Phạm Thị Hoài's Blog, page 39
May 29, 2013
“Mày giả vờ làm việc, tao giả vờ trả lương!”
Tony Judt
Phan Trinh dịch
Bài liên quan:
Xa cộng sản, gần con người: Bể dâu ở Tây Âu
Xa cộng sản, gần con người: Đi dây ở Đông Âu
___________
Giới thiệu của người dịch:
Đây là đoạn cuối Chương 18 cuốn Post War của Tony Judt. Sau khi bàn về trí thức Tây Âu và Đông Âu, tác giả nói về nền kinh tế bế tắc và vờ vịt tại Đông Âu, bối cảnh của những biến động chính trị và xã hội dẫn đến cách mạng 1989 lật đổ cộng sản.
Nếu nghịch lý là gốc của cái hài thì nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể được xem như một vở kịch khôi hài đen, dù đỏ ngầu. Trong những vở đỏ đen nhiều tập kia, Tony Judt nhắc đến hai quái tật chết người của chế độ, ở Đông Âu trước đây, và cũng không khó thấy ở cả Việt Nam lâu nay, có thể tóm tắt nôm na như sau:
1. Lỗ vẫn làm: Thay vì kinh tế định đoạt chính trị như người cộng sản vẫn nói, chính trị cộng sản lại xúi bậy kinh tế. Kinh tế không xuất phát từ nhu cầu người tiêu dùng mà từ ý chí chủ quan của bề trên. Trên bảo sao dưới nghe vậy, làm khác là mất việc, phản biện thì phớt lờ, phản đối thì bỏ tù. Hậu quả là lỗ vẫn làm. Ở Việt Nam, những vụ như Boxit, Vinashin, rừng phòng hộ, điện hạt nhân, đường sắt cao tốc, 16 chữ… là những ví dụ của lỗ vẫn làm, càng làm càng lỗ, hoặc thấy lỗ mà/là cứ đâm đầu vào. Không chỉ lỗ tiền, còn lỗ cả mạng người, môi trường, lãnh thổ, cả sinh mạng Đảng.
2. Sai không sửa: Tất cả những thất bại, vờ vịt của nền kinh tế kia Đảng biết cả nhưng vẫn im lặng, như một nấm mồ. Đảng không dám phẫu thuật, chỉ dám dùng thuốc giảm đau tại chỗ. Thực ra, khi kinh tế đã đan xen vào chính trị thành một “khối thống nhất” thì đứt dây động rừng, sửa sẽ sụp. Học thuật thì nói như Tony Judt: Giữa hai cái xấu, Đảng chọn cái xấu ít hơn. Huỵch toẹt thì cũng có thể nói rằng: Đảng rất hiểu cố đấm ăn xôi là xấu, nhưng vẫn đỡ xấu hơn, đỡ đau hơn và khó chết hơn là thực tâm thay đổi. (Chẳng lạ, bao nhiêu kiến nghị, phản biện, góp ý của trí thức Đảng cứ giả vờ như không có. Hóa ra, những kiến nghị kia không đánh thức được Đảng mà đánh thức xã hội dân sự.) Nhưng, cũng như ung thư không chữa, Đảng đang sống ở giai đoạn cuối, Judt gọi là mượn thời gian để sống, được ngày nào hay ngày ấy, dân gian gọi là chờ chết.
___________________
Tiến là thoái
Đề tài mà các trí thức phản kháng ít bàn tới chính là kinh tế. Điều này cũng là một phản ứng thực tế. Kể từ thời Stalin thì tăng trưởng kinh tế, hay đúng hơn là tăng trưởng công nghiệp, vừa được xem như mục tiêu vừa được xem như thước đo mức thành công của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế, như trình bày trong Chương 13 cuốn sách này, là ưu tiên hàng đầu của thế hệ trí thức cải cách thời kỳ đầu: nó phản ánh nỗi ám ảnh của chế độ cộng sản và một quan điểm, được cả người theo lẫn không theo chủ nghĩa Marx đồng tình, rằng mọi động thái chính trị chung quy cũng chỉ là vì kinh tế mà thôi. Vì vậy, có thể nói trong giai đoạn 1956-1968 lúc Đông Âu loay hoay tìm cách tự cải tổ, phản biện để cải cách kinh tế chính là hình thức đối lập tốt nhất có thể có, dù là đối lập trong vòng “lễ giáo”.
Nhưng đến giữa thập niên 1970, những người thông thạo tình hình đã không còn dám hy vọng nền kinh tế khối Xô-viết có thể tự cải tổ từ bên trong, và lý do không chỉ vì lý thuyết kinh tế Mác-xít đã sụp đổ sau nhiều thập niên bị lạm dụng tàn tệ, mà còn vì nguyên nhân khác. Từ năm 1973, nền kinh tế các nước Đông Âu thụt lùi rất xa so với Tây Âu, không bằng cả mức tăng trưởng chậm lúc suy thoái của Tây Âu. Ngoại trừ Liên Xô có nhiều mỏ dầu mang lại ngoại tệ, nhất là khi dầu tăng giá, thì nạn lạm phát trên thế giới vào thập niên 1970 và việc “toàn cầu hóa” thương mại và dịch vụ vào thập niên 1980 ở phương Tây đã đẩy nền kinh tế các nước khối Xô-viết vào thế bất lợi không thể khắc phục. Nếu vào năm 1963 hoạt động ngoại thương của các nước Khối Comecon (Đông Âu) đạt mức 12% tổng lượng ngoại thương toàn cầu, thì đến năm 1979 con số này lại rớt xuống chỉ còn 9% và còn nhanh chóng sụt giảm hơn nữa.[i]
Các nước khối Xô-viết không thể cạnh tranh về chất lượng với các nền kinh tế phương Tây. Cũng không nước nào, ngoại trừ Liên Xô, có nguồn nguyên liệu thô ổn định để bán cho phương Tây, vì vậy, họ không thể cạnh tranh cả với những nước kém phát triển nhưng giàu tài nguyên trên thế giới. Tính khép kín của khối Comecom còn khiến các nước này không thể tham gia những mạng lưới thương mại mới hình thành của Tây Âu, hoặc tham gia Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Họ cũng không thể điều chỉnh nền kinh tế cho phù hợp với giá cả thị trường thế giới mà không làm người tiêu dùng trong nước phải nổi đóa (như đã xảy ra tại Ba Lan năm 1976).
Ý thức hệ xúi dại
Khuyết điểm làm lụn bại các nền kinh tế cộng sản lúc này chính là sự bất lực thâm căn do ý thức hệ xui khiến mà ra. Vì duy ý chí, quyết liệt tập trung sản xuất sản phẩm công nghiệp cơ bản nhằm đáp ứng công cuộc “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, khối Xô-viết đã bỏ lỡ chuyến tầu đưa nền kinh tế từ sản xuất hàng loạt qua sản xuất chuyên sâu giá trị cao, vốn đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo các nền kinh tế phương Tây vào thập niên 1960 và 1970. Họ cố bám vào mô hình kinh tế đã quá cũ kỹ, nhìn là nhớ đến Detroit hoặc Ruhr vào thập niên 1920, hoặc thậm chí cả Manchester cuối thế kỷ 19.
Vì vậy Tiệp Khắc, nước có rất ít quặng sắt, vào năm 1981 vẫn phải trở thành quốc gia đứng thứ ba thế giới (tính theo đầu người) về xuất khẩu thép. Đắng hơn nữa là Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) lúc đó cũng đang lên kế hoạch sản xuất lớn những sản phẩm công nghiệp nặng đã hoàn toàn lỗi thời. Chẳng khách hàng đủ tỉnh táo nào lại muốn đi mua thép Tiệp Khắc hoặc máy móc Đông Đức, trừ khi được trợ giá cực rẻ, nên rút cuộc các sản phẩm này càng sản xuất, càng bán, càng lỗ vốn. Hậu quả là các nền kinh tế kiểu Xô-viết thay vì tạo ra giá trị thặng dư, lại tạo ra giá trị âm trừ. Thật vậy, nguyên liệu thô mà họ nhập khẩu hoặc khai thác từ lòng đất có giá trị còn cao hơn thành phẩm được làm từ nguyên liệu thô.
Ngay cả trong các lĩnh vực có ưu thế cạnh tranh, cách làm kinh tế kiểu Xô-viết cũng gây thiệt hại lớn. Trong khi Hungary được Comecon chọn là nơi sản xuất xe tải và xe buýt, Đông Đức vào thập niên 1980 được phân công sản xuất máy vi tính. Nhưng, khôi hài không chỉ ở chỗ máy vi tính do Đông Đức sản xuất không đáng tin cậy và cổ lỗ sĩ về chất lượng, hệ thống kinh tế tập trung còn khiến họ không thể sản xuất đủ số lượng. Trong năm 1989, Đông Đức (dân số 16 triệu) chỉ sản xuất được số máy vi tính bằng 1/5 số máy sản xuất tại Áo (dân số 7,5 triệu), trong khi Áo cũng chỉ là một đối thủ hạng ruồi trên thị trường sản xuất máy vi tính quốc tế. “Ưu thế cạnh tranh” ở đây rất tương đối: Đông Đức chi hàng triệu Đức-mã cho việc sản xuất những sản phẩm chẳng ai muốn dùng, trong khi thị trường thế giới đang có những sản phẩm tương tự với chất lượng tốt hơn và giá rẻ hơn.
Vâng ý trên
Thủ phạm gây ra tất cả những yếu kém này chính là quy hoạch tập trung, vốn chứa đầy khuyết tật bẩm sinh. Cuối thập niên 1970, Gosplan (Ủy ban Kế hoạch Nhà nước), cơ quan hoạch định kinh tế trung ương của Liên Xô, có đến 40 ban ngành kinh tế khác nhau và 27 ủy hội kinh tế hoạt động riêng biệt. Các quan chức đã bị con ngáo ộp chỉ tiêu ám ảnh nặng đến nỗi họ luống cuống đưa đại ra những chính sách nghe là cười. Giáo sư Timothy Garton Ash, chuyên nghiên cứu Đông Âu, nhắc đến chuyện khôi hài này tại Đông Đức: Trong “Kế hoạch Kinh tế Nhân dân Quận Prenzlauer Berg”, khi nói về chỉ tiêu trong việc cải tổ thư viện, người ta đã hồ hởi quy hoạch rằng “Số lượng sách lưu trữ trong các thư viện phải tăng lên từ 350.000 đến 450.000 quyển, và số lượt mượn sách phải tăng lên 108,2%”.[ii]
Hệ thống giá cả cố định cũng khiến không thể xác định được đâu là giá đúng, đâu là mức cầu, đâu là chỗ cần điều chỉnh khi tài nguyên thiếu hụt. Quản lý các cấp đều sợ rủi ro, sợ sáng tạo vì sợ không đạt chỉ tiêu trước mắt. Thực ra, họ cũng chẳng có động lực nào để làm khác đi: họ biết dù bất lực đến đâu, họ vẫn sẽ ngồi ở vị trí đang có, nhờ chủ trương nổi tiếng “ổn định cán bộ” (áp dụng từ 1971 về sau) được Brezhnev rất ưa thích. Trong khi đó, để đảm bảo chỉ tiêu bề trên định sẵn, các đốc công và giám đốc nhà máy sẵn sàng che giấu thông tin về vật liệu và lao động dự trữ trước mắt chính quyền. Phí phạm và khan hiếm, tưởng như đối nghịch, đã trở thành một cặp bài trùng dung dưỡng nhau.
Nịnh hót lên ngôi
Một hệ thống như thế rõ ràng không chỉ khuyến khích sự trì trệ, yếu kém, mà còn thúc đẩy một vòng quay tham nhũng liên hoàn không thể ngừng. Đây là một trong những nghịch lý của chủ nghĩa xã hội khi cho rằng chỉ có tư sản mới nhiều tham nhũng. Quyền lực, chức vụ và đặc quyền đặc lợi tuy không thể mua bán trực tiếp nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào mối quan hệ trao đổi qua lại giữa chủ và khách. Quyền hạn do luật pháp quy định bị gạt qua một bên, thay vào đó là sự nịnh hót, và kẻ nịnh hót lại được tưởng thưởng bằng công việc ổn định và cơ hội tiến thân. Chỉ để có được những thứ bình thường và hợp pháp như thuốc men trị bệnh, nhu yếu phẩm, quyền đi học, người dân cũng buộc phải bẻ cong luật pháp bằng hàng loạt chiêu trò, tuy nhỏ nhặt nhưng rất xúc phạm nhân cách.
Hậu quả là cách ứng xử vừa bất tín vừa bất cần gần như trở thành chuẩn mực trong những năm này. Một ví dụ tiêu biểu: Các xí nghiệp sản xuất máy kéo hoặc xe tải đã không quan tâm sản xuất cho đủ phụ tùng, đơn giản vì họ có thể nhanh chóng đạt chỉ tiêu khi sản xuất các cỗ xe to lớn kia hơn. Bi kịch là khi những cỗ xe này hư hỏng thì không tìm đâu ra phụ tùng thay thế. Những con số chính thức được công bố chỉ nêu ra tổng số máy móc các loại được sản xuất trong một lĩnh vực nhất định, chứ không chú ý đến chuyện còn bao nhiêu máy móc chạy được. Thông tin trên giấy thì mập mờ, chỉ hỏi công nhân mới biết thật mọi chuyện.
Làm giả, lương giả, chợ giả
Thay cho những khế ước xã hội đường hoàng, ở đây lại là sự đồng lõa xã hội xã hội chủ nghĩa, và tình trạng này được diễn tả qua câu châm biếm cay độc: “Mày giả vờ làm việc, tao giả vờ trả lương”. Nhiều công nhân, nhất là lao động chân tay, cũng có lợi trong tình trạng này, vì họ được hưởng những khoản an sinh xã hội trong khi chẳng cần làm việc bao nhiêu. Cuốn Tự điển Chính trị Bỏ túi của Đông Đức đã mô tả tình trạng vừa kể một cách vô tình nhưng thật mỉa mai qua câu sau đây: “Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sự khác biệt giữa giờ làm việc và giờ rảnh rỗi, vốn gay gắt trong xã hội tư bản, không còn nữa.”
Hai lãnh vực duy nhất tương đối có hiệu quả, trong một nền kinh tế cộng sản tiêu biểu, tính đến năm 1980, là công nghiệp quốc phòng kỹ thuật cao và cái được gọi là “nền kinh tế thứ hai” – tức các loại chợ đen cung cấp hàng hóa và dịch vụ. Tầm quan trọng của nền kinh tế thứ hai này, tuy không hề và không thể được nhà nước công nhận, là bằng chứng cho thấy tình trạng bi thảm của nền kinh tế chính thức. Tại Hungary, vào đầu thập niên 1980, ước tính có tới 84.000 lao động lành nghề các loại hoạt động thuần túy trong khu vực tư nhân, đáp ứng đến gần 60% tổng nhu cầu về dịch vụ tại địa phương, từ nhu cầu sửa chữa ống nước cho đến nhu cầu mua dâm.
Thêm vào hoạt cảnh vừa kể một bên là việc canh tác nhỏ lẻ trên thửa đất gia đình của nông dân, và một bên là các xí nghiệp tư, hoạt động được nhờ công nhân tuồn nguyên liệu từ xí nghiệp nhà nước (gạch, dây đồng, chữ đúc…) rồi phù phép “chuyển đổi” cho sản xuất riêng, thì có được bức tranh tổng thể về chủ nghĩa cộng sản kiểu Xô-viết – rất gần với chủ nghĩa tư bản Ý – tức là chỉ tồn tại được nhờ nền kinh tế ngoài luồng.[iii] Đây là một mối quan hệ cộng sinh: nhà nước cộng sản chỉ duy trì được sự độc quyền trong khu vực công bằng cách chuyển qua khu vực tư tất cả những hoạt động và nhu cầu mà nhà nước không thể phủ nhận hay đáp ứng; trong khi đó, nền kinh tế ngoài luồng lại lệ thuộc vào khu vực công để có nguyên liệu, và cần hơn nữa chính là nhờ khu vực công bất lực nên khu vực tư mới có một thị trường béo bở, với những giá trị và lợi nhuận thổi phồng.
Ít con, nhiều rượu, chóng chết
Nền kinh tế tù đọng chính là lời nguyền rủa vận vào chủ nghĩa cộng sản vốn cho rằng mình hơn hẳn chủ nghĩa tư bản. Và nếu không là chất xúc tác cho hành vi đối lập, thì nền kinh tế kia cũng là nguồn gốc tạo nên bất mãn. Với hầu hết người dân dưới chế độ cộng sản thời Brezhnev, từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 1980, cuộc sống tuy không đậm màu sợ hãi hay đàn áp nhưng lại là những chuỗi ngày xám xịt và buồn tẻ. Các cặp vợ chồng ngày càng sinh ít con hơn, nhưng họ lại rượu chè nhiều hơn – lượng rượu tiêu thụ tính theo đầu người tại Liên Xô tăng bốn lần trong những năm này – và chết sớm hơn. Những khu nhà tập thể trong các xã hội cộng sản không chỉ xấu xí về mỹ thuật, mà còn tồi tệ về chất lượng và gây khó chịu khi sử dụng. Nói cách khác, nhà tập thể nhếch nhác là chiếc bóng của nhà nước toàn trị tồi tệ đã tạo ra nó. Một tài xế taxi ở Budapest có lần vừa chỉ tay về những dãy nhà tập thể cao tầng ẩm thấp, bẩn thỉu, nằm xấu xí ở ngoại ô thành phố, vừa nói với người viết rằng: “Chúng tôi sống ở đó, trong mấy cái nhà đúng kiểu cộng sản kia kìa – hè thì nó nóng, đông thì nó rét.”
Như mọi thứ khác trong khối Xô-viết, nhà tập thể thường có giá rẻ (giá thuê trung bình khoảng 4% thu nhập một gia đình bình thường ở Liên Xô), cũng vì nền kinh tế không do giá cả mà do sự khan hiếm điều phối. Điều này có lợi cho nhà cầm quyền – việc phân phối độc quyền những mặt hàng luôn khan hiếm giúp duy trì sự thúc thủ của quần chúng – nhưng cũng chứa một rủi ro nghiêm trọng mà hầu hết giới lãnh đạo cộng sản đều hiểu rất rõ. Đến cuối thập niên 1960, khi mọi sự đã rành rành là những hứa hẹn về một tương lai “xã hội chủ nghĩa” rạng rỡ không đủ sức dụ dỗ dân chúng trung thành với chế độ nữa, các nhà lãnh đạo cộng sản đã đổi chiều, xem dân chúng như những người tiêu dùng và tìm cách thay thế xã hội không tưởng (xã hội chủ nghĩa) của ngày mai bằng những sung túc vật chất của ngày hôm nay.
Sao cũng được
Đó là chọn lựa rất có tính toán. Vasil Bil’ak, nhân vật bảo thủ có công cõng rắn cắn gà nhà đưa quân Xô-viết xâm lăng Tiệp Khắc năm 1968, trong lần phát biểu với Ban Tuyên giáo Đảng vào tháng Mười 1970 đã nói rằng: “Lúc đó (năm 1948), ta treo tranh cổ động ở cửa hiệu vẽ vời chủ nghĩa xã hội sẽ đẹp đẽ ra sao và quần chúng cứ thế tin như in. Nhưng đó là cơn lên đồng của một thời xưa rồi. Bây giờ, không thể cứ treo bánh vẽ nói về chủ nghĩa xã hội sau này nữa mà cửa hàng hôm nay phải chứa cho đầy hàng, để ta ghi vào thành tích là ta đang tiến tới chủ nghĩa xã hội, là ta đang có chủ nghĩa xã hội ngay tại đây.”[iv]
Rõ ràng nhà nước đã làm điều ngược ngạo là cố khuyến khích dân chúng xem chủ nghĩa tiêu thụ như thước đo thành công của chủ nghĩa xã hội. Điều này dĩ nhiên khác hẳn với nội dung của “cuộc tranh luận trong bếp” đình đám giữa Tổng Bí thư Liên Xô Khrushchev với Phó Tổng thống Mỹ Nixon vào năm 1959, khi Khrushchev nói với Nixon rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ qua mặt chủ nghĩa tư bản chẳng trong bao lâu nữa. Bil’ak – cũng như Kádár tại Hungary – không ảo tưởng như vị Tổng Bí thư kia. Ông hài lòng chấp nhận chủ nghĩa cộng sản là một bản sao mờ nhạt của chủ nghĩa tư bản, chừng nào có đủ hàng hóa làm người tiêu dùng hài lòng. Erich Honecker tại Đông Đức – lên làm lãnh tụ năm 1971, thay thế Walter Ulbrich, kẻ ra đi không ai thương tiếc – cũng vậy, ông chỉ hứa hẹn mang lại cho dân Đông Đức một phiên bản thu gọn của “phép lạ” kinh tế diễn ra tại Tây Đức vào thập niên 1950.
Phồn vinh giả, mệt thật
Chiến lược này thành công vừa phải trong một thời gian. Mức sống tại Tiệp Khắc, Hungary và Ba Lan được cải thiện trong thập niên 1970, ít nhất là khi đo bằng mức tiêu thụ hàng hóa bán lẻ. Số xe hơi và tivi, hai mặt hàng tiêu dùng tiêu biểu của thời kỳ này, tăng lên đều đặn: tại Ba Lan, số xe hơi tư nhân, tính bình quân đầu người trên toàn dân số, tăng bốn lần từ 1975 đến 1989. Đến cuối thập niên 1980 tại Hungary, trung bình cứ 10 người thì có 4 chiếc tivi; ở Tiệp Khắc cũng có số tương tự. Nếu người mua chấp nhận chất lượng kém, kiểu dáng nghèo nàn và không nhiều chọn lựa, họ có thể tìm được những gì mình muốn, không có ở cửa hàng nhà nước thì ra chợ đen. Tuy nhiên, ở Liên Xô, hàng hóa “ngoài luồng” khó tìm và tương đối đắt đỏ hơn.
Với nhu yếu phẩm, tình trạng cũng vậy. Vào tháng Ba 1989, một người tiêu thụ tiêu biểu ở Washington DC sẽ cần làm việc 12,5 giờ để mua một giỏ hàng nhu yếu phẩm chuẩn (gồm xúc-xích, sữa, trứng, khoai tây, rau củ, trà, bia,…). Một giỏ hàng tương tự sẽ tốn 21,4 giờ làm việc tại London, nhưng lại ngốn tới 42,3 giờ làm việc tại Moscow, mặc dù nhà nước đã trợ giá rất nhiều.[v] Chưa hết, người tiêu thụ ở Liên Xô và Đông Âu còn phải tốn nhiều thời giờ để tìm kiếm, chờ đợi mua thức ăn và những mặt hàng khác. Nếu không đo bằng đồng rúp [Nga], đồng crown [Tiệp Khắc] hay đồng forint [Hungary], mà đo bằng thời gian và công sức, thì có thể thấy đời sống dưới chế độ cộng sản vừa đắt đỏ vừa mệt mỏi.
Việc định nghĩa thành công của chủ nghĩa cộng sản bằng khả năng thỏa mãn nhu cầu cá nhân của người tiêu dùng cũng không dễ dàng, vì như trình bày ở trên, toàn bộ nền kinh tế đã được cài đặt để sản xuất lớn máy móc công nghiệp và nguyên liệu thô. Ngoại trừ thức ăn, các nền kinh tế cộng sản đã không sản xuất ra được những sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn (ngay sản xuất thức ăn họ cũng không hiệu quả bao nhiêu – Liên Xô từ lâu đã trở thành nước nhập khẩu gạo, đưa tổng số thực phẩm nhập khẩu tăng lên ba lần từ năm 1970 đến 1982). Cách duy nhất vượt qua trở ngại này là nhập khẩu hàng tiêu dùng từ nước ngoài, nhưng phải trả bằng tiền theo giá thị trường. Tiền chỉ có nhờ xuất khẩu, nhưng, ngoại trừ Liên Xô có dầu hỏa, thị trường thế giới chẳng quan tâm gì đến sản phẩm của khối xã hội chủ nghĩa, trừ khi chúng được bán với giá rẻ bèo, nhưng ngay cả khi bán với giá bèo, vẫn có trường hợp không ai mua. Cách thực tế nhất, cách duy nhất để các cửa hiệu có đủ hàng hóa cho người tiêu dùng tại phương Đông là vay tiền từ phương Tây.
Tư sản nuôi vô sản
Phương Tây đương nhiên sẵn sàng ra tay giúp đỡ. Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới và những ngân hàng tư nhân đều rất vui lòng cho các nước khối Xô-viết vay tiền, vì lý do: Hồng quân Liên Xô là bảo chứng đáng tin cậy cho ổn định lâu dài, thêm vào đó, quan chức cộng sản cũng đã biến hóa các số liệu về năng suất và tài nguyên nghe rất thuyết phục.[vi] Chỉ tính trong thập niên 1970, nợ nước ngoài của Tiệp Khắc đã tăng lên 12 lần. Tại Ba Lan, nợ nước ngoài tăng đến 3000% sau khi Tổng Bí thư Gierek và tay chân cho nhập ào ạt hàng hóa được trợ giá từ phương Tây, cùng lúc thực hiện các chương trình bảo hiểm xã hội mới rất tốn kém dành cho nông dân, và cho kềm giá thực phẩm ở mức giá năm 1965.
Thật khó lòng kiểm soát khi nợ lên đến mức vừa kể. Năm 1976, Gierek cho tăng giá thực phẩm tại Ba Lan thì bạo loạn giận dữ đã nổ ra nhưng lập tức bị dẹp tan, và chế độ đã không còn con đường nào khác ngoài tiếp tục vay mượn: từ năm 1977 đến 1980, 1/3 tiền Ba Lan vay từ nước ngoài được dùng để trợ giá cho hàng tiêu dùng trong nước. Các kinh tế gia cộng sản tại Praha, Tiệp Khắc, cũng khuyến cáo nên bỏ dần bao cấp và chấp nhận giá “thật”, nhưng các lãnh tụ chính trị của họ sợ hậu quả khó lường của biện pháp này nên cũng chỉ chọn cách vay mượn nhiều hơn nữa. Và, tương tự như những năm giữa hai thế chiến, lại một lần nữa các quốc gia nhỏ và dễ vỡ tại Đông Âu phải vay vốn từ phương Tây để vực dậy nền kinh tế tự cấp, và cũng để tránh né những chọn lựa còn khó khăn hơn nhiều.
Ngập nợ
Miklós Németh, thủ tướng cộng sản cuối cùng của Hungary, vài năm sau đó cũng phải công nhận những điều vừa kể. Khoản vay một tỉ Đức-mã từ Bonn, được chấp thuận vào tháng Mười 1987 và được các chính khách Tây Đức mô tả như một đóng góp cho công cuộc “cải cách” kinh tế của Hungary, thực ra đã không được dùng để cải cách kinh tế. Németh công nhận: “chúng tôi dùng 2/3 số tiền này để trả lãi, và phần còn lại dùng để nhập thêm hàng tiêu dùng, cho khủng hoảng kinh tế nhìn bớt xấu xí.” Năm 1986, thâm thủng thương mại của Hungary được nhà nước công bố là 1,4 tỉ đô-la Mỹ mỗi năm. Từ 1971 đến 1980, nợ nước ngoài của Ba Lan đã tăng từ 1 tỉ lên 20,5 tỉ đô-la Mỹ, và sau đó còn lên cao hơn nữa. Chính Đông Đức cũng tự nhận rằng trong những năm cuối cùng của chế độ họ đã dùng trên 60% tiền lãi nhờ suất khẩu hàng năm để trả lãi tiền vay của phương Tây (dù lãi suất đã được phương Tây cắt giảm rất hào phóng). Yugoslavia, một khách hàng thường được chiều chuộng (từ 1950 đến 1964, Mỹ đã bao trả đến 3/5 thâm thủng hàng năm của Belgrade) thì luôn nhận được những khoản cho vay rộng rãi và những cam kết hỗ trợ tức thời, tất cả đều dựa trên những số liệu khống, không có bất cứ liên hệ gì với thực tế.
Gộp chung, nợ nước ngoài của Đông Âu ở mức 6,1 tỉ năm 1971, đã tăng lên 66,1 tỉ vào năm 1980, và lên tới 95,6 tỉ đô-la Mỹ vào năm 1988[vii]. Con số vừa kể không bao gồm số liệu từ Rumani – vì Ceaușescu đã trả hết nợ vay nước ngoài nhờ đè đầu cỡi cổ vắt kiệt dân nước mình trong nhiều năm trời; con số cũng có thể cao hơn nếu Hungary không có những nhượng bộ về giá cả trong thập niên 1970. Nhưng ý nghĩa của tình trạng này thật rõ ràng: hệ thống cộng sản không chỉ vay tiền để sống, mà còn vay mượn cả thời gian. Không sớm thì muộn, chế độ cần phải thực hiện những điều chỉnh kinh tế, tuy sẽ đau đớn và làm xáo trộn xã hội.
Không thể sửa
Nhiều năm sau này, ông Markus Wolf, trùm gián điệp Đông Đức, có thể tự hào rằng vào cuối thập niên 1970, mình là người dám khẳng định Đông Đức đã “hỏng rồi”. Cũng không chỉ mình Wolf thấy điều này. Những nhà kinh tế như Tamás Bauer tại Hungary, và đồng nghiệp Ba Lan Leszek Balcerowicz, cũng rất hiểu tòa nhà cộng sản xây trên cát đang lung lay đến mức nào. Nhưng, chừng nào những nhà tư bản còn bảo kê nó, thì chủ nghĩa cộng sản vẫn tồn tại. “Thời kỳ trì trệ” (nói theo Gorbachev) dưới triều Leonid Brezhnev đã tạo ra rất nhiều ảo tưởng, và không chỉ là trong các nước cộng sản. Năm 1978, khi Báo cáo của Ngân hàng Thế giới khẳng định rằng Đông Đức có mức sống cao hơn cả Anh Quốc, thì có lẽ cả thằng Cuội trên cung trăng cũng phải lăn ra cười sặc sụa.[viii]
Nhưng, những người cộng sản hiểu nhiều điều mà các nhà tài chính ngân hàng phương Tây không tưởng tượng được. Cải cách kinh tế trong khối Xô-viết không phải là bị trì hoãn, mà là không thể được. Như Amalrik dự đoán trong cuốn Liệu Liên Xô có tồn tại đến năm 1984?, giới lãnh đạo cộng sản “thấy chế độ hiện tại tệ hại, nhưng vẫn đỡ tệ hại hơn là phải đau đớn thay đổi nó.” Cải cách kinh tế, dù chỉ là những điều chỉnh cục bộ nhất, mang lại hiệu quả nhỏ nhất, cũng sẽ đứt dây động rừng, có ảnh hưởng chính trị lập tức. Những sắp xếp kinh tế của chủ nghĩa xã hội không tạo ra những khu vực độc lập mà đan xen chằng chịt vào nhau tạo thành cả một hệ thống chính trị.
Không phải vô tình mà các nước chư hầu Liên Xô tại Đông Âu đều được cai trị bởi những ông trùm già, bảo thủ và cơ hội. Vào thời đại mới của chủ nghĩa thực dụng, những vị như Edward Gierek ở Warsaw (sinh 1913), Gustáv Husák ở Praha (sinh 1913), Erich Honecker ở Bá Linh (sinh 1912), János Kádár ở Budapest (sinh 1912) và Todor Zhivkov ở Sofia (sinh 1911) – chưa kể các vị Enver Hoxha ở Tirana (sinh 1908), và Josip Broz Tito ở Belgrade (sinh 1892) – đều là những vị có tính thực tế ở mức thượng thừa. Giống như Leonid Brezhnev – sinh 1906, bảy lần nhận Huân chương Lênin, bốn lần nhận danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô-viết, đoạt Giải Hòa bình Lenin, Tổng Bí thư, và từ 1977 kiêm luôn Chủ tịch Nước – các ông trùm này cũng chỉ già đi theo kiểu rất thường dân: Họ không có động cơ gì để tự làm khổ mình, ngược lại, họ có đủ ham muốn để được chết trên chiếc giường hiện có. [ix]
Chưa thể sụp
Mặc dù “chủ nghĩa xã hội trên thực tế” đã chứng tỏ sự bất lực và mất uy tín toàn diện nhưng điều này vẫn chưa làm chế độ sụp đổ. Aleksandr Solzhenitsyn, trong diễn văn nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1971 (diễn văn được đọc thay, vì ông vắng mặt), nói một cách hùng hồn rằng “một khi dối trá bị lật tẩy, bạo lực trần trụi sẽ lộ nguyên bộ mặt thô bỉ của nó, và rồi bạo lực, khi ấy đã đuối sức, sẽ sụp đổ tan tành.” Nhưng nhận định này đã không hẳn đúng. Sự trần trụi của bạo lực Xô-viết đã hiện nguyên hình từ rất lâu – và còn bị phơi trần lần nữa trong cuộc xâm lăng đầy thảm họa vào Afghanistan năm 1979 – bên cạnh đó, những dối trá của chủ nghĩa cộng sản cũng đã từng bước bại lộ và được giải mã vào những năm sau biến cố 1968.
Tuy vậy, chế độ cộng sản vẫn chưa sụp đổ. Có thể nói, đóng góp nổi bật của Lenin cho lịch sử Châu Âu là ông đã bắt cóc tinh thần cấp tiến của châu Âu, vốn có tính chia rẽ ly tâm, và biến nó thành một thứ quyền lực chính trị với một hệ thống kiểm soát độc quyền rất sáng tạo: thu gom thô bạo mọi quyền hành về một mối và dùng bạo lực quyết liệt để duy trì nó tại một chỗ. Hệ thống cộng sản có thể bị bào mòn vô hạn định ở ngoại vi [Đông Âu], nhưng yếu tố khiến nó cuối cùng sụp đổ chỉ có thể đến từ trung tâm của quyền lực [Moscow]. Trong câu chuyện về ngày tàn của chủ nghĩa cộng sản, những hoạt động đối lập mới, nở rộ trong giới trí thức tại Praha và Warsaw, có thể xem là đoạn kết cho một khởi đầu mới. Còn nhân tố lãnh đạo vừa xuất hiện tại Moscow mới chính là khởi đầu cho đoạn kết.[x]
Nguồn: Post War, Tony Judt, NXB Penguine Books, 2006, trang 577-584. Tựa và tiêu đề là của người dịch.
Bản tiếng Việt © 2013 Phan Trinh & pro&contra
[i] Suốt thập niên 1980, Ba Lan và Tiệp Khắc rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng (“tăng trưởng” âm) – nền kinh tế các nước này thu nhỏ lại. Nền kinh tế của chính Liên Xô cũng đã co cụm lại từ năm 1979. (TG)
[ii] Timothy Garton Ash, The Uses of Adversity (NY, 1989), trang 9. (TG)
[iii] Trong nông nghiệp, phần lớn Liên Xô, Hungary, Rumani một lần nữa lại gợi nhớ tới tình trạng các đại trang trại vào thế kỷ 19: giới lao động nông nghiệp bị trả lương bèo bọt, làm việc cầm chừng, thiếu thốn dụng cụ nên chỉ làm tối thiểu cho những ông chủ vắng mặt, còn để dành sức cho công việc thật tại các thửa đất riêng của gia đình. (TG)
[iv] Xin cảm ơn Tiến sĩ Paulina về trích dẫn này. (TG)
[v] Dưới thời Brezhnev, một pound (khoảng nửa ký) thịt bò tốn 3,5 rúp để sản xuất nhưng chỉ được bán với giá 2 rúp. Cộng đồng Châu Âu cũng trợ giá cho người chăn nuôi, với tỉ lệ gần như tương tự. Sự khác biệt nằm ở chỗ Tây Âu có Chính sách Nông nghiệp Chung, trong khi Liên Xô thì không. (TG)
[vi] Hungary gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 1982, cả hai đều phấn khích chúc mừng nhau. Chỉ đến năm 1989, người ta mới biết chính quyền Hungary đã cố tình hạ rất thấp mức nợ trong và ngoài nước của thập niên trước đó. (TG)
[vii] Jeffrey D. Sachs, cố vấn kinh tế của chính phủ Ba Lan hậu cộng sản và nhiều nước trên thế giới, chủ trương rằng: Kinh tế các nước hậu cộng sản sẽ khó lòng phục hồi nếu cứ phải trả các khoản nợ do chế độ cũ để lại. Với nỗ lực vận động và tư vấn của Sachs, Thủ tướng Đức Helmut Kohl đã giúp xóa 50% nợ cho Ba Lan, tương đương 15 tỉ đô-la Mỹ, vào đầu thập niên 1990. Lý do để Thủ tướng Kohl thay đổi, từ phản đối qua đồng ý xóa nợ, là vì nước Đức cũng từng được đồng minh xóa những khoản nợ vay trước Thế chiến II. Chuyện xóa nợ được kể lại trong Chương “Poland’s Return to Europe” (Ba Lan trở về với Châu Âu) trong cuốn The End of Poverty (Chấm dứt nghèo đói), của Jeffrey D. Sachs, NXB Penguine Books, 2006. (ND)
[viii] Nguyên văn “Prince Potemkin must surely have smiled in his far-off grave” (Hoàng thân Potemkin có nằm trong mộ ở nơi xa lắc cũng phải mỉm cười). Potemkin (1739-1791) – nhà quý tộc, chính khách, nhà quân sự Nga, được phong tước Hoàng thân Đế quốc Nga – được nhắc đến ở đây như một kẻ phỉnh phờ, do giai thoại ông cho xây một ngôi làng giả tạo nhưng đẹp đẽ để gây ấn tượng khi Nữ hoàng Catherine II đến thăm. (ND)
[ix] Hơn nữa, cũng như Brezhnev, các vị này là những người tiêu dùng hàng đầu của thời đại họ đang sống. Một truyện tiếu lâm Xô-viết cùng thời kể rằng: Vị lãnh tụ Liên Xô một hôm khoe với mẹ các dacha [nhà nghỉ dưỡng ở đồng quê], biệt đội xe hơi, và các dãy nhà lưu trú mùa săn bắn của mình. Mẹ lãnh tụ khen: “Tuyệt đấy, Leonid!” Nhưng rồi bà lại lo: “Nhưng nếu bọn cộng sản trở lại nắm quyền thì sao con?” (TG)
[x] Tony Judt viết đoạn cuối này để dẫn nhập vào Chương 19 “The End of the Old Order” (Kết thúc trật tự cũ), chương nói về những yếu tố khác dẫn đến sự sụp đổ của cộng sản, trong đó nổi bật là vai trò của Gorbachev, vai trò của Giáo hoàng John Paul II, Công đoàn Đoàn kết, vụ Liên Xô sa lầy ở Afghanistan (khiến sau đó Liên Xô phải bỏ hẳn chủ trương xua quân sang Đông Âu, dù để cứu các chế độ chư hầu đang lâm nguy), thảm họa nhà máy điện hạt nhân Chernobyl, những biến chuyển ở Kremlin, phản ứng của phương Tây… Chương 19 cũng nói về diễn tiến cách mạng 1989 tại các nước Đông Âu, trước khi chế độ cộng sản sụp đổ tại Liên Xô năm 1991. (ND)
May 27, 2013
Hiệu ứng Trương Duy Nhất
Phạm Thị Hoài
Vài tháng trước, một người từng tham gia những hoạt động không được chính quyền Việt Nam ưu ái như biểu tình, kiến nghị, đồng thời là tác giả của một số bài viết thẳng thắn về những đề tài nhạy cảm đăng trên blog cá nhân, chia sẻ với tôi rằng cho đến nay ông vẫn an toàn và sự an toàn đó có ý nghĩa lớn, vì nó giúp những người khác bớt sợ hơn.
Quả thật số người không còn sợ hay đã bớt sợ bộ máy trấn áp của chế độ chưa bao giờ tăng nhanh như trong thập niên vừa qua tại Việt Nam, và một phần quan trọng là do được khích lệ bởi sự an toàn tương đối của cá nhân một số người đi ở hàng đầu. Cho đến Chủ nhật vừa rồi, blogger Trương Duy Nhất thuộc về số ấy. Song việc ông bị bắt khẩn cấp một lần nữa cho thấy: bảo hiểm chính trị ở Việt Nam chỉ đảm bảo một điều duy nhất, đó là: nó không bảo đảm điều gì hết.
Trương Duy Nhất đã chuẩn bị sẵn chỗ dựa lập luận để tránh cho mình khỏi trở thành nạn nhân của bộ máy trấn áp một cách vô ích. Bài trả lời một nhân vật Tom Cat nào đó của ông là tổng kết của những lập luận này, không ai có thể bảo vệ ông xuất sắc hơn. Ông trình bày mình như một tiếng nói độc lập chứ không đối lập, một nhà báo tự do chứ không li khai, một người phát ngôn chính kiến riêng chứ không bất đồng chính kiến, phản biện chứ không phản động, phản đối chứ không chống đối. Ông không treo biển “Kính Đảng, trọng chế độ, yêu Bác Hồ” [i], không trưng hình Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không đồng tình với mọi biểu hiện chống cộng cực đoan, không đi biểu tình, chưa bao giờ kí tên vào một bản tuyên bố hay kiến nghị, và bất chấp những tấn công và đe dọa từ nhiều phía vẫn không rời góc nhìn KHÁC của mình. Trong nhiều năm trời, ông đi ở ranh giới giữa an toàn và mạo hiểm mà tỉ lệ có thể là 51 % nghiêng về an toàn.
Một số người có cảm giác rằng thời gian gần đây, tỉ lệ ấy đã đảo ngược, Trương Duy Nhất đã ngày càng đi xa hơn trong quan điểm phê phán chế độ và đó là một trong những lí do khiến ông bị bắt. Tôi cho rằng mọi phỏng đoán đều vô nghĩa, vì không có một biểu giá an toàn nào cố định trong một chế độ công an trị, trừ biểu giá duy nhất là không làm gì hết. Ảo tưởng về những vùng an toàn nào đó, trớ trêu thay, được nuôi dưỡng trên mảnh đất đầy mìn, gài bởi chính sách chia để trị, kết tinh thành thủ pháp điêu luyện nhất của bộ máy an ninh Việt Nam. Người chưa bị đụng tới có thể là một cái thớt hữu ích cho con dao bổ xuống người nằm trên thớt. Hay đơn giản hơn, những người còn đi xa hơn Trương Duy Nhất mà vẫn an toàn chẳng qua là “của để dành”, nói theo cách dân dã của blogger Người Buôn Gió, cho những thao tác khác trong chiếc hộp đen của bộ máy quyền lực mà chúng ta chịu đựng và dung dưỡng.
Quan sát từ những bản án chính trị trong ba năm gần đây (2011, 2012, 2013), tôi nhận thấy hai đặc điểm đáng lưu ý: Thứ nhất, tuyệt đại đa số những người bị kết án đều không phải là đảng viên Đảng Cộng sản [ii]. Thứ hai, tuyệt đại đa số những người bị kết án đều không ở trong biên chế cán bộ, nhân viên, công chức các cơ quan Đảng và nhà nước [iii]. Ông Trương Duy Nhất thỏa mãn cả hai đặc điểm này. Khả năng vụ điều tra ông được đình chỉ như trong trường hợp ông Phạm Chí Dũng, đảng viên, cán bộ Thành ủy TPHCM khi bị bắt, có vẻ như xa vời.
Trở lại với câu chuyện mở đầu bài viết này, vâng, tôi đồng ý rằng người ta bớt sợ khi dựa lưng vào an toàn. Nhưng điều đáng nói hơn là: người ta có thể can đảm lên, khi chứng kiến người khác thách thức mạo hiểm và đường hoàng chấp nhận cái giá của hành động đó. Trương Duy Nhất rất chú trọng đến hiệu ứng thông điệp của các hình ảnh. Ông từng ca ngợi hình ảnh hiên ngang của Cù Huy Hà Vũ, hình ảnh trong trắng, đĩnh đạc của Nguyễn Phương Uyên. Bức hình chụp ông trong ngày bị bắt cho thấy một Trương Duy Nhất khỏe mạnh và tự chủ, không một nét khiếp nhược. Tôi hoàn toàn tin rằng nếu phải đứng trước tòa, ông sẽ là một hình ảnh đẹp và hình ảnh ấy sẽ có ý nghĩa lớn, vì nó gây cảm hứng cho lòng can đảm, cũng như blog Một góc nhìn khác của ông đã góp phần quan trọng để giới blogger Việt Nam bớt e sợ, khi ông còn an toàn.
© 2013 pro&contra
[i] Ngay sau khi Trương Duy Nhất bị bắt, chủ nhân của blog “Kính Đảng, trọng chế độ, yêu Bác Hồ” này, nhà báo kì cựu Đào Tuấn, người có nhiều bài viết nhạy bén và thẳng thắn mà tôi thường xuyên theo dõi, lập tức lên tiếng với bài “Cái còng và khẩu súng không thể chĩa vào Nhất”. Nhưng một ngày sau, bài ấy chỉ còn là mã 404 trên chính trang của chủ blog.
[ii] Riêng ông Vi Đức Hồi từng là giám đốc trường Đảng một huyện ở Lạng Sơn, nhưng đã trở thành thành viên Khối 8406 và bị khai trừ Đảng nhiều năm trước khi bị bắt.
[iii] Ngoại lệ duy nhất là ông Đinh Đăng Định, giáo viên trung học phổ thông ở Đắk Nông.
May 25, 2013
Khôn ngoan như rắn và dịu hiền như bồ câu
Phạm Thị Hoài
Cơn bão truyền thông tại Việt Nam xung quanh Nick Vujicic, nhà truyền bá Phúc âm đến từ phương Tây, đủ sức khiến ngôi sao diễn giả duy nhất trong các nhà truyền giáo cộng sản bản địa hiện tại, ông Nguyễn Bá Thanh, phải ghen tị và báo chí phương Tây phải ngỡ ngàng.
Một bài trên Huffington Post dẫn lời Nick Vujicic nói với bé Linh Chi trong cuộc giao lưu tại sân vận động Mỹ Đình, Hà Nội, trước 25.000 người, về tình yêu Chúa: “Do you know why I love God? Because heaven is real. And one day when we get to heaven, we are going to have arms and legs. And we are going to run, and we are going play, and we are going to race.” (Em có biết vì sao tôi yêu Chúa không? Vì thiên đường là có thật. Và một ngày kia, khi lên thiên đường, chúng ta sẽ có tay có chân. Và chúng ta sẽ chạy nhảy, vui đùa, chúng ta sẽ chạy thi.) Những lời ấy chẳng những không bị truyền hình nhà nước kiểm duyệt, mà diễn giả còn được Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tặng huy hiệu và kỉ niệm chương. Điều gì đang xảy ra tại quốc gia mà quan hệ giữa nhà nước và nhà thờ vẫn đầy căng thẳng này? Bài báo dẫn tiếp lời một tín hữu Thiên chúa, ông Nguyen Dat An, người tổ chức chuyến đi của Nick Vujicic [i]: “This was a miracle in Vietnam. God is the general director of this event.” Phép mầu ở Việt Nam do Chúa trời làm tổng đạo diễn.
Theo kịch bản của Đấng Toàn năng, nhân vật anh hùng Nick Vujicic biết rõ rằng “ở Việt Nam có những giới hạn về việc nói hay không nói về đức tin của mình như thế nào” và đến một số nơi thì phải “khôn ngoan như rắn và dịu hiền như bồ câu”, cũng theo Huffington Post. Chiến lược này giúp ta hiểu hơn, vì sao chàng trai phi thường ấy khuyên người Việt làm theo gương Bác Hồ. Hãy kính Bác và yêu Chúa, thông điệp cuối cùng và bí quyết thủy chung để người Việt Nam đầu thế kỉ 21 vượt qua số phận kém ưu đãi của mình có thể là như thế, từ chỗ đứng đặc biệt của nhà truyền giáo Nick Vujicic. Song cho đến giờ phút này anh chưa tiết lộ cho đông đảo công chúng Việt Nam rằng số phận của anh chính là do ý muốn và sự sắp đặt của Chúa. Trong cả buổi giao lưu ở sân Mỹ Đình, anh chỉ trực tiếp truyền bá Phúc âm duy nhất qua mấy lời về tình yêu Chúa đã dẫn.
Song chỉ mấy lời tương đối “bồ câu” ấy cũng đủ khiến người phiên dịch bị bất ngờ và lúng túng. Và chính tôi cũng bị bất ngờ khi đọc đến chi tiết này trong bài báo, cho đến khi được biết lí do qua ngả khác, từ thông tin đáng chú ý của ông Vũ Hữu Hùng, tức Francis Hùng, một chuyên gia huấn luyện kĩ năng sống nhiều uy tín và quen thuộc với công chúng Việt Nam, người lẽ ra được chọn làm phiên dịch cho Nick Vujicic nhưng cuối cùng đã không đóng vai trò ấy. Yêu cầu của Ban Tổ chức là phiên dịch viên không được dịch lời của nhà truyền bá Phúc âm nói đến danh Chúa hay nói đến tôn giáo, trong khi Francis Hùng là một tín hữu Thiên chúa.
Tổng đạo diễn vắng mặt, nhưng phép mầu vẫn xảy ra theo cách nào đó. Bằng sự khôn ngoan của rắn và sự dịu hiền của bồ câu, hay bằng hoặc bất chấp một điều khoản không chính thức ghi trong hợp đồng? Lạy Chúa, có trời biết rằng Chúa không phải là thứ duy nhất ở Việt Nam phải chịu kiểm duyệt.
© 2013 pro&contra
_______________
Phụ lục
Bạch hóa của ông Vũ Hữu Hùng (Francis Hùng)
Như đã hứa trả lời cho công chúng lý do tại sao ban tổ chức sự kiện Nick mời tôi phiên dịch chính thức cho tất cả buổi nói chuyện của Nick nhưng cuối cùng tôi lại không tham gia. Trước sự kiện tôi có hứa là sẽ trả lời ngay sau khi sự kiện diễn ra, tối qua nếu các bạn có xem truyền hình trực tiếp thì đã phần nào biết được lý do. Và đây là sự thật:
Buổi họp cuối cùng trước khi sự kiện diễn ra có đại diện của Nick tại Việt Nam, công ty truyền thông và ban lãnh đạo Tôn Hoa Sen, có sự tham dự của anh Vũ người sáng lập Tôn Hoa Sen và là “chủ xị” của sự kiện. Tất cả phiên dịch viên đều phải dự phỏng vấn và trải qua bài kiểm tra dịch trực tiếp từ Video trước khi được xác nhận ai là phiên dịch chính trên sân khấu và ai sẽ là phiên dịch dự phòng. Tôi hoàn thành xuất sắc các bài kiểm tra, thỏa mãn yêu cầu của ban tổ chức.
Buổi họp cuối cùng tôi đến trễ có thông báo trước, khi bước vào phòng họp, sau vài câu xã giao thì anh Vũ nói với ban tổ chức: Tôi muốn các bạn bố trí em Hùng này là phiên dịch chính cho toàn bộ buổi nói chuyện trên sân khấu của Nick. Tôi thấy em Hùng phù hợp.
Anh quay sang tôi nói tiếp: Hùng phải chuẩn bị lúc nào cũng có 3 bộ đồ để thay, đồ vest, sơ mi và quần Jean áo thun để phù hợp với bối cảnh, đây là sự kiện quan trọng mà chúng tôi đã tốn rất nhiều tiền để sự kiện được diễn ra”. Tôi nói, “dạ vâng”.
Anh Vũ nói tiếp: Có một điều kiện bắt buộc Hùng phải chấp thuận thì Hùng mới dịch được, điều kiện đó là “KHÔNG ĐƯỢC NÓI ĐẾN DANH CHÚA, KHÔNG NÓI ĐẾN TÔN GIÁO, KỂ CẢ TRONG TRƯỜNG HỢP NICK NÓI THÌ ANH CŨNG PHẢI DỊCH KHÁC ĐI HOẶC LÀM THINH KHÔNG ĐƯỢC PHÉP DỊCH.”
Sau đó anh tiếp tục thảo luận về mức phí tôi đưa ra, tôi nói với anh Vũ rằng: Em đã giảm một tỷ lệ % rất lớn mức phí để phục vụ cho sự kiện, và đây là mức phí phiên dịch của em… Tuy nhiên, trong trường hợp ngân sách ban tổ chức eo hẹp không đủ tiền, thì em sẵn sàng hỗ trợ theo ngân sách của ban tổ chức.
Anh Vũ nói: Ban tổ chức có thừa tiền, không bao giờ thiếu, tuy nhiên mức phí của em là không thể chấp nhận được, em làm cái này là vì cộng đồng hay là vì kinh doanh?
Tôi trả lời: Nếu phục vụ cộng đồng mà kèm theo mức phí tượng trưng thì vẫn tốt và vui hơn (vì cách em cống hiến cho cộng đồng rất khác so với cách của anh – tôi nghĩ thầm), anh vừa xác nhận với em là ban tổ chức thừa tiền chứ không thiếu. Một giờ nói chuyện của em đã là… $, ở sự kiện này em chỉ nhận tượng trưng… $ cho mỗi bài diễn thuyết của Nick, tuy nhiên anh đã quyết định ngân sách dành cho phiên dịch chỉ là… $ cho mỗi bài nói chuyện, em chấp thuận để cho sự thành công của chương trình tốt hơn.
Anh Vũ hỏi: Lý do nào mà Hùng nghĩ có thể dịch thành công cho Nick?
Tôi trả lời: Trước hết em là một diễn giả chuyên nghiệp, em hiểu cảm xúc sân khấu của một diễn giả, khả năng ngoại ngữ của em đã qua các vòng kiểm chứng của ban tổ chức và điều quan trọng nhất là EM CŨNG LÀ NGƯỜI TIN CHÚA NÊN SẼ DỊCH CHÍNH XÁC KHI NICK NÓI VỀ CHÚA.
Khuôn mặt của anh Vũ biến sắc, anh vội nói: Lần này không hợp tác được với anh Hùng, lần khác vậy. (Mặc dù trước đó chưa đầy 15 phút anh chỉ đạo cho ban tổ chức là chọn tôi dịch chính cho sự kiện). Anh Vũ theo đạo Phật nên tôi có thể hiểu.
Các bạn thân mến,
Là một Cơ-Đốc nhân, tôi muốn làm chứng về việc Chúa cứu tôi khỏi phạm tội trước Ngài thông qua sự kiện này là như thế này:
• Nếu tôi hứa với anh Vũ không được phép dịch Danh của Chúa kể cả trong trường hợp Nick nói đến Danh của Chúa, mà tôi vẫn dịch thì tôi phạm tội không trung tín trong lời hứa.
• Nếu tôi đồng ý với anh Vũ là sẽ không dịch, hoặc dịch khác đi khi Nick nhắc đến Chúa thì tôi sẽ phạm tội chối Chúa trước hàng triệu người. Lời Đức Chúa Jesus Christ đã nói rõ “Ai chối Ta trước mặt thế gian, Ta sẽ chối người đó trước mặt Cha”. Điều tuyệt vời Chúa cứu tôi là Ngài khiến cho anh Vũ không chọn tôi trước khi tôi đưa ra quyết định, lời cầu nguyện “Xin giữ con khỏi mọi sự dữ” mà Chúa dạy cho chúng ta cầu nguyện, tôi thấy Ngài thực hiện điều đó (gìn giữ tôi khỏi sự dữ) thật là quá tuyệt vời. Cảm tạ Cha.
Và sự việc chưa dừng lại ở đây, theo kế hoạch ngày 26/5 (Sáng Chúa Nhật), Nick muốn đến thăm và có buổi nói chuyện ở nhà thờ Tin Lành Gia Định, ban tổ chức nói với tôi là nếu Bộ Công An và phía An Ninh cho phép, họ sẽ mời tôi dịch cho Nick ở nhà thờ Gia Định. Khi ở trong nhà thờ, thì Nick thoải mái nói về Chúa và tôi thoải mái dịch. Các anh chị em Cơ-Đốc nhân tiếp lời cầu nguyện cho sự kiện này có thể diễn ra nhé. Cho đến ngày hôm nay, phía An Ninh vẫn chưa đưa ra quyết định là có cho phép hay không.
Ai chứng kiến chương trình tối qua thì sẽ thấy Danh Chúa Jesus Christ đã không được dịch, câu nói của Nick nói sau khi nữ khán giả chơi xong bản nhạc và Nick chào tạm biệt cô ấy là “God Bless You”, phiên dịch viên đã không dịch câu này. Người phiên dịch viên không phải là con cái Chúa.
Toàn bộ sự việc đã diễn ra như vậy. Trong chương trình tối qua, khi Nick bị hạn chế không được diễn đạt đức tin của mình thì Nick “không có gì nhiều để nói”, nhưng nếu Nick được thoải mái giảng lời Chúa thì bài nói chuyện sẽ khác đi, sẽ sinh động sẽ đầy sự khôn ngoan. Cho nên sáng Chúa Nhật này ngày 26/5 từ 6-8 giờ sáng tại nhà thờ Gia Định đường Phan Đăng Lưu, Phú Nhuận, nếu sự kiện diễn ra bạn sẽ bắt gặp một Nick hoàn toàn khác, bạn sẽ học được nhiều điều sâu sắc hơn thay vì những câu khẩu hiệu suông trong chương trình tối qua.
Nguồn: VietCatholic News, 23-5-2013
[i] Truyền thông Việt Nam không thấy nhắc đến người mang tên này trong những người chủ chốt tố chức sự kiện Nick Vujicic, vì thế tôi xin lỗi là không biết rõ cách viết tên ông trong tiếng Việt.
May 21, 2013
Thêm dầu vào lửa
Tưởng Năng Tiến
Tổ quốc tôi vẫn chưa là vô phúc
May còn em khổ nạn gánh lên đồi
“Phùm Gi cách buôn Nu khoảng sáu cây số thôi nhưng có tới hai kiểu đường. Hai cây số đầu là đường nhựa láng o, khoảng bốn cây số sau thì lởm chởm đá, ổ gà và mịt mù bụi bặm.
Buôn nằm cạnh quốc lộ 25, bên cạnh con đường rách nát y như bản thân mình vậy. Đi ngang qua nhìn vào buôn, sẽ thấy những ngôi nhà sàn nhỏ bé đứng cạnh nhau, rúm ró, buồn bã và nín nhịn.” (Amai B’lan. Nước mắt của rừng. San Jose: Nhân Ảnh, 2013)
“Rúm ró” và “nín nhịn” chắc chắn không phải là đường lối kiến trúc đặc trưng của miền sơn cước. “Những ngôi nhà buồn bã nhỏ bé” nằm “bên cạnh con đường lởm chởm đá, ổ gà và mịt mù bụi bặm” (nói đúng ra) là hình ảnh quen thuộc, có thể nhìn thấy khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam – bất kể là ở miền xuôi hay mạn ngược.
(Ảnh: Đặng Đại, Tuổi Trẻ Online)
Hệ lụy của cái nghèo – nghèo/ nàn, nghèo/ khó, nghèo/ khổ, nghèo/ hèn, nghèo/ đói, nghèo/ túng, nghèo/ yếu … – đã thấm đẫm trong cách ăn ở (cũng như ăn nói) của người dân Việt – kể cả khi họ đã có dịp đứng diễn thuyết giữa một kinh thành hoa lệ:
“Trong tâm trí của chúng tôi, Xuân Diệu là một trong những nhà thơ thông thái, nhà thơ của những kiến thức uyên bác. Từ 1946, ông đã có mặt trong đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam qua Pháp. Nhưng do chiến tranh kéo dài, mãi 1981, tức là 35 năm sau, trong khuôn khổ một số quan hệ được nối lại với nước Pháp, người ta mới lại thấy ông trở lại thăm cái xứ sở hoa lệ ấy.
Ở đó, như báo chí đưa tin, ông có dịp diễn giảng trước các sinh viên đại học Paris về ảnh hưởng văn hoá phương Tây trong văn học Việt Nam, và về những nhà thơ cổ điển Việt Nam có nhiều ảnh hưởng trong đời sống. Nghĩa là, ông đã diễn thuyết toàn những vấn đề cơ bản cả. Thuận miệng và rất hồn nhiên, tôi hỏi Xuân Diệu khi gặp ông đi Pháp trở về:
- Thế anh có dịp gặp Aragon hay những nhà thơ Pháp nổi tiếng, mà các anh vẫn nói với bọn này…
Câu trả lời của Xuân Diệu là hoàn toàn bất ngờ với tôi:
- Em ơi! Đâu người ta có gặp những người như mình. Xuân Diệu đến Pháp, chỉ để nói chuyện thơ với một số bạn Việt kiều và nhà chuyên môn thôi.
Bấy giờ tôi mới sững ra. Sự biết thân biết phận, thường trực ở một người như Xuân Diệu, như một thứ bản năng thứ hai.
Trong chừng mực nào đó, phải nhận sự nhẫn nhịn ở Xuân Diệu là một cái gì đáng quý. Nó không chỉ là khiêm tốn, là biết điều. Sâu sắc hơn thế, nó chứng tỏ một nhận thức chính xác về tình thế người làm văn nghệ ở một nước mà đời sống vật chất còn nhiều khốn khó. Nó giúp cho người nghệ sĩ tránh khỏi những hoang tưởng bốc đồng quá đáng, làm phiền mọi người và làm phiền chính mình. Có điều nhiều khi Xuân Diệu đã đẩy nó đi quá xa, biến thành một cách sống cầu an, chiều đời, tự hạ thấp nhu cầu nghệ thuật và chất lượng sáng tác của mình một cách đáng tiếc.”
(Vương Trí Nhàn. Cây bút, đời người: Xuân Diệu, sống để mài sắt nên kim. Sài Gòn: Phương Nam, 2002).
Ở một mức độ ít “đáng tiếc” hơn, người ta vẫn thường gặp cái thái độ “nín nhịn” (cùng với lối sống “rúm ró” tương tự) nơi rất nhiều người khác:
“Mọi việc không như ý muốn! Đời thật lắm chuyện! Nhưng trải qua hai cuộc chiến tranh mình còn được sống được làm thơ, còn may mắn hơn khối người khác thế là được rồi. Có vẻ như đấy cũng chính là những ý nghĩ mang tính cách tự an ủi thường đến với Tế Hanh sau khi đã chất lên vai một cuộc sống trong ba phần tư thế kỷ!” (Sđd, tr. 209)
Đến như Nguyễn Tuân rồi cũng phải “nhập vai” nhẫn nhịn để có thể “nín thở qua sông” thôi:
“Từ sau 1945, với thiên lương và tinh thần yêu nước sẵn có, Nguyễn Tuân lại nhanh chóng phục thiện, để đứng vào hàng ngũ Cách mạng. Con người chủ yếu ở ông, từ nay, là con người cán bộ, con người chiến sĩ, nghĩa là thành viên của một tập thể có kỷ luật, tập thể ấy phấn đấu cho một lý tưởng nhất định, nên mỗi thành viên trong đó phải làm tất cả để đóng góp cho sự nghiệp chung.” (Sđd, tr. 215)
Điều được nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn mô tả bằng những mỹ từ như “thiên lương,” “lý tưởng,”và “tinh thần yêu nước,” qua đoạn văn thượng dẫn – tiếc thay – đã không được chia sẻ bởi một người cầm bút khác, nhà văn Vũ Thư Hiên:
“Trí thức Việt Nam thời ấy ngoan ngoãn lắm, dễ bảo lắm… Không ở đâu trong các nước xã hội chủ nghĩa có được một tầng lớp trí thức ngoan như thế. Trí thức ở các nước Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, Liên Xô, kể cả trí thức Trung Quốc cứng đầu hơn nhiều.
Đảng tập hợp họ, bảo họ chỉnh huấn để củng cố và nâng cao lập trường thì họ thành tín như những cậu học trò nhỏ ngồi nghe cán bộ Đảng dạy bảo… Đảng bảo phải hạ phóng, ba cùng, thế là họ bỏ bàn giấy, phòng thí nghiệm, giảng đường, ba lô lên vai xuống nông thôn, chịu cực, chịu khổ, ba cùng với nông dân, ngày ngày tu dưỡng hòng có được những đức tính của người dân cày chẳng cần học hành cũng có…
Đảng hô hào phóng tay phát động quần chúng làm Cải cách Ruộng đất thì họ lăn lộn ngày đêm nơi bùn lầy nước đọng ‘thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ xâu chuỗi’. Cùng với đội với đoàn họ mẫn cán thực hiện định mức thành phần, tìm ra bằng được, cho đủ số kẻ thù theo chỉ tiêu của Đảng đặt ra, hăng hái lôi bọn cường hào, ác bá ra đấu tố, ra pháp trường.
Đến khi Đảng ngượng ngùng tuyên bố sửa sai thì họ mới ngã ngửa ra rằng họ, những trí thức, lẽ ra phải lấy nhân ái làm đầu, thì đã theo Đảng nhúng tay vào máu. Do quá tin Đảng họ nhắm mắt tuân theo, không suy nghĩ, ai ngờ cùng với chủ thuyết lấy đấu tranh giai cấp làm động lực tiến hóa, Đảng đã gây ra vô vàn bi kịch trong đời sống một dân tộc hiền hòa.” (Vũ Thư Hiên. Đêm giữa ban ngày, in lần thứ hai. Virginia: Tiếng Quê Hương, 2008).
Giá mà dân tộc Việt cứ “hiền hoà” mãi như thế thì đỡ (mệt) biết chừng nào mà kể. Toàn thể đồng bào sẽ vẫn tiếp tục được sống trong Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, vẫn nô nức bước theo con đường mà Bác (kính yêu) đã chọn. Rồi cứ năm hết, tết đến mọi người lại háo hức mừng Đảng/mừng Xuân – những mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh quang vinh (cũng như giữa lòng Hà Nội, thủ đô mến yêu của ta) ôi đẹp biết bao, biết mấy tự hào…
Điều đáng tiếc là người Việt, với thời gian, mỗi lúc một bớt “hiền hoà” đi thấy rõ. Họ thôi “nín nhịn” tự lúc nào vậy, Trời? Muốn biết chính xác chắc cũng hơi mất công nên xin tạm lấy một mốc điểm (gần gần) theo blogger Huỳnh Ngọc Chênh, cho nó khoẻ:
“Năm 1988, tiến sĩ Hà Sĩ Phu viết khảo luận ‘Dắt taynhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ’ được bạn bè phổ biến ra dưới dạng bản photocopy rồi chuyền tay nhau đọc. Bài biên khảo của ông vạch ra những điểm sai trái trong lý luận của chủ nghĩa Mác-Lenin đã đón nhận sự đồng tình của giới học thuật và gây ra tiếng vang lớn trong dư luận thời ấy…
Ba blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải hợp với nhau thành Câu lạc bộ Nhà báo Tự do viết bài trên blog chống hành vi xâm lấn biển và ức hiếp ngư dân Việt Nam của nhà cầm quyền Bắc Kinh, giúp đỡ dân oan và người cô thế, phê phán các hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên công quyền…
Nhà báo Phạm Chí Dũng đồng thời là cán bộ của văn phòng Thành ủy TPHCM, từ năm 2011 đã viết nhiều bài báo xuất sắc phân tích tình hình kinh tế chính trị xã hội đăng trên các trang web trong và ngoài nước được dư luận đánh giá cao…
Sinh viên Nguyễn Phương Uyên không viết blog, em chỉ viết những câu ngắn biểu lộ tình cảm của em trước hành vi xâm lấn biển đảo Việt Nam của nhà cầm quyền Trung cộng trên các tờ giấy rồi mang đi phổ biến liền bị an ninh bắt cóc, tống giam trái phép… “
Theo theo , nghe được vào hôm 16 tháng 5 năm 2013 – cùng với sinh viên Đinh Nguyên Kha – Nguyễn Phương Uyên đã bị kết án (“tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”) và cả hai sẽ bị giam cầm hàng chục năm tù. Bản án nặng nề này, cùng với thái thái độ bình thản và điềm nhiên trước toà của hai nhân vật trẻ tuổi kể trên, đã khiến cho nhiều người cảm khái:
Bắt thì bắt, không sợ.
Tù thì tù, đã sao.
Tôi nói vì yêu nước,
Yêu quốc dân, đồng bào
Ôi ước gì Tuổi Trẻ Yêu Nước Việt Nam đều được như hai cháu!
Để gìn giữ giang sơn gấm vóc của Hùng Vương đã trải bốn ngàn năm .
Dù bất kỳ ai, với cái nhìn từng trải, chỉ cần thấy hình ảnh sáng sủa này của các con ở trong tù là bác hiểu dân khí đã đổi mạnh. Ngược lại nhìn vẻ ủ dột của các quan phụ mẫu đang quyết định đời các con trong tù, thì bác hiểu vận nước đã và sẽ đi đến đâu không lâu. ”
Chúc các con bình an và chờ ngày ấy.
(Ảnh: Vẻ bình thản và vững vàng của Đinh Nguyên Kha trước tòa ngày 16/5/2013 về tội giống với Phương Uyên, với 10 năm tù và 3 năm quản thúc quản chế sau tù. Nguồn ảnh và ghi chú từ bshohai.blogspot.com)
Thực sự thì “dân khí đã thay đổi mạnh” kể từ thời Nguyễn Xuân Tụ (Hà Sĩ Phu) chứ chả phải đợi đến Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải, hay thế hệ của Nguyễn Phương Uyên. Điều này ai cũng thấy, trừ những người đang cầm quyền ở Việt Nam. Bởi vậy, họ vẫn cứ tiếp tục và (thản nhiên) thêm dầu vào lửa!
© Tưởng Năng Tiến & pro&contra
May 20, 2013
Hồ Chí Minh: Tôi hạ lệnh cho nhân dân
Phạm Thị Hoài
Trong tập 4, bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, có một văn bản ngắn như sau :
Lời kêu gọi đồng bào Bắc Bộ
Hỡi đồng bào Bắc Bộ!
Việc bất hợp tác sáng hôm qua chẳng những không do mệnh lệnh Chính phủ mà trái với chính sách Chính phủ. Việc đó tỏ rằng một số quốc dân chưa hiểu kỷ luật. Biết theo những mệnh lệnh Chính phủ, làm cho thế giới thấy rằng dân tộc ta xứng đáng độc lập, Chính phủ ta có đủ oai quyền. Vậy tôi, Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời, hạ lệnh cho nhân dân Bắc Bộ lập tức đình chỉ việc bất hợp tác, giữ thái độ bình tĩnh giúp Chính phủ giữ gìn trật tự.
Đồng bào yêu mến tôi, nghe lời tôi.
Người đọc không được biết gì về bối cảnh của lời kêu gọi đó, ngoài xuất xứ rằng nó được in trong cuốn Lời Hồ Chủ tịch của Nxb Tiến Hóa, Hà Nội, năm 1946, trang 45. Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp tác với ai và như thế nào [1]? “Sáng hôm qua” là sáng ngày nào trong những ngày đầy ắp sự kiện phức tạp của hai năm 1945-1946[2]? Hi vọng sẽ có nhà nghiên cứu lấp được lỗ hổng thông tin đó. Phần mình, tôi chú ý đến văn bản lạ này vì chỉ qua vài dòng, chân dung ông Hồ được bổ sung thêm một số nét, khiến việc đọc phía sau mặt chữ trở nên thú vị. Phía sau mặt chữ, chứ không phải giữa hai hàng chữ. Thông điệp ở đây là rõ ràng, không có gì hàm hồ, bóng gió.
Một người như thế nào thì có thể cho phép mình phát ngôn: “Tôi hạ lệnh cho nhân dân”? Trong mọi ngôn ngữ, câu này đều tất yếu gây ra ấn tượng về một nhà độc tài. Các nhà lãnh đạo quốc gia ở những thể chế phi độc tài không buột miệng ra một câu như vậy ngay cả khi ngủ mơ, ngay cả trong những khoảnh khắc họ không muốn gì hơn là được làm chính xác như thế. Nhưng ngay cả một Putin, một Lý Quang Diệu, một Hugo Chávez cũng không phát ngôn như vậy. Còn Hồ Chí Minh?
Cho đến trước đó chỉ có kinh nghiệm hoạt động cách mạng và tham gia lãnh đạo một số phong trào, tổ chức, đảng phái bí mật, ông Hồ dường như xa lạ với tất cả những gì làm nên một chính khách chuyên nghiệp. Ông cũng không chuẩn bị cho mình và các đồng chí của ông một cơ sở lí luận và tư tưởng cho việc cầm quyền trong một nhà nước hoàn toàn mới, sinh ra từ việc chôn vùi nhà nước cũ [3]. Những năm tháng đầu tiên đứng đầu một nước Việt Nam mới, tác phong và ngôn ngữ của ông là của một bậc cha chú cai quản gia đình hay của một giáo chủ, một trưởng thượng, hơn là của một nguyên thủ quốc gia. Tuyệt đối tin vào uy tín của mình với quốc dân, toàn bộ uy lực khi hạ lệnh cho nhân dân của ông xuất phát từ lập luận: đồng bào yêu mến tôi thì nghe lời tôi. Các học trò của ông sau này, không người nào có thể tự tin vào uy tín của mình để hồn nhiên buông ra một lời như vậy. Tất nhiên vâng lời lãnh tụ theo tiếng gọi của tình cảm là một trong những cách cai trị ưa thích của các nhà độc tài và không hiếm khi kĩ năng mị dân của họ thăng hoa thành nghệ thuật tự lừa mị [4]. Nhân dân Bắc Triều Tiên chắc chắn cũng được giáo dục để có tình yêu trói buộc như thế với ba đời lãnh tụ họ Kim, và nhân dân Cuba với hai đời lãnh tụ họ Castro. Song ở trường hợp đang đề cập, tôi không khỏi có cảm giác rằng phát ngôn của ông Hồ, với tất cả tính gia trưởng của nó, có một sự ngây thơ và chân thành phù hợp với giai đoạn mà cuộc cách mạng của những người cộng sản Việt Nam còn ấu trĩ, ít nhiều trong trắng, chưa quay ra ăn thịt những đứa con của mình và nhe nanh vuốt với mọi đảng phái chính trị khác từng một thời đồng hành. Nhiều lần tôi đã cảm động khi đọc một số bức thư, lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch ở giai đoạn này và trong vài năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ở đó tôi thấy một chính khách bất đắc dĩ, tầm vóc tư tưởng không có gì kiệt xuất, nhận thức về thế giới tương đối sơ sài, kinh nghiệm điều hành quốc gia ít ỏi, nhưng đầy lãng mạn và còn đậm tính cách riêng tư.
Với thời gian, những nét riêng tư ít nhiều chân thực của Hồ Chí Minh dần nhường chỗ cho một hình ảnh nhân tạo ngày càng hoàn hảo. Sự hấp dẫn của cá nhân con người Hồ Chí Minh dần nhường chỗ cho sự sùng bái biểu tượng Hồ Chí Minh. Ông không còn hạ lệnh cho nhân dân nữa, dù đồng bào không thôi yêu mến ông và vẫn sẵn sàng nghe lời ông. Song nhà nước mà ông liên tục đứng đầu gần một phần tư thế kỉ cho đến khi qua đời đã trở thành một chính thể độc tài hoàn thiện. Ngôn ngữ cá nhân ít nhiều xác thực của lời kêu gọi nêu trên, bất chấp nội dung của nó, sẽ dần nhường chỗ cho một ngôn ngữ tuyên truyền công cộng thô thiển và giáo điều, cơ sở của toàn bộ ngôn ngữ tuyên giáo kinh hoàng mà hiện nay chúng ta còn phải chịu đựng. Càng đọc Hồ Chí Minh sau này, tôi càng thấy là các nhà tuyên giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến giờ phút này không làm một việc gì khác ngoài lặp lại chính xác không những cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, mà còn áp dụng trung thành cả những cách diễn đạt, những lập luận và những thuật ngữ chính trị mà ông là cha đẻ.
Hồ Chí Minh là một nhân vật lắp ghép từ rất nhiều mảnh to nhỏ, lỗ đen và khoảng trống. Trong bức tranh chiết trung lạ lùng này, mảng mầu của hai năm 1945-1946 có lẽ là tươi thắm hơn cả.
© 2013 pro&contra
[1] Trong bản đăng lúc đầu, ở đoạn này tôi viết: “Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp tác với chính quyền mới như thế nào? Vì lí do gì?”. Có ý kiến độc giả lưu ý rằng trong bối cảnh lịch sử khi đó, ông Hồ muốn nói đến sự bất hợp tác với Pháp. Tôi ghi nhận góp ý xác đáng đó, và xin phép sửa lại thành: “Nhân dân Bắc Bộ đã biểu thị sự bất hợp tác với ai và như thế nào?”. Xin cảm ơn độc giả.
[2] Chính phủ Lâm thời chỉ tồn tại đến hết năm 1945 và từ ngày 01-01-1946 được thay thế bằng Chính phủ Liên hiệp Lâm thời. Như vậy, có thể lời kêu gọi này liên quan đến một sự kiện diễn ra ngay trong năm 1945 nhưng năm 1946 mới được đưa vào sách.
[3] Trước Cách mạng tháng Mười, khi lưu vong và sống trong một túp lều ở Phần Lan, Lenin đã viết tác phẩm kinh điển về nhà nước chuyên chính vô sản Nhà nước và cách mạng. Không ai yêu cầu ở Hồ Chí Minh một tầm vóc tương tự, nhưng trước tác chính luận chủ đạo của ông, nếu ông cũng chính là Nguyễn Ái Quốc, trước tháng Tám 1945, gồm: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường cách mệnh (1925-1927) tập hợp bài giảng về kiến thức chính trị phổ thông ở các lớp huấn luyện chính trị Quảng Châu và Chiến thuật du kích (1942-1944), cho thấy một sự nghèo nàn đáng chú ý ở một nhà cách mạng có ảnh hưởng quyết định đến số phận của một dân tộc cho đến tận bây giờ.
[4] Trong phiên họp ngày 13-11-1989 của Quốc hội Cộng hòa Dân chủ Đức, phiên họp đầu tiên sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, khi bị chất vấn trách nhiệm, ông Erich Mielke, Bộ trưởng An ninh Quốc gia (Stasi) Đông Đức đã thốt lên: “Tôi yêu mến tất cả mọi người cơ mà… Tôi phấn đấu cho tình yêu đó cơ mà.” (Ich liebe doch alle Menschen. Ich setze mich doch dafür ein.)
May 18, 2013
Trinh bạch lương tâm
Phạm Hồng Sơn
Tòa án sơ thẩm tại Long An ngày 16/05/2013 đã tuyên án đối với hai thanh niên, Nguyễn Phương Uyên, 21 tuổi, 6 năm tù kèm thêm 3 năm quản chế và Đinh Nguyên Kha, 25 tuổi, 8 năm tù, 3 năm quản chế. Theo những gì cáo trạng liệt kê thì họ có tội và lĩnh án như thế vì họ đã dám bày tỏ một cách ôn hòa tình yêu tổ quốc và sự bất bình đối với chính thể hiện tại. Điều rất đáng nói nữa là án tù (kể cả quản chế – một hình thức tù hợp pháp) trung bình hơn 10 năm cho mỗi thanh niên yêu nước đã được tuyên đúng vào ngày nhiều vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam phải chịu lệnh cấm đánh bắt cá của nhà nước Trung Quốc. Nghe nói về bản án, nhiều người đã thốt lên: “Ác quá!”, “Quá ác!”, “Quá nặng!”
Nhưng nhìn ở phương diện đấu tranh Thiện – Ác thì kết quả đó thể hiện đúng qui luật. Khi cái Ác đã đạt đến độ ngày càng bất chấp dư luận, không cần che đậy thì đương nhiên nó sẽ phải càng bạo liệt hơn với những cái Thiện dám cương cường chống lại nó. Mà cái cương cường của Phương Uyên và Nguyên Kha có một nét khác hẳn, ngoài tuổi rất trẻ, so với những cương cường trước, đó là họ đã dám công khai đưa ra một thông điệp, dù rất giản dị: Nếu muốn cứu nước, chống ngoại xâm thì cần chống Đảng (Cộng sản Việt Nam)[1]. Họ lý luận vì luật pháp không có điều nào cấm chống Đảng và họ nhận thấy điều cần thiết đó qua thái độ của Đảng trước hành vi xâm lăng từ Trung Quốc.
Có thể nói một trong những nan giải trong cuộc đấu tranh với độc tài ở Việt Nam hiện nay đó là việc cả cái Ác và (phần lớn) cái Thiện đều dùng chiến thuật lừa nhau. Hai bên đều tránh nói sự thật mà cả hai cùng biết dù cả hai cùng biết là đang lừa.
Ví dụ, Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) biết rõ chả còn mấy ai tin rằng Đảng thực muốn hay có khả năng chống tham nhũng, tự chỉnh đốn theo xu thế tiến bộ hay muốn bảo vệ lãnh thổ trước Trung Quốc nhưng ĐCSVN vẫn không ngừng tuyên truyền, kêu gọi về những vấn đề đó. Ngược lại, đa phần những người tỏ sự bất bình, muốn tiến bộ cũng biết rằng ĐCSVN chẳng tin họ có thiện cảm thực với Đảng nhưng đa phần vẫn bày tỏ, tin tưởng vào sự tiến bộ của Đảng, thậm chí còn tỏ rõ sự trung thành và bảo vệ Đảng. Rất nhiều người biết Hồ Chí Minh là người đã sinh ra chế độ độc tài hiện nay và biết ĐCSVN vẫn đang áp dụng những cách cai trị từ thời Hồ Chí Minh nhưng họ vẫn thể hiện coi như Hồ Chí Minh là tấm gương, mẫu mực. Hoặc đa phần rất chán ngán, nhà nước chính thể hiện nay nhưng vẫn thường phân bua, né tránh: “Không, tôi không chống nhà nước”. Trong khi đó, pháp luật không nói gì tới cấm chống Đảng và đạo đức hiển nhiên ngàn đời luôn dạy con người rằng cần phải chống lại mọi thứ xấu xa, ác độc, kể cả nhà nước.
Thế mà Nguyễn Phương Uyên đã khẳng khái trước tòa thế này: “Tôi dùng máu viết khẩu hiệu ‘Tàu khựa cút khỏi Biển Đông’ và ‘Đảng Cộng sản chết đi’, khẩu hiệu bị cho là ‘phỉ báng Đảng Cộng sản Việt Nam’, là vì tôi thể hiện lòng yêu nước khi tôi căm phẫn Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam đến tột cùng sự phẫn uất.”
Còn Đinh Nguyên Kha thì nói thẳng với tòa: “Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống Đảng Cộng sản. Mà chống Đảng thì không phải là tội.”
Nếu coi chính thể và nhân quần là hai bóng hình của nhau thì có thể thấy đặc tính thiếu trung thực của cả chính thể và nhân quần Việt Nam hiện nay là điều tất yếu. Nhưng cũng thấy sự tất yếu thay đổi của chính thể nếu nhân quần thay đổi.
Những lời mộc mạc mà khẳng khái của hai thanh niên tỉnh lẻ, còn rất trẻ và chưa nhiều học vấn như Phương Uyên và Nguyên Kha là một thể hiện lương tâm xã hội vẫn còn sự nguyên sơ, trong trắng hay đang có bước chuyển lại về dạng trong trắng, nguyên sơ. Không nguyên sơ không thể nói ra những thứ mà đa phần xã hội đều biết, nhưng im lặng. Không trong trắng không đời nào lại thốt ra những điều mà cầm chắc chỉ chuốc thêm hằn thù của cái Ác. Đó chính là sự trinh bạch lương tâm – điều tối thiểu cho mọi xã hội muốn phục Thiện, diệt Ác.
© 2013 Phạm Hồng Sơn & pro&contra
[1] Quan điểm đấu tranh (chống, tấn công,…) của tôi – Phạm Hồng Sơn – người viết bài này trước sau như một là dựa trên triết lý đấu tranh bất bạo động (non-violent struggle).
May 14, 2013
Thực dân mới
Phạm Thị Hoài
C đối với Hoàng Anh Gia Lai (HAGL) và Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) đang được loan tải và phân tích trên hàng loạt cơ quan truyền thông quốc tế. Tờ Spiegel số vừa phát hành [i] cũng có riêng một phóng sự về việc này.
Bài báo bắt đầu bằng hình ảnh một người đàn ông Lào 27 tuổi gầy guộc, đánh độc một chiếc quần đùi, ngồi xổm trên khoảnh hiên bé xíu trước túp nhà sàn dựng bằng phên dậu của mình ở làng Ban Hatxan, nơi anh sống với vợ và cha mẹ. Trước mặt anh là ba con thằn lằn bất động, bữa tối của cả nhà. Toàn bộ tài sản còn lại của gia đình là ba con gà và một con lợn. Anh không dám cho nêu tên thật. Anh đã phải chạy trốn khi tập đoàn HAGL của Việt Nam sang Lào chiếm đất trồng cao su với quy mô lớn. Người Lào ở đây gọi người Việt là những ông “trùm cao su”. Anh kể: Gia đình anh vốn sinh sống bằng mảnh đất trồng thốt nốt. Cách đây ba năm HAGL đem quân khai hoang đến, không báo trước, đốn rừng, đốt sạch mọi thứ, nhà anh cũng bị đốt.
Song trong câu chuyện chiếm đất khai hoang ở Lào, ngoài những ông trùm Việt Nam còn có những ông trùm khác. Khi vô sản toàn thế giới không còn liên hiệp lại nữa thì tư bản toàn cầu làm việc đó rất thành công. “Lào và Việt Nam cách Đức hơn 8000 km. Nhưng tiền và sự trợ giúp để cướp đất ở Đông Nam Á thì HAGL cũng nhận được thông qua Deutsche Bank [ii]“, các tác giả của bài báo khẳng định. Một quỹ đầu tư của DWS, công ti con của Deutsche Bank, trực tiếp tài trợ cho HAGL và một công ti Việt Nam khác thuộc VRG.
Bài báo cũng điểm lại sự nghiệp của ông Đoàn Nguyên Đức mà người Việt thường gọi là “Bầu Đức“, từ thuở ban đầu với một xưởng mộc đóng bàn ghế cho học sinh trên Tây Nguyên đầu những năm chín mươi, qua kinh doanh gỗ và góp phần đáng kể vào việc phá rừng vô độ ở Việt Nam, nhưng chỉ thực sự phất mạnh khi nhảy vào lĩnh vực bất động sản từ cuối những năm 2000. Ông cũng là người Việt đầu tiên sắm máy bay riêng, mua hẳn một câu lạc bộ bóng đá làm của và có tham vọng trở thành tỉ phú đầu tiên của Việt Nam, và Deutsche Bank là một trong những thế lực giúp ông trên con đường đó.
Theo Spiegel, “năm 2008, trước hết Bầu Đức đưa HAGL lên sàn chứng khoán TPHCM. Vụ lên sàn này thắng lợi, tổng vốn hóa thị trường của HAGL nhanh chóng tăng gấp ba. Nhưng ông bầu còn muốn đi xa hơn. HAGL muốn trở thành doanh nghiệp Việt Nam đầu tiên niêm yết chứng khoán tại London. Deutsche Bank giúp ông. Cuối năm 2010, Deutsche Bank mua cổ phiếu của HAGL và vài tháng sau tạo điều kiện để HAGL lên được sàn London. Cổ phần của Deutsche Bank là cơ sở cho các chứng chỉ lưu kí toàn cầu[iii] để huy động vốn đầu tư cho HAGL.” Nhưng khi ấy kinh doanh bất động sản không còn ở đỉnh cao và HAGL bắt đầu nhắm vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đầu tiên ở Việt Nam, rồi sau khi đã vét sạch ở trong nước thì vươn sang Lào và Campuchia. Bài báo dẫn lời Bầu Đức tuyên bố trên tạp chí Forbes: Tài nguyên là thứ hữu hạn. Tôi phải nhanh chân, nếu không là nó hết.
HAGL làm thế nào để thâu tóm trên 80.000 hécta ở Lào và Campuchia, vượt xa giới hạn hợp pháp theo luật tô nhượng đất của các quốc gia này? Spiegel đưa ra một ví dụ về những cách khuất tất và lắt léo trong đống bùng nhùng của tham nhũng và vô hiệu hóa luật pháp mà báo cáo của Global Witness nhắc đến. Năm 2009, Lào được đăng cai tổ chức SEA Games 25. HAGL nhận tài trợ toàn bộ dự án xây Làng vận động viên với tổng vốn đầu tư là 19 triệu Dollar. Song đó không phải là một cử chỉ từ thiện hào phóng mà là một vụ đổi chác, lấy 10.000 hécta đất để đốn rừng, trồng cao su. Dân Lào ở đây chỉ biết sững sờ khi bỗng nhiên thấy xe ủi của người Việt xông đến. Số thì chạy trốn, không dám đương đầu với những ông chủ mới được chính quyền Lào che chắn. Số còn lại chấp nhận một khoản đền bù rẻ mạt. Người đàn ông bị cướp đất và đốt nhà nêu trên được đền bù 1,5 triệu Kíp tiền đất, tương đương 150 Euro, và 16.000 Kíp tiền nhà, giá một bát mì trong quán.
Ông Đoàn Nguyên Đức khó có thể bảo rằng tờ Spiegel lợi dụng tên tuổi của Hoàng Anh Gia Lai để đánh bóng tên tuổi, như ông đã quy động cơ rẻ tiền ấy cho Global Witness mà theo ông là một tổ chức vô danh. Đối tượng chính của bài báo trên tuần tin quan trọng nhất ở Đức, với số lượng phát hành lớn nhất ở châu Âu này cũng không phải là tập đoàn Việt Nam HAGL mà là tập đoàn Đức Deutsche Bank, thế lực tài chính đã trợ giúp và tham dự vào những hoạt động đầu tư thiếu minh bạch, tàn phá môi trường, bần cùng hóa nông dân, gây bất ổn xã hội, mâu thuẫn sâu sắc với những giá trị về đạo đức và bảo vệ môi trường bền vững mà Deutsche Bank thường quảng cáo. Cũng theo Spiegel, Deutsche Bank tuyên bố là quỹ đầu tư thuộc công ti con DWS của mình chỉ giữ vỏn vẹn 0,6 % cổ phần tại HAGL, và trong trường hợp có chứng cứ xác nhận những cáo buộc nói trên, Deutsche Bank sẽ tiến hành đối thoại với các công ti Việt Nam để cải thiện các điều kiện xã hội và môi trường liên quan.
Có lẽ sẽ chẳng có gì thay đổi, ngoài việc một dân tộc từng lầm than hàng thế kỉ vì chủ nghĩa thực dân và hiện đang đứng trước nguy cơ tự đưa cổ vào tròng thực dân mới rất có thể lại đi đóng chính vai trò thực dân mới. Hiển nhiên HAGL và VRG không đại diện cho dân tộc Việt Nam, nhưng những người nông dân Lào và Campuchia bị mất đất và tước sinh kế chỉ đơn giản thấy đó là Việt Nam, người láng giềng tuy nhược tiểu trên trường quốc tế nhưng tự tin rằng mình hùng mạnh nhất trên bán đảo Đông Dương. Người Việt nói chung, bản thân đầy đau đớn và mặc cảm vì phận dưới của mình, chưa bao giờ tự vấn về thái độ bề trên với hai dân tộc láng giềng phía Tây. Hơn một trăm năm trước, người Pháp đưa cây cao su vào Việt Nam. Bây giờ người Việt đem nó đi khai hóa văn minh ở Campuchia và Lào. Bao giờ thì chúng ta sang châu Phi khai hóa?
© 2013 pro&contra
[i] “Der Landraub von Laos” (Cướp đất ở Lào), nhóm tác giả Martin Hesse, Jörg Schmitt, Wieland Wagner, Spiegel số 20/2013, tr. 82-83
[ii] Deutsche Bank (Ngân hàng Đức) là tập đoàn ngân hàng tư nhân lớn nhất nước Đức, hoạt động toàn cầu với hơn 100.000 nhân viên ở trên 70 quốc gia, có mặt tại Việt Nam từ năm 1997.
[iii] Global Depositary Receipt (GDR)
May 12, 2013
Tân Việt Nam – Mười điều sung sướng lớn (2)
Phan Bội Châu
Võ Văn Sạch dịch
Bài liên quan: “ Tân Việt Nam – Sáu điều mong mỏi lớn “
Tân Việt Nam – Mười điều sung sướng lớn (1)
Xem toàn bộ tác phẩm Tân Việt Nam bằng bản PDF
Việc giáo dục là một cái lò đúc nên người để trị nước. Quan lại, binh lính cũng đều từ đó mà ra. Cho nên giáo dục là cái gốc trong di sản của chính trị. Thuế má, hình pháp cũng đều từ giáo dục định ra. Nền giáo dục của nước ta sở dĩ hủ bại, cũ nát là bởi vì trước đó chưa duy tân đó thôi, chẳng nên nói làm gì. Như cánh tay chín lần gãy mới biết thuốc tốt, cho đến bây giờ chỉ có nền giáo dục mới làm tan biến đi mọi sự ngu dốt được. Trong thời đại duy tân nền giáo dục sẽ mãi mãi hoàn thiện, điều đó không nói cũng biết, nhưng người nước ta còn có người chưa rõ. Vì thế xin nói ra để người trong nước rõ thêm.
Khi đã duy tân rồi thì triều đình sẽ dốc hết lòng, tận tụy trông nom nền giáo dục. Tinh thần toàn xã hội dồn hết cho giáo dục. Đức dục, trí dục, thể dục… tất cả đều được đề cao mà không bỏ điều gì. Phải học Trung Quốc, học Nhật Bản, học nước ngoài tất nhiều người sẽ hái lượm được đầy đủ kiến thức. Các vườn cho trẻ chơi, trường tiểu học, trung học, cao đẳng, đại học từ kinh đô đến thôn quê nơi nào cũng có. Khi mới duy tân thì các giáo sư ở các học đường tất phải mời người Nhật Bản, người Châu Âu, người Mỹ dạy: trong thời duy tân thì người nước ta cùng với một số người nước ngoài tham gia giảng dạy, khi duy tân sắp xong rồi thì nhân tài nước ta trình độ sẽ hơn hẳn họ, nên không cần phải mời người nước ngoài dạy nữa. Tên gọi các trường học, tư cách của học sinh, đặt ra các môn học, sự nghiệp học hành đạt kết quả cao, cơ bản đều phải thu lượm theo cái hay, cái tốt của nước Nhật và Châu Âu, đồng thời phải tìm cách để tự hoàn thiện nữa. Trong các trường học, các môn như triết học, chính trị học, kinh tế, quân sự, hình pháp, ngoại giao, công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, nữ công, y học, lâm nghiệp, phàm tất cả những gì liên quan tới cuộc sống con người cần phải học tập và phải mời thày giáo dạy tại học đường đầy đủ. Người nước ta được vào học không kể sang hèn, giàu nghèo, nam hay nữ, cứ từ 5 tuổi trở lên thì vào học ở vườn trẻ chịu sự giáo dục của bậc trẻ em, từ 8 tuổi trở lên vào học bậc tiểu học chịu sự giáo dục của bậc tiểu học, từ 14 tuổi trở lên vào học ở trường trung học chịu sự giáo dục của bậc trung học; cho đến khi 18 tuổi tài chất đã khá rồi thì được nhận vào học ở các trường bậc cao học theo sự giáo dục của các ngành chuyên môn bậc đại học. Tất cả những phí tổn về việc giáo dục, do triều đình, xã hội đảm nhiệm. Nếu người dân nào nghèo túng quá không thể đủ tiền đóng học phí thì triều đình và xã hội phải giúp đỡ, chu cấp thêm khiến cho con em trong cả nước đều được học qua ở các trường tiểu học bậc cao. Trước khi vào học ở các trường tiều học, đều phải đặt các trường dạy quốc ngữ, quốc văn, khiến cho nhi đồng và phụ nữ đều có thể đọc được báo chí, để nghe biết được những tin tức mới, bàn luận về thời sự để mở mang dân trí. Trong các trường học, hết thảy phải dùng chữ Quốc ngữ khiến cho mọi người ai ai cũng đọc được, khi đọc được ai ai cũng hiểu biết được để đến khi vào học ở các trường tiểu học ai nấy đều có điều kiện và hết lòng lĩnh hội kiến thức, mới có thể có đủ tư cách trở thành một người dân tốt hơn được. Hơn nữa, các sách giáo khoa ở các trường tiểu học, trung học, đại học phải được Bộ Văn [i] kiểm định, nhưng có sự châm chước, xét duyệt, bàn bạc chung trong nghị viện. Nội dung cơ bản của sách vở đều là cội nguồn để mở mang lòng yêu nước, khai thông tình ruột thịt đồng bào, phát huy dân trí giúp dân quyền khiến cho mọi người ai ai cũng tiến bộ ngày hàng ngàn dặm.
Tựu trung việc đào tạo nhân cách con người là trên hết, nhưng đối với binh lính và phụ nữ thì việc giáo dục đó lại càng cần thiết hơn. Vì người lính có trách nhiệm bảo vệ người làm ruộng và người đi buôn bán; có nhiệm vụ đi mở đất, dời dân và tăng thêm thế mạnh, uy nghi của một nước. Nếu ngay từ ban đầu, giáo dục không chu đáo, sâu sắc thì người lính làm sao mà dám xả thân vì nước, làm sao mà có lòng yêu thương đồng bào và làm sao mà gây dựng cho nước nhà ngày một cường thịnh được? Sau khi duy tân rồi thì người lính ở nhà được giáo dục tại nhà, ở doanh trại thì được giáo dục tại doanh trại. Là pháo binh, kị binh, công binh thì được giáo dục về công việc của pháo binh, kị binh, công binh. Là lục quân, hải quân, sĩ quan thì được giáo dục theo cách thức của lục quân, hải quân, sĩ quan. Không chỗ nào, không lúc nào là không giáo dục người lính để làm cho người lính sẵn sàng chết, làm tướng thì có khả năng cầm quân, làm cho nước nhà trở thành cường quốc trong năm châu. Đó cũng là mục đích trên hết để giáo dục người lính vậy.
Phụ nữ là người có trách nhiệm làm một người mẹ hiền, một người vợ đảm, có trách nhiệm trong việc buôn bán, làm đồ công nghệ, có trách nhiệm dạy dỗ con em, giúp đỡ việc quân. Có người mẹ anh hùng thì mới có thể giúp cho người chồng thành người anh hùng được. Vả lại, trên các mặt nghệ thuật, kinh tế người phụ nữ thực sự sẽ nắm được những quyền lợi vô cùng. Chỉ có giáo dục người phụ nữ một cách sâu sắc thì mới tạo ra cho họ lòng yêu nước sâu sắc, bỏ được riêng tư mà theo công lợi, dám hi sinh vì việc nghĩa để làm nên một quốc gia cường thịnh được. Cho nên trong một nước mà không có người phụ nữ yêu nước thì cuối cùng nước ấy sẽ phải làm đầy tớ cho nước khác mà thôi. Sau khi duy tân rồi, tất phải chú ý đặc biệt tới sự giáo dục cho phụ nữ. Sách giáo khoa dạy cho chị em phụ nữ phải chọn những sách có nội dung thật tốt; trường học để dạy chị em phụ nữ phải khuyến khích, lựa chọn những giáo viên thật giỏi. Những trường công nghệ, bệnh viện, thương điếm, ngân hàng, bưu điện, xe hơi, tàu thủy… cùng tất cả những ngành gì có liên quan đến tài chính nên tuyển dụng phụ nữ có trình độ học vấn cao, khiến cho họ phát huy hết tài năng để giúp cho việc quân, việc nước và có nghĩa vụ bình đẳng với nam giới. Tất cả những gì mà quốc gia khen thưởng, những vấn đề thuộc về xã hội thì người phụ nữ cũng có giá trị bình đẳng với nam giới. Điều đó, khiến cho phụ nữ trong cả nước không ai là không mong muốn làm một người mẹ anh hùng, làm một người vợ anh hùng, làm một người phụ nữ giàu lòng yêu nước. Bia đá tượng đồng tạc phường khăn yếm, việc sử dụng súng ống, lưu danh tên tuổi, việc hội ước, xông pha nơi chiến trường thì người phụ nữ so với kẻ mày râu đều cùng giá trị. Do đó, việc giáo dục người phụ nữ là mục đích trên hết vậy.
Còn như trong khuôn khổ của một nền chính trị thì lấy việc học về công đức, học về lòng bác ái là một việc tối quan trọng. Nói người trong nước, đó là tiếng gọi chung người trong một nhà.
Nước ta phía Nam đến tận Hà Tiên, phía Bắc đến tận Lạng Sơn. Một dải núi sông, thực như nhà chung của mọi người. Cùng được sinh ra và lớn lên như trong một nhà, cùng sống và đoàn tụ như trong một nhà, cùng được trời che đất chở, thì sẽ là anh em đồng bào ruột thịt với nhau. Khi sống chơi với nhau một chốn, khi chết cùng chôn với nhau một gò. Huyết mạch từ nghìn năm, giống nòi ai để lại? Tên họ sau muôn thuở, người nào đến viếng thăm? Há đâu cứ nhìn vào các nước Hồ, Hán, Tần, Việt mà nói rằng người nước ta chẳng phải một nhà?
Đau khổ xót thương cũng đều có quan hệ xương thịt với nhau, ấp ủ, giúp đỡ nhau chẳng khác nào như thích mùa xuân vậy.
Nước ta đương buổi duy tân, tất phải khiến cho dân trong nước không có người nào là không có chỗ ở. Lại đặt viện từ thiện cảm hóa để giáo dục cho những người tàn tật đáng thương. Lập nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà nuôi dưỡng người già yếu, nhà hộ sinh cho phụ nữ. Tất cả những trường học đó đều nhằm giáo dục những người nghèo khó, cô đơn. Phàm tất cả những trường phải chọn học sinh nam nữ là những người tốt có đạo đức và những thày giáo giàu lòng bác ái để dạy bảo, chăm sóc, trông nom, khiến cho họ cùng với quốc dân, cùng hưởng thái bình, tự do và hạnh phúc. Đến khi ấy, nền giáo dục thật hoàn thiện, không có thiếu sót gì, cũng như trời mưa to vạn vật đều tươi tốt, biển lặng sóng yên cá tôm cùng nhảy múa. Chúng ta được thấm ơn như thế, sướng biết chừng nào!
Đất đai nước ta, phía Tây sát nước Tiêm La, phía Bắc thông đến xứ Việt – Điền [ii], phía Đông liền biển lớn, phía Nam tiếp đến Côn Lôn, ở giữa là tỉnh Nghệ An có 4 trấn [iii], xứ Bắc Kỳ có 10 châu, Quảng Trị có 2 xứ Cam [iv], Nam Kỳ có hai Xá [v], đất đai đều có thể cày cấy được, rừng có thể chăn nuôi được, núi có thể khai khẩn được. Riêng những điều đó thôi thì nước ta đã không thể đứng dưới một nước trung đẳng được. Huống hồ nước ta lại có cả đồng bằng rộng lớn, có nhiều hồ lớn và vùng đất tốt đã được cày cấy từ lâu. Nhưng vì sao cũng vẫn còn có nơi nửa văn minh, nửa dã man? Là bởi vì dân trí chưa được mở mang, nhân tài chưa nhiều, chỉ mới dùng sức chân tay mà làm chứ chưa biết dùng máy móc. Lại còn mùa màng hạn hán, thiên tai hoành hành, mất hàng nửa công sức để khai khẩn ruộng đất, bỏ hoang, đến một đấu thóc, nửa thăng thóc mà dân cũng không có mà tích trữ. Mà đất đai thì có đến hàng ngàn, vạn mẫu bỏ hoang. Triều đình có thế lực mà không biết mở mang ra, xã hội có công cụ làm ăn mà không biết vun trồng lại, đất nước ngày càng nghèo, dân càng ngày càng khổ. Thật đáng thương thay!
Khi đã duy tân rồi thì việc nghiên cứu về nông nghiệp phát triển mạnh, nghề nông ngày một tiến tới. Sức người không đủ sẽ có máy móc bổ sung hỗ trợ cho. Thiên tai bất lợi sẽ có trí tuệ con người chinh phục. Một người khai khẩn chưa xong thì xã hội giúp tiền để cùng làm cho thành. Dưới dân mà làm không xong thì triều đình sẽ đốc thúc quan lại giúp đỡ thêm. Quan đại thần trông coi việc nông phải là bậc học sĩ cao cấp. Người nghiên cứu về nông nghiệp phải sử dụng những người sành sỏi, tài giỏi về nghề nông. Rồi thì khắp mặt đất mới chứa đầy mầm châu báu, trời rộng kia mới chở hết sự mạnh giàu. Trên rừng núi không bỏ sót nguồn lợi nào, ở làng xóm tài sản không bao giờ cạn. Lúc bấy giờ, đất đai ngày một mở rộng, thế nước mạnh như nuốt các nước láng giềng. Của cải, sản vật tràn trề khắp nơi, danh giá nước ta trên thế giới ngày càng được trọng vọng. Chúng ta sung túc, giàu có đến thế, sướng biết chừng nào!
Người nước ta có sự suy nghĩ khôn ngoan, có tai mắt thông minh, so với người Châu Âu chỉ có hơn chứ không thua kém. Thế mà bao nhiêu thứ hàng hóa, vật dụng đều phải mua của nước ngoài, bao nhiêu lợi quyền đều chịu để nước ngoài nắm giữ. Các thứ dùng để ăn uống, từ thuốc cho đến trà, rượu, các đồ mặc như gấm, nhung cho đến vải lụa, nếu chẳng phải là do người nước ngoài làm ra thì cũng do người Hoa đem đến, nếu chẳng phải từ bên Tây chở sang thì cũng từ nước Thanh mang lại. Vì vụng về ngu muội nên tiền của tiêu hao, sản vật của trời đất sinh ra để cho người nước ngoài ra sức mà ăn nuốt hết. Hôm nay mặc hàng Tây, ngày mai mua đồ Hoa, ví như người này mặc hàng Hoa, người kia mặc hàng Tây. Người nước ta há lẽ nào không biết suy nghĩ, không có tai mắt mà nhìn mà nghe hay sao? Đất nước ta lẽ nào lại không có khoáng sản, không có công trường hay sao? Mà sao lại ngu dại để cho máu mỡ của mình dần dần mất hết, sớm tối tay chân nhọc nhằn vất vả đến thế? Đó là bởi triều đình không có phương pháp khuyến thợ khen nghề, xã hội không biết đấu tranh cho lợi quyền đó thôi. Người Pháp lấy cái lợi của ta bởi rằng ta ngu, thường ngày lo tìm cách ngăn lấp tri thông minh của ta, khiến cho ta quên hết mọi điều cổ hủ vậy. Đó là trước kia.
Khi đã duy tân rồi thì tai mắt người nước ta được rộng hiểu. Tâm tư trí tuệ người nước ta tất phát triển phi thường. Trường học bách công mọc đầy khắp trong nước. Thợ tìm mỏ, thợ nấu vàng, thợ điện khí, thợ cơ khí, thợ chế tạo vật phẩm buôn bán, thợ chế tạo dụng cụ dùng cho nhà nông, thợ hội họa, mĩ thuật, thợ may, cho đến hàng trăm các phẩm vật khác phục vụ cho đời sống con người đều có thợ cả. Tất cả các trường dạy thợ, đều lấy những kiến thức tối ưu nhất của Châu Âu, của Nhật Bản để giảng dạy. Ngành học về khai mỏ ngày càng tiến bộ, nguồn lợi khai mỏ ngày càng nhiều, của cải dưới lòng đất khai thác ngày càng tăng, những công nhân giỏi ngày một đông đảo. Miền núi sẽ đẹp như gấm vóc, thôn quê cũng hóa đô thành. Đến lúc ấy người nước ta đầu óc thông minh, tay chân khôn khéo rong ruổi khắp non sông đất nước, vật phẩm tuyệt đẹp đến nỗi Châu Âu, Châu Mỹ cũng phải chịu thua giá trị. Chúng ta bay nhảy đến thế, sướng biết chừng nào!
Việc đi buôn mạnh như cọp, như cá kình thì trong thế giới nước nào mà không nuốt nổi. Đi buôn bán nhà mà có gươm súng thì trong thế giới dân nào chẳng bắt được. Thật đáng thương cho nền thương mại yếu kém của ta! Thật đau xót cho giới kinh doanh thương mại của ta bị đình đốn! Hàng hóa sản vật của cải có xuất mà không có nhập, như máu mỡ chỉ có mất mà không hề tăng lên. Nhà nghèo có điều kiện bôn tẩu đó đây, nhưng mà lại không đủ sức, nhà giàu có của thừa thãi mà lại chẳng có lòng làm. Không tâm không lực thì không thể mà sinh tồn nổi trong thời đại cạnh tranh buôn bán này được. Dò xét nguyên nhân mới hay rằng: một là người nước mình không có tinh thần tin yêu nhau, hai là người nước mình không có cái chí tiến thủ mạo hiểm. Không cò lòng tin yêu nhau thì người nghèo có trí mà không cùng bàn bạc với người giàu, người giàu có của mà không chịu giúp người nghèo. Như thế xã hội đến tan nát, của cải tiêu mòn. Không biết cách làm, không biết hợp của cải lại thì buôn bán làm sao được. Không có chí tiến thủ mạo hiểm thì một đồng tiền cũng chẳng dám rời tay, huống hồ đem của cải nhiều đến hàng vạn quan tiền! Một bước cũng không dám rời cửa, huống hồ phải vượt biển rộng đến ngàn trùng! Cầm túi giữ chặt, chôn của chờ tiêu, không dám đi buôn bán xa, không dám xông pha đây đó thì làm sao mà có thể đi buôn bán được?
Khi đã duy tân rồi, dân trí ngày càng phát đạt lớn, sự học tập về thương mại ngày càng phát triển nhanh. Người nước ta có tình cảm thương yêu nhau nhiều, hợp của cải muôn người làm của chung, hợp sức muôn người thành một sức chung thì việc buôn bán trong xã hội ngày một cố kết mà chẳng tách rời nhau. Người nước ta tất sẽ dũng cảm mà có chí tiến thủ mạnh. Nhà nào có thực nghiệp [vi] thì được triều đình đặc biệt chú trọng, ai có tài kinh doanh được xã hội tôn vinh thì việc buôn bán sẽ mạnh mẽ như ngọn thủy triều không sức nào ngăn cản nổi. Đến lúc đó, người nước ta đồng lòng hiệp sức, quyên góp tiền vốn lại cùng với nước ngoài đua tranh buôn bán. Thóc gạo ê chề, tơ, gỗ lạt cùng các vật phẩm xuất cảng, so với các nước khác, hàng hóa Việt Nam ta sẽ chiếm mức tối đa.
Tất cả các công ti buôn bán lớn ở các thành phố như Pa-ri nước Pháp, Bá Linh nước Đức, Luân Đôn nước Anh, Nữu Ước nước Mỹ cùng với các nước khác hết thảy đều thấy rằng nền thương mại Việt Nam là thịnh vượng nhất. Tàu buôn các nước ra vào buôn bán ở các cảng Việt Nam mỗi ngày không dưới vài ngàn chiếc. Hàng hóa tiền bạc của các nước nhập vào kho thương mại của Việt Nam mỗi ngày không dưới ức vạn đồng. Chúng ta sẽ lấy của cải mà đắp nên thành trì, trên thế giới không có loại pháo nào mà công phá nổi. Chúng ta sẽ kết tàu làm trận, thì Châu Mỹ, Châu Âu cũng dễ lướt qua như sóng vậy. Người nước ta đầy đủ và mạnh đến thế, sướng biết chừng nào.
Nếu biết lấy việc thu hoạch mùa màng là sự vui sướng thì việc dầm mưa dãi gió, vất vả sớm hôm cũng không quản ngại: biết tụ họp xóm làng ca hát là vui thì thì việc chuyển đá dời non, đắp đường mở lối cũng không thấy nhọc nhắn. Sướng thay nước Việt Nam mới! Sướng như thế đó! Người trong nước ta có ai mà không đẹp lòng? Có ai mà không nhón gót giương mày ngẩng cổ mà trông?
Tuy nhiên, chợt nghe thì mừng, quá mừng lại ngờ vì cách thức để gây dựng nước Việt Nam, tiền của để xây dựng nước Việt Nam mới nước ta còn có người hoang mang chưa rõ. Tôi tuy là người hèn kém bất tài nhưng cũng may mắn được là người con yêu mến của nước ta, xin kính cẩn bày tỏ một số hiểu biết kém cỏi của mình sau đây để tất cả các bậc cha anh, chú bác, anh em lựa chọn lấy.
Mong mọi người trong nước ai ai cũng có ý chí tiến thủ mạo hiểm.
Mong mọi người trong nước ai ai cũng có tinh thần thương mến, tin cậy lẫn nhau.
Mong mọi người trong nước ai ai cũng có tư tưởng tiến bước lên nền văn minh.
Mong mọi người trong nước ai ai cũng có sự nghiệp thực hành yêu nước.
Mong mọi người trong nước ai ai cũng có sự nghiệp thực hành công đức.
Mong mọi người trong nước ai ai cũng có hi vọng về danh dự và lợi ích.
Nguồn: Phan Bội Châu, Tân Việt Nam. Bản điện tử được thực hiện từ ấn bản của Cục Lưu trữ Nhà nước năm 1989, do Võ Văn Sạch dịch và chú thích, Đinh Xuân Lâm viết lời giới thiệu, tr. 19-28
[i] Tức Bộ Giáo dục
[ii] Tức hai tỉnh Quảng Đông và Vân Nam của Trung Quốc
[iii] Trấn Ninh, Trấn Định, Trấn Biên, Trấn Tĩnh
[iv] Cam Lộ, Cam Linh
[v] Thủy xá và Hỏa xá
[vi] Ở đây, ý chỉ một trong các ngành nghề như nghề nông, nghề công, nghề thương cùng tất cả các công việc làm cho mối lợi được phát triển mạnh.
May 10, 2013
Đĩ thúi (5)
Nguyễn Viện
Tiểu thuyết
Đọc toàn bộ tác phẩm bằng bản PDF
18.
“Súng Shotgun hay còn gọi súng bắn đạn hoa cải, súng bắn đạn ghém… tùy vào loại đạn mà nó bắn ra, là loại súng được thiết kế thường dùng để bắn khi tựa vào vai, bắn ra loại đạn là một tập hợp các viên đạn nhỏ như hạt tiêu (chỉ sát thương cao khi dùng ở khoảng cách gần) hay loại đạn đặc và lớn (dùng với khoảng cách xa) đôi khi bên trong có thể là thuốc nổ hay những thứ khác như các chất hóa học… (khi đó nó sẽ gọi là đạn đặc biệt). Shotgun có rất nhiều các biến thể khác nhau từ cỡ nòng 5,5 mm (.22 inch) đến 5 cm (2 inch) nòng trơn cùng các chế độ bắn và nạp đạn khác nhau như nạp đạn từ phía sau (loại 1, 2 hay nhiều nòng bắn từng viên), lên đạn bằng cách kéo ống bơm hay thoi nạp đạn, có các chế độ bắn như từng viên, bán tự động thậm chí hoàn toàn tự động…
Các mảnh của đạn shotgun sẽ tỏa ra các hướng sau khi ra khỏi nòng súng và sức bắn được chia đều cho từng mảnh đạn điều đó có nghĩa là sức công sát thương của từng mảnh đạn sẽ rất thấp nếu bắn ở khoảng cách xa vì các mảnh đạn sẽ tỏa đi các hướng (thậm chí nếu trúng mục tiêu chúng cũng chẳng xuyên thủng được do trở nên quá yếu) nên ở khoảng cách xa loại đạn này gần như vô dụng…” (Wikipedia)
Súng hoa cải đã được sử dụng để bắn vào lực lượng cưỡng chế đất đai của dân đen. Một hành động chống đối bột phát thể hiện sự phẫn uất cùng cực đối với bạo quyền.
Hồ Tôn Hiến vội vã triệu tập bộ hạ đến, gay gắt hỏi: “Tại sao lại có kẻ dám chống đối chúng ta? Các đồng chí quản lý nhân dân thế ư?”
Kim Trọng vội thưa: “Chúng tôi đã cho bắt cả tất cả họ hàng anh em bọn chúng và sẽ cho xử thật nặng để làm gương.”
Hồ Tôn Hiến nói: “Ổn định trật tự xã hội cũng là ổn định an ninh chính trị. Tôi không muốn thấy bọn dân đen ngóc đầu dậy.”
Thúc Sinh từ tốn nói: “Thưa anh, chúng ta cần phải nghiêm túc coi đây là một cảnh báo.”
Hồ Tôn Hiến nói: “Vì thế, chúng ta lại càng phải quyết liệt. Toàn bộ hệ thống phải sẵn sàng ứng chiến.”
Thúc Sinh thưa: “Nhưng chúng ta không thể coi dân là đối thủ.”
Kim Trọng nói: “Tôi cho rằng đồng chí Thúc Sinh nhầm lẫn về đối sách. Trong hệ thống của chúng ta chỉ có ta và địch.”
Hồ Tôn Hiến nói: “Đúng. Giai cấp thống trị và giai cấp bị trị không bao giờ có chung một chiến hào. Sự trắc ẩn hay thương xót là tự sát.”
Thúc Sinh nói: “Tôi không lấn cấn gì về những điều các đồng chí nói. Ý tôi cũng chỉ là vấn đề đối sách.”
Hồ Tôn Hiến: “Để trấn an dân chúng, hãy cho kiểm điểm lực lượng cưỡng chế. Nhưng các đồng chí không được quên, không bảo vệ nhau lúc này, thì khi hữu sự, ai bảo vệ chúng ta? Bọn chống chính quyền, cần phải nghiêm trị. Tôi nhắc lại, tôi không muốn thấy đám dân đen ngóc đầu dậy.”
Ở các quán cà phê, tin về một anh nông dân dùng bình gas nấu cơm làm mìn và bắn súng đạn hoa cải vào lực lượng cưỡng chế gồm hàng trăm công an và quân đội võ trang đầy đủ đã làm nổ tung nhiều buổi sáng trời xanh mây trắng. Tuy nhiên, phát biểu về sự kiện bất ngờ này của một sĩ quan chỉ huy công an cũng bất ngờ không kém. Ông ta nói:
“Vụ việc hôm ấy tuy bắt không được đối tượng nhưng mà trấn áp được đối tượng. Phải nói rằng việc hiệp đồng tác chiến cực kỳ hay. Tôi bảo, không có cuộc diễn tập nào thành công bằng cuộc diễn tập lần này.
Một là, anh em cơ động dùng thuyền để tiếp cận là chưa có bao giờ trong giáo án, đã phải dùng thuyền nan để chèo vào, bí mật áp sát mục tiêu đấy. Đánh mũi trực diện nghi binh ra làm sao. Rồi là tác chiến vòng ngoài, vòng trong thế nào.
Tôi nghĩ là rất hay, có thể viết thành sách. Tôi nói với các đồng chí Thường trực rằng đây không phải kế hoạch tập trận nhưng đúng là phải rút kinh nghiệm, cái này nó rất là hay, có sự kết hợp giữa địa phương, giữa công an, quân đội, biên phòng rất là đẹp, đâm ra không có gì phải phàn nàn về cái chuyện ấy cả.”
(http://www.tienphong.vn/xa-hoi/607509/10-phat-ngon-sieu-an-tuong-cua-quan-chuc-viet-nam-tpov.html)
Nhân dân bình rằng, hàng trăm thằng lính và công an bao vây và tấn công vài thằng nông dân không những đã không bắt được nó mà còn bị nó bắn suýt toi mấy mạng thì hay ho kiểu gì.
Chính vì thế, Hồ Tôn Hiến đã yêu cầu lực lượng an ninh, quân đội cần tiếp tục làm thí điểm hợp đồng tác chiến trấn áp các cuộc nổi dậy trong tương lai của nhân dân.
Cuộc diễn tập thứ hai.
Hàng ngàn công an tiến vào ngôi làng. Súng nổ đì đùng, lựu đạn cay mù mịt. Đánh đập và bắt bớ. Người dân kêu khóc. Những người chứng kiến cũng chỉ biết khóc. Cuộc diễn tập qui mô này được tạo cớ bởi những nông dân chống lại lệnh cưỡng chế bất công của chính quyền đối với đất đai của họ nhằm phục vụ quyền lợi bọn tư bản đỏ.
Hồ Tôn Hiến nói: “Các đồng chí phải chứng tỏ cho bọn dân đen biết thế nào là quả đấm thép.”
Quả đấm thép đã làm nhiều người gãy răng, nhiều người bể xương mặt, thân thể bầm tím, thậm chí nhiều người đã tử vong.
Pháp y là người lĩnh lương của chính quyền vì thế pháp y tuyên bố trước công luận: “Chính quyền không đàn áp, đánh dân. Bọn chúng tự xử.”
Để hợp pháp hóa các vụ trấn áp và giết người, Hồ Tôn Hiến ra lệnh: “Hãy sửa luật để công an được quyền bắn bỏ mọi đối tượng nếu thấy cần.”
Cuộc diễn tập thứ ba.
Những người bất đồng chính kiến lần lượt bị bắt.
Hồ Tôn Hiến nói: “Chúng ta cần phải cho thế giới biết, chủ quyền của chúng là tuyệt đối. Không một tổ chức, một chính phủ nào có thể can thiệp vào công việc nội bộ của chúng ta. Không một lực lượng đối lập nào được phép thành hình. Không một kẻ chống đối nào được dung tha.”
19.
Từ Hải nói với Nguyễn: “Đã qua cái thời đấu súng. Cho dù đối mặt với kẻ điếc, chúng ta vẫn cần đối thoại.”
Nguyễn nói: “Vâng, chúng ta cần sống như những người văn minh.”
Từ Hải nói: “Cái khó nhất tôi nghĩ trong đấu tranh là làm sao để mọi người cùng tiến bước. Nếu khoảng cách giữa người đi trước và người đi sau xa nhau quá, thì người đi trước rất dễ bị bắn tỉa, rất dễ bị hy sinh.”
Nguyễn bảo: “Vì thế, cần kiên nhẫn mà không làm nguội đi ngọn lửa.”
Từ Hải nói: “Đấy chính là một trong những lý do tôi cần những người như anh.”
Nguyễn bảo: “Tôi không làm thuê cho ai.”
Từ Hải: “Xin lỗi. Tôi không có ý định nói thế. Tôi chỉ muốn nói là phong trào cần.”
Nguyễn bảo: “Tôi biết tôi phải làm gì.”
Từ Hải: “Đấy cũng là một cái khó. Khi những người như chúng ta không cùng đi chung với nhau, ít nhất một đoạn đường, thì cũng rất khó để có cơ hội tạo nên một sức mạnh.”
Nguyễn bảo: “Tôi biết cá nhân không là gì trong một cuộc vận động lớn lao như thay đổi một chế độ. Nhưng tôi không thể không là gì khi tôi muốn dấn thân cho một điều có ý nghĩa.”
Từ Hải: “Anh muốn có một vai trò rõ ràng?”
Nguyễn nói: “Có lẽ anh hiểu nhầm ý tôi. Tôi không bao giờ có ý định làm quan. Cho dù đó là quan cách mạng. Tôi chỉ muốn nói đến cái vị thế con người.”
Từ Hải: “Chẳng cần rắc rối thế. Vị thế con người ở ngay trong chính anh. Nếu không có những con ốc, thì không bao giờ có bộ máy.”
Nguyễn nói: “Tôi là con người tự do.”
Từ Hải nói: “Vứt mẹ cái tự do của anh đi.”
Từ Hải đi tìm một Từ Hải khác. Những Từ Hải khác này tiếp tục đi tìm nhau. Nhưng bởi vì họ là Từ Hải, họ không chấp nhận “trên đầu có ai”. Vì thế, họ vẫn chỉ là một đám đông tuy cùng một xu thế nhưng không thể có chung một hành động, thậm chí nhiều khi còn chống phá lẫn nhau. Điều trớ trêu nhất, chính những kẻ té nước theo mưa lại làm nên một phong trào phản kháng quyết liệt. Nó xô đổ mọi thành lũy văn hóa và chính trị giáo điều kiên cố nhất bằng sự dung tục của ngôn ngữ.
Nguyễn linh cảm một sự đổi thay to lớn bắt đầu từ sự nổi loạn của ngôn ngữ đang trở nên phổ quát trong xã hội. Nguyễn cũng không mường tượng được sự đổi thay đó là suy đồi hay giải phóng, nhưng chàng tin vào cái thiên bẩm hướng đến sự toàn thiện của con người, cho dù đã có những dân tộc phải diệt vong vì sự sai lầm của mình.
Nói càng tục càng sướng. Mã Kiều Nhi, Thúy Kiều và Đạm Tiên đều bảo vậy, bởi vì nói càng tục thì càng có tính cách mạng và gần với tính bản nhiên hơn. Sở Khanh cho rằng, nói tục chỉ là một trạng thái biểu lộ cái tự ti cùng cực, nó không dẫn đến bất cứ một cuộc cách mạng nào, cho dù là giải phóng bản thân. Nhưng Thúc Sinh lại khoác cho việc nói tục nhiều ý nghĩa. Trước hết, nói tục biểu lộ sự miệt thị đối với cái không phải là ta. Miệt thị cái xã hội anh ta đang sống. Nó thể hiện một thái độ chính trị của sự bất mãn và phủ nhận cái thế lực đang đè đầu cưỡi cổ anh ta. Một chế độ cai trị càng hà khắc thì sự tục tĩu trong ngôn ngữ càng phổ biến. Hiện tượng tục tĩu trong ngôn ngữ do đó là một biện chứng, nó thúc đẩy sự thay đổi, bởi chính nó là sự thay đổi. Một nhà nước suy đồi, ngôn ngữ không chỉ lươn lẹo mà còn rập khuôn. Ông ta đưa ví dụ: mô hình “kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa” của chế độ cộng sản khi buộc phải thay đổi, hoặc mô hình “phát thanh có hình” của đài tiếng nói nhân dân khi muốn bon chen với bọn truyền hình. Một nền chính trị lành mạnh, ngôn ngữ cũng sẽ trong sáng hơn. Thúc Sinh có vẻ như nắm biết tình hình, nhưng ông ta chỉ hành động thuận theo quyền lợi của mình.
Hồ Tôn Hiến không tỏ ra lo lắng nhưng ông ta tăng cường đề phòng. Bởi vì ông ta biết cái chết của một anh bán trái cây dạo như Mohamed Bouazizi ở Tunisia có thể làm nên một cuộc cách mạng. Tất cả mọi cuộc tụ tập đông người đều bị cấm đoán, bất kể vì lý do gì.
Nguyễn tự nghĩ, công việc tốt nhất có thể làm được là tiếp tục làm thư ký cho nông dân như anh đã từng làm và bị bắt. Viết những đơn khiếu nại. Viết những biểu ngữ. Viết những kiến nghị, tuyên ngôn, tuyên cáo… Nhưng ngay khi đó Kim Trọng đã xuất hiện, ông ta nói với Nguyễn: “Nếu ông muốn sống yên thân và chơi gái thì hãy ở trong thành phố, sáng cà phê chiều nhậu, đừng dây dưa vào chuyện thiên hạ. Nếu ông muốn nổi loạn, cứ nổi loạn với chữ nghĩa. Nếu ông muốn làm người hùng, cứ làm người hùng trong văn chương. Nếu ông đi lạc chỗ, tụi tôi sẽ xử lý ông ngay.”
Nguyễn nói: “Lạc chỗ hay không đó là lựa chọn của tôi. Các anh không có quyền…”
Kim Trọng: “Anh biết là chúng tôi có quyền. Đi lạc chỗ đồng nghĩa với chống đối và chúng tôi sẽ xử lý anh.”
Nguyễn nói: “Đây là quyền của tôi: Cút khỏi nhà tôi.”
Kim Trọng bảo: “Khi cần đuổi thì người đuổi sẽ là tôi chứ không phải anh.”
Nói xong Kim Trọng đi ra.
Nguyễn cảm thấy muốn hút một điếu thuốc. Lâu lắm rồi Nguyễn không hút thuốc.
Nguyễn hỏi Mã Kiều Nhi: “Em có muốn về quê sống với anh không?”
Mã Kiều Nhi hỏi lại: “Anh trồng rau, em mở tiệm hớt tóc massage phục vụ cho các anh giai làng, được không?”
Nguyễn nói: “Anh mở dịch vụ vi tính, viết thuê. Còn em làm gì thì tùy.”
Mã Kiều Nhi nói: “Cuộc cách mạng nông thôn cần bắt đầu từ nữ quyền.”
Nguyễn bảo: “Ý tưởng không tồi.”
Mã Kiều Nhi nói: “Làm đĩ là một quyền mưu sinh chính đáng. Nhưng em sợ rằng anh sẽ mất hết uy tín khi trong nhà ông cách mạng có người làm đĩ.”
Nguyễn bảo: “Anh không phải nhà cách mạng. Anh chỉ muốn làm một cái gì đó như phục vụ công ích.”
Mã Kiều Nhi nói: “Bọn công an không để cho anh muốn làm gì thì làm đâu. Tội gì cũng có thể hối lộ cho qua được, nhưng tội làm cách mạng thì không. Nếu anh không trả giá thì anh sẽ không làm gì được.”.
Nguyễn nói: “Anh không làm cách mạng. Có muốn cũng không làm được.”
Mã Kiều Nhi bảo: “Vậy thì anh cứ sáng cà phê, chiều nhậu, tối kiếm gái ngủ là tốt nhất”.
Người nông dân nổi dậy đã ngồi tù. Vương Thúy Kiều nói: “Về nông thôn, em có nguy cơ sẽ phải bán mình lần nữa để chuộc cha bởi bọn cường hào ác bá ở địa phương bây giờ ác hơn thời xưa. Nhưng em nói rồi, Vương viên ngoại còn có thể chuộc được, chứ Từ Hải hay anh chỉ có cách chết đứng hoặc để cho người ta xử tùy tiện thôi. Cả hai cách đều dở. Anh nên quên cái cơn lãng mạn nửa mùa ấy đi.”
Nguyễn hút thuốc. Và chàng cay đắng quăng điếu thuốc đi. Nhưng rồi chàng lại đốt điếu khác. Đốt nhiều điếu khác cho đến khi chàng trở nên khô rỗng.
Vương Thúy Kiều lại nói: “Đàn ông làm cách mạng chỉ đưa nhân loại đến chỗ khốn cùng.”
Nguyễn quăng linh hồn vào bóng tối và chàng lấy dao rạch lên những quyển sách, móc từng chữ ra khỏi trang giấy.
Vương Thúy Kiều nói: “Đàn bà làm cách mạng không phải lồn hoang độc lập, tự do, hạnh phúc và đái ỉa vào mọi giáo điều như bọn đàn ông nói.”
Nguyễn nhét từng con chữ cho vào miệng. Nhai rồi nhổ.
Vương Thúy Kiều nói: “Không phải đàn bà nằm trên là nữ quyền. Nhưng nó là khởi đầu cho mọi cuộc cách mạng khác.”
Nguyễn tiếp tục ăn những con chữ rồi nhổ ra.
Vương Thúy Kiều nói: “Hãy làm điều mình muốn.”
Người nông dân nổi dậy ngồi tù. Chữ nghĩa cũng nằm tù. Nông dân không nhai chữ. Nhà văn không cạp đất. Đạm Tiên ngồi thiền trong am con nhện. Vương Thúy Kiều ăn chay trường. Mã Kiều Nhi lần tràng hạt. Sở Khanh tịnh khẩu. Kim Trọng tập dưỡng sinh. Thúc Sinh luyện kiếm. Từ Hải đọc sách Phật.
Hồ Tôn Hiến một tay cầm búa, một tay cầm liềm. Ông giơ búa lên hét: “Đập tan xiềng xích.” Nhưng khi xiềng xích tan, ông đội lên đầu cái búa và ông ta làm xiếc. Ông bảo cái búa là thiêng liêng, không để búa rời khỏi đầu mình kể cả lúc ngủ. Còn cái liềm, thật ra chưa bao giờ ông dùng đến nó, cuối cùng ông lấy nó làm vật trang sức đeo ở cổ.
Nguyễn nhìn thấy mọi điều sáng rõ. Mỗi một người chàng gặp, chàng đều nhìn thấy cái tinh tướng súc vật của họ hiển lộ như hình và bóng. Thế giới trở nên chật chội và đầy ắp. Đôi khi leo lên cây, Nguyễn càng cảm thấy chật chội và đầy ắp hơn. Chập chùng những phóng ảnh của con người. Nguyễn chỉ thấy yên ổn khi nằm sát xuống đất, mặc dù có rất nhiều bàn chân bước lên người chàng. Đôi khi bị đè bẹp, Nguyễn thấy từ sâu thẳm một khoái cảm nhẫn nhục.
Người và súc sinh quấn lấy nhau. Đạm Tiên bảo nghiệp chướng duyên khởi chưa dứt, cần phải lấy máu mà rửa. Máu lồn là máu không oán cừu, hãy dùng nó mà thanh tẩy. Cả người và súc sinh đều mơ những giấc mơ thần thánh. Nhưng thần thánh đã bị đánh tráo. Vì thế, bọn súc sinh vẫn được tôn làm thánh. Và thánh thần thì bị che mắt nên bỏ mặc con người lầm than trong cõi chết.
20.
Từ Hải lại gặp Nguyễn nói: “Chúng ta phải tự cứu. Hôm nay người nông dân vì giữ đất của mình mà vào tù. Ngày mai vì chữ nghĩa của anh, anh cũng sẽ vào tù. Chúng ta bị cướp đoạt từ tài sản đến phẩm cách. Chúng ta không thể im lặng nhịn nhục gìn giữ sự ổn định thống trị của bọn lưu manh trên sự bất công và tàn ác mãi. Anh cần phải làm một cái gì đó.”
Nguyễn nói: “Những gì cần phải viết, tôi đã viết rồi.”
Từ Hải bảo: “Một tay anh cầm viết, tay kia anh cần phải biết cầm búa.”
Nguyễn cười: “Còn cái liềm thì cắt bằng chân?”
Từ Hải nói: “Vứt mẹ nó cái hình ảnh và quan điểm giai cấp điếm thúi ấy đi.”
Nguyễn bảo: “Vâng. Công dân là đủ.”
Từ Hải nói: “Nhân việc anh nông dân vào tù, tôi muốn nhờ anh soạn giùm một cái tuyên ngôn tự do. Tự do cho nông dân. Tự do cho tất cả chúng ta. Anh viết thế nào thì tùy, điều quan trọng là không để sơ hở tạo cớ cho tụi nó bắt anh hay bắt những người ủng hộ tuyên ngôn đó.”
Nguyễn bảo: “Để tôi suy nghĩ.”
Từ Hải nói: “Đừng để vuột mất cơ hội cất tiếng nói.”
Nguyễn bảo: “Tôi biết những kiến nghị, những tuyên ngôn chẳng có giá trị gì đối bọn vừa điếc vừa mù. Nhưng quả thật, trước hết chúng ta cần phải nói với nhau, cho nhau về sự thật và khát vọng thay đổi.”
Từ Hải nói: “Đúng. Nếu chúng ta muốn thay đổi nhưng không hành động cho sự thay đổi thì sẽ không bao giờ có sự thay đổi.”
Không phải Nguyễn. Không phải Từ Hải. Trong chảo lửa của sự phẫn uất và lương tâm công chính, một loạt các tuyên ngôn cho công lý và tự do công dân đã xuất hiện trên các trang mạng xã hội, tuyên bố quyền xã hội dân sự và đòi hỏi thay đổi thể chế cũng như công lý cho những người bị tù tội.
Những tuyên ngôn không làm rung rinh chế độ nhưng nó biểu thị sự bất tín nhiệm và tạo ra áp lực thay đổi đối với Hồ Tôn Hiến ngày càng lớn.
Từ Hải gặp Nguyễn, hắn nói: “Làm thế nào tạo ra một phong trào bất tuân rộng khắp, đồng thời sẵn sàng phản ứng khi có cơ hội thuận lợi?”
Nguyễn bảo: “Nếu biết liên kết các sự kiện, nó có thể tạo ra hiệu ứng dây chuyền.”
Bỗng tỏ ra mừng rỡ, Từ Hải nói: “Tôi nghĩ ra rồi.”
Rồi hắn đứng lên và đi thẳng tới nơi những đám lửa đang cháy.
Từ Hải có mặt trong đám đông vây quanh một quan tài người dân vừa bị công an đánh chết. Từ Hải có mặt trong số dân oan khiếu kiện hoặc đòi chất vấn chính quyền về những vụ cưỡng chiếm đất đai. Từ Hải có mặt trong số những công nhân đình công đòi cải thiện bữa ăn trưa. Từ Hải có mặt trong số những sinh viên kêu gọi tẩy chay hàng độc hại Trung Quốc. Từ Hải đi biểu tình chống Trung Quốc xâm lấn biển. Từ Hải đồng hành với người mẹ đi tìm con trong lao tù. Từ Hải đi xe đạp treo bảng chống tăng giá xăng. Từ Hải lên tiếng đòi xử quan chức tham nhũng. Từ Hải cùng với người dân khiêng giường ra đường chống tăng viện phí. Từ Hải có mặt trước cửa các phiên tòa bất công, dối trá…
Lần nào Từ Hải cũng bị bắt và bị đánh trong đồn công an, nhưng chính quyền không bỏ tù được Từ Hải vì Từ Hải đứng về phía lẽ phải và ôn hòa bất bạo động.
Hồ Tôn Hiến nói: “Hãy bẻ chân bọn ngông cuồng.”
Và Từ Hải bị một lũ côn đồ tấn công. Chúng đón đường đánh hắn giữa phố ban ngày. Đánh bầm dập. Rồi bẻ chân hắn.
Cả thế giới nhìn thấy việc ấy và việc ấy cũng như hàng nghìn việc đê tiện tàn bạo khác không làm cho con người phẫn nộ hay xấu hổ.
Không chỉ có một Từ Hài, mà có rất nhiều Tư Hải khác cũng đã bị bẻ chân hoặc bẻ tay. Sau này, họ đã thành lập Hội Nạn nhân Bạo quyền với biểu tượng cái nạng để đi đá bóng, mặc dù không được cấp phép họat động nhưng không ai ngăn cản được họ chống nạng đá bóng và góp mặt trong các cuộc tranh đấu bất bạo động và hợp pháp.
Hồ Tôn Hiến nói: “Hãy thu gom tất cả nạng trên mặt đất cho vào lửa.”
Thế là không còn một cái nạng nào được chống ra đường. Những người tìm cách chống nạng bị qui kết là phản động, chống chính quyền.
Hội Nạn nhân Bạo quyền ra tuyên ngôn “Chúng ta là con người” và họ xuống đường bằng một chân hay một tay còn lại.
Hồ Tôn Hiến nói: “Bọn thú vật này không muốn sống.”
Thế là từng người một trong số họ dần dần mất tích cho đến khi không còn ai được gọi là nạn nhân bạo quyền.
Nhà nước của Hồ Tôn Hiến ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc và họ được chấp thuận.
Trong những ngày diễn ra những cuộc khủng bố và thủ tiêu nhóm nạn nhân bạo quyền, Thúc Sinh đã gặp Từ Hải. Ông ta nói: “Cậu phải biến đi.”
Thế là Từ Hải biến mất. Từ đó, bên cạnh Thúc Sinh có một nhân vật mới, Mã Giám Sinh. Trên danh thiếp của Mã Giám Sinh có hai chức danh: Giám đốc Công ty Xuất khẩu Lao động và Giám đốc Công ty Cung ứng Nhân sự và Dịch vụ gia đình.
Trên thực tế, Mã Giám Sinh chỉ làm cò cho Thúc Sinh trong vụ việc buôn người này. Hắn về các vùng nông thôn tuyển người và lấy tiền cò cả hai đầu. Chỉ số hạnh phúc của người Việt tăng vọt. Được đi lao động hay lấy chồng, làm ôsin ở nước ngoài là một giấc mơ huy hoàng.
Nguyễn bảo Mã Giám Sinh đáng được đúc tượng tôn thờ trong các đình làng bởi đã góp phần vào việc làm thay đổi bộ mặt nông thôn một cách sâu sắc.
Nhưng Đạm Tiên nói Mã Giám Sinh cạnh tranh không lành mạnh.
Mã Giám Sinh nói với các anh giai và chị gái: “Chỉ cần 2000 đô thế chân, các bạn sẽ đến thiên đường.”
Nghèo không đủ ăn, nhưng bằng cách nào đó, họ cũng xoay sở được 2000 đô nộp mạng cho Mã Giám Sinh. Nếu không bị lừa như họ đã từng bị lừa thì trả nợ không phải là điều quá khó.
Đối với các cô gái muốn tìm chồng ngọai, Mã Giám Sinh tuyệt đối trung thành với cam kết “gìn giữ nguyên trạng” của các cô với khách hàng. Nhưng hắn tận dụng ưu thế của mình để kiểm tra “hàng” một cách thích đáng. Các ứng viên được yêu cầu phải tự lột truồng và trình diễn khả năng làm vợ. Mã Giám Sinh nói đó là điều thú vị và xứng đáng duy nhất để hắn hạ cố với nhân dân.
21.
Một trong số hàng ngàn cô gái được xuất khẩu lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan đã làm Mã Giám Sinh kinh ngạc. Khi casting, cô tỏ ra đam mê và tao nhã lạ thường. Khuôn mặt biểu cảm của một thiên bạc mệnh không thể không làm cho Mã Giám Sinh chạnh lòng nhớ đến Vương Thúy Kìều, người mà hắn đã đưa vào lầu xanh ở Lâm Truy ngày nào. Mã Giám Sinh xét hỏi lý lịch cô. Cô gái cho biết cô chính là con của Vương Thúy Kiều, cháu của Vương viên ngọai, nhưng cô không biết cha là ai. Ngay sau đó, Mã Giám Sinh đưa cô gái về phòng mình trong khách sạn và cắt tiết cô cũng như ngày xưa hắn đã cắt tiết Vương Thúy Kiều.
Trả lại cô gái 2000 đô tiền thế mạng, hắn hỏi cô: “Bây giờ cô muốn sống với tôi hay vẫn thích lấy chồng ngoại?”
Cô gái thành thật thưa: “Dạ, cho em lấy chồng ngoại.”
Hắn gặn hỏi tiếp: “Tại sao?”
Cô gái nói: “Em sợ cái cảnh thằng chồng sáng say chiều xỉn, xách cây đánh vợ lắm.”
Mã Giám Sinh bán cô cho một người Đài Loan.
Phóng viên báo Cướp Giết Hiếp phỏng vấn Mã Giám Sinh:
- Thưa ông, trải nghiệm về trinh tiết phụ nữ của ông thế nào?
- Người ta vẫn cho rằng phá trinh một cô gái sẽ mang lại may mắn theo một niềm tin đã có từ lâu đời. Nhưng với tôi đó chỉ là một cảm giác về sự hãm hiếp. Tất nhiên hãm hiếp cũng là một kinh nghiệm quí báu về sức mạnh nam giới và quyền lực xã hội.
- Giả dụ đặt trường hợp ông là người bị hãm hiếp thì sao ạ?
- Anh cứ hiểu ngược lại là được.
- Ông cho rằng người này có quyền hãm hiếp người khác?
- Ồ, cái đấy thì tùy.
- Tùy là sao ạ?
-Thứ nhất là người ta có sẵn sàng cho anh hiếp không? Anh có muốn nghe ví dụ không? Thứ hai, đấy là vấn đề dân trí. Dân trí để cho anh hiếp thì tại sao anh lại không hiếp?
- Trở lại với vấn đề trinh tiết, xin hỏi ông: trinh tiết có thực sự là cái ngàn vàng không?
- Không, tôi nghĩ là cần điều chỉnh theo thời giá.
- Ông không tin vào vấn đề nữ quyền?
- Ồ, cái đó chỉ có giá trị trong các cuộc tranh cử ở các nước dân chủ phương Tây.
- Các công ty của ông chủ yếu là xuất khẩu lao động và phụ nữ. Phải chăng đây là một hình thức buôn bán người?
- Nếu là buôn bán người thì sao? Tôi cho rằng đây chỉ là vấn đề ngôn từ. Không cần phải đạo đức giả anh bạn ạ. Nếu chúng ta gọi đó là trao đổi hay giao lưu, hoặc thậm chí là chia sẻ thì sẽ lành mạnh hơn chăng? Hãy nhìn vào thực tế, các lao động của ta ở nước ngoài và gia đình họ có vui mừng không? Các cô dâu của ta ở nước ngoài và gia đình họ có hạnh phúc may mắn không?
- Tiềm năng về nhân sự của Việt Nam trong lãnh vực nào ông cho là triển vọng nhất?
- Chúng ta có nhiều nhà lãnh đạo kiệt xuất, chúng ta cũng có những nhà làm chính sách vĩ đại. Đấy là một tiềm năng xuất khẩu có giá trị kinh tế chính trị và ngoại giao rất lớn. Nếu xuất khẩu được loại hàng hóa này, cục diện thế giới sẽ thay đổi và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế có thể vượt lên hàng top.
Tú Bà nói với Mã Giám Sinh: “Thị trường gái gú toàn cầu đang có thị hiếu hoang dã. Đây là cơ hội lớn của chúng ta. Ông sai bọn lâu la ra các bến xe, bến tàu hốt hết đám gái quê lên tỉnh về cho tôi.”
Mã Giám Sinh bảo: “Chỗ đâu mà chứa?”
Tú Bà nói: “Ông không cần lo chuyện đó. Chỉ cần đưa chúng nó về công ty ông chụp hình làm hồ sơ, trong vòng nửa tiếng sẽ có xe đưa bọn chúng qua biên giới.”
Mã Giám Sinh hỏi: “Đếm người lấy tiền?”
Tú Bà nói: “Đúng vậy. Nhưng tôi còn muốn làm một điều lớn lao hơn là kiếm tiền.”
Mã Giám Sinh: “Cuộc cách mạng tình dục không giới hạn?”
Tú Bà: “Nó chẳng phải là cuộc cách mạng gì cả, mà là sự hoàn nguyên bản ngã. Tôi muốn hóa giải tính chính xác vô cảm của nền văn minh kỹ thuật, đưa con người trở lại với sự mê cuồng mông muội của tình cảm ban sơ cốt đột mặn nồng vô văn hóa.”
Mã Giám Sinh: “Phần tôi bao nhiêu phần trăm?”
Tú Bà: “Ông muốn lấy bao nhiêu cũng được. Nhưng cứ bỏ vào tài khoản của tôi là yên chuyện. Ông có muốn yên chuyện không?”
Mã Giám Sinh: “Tôi chỉ hỏi cho biết thôi.”
Tú Bà: “Nhân tiện, tôi cũng cho ông biết luôn. Hồ Tôn Hiến mới gặp tôi. Ông ta muốn mở một con đường hoa bướm xuyên Âu Á. Đây sẽ là một trong hai mũi giáp công làm lũng đoạn thế giới.”
Mã Giám Sinh: “Mũi giáp công thứ hai là con đường tâm linh xuyên thế kỷ?”
Tú Bà hỏi: “Sao ông biết?”
Mã Giám Sinh cười: “Hãy nhớ điều này: Đểu cáng thì không ai bằng Mã Giám Sinh.”
Hồ Tôn Hiến nói với người mang mặt nạ: “Ông mang cục gạch này tìm cách chôn vào chân cột ngay chính điện Đền Hùng.”
Người mang mặt nạ hỏi: “Có cần tiến hành một nghi thức nào đi kèm không?”
Hồ Tôn Hiến nói: “Không.”
Người mang mặt nạ hỏi tiếp: “Cần chọn ngày giờ không?”
Hồ Tôn Hiến nói: “Không.”
Người mang mặt nạ tự hiểu quyền năng của cục gạch là vô song.
Hồ Tôn Hiến nói tiếp: “Việc thứ hai cần làm ngay là ông cho tu sửa lại Đền Hùng và tuyên bố phát hiện cục gạch lạ. Sau đó, cứ để cho nó diễn tiến tự nhiên. Không can thiệp.”
Người mang mặt nạ thi hành đúng những gì Hồ Tôn Hiến sai bảo.
Cục gạch đã trở thành huyền thoại sau khi được phát hiện chôn giấu trong Đền Hùng. Đầu tiên, người ta báo cáo chính phủ và giữ bí mật việc phát hiện ra cục gạch lạ, trước khi biết mục đích và ý nghĩa của nó. Chính phủ giao cho các nhà tâm linh học và cảm xạ học nghiên cứu giải mã. Những nhà nghiên cứu này không tìm được bất cứ liên hệ nào giữa các biểu tượng và ngôn ngữ lạ thường trên cục gạch với những gì họ biết. Các nhà khoa học vào cuộc cũng chỉ biết được niên đại cục gạch ra lò. Vì thế, những người thông thái nhất đã suy đoán theo cảm quan, trực giác rằng bọn quân Nguyên đã yểm cục gạch trong Đền Hùng nhằm trả thù ba lần thua trận ở An Nam.
Đến lúc Hồ Tôn Hiến vào cuộc. Ông ta sai người tìm một cục đá mẹ và 2301 cục đá con có nhiều vượng khí và năng lượng vũ trụ, rồi vẽ bùa chú mật tông cho những cục đá đó. Cục đá mẹ đặt giữa Đền Hùng, 2301 cục đá con được đặt dưới chân các cột cây số dọc Quốc lộ 1 trong một lễ cúng trọng thể mang tầm vóc quốc gia.
Theo báo chí, những bùa chú này ngoài việc hóa giải bùa yểm của người Tàu, còn mang ý nghĩa cầu cho quốc thái dân an, xã tắc trường tồn.
Nhưng ý nghĩa thật sự của các bùa chú trên cục đá mẹ và 2301 cục đá con chỉ có ba người biết. Đó là Hồ Tôn Hiến, người thực hiện ý đồ, Mã Giám Sinh thỉnh bùa chú từ Tây Tạng và Đạm Tiên, người cầu viện âm binh. Điều này được giữ bí mật tuyệt đối bởi nó liên quan đến tham vọng của Hồ Tôn Hiến về quyền bính.
Cục gạch lạ thay vì nằm dưới đất, giờ đây được đặt trong bảo tàng quốc gia và nằm đúng vị trí long mạch của thế giới.
Hồ Tôn Hiến bảo: “Hồ Tôn Hiến sống mãi trong sự vinh quang của cục gạch lạ.”
Còn những người khác như Thúc Sinh, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Kim Trọng, kể cả Từ Hải vẫn chỉ bày tỏ một tâm nguyện duy nhất: “Còn Hồ Tôn Hiến, còn mình.”
Đầu thế kỷ 20, Hồ Tôn Hiến tự xuất khẩu lao động. Ông đã đến Mỹ, Anh và dừng chân ở Pháp. Từ một người đi giao báo, ông đã trở thành người viết báo và được một người đồng hương giúp đỡ biên tập. Ông mau chóng nổi tiếng như một người chống chủ nghĩa thực dân. Nhưng tờ báo ở xứ sở thực dân không nuôi sống được ông vì thế trong cái giá buốt của Paris, ông tồn tại được nhờ một cục gạch. Cục gạch không thể ăn, nhưng cục gạch hâm nóng đã cứu ông khỏi chết rét. Đêm đêm, ông ôm cục gạch nóng ngủ. Những lúc thao thức, ông trò chuyện với cục gạch và nó trở nên thân thiết với ông. Tất cả những gì ông thổ lộ với cục gạch đều được nó ghi sâu trong đáy lòng. Nhưng đáy lòng của cục gạch dù sao vẫn có giới hạn của một thể tích nhỏ bé, vì thế những tâm sự của ông đã nhanh chóng đầy lên trong cục gạch. Cho đến khi hết sức chứa, những khát vọng cháy bỏng của ông hiện lên trên bề mặt cục gạch thành những hình thù kỳ quái.
Hồ Tôn Hiến luôn mang theo cục gạch bên mình, bởi vì chẳng có ai trên cõi đời này để ông tin hơn nó.
Sau này, câu chuyện về cục gạch đã có nhiều dị bản. Những người từng gặp ông ở Paris bảo, cục gạch ấy là một cô gái người Nga.
22.
Nguyễn nằm bẹp trong nhà Mã Kiều Nhi. Chưa bao giờ cái cảm giác về sự tồn tại lại nặng nề đến thế. Còn Hồ Tôn Hiến thì không có mình, Nguyễn nghĩ. Nhưng thật ra, chưa bao giờ chàng đem mình lên thớt để qui chiếu với Hồ Tôn Hiến, cho dù sự tồn tại không bao giờ không là một tương quan. Từ Hải từng nói với Nguyễn: “Sự hiện hữu của Hồ Tôn Hiến, xét cho cùng, cũng là bởi chúng ta.” Với Nguyễn, Hồ Tôn Hiến dù thế nào vẫn là một nhân vật tiểu thuyết. Nhưng nhận vật ấy đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của chàng, một tai nạn của bệnh tiêu chảy, trở thành một tác nhân độc lập và hành xử theo cách của hắn. Nguyễn biết, không có cách nào khác để loại trừ hắn là để chính cái hệ thống đang vận hành hắn xử hắn. Tính cách trí thức của chàng, như thế một lần nữa, đè bẹp chàng. Thay vì đóng vai trò của một chủ thể lịch sử, chàng buông xuôi cho cái hệ thống mù lòa ấy đưa đẩy.
An nhiên tự tại hay từ khước chính mình cũng chỉ là một cách trốn chạy thực tại.
Ngoài kia. Không phải Từ Hải, không phải Mã Kiều Nhi hay Thúy Kiều, không phải Thúc Sinh hay Mã Giám Sinh. Họ đang ngồi trên bãi cỏ công viên. Đa phần còn rất trẻ, họ nói với nhau và hỏi nhau: Chúng ta là ai? Chúng ta đã sống như thế nào? Chúng ta có muốn thay đổi không và đã làm gì để thay đổi? Lịch sử thuộc về chúng ta hay do người khác định đoạt?
Tại sao họ không ngồi trong một căn phòng cửa đóng kín cho an toàn? Để trả lời cho câu hỏi chúng ta là ai, họ cần phải trưng bày khuôn mặt của mình giữa ánh sáng. Muốn biết chúng ta đã sống như thế nào, họ cũng cần phơi bày sự thật giữa ánh sáng. Để thể hiện ước muốn của mình, họ cần công khai chia sẻ trong ánh sáng. Và để lịch sử là lịch sử của chúng ta, họ cần cho người khác biết sự liên đới trong cuộc sống và vì sự liên đới cần rộng lớn thêm mỗi ngày, họ để ngỏ vòng tay và chỗ ngồi mời gọi liên kết và hành động như ánh sáng.
Họ nhất thiết phải công khai và minh nhiên, bởi chúng ta là tự do và chúng ta không sợ hãi. Cho dù, bọn an ninh quây họ trong hàng rào kẽm gai và chó nghiệp vụ tấn công họ.
Máu và thịt họ vương vãi. Ngoài kia. Họ không vì thế mà tiêu tan. Máu thịt sản sinh máu thịt. Cho đến khi họ biết chúng ta là gì, máu thịt vẫn không ngừng sản sinh. Và họ tiếp tục hỏi và nói với nhau: Chúng ta là ai? Chúng ta đã sống như thế nào? Chúng ta có muốn thay đổi không và đã làm gì để thay đổi? Lịch sử thuộc về chúng ta hay do người khác định đoạt?
Nguyễn đã nhìn thấy họ và chàng viết, họ từ trong những ngõ hẻm bước ra, tất cả đều đi đến chỗ quảng trường rộng lớn của thành phố, trên ngực áo của họ có dòng chữ “Chúng ta là tự do” và phía sau lưng của họ là dòng chữ “Không sợ hãi”. Họ càng lúc càng đông. Tiếng hét của họ làm rung chuyển mọi mái nhà. Cho đến lúc ấy, không còn ai có thể ngồi yên. Tất cả mọi người đổ ra đường. Và họ reo lên “Chúng ta là tự do”.
Từ Hải gặp Nguyễn hỏi: “Ông có nghĩ rằng Bắc Kinh sẽ đem quân và xe tăng vượt biên giới để bảo vệ Hồ Tôn Hiến không?”
Nguyễn bảo: “Điều này tùy thuộc vào Hồ Tôn Hiến.”
Từ Hải nói: “Chính Hồ Tôn Hiến sẽ phải vượt biên giới để bảo toàn tính mạng.”
Nguyễn bảo: “Cũng có thể.”
Từ Hải nói: “Tiểu thuyết của ông có thể chấm dứt ở đây được rồi đấy.”
Nguyễn nói: “Còn một kịch bản khác.”
23.
400 lượng vàng (thực chất là vàng 18k) do Thúy Kiều bán mình chuộc cha, một phần làm của hồi môn cho Thúy Vân lấy chồng, phần còn lại giúp cậu út Vương Quan ăn học thành tài. Cùng khởi nghiệp với chức quan huyện như Kim Trọng, nhưng hoạn lộ của Vương Quan có phần trắc trở hơn. Với lý lịch chị làm đĩ, trong quan trường, Vương Quan không được kính trọng, thậm chí bị ngờ vực, mặc dù anh đã cúc cung tận tụy phục vụ triều đình.
Đồng chí trưởng ban tổ chức nhân sự của triều đình bảo Vương Quan thiếu lập trường giai cấp. Quả thật, trong cách ứng xử với nhân dân, bao giờ Vương Quan cũng nhớ đến thân phận chị Thúy Kiều và thảm kịch gia đình của mình. Cái nhân hậu của chàng, vì thế là một lực cản không đáng có của một quan chức chính quyền.
Cho đến năm 2012, Vương Quan vẫn chỉ là một quan huyện của một thành phố cực nam.
Thúc Sinh gặp Vương Quan nói: “Chúng tôi không quên cậu. Cậu vẫn an khang chứ?”
Vương Quan thành thật thưa: “Sức khỏe vẫn tốt nhưng an khang thì có lẽ không.”
Thúc Sinh vờ vịt: “Sao thế? Cậu không có gì hài lòng?”
Vương Quan nói: “Ơn mưa móc của triều đình, cuộc sống của tôi cũng thỏa đáng.”
Thúc Sinh nói: “Tôi hy vọng cậu không còn phiền muộn. Việc của Thúy Kiều xưa kia, dù sao cũng đã là quá khứ.”
Vương Quan chua chát: “Vâng, hiện tại cũng không khác mấy.”
Thúc Sinh nói: “Đây chính là lý do tôi tìm gặp cậu.”
Vương Quan: “Tôi xin lĩnh giáo.”
Thúc Sinh: “Chắc cậu cũng đã biết, tình hình đang rối tung rối mù. Thù trong giặc ngoài lăm le, chỉ cần một ngọn lửa nhỏ cũng có thể làm bùng cháy thiêu đốt cả chế độ. Uy tín của triều đình không còn. Một là chúng ta phải tự thay đổi, hai là dân chúng sẽ lật đổ chúng ta. Theo cậu, phương án nào tốt nhất để thoát ra khỏi tình cảnh này?”
Vương Quan nói: “Tôi chỉ là một chức quan nhỏ. Không dám lạm bàn.”
Thúc Sinh bảo: “Nói thật với cậu, trong mọi tầng lớp cán bộ lãnh đạo của chúng ta hôm nay, không một ai không nhúng chàm. Người duy nhất có bàn tay sạch là cậu. Cậu chính là giải pháp để tái tạo niềm tin trong dân chúng. Vì thế, chúng tôi sẽ đưa cậu về trung ương. Mong cậu nhận lời kỳ vọng của toàn thể triều đình.”
Vương Quan thẳng thắn: “Làm bung xung cho các bác à?”
Thúc Sinh: “Thượng phương bảo kiếm sẽ được giao cho cậu.”
Vương Quan: “Thượng phương bảo kiếm để chém Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh, Sở Khanh… hay chém gió, hoặc để chém nhân dân?”
Thúc Sinh bình tĩnh nói: “Cậu đã đi đúng vào tâm điểm của vấn đề. Và chắc chắn cậu biết, chúng ta không thể chém bất cứ ai trong số đó. Thượng phương bảo kiếm chỉ là một biểu tượng thôi mà.”
Vương Quan: “Vậy thì tôi sẽ phải sử dụng thượng phương bảo kiếm như thế nào?”
Thúc Sinh: “Đây là một kịch bản phức tạp. Chúng ta trước hết cần tự bảo vệ mình, bảo vệ chế độ, sau đó làm hài lòng dân chúng, hóa giải mọi chống đối của bọn dân chủ.”
Vương Quan: “Một chế độ không Hồ Tôn Hiến nhưng vẫn là Hồ Tôn Hiến?”
Thúc Sinh: “Gần đúng như thế. Nhưng chúng ta không thể thuyết phục Hồ Tôn Hiến từ chức.”
Vương Quan: “Vậy thì chẳng làm gì được. Không có hy sinh thì không giải quyết gì được.”
Thúc Sinh: “Bản lĩnh của chúng ta, sự khôn khéo của chúng ta, sự nghiệp của chúng ta không cho phép chúng ta thua cuộc.”
Vương Quan: “Vai trò của tôi ở chỗ nào?”
Thúc Sinh: “Chúng tôi không cần cậu phải làm gì. Vai trò của cậu sẽ là biểu tượng cho sự thay đổi.”
Vương Quan được đưa về trung ương với chức vụ Trưởng ban Thanh tra Quốc gia. Ra mắt báo chí, Vương Quan nói: “Tôi đến để làm sạch sẽ ngôi nhà chung của chúng ta. Tất cả những ai bôi bẩn ngôi nhà sẽ bị trừng phạt”. Anh được tán thưởng, nhưng cũng không ai kỳ vọng gì ở anh. Bởi ai cũng biết, sự dơ bẩn của căn nhà là bản chất của các chất liệu xây dựng nên nó, vì thế không thể lau chùi ngoài một cách duy nhất là đập đổ nó và xây lại bằng các chất liệu khác.
Ngôi nhà chung ấy càng lúc càng bốc mùi hôi thối.
Vương Quan gặp Thúc Sinh nói: “Tôi không thể chịu đựng nổi cái mùi của nó.”
Thúc Sinh bảo: “Không phải chỉ có cậu không chịu đựng nổi. Ngoài kia, dân chúng cũng không chịu đựng nổi. Họ đang cầm đuốc chạy đến và đòi đốt nhà của chúng ta.”
Vương Quan nói: “Và chúng ta sẽ chết cháy theo nó?”
Thúc Sinh bảo: “Không, đây là lúc cậu phải hành động.”
Vương Quan cười nhạt: “Tôi có thể làm gì?”
Thúc Sinh bảo: “Cậu hãy giương thượng phương bảo kiếm lên, chúng tôi ủng hộ cậu.”
Vương Quan đến gặp Kim Trọng: “Tôi cần anh giúp đỡ.”
Kim Trọng hỏi: “Chuyện gì?”
Vương Quan nói: “Đây là chuyện trong nhà, nếu anh không đồng ý thì coi như tôi chưa nói gì với anh. Nhưng tôi hy vọng anh sẽ cộng tác. Như anh biết, tôi vẫn ấm ức về vụ chị Thúy Kiều xưa kia. Nỗi đau của anh cũng như nỗi nhục của gia đình chúng ta đến lúc cần phải được thanh tẩy. Hơn nữa, dân chúng cũng đang nổi loạn, đây là cơ hội để chúng ta rửa hận. Hồ Tôn Hiến và Mã Giám Sinh phải bị quăng vào lửa. Ngay trước khi tôi công bố tội trạng của chúng, anh phải bắt được cả hai. Nếu thất bại, anh biết hậu quả sẽ ra sao…”
Kim Trọng nói: “Trong thế tương quan lực lượng hiện nay, chỉ có thể hạ bệ Hồ Tôn Hiến được thôi. Đụng đến Mã Giám Sinh, chúng ta sẽ đụng đến toàn bộ hệ thống.”
Vương Quan bảo: “Thôi thế cũng được. Thằng Mã Giám Sinh tính sau.”
Dựa trên biên bản thanh tra quốc gia, Hồ Tôn Hiến đã bị Quốc hội phế truất và Viện Kiểm sát Tối cao truy tố về tội lạm quyền gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế quốc gia và an ninh tổ quốc.
Trước ngày xảy ra phiên tòa xét xử Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh vào trại giam đưa cho Hồ Tôn Hiến một chai thuốc độc.
Mã Giám Sinh hỏi: “Ông còn nhớ cái bùa chú mật tông thỉnh từ Tây Tạng trên cục đá mẹ ở Đền Hùng và 2301 cục đá con xuyên Việt không?”
Hồ Tôn Hiến nói: “Nhớ. Mày đã đánh tráo nó?”
Mã Giám Sinh bảo: “Phải. Muôn năm trường trị là của Mã Giám Sinh chứ không phải Hồ Tôn Hiến.”
Nghe xong, Hồ Tôn Hiến hộc máu tung tóe, tim ngừng đập. Tuy nhiên, Mã Giám Sinh vẫn đổ hết chai thuốc độc vào miệng Hồ Tôn Hiến.
Lịch sử ghi: Năm Gia Tĩnh thứ 43 (1565), Hồ Tôn Hiến bị bắt giam. Đến ngày 3 tháng 11 năm ấy, Hồ Tôn Hiến uất ức tự vẫn, chết trong ngục.
4.2013
© 2013 Nguyễn Viện & pro&contra
May 9, 2013
Đĩ thúi (4)
Nguyễn Viện
Tiểu thuyết
12.
Hồ Tôn Hiến ném chai rượu vào tường. Tiếng thủy tinh vỡ sắc nhọn. Đạm Tiên dâng một chai rượu khác, Hồ Tôn Hiến tiếp tục ném vào tường. Khi Hồ Tôn Hiến mỏi tay, thẫn thờ… Đạm Tiên cởi quần áo cho Hồ Tôn Hiến và dìu ông vào phòng tắm. Nàng tắm cho Hồ Tôn Hiến như một người mẹ tắm cho con. Nàng hát nho nhỏ bài ru ca dao. Đạm Tiên biết, sau những cơn điên loạn, nước mát và những bài hát ca dao sẽ làm cho tâm hồn Hồ Tôn Hiến bình an và biến ông thành một đứa bé ngoan ngoãn. Cuộc làm tình sau đó cũng chỉ kết thúc trên đỉnh cao khi Hồ Tôn Hiến đạt được cảm thức của một thứ tình mẫu tử. Đạm Tiên phục vụ Hồ Tôn Hiến như một nô tì và ban phát dục tình như một nữ chúa. Hồ Tôn Hiến không mưu cầu thuật trường sinh bất lão nơi các cô gái trẻ, ông ta cần an nghỉ với một người giàu trải nghiệm.
Tuy không am tường về chính trị, nhưng Đạm Tiên biết nỗi cô đơn của Hồ Tôn Hiến. Cái chỗ dựa lưng tưởng vững chắc của Hồ Tôn Hiến là Gia Tĩnh thật ra lại là mối lo ngại lớn nhất, bởi vì bất cứ lúc nào Gia Tĩnh cũng có thể thay ngựa giữa dòng. Vả lại dựa vào Gia Tĩnh, Hồ Tôn Hiến phải trả cái giá rất đắt, một là mất tính chính nghĩa, hai là sẽ bị cái đám “không phải ta, không phải địch” tẩy chay. Bọn thù địch tất nhiên một mất một còn, nhưng dẫu sao vẫn là trực diện, có thể chiến đấu. Sợ nhất là các đồng chí đâm sau lưng. Bọn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa “ này càng lúc càng đông. Bọn cơ hội, phản bội thì không thiếu.
Đạm Tiên nói với Hồ Tôn Hiến: “Em biết anh thừa khả năng đối phó với quân thù, nhưng anh không thể đối phó với bọn âm binh. Anh không thể chiến đấu với cái anh không thấy.”
Hồ Tôn Hiến nói: “Em có thể giúp gì cho anh?”
Đạm Tiên bảo: “Anh biết em là ma đúng không?”
Hồ Tôn Hiến đáp: “Biết.”
Đạm Tiên bảo: “Chỉ có ma mới diệt được ma.”
Hồ Tôn Hiến: “Anh hiểu.”
Đạm Tiên nói: “Hãy xây cho em một cái am ở lưng chừng trời.”
Hồ Tôn Hiến: “Cuộc chiến của anh ở trên mặt đất mà.”
Đạm Tiên bảo: “Đúng. Ở lưng chừng trời, em canh giữ mặt đất cho anh. Cả ma quỉ và thần thánh sẽ nằm trong tầm kiểm soát của em. Em án ngữ mọi liên kết móc nối. Không một tổ chức đối lập nào có thể hình thành khi em ở lưng chừng trời. Em sẽ chia rẽ phân hóa mọi thành phần. Em sẽ làm cho mọi thứ nát như tương. Làm cho mọi ý chí và hình ảnh trở nên nhơ nhớp…”
Hồ Tôn Hiến nói: “OK. Một cái am hoành tráng giữa lưng chừng trời. Em muốn ở Yên Tử, Phú Thọ hay Bảy Núi?”
Đạm Tiên: “Am thờ em là trái núi thứ tám ở Châu Đốc cuối trời phiêu lãng.”
Hồ Tôn Hiến bảo: “Nhất trí. Trong vòng một năm sẽ hoàn thành ước nguyện cho em.”
Đạm Tiên dặn: “Đây là vấn đề phong thủy địa lý có tính quyết định đối với sinh mạng và sự nghiệp của anh, vì thế hãy hình dung nó là một tổ nhện hay lưới trời cũng được.”
Hồ Tôn Hiến rất tâm đắc: “Anh hiểu. Mẻ lưới ở cuối trời tuyệt địa.”
Ngay hôm sau, một kiến trúc sư và một thày phong thủy được triệu tập. Chưa đầy một năm, công trình xây dựng nhà thờ Đạm Tiên hoàn thành. Đó là một tổ nhện được nối bằng cáp từ đỉnh bảy ngọn núi ở Châu Đốc treo một cái am khổng lồ hình con nhện chúa giữa lưng chừng trời. Lễ khánh thành được tổ chức vào ban đêm, đích thân Hồ Tôn Hiến và ông thày cúng thỉnh từ núi Sam đến dâng hương. Họ khấn vái những gì chỉ có Đạm Tiên biết.
Cũng từ đó, Đạm Tiên vĩnh viễn rời bỏ ngôi mộ hoang ràu ràu ngọn cỏ, về ngự trong am con nhện giữa Thất Sơn huyền bí.
Đạm Tiên đưa cho Nguyễn tờ giấy ở dạng tro than và bảo chàng đọc.
- Lịch sử là hư cấu và được hư cấu theo một logic mang tính lý thuyết. Đối với Hồ Tôn Hiến và thời đại của ông ta chỉ có một thứ logic duy nhất là ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Và cái lý thuyết của nó tất nhiên cũng là chính nghĩa thuộc về ta bất kể nó như thế nào.
- Khi chính trị và văn học nghệ thuật ăn cánh với nhau, con người bị giết chết.
- Trong các chế độ độc tài, văn nghệ sĩ chính thống là kẻ đồng lõa với tội ác.
- Hư vô hóa cuộc sống cũng chỉ là cách trốn trách nhiệm.
Nguyễn hỏi: “Của ai vậy?”
Đạm Tiên bảo: “Của nhân dân đấy.”
Nguyễn nói: “Cứt đái.”
Đạm Tiên ra vẻ nghiêm trọng: “Trước sự thống khổ của con người, nhà văn không thể là kẻ vô tội.”
Nguyễn nói: “Cứt đái hết.”
Đạm Tiên cười sằng sặc.
13.
Sở Khanh con nhà nòi đẹp trai, được xếp vào loại “người đương thời” mẫu mã chính thống, tài năng và thành đạt của báo chí lá cải. Để tả Sở Khanh có thể nói một cách đặc trưng, hắn giống đại gia và cũng giống quan quyền. Phổ thông và ba hoa. Văn nghệ sĩ các loại phục tùng hắn vì hắn là biểu tượng của khát vọng chinh phục.
Sở Khanh tâu với Hồ Tôn Hiến: “Văn nghệ sĩ và các loại tương cận đều rất háo danh, để sai khiến được bọn này cần ban tặng cho chúng các chức danh này nọ. Vì các chức danh, chúng sẽ như lũ thiêu thân.”
Hồ Tôn Hiến bảo: “Được. Ta biết sức mạnh của các nghệ sĩ. Đồng chí rất thâm sâu. Ta sẽ ban cho chúng mọi tước vị cao cả.”
Sở Khanh tâu tiếp: “Văn nghệ sĩ và các loại tương cận cũng đều rất thích được sai khiến, xin hãy giao việc cho chúng vì chúng sẽ tưởng đấy là điều cao cả.”
Hồ Tôn Hiến bảo: “Được. Hãy tập hợp chúng lại dưới ngọn cờ vinh quang của ta.”
Sở Khanh trở thành Hội trưởng của Hội Văn nghệ sĩ và các loại tương cận.
Nhiệm vụ của Hội là lừa tình toàn thể bầy cừu. Nhưng làm gì thì cũng cần phải lo cho bản thân trước. Cơ hội không phải lúc nào cũng có. Vì thế, Sở Khanh lừa ngay bọn háo danh muốn trở thành văn nghệ sĩ cung đình. Chúng sẵn sàng cống nạp cho Sở Khanh tất cả mọi thứ kể cả vợ con.
Quả thật cao cả đáng kính khi người ta trở thành lực lượng dẫn dắt dư luận và tạo khuôn mẫu cho toàn xã hội. Càng cao cả đáng kính hơn khi môi trường hoạt động của nó cũng là một quan trường. Vì thế, chẳng có lý do gì Sở Khanh lại không trở thành nghệ sĩ nguyên soái khi các nghệ sĩ dưới trướng hắn là nghệ sĩ công huân, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, hay nghệ sĩ bá tước, nghệ sĩ nam tước, nghệ sĩ tử tước các loại… Nhưng cuộc đời vốn tréo ngoe khốn nạn, lại càng tréo ngoe khốn nạn hơn với Sở Khanh khi gã lừa tình của mọi thời đại này bỗng trở nên bất lực giữa lúc sự nghiệp huy hoàng nhất. Các cao thủ làng chơi như Đạm Tiên, Mã Kiều Nhi hay Vương Thúy Kiều dù đã diễn hết nghề vẫn không làm cho cặc Sở Khanh cứng và xuất tinh được. Sở Khanh mô tả trường hợp của mình là “bi kịch nghề nghiệp”.
Vương Thúy Kiều hỏi Nguyễn: “Anh có cách gỡ rối cho Sở Khanh không?”
Nguyễn bảo: “Cứ để cho nó khí tồn tại não, để nó hiểu cái ẩn ức của nhân dân.”
Thúy Kiều nói: “Vấn đề là em không muốn tổn hại thanh danh, uy tín nghề nghiệp của mình.”
Nguyễn bảo: “Oan ức cho em thật. Hãy bảo nó khi ngủ với em thì cứ tưởng tượng là ngủ với cả nhân dân, nó sẽ sướng thôi.”
Vương Thúy Kiều kể lại với Sở Khanh, hắn cười khinh bỉ: “Mả mẹ mấy thằng nhà văn dốt nát, hợm hĩnh. Đã là nghệ sĩ nguyên soái thì không đụ toàn thể nhân dân mà lại đụ cái con mẹ già của nó à.”
Vương Thúy Kiều bảo: “Không, đấy chỉ là một cách nói thôi.”
Sở Khanh nói: “Cô còn dạy khôn tôi à? Những cơn lên đồng tập thể mê cuồng của quần chúng không phải là do tôi tạo nên sao? Tôi cũng biết sướng y như khi tôi làm tình với cô. Chẳng những thế, tôi cũng còn biết tổng hòa chúng lại theo kiểu 2 trong 1. Nói chung, nghệ thuật thì không thiếu, vấn đề còn lại vẫn là năng lực bản thân. Nhưng tôi có cảm giác đây là vấn nạn của cái gọi là lỗi hệ thống.”
Vương Thúy Kiều cười: “Anh thiếu sự đồng thuận của quần chúng.”
Sở Khanh cũng cười: “Cưỡng hiếp cũng có cái sướng của nó. Tuy nhiên, như thế không xứng danh Sở Khanh.”
Vương Thúy Kiều nhìn Sở Khanh chằm chằm. Nàng nhớ đến lúc gặp Sở Khanh lần đầu ở lầu Ngưng Bích và đã gửi số phận mình cho hắn với niềm hy vọng được giải phóng. Vẫn là con người chải chuốt quen thuộc đó, nhưng hắn bao giờ cũng xa lạ với nàng. Cái khác biệt về bản chất có lẽ đã làm cho Kiều thất bại trong việc làm tình với hắn. Nhưng nàng cũng nhận ra mình chưa bao giờ thoát được tay hắn. Chưa bao giờ nàng tự do.
Không chỉ Thúy Kiều hay bọn văn nhân háo danh, mà ngay cả những trí thức lịch lãm nhất cũng mắc lừa Sở Khanh. Nguyễn bảo đấy là hội chứng tả khuynh của thời đại và chàng cũng không tránh khỏi sa vào lưới của nó. Nhưng một trong những người đã khai sinh ra thể chế lừa lọc đó, Thúc Sinh lại bảo, sự tật nguyền và mê muội của xã hội loài người mang tính nội tại và tất yếu. Người ta bị lừa không phải vì ngu mà chỉ vì không dám sống khác.
Khi trở lại lầu Ngưng Bích nhìn sóng biển vỗ bờ, tâm trạng của Thúy Kiều lại bồi hồi và nàng biết mình vẫn chờ đợi một cơ hội để giải thoát. Nhưng giải thoát để về đâu, nàng không hề nghĩ tới.
Thúc Sinh nói: “Tôi yêu Thúy Kiều không phải vì cô ấy tin người, mà bởi cô ấy luôn hy vọng.”
Nguyễn nói: “Hy vọng là nhược điểm lớn nhất của con người. Nó làm cho người ta trở nên tội nghiệp và bị lợi dụng.”
Thúc Sinh nói: “Nhưng sự hy vọng cũng làm cho con người trở thành người nhất. Tôi muốn gửi gắm Thúy Kiều cho anh.”
Nguyễn bảo: “Tôi chẳng làm gì được ngoài việc biến cô ấy thành thiên cổ.”
Thúc Sinh nói: “Thật ra, anh có thể làm được nhiều hơn thế.”
Nguyễn bảo: “Trong thể chế này, nhà văn chỉ có thể là cái loa cho bọn thống trị.”
Thúc Sinh nói: “Đã đến lúc anh có thể là cái loa cho chính anh và cho những người như Thúy Kiều.”
Nguyễn bảo: “Tôi không tin.”
Thúc Sinh nói: “Tôi không bảo kê được cho anh. Nhưng anh cứ làm thì anh sẽ tin. Hơn nữa, anh cũng sẽ thấy Từ Hải xuất hiện trở lại với đúng vai trò của mình.”
Nguyễn hỏi: “Một kịch bản mới cho tình hình mới?”
Thúc Sinh: “Anh hiểu như thế cũng được. Nhưng anh không được quên điều này: Lịch sử luôn lặp lại nhưng lịch sử cũng luôn đi tới.”
14.
Từ Hải dằn ly rượu xuống, nói: “Cuộc sống đã trở nên không chịu nổi. Tất cả những gì ông Hồ Chí Minh lên án chế độ thực dân đang lặp lại ở mức độ kinh tởm hơn nhiều lần.”
Nguyễn bảo: “Bây giờ ông mới thấy sao?”
Từ Hải: “Trước đây tôi vẫn cho rằng đó chỉ là hiện tượng của thời kỳ quá độ. Nhưng với thời gian, những cái xấu xa và tình trạng không thể sửa chữa của nó đã minh chứng rằng đó là bản chất.”
Nguyễn cười: “Anh sẽ làm gì?”
Từ Hải không cần rào đón: “Không có cách nào khác ngoài việc thay đổi nó.”
Nguyễn vẫn cười: “Bằng cái gì và như thế nào?”
Từ Hải nhìn thẳng vào mặt Nguyễn: “Đó là việc của ông và những trí thức như ông.”
Nguyễn không cười được nữa, chàng cầm ly rượu lên soi qua ánh nắng, rồi đặt ly xuống mà không uống. Nguyễn không thể tự cho phép mình bỏ qua cái gánh nặng mà Từ Hải vừa quăng cho chàng.
Nguyễn và những trí thức như chàng đã làm gì trước hiện thực cuộc sống và lịch sử?
Cúi đầu và im lặng. Người ta vẫn sống như trách nhiệm thuộc về người khác.
Từ Hải vỗ vai Nguyễn: “Tôi cần ông.”
Nguyễn im lặng một lúc rồi nói: “Tôi không phải Cao Bá Quát.”
Từ Hải cười lớn: “Tôi không cần quân sư quạt mo. Ông là nhà văn, điều tôi muốn là ông hãy sống và viết như một nhà văn. Nếu tất cả các nhà văn đều sống và viết như một nhà văn thì có lẽ đất nước này đã khác.”
Nguyễn nói: “Tôi hiểu. Chúng ta cần sự thức tỉnh của mọi công dân và một áp lực xã hội đủ mạnh buộc chế độ phải thay đổi.”
Đạm Tiên bảo: “Các bác hơi bị lạc quan quá. Âm phủ càng ngày càng đông.”
Từ Hải nói: “Những xác chết cũng cần lên tiếng.”
Đạm Tiên bảo: “Họ đã lên tiếng bằng cách không nhắm mắt.”
Khi nhà văn tự đặt mình dưới sự lãnh đạo của đảng cầm quyền và trở thành bồi bút cho bọn thống trị, họ đánh mất nhân cách. Tự xóa bỏ cái đa nguyên của tư tưởng và đặt gông cùm ý thức hệ lên vai mình, họ xóa trắng bản thân.
Từ Hải nói: “Họ cũng cần sám hối.”
Đạm Tiên bảo: “Họ đã sám hối bằng sự vô ích của mình.”
Từ Hải nói: “Họ cần hành động để chuộc tội bởi ngay cả sự im lặng cũng có tội.”
Đạm Tiên bảo: “Không một ai còn khả năng hành động.”
Nguyễn hồi hướng tự ngã nhưng đồng thời cũng muốn giết Vương Thúy Kiều, như thể chỉ có giết Thúy Kiều chàng mới tìm lại được mình.
Thúy Kiều không phải nguyên nhân hay biểu tượng cho sự tha hóa của chàng, hoặc bất cứ thứ gì tương tự như thế, nhưng chàng cảm thấy một nhu cầu ngày càng lớn phải giết Thúy Kiều như cái nhất thiết của sự tồn sinh nơi chàng. Chàng muốn giết Thúy Kiều một cách tuyệt đối. Bởi thế, khi gặp bất cứ trang sách nào có tên Vương Thúy Kiều, Nguyễn đều xé nát. Chàng biết việc ấy là trẻ con, nhưng vẫn cứ làm. Tuy nhiên, mỗi khi gặp mặt Thúy Kiều, chàng lại không biết phải hành động như thế nào, bởi vì chàng không thực sự thù ghét nàng. Nguyễn vừa muốn bóp cổ nàng, vừa muốn đụ nàng. Và chàng nghĩ mình sẽ đụ nàng như đụ một con đĩ, nhưng chàng đã đụ nàng như một khát vọng thánh hóa và vô độ của mình. Nguyễn muốn cầm dao đâm nàng, nhưng chàng đã hôn vào những vết thương tưởng tượng ấy. Nguyễn muốn treo cổ nàng, nhưng rồi chàng đã làm tình với cái xác chết khô queo ấy qua ngày này tháng nọ. Và chàng khám phá ra mình đã chỉ yêu những xác chết. Điều này lại càng khiến chàng muốn giết Thúy Kiều.
Nguyễn nói với Thúy Kiều: “Em hãy nhắm mắt lại và làm một xác chết.”
Nhưng Thúy Kiều nói: “Làm sao em có thể bất động trong lúc cả linh hồn và thể xác đều sướng cuồng sướng dại?”
Nguyễn nói: “Cho dù em có hòa nhịp cộng hưởng xoắn xuýt đến đâu, nó vẫn mang lại một cảm xúc trái ngược. Sự toàn mãn nơi anh phải là nguyên thể không san sẻ.”
Thúy Kiều bảo: “Vậy thì hãy cho em uống rượu với thuốc ngủ. Em sẽ là một xác chết cho anh muốn làm gì thì làm.”
Và Thúy Kiều đã uống rượu vang với năm viên thuốc ngủ. Nàng chỉ thích rượu vang. Thúy Kiều nói: “Em cho anh ba ngày ba đêm để cực lạc, viên mãn và tự do. Nếu anh muốn cho em chết, cũng chẳng sao. Em không oán trách.”
Trước khi đi sâu vào giấc ngủ, Thúy Kiều đã ôm hôn Nguyễn.
Nguyễn để Thúy Kiều trần truồng nằm trên sàn gỗ. Chàng cắm những ngọn nến viền quanh thân thể nàng. Rồi chàng cúi lạy nàng như cách người ta lạy vái người chết. Lạy mãi. Khi những ngọn nến cháy hết, chàng lật úp nàng lại, banh chân ra và chàng đút một cây nến mới vào lỗ đít nàng, thắp sáng suốt ba ngày đêm.
Thúy Kiều không chết. Nhưng từ đó Thúy Kiều không bao giờ ị nữa. Và giống như con Tỳ Hưu, nàng trở thành thần linh phong thủy cho tất cả những ai mưu cầu danh tiếng và sự phong lưu, thanh lịch.
Tranh, tượng Thúy Kiều được các nghệ nhân, nghệ sĩ các loại chế tác đủ kiểu để phục vụ thị trường mê tín và nghệ thuật. Tất cả những ai phỉ báng Thúy Kiều đều bị xã hội lên án như kẻ đánh mất truyền thống và niềm tự hào dân tộc.
Người thông suốt âm dương, Đạm Tiên bảo: “Bản chất và cứu cánh của sự tồn tại trong xã hội loài người chỉ là huyền thoại.” Nắm bắt được nguyên lý ấy, Sở Khanh không những đã tạo ra vô số những huyền thoại cho ông chủ của mình là Hồ Tôn Hiến, mà còn tư vấn cho chính Hồ Tôn Hiến tự sáng chế những huyền thoại về mình trong những trước tác thuộc loại phổ cập học làm người. Nhờ thế, sau này Hồ Tôn Hiến cũng đã được tôn thờ trong các đình làng.
Người túc trí đa mưu, Thúc Sinh chỉ cười.
Vào thời điểm này, Kim Trọng đang giữ chức Án sát Nam Đô. Tuy trông coi việc hình, trật tự trị an nhưng với tinh thần “còn Hồ Tôn Hiến, còn mình”, Kim Trọng đã lạm quyền kiểm soát cả việc học tập theo gương Hồ Tôn Hiến của nhân dân. Người được coi là có bản lãnh chính trị vững vàng phải luôn luôn biết lặp lại cấp trên một cách tuyệt đối và sự trung thành ấy trở thành chuẩn mực cho sự khả tín của công dân. Tất cả những người có tư duy độc lập và chính kiến khác biệt đều bị qui kết là “thế lực thù địch và phản động”. Số phận của họ nằm trên thớt.
Tuy nhiên, trong chỗ riêng tư, Kim Trọng chỉ tôn thờ một Thúy Kiều. Ông muốn thỉnh một chân dung Thúy Kiều về yểm trong nhà như biểu tượng cho sự chân thực của mình về tính người, nhưng Thúy Vân phản đối, người đàn bà mẫu mực ấy bảo: “Em không muốn con gái em tiến thân theo cách ấy.”
Thúc Sinh bí mật gặp Kim Trọng, nói: “Ông là người nắm rõ thái độ chính trị của tất cả mọi người. Ai là kẻ cơ hội. Ai là kẻ bất mãn. Ai là người lý tưởng. Vì thế, tôi nhờ ông chuẩn bị cho một danh sách các nhân vật mà ta có thể sử dụng được cho một tổ chức đối lập trong tương lai, kể cả ông. Tôi cũng nhờ ông chuẩn bị một kịch bản cho sự xuất hiện của họ một cách công khai.”
Kim Trọng e dè bảo: “Chúng ta không chia sẻ quyền lực. Quyền lãnh đạo của chúng ta là tuyệt đối.”
Thúc Sinh nói: “Vẫn biết thế. Nhưng tình hình mới buộc chúng ta phải có kế sách, tránh một cuộc lật đổ đẫm máu.”
Kim Trọng tỏ ra hoài nghi, ông nói: “Chúng ta vẫn vững vàng và tôi tuyệt đối trung thành với đồng chí đại ca Hồ Tôn Hiến, cho nên tôi chỉ có thể gửi ông bản danh sách các nhân vật mà ông cần. Còn cái kịch bản gì đó thì xin phép ông cho tôi đứng ngoài.”
Thúc Sinh nói: “Ông cần một xác nhận từ Hồ Tôn Hiến?”
Kim Trọng bảo: “Tôi không dám đòi hỏi. Nhưng tôi sẵn sàng tuân lệnh cấp trên.”
Thúc Sinh nói: “Ông sẽ nhận được điều ông muốn.”
Kim Trọng bảo: “Tôi không tin bọn trí thức.”
Thúc Sinh nói: “Đúng. Nhưng chúng ta có thể sử dụng chúng, vì bởi bọn chúng lúc nào cũng chỉ mong muốn được người khác sử dụng. Bọn chúng cần một vai trò và chúng ta sẽ cho chúng tham gia cái trò chơi lịch sử này.”
Kim Trọng: “Tôi e ngại tình thế có thể vuột khỏi tầm kiểm soát của chúng ta.”
Thúc Sinh: “Đấy là nhiệm vụ của ông. Hồ Tôn Hiến tin ông.”
Kim Trọng: “Không sợ tôi cướp cờ à?”
Thúc Sinh: “Đấy không phải là tính cách của ông.”
15.
Nguyễn không ngạc nhiên khi thấy Từ Hải bất ngờ tung ra những tác phẩm mang tính sám hối về sự đầu hàng của mình với Hồ Tôn Hiến trước kia. Chàng nói: “Ông cũng muốn đặt một viên gạch giữ chỗ cho tương lai ư?”
Từ Hải đáp: “Tôi không chỉ giữ chỗ đặt cọc vào tương lai mà tôi đang bước vào tương lai bằng đôi chân của mình.”
Nguyễn cười: “Hóa ra, trước đây ông vẫn đi bằng chân của người khác?”
Từ Hải cũng cười: “Quả thật, nhìn lại thấy vừa buồn cười, vừa muốn khóc. Có lẽ chẳng riêng gì tôi hay ông, mà tất cả; phải, tất cả, chúng ta đều đi bằng đôi chân giả do bọn thống trị áp đặt.”
Nguyễn nói: “Điều gì đã tạo ra sự tùng phục ngu muội tập thể đó?”
Từ Hải bình thản: “Thì cũng như sự đầu hàng của tôi khi xưa thôi.”
Trên sông Tiền Đường bình lặng, Thúy Kiều ngồi ở đầu thuyền gởi khúc mệnh bạc vào thiên cổ. Nàng đã vứt vào sọt rác những con cu thối và trở về. Trong ánh sáng khai nguyên của các thần linh, âm hộ nàng trong suốt. Và reo vui. Không phải vì trái tim nàng đã được lau chùi bằng nước mắt và tóc. Không phải vì sự đền đáp của hư vô. Nàng vui vì non tơ xanh rợn chân trời. Của lông. Không có máu. Không có nước nhờn và trứng. Không có bất cứ điều gì. Nhưng bởi vì âm hộ nàng trong suốt, nó phản chiếu bầu trời ráng đỏ, những đám mây hình thù cổ quái và một ngọn gió vừa lướt qua mang theo hơi thở của muôn vàn sinh linh. Tởm lợm. Và bởi vì âm hộ nàng trong suốt, tất cả thế giới được nhìn thấy. Những người đàn ông đi lộn ngược. Và bóng họ khuất sau một khe nước. Thúy Kiều nói: “Con người đang say ngủ.” Không một ai nghe tiếng nàng. Chỉ có âm hộ nàng rung động. Nước sông Tiền Đường mênh mang và thấu hiểu nhưng nước sông Tiền Đường không để rửa lành những vết thương. Hai bàn chân nàng lạnh. Âm hộ nàng cũng đã ở trong nước và dường như tan biến. Nàng tự hỏi: “Phải chăng đây là cuộc hạnh ngộ cuối cùng?” Không, âm hộ nàng vẫn trong suốt và nó chứa một dòng sông đầy. Nàng thích thú với những con cá bơi ra – vào. Nàng bảo: “Thật là vô tội.” Khi những con cá cũng trở nên trong suốt như âm hộ nàng, chúng sinh sôi nảy nở nhanh chóng và bơi lội tung tăng cả trên bầu trời ráng đỏ. Bơi vào trong những đám mây cổ quái và tạo ra sấm chớp. Chúa lòng lành vô cùng, người bảo: “Hãy trở về.” Nhưng sãi Giác Duyên thì hoang mang. Bà ôm lấy Thúy Kiều và đem lên bờ. Âm hộ nàng đen trở lại. Lóng lánh như kim cương.
Chung quanh sặc mùi con cu thối.
Nguyễn hỏi: “Ông muốn giữ lại Thúy Kiều?”
Từ Hải đáp: “Có lẽ thế.”
Nguyễn nói: “Cô ấy cũng có đôi chân của cô ấy.”
Từ Hải: “Tôi không chặt chân của cô ấy.”
Nguyễn nói: “Thúy Kiều cần được giải phóng khỏi ông hay bất cứ một người đàn ông nào khác.”
Từ Hải: “Tôi chính là người giải phóng cô ấy.”
Nguyễn nói: “Xin lỗi, ông cũng là một người đàn ông. Vì thế, trong trường hợp này, Thúy Kiều cũng chỉ là từ tay một đàn ông này đến tay một đàn ông khác.”
Từ Hải cười lớn: “Thúy Kiều thì vẫn phải là Thúy Kiều thôi. Tôi để cho cô ấy quyết định.”
Nhưng Thúy Kiều không quyết định, nàng để cho số phận đưa đẩy.
Thật ra, ngay cả bản thân Từ Hải cũng chẳng tự quyết định được điều gì. Trào lưu nhân bản và dân chủ dội vào hắn như đứng giữa dòng thác, buộc hắn phản ứng để tồn tại. Không phải vì dũng cảm hơn mà nhìn thấy sự thật, xấu hổ trước sự thật bởi sự thật được bóc trần, phơi bày. Hoặc người ta cố tình mù, hoặc phải liêm sỉ. Sức mạnh mới của thông tin truyền thông thời kỳ toàn cầu hóa đặt con người vào những lựa chọn minh bạch. Bộ máy cai trị mất quyền kiểm soát khi thông tin không còn là một đặc quyền. Bản chất phi đạo đức và phi chính trị của khoa học kỹ thuật với những thành tựu mới vô tình cung cấp cho con người cái quyền năng trở thành đạo đức và chính trị hơn bao giờ hết. Quyền tiếp thu và bày tỏ không giới hạn.
Thúy Kiều nói: “Dù sao em vẫn cần anh Từ Hải, ít nhất cho đến khi mọi người không còn coi em là đĩ.”
Nguyễn bảo: “Để có thể sống như một người tự do, cần vượt ra khỏi những thành kiến, quán tính.”
Ngồi trong am con nhện với Đạm Tiên, Mã Kiều Nhi nhìn hóa thân của mình là Vương Thúy Kiều trong vòng tay Từ Hải, nói: “Khi xưa, cũng có lúc tao tin Từ Hải và sống với hắn như một ân huệ giải thoát. Hắn cho tao cơ hội để phục thù. Nhưng rồi tao nhận ra, tao mới là kẻ giải phóng hắn. Cho đến ngày bỏ đi, chưa bao giờ tao là tì thiếp của hắn hay hắn là ông chủ tao. Trong thực tế, hắn vẫn chỉ là thằng chơi đĩ. Còn tao, tất nhiên vẫn là gái đĩ, tự do.”
Đạm Tiên bảo: “Điều đó làm cho mày trở thành bất hủ.”
Bất chợt, Hồ Tôn Hiến đến. Đạm Tiên vội ngồi lên ban thờ. Mã Kiều Nhi làm người giữ am, nàng đưa mấy cây nhang cho Hồ Tôn Hiến. Ông ta chắp tay khấn vái. Mã Kiều Nhi không nghe được ông ta nói gì. Nàng mời ông ta ngồi.
Mã Kiều Nhi hỏi: “Ngài dùng chi ạ? Trà hay rượu?”
Hồ Tôn Hiến bảo: “Đặc sản Bảy Núi.”
Mã Kiều Nhi mang đến cho ông ta một ly nước thốt nốt ướp lạnh. Đạm Tiên bước xuống nói chuyện với ông ta.
Hồ Tôn Hiến chỉ Mã Kiều Nhi hỏi: “Cô này là ai?”
Đạm Tiên nói: “Không phải nữ tì đâu. Nếu ông muốn, cô ấy sẽ phục vụ ông.”
Hồ Tôn Hiến bảo: “Tôi thấy quen.”
Đạm Tiên nói: “Phải, rất quen. Chính ông đã bán cô ấy cho thổ quan ở đây sau khi giết Từ Hải.”
Hồ Tôn Hiến đính chính: “Cô nói sai rồi. Tôi không giết ai cả.”
Đạm Tiên bảo: “Chuyện ấy không thành vấn đề nữa. Cô gái này là Mã Kiều Nhi, tổ mẫu của Thúy Kiều đoạn trường tân thanh. Ông thử cho biết nhé.”
Hồ Tôn Hiến nói: “Không, cám ơn. Cô biết tôi là người thế nào.”
Đạm Tiên bảo: “Cô ấy sẽ khóc, nếu ông không đoái hoài.”
Hồ Tôn Hiến cười. Đạm Tiên cũng cười, nàng hỏi: “Ông cần gì?”
Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi muốn biết bọn thế lực thù địch đang âm mưu gì?”
Đạm Tiên nói: “Cái đó ông phải hỏi bọn an ninh tình báo của ông chứ?”
Hồ Tôn Hiến nói: “Tôi không tin ai.”
Đạm Tiên giễu cợt: “Ông cảm thấy bất an à?”
Hồ Tôn Hiến đáp: “Đúng. Tôi phải làm gì?”
Đạm Tiên bảo: “Tôi sẽ vào trong núi nhờ sư phụ giải oan làm lễ độ trì cho ông. Tôi cho rằng ông đã đúng khi không tin ai. Nhưng muốn thân tâm an lạc, ông phải tin con người. Điều đó thì không thể đối với ông, phải không? Vì vậy tôi khuyên ông chuyện gì cũng phải đi tới cùng. Quyền lực cần tuyệt đối.”
Hồ Tôn Hiến hỏi: “Tôi phải giết ai?”
Đạm Tiên đáp: “Một con kiến cũng không nên sát hại, tuy nhiên, mọi chướng ngại ông cần phải dẹp bỏ.”
Trước khi ra về, Hồ Tôn Hiến để lại một phong bì đầy tiền Mỹ.
Một chiến dịch bôi nhọ hạ nhục được Sở Khanh cho thi hành với từng đối thủ của Hồ Tôn Hiến. Từ những hành vi hạ cấp như ném cứt, ném đá vào nhà cho đến chụp mũ chính trị phản động. Những kế hoạch bắt bớ cũng được Thúc Sinh và Kim Trọng phối hợp thực hiện bất chấp dư luận.
Thần Bạch Mi nói với Thúy Kiều: “Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao.”
Thúy Kiều cúi đầu phụng mệnh. Nàng thưa: “Xin cho con được phong trần chỗ cung đình và thanh cao nơi ngõ hẻm.”
Từ đấy, Thúy Kiều chỉ đi khách với nhà quyền quí.
Tuy nhiên, Thúy Kiều không bao giờ biết, tất cả những vụ đi khách của nàng đều được quay phim và lưu trữ trong tàng thư mật thất của Sở Khanh.
Nguyễn hỏi Đạm Tiên: “Em có đọc những tác phẩm sau này của Từ Hải không?”
Đạm Tiên nói: “Văn chương cỡ Từ Hải thì không nên mất thì giờ, cho dù đó là văn chương sám hối hay phản kháng, bởi vì Từ Hải không bao giờ cởi được cái áo cán bộ.”
Nguyễn cười hỏi người cõi âm: “Văn chương đến từ đâu?”
Đạm Tiên đưa hai ngón tay làm dấu cái lá bảo: “Nồn.”
Trong tận đáy lòng, Nguyễn muốn quì xuống, cúi đầu lạy âm hộ Đạm Tiên.
Người cõi âm hỏi Nguyễn: “Viết để làm gì?”
Nguyễn bảo: “Tự sướng.”
Người cõi âm nói: “Thế thì đừng viết nữa.”
Nguyễn hỏi: “Làm sao sướng?”
Người cõi âm bảo: “Làm tình với em.”
Nguyễn nói: “Làm tình với em thì khác gì thủ dâm?!”
Người cõi âm bảo: “Nếu anh không có khả năng tư duy siêu hình, hành động siêu hình thì anh cũng sẽ không có khả năng sáng tạo.”
16.
Cù nhầy là hành động cù cưa và trạng thái của nó là nhầy nhụa, hiện thực của nó là vũng lầy. Hồ Tôn Hiến, Thúc Sinh, Sở Khanh, Kim Trọng và cả Từ Hải đều rơi trong vũng lầy. Không thể khác. Càng cố thủ, vũng lầy càng nhầy nhụa. Không thể khác.
Hồ Tôn Hiến bảo Thúc Sinh: “Ông chuẩn bị cho tôi một nghị quyết về việc vượt qua vũng lầy, củng cố quyền lãnh đạo của chúng ta.”
Thúc Sinh hỏi: “Cái này theo mẫu của Trung Quốc hay Bắc Hàn?”
Hồ Tôn Hiến nói: “Xét tình hình thực tế hiện nay thì ta nên làm theo mẫu Bắc Hàn.”
Thúc Sinh biết không có cách nào vượt được qua vũng lầy bởi bản chất sự tồn tại của họ là vũng lầy, nhưng ông ta vẫn gặp Sở Khanh, bảo: “Cậu văn hay chữ đẹp, soạn cho lãnh tụ cái nghị quyết vượt qua vũng lầy, củng cố vai trò lãnh đạo của chúng ta.”
Sở Khanh biết mọi vấn đề chỉ là xảo ngôn, nhưng anh ta không thể tự xảo ngôn với mình, nên gặp Kim Trọng bảo: “Ông là người được đào tạo bài bản, ông soạn cho lãnh tụ cái nghị quyết vượt qua vũng lầy, củng cố vai trò lãnh đạo của chúng ta.”
Kim Trọng biết vũng lầy chính là nơi trú ẩn của mình, vì thế ông ta không muốn thay đổi qua lỗ cống, nên gặp Từ Hải bảo: “Anh là người anh hùng, chỉ có anh mới có thể giúp lãnh tụ vượt qua vũng lầy, củng cố vai trò lãnh đạo của chúng ta.”
Từ Hải biết mình chỉ là kẻ hữu dũng vô mưu, nên gặp Đạm Tiên bảo: “Em là người cõi trên, chỉ có em mới có thể giúp lãnh tụ vượt qua vũng lầy, củng cố vai trò lãnh đạo của chúng ta.”
Đạm Tiên nói: “Chuyện nhỏ.”
Ngày lành tháng tốt, giờ đại phúc, tại am con nhện giữa lưng chừng Bảy Núi, Hồ Tôn Hiến, Thúc Sinh, Sở Khanh, Kim Trọng và Từ Hải đều có mặt. Họ dâng cúng Đạm Tiên một bức tượng Linga lớn nhất Đông Nam Á.
Theo truyền thống, tượng Linga được đặt trên cái đế là Yoni. Nhưng tượng Linga dâng cúng cho Đạm Tiên không có đế, vì thế nó trở thành cái đế cho Yoni Đạm Tiên vì sự to lớn của nó. Nàng vẫn ngồi trên tượng Linga này trong tất cả mọi lúc rảnh rỗi. Đạm Tiên bảo: “Nó đâm thấu suốt em.” Thế giới không vì thế đảo lộn, mà trật tự được vãn hồi theo một truyền thống khác. Sống, lao động và chiến đấu theo gương Đạm Tiên. Nhưng Đạm Tiên vốn là một nhân vật thất truyền, nên dân gian và Thanh Tâm Tài Nhân đã mượn Thúy Kiều làm người ủy thác cho niềm tin của mình về lẽ đạo và đời. Thúy Kiều trở thành đệ ngũ thần sau “Tứ bất tử”: Tản Viên Sơn thần, Phù Đổng Thiên vương, Chử Đồng Tử, và Liễu Hạnh Công chúa.
Thành thần, Thúy Kiều an ủi và biện hộ cho mọi nỗi niềm của trần gian.
Nguyễn cầm cuốn Truyện Thúy Kiều, bản do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo (NXB Văn Hóa Thông Tin, 1999), lòng thành khẩn khấn vái:
“Lạy vua Từ Hải
Lạy vãi Giác Duyên
Lạy tiên Thúy Kiều
Tôi là kẻ khốn khổ khốn nạn
Xin một quẻ bói về tình duyên gia đạo.”
Xong, chàng lật mở cuốn sách, được quẻ:
“Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn
Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn.”
“Ai” là ai? Nguyễn gặp Mã Kiều Nhi hỏi: “Anh có nợ tình em không?”
Mã Kiều Nhi hỏi lại: “Hỏi chi vậy?”
Nguyễn đáp: “Để anh trả cho xong.”
Mã Kiều Nhi lại hỏi: “Xong thì sao? Không xong thì sao?”
Nguyễn nói: “Xong thì anh lên đường. Không xong, anh cũng lên đường.”
Mã Kiều Nhi bảo: “Vậy thì anh cứ lên đường cho nhanh.”
Tại am con nhện của Đạm Tiên, Hồ Tôn Hiến cũng nhận được quẻ bói đó. Đạm Tiên bảo: “Theo ý nghĩa của những câu thơ này, ngài vẫn còn nợ nhân dân nhiều lắm. Vì thế, ngài chưa thể ra đi. Không ra đi thì phải làm gì? Đây chính là vấn đề của ngài. Để không phải khóc lóc trong ngày mai, ngay hôm nay ngài phải cho thi hành một kết ước giữa nhân dân và ngài.”
Tri ân lời khuyên này, Hồ Tôn Hiến ký quyết định giao cho Đạm Tiên 5 ngàn mẫu đất với lý do thực hiện dự án đặc khu tâm linh dân tộc.
Một tháng sau, mỗi hộ gia đình nhận được một văn bản sau:
Xứ Cừu và Lừa
Nhân phẩm – Tự do
BẢN KẾT ƯỚC
1. Gia đình tôi xin tự nguyện đặt mình dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của đấng chăn cừu (viết đủ chữ “tự nguyện”): …………………………………………………………
2. Trong bất kỳ trường hợp nào, gia đình tôi xin hứa trung thành với đấng chăn cừu (ghi rõ chữ “xin hứa”):……………………………………………………………….
Ngày… tháng…. năm…..
Người kết ước,
(ký và ghi rõ họ tên)
Gia đình nào không ký hoặc không nộp lại bản kết ước cho tổ dân phố sẽ bị phê bình trong buổi họp tổ và bị quy kết chống đối lãnh đạo. Theo luật hình sự, chống đối lãnh đạo đồng nghĩa với phá rối an ninh có thể bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.
Thúc Sinh nhận được hợp đồng in ấn bản kết ước này và ông ta bỏ túi gần 20 tỉ. Tuy nhiên, con số ấy chỉ là tiền vặt so với dự án đặc khu tâm linh dân tộc của Đạm Tiên. Nàng nhẩm tính ít nhất cũng hốt ở giai đoạn đầu, phần chia lô bán nền khoảng 40 ngàn tỉ. Chưa kể lợi nhuận sau này trong việc kinh doanh thần thánh.
Đạm Tiên khẳng định, kinh doanh thần thánh không bao giờ lỗ. Kế họach đầu tư của dự án khu du lịch tâm linh dân tộc gồm hai phần. Về cơ sở vật chất, nàng dành cho nó 1000 mẫu và sẽ xây một ngôi chùa to nhất thế giới. Bên cạnh đó là một trung tâm cung cấp thày cúng toàn cầu do ngành an ninh đào tạo.
Đạm Tiên bảo “Lạc Việt Đại tự” của nàng sẽ thờ Phật Phụ Phật Mẫu Phổ Hiền Như Lai Vương, quốc tổ Hùng Vương và tiên Thúy Kiều.
Dự kiến mỗi năm, Lạc Việt Đại Tự sẽ thu hút một triệu khách du lịch. Vào cửa miễn phí, nhưng nhà chùa sẽ đặt thùng công đức từ cổng đến chính điện, hậu điện, toa-lét… phát ấn, phát xăm, cho lộc… tổng cộng dự thu mỗi năm 100 tỉ. Phần lẻ tẻ như bán nhang, bán hoa, nến… dành cho dân nghèo quanh vùng làm phúc.
Để xứng tầm văn hiến, trên mọi lối đi, mọi vách tường, mọi gốc cây trong Lạc Việt Đại Tự đều có lời thánh hiền bên cạnh lời hay ý đẹp do chính Đạm Tiên ứng tác.
Riêng thày trụ trì, Đạm Tiên ngỏ ý mời Nguyễn với điều kiện chàng phải qua một khóa đào tạo của an ninh. Đạm Tiên bảo: “Anh sẽ thu hoạch nhiều đấy, không kể phần cứng cho anh là 5% doanh thu.”
Nguyễn nói: “Dù thế nào, anh cũng không dám rỡn mặt thần thánh. Em nên mời Giác Duyên thì phải đạo hơn.”
Đạm Tiên bảo: “Giác Duyên, bên an ninh và Ban Tôn giáo Chính phủ sẽ không duyệt. Bà này chân tu quá.”
Nguyễn nói: “Em đừng quên người trụ trì cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút khách tham quan.”
Đạm Tiên bảo: “Em biết thế nên mới mời anh. Còn không, bên an ninh thiếu gì người.”
Nguyễn nói: “Cám ơn em. Để anh yên phận nghèo cho nó ra vẻ nghệ sĩ triết gia giang hồ tí. Quan chức và đại gia không phải tạng anh.”
Đạm Tiên bảo: “Rởm. Nguyễn Du không từng là quan chức ư?”
Nguyễn nói: “Biết vậy. Có thể một ngày nào đó anh sẽ tu thật. Nhưng bây giờ không tu giả. Vả lại cũng không thể làm việc với an ninh được.”
Mã Kiều Nhi nói với Nguyễn: “Thấy thiên hạ làm giàu sốt cả ruột.”
Nguyễn bảo: “Em cứ bán trôn nuôi miệng cho lòng thanh thản. Bận tâm làm gì bọn ăn cướp, bọn lừa đảo.”
Mã Kiều Nhi nói: “Em cũng muốn hưởng thụ mọi niềm vui của cuộc đời nữa chứ. Sướng cái lồn không thôi thì chưa đủ.”
Nguyễn nói: “Anh không phản đối việc hưởng thụ. Nhưng để cho việc hưởng thụ được trọn vẹn thì không nên giẫm đạp người khác.”
Mã Kiều Nhi cười nhạt: “Xin lỗi anh, chỉ có bọn bất tài mới nói chuyện đạo đức.”
Nguyễn bảo: “Thật ra, anh không quan tâm đến vấn đề đạo đức. Anh chỉ nghĩ đến cái dũng khí thôi.”
Mã Kiều Nhi nói: “Em hiểu. Bất lương và hèn hạ là một.”
Nguyễn bảo: “Em có thể làm tăng giá trị tự thân của mình bằng một vài động tác PR đơn giản.”
Mã Kiều Nhi: “Nâng giá đi khách?”
Nguyễn bảo: “Đúng. Em là một thứ hàng hiệu cao cấp. Đôi khi cũng có thể bán giá bình dân để ban phát hạnh phúc cho nhân lọai vào các dịp như lễ tết chẳng hạn.”
Mã Kiều Nhi nói: “Em là Kama Sutra cũng là Karma Yoga. Cung hiến không phân biệt.”
Nguyễn nói: “Đấy là phẩm chất tuyệt luân của em. Việc nâng giá không làm cho em mất tinh thần phụng vụ.”
Mã Kiều Nhi nói: “Ok. Em hiểu. Em vẫn luôn chiều chuộng công bằng với tất cả những ai ham muốn em.”
Nguyễn nói: “Và em vẫn có thể nhận được rất nhiều tiền một cách công minh chính trực nhất.”
Mã Kiều Nhi: “Được. Anh bày cách cho em đi.”
Nguyễn nói: “Em không cần phải làm gì, ngoài việc chấp nhận để anh công bố em là nhân vật văn học của anh.”
Mã Kiều Nhi: “Hơi bị sang đấy nhỉ.”
Nguyễn nói: “Không phải em mà chính bọn chơi em nó tìm được cái gọi là nhân văn để tự sướng.”
Mã Kiều Nhi hỏi: “Em văng tục thì có nhân văn không?”
Nguyễn bảo: “Rất nhân văn. Thậm chí có mùi nhân nghĩa.”
Mã Kiều Nhi: “Haha… Sao lại nhân nghĩa ở đây?”
Nguyễn bảo: “Vì điều ấy cứu vãn cho phẩm cách của bọn chúng.”
Mã Kiều Nhi cười: “Anh đểu. Em yêu anh.”
17.
Mã Kiều Nhi trong tác phẩm của Nguyễn là một phụ nữ truyền thống phải bán mình chuộc cha theo sự dàn dựng của một kẻ cường quyền. Cũng chính kẻ cường quyền đã định đoạt số phận Mã Kiều Nhi với một tiền kiếp mù mờ Đạm Tiên và một hậu kiếp bi thương Thúy Kiều. Cái đã là, đang là và sẽ là của Mã Kiều Nhi chính danh chỉ là đĩ, phong kiến, tư bản hay vô sản cũng là đĩ, nàng đi trên mặt đất không quê hương, không bản quán, kẻ cường quyền chăn dắt nàng và cũng là khách của nàng, gặp phong kiến, tư bản nàng có chút tiền để khoe mẽ, gặp vô sản nàng bị chơi quỵt.
Nguyễn không tránh được cái khuynh hướng thời thượng giáo điều là phải vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa hiện đại, vì thế, Mã Kiều Nhi sau khi kiếm đủ tiền, nàng cũng thích đi phượt, mê chụp hình và thời trang. Một cô gái sành điệu. Trường ca Mã Kiều Nhi của Nguyễn được người đọc đón nhận nồng nhiệt bởi đáp ứng được cái thị hiếu trưởng giả và lòng thương xót của đám đông.
Nguyễn không có khả năng vận động cho một giải thưởng văn chương quốc gia, nhưng cuối cùng chàng cũng toại nguyện. Mã Kiều Nhi với danh nghĩa nhân vật chính đã tiếp thị với hội đồng giám khảo và cô dùng nghệ thuật Kama Sutra của mình thay cho nghệ thuật văn chương của Nguyễn. Chất liệu văn chương Mã Kiều Nhi hẳn nhiên bất hủ, vì thế, tác phẩm của Nguyễn đã được Hội Văn nghệ sĩ Việt Nam tổ chức hội thảo và chàng được tuyên dương như một tài năng của thế kỷ. Thật ra, để có thể tổ chức được các vụ hội thảo này, Đạm Tiên đã phải bỏ ra 1 tỉ VND. Mỗi bài tham luận nhuận bút 50 triệu. Các diễn giả đều được bao trọn gói đi lại và ăn ở. Phần vui chơi giải trí là đóng góp của toàn thể các em gái trong truyện.
Đúng như Nguyễn tính toán, bảng giá đi khách của Mã Kiều Nhi và các nhân vật nữ khác tăng đột biến và trở thành vô giới hạn. Họ cũng đáp trả Nguyễn bằng cách cho chàng miễn phí vào cửa mỗi khi chàng có nhu cầu.
Cuộc đời thật đẹp. Chỉ số hạnh phúc của người Việt Nam được xếp trong top 10 trên thế giới. Nguyễn chỉ có thể lý giải điều này như một cách bôi trơn trong ứng xử bằng sự thỏa hiệp, tương nhượng lẫn nhau để cùng thắng. Một kinh nghiệm của chàng với những em đĩ già hết nhớt, hoặc để lắp lỗ đít một thằng đực.
Thường ra, phú quí sinh lễ nghĩa, nhưng với người Việt yêu thơ và làm thơ là một tâm lý tiểu nông để vượt qua cái số phận của kẻ nghèo hèn và bị áp bức. Thơ để ru ngủ hay thăng hoa cũng chỉ là một cách nói. Khi tự hào Việt Nam là một cường quốc thơ cũng chỉ có nghĩa là một dân tộc không ra gì. Mặc dù thơ vẫn được coi là tinh túy của văn chương và tâm hồn con người. Không có thơ, người Việt Nam không còn gì ngoài sự khốn khổ. Một cách thủ dâm, thơ an ủi và cứu rỗi.
Mã Kiều Nhi và Vương Thúy Kiều giải phóng tâm hồn Việt. Nhưng đặt người Việt trên bờ vực thẳm của đạo lý nhân sinh. Và người Việt mãi mãi lưỡng lự trước ngưỡng cửa tự do và tù ngục.
Từ Hải gặp Nguyễn hỏi: “Ông có tin người Việt Nam hạnh phúc vào hàng nhất thế giới không?”
Nguyễn nói: “Mấy cái nghiên cứu vớ vẩn ông bận tâm làm gì?”
Từ Hải: “Tôi biết đấy là bố láo. Nhưng tôi hỏi ông để một lần nữa muốn nói với ông, tôi cần ông.”
Nguyễn bảo: “Tôi đã trả lời ông rồi, tôi không phải Cao Bá Quát.”
Từ Hải nói: “Tôi cũng không phải giặc Cờ Đen.”
Nguyễn hỏi: “Ông muốn gì ở tôi?”
Từ Hải: “Như ông biết, tình hình hiện nay không cho phép hình thành bất cứ một tổ chức nào ngoài khuôn khổ chính quyền. Nhưng điều đó không ngăn trở chúng ta thành một lực lượng. Làm thế nào tập hợp được ý chí chung của người dân thành một lực lượng?”
Nguyễn bảo: “Có lẽ ông nên hỏi các công dân mạng.”
Từ Hải như người đốn ngộ. Hắn ta gật gù. Mỗi công dân là một nhà báo. Mỗi blogger là một chiến sĩ. Mỗi facebooker là một khẩu pháo.
Nguyễn nói: “Sự thật là vũ khí mạnh mẽ nhất.”
Từ Hải suy nghĩ nhưng không nói ra, trong cái lực lượng vô danh nhưng vô song đó, làm thế nào để trở thành lãnh tụ?
Dường như Nguyễn hiểu Từ Hải, chàng bảo: “Bây giờ không phải là thời của các lãnh tụ.”
Thúc Sinh nói với Từ Hải: “Cậu cần phải thành lập một mạng lưới ủng hộ viên để làm chủ dư luận. Chi phí cho kế hoạch này thuộc ngân sách bảo vệ quyền lãnh đạo của Hồ Tôn Hiến.”
Từ Hải thấy mình không thể thoát ra khỏi cái lưới của Hồ Tôn Hiến. Vì thế, một cách chính thức, Từ Hải tạo cơ chế cho mạng lưới ủng hộ viên họat động, đồng thời những cơ sở ngoại biên cũng được Từ Hải xúc tiến song hành và nó chỉ phục vụ cho lợi ích riêng của Từ Hải.
Tuy nhiên, có một thực tế không thể phủ nhận, tương quan lực lượng trên không gian mạng, ưu thế bao giờ cũng thuộc về những kẻ không có gì để mất và họ muốn thay đổi. Hồ Tôn Hiến biết điều ấy và ông ta không ngại sử dụng bất cứ thủ đọan nào để trấn áp cái bóng ma càng ngày càng lớn đe dọa sự tồn vong của ông ta. Từ bạo lực đến đê tiện.
Đám đông đáp trả bằng sự giễu cợt và khinh bỉ.
Năm 2012. Sở Khanh gặp Nguyễn bảo: “Ông làm đơn xin vô Hội Văn nghệ sĩ đi.”
Nguyễn nói: “Tôi không có khả năng chung chi.”
Sở Khanh bảo: “Cũng rẻ thôi mà.”
Nguyễn hỏi: “Bao nhiêu?”
Sở Khanh: “300 triệu.”
Nguyễn bảo: “Trả góp nhé?”
Sở Khanh nói: “Ông chỉ đùa.”
(Còn 1 kì)
© 2013 Nguyễn Viện & pro&contra
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers


