tranh cử hay không thể ra tranh cử, dù sao cũng còn đảng của ông, và thất bại hay thành công, nếu không phải chính bản thân ông, thì ít ra đảng của ông sẽ lãnh đủ. Mà đã là một chính trị gia – nhất là đến địa vị một Tổng thống – thì không có một hoài bão nào thích thú cho bằng thực hiện được sự kiện đem chính đảng mình đến chiến thắng. Bởi thế, vấn đề trách nhiệm của Hành pháp trong chế độ Tổng thống được đặt ra trong một khung cảnh bao quát hơn: trách nhiệm trước quốc dân. Ở đây chúng ta thấy một sự trùng điệp giữa chế độ Nghị viện và Tổng thống. Chế độ Nghị viện với hệ thống lưỡng đảng – trong ấy, vấn đề trách nhiệm trước Quốc hội có tính cách lí thuyết đã bắt gặp chế độ Tổng thống nơi đây: trong hai trường hợp một người và một chính đảng có trách nhiệm trước quốc dân, trong hai trường hợp một người và một chính đảng có thể bị quốc dân phủ nhận.


Xuyên qua những nhận xét trên đây với kinh nghiệm thực tiễn, chúng ta thấy rằng chế độ Nghị viện không còn là một chế độ trong ấy Hành pháp chịu trách nhiệm trước Lập pháp và chế độ Tổng thống không phải là chế độ trong ấy Hành pháp không chịu trách nhiệm gì cả.


Tóm lại, những biến chuyển mà chúng ta vừa thấy ở chế độ Nghị viện cũng như là Tổng thống chứng minh tính cách lỗi thời của cách xếp loại chế độ chính trị cổ điển ở trên.


Trong thế giới ngày nay, dân chủ chung quy chỉ là một sự tấn phong và sự phủ nhận một tập đoàn có trách nhiệm bởi quốc dân.


Chế độ Nghị viện cũng như chế độ Tổng thống chỉ là hai giải pháp có thể chấp nhận được cho bài toán dân chủ trong những khung cảnh chính trị và xã hội khác nhau.


Đoạn 3: SỰ THAY ĐỔI TOÀN DIỆN ĐIỀU KIỆN SINH HOẠT XÃ HỘI NGÀY NAY


Chính sự thay đổi này đem đến một kết quả là dân chúng chọn lựa nhà cầm quyền một cách trực tiếp chứ không gián tiếp như xưa nữa.


A. Thật vậy, với những phương tiện giao thông tân tiến hiện tại, không gian không còn là một trở ngại lớn lao nữa. Qua sự trung gian của báo chí, vô tuyến truyền thanh cũng như vô tuyến truyền hình, sự tiếp xúc giữa quốc dân và cấp lãnh đạo, tiếp xúc giữa đại diện nhân dân và cử tri có tính cách dễ dàng và thường xuyên được. Qua những phương tiện tân kì này, những lập trường chính trị của chính đảng, những chính sách của nhà cầm quyền, bức tâm thư cũng như những nguyện vọng của nhân dân hay chiều hướng của dư luận được thể hiện một cách mau lẹ và hoàn toàn. Tất cả những điều kiện vật chất của nền văn minh tân thời thay đổi hẳn cuộc sinh hoạt chính trị. Ngày nay, dưới hình thức pháp lí nào, chung quy chúng ta chỉ tìm thấy một sự kiện chính: tức là nhà cầm quyền và đặc biệt nhân vật có trách nhiệm được chỉ định bởi một cuộc phổ thông đầu phiếu.


B. Yếu tố thứ hai của sự thay đổi điều kiện sinh hoạt chính trị; (mà chúng ta đã đề cập nhiều) là sự kiện của một hệ thống chính đảng, và ngoài hệ thống chính đảng, cách cấu tạo của các lực lượng xã hội. Một chế độ chính trị không thể tách rời hệ thống lực lượng xã hội như thành phần giai cấp trong quốc gia, như tổ chức nghiệp đoàn, đoàn thể áp lực. Và trong xã hội ngày nay, các vấn đề chính trị được đặt ra được hệ thống hóa bởi chính đảng và đối với chính đảng. Và chính yếu tố này – (như chúng ta đã nhiều lần đề cập đến) – đã làm sai lạc hết ý nghĩa của nhiều nguyên tắc pháp lí cổ điển.


C. Khuynh hướng nhân cách hóa chính quyền. Vẫn biết chính quyền trong các quốc gia cận đại là một chính quyền được định chế hóa, nhưng người ta tìm thấy trong dư luận ngày nay một khuynh hướng nghiêng về một con người, con người thể hiện nguyện vọng của họ, con người của họ. Với những phương tiện tân kì trong xã hội cận đại cho phép những sự tiếp xúc dễ dàng và nhanh chóng, dân tình hướng về một cái gì cụ thể, chán ghét sự vô danh, và một cá nhân luôn luôn được đưa ra để tượng trưng cho một chương trình, một chính đảng. Khi chúng ta nói đến Chính phủ Phan Huy Quát, Trần Văn Hương cũng như khi chúng ta nói đến Johnson, De Gaulle hay Khrushchev, Nehru, đó toàn là những cá nhân bao trùm một ý nghĩa sâu xa: sự nhân cách hóa chính quyền. Câu chuyện bên lò sưởi của Tổng thống Roosevelt là một hình thức nhân cách hóa chính quyền. Xuyên qua những định chế phức tạp, những vấn đề chính trị càng ngày càng có tính cách kĩ thuật, tâm tình của dân chúng hướng về một nhân vật và giao phó trách nhiệm giải quyết tất cả các vấn đề.


Đối với những phương tiện giao thông và kĩ thuật truyền tin tân kỳ, với sự hiện diện và phát sinh những cơ cấu xã hội cùng khuynh hướng nhân cách hóa chính quyền, điều kiện sinh hoạt xã hội và chính trị một quốc gia đã hoàn toàn thay đổi, ảnh hưởng rất nhiều đến việc tổ chức và điều hành của cách phân loại cổ điển các chế độ chính trị.


Mục II: MỘT VÀI ĐỊNH LUẬT CĂN BẢN


Những biến chuyển của chế độ Nghị viện và Tổng thống, những thay đổi về điều kiện sinh hoạt xã hội cho chúng ta thấy rằng các nguyên tắc cổ điển không còn phù hợp với thế giới ngày nay. Vấn đề đặt ra là thử hỏi đâu là dấu hiệu của nền dân chủ hiện đại. Xuyên qua những hình thức pháp lí khác biệt và nhìn vào thực tại chính trị chúng ta có thể quả quyết rằng có một số định luật được xem là căn bản của nền dân chủ hiện đại: đó là Chính phủ, cơ quan đầu não quốc gia; hệ thống quyết định tấn phong, trách nhiệm quốc gia; hệ thống đối thoại tự do.


Đoạn 1: CHÍNH PHỦ, CƠ QUAN ĐẦU NÃO CỦA QUỐC GIA


Thế nào là Chính phủ? Những danh từ Chính phủ, Quốc hội hay Hành pháp và Lập pháp thường được dùng với ý nghĩa hoàn toàn sai lạc. Nói đến Chính phủ, người ta nghĩ đến cơ quan thi hành luật pháp và nói đến Quốc hội người ta liên tưởng đến pháp chế và quyền kiểm soát toàn diện cơ quan đại diện nhân dân. Nhưng sự thực như thế nào ?


A. Nhìn kĩ lại cuộc sinh hoạt chính trị trong các quốc gia cận đại, cần phải nhận định rằng sự phân biệt giữa Hành pháp và Lập pháp chỉ có một giá trị tương đối mà thôi. Chúng ta không thể nói rằng một bên là Lập pháp với nhiệm vụ lấy những quyết định tổng quát và một bên là Hành pháp chỉ biết thi hành luật lệ. Sự thật là mỗi cơ quan, trong phạm vi hoạt động của mình, có những quyết định tổng quát và riêng biệt.


Ấn định một chính sách kinh tế, một chính sách ngoại giao, những biện pháp cải tổ hành chính đối với Chính phủ, đó là những quyết định có tính cách chọn lựa, có tính cách tổng quát. Ngược lại, Quốc hội không phải chỉ có những vấn đề nguyên tắc mà lắm lúc phải có những quyết định cá nhân, có tính cách riêng biệt và chi tiết. Hơn nữa, thực tại chính trị cho chúng ta biết rằng vai trò của Chính phủ trong việc pháp chế càng ngày càng gia tăng. Trong rất nhiều các quốc gia hiện nay, 90% luật pháp được Quốc hội biểu quyết đều do Chính phủ đề nghị (lí do: tính cách kĩ thuật và Chính phủ nắm vững vấn đề)


Ý tưởng thứ hai về quyền kiểm soát của Quốc hội cũng hoàn toàn sai lạc. Như chúng ta đã thấy, trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội không còn một giá trị thật sự và đã nhường bước cho một hình thức trách nhiệm tổng quát hơn, đó là trách nhiệm trước quốc dân của chính đảng nắm chính quyền.


B. Qua những nhận xét trên đây, chúng ta thấy rằng điểm dị đồng giữa Chính phủ và Quốc hội không phải là pháp chế và thi hành luật lệ mà dựa trên những yếu tố khác và mối tương quan thực sự giữa hai cơ quan hoàn toàn trái hẳn những nguyên tắc cổ điển.


Trước hết, đâu là điểm dị đồng giữa Chính phủ và Quốc hội? Chính phủ và Quốc hội khác nhau về con số, về tính cách thuần nhất, công khai và dư luận.


Tập đoàn và Hội nghị: đó là điểm dị đồng thứ nhất giữa Chính phủ và Quốc hội. Chính phủ luôn luôn chỉ là một tập đoàn, gồm một số ít nhân viên, một nhóm người. Vì nhiệm vụ của Chính phủ là có những quyết định chớp nhoáng mau lẹ, đối phó kịp thời, điều khiển guồng máy hành chính hằng ngày cho nên chỉ một nhóm người càng ít càng hay mới phù hợp với tính chất của hoạt động này. Trái lại nhiệm vụ của Quốc hội là bàn cãi, thảo luận, Quốc hội, bao giờ cũng là hội nghị, gồm một số đông nhân viên. Càng đông thì bàn cãi càng lí thú vì mục tiêu chính là tất cả khía cạnh của vấn đề được mổ xẻ, trình bày rõ rệt.


Tính cách thuần nhất và bất thuần nhất: Quốc hội là một hội trường, không bao giờ có tính cách thuần nhất (ngoài Quốc hội bù nhìn chỉ biết hoan hô và đồng thanh chấp thuận). Đó là nơi để thảo luận, các ý kiến thường chống đối nhau, Quốc hội không thể là một khối chặt chẽ được. Quốc hội, nói cho cùng, chỉ là diễn đàn của đối lập. Trong lúc đó, Chính phủ phải là một khối, một tập đoàn thuần nhất. Trên nguyên tắc không thể có đối lập trong Chính phủ. Có thể có bất đồng ý kiến khi thảo luận, nhưng quyết định phải là quyết định chung của Chính phủ. Nếu vì một lí do nào, một Tổng trưởng không đồng quan điểm với ê-kíp của mình, nên từ chức ngay chớ không có vấn đề chống đối trong Chính phủ.


Tính cách công khai và bí mật: Trong Quốc hội – vì là một hội trường – thảo luận công khai là một việc thường. Một vấn đề quốc gia hệ trọng được mổ xẻ trước quốc dân. Các vị dân biểu – với tất cả các đặc quyền (mà chúng ta đã thấy) – phải thẳng thắn và công khai trình quan điểm của mình để dư luận phán đoán. Hơn nữa, vì Quốc hội là diễn đàn của đối lập, cuộc thảo luận phải có tính cách công khai, tiếng nói của đối lập mới có hiệu lực. Trái lại, Chính phủ thường hay làm việc một cách bí mật. Ít khi mà chúng ta biết Hội đồng Nội các bàn cãi gì, quyết định ra sao. Nếu có thông cáo thì chỉ lờ mờ rằng những vấn đề này được xét đến và có những quyết định quan trọng thế thôi. Đôi khi Chính phủ cũng giải thích một vài quyết định của mình cho dân chúng, nhưng sự kiện này chỉ nhằm tác dụng quảng cáo, tuyên truyền.


Thường thường là Chính phủ giữ bí mật của quyết định và chắc chắn là không bao giờ tiết lộ những cuộc thảo luận đã đưa đến những quyết định.


Kĩ thuật gia và dư luận: đây là một yếu tố thứ tư làm nổi bật sự khác biệt giữa Chính phủ và Quốc hội. Về phần Chính phủ, thường thường cộng tác viên hay cố vấn là những kĩ thuật gia: nhà hành chính, luật gia, kỹ sư, kinh tế gia, tóm lại những nhà kĩ thuật có ảnh hưởng không ít đối với các quyết định của Chính phủ. Về phần Quốc hội, trái lại, quan điểm của cử tri, của một người dân chất phác, không am hiểu những vấn đề tế nhị phức tạp, với những đòi hỏi và quyền lợi riêng tư, với những ý kiến đơn giản, cũng như quan điểm của những hiệp hội, những đoàn thể chiếm một vai trò quan trọng. Các dân biểu phải để ý, theo dõi dư luận này không phải để thỏa mãn tất cả mà để cho các quyết định của Quốc hội có tính cách thực tế, đi sát với nguyện vọng của quần chúng.


Tóm lại, chính những yếu tố mà chúng ta vừa kể – tập đoàn hay hội nghị, công khai hay bí mật, tính cách thuần nhất kÄ© thuật gia và dư luận – mới là yếu tố ấn định sá»± khác biệt giữa Chính phá»§ và Quốc hội.


Với những đặc tính ấy, Chính phủ – một tập đoàn bí mật thuần nhất gồm một số kĩ thuật gia – mới là cơ quan hành động, thực hiện đáp ứng nhu cầu của thế kỉ hai mươi này.


Đoạn 2: MỘT HỆ THỐNG QUYẾT ĐỊNH, TẤN PHONG VÀ TRÁCH NHIỆM QUỐC GIA


A. Một hệ thống quyết định quốc gia


Quyết định quốc gia: quyết định mà toàn dân chọn lựa để định vận mệnh của mình. Đây là một dấu hiệu đặc biệt và đồng thời là một định luật căn bản của nền dân chủ hiện đại. Vẫn biết rằng không phải giờ phút nào mà toàn dân cũng làm chủ được vận mệnh của mình. Không phải lúc nào, toàn dân cũng có thể phát biểu ý kiến, thực hiện nguyện vọng hay quyết định cho mình. Chính cá nhân chúng ta lắm lúc cũng không làm theo sở nguyện.


Nhưng khi chúng ta nói đến tự quyết lấy vận mạng của mình, chúng ta muốn nhấn mạnh rằng, trong những giờ phút lịch sử, trong những giai đoạn cực kỳ quan trọng, trong những giai đoạn ngã ba đường, chính toàn dân tự chọn lấy con đường của mình, một cách tự do. Con đường ấy – hay hay là dở, đúng hay là sai đó là một chuyện khác, nhưng đó là con đường mà toàn dân quyết định vận mệnh quốc gia, trước một khúc rẽ nhất định.


Quyết định quốc gia có thể được thể hiện bởi nhiều hình thức. Nhưng điều căn bản là toàn dân, bởi lá phiếu của mình, chỉ định những người đứng ra lãnh đạo quốc gia, chỉ định những giải pháp mà nhà lãnh đạo này phải thực hiện cho kỳ được, và chỉ định những người có bổn phận theo dõi và cảnh cáo chính quyền.


Đó là ý nghÄ©a sâu xa cá»§a hệ thống quyết định quốc gia. Dân chá»§ là thế – chá»§ quyền thuộc về toàn dân là thế.


B. Một hệ thống tấn phong quốc gia


Tấn phong quốc gia: tấn phong bởi toàn dân vị chỉ huy Hành pháp. Đây là một hệ thống trao quyền, ủy nhiệm quyền lực của Nhà nước bởi quốc dân cho Hành pháp.


Hiện giờ còn rất nhiều người cho rằng tất cả quyền lực đều phải tập trung vào cơ quan Lập pháp và những người điều khiển bộ máy nhà nước đều là kẻ thừa hành của Quốc hội, đại diện nhân dân. Đó là một quan niệm cũ kỹ, của thế kỉ 18, và hoàn toàn sai lầm. Như chúng ta đã biết, trong chế độ dân chủ hiện đại, cơ quan đầu não của tất cả sinh hoạt chính trị là Chính phủ. Không có một quốc gia nào trong ấy có cuộc sinh hoạt chính trị ổn định và phấn khởi mà trọng tâm là Nghị viện. Đã là cơ quan đầu não thì vị chỉ huy cơ quan này không thể được chỉ định một cách gián tiếp, theo những thể thức phức tạp. Ngày nay, sự tiến triển của nền dân chủ đã công nhận một hiện tượng chắc chắn là ý dân luôn luôn muốn tự mình chọn lấy người đại diện của mình dầu rằng Hành pháp hay Lập pháp.


Cũng như dân chúng ngày nay không thể quan niệm rằng họ bầu dân biểu Quốc hội một cách gián tiếp, dân chúng ngày nay cũng mong mỏi chính mình chọn lựa một cách trực tiếp và rõ ràng vị chỉ huy Hành pháp. Đó là một định luật của nền dân chủ cận đại.


Ngày nay, dân tình không muốn thấy tái diễn những cuộc thương thuyết, những cuộc mua bán ở hành lang, trao đổi mua bán để rồi một Chính phủ thành hình mà vị lãnh đạo là kẻ vô danh tiểu tốt. Không, ngày nay cuộc tấn phong phải là một tấn phong quốc gia, một ủy nhiệm quyền lực của quốc gia bởi quốc gia một cách trực tiếp.


C. Một hệ thống trách nhiệm quốc gia


Ở đây cũng như ở nhiều lĩnh vực khác của cuộc sinh hoạt chính trị, chúng ta cần phải đánh tan mọi quan niệm lỗi thời, quan niệm cho rằng có những Chính phủ trách nhiệm trước Quốc hội và Chính phủ vô trách nhiệm trước Quốc hội.


Sự thật hoàn toàn khác hẳn. Dù dưới hình thức nào, hiện tượng chính trị cuối cùng và đầy ý nghĩa chính là Trách nhiệm trước toàn thể cử tri.


Thật vậy, như chúng ta đã biết, vấn đề trách nhiệm trước Quốc hội của Chính phủ trong chế độ Nghị viện chỉ còn tính cách lí thuyết với hệ thống lưỡng đảng. Không còn trách nhiệm trước Quốc hội, trách nhiệm thực sự của Chính phủ là trách nhiệm trước quốc dân. Chính đảng ở chính quyền chỉ mất quyền lãnh đạo sau một cuộc thất bại trong một cuộc tổng tuyển cử. Trách nhiệm trước Quốc hội đã trở thành trách nhiệm trước quốc gia.


Trong chế độ Tổng thống, trên phương diện pháp lí, vị Tổng thống không trách nhiệm trước Quốc hội. Tuy nhiên, vì đã được toàn dân bầu lên, và hoặc để có thể được tái cử, hoặc để đưa chính đảng của mình đến chiến thắng, vị Tổng thống dù sao cũng phải bắt buộc để ý đến dân tình, chính kiến của Nghị viện. Và trách nhiệm quốc gia đợi chờ Tổng thống khi mãn nhiệm kì.


Đoạn 3: MỘT HỆ THỐNG ĐỐI THOẠI TỰ DO


Đối thoại tức là tránh độc thoại. Trong lúc mà với chế độ độc tài, ý thức hệ của chánh quyền là bất di bất dịch, thì nền dân chủ dựa trên lòng độ lượng, khoan dung và tính cách tương đối của chân lí chính trị. Vì dân chủ tức là chấp nhận sự chính đáng của mọi bất đồng chính kiến, sự hiện hữu của một hệ thống đối thoại tự do là một hậu quả tất nhiên.


Cuộc sinh hoạt chính trị dân chủ trong một quốc gia chỉ có thể được khi nào các cuộc xung đột chính trị được giải quyết bởi những giải pháp chính trị. Trong một quốc gia, luôn luôn có nhiều vấn đề cần giải quyết. Và bổn phận của chính trị gia là tổng hợp các vấn đề được đặt ra, đưa những vấn đề ấy lên một mức độ đại cương và phán đoán theo những tiêu chuẩn chính trị. Và tất cả cuộc sinh hoạt ấy tức là đối thoại. Một cuộc đối thoại không ngừng, giữa chính quyền và đối lập, giữa các chính đảng, giữa các đoàn thể, trong nhân dân. Sự hiện diện của cuộc đối thoại là một điều căn bản.


Mà nhìn nhận đối thoại tức là nhìn nhận sự hiện hữu của tự do công cộng, tức là quyền phát biểu, tự do tuyển cử, quyền bất khả xâm phạm, điều kiện tối cần và quý giá cho một cuộc đối thoại tự do.


Trong cuộc sinh hoạt chính trị ngày nay, ý chí của đa số thường được xem là ưu thế. Nhưng ý chí của đa số chỉ có giá trị khi nào ý chí ấy được chấp thuận trong một bầu không khí cởi mở, sáng tỏ và tự do.


Như Jefferson đã nhận xét: “Ta cần phải ý thức nguyên tắc thiêng liêng này: rằng ý chí cá»§a đa số trong mọi trường hợp đều ưu thắng, nhưng một ý chí mà muốn được coi là phải thì trước hết cần phải hợp với lẽ phải, rằng thiểu số cÅ©ng có những quyền bình đẳng cá»§a họ, mà luật pháp bình đẳng phải bảo vệ những quyền này, và vi phạm những quyền này tức là áp bức vậy.”


Thiếu hẳn một hệ thống đối thoại tự do, một chế độ chính trị của một quốc gia nào đó không thể xem là dân chủ được.


- Hết thiên thứ hai: Tổ chức chính quyền. Đón đọc thiên thứ ba: Sự tham gia chính trị của công dân trong chế độ dân chủ


(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 30, 2013 15:14

Nguyễn Văn Bông – Luật Hiến pháp và Chính trị học (7)

Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4, kì 5, kì 6


CHƯƠNG III : NHỮNG ĐỊNH LUẬT CĂN BẢN CỦA NỀN DÂN CHỦ HIỆN ĐẠI


Cho đến đây – và qua những mục liên hệ đến các chế độ tập quyền và hợp quyền, chúng ta đã lần lượt trình bày một cách khoa học, cổ điển những phương thức tổ chức chính quyền cùng những chế độ chính trị liên hệ.


Cách trình bày này – rất cần thiết để có một ý niệm tổng quát nhưng rất lỗi thời và không phù hợp chút nào với điều kiện thực tiễn của cuộc sinh hoạt chính trị ngày nay. Tại sao? Để trả lời, chúng ta sẽ lần lượt trình bày tính cách lỗi thời của cách xếp loại cổ điển và xuyên qua thực tại chính trị chúng ta sẽ tìm một vài định luật căn bản của nền dân chủ hiện đại.


Mục I: NHỮNG HÌNH THỨC TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN CỔ ĐIỂN VÀ THỰC TẠI CHÍNH TRỊ NGÀY NAY


Đoạn 1: NHỮNG BIẾN CHUYỂN CỦA CHẾ ĐỘ NGHỊ VIỆN


Nước Anh – nơi mà chế độ Nghị viện lí tưởng đã phát sinh – cũng là nơi mà chế độ Nghị viện đã nhường chỗ cho một Chính phủ của một chính đảng.


Biến chuyển này là hậu quả của một hiện tượng chính trị quan trọng; đó là sự hiện diện của một hệ thống lưỡng đảng hoàn hảo. Cuộc sinh hoạt chính trị ở Anh Quốc dựa trên hai chính đảng và chính hai đảng này là những tổ chức có quy củ, có kỉ luật, đủ khả năng để bảo đảm một hành động thống nhất của chính đảng trong Chính phủ cũng như ở Quốc hội, và hệ thống lưỡng đảng này đã làm thay đổi hẳn ý nghĩa của chế độ Nghị viện.


A. Ý NGHĨA CỦA CUỘC TUYỂN CỬ


* Bầu cử Quốc hội nhằm mục tiêu chính là chỉ định những người đại diện cho nhân dân tức là các vị dân biểu.


* Nhưng đồng thời tuyển cử lại có một ý nghĩa thứ hai là bầu vị chỉ huy Hành pháp do chính đảng đề nghị. Thật vậy, Nữ hoàng Anh Quốc bắt buộc phải chọn trong chức vụ Thủ tướng, vị lãnh tụ của chính đảng chiếm đa số tại Quốc hội. Như thế bầu Quốc hội tại Anh đồng thời có nghĩa là bầu vị Thủ tướng vì nếu Đảng Lao động chiếm đa số tại Quốc hội, người ta chắc chắn rằng vị lãnh tụ Đảng Lao động sẽ là Thủ tướng.


* Cuộc bầu cử trở thành một cuộc trưng cầu dân ý: các chính đảng khác nhau về lập trường trước một vài vấn đề quan trọng. Trong một hệ thống lưỡng đảng, bỏ phiếu thuận hoặc chống ứng viên của một đảng nào tức là chấp nhận hoặc chống chương trình của chính đảng ấy.


* Đặt vấn đề tín nhiệm chính đảng nắm chính quyền: đây là một khía cạnh quan trọng của tuyển cử. Các bạn còn nhớ khi chúng ta đề cập đến những mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp trong chế độ Nghị viện, chúng ta có nói rằng nguyên tắc trách nhiệm chính trị là một nguyên tắc căn bản. Quốc hội nếu không đồng quan điểm với Chính phủ, có thể lật đổ Nội các bởi một biểu quyết bất tín nhiệm. Nguyên tắc này – trong hệ thống lưỡng đảng – hoàn toàn là lí thuyết. Thật vậy, chính Thủ tướng là lãnh tụ của chính đảng nắm đa số ở Quốc hội, và Nội các gồm toàn là nhân viên của chính đảng ấy. Có lí nào – chỉ trừ ra khi trời nóng nực quá, các dân biểu phát điên lên – có lí nào mà dân biểu đa số tại Quốc hội lại biểu quyết chống Chính phủ, nghĩa là chống chính sách của chính đảng mình đưa ra và thi hành. Vì thế, vấn đề trách nhiệm tại Quốc hội không thành vấn đề và trở thành vấn đề trách nhiệm trước quốc dân. Trong suốt nhiệm kì Quốc hội, Chính phủ đứng vững. Đến khi tuyển cử mới là then chốt. Nếu cử tri thấy rằng trong suốt 4, 5 năm trời nay, Chính phủ bê bối quá, thì họ bỏ phiếu cho đảng đối lập: đảng đang nắm chính quyền mất chính quyền.


Tóm lại, tác dụng thứ tư của tuyển cử là đặt vấn đề trách nhiệm chính trị của đảng nắm chính quyền.


B. Ý NGHĨA CỦA SỰ GIẢI TÁN QUỐC HỘI


Chúng ta đã nói giải tán Quốc hội là một quyền của Chính phủ tương xứng với quyền lật đổ Nội các của Quốc hội nhằm giao cho quốc dân vai trò trọng tài để giải quyết cuộc tranh chấp trầm trọng giữa Hành pháp và Lập pháp. Trong một chế độ lưỡng đảng với một Chính phủ của một chính đảng, vai trò của sự giải tán Quốc hội không còn như thế nữa. Đây là một điều dễ hiểu vì có khi nào có vấn đề bất tín nhiệm, có vấn đề khủng hoảng chính trị đâu mà giải tán và trọng tài. Giải tán Quốc hội đã mất hẳn ý nghĩa sơ khởi của nó và trở thành một phương tiện của chính quyền nhằm tổ chức cuộc tổng tuyển cử trước kỳ hạn. Chính đảng nắm chính quyền, thừa một cơ hội thuận tiện, 5, 6 tháng trước khi Quốc hội mãn nhiệm kì, giải tán Quốc hội, yêu cầu quốc dân bầu một Quốc hội mới. Mục tiêu không phải để giải quyết một cuộc tranh chấp mà để đặt vấn đề tín nhiệm với quốc dân, nghĩa là cố giữ chính quyền.


C. Những nhận xét trên đây về ý nghĩa của tuyển cử cũng như giải tán Quốc hội cho ta thấy một biến chuyển thứ ba liên hệ đến mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp. Trong một chính thể Nghị viện với một hệ thống lưỡng đảng không còn có sự phân chia Chính phủ và Quốc hội. Đa số tại Quốc hội và Nội các chỉ là một hay nói cho đúng hơn – chỉ là hai phân bộ của chính đảng nắm chính quyền. Nội các là bộ tham mưu, cơ quan đầu não và đa số tại Quốc hội là cán bộ. Mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp không còn là mối tương quan giữa Hành pháp và Lập pháp mà chỉ là một bộ phận của vấn đề tổng quát của mối tương quan giữa cấp lãnh đạo, cán bộ và chiến hữu của chính đảng nắm chính quyền. Những quyết định quan trọng không phải được ấn định tại Quốc hội mà chính tại Ban Chấp hành Trung ương của đảng. Tuy nhiên nói thế không có nghĩa là Quốc hội không còn giá trị. Quốc hội vẫn còn giữ vai trò quan trọng của nó vì chính nơi đây là nơi mà tiếng nói độc lập vang lên để cảnh cáo và kiểm soát chính quyền.


Tóm lại, qua những biến chuyển của chế độ Nghị viện tại nước Anh – vì sự hiện diện của một hệ thống lưỡng đảng – chúng ta thấy rằng hình ảnh của chế độ Nghị viện cổ điển không còn hợp thời nữa. Ngày nay, để có một nhận xét thích đáng về chế độ Anh Quốc, chúng ta phải nói rằng đó là một Chính phủ của một chính đảng, đối diện với một chính đảng đối lập và dưới sự trọng tài của cử tri đoàn.


Thoáng qua không có gì khác biệt giữa Chính phủ Anh Quốc dân chủ và một Chính phủ độc tài cộng sản. Nhưng nhìn kĩ lại, có hai sự khác biệt quan trọng: một sự đối lập trong chính đảng và một chính đảng đối lập.


Đoạn 2: NHỮNG BIẾN CHUYỂN CỦA CHẾ ĐỘ TỔNG THỐNG


A. Chế độ Tổng thống – được quan niệm sơ khởi như một chế độ áp dụng nguyên tắc phân quyền – đã trở thành một chế độ trong ấy có một sự hợp quyền. Vấn đề đặt ra là thử hỏi tại sao một chế độ như thế – với những đặc điểm của nó là phân quyền, là Hành pháp không trách nhiệm trước Quốc hội cũng như Quốc hội không có quyền lật đổ Tổng thống – lại trở thành một chế độ trong ấy các quyền uy có thể cộng tác với nhau? Đây là một biến chuyển quan trọng được giải thích như sau:


* Lí do thứ nhất được đưa ra là: Hành pháp và Lập pháp cộng tác với nhau vì lẽ giản dị là họ bắt buộc phải sống chung với nhau. Lập pháp không thể thực hiện ý chí của mình nếu Hành pháp luôn luôn chống đối, Tổng thống không thể nào thống trị, lãnh đạo quốc dân nếu không có sự thỏa thuận của Quốc hội mặc dù Quốc hội không thể lật đổ Tổng thống: vì muốn thống trị phải cần đến luật lệ, đến kinh phí, đến thuế má những phương tiện mà Quốc hội nắm giữ. Ấy thế, mặc dầu trên phương diện pháp lí, Hành pháp và Lập pháp là những cơ quan hoàn toàn biệt lập, cơ quan này không thể tiêu diệt cơ quan khác, nhưng trong thực tế, muốn làm việc thì phải cố nhường nhịn nhau, cố thỏa thuận nhau vì họ bắt buộc phải hợp tác để sống chung nhau.


* Giải thích như thế rất là xác đáng nhưng cũng chưa đủ và không hoàn toàn thỏa mãn. Người ta có thể trả lời rằng trong những trường hợp có xung khắc, có tranh chấp trầm trọng, có thể có một trong hai cơ quan tìm cách để tiêu diệt kẻ thù của mình bằng võ lực: Vẫn biết họ phải thỏa thuận nhưng cũng có thể có những sự đổ vỡ bằng cách này hay cách khác. Để trả lời, người ta nêu ra một lí do thứ hai để bổ túc giải thích thứ nhất: là sở dĩ trong chế độ Tổng thống Hoa Kỳ không có sự đổ vỡ giữa Hành pháp và Lập pháp, sở dĩ Tổng thống và Quốc hội giữ mãi được một đường lối hành động chiết trung là vì họ làm việc dưới sự kiểm soát thường trực của cử tri đoàn. Thật vậy, mỗi hai năm, tại Hoa Kỳ, tất cả các dân biểu tại Hạ Nghị viện và 1/3 tại Thượng Nghị viện được bầu lại. Hai năm thì nhanh lắm. Trong từng khoảng thời gian ngắn ngủi, dư luận được phát biểu ý kiến. Tổng thống và Quốc hội không thể không để ý đến dư luận này. Tổng thống không thể liều lĩnh chống đối Quốc hội vì ông còn phải ra tranh cử, nếu không còn chính đảng ông sau lưng ông. Quốc hội nghĩa là các dân biểu cũng không tài nào chống đối Tổng thống một cách vô lí – nếu Tổng thống có một đường lối phản ảnh trung thực dư luận.


* Vì những lí do trên, chế độ Tổng thống đã trở thành một chế độ Nghị viện ở hành lang. Nghĩa là trong Hiến pháp có quy định một sự phân quyền cứng rắn, nhưng thực tế cũng có những sự trao đổi, sự thương thuyết, sự dàn xếp, không khác gì trong chế độ Nghị viện.


Tóm lại một sự cộng tác giữa các cơ quan công quyền.


B. Biến chuyển thứ hai là chế độ Tổng thống không phải là một chế độ vô trách nhiệm. Trên phương diện hoàn toàn pháp lí. Tổng thống không có trách nhiệm trước Quốc hội. Tuy nhiên, ông vẫn có một trách nhiệm không kém nặng nề: đó là trách nhiệm trước quốc dân.


Thật vậy, Tổng thống Hoa Kỳ có thể được tái cử một lần, và thường thường thì các Tổng thống ra ứng cử lần thứ nhì sau khi mãn nhiệm kì 4 năm. Như vậy, sau 4 năm, ông sẽ bị dư luận xét đoán. Và ví dụ như trường hợp mà ông không ra tranh cử hay không thể ra tranh cử, dù sao cũng còn đảng của ông, và thất bại hay thành công, nếu không phải chính bản thân ông, thì ít ra đảng của ông sẽ lãnh đủ. Mà đã là một chính trị gia – nhất là đến địa vị một Tổng thống – thì không có một hoài bão nào thích thú cho bằng thực hiện được sự kiện đem chính đảng mình đến chiến thắng. Bởi thế, vấn đề trách nhiệm của Hành pháp trong chế độ Tổng thống được đặt ra trong một khung cảnh bao quát hơn: trách nhiệm trước quốc dân. Ở đây chúng ta thấy một sự trùng điệp giữa chế độ Nghị viện và Tổng thống. Chế độ Nghị viện với hệ thống lưỡng đảng – trong ấy, vấn đề trách nhiệm trước Quốc hội có tính cách lí thuyết đã bắt gặp chế độ Tổng thống nơi đây: trong hai trường hợp một người và một chính đảng có trách nhiệm trước quốc dân, trong hai trường hợp một người và một chính đảng có thể bị quốc dân phủ nhận.


Xuyên qua những nhận xét trên đây với kinh nghiệm thực tiễn, chúng ta thấy rằng chế độ Nghị viện không còn là một chế độ trong ấy Hành pháp chịu trách nhiệm trước Lập pháp và chế độ Tổng thống không phải là chế độ trong ấy Hành pháp không chịu trách nhiệm gì cả.


Tóm lại, những biến chuyển mà chúng ta vừa thấy ở chế độ Nghị viện cũng như là Tổng thống chứng minh tính cách lỗi thời của cách xếp loại chế độ chính trị cổ điển ở trên.


Trong thế giới ngày nay, dân chủ chung quy chỉ là một sự tấn phong và sự phủ nhận một tập đoàn có trách nhiệm bởi quốc dân.


Chế độ Nghị viện cũng như chế độ Tổng thống chỉ là hai giải pháp có thể chấp nhận được cho bài toán dân chủ trong những khung cảnh chính trị và xã hội khác nhau.


Đoạn 3: SỰ THAY ĐỔI TOÀN DIỆN ĐIỀU KIỆN SINH HOẠT XÃ HỘI NGÀY NAY


Chính sự thay đổi này đem đến một kết quả là dân chúng chọn lựa nhà cầm quyền một cách trực tiếp chứ không gián tiếp như xưa nữa.


A. Thật vậy, với những phương tiện giao thông tân tiến hiện tại, không gian không còn là một trở ngại lớn lao nữa. Qua sự trung gian của báo chí, vô tuyến truyền thanh cũng như vô tuyến truyền hình, sự tiếp xúc giữa quốc dân và cấp lãnh đạo, tiếp xúc giữa đại diện nhân dân và cử tri có tính cách dễ dàng và thường xuyên được. Qua những phương tiện tân kì này, những lập trường chính trị của chính đảng, những chính sách của nhà cầm quyền, bức tâm thư cũng như những nguyện vọng của nhân dân hay chiều hướng của dư luận được thể hiện một cách mau lẹ và hoàn toàn. Tất cả những điều kiện vật chất của nền văn minh tân thời thay đổi hẳn cuộc sinh hoạt chính trị. Ngày nay, dưới hình thức pháp lí nào, chung quy chúng ta chỉ tìm thấy một sự kiện chính: tức là nhà cầm quyền và đặc biệt nhân vật có trách nhiệm được chỉ định bởi một cuộc phổ thông đầu phiếu.


B. Yếu tố thứ hai của sự thay đổi điều kiện sinh hoạt chính trị; (mà chúng ta đã đề cập nhiều) là sự kiện của một hệ thống chính đảng, và ngoài hệ thống chính đảng, cách cấu tạo của các lực lượng xã hội. Một chế độ chính trị không thể tách rời hệ thống lực lượng xã hội như thành phần giai cấp trong quốc gia, như tổ chức nghiệp đoàn, đoàn thể áp lực. Và trong xã hội ngày nay, các vấn đề chính trị được đặt ra được hệ thống hóa bởi chính đảng và đối với chính đảng. Và chính yếu tố này – (như chúng ta đã nhiều lần đề cập đến) – đã làm sai lạc hết ý nghĩa của nhiều nguyên tắc pháp lí cổ điển.


C. Khuynh hướng nhân cách hóa chính quyền. Vẫn biết chính quyền trong các quốc gia cận đại là một chính quyền được định chế hóa, nhưng người ta tìm thấy trong dư luận ngày nay một khuynh hướng nghiêng về một con người, con người thể hiện nguyện vọng của họ, con người của họ. Với những phương tiện tân kì trong xã hội cận đại cho phép những sự tiếp xúc dễ dàng và nhanh chóng, dân tình hướng về một cái gì cụ thể, chán ghét sự vô danh, và một cá nhân luôn luôn được đưa ra để tượng trưng cho một chương trình, một chính đảng. Khi chúng ta nói đến Chính phủ Phan Huy Quát, Trần Văn Hương cũng như khi chúng ta nói đến Johnson, De Gaulle hay Khrushchev, Nehru, đó toàn là những cá nhân bao trùm một ý nghĩa sâu xa: sự nhân cách hóa chính quyền. Câu chuyện bên lò sưởi của Tổng thống Roosevelt là một hình thức nhân cách hóa chính quyền. Xuyên qua những định chế phức tạp, những vấn đề chính trị càng ngày càng có tính cách kĩ thuật, tâm tình của dân chúng hướng về một nhân vật và giao phó trách nhiệm giải quyết tất cả các vấn đề.


Đối với những phương tiện giao thông và kĩ thuật truyền tin tân kỳ, với sự hiện diện và phát sinh những cơ cấu xã hội cùng khuynh hướng nhân cách hóa chính quyền, điều kiện sinh hoạt xã hội và chính trị một quốc gia đã hoàn toàn thay đổi, ảnh hưởng rất nhiều đến việc tổ chức và điều hành của cách phân loại cổ điển các chế độ chính trị.


Mục III: MỘT VÀI ĐỊNH LUẬT CĂN BẢN


Những biến chuyển của chế độ Nghị viện và Tổng thống, những thay đổi về điều kiện sinh hoạt xã hội cho chúng ta thấy rằng các nguyên tắc cổ điển không còn phù hợp với thế giới ngày nay. Vấn đề đặt ra là thử hỏi đâu là dấu hiệu của nền dân chủ hiện đại. Xuyên qua những hình thức pháp lí khác biệt và nhìn vào thực tại chính trị chúng ta có thể quả quyết rằng có một số định luật được xem là căn bản của nền dân chủ hiện đại: đó là Chính phủ, cơ quan đầu não quốc gia; hệ thống quyết định tấn phong, trách nhiệm quốc gia; hệ thống đối thoại tự do.


Đoạn 1: CHÍNH PHỦ, CƠ QUAN ĐẦU NÃO CỦA QUỐC GIA


Thế nào là Chính phủ? Những danh từ Chính phủ, Quốc hội hay Hành pháp và Lập pháp thường được dùng với ý nghĩa hoàn toàn sai lạc. Nói đến Chính phủ, người ta nghĩ đến cơ quan thi hành luật pháp và nói đến Quốc hội người ta liên tưởng đến pháp chế và quyền kiểm soát toàn diện cơ quan đại diện nhân dân. Nhưng sự thực như thế nào ?


A. Nhìn kĩ lại cuộc sinh hoạt chính trị trong các quốc gia cận đại, cần phải nhận định rằng sự phân biệt giữa Hành pháp và Lập pháp chỉ có một giá trị tương đối mà thôi. Chúng ta không thể nói rằng một bên là Lập pháp với nhiệm vụ lấy những quyết định tổng quát và một bên là Hành pháp chỉ biết thi hành luật lệ. Sự thật là mỗi cơ quan, trong phạm vi hoạt động của mình, có những quyết định tổng quát và riêng biệt.


Ấn định một chính sách kinh tế, một chính sách ngoại giao, những biện pháp cải tổ hành chính đối với Chính phủ, đó là những quyết định có tính cách chọn lựa, có tính cách tổng quát. Ngược lại, Quốc hội không phải chỉ có những vấn đề nguyên tắc mà lắm lúc phải có những quyết định cá nhân, có tính cách riêng biệt và chi tiết. Hơn nữa, thực tại chính trị cho chúng ta biết rằng vai trò của Chính phủ trong việc pháp chế càng ngày càng gia tăng. Trong rất nhiều các quốc gia hiện nay, 90% luật pháp được Quốc hội biểu quyết đều do Chính phủ đề nghị (lí do: tính cách kĩ thuật và Chính phủ nắm vững vấn đề)


Ý tưởng thứ hai về quyền kiểm soát của Quốc hội cũng hoàn toàn sai lạc. Như chúng ta đã thấy, trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội không còn một giá trị thật sự và đã nhường bước cho một hình thức trách nhiệm tổng quát hơn, đó là trách nhiệm trước quốc dân của chính đảng nắm chính quyền.


B. Qua những nhận xét trên đây, chúng ta thấy rằng điểm dị đồng giữa Chính phủ và Quốc hội không phải là pháp chế và thi hành luật lệ mà dựa trên những yếu tố khác và mối tương quan thực sự giữa hai cơ quan hoàn toàn trái hẳn những nguyên tắc cổ điển.


Trước hết, đâu là điểm dị đồng giữa Chính phủ và Quốc hội? Chính phủ và Quốc hội khác nhau về con số, về tính cách thuần nhất, công khai và dư luận.


Tập đoàn và Hội nghị: đó là điểm dị đồng thứ nhất giữa Chính phủ và Quốc hội. Chính phủ luôn luôn chỉ là một tập đoàn, gồm một số ít nhân viên, một nhóm người. Vì nhiệm vụ của Chính phủ là có những quyết định chớp nhoáng mau lẹ, đối phó kịp thời, điều khiển guồng máy hành chính hằng ngày cho nên chỉ một nhóm người càng ít càng hay mới phù hợp với tính chất của hoạt động này. Trái lại nhiệm vụ của Quốc hội là bàn cãi, thảo luận, Quốc hội, bao giờ cũng là hội nghị, gồm một số đông nhân viên. Càng đông thì bàn cãi càng lí thú vì mục tiêu chính là tất cả khía cạnh của vấn đề được mổ xẻ, trình bày rõ rệt.


Tính cách thuần nhất và bất thuần nhất: Quốc hội là một hội trường, không bao giờ có tính cách thuần nhất (ngoài Quốc hội bù nhìn chỉ biết hoan hô và đồng thanh chấp thuận). Đó là nơi để thảo luận, các ý kiến thường chống đối nhau, Quốc hội không thể là một khối chặt chẽ được. Quốc hội, nói cho cùng, chỉ là diễn đàn của đối lập. Trong lúc đó, Chính phủ phải là một khối, một tập đoàn thuần nhất. Trên nguyên tắc không thể có đối lập trong Chính phủ. Có thể có bất đồng ý kiến khi thảo luận, nhưng quyết định phải là quyết định chung của Chính phủ. Nếu vì một lí do nào, một Tổng trưởng không đồng quan điểm với ê-kíp của mình, nên từ chức ngay chớ không có vấn đề chống đối trong Chính phủ.


Tính cách công khai và bí mật: Trong Quốc hội – vì là một hội trường – thảo luận công khai là một việc thường. Một vấn đề quốc gia hệ trọng được mổ xẻ trước quốc dân. Các vị dân biểu – với tất cả các đặc quyền (mà chúng ta đã thấy) – phải thẳng thắn và công khai trình quan điểm của mình để dư luận phán đoán. Hơn nữa, vì Quốc hội là diễn đàn của đối lập, cuộc thảo luận phải có tính cách công khai, tiếng nói của đối lập mới có hiệu lực. Trái lại, Chính phủ thường hay làm việc một cách bí mật. Ít khi mà chúng ta biết Hội đồng Nội các bàn cãi gì, quyết định ra sao. Nếu có thông cáo thì chỉ lờ mờ rằng những vấn đề này được xét đến và có những quyết định quan trọng thế thôi. Đôi khi Chính phủ cũng giải thích một vài quyết định của mình cho dân chúng, nhưng sự kiện này chỉ nhằm tác dụng quảng cáo, tuyên truyền.


Thường thường là Chính phủ giữ bí mật của quyết định và chắc chắn là không bao giờ tiết lộ những cuộc thảo luận đã đưa đến những quyết định.


Kĩ thuật gia và dư luận: đây là một yếu tố thứ tư làm nổi bật sự khác biệt giữa Chính phủ và Quốc hội. Về phần Chính phủ, thường thường cộng tác viên hay cố vấn là những kĩ thuật gia: nhà hành chính, luật gia, kỹ sư, kinh tế gia, tóm lại những nhà kĩ thuật có ảnh hưởng không ít đối với các quyết định của Chính phủ. Về phần Quốc hội, trái lại, quan điểm của cử tri, của một người dân chất phác, không am hiểu những vấn đề tế nhị phức tạp, với những đòi hỏi và quyền lợi riêng tư, với những ý kiến đơn giản, cũng như quan điểm của những hiệp hội, những đoàn thể chiếm một vai trò quan trọng. Các dân biểu phải để ý, theo dõi dư luận này không phải để thỏa mãn tất cả mà để cho các quyết định của Quốc hội có tính cách thực tế, đi sát với nguyện vọng của quần chúng.


Tóm lại, chính những yếu tố mà chúng ta vừa kể – tập đoàn hay hội nghị, công khai hay bí mật, tính cách thuần nhất kĩ thuật gia và dư luận – mới là yếu tố ấn định sự khác biệt giữa Chính phủ và Quốc hội.


Với những đặc tính ấy, Chính phủ – một tập đoàn bí mật thuần nhất gồm một số kĩ thuật gia – mới là cơ quan hành động, thực hiện đáp ứng nhu cầu của thế kỉ hai mươi này.


Đoạn 2: MỘT HỆ THỐNG QUYẾT ĐỊNH, TẤN PHONG VÀ TRÁCH NHIỆM QUỐC GIA


A. Một hệ thống quyết định quốc gia


Quyết định quốc gia: quyết định mà toàn dân chọn lựa để định vận mệnh của mình. Đây là một dấu hiệu đặc biệt và đồng thời là một định luật căn bản của nền dân chủ hiện đại. Vẫn biết rằng không phải giờ phút nào mà toàn dân cũng làm chủ được vận mệnh của mình. Không phải lúc nào, toàn dân cũng có thể phát biểu ý kiến, thực hiện nguyện vọng hay quyết định cho mình. Chính cá nhân chúng ta lắm lúc cũng không làm theo sở nguyện.


Nhưng khi chúng ta nói đến tự quyết lấy vận mạng của mình, chúng ta muốn nhấn mạnh rằng, trong những giờ phút lịch sử, trong những giai đoạn cực kỳ quan trọng, trong những giai đoạn ngã ba đường, chính toàn dân tự chọn lấy con đường của mình, một cách tự do. Con đường ấy – hay hay là dở, đúng hay là sai đó là một chuyện khác, nhưng đó là con đường mà toàn dân quyết định vận mệnh quốc gia, trước một khúc rẽ nhất định.


Quyết định quốc gia có thể được thể hiện bởi nhiều hình thức. Nhưng điều căn bản là toàn dân, bởi lá phiếu của mình, chỉ định những người đứng ra lãnh đạo quốc gia, chỉ định những giải pháp mà nhà lãnh đạo này phải thực hiện cho kỳ được, và chỉ định những người có bổn phận theo dõi và cảnh cáo chính quyền.


Đó là ý nghĩa sâu xa của hệ thống quyết định quốc gia. Dân chủ là thế – chủ quyền thuộc về toàn dân là thế.


B. Một hệ thống tấn phong quốc gia


Tấn phong quốc gia: tấn phong bởi toàn dân vị chỉ huy Hành pháp. Đây là một hệ thống trao quyền, ủy nhiệm quyền lực của Nhà nước bởi quốc dân cho Hành pháp.


Hiện giờ còn rất nhiều người cho rằng tất cả quyền lực đều phải tập trung vào cơ quan Lập pháp và những người điều khiển bộ máy nhà nước đều là kẻ thừa hành của Quốc hội, đại diện nhân dân. Đó là một quan niệm cũ kỹ, của thế kỉ 18, và hoàn toàn sai lầm. Như chúng ta đã biết, trong chế độ dân chủ hiện đại, cơ quan đầu não của tất cả sinh hoạt chính trị là Chính phủ. Không có một quốc gia nào trong ấy có cuộc sinh hoạt chính trị ổn định và phấn khởi mà trọng tâm là Nghị viện. Đã là cơ quan đầu não thì vị chỉ huy cơ quan này không thể được chỉ định một cách gián tiếp, theo những thể thức phức tạp. Ngày nay, sự tiến triển của nền dân chủ đã công nhận một hiện tượng chắc chắn là ý dân luôn luôn muốn tự mình chọn lấy người đại diện của mình dầu rằng Hành pháp hay Lập pháp.


Cũng như dân chúng ngày nay không thể quan niệm rằng họ bầu dân biểu Quốc hội một cách gián tiếp, dân chúng ngày nay cũng mong mỏi chính mình chọn lựa một cách trực tiếp và rõ ràng vị chỉ huy Hành pháp. Đó là một định luật của nền dân chủ cận đại.


Ngày nay, dân tình không muốn thấy tái diễn những cuộc thương thuyết, những cuộc mua bán ở hành lang, trao đổi mua bán để rồi một Chính phủ thành hình mà vị lãnh đạo là kẻ vô danh tiểu tốt. Không, ngày nay cuộc tấn phong phải là một tấn phong quốc gia, một ủy nhiệm quyền lực của quốc gia bởi quốc gia một cách trực tiếp.


C. Một hệ thống trách nhiệm quốc gia


Ở đây cũng như ở nhiều lĩnh vực khác của cuộc sinh hoạt chính trị, chúng ta cần phải đánh tan mọi quan niệm lỗi thời, quan niệm cho rằng có những Chính phủ trách nhiệm trước Quốc hội và Chính phủ vô trách nhiệm trước Quốc hội.


Sự thật hoàn toàn khác hẳn. Dù dưới hình thức nào, hiện tượng chính trị cuối cùng và đầy ý nghĩa chính là Trách nhiệm trước toàn thể cử tri.


Thật vậy, như chúng ta đã biết, vấn đề trách nhiệm trước Quốc hội của Chính phủ trong chế độ Nghị viện chỉ còn tính cách lí thuyết với hệ thống lưỡng đảng. Không còn trách nhiệm trước Quốc hội, trách nhiệm thực sự của Chính phủ là trách nhiệm trước quốc dân. Chính đảng ở chính quyền chỉ mất quyền lãnh đạo sau một cuộc thất bại trong một cuộc tổng tuyển cử. Trách nhiệm trước Quốc hội đã trở thành trách nhiệm trước quốc gia.


Trong chế độ Tổng thống, trên phương diện pháp lí, vị Tổng thống không trách nhiệm trước Quốc hội. Tuy nhiên, vì đã được toàn dân bầu lên, và hoặc để có thể được tái cử, hoặc để đưa chính đảng của mình đến chiến thắng, vị Tổng thống dù sao cũng phải bắt buộc để ý đến dân tình, chính kiến của Nghị viện. Và trách nhiệm quốc gia đợi chờ Tổng thống khi mãn nhiệm kì.


Đoạn 3: MỘT HỆ THỐNG ĐỐI THOẠI TỰ DO


Đối thoại tức là tránh độc thoại. Trong lúc mà với chế độ độc tài, ý thức hệ của chánh quyền là bất di bất dịch, thì nền dân chủ dựa trên lòng độ lượng, khoan dung và tính cách tương đối của chân lí chính trị. Vì dân chủ tức là chấp nhận sự chính đáng của mọi bất đồng chính kiến, sự hiện hữu của một hệ thống đối thoại tự do là một hậu quả tất nhiên.


Cuộc sinh hoạt chính trị dân chủ trong một quốc gia chỉ có thể được khi nào các cuộc xung đột chính trị được giải quyết bởi những giải pháp chính trị. Trong một quốc gia, luôn luôn có nhiều vấn đề cần giải quyết. Và bổn phận của chính trị gia là tổng hợp các vấn đề được đặt ra, đưa những vấn đề ấy lên một mức độ đại cương và phán đoán theo những tiêu chuẩn chính trị. Và tất cả cuộc sinh hoạt ấy tức là đối thoại. Một cuộc đối thoại không ngừng, giữa chính quyền và đối lập, giữa các chính đảng, giữa các đoàn thể, trong nhân dân. Sự hiện diện của cuộc đối thoại là một điều căn bản.


Mà nhìn nhận đối thoại tức là nhìn nhận sự hiện hữu của tự do công cộng, tức là quyền phát biểu, tự do tuyển cử, quyền bất khả xâm phạm, điều kiện tối cần và quý giá cho một cuộc đối thoại tự do.


Trong cuộc sinh hoạt chính trị ngày nay, ý chí của đa số thường được xem là ưu thế. Nhưng ý chí của đa số chỉ có giá trị khi nào ý chí ấy được chấp thuận trong một bầu không khí cởi mở, sáng tỏ và tự do.


Như Jefferson đã nhận xét: “Ta cần phải ý thức nguyên tắc thiêng liêng này: rằng ý chí của đa số trong mọi trường hợp đều ưu thắng, nhưng một ý chí mà muốn được coi là phải thì trước hết cần phải hợp với lẽ phải, rằng thiểu số cũng có những quyền bình đẳng của họ, mà luật pháp bình đẳng phải bảo vệ những quyền này, và vi phạm những quyền này tức là áp bức vậy.”


Thiếu hẳn một hệ thống đối thoại tự do, một chế độ chính trị của một quốc gia nào đó không thể xem là dân chủ được.


- Hết thiên thứ hai: Tổ chức chính quyền. Đón đọc thiên thứ ba: Sự tham gia chính trị của công dân trong chế độ dân chủ


(Còn tiếp)


Nguồn: Nguyễn Văn Bông, Luật Hiến pháp và Chính trị học. In lần thứ hai. Sài Gòn 1969. Bản điện tử do pro&contra thực hiện.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 30, 2013 15:14

August 29, 2013

Vin danh cách mạng

Tưởng Năng Tiến


“Cách mạng cÅ©ng hay đấy chứ! Đem mà cách cái mạng mẹ kiếp cá»§a lÅ© chúng nó đi.”


(AQ chính truyện, Lỗ Tấn)


Tôi đọc Thư gửi bạn ta của Bùi Bảo Trúc hàng ngày. Trên Thời báo ngày 16-8-2013, ông viết (có đoạn) như sau:


“Tờ Pháp luật ở trong nước vừa đăng một bản tin rất kỳ lạ: một thanh niên ở tỉnh Quảng Nam, sau một chầu ăn nhậu với bạn bè, đã xông vào một cư xá, định hiếp dâm một cô giáo, nhưng bị cô giáo chống cự dữ dội nên đương sự không thực hiện được ý định…


Đương sá»± sau đó bị bắt giữ, bị truy tố ra tòa và bị tòa phạt 3 năm tù. Đương sá»± kháng cáo, xin được giảm án và tòa sau khi xét lại hồ sÆ¡, đã giảm bản án 3 năm tù xuống còn 2 năm… lý do… vì gia đình cá»§a SÆ¡n ‘có công với cách mạng.’


Cách mạng gì mà kỳ quá vậy?”


Trong khi cả nước đang nô nức chuẩn bị kỷ niệm cuộc Cách mạng tháng Tám, và chào mừng ngày Quốc khánh 2 tháng 9 mà cái ông ký giả này lại đi hỏi ngang một câu (nghe) “kỳ quá vậy” khiến cho ai cũng phải cảm thấy – ít/nhiều – ái ngại. Nhưng khách quan mà nói thì cái vẫn thường được mệnh danh, hay giả danh, là cách mạng (ở ta) quả nhiên có kỳ cục thiệt, và kỳ cục lắm, ở khắp mọi mặt – chớ chả riêng chi cái “khâu” pháp luật.


CÅ©ng trên tờ Thời báo, số thượng dẫn, nhà báo Đoàn Dá»± còn sưu tập được đôi điều kỳ cục (khác) về cách mưu sinh bằng …“nghề bán máu”. Xin trích dẫn một đoạn ngắn:


“Cùng đường mới phải đến đây… Đó là câu nói cá»§a một người đàn ông đội cái mÅ© cáu bẩn, ngồi lúp xúp trên hành lang để chờ đến lượt mình. Ông cho biết ông quê ở ngoài Bắc (Nam Định), gia đình vào đây 4 người gồm hai vợ chồng ông và 2 đứa con lớn, còn 2 đứa nhỏ thì gá»­i bà nội ở ngoài quê, đi học.


Cả gia đình thuê một căn nhà nhỏ xíu có gác gỗ ở Thủ Đức. Hai con đi làm công nhân, vợ chồng ông bán rau cỏ ở chợ, chắt chiu sống cũng tạm được. Nhưng đùng một cái, vợ ông bị bệnh ung thư vú, tiền dành dụm cũng hết, bà nội ở quê gọi điện thoại vào giục gửi tiền ra nuôi hai đứa nhỏ. Bí quá, ông đành giấu vợ con, lên Sài Gòn tìm đến Bệnh viện Chợ Rẫy hỏi thủ tục để xin bán máu.


Phía sau ông là một cô gái mảnh dẻ, có vẻ như sinh viên nhưng nước da men mét có lẽ do thiếu ăn, cÅ©ng đang hỏi han về giá cả bán máu …


Giá 250cc máu là 140.000 đồng, nhưng thá»±c ra họ không được hưởng toàn bộ số tiền đó. Anh Nguyễn Văn Hùng, người vừa đi bán máu về, giải thích: ‘Chúng tôi phải chi riêng cho các nhân viên giám định để họ viết giấy chứng nhận mình đủ sức khỏe, máu tốt, không có bệnh cần phải đề phòng. Ngoài ra, còn tiền ăn uống, tàu xe đi về v.v… Thế nên mỗi 250cc máu chúng tôi chỉ còn lại được khoảng 90.000 đồng là cùng.’”


Ôi tưởng gì chớ tiền “bôi trơn” thì ở đâu mà chả mất. Không mất thêm tiền “cò” đã là may rồi. Và ở xứ mình thì bán máu – xưa nay –  vốn chỉ là chuyện nhỏ, và chuyện thường ngày vẫn xảy ra ở huyện:


“Túng thiếu. Mà phải có tiền. Phải sống. Đang loay hoay với kế mưu sinh thì Dương Tường đến. Nào ai ngờ được chính anh chàng lơ ngơ này lại là người giải quyết cho Mặc Lân vấn đề cực kì khó khăn ấy: Đi bán máu…


Lân mừng như người chết đuối vớ được cọc… Tiền tính theo cc còn tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người được lĩnh tem 2 cân đường, 4 cân đậu phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất đi một ít màu nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất vui…


Bán máu êm ả là thế mà nhiều lúc vẫn giật mình. Ví như đang ngồi nhìn cả vào người y tá chờ gọi tên mình thì người ấy bỗng bật ra những cái tên bất ngờ nhất:


Chính Yên!


Phan Kế Bảo!


…


Phương Nam!


Toàn những người quen. Toàn những trí thức. Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng.” (Bùi Ngọc Tấn. “Thời gian gấp ruổi“. Viết về  bè bạn. Fall Church, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2006)


Ngoài “những cái tên bất ngờ” kể trên, còn có điều bất ngờ hơn nữa mà rất ít ai để ý: nếu tính từ thời của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tới cái “cô gái rất mảnh dẻ có vẻ như sinh viên” đã có mấy thế hệ người Việt bị dồn đến “bước đường cùng” như thế?


Cách mạng gì mà kỳ quá vậy?


Nó không chỉ kỳ ở cái chuyện bán máu mà còn kỳ ở nhiều vụ đổ máu tùm lum nữa kìa. Xin đơn cử một thí dụ, qua lời giới thiệu trên trang pro&contra về tác phẩm (Luật Hiến pháp và Chính trị học) của cố giáo sư Nguyễn Văn Bông:


“Cuốn sách này sẽ còn phải chờ một thời gian dài, trước khi lại được xuất bản tại Việt Nam. Vì hai lẽ:


Thứ nhất, vì bản thân nội dung của nó. Ra đời gần một nửa thế kỉ trước tại miền Nam Việt Nam thời Đệ nhị Cộng hòa, nền tảng lí thuyết tổ chức một nhà nước dân chủ và pháp quyền mà nó trình bày đối lập sâu sắc với mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa với độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản trước sau vẫn tồn tại trong thực tế và vẫn chế ngự tư duy chính thống.


Thứ hai, tác giả cá»§a nó không phải ai khác, chính là Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người bị chính quyền cách mạng ám sát ngày 10-11-1971. Lí do để ở thời điểm ấy, Hà Nội quyết định duyệt lệnh giết một giáo sư luật, Viện trưởng Viện Quốc gia Hành chánh tại Sài Gòn, gần đây được bạch hóa trên báo chí Việt Nam với một sá»± thản nhiên đến lạnh người…


Trong danh sách những nhân vật xuất chúng bị chính quyền cộng sản ám sát hoặc trừ khá»­ trong bóng tối, Nguyễn Văn Bông có nhiều điểm tương đồng với Phạm Quỳnh. Họ đều là những trí tuệ hiếm có, những trí thức có tầm vóc và ảnh hưởng lớn, dấn thân trong trường chính trị cho một nước Việt Nam mới, song họ đều khước từ lá»±a chọn chá»§ nghÄ©a cộng sản…”


[image error]Cách “ám sát” giáo sư Nguyễn Văn Bông, tuy thế, “văn minh” hÆ¡n thấy rõ nếu so với kiểu “trừ khử” học giả Phạm Quỳnh cá»§a… chính quyền cách mạng:


“Thầy tôi bị giết trước, bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc, sau đó còn bị bắn bồi thêm 3 phát đạn… Cụ Khôi cÅ©ng bị bắn 3 phát… ông Huân hoảng sợ, vùng chạy thì bị bắt lại và bị bắn một phát ngay vào đầu… Cả 3 thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.”  (Phạm Tuân. Cái chết cá»§a cụ Phạm Quỳnh. Gió O)


Đã có bao nhiêu “thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất” (y như thế) trong cuộc Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, và trong cuộc thảm sát vào năm Mậu Thân – ở miền Trung?


Thêm bao nhiêu (triệu) thi hài khác nữa được vùi lấp qua loa, ở cả ba miền, trong hai cuộc kháng chiến (rất thần thánh và cũng rất không cần thiết) vừa qua? Đó là chưa kể vô số những xác người đã vùi sâu trong lòng đại dương, khi đang trốn chạy khỏi (cái) thiên đường cách mạng!


Đ… mẹ, cách mạng gì mà kỳ quá vậy?


 Đã thế, theo lời của blogger Bùi Tín: “Giáo sư Hoàng Xuân Phú lại có một khám phá động trời. Trên blog Quê Choa, ông khẳng định Đảng Cộng sản đã vi phạm luật lệ do chính mình đề ra, suốt 68 năm nắm chính quyền, là một đảng chính trị, Đảng CS chưa hề có giấy xin phép, đăng ký hoạt động, cũng chưa được chính quyền cấp giấy khai sinh và quy định thể lệ hoạt động cho nó.


Cả khi nó tự giải thể (giả vờ) và đổi tên gọi – Đảng CS Đông Dương, Đảng Lao Động VN, rồi Đảng CSVN – nó cũng không xin phép, đăng ký với chính quyền, có nghĩa là nó chưa hề thực thi thủ tục luật pháp. Nó là một tổ chức không hợp lệ. Trên thực tế và theo quan điểm luật học, Đảng CS vẫn là một đảng phi pháp, không chính danh.”


Hay nói một cách lãng mạn và nhẹ nhàng hÆ¡n, theo ngôn ngữ thi ca cá»§a nhà thÆ¡ Bùi Hoàng Tám, đây là một cách… vin danh:


“Việc một đại gia đập bỏ ngôi biệt thự cổ trong khuôn viên trị giá 137 tỉ đồng trong sự nuối tiếc chưa kịp nguôi ngoai của nhiều người thì lại có tin, chiếc giường… trị giá 6 tỉ đồng của đại gia Lê Ân đã về đến Việt Nam.


Đó là một trong số 60 chiếc giường thương hiệu Royal Bed cá»§a hãng Savoir Beds (Anh), dá»±a trên thiết kế đặc biệt giành riêng cho Hoàng gia Anh giai đoạn 1640 – 1740.  Số giường này được làm để ká»· niệm 60 năm Nữ hoàng Anh Elizabeth tại vị.


 ’Tôi tìm cách đặt mua không phải để ngá»§ mà để thế giới biết rằng Việt Nam cÅ©ng có nhiều đại gia lắm tiền’ – Ông Ân nói…


Còn nhiều việc có thể ‘nhân danh đất nước’ mà có lẽ ông Ân chưa biết, ví như hiện có hàng trăm người Việt Nam lao động bất hợp pháp ở Nga bị bắt giữ đang sống trong cảnh khốn khổ, không có tiền mua vé máy bay về quê. Nếu vì danh dự của đất nước, ông hãy bỏ tiền mua vé cho họ. Khi đó thì ông cứ thỏa mái nhân danh tình yêu đồng bào, lòng tự trọng quốc gia hay… gì gì đó.


Thậm chí, ông có thể giúp các cháu học sinh một vài chiếc cầu tại quê hương Quảng Nam của ông như cầu Dân trí tại Phú Mưa hay cây cầu Dân trí giúp các em đi học hàng ngày vừa khởi công ở Hậu Giang nhờ sự đóng góp cúa các nhà hảo tâm cả nước.


Còn việc mua giường, nó có gì đó càng thô thiển khi liên tưởng tới việc đất nước được ‘vinh danh’ nhờ… cái giường ngủ của đại gia Lê Ân. Mua giường để vợ chồng ngủ mà cũng ‘vin danh’ đất nước thì quả thật, đất nước bị đem ra lạm dụng đến mức như một sự xúc phạm!”


Phải chi ngay khi những kẻ “vin danh cách mạng” để lạm dụng và xúc phạm đất nước Việt Nam mà chúng cÅ©ng bị chỉ mặt đặt tên ngay tức khắc, như  ông Lê Ân hôm nay thì đỡ cho cái xứ sở này biết mấy. Từ đó đến nay đã gần hai phần ba thế ká»· trôi qua, thời gian đủ dài để mọi người dân bị “nhồi sọ” nhuần nhuyễn hai chữ “cách mạng” nên đều (hồn nhiên) gọi bọn cướp ngày bằng mỹ từ này: cách mạng tháng tám, cách mạng mùa thu, chính quyền cách mạng, chính phá»§ cách mạng, chá»§ nghÄ©a cách mạng, văn hoá cách mạng, văn công cách mạng, anh hùng cách mạng, truyền thống cách mạng, sách báo cách mạng, thÆ¡ văn cách mạng …


Bao giờ mà lũ “ngụy cách mạng” chưa bị điểm đúng mặt, gọi đúng tên (ác độc, bất nhân, bất tín, bất nghĩa, nói một đằng làm một nẻo, vừa đánh trống vừa ăn cướp) thì chúng vẫn còn có thể tác yêu tác quái – ở đất nước này.


Nguồn ảnh: x-cafevn.org/forum


© 2013 Tưởng Năng Tiến & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 29, 2013 15:13

Vin danh cách mạng

Tưởng Năng Tiến


“Cách mạng cũng hay đấy chứ! Đem mà cách cái mạng mẹ kiếp của lũ chúng nó đi.”


(AQ chính truyện, Lỗ Tấn)


Tôi đọc Thư gửi bạn ta của Bùi Bảo Trúc hàng ngày. Trên Thời báo ngày 16-8-2013, ông viết (có đoạn) như sau:


“Tờ Pháp luật ở trong nước vừa đăng một bản tin rất kỳ lạ: một thanh niên ở tỉnh Quảng Nam, sau một chầu ăn nhậu với bạn bè, đã xông vào một cư xá, định hiếp dâm một cô giáo, nhưng bị cô giáo chống cự dữ dội nên đương sự không thực hiện được ý định…


Đương sự sau đó bị bắt giữ, bị truy tố ra tòa và bị tòa phạt 3 năm tù. Đương sự kháng cáo, xin được giảm án và tòa sau khi xét lại hồ sơ, đã giảm bản án 3 năm tù xuống còn 2 năm… lý do… vì gia đình của Sơn ‘có công với cách mạng.’


Cách mạng gì mà kỳ quá vậy?”


Trong khi cả nước đang nô nức chuẩn bị kỷ niệm cuộc Cách mạng tháng Tám, và chào mừng ngày Quốc khánh 2 tháng 9 mà cái ông ký giả này lại đi hỏi ngang một câu (nghe) “kỳ quá vậy” khiến cho ai cũng phải cảm thấy – ít/nhiều – ái ngại. Nhưng khách quan mà nói thì cái vẫn thường được mệnh danh, hay giả danh, là cách mạng (ở ta) quả nhiên có kỳ cục thiệt, và kỳ cục lắm, ở khắp mọi mặt – chớ chả riêng chi cái “khâu” pháp luật.


Cũng trên tờ Thời báo, số thượng dẫn, nhà báo Đoàn Dự còn sưu tập được đôi điều kỳ cục (khác) về cách mưu sinh bằng …“nghề bán máu”. Xin trích dẫn một đoạn ngắn:


“Cùng đường mới phải đến đây… Đó là câu nói của một người đàn ông đội cái mũ cáu bẩn, ngồi lúp xúp trên hành lang để chờ đến lượt mình. Ông cho biết ông quê ở ngoài Bắc (Nam Định), gia đình vào đây 4 người gồm hai vợ chồng ông và 2 đứa con lớn, còn 2 đứa nhỏ thì gửi bà nội ở ngoài quê, đi học.


Cả gia đình thuê một căn nhà nhỏ xíu có gác gỗ ở Thủ Đức. Hai con đi làm công nhân, vợ chồng ông bán rau cỏ ở chợ, chắt chiu sống cũng tạm được. Nhưng đùng một cái, vợ ông bị bệnh ung thư vú, tiền dành dụm cũng hết, bà nội ở quê gọi điện thoại vào giục gửi tiền ra nuôi hai đứa nhỏ. Bí quá, ông đành giấu vợ con, lên Sài Gòn tìm đến Bệnh viện Chợ Rẫy hỏi thủ tục để xin bán máu.


Phía sau ông là một cô gái mảnh dẻ, có vẻ như sinh viên nhưng nước da men mét có lẽ do thiếu ăn, cũng đang hỏi han về giá cả bán máu …


Giá 250cc máu là 140.000 đồng, nhưng thực ra họ không được hưởng toàn bộ số tiền đó. Anh Nguyễn Văn Hùng, người vừa đi bán máu về, giải thích: ‘Chúng tôi phải chi riêng cho các nhân viên giám định để họ viết giấy chứng nhận mình đủ sức khỏe, máu tốt, không có bệnh cần phải đề phòng. Ngoài ra, còn tiền ăn uống, tàu xe đi về v.v… Thế nên mỗi 250cc máu chúng tôi chỉ còn lại được khoảng 90.000 đồng là cùng.’”


Ôi tưởng gì chớ tiền “bôi trơn” thì ở đâu mà chả mất. Không mất thêm tiền “cò” đã là may rồi. Và ở xứ mình thì bán máu – xưa nay –  vốn chỉ là chuyện nhỏ, và chuyện thường ngày vẫn xảy ra ở huyện:


“Túng thiếu. Mà phải có tiền. Phải sống. Đang loay hoay với kế mưu sinh thì Dương Tường đến. Nào ai ngờ được chính anh chàng lơ ngơ này lại là người giải quyết cho Mặc Lân vấn đề cực kì khó khăn ấy: Đi bán máu…


Lân mừng như người chết đuối vớ được cọc… Tiền tính theo cc còn tem phiếu thì đồng loạt. Mỗi người được lĩnh tem 2 cân đường, 4 cân đậu phụ, 2 kí thịt, 2 hộp sữa. Thế là mất đi một ít màu nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất vui…


Bán máu êm ả là thế mà nhiều lúc vẫn giật mình. Ví như đang ngồi nhìn cả vào người y tá chờ gọi tên mình thì người ấy bỗng bật ra những cái tên bất ngờ nhất:


Chính Yên!


Phan Kế Bảo!



Phương Nam!


Toàn những người quen. Toàn những trí thức. Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng.” (Bùi Ngọc Tấn. “Thời gian gấp ruổi“. Viết về  bè bạn. Fall Church, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2006)


Ngoài “những cái tên bất ngờ” kể trên, còn có điều bất ngờ hơn nữa mà rất ít ai để ý: nếu tính từ thời của nhà văn Bùi Ngọc Tấn, tới cái “cô gái rất mảnh dẻ có vẻ như sinh viên” đã có mấy thế hệ người Việt bị dồn đến “bước đường cùng” như thế?


Cách mạng gì mà kỳ quá vậy?


Nó không chỉ kỳ ở cái chuyện bán máu mà còn kỳ ở nhiều vụ đổ máu tùm lum nữa kìa. Xin đơn cử một thí dụ, qua lời giới thiệu trên trang pro&contra về tác phẩm (Luật Hiến pháp và Chính trị học) của cố giáo sư Nguyễn Văn Bông:


“Cuốn sách này sẽ còn phải chờ một thời gian dài, trước khi lại được xuất bản tại Việt Nam. Vì hai lẽ:


Thứ nhất, vì bản thân nội dung của nó. Ra đời gần một nửa thế kỉ trước tại miền Nam Việt Nam thời Đệ nhị Cộng hòa, nền tảng lí thuyết tổ chức một nhà nước dân chủ và pháp quyền mà nó trình bày đối lập sâu sắc với mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa với độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản trước sau vẫn tồn tại trong thực tế và vẫn chế ngự tư duy chính thống.


Thứ hai, tác giả của nó không phải ai khác, chính là Giáo sư Nguyễn Văn Bông, người bị chính quyền cách mạng ám sát ngày 10-11-1971. Lí do để ở thời điểm ấy, Hà Nội quyết định duyệt lệnh giết một giáo sư luật, Viện trưởng Viện Quốc gia Hành chánh tại Sài Gòn, gần đây được bạch hóa trên báo chí Việt Nam với một sự thản nhiên đến lạnh người…


Trong danh sách những nhân vật xuất chúng bị chính quyền cộng sản ám sát hoặc trừ khử trong bóng tối, Nguyễn Văn Bông có nhiều điểm tương đồng với Phạm Quỳnh. Họ đều là những trí tuệ hiếm có, những trí thức có tầm vóc và ảnh hưởng lớn, dấn thân trong trường chính trị cho một nước Việt Nam mới, song họ đều khước từ lựa chọn chủ nghĩa cộng sản…”


Cách “ám sát” giáo sư Nguyễn Văn Bông, tuy thế, “văn minh” hơn thấy rõ nếu so với kiểu “trừ khử” học giả Phạm Quỳnh của… chính quyền cách mạng:


“Thầy tôi bị giết trước, bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc, sau đó còn bị bắn bồi thêm 3 phát đạn… Cụ Khôi cũng bị bắn 3 phát… ông Huân hoảng sợ, vùng chạy thì bị bắt lại và bị bắn một phát ngay vào đầu… Cả 3 thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.”  (Phạm Tuân. Cái chết của cụ Phạm Quỳnh. Gió O)


Đã có bao nhiêu “thi hài bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất” (y như thế) trong cuộc Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, và trong cuộc thảm sát vào năm Mậu Thân – ở miền Trung?


Thêm bao nhiêu (triệu) thi hài khác nữa được vùi lấp qua loa, ở cả ba miền, trong hai cuộc kháng chiến (rất thần thánh và cũng rất không cần thiết) vừa qua? Đó là chưa kể vô số những xác người đã vùi sâu trong lòng đại dương, khi đang trốn chạy khỏi (cái) thiên đường cách mạng!


Đ… mẹ, cách mạng gì mà kỳ quá vậy?


 Đã thế, theo lời của blogger Bùi Tín: “Giáo sư Hoàng Xuân Phú lại có một khám phá động trời. Trên blog Quê Choa, ông khẳng định Đảng Cộng sản đã vi phạm luật lệ do chính mình đề ra, suốt 68 năm nắm chính quyền, là một đảng chính trị, Đảng CS chưa hề có giấy xin phép, đăng ký hoạt động, cũng chưa được chính quyền cấp giấy khai sinh và quy định thể lệ hoạt động cho nó.


Cả khi nó tự giải thể (giả vờ) và đổi tên gọi – Đảng CS Đông Dương, Đảng Lao Động VN, rồi Đảng CSVN – nó cũng không xin phép, đăng ký với chính quyền, có nghĩa là nó chưa hề thực thi thủ tục luật pháp. Nó là một tổ chức không hợp lệ. Trên thực tế và theo quan điểm luật học, Đảng CS vẫn là một đảng phi pháp, không chính danh.”


Hay nói một cách lãng mạn và nhẹ nhàng hơn, theo ngôn ngữ thi ca của nhà thơ Bùi Hoàng Tám, đây là một cách… vin danh:


“Việc một đại gia đập bỏ ngôi biệt thự cổ trong khuôn viên trị giá 137 tỉ đồng trong sự nuối tiếc chưa kịp nguôi ngoai của nhiều người thì lại có tin, chiếc giường… trị giá 6 tỉ đồng của đại gia Lê Ân đã về đến Việt Nam.


Đó là một trong số 60 chiếc giường thương hiệu Royal Bed của hãng Savoir Beds (Anh), dựa trên thiết kế đặc biệt giành riêng cho Hoàng gia Anh giai đoạn 1640 – 1740.  Số giường này được làm để kỷ niệm 60 năm Nữ hoàng Anh Elizabeth tại vị.


 ’Tôi tìm cách đặt mua không phải để ngủ mà để thế giới biết rằng Việt Nam cũng có nhiều đại gia lắm tiền’ – Ông Ân nói…


Còn nhiều việc có thể ‘nhân danh đất nước’ mà có lẽ ông Ân chưa biết, ví như hiện có hàng trăm người Việt Nam lao động bất hợp pháp ở Nga bị bắt giữ đang sống trong cảnh khốn khổ, không có tiền mua vé máy bay về quê. Nếu vì danh dự của đất nước, ông hãy bỏ tiền mua vé cho họ. Khi đó thì ông cứ thỏa mái nhân danh tình yêu đồng bào, lòng tự trọng quốc gia hay… gì gì đó.


Thậm chí, ông có thể giúp các cháu học sinh một vài chiếc cầu tại quê hương Quảng Nam của ông như cầu Dân trí tại Phú Mưa hay cây cầu Dân trí giúp các em đi học hàng ngày vừa khởi công ở Hậu Giang nhờ sự đóng góp cúa các nhà hảo tâm cả nước.


Còn việc mua giường, nó có gì đó càng thô thiển khi liên tưởng tới việc đất nước được ‘vinh danh’ nhờ… cái giường ngủ của đại gia Lê Ân. Mua giường để vợ chồng ngủ mà cũng ‘vin danh’ đất nước thì quả thật, đất nước bị đem ra lạm dụng đến mức như một sự xúc phạm!”


Phải chi ngay khi những kẻ “vin danh cách mạng” để lạm dụng và xúc phạm đất nước Việt Nam mà chúng cũng bị chỉ mặt đặt tên ngay tức khắc, như  ông Lê Ân hôm nay thì đỡ cho cái xứ sở này biết mấy. Từ đó đến nay đã gần hai phần ba thế kỷ trôi qua, thời gian đủ dài để mọi người dân bị “nhồi sọ” nhuần nhuyễn hai chữ “cách mạng” nên đều (hồn nhiên) gọi bọn cướp ngày bằng mỹ từ này: cách mạng tháng tám, cách mạng mùa thu, chính quyền cách mạng, chính phủ cách mạng, chủ nghĩa cách mạng, văn hoá cách mạng, văn công cách mạng, anh hùng cách mạng, truyền thống cách mạng, sách báo cách mạng, thơ văn cách mạng …


Bao giờ mà lũ “ngụy cách mạng” chưa bị điểm đúng mặt, gọi đúng tên (ác độc, bất nhân, bất tín, bất nghĩa, nói một đằng làm một nẻo, vừa đánh trống vừa ăn cướp) thì chúng vẫn còn có thể tác yêu tác quái – ở đất nước này.


Nguồn ảnh: x-cafevn.org/forum


© 2013 Tưởng Năng Tiến & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 29, 2013 15:13

August 28, 2013

Sự vặn vẹo của công lí – Ngải Vị Vị nói về phiên tòa thế kỉ ở Trung Quốc

Phạm Nguyên Trường dịch


Phiên tòa xử Bạc Hi Lai vừa kết thúc sẽ được nhớ đến như cột mốc chính trị quan trọng nhất trong lịch sử đương đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhiều năm sau khi Mao Trạch Đông mất vào năm 1976, những phiên tòa có tính trình diễn là chuyện bình thường. Do vai trò của họ trong Cách mạng Văn hóa, “bè lũ bốn tên” bị quy kết và kết án đơn giản là “hoạt động chống Đảng”. Nhưng bây giờ, một vụ án chính trị phải xem xét nhiều yếu tố hơn.


Khi Trung Quốc gánh vác vai trò quan trọng hơn trong các hoạt động quốc tế và quảng bá về sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của mình trong suốt 30 năm qua, giới lãnh đạo đất nước này tìm cách tạo cho mình uy tín trong việc trị quốc theo tinh thần pháp trị. Với phiên tòa xử Bạc Hi Lai như một phép thử, ban lãnh đạo mới đã nỗ lực giữ ảo tưởng đó và để có thể xuất hiện một cách cởi mở và tự tin trước nhân dân nước mình. Nhưng cuối cùng, cố gắng của họ đã thất bại.


Các nhà lãnh đạo Đảng hẳn phải coi trường hợp của Bạc là một khối u phát triển ngay cạnh động mạch cảnh – chữa trị thì quá nguy hiểm mà để đó thì nó lại lớn quá nhanh. Tất cả những người dính líu tới vụ này đều là thành viên của nhóm tinh hoa, cả trên phương diện xã hội lẫn chính trị, bắt đầu từ cựu Ủy viên Bộ Chính trị Bạc; vợ ông ta, bà Cốc Khai Lai; Giám đốc Công an Trùng Khánh, người có thể là nhân tình của bà Cốc; một doanh nhân người Anh đã bị hạ sát; các doanh nhân hàng đầu của Trung Quốc và nước ngoài; thậm chí ngay cả cậu con trai của Bạc, có bằng tốt nghiệp Harvard’s Kennedy School.


Một vở kịch bị xuyên tạc


Nhằm trình diễn sức mạnh và chứng tỏ Đảng đứng trên những âm mưu nhỏ nhen, chính quyền quyết định đưa ra một bản tường thuật “trực tiếp” – nhưng rõ ràng là bị kiểm duyệt – về phiên tòa. Bản tường thuật này chắc chắn đã cung cấp cho chúng ta một món giải trí khá thú vị; không có kịch bản định trước nào có thể soạn cho một vở kịch bị xuyên tạc thú vị đến thế.


Nhưng khi đưa ra một bản tường thuật đã bị kiểm duyệt, các quan chức lại tạo ra nhiều câu hỏi hơn lời đáp. Còn công chúng thì biết rằng họ không được thấy toàn bộ bức tranh, họ chỉ có thể suy đoán về những phần chính của câu chuyện bị che giấu. Thậm chí phản ứng của họ cũng bị kiểm duyệt: trong vòng một ngày, Tòa án Tế Nam nhận được hơn 4.000 bình luận trên mạng Weibo – một phiên bản Twitter của Trung Quốc – nhưng chỉ có 22 bình luận được phép hiển thị.


Kiểm duyệt vẫn là phản ứng đương nhiên của chế độ trước mọi bùng phát của dư luận xã hội. Thí dụ như vụ này, đấy là khi cần minh bạch thì các nhà lãnh đạo Trung Quốc không thể thực sự cởi mở, hoặc làm sao để được dân chúng hiểu và có cảm tình với mình. Không những thế, chính quyền tìm cách giữ bản tường thuật phiên tòa trong giới hạn sao cho không làm lung lay nền tảng của Đảng.


Có lẽ chế độ nghĩ rằng có thể tránh những câu hỏi khó chịu bằng cách tập trung vào những cáo buộc có tính hình sự đối với Bạc, như thể đây là một phiên tòa bình thường, được tổ chức theo đúng quy định của pháp luật. Nhưng đây là một trò hề mà không một người Trung Quốc nào tin.


Do quá chú tâm nhằm duy trì ảo tưởng, các công tố viên đã có những sai lầm rõ ràng về mặt thủ tục, họ sử dụng những bằng chứng gian lận và đưa ra tòa các nhân chứng rõ ràng đã bị ép phải làm chứng. Được tiến hành theo cách tự chuốc lấy thất bại như thế, cả mục đích cũng như kết quả cuối cùng của phiên toà đều trở thành lố bịch. Người dân Trung Quốc sẽ không bao giờ tin rằng Bạc được xử một cách công bằng, vì họ biết rằng người ta chỉ đưa ra một phần sự thật mà thôi.


Có thể Bạc quả thật mắc tội tham nhũng và lạm dụng quyền lực, như tòa tin chắc. Nhưng một phần công lí không phải là công lí. Chỉ có thể có công lí hoặc chẳng có tí công lí nào. Ngay cả một trò chơi đơn giản nhất cũng cần những quy định rõ ràng. Nếu không, cuộc chơi chỉ có thể được coi là “điên rồ”, như Bạc nói về lời khai trên băng video của vợ mình.


Nếu chế độ đã không thể truyền tải được thông điệp như dự kiến về phiên tỏa ​xử Bạc thì thông điệp nào đã được truyền đi? Các cán bộ phải biết rằng hối lộ sẽ bị trừng phạt, dù chức vụ có cao đến mức nào. Tuy nhiên, phiên tòa chẳng những không khuyến khích đảng viên phải trung thực hoặc chăm chỉ mà lại dạy cho họ rằng trước hết phải làm tất cả để có thể đứng chung hàng ngũ với ban lãnh đạo hiện nay. Hiến pháp và pháp luật, thậm chí những đánh giá về mặt đạo đức, khó có chỗ trong những tính toán của họ.


Không an toàn


Kết quả là tất cả các nhà lãnh đạo Trung Quốc, từ cấp làng xã đến Bộ Chính trị đều cảm thấy bất an. Với luật pháp tùy tiện như vậy, Đảng đang nuôi dưỡng não trạng ngầm phá hoại việc đưa ra những quyết định có tính xây dựng và khả năng thay đổi. Chính khách ở Trung Quốc có địa vị đáng buồn.


Người dân bình thường cũng không khá hơn. Bạc xuất thân từ một gia đình có nguồn gốc cách mạng lâu đời và ngay trước khi bị bắt, ông ta là một ngôi sao sáng trên bầu trời chính trị Trung Quốc – một trong những nhân vật ủng hộ Mao nổi tiếng và hoạt động khá tích cực, gọi là “Thế hệ đỏ thứ hai.” Ông ta là người đại diện cho toàn bộ tư duy của ban lãnh đạo hiện nay; còn phong cách, kinh nghiệm, năng lượng, niềm đam mê và lập trường của ông ta lại là những nhân tố quyết định giá trị cốt lõi của “Giấc mơ Trung Hoa”. Ngay cả một người như ông ta mà cũng bị tước mọi chức vụ như thế thì công dân bình thường còn hi vọng gì? Khi các giá trị như quyền con người, tự do ngôn luận và công bằng trong lĩnh vực tư pháp đều phải hi sinh vì quyền lợi của nhóm chóp bu nắm quyền thì chẳng ai có thể an toàn.


Nhận thức đó giúp giải thích vì sao vụ bắt giữ tôi năm 2011 thu được sự chú ý như thế. Tôi bị bắt và bị tra hỏi vì tội lật đổ chính quyền, nhưng khi tôi được thả thì chính quyền không kết án tôi vì bất cứ tội hình sự nào. Không những thế, họ còn kết án công ty nơi tôi làm việc là phạm tội kinh tế. Vì các quan chức không bao giờ có ý định điều tra công ty này về những tội như thế, họ đã phạm mấy sai lầm và tạo ra một vụ án vô nghĩa.


Họ không lường trước sự quan tâm của dư luận khi tôi đưa vụ này ra công khai. Rất nhiều người đã nhận ra rằng họ cũng là những người bị chính quyền đối xử một cách tùy tiện như thế. (Chế độ cũng không ngờ rằng tôi sẽ kiện họ.) Cuối cùng, họ quyết định không theo đuổi vụ này nữa và im lặng bỏ qua toàn bộ trò hề này.


Mất niềm tin


Hiện nay người Trung Quốc đã có hiểu biết nhiều hơn và chưa bao giờ họ mất niềm tin vào chính quyền đến như thế. Đáng lẽ phải thừa nhận và giải quyết thực trạng đó thì chế độ lại không chịu hợp tác với người dân của mình. Trong tài liệu gọi là “Văn thư số 9”, bị rò rỉ ra ngoài trong thời gian vừa qua, các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản đã liệt kê “7 mối đe dọa”, nói rõ rằng “Chế độ dân chủ phương Tây” và “các giá trị phổ quát” là những mối nguy hiểm đối với xã hội.


Vì chính quyền Trung Quốc khước từ bầu cử thật sự, nên xã hội không bao giờ có cơ hội thể hiện ý kiến của mình về ban lãnh đạo. Nền tảng cho bất kì cuộc giao tiếp, thảo luận hay tranh luận – những đòi hỏi bắt buộc cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội hiện đại – chưa bao giờ được thiết lập. Cả về đạo đức lẫn tư tưởng, Đảng Cộng sản đều quá yếu để đối đầu với công luận.


Xã hội Trung Quốc bị cái yếu kém đó làm cho biến dạng. Thật thú vị là ngay lập tức, người Trung Quốc đã biến cử chỉ của Bạc trong một bức hình chụp tại phòng xử án, với ba ngón tay như thể một lời chào, thành một biểu tượng cảm xúc. Trong những xã hội mà bạn không thể nói lên sự thật thì biểu tượng, ám chỉ và so sánh tràn đầy. Điều đó chỉ xảy ra dưới chế độ độc tài và ngôn ngữ cũng như văn hóa Trung Hoa từ xưa đến nay đều như vậy.


Người Trung Quốc đánh giá cao những hòn đá nhân tạo và những cây bonsai có hình thù vặn vẹo, coi chúng như những ẩn dụ về nền chính trị Trung Quốc. Khi điều kiện sống khắc nghiệt tước đoạt không gian phát triển tự nhiên thì cuộc đấu tranh giành quyền sống sẽ tạo ra những hình thức cong queo, vặn vẹo như thế.


Trong những năm sắp tới, có khả năng là chính quyền cộng sản rốt cuộc sẽ phải đối mặt với những câu hỏi thực sự về tính chính danh của mình và phải nhận ra rằng họ chỉ có thể cầm quyền dựa trên hiến pháp và pháp trị chân chính. Nếu không, nếu tiếp tục loại bỏ vai trò của công luận khỏi quá trình đưa ra quyết định và hi vọng đánh lạc hướng người Trung Quốc bằng những vở kịch như kiểu vụ xử Bạc thì chế độ chỉ tự lao nhanh đến chỗ cáo chung. Phiên tòa Bạc Hi Lai có thể sớm kết thúc, nhưng chế độ vẫn tiếp tục đứng trước vành móng ngựa.


Nguồn: “Ai Weiwei on China’s Trial of the Century”, Bloomberg, 27-8-2013. Nhan đề bổ sung của pro&contra


Bản tiếng Việt © 2013 Phạm Nguyên Trường & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 28, 2013 15:05

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.