Phạm Thị Hoài's Blog, page 13

September 21, 2014

Trần Dần – Ghi chép về Cải cách Ruộng đất ở Bắc Ninh 1955-1956 (1)

Phạm Thị Hoài biên soạn


Sau đợt „vi phạm kỉ luật“ lần thứ nhất và bị giam kiểm thảo từ 13/6 đến 14/9/1955 [1], nhà thơ Trần Dần được cử đi dự hội nghị tổng kết đợt 4 và tham quan Cải cách Ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh, đợt cuối cùng của cuộc cách mạng „long trời lở đất“ ở nông thôn Việt Nam sáu mươi năm trước. Phổ biến với tên gọi „đi thực tế“, đó là hình thức đưa các văn nghệ sĩ và trí thức vào „thực tế cách mạng“ của công nhân, nông dân và binh sĩ, trụ cột của liên minh quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, để thúc đẩy và củng cố „giác ngộ giai cấp“ của tầng lớp trí thức, vốn được gắn với ý thức hệ tiểu tư sản, hay dao động và thiếu „tinh thần cách mạng triệt để“. Không chỉ riêng Trần Dần đi thực tế. Trong cuốn sổ ghi chép năm 1955 của mình, ông ghi: „Hoàng Yến [2] than phiền: Mình đi CCRĐ. Ai thấy mình cũng thành kiến là mình đả Tố Hữu, đả Trung uơng. Thành thử khó làm ăn quá.“ Ngày 2/11/1955, ông ghi: „Trước khi đi, Văn Phác [3] họp một số anh em, những Văn Cao, Lương Ngọc Trác [4], [...], Đỗ Nhuận để dặn dò. Văn Cao: Tôi thấy đi có lợi lắm, [...] dĩ nhiên là lợi lắm. Trước kia đồng chí Trần Dần hay tự do sinh hoạt, tôi lo nhỡ ra đồng chí Trần Dần lại khuyết điểm thì bỏ mẹ chúng mình. [...]“


Ngày 3/11, Trần Dần đến Bắc Ninh, được phân công vào đội Thái Hoà ở xóm Thịnh Lang, Đình Bảng. Thời gian dự hội nghị tổng kết đợt 4 được ông ghi lại như sau:


6/11: Khai mạc – 1 ngày

6-9/11: Học nghị quyết trung ương – 4 ngày

11-18/11: Báo cáo Đảng – 7 ngày

19-22/11: Kinh nghiệm cụ thể một số vấn đề – 4 ngày

23-27/11: Chỉnh đốn tổ chức – 5 ngày

28/11- 4/12: Chỉnh huấn – 7 ngày

5-14/12: Sắp xếp đội ngũ, khái quát 4 bước, kinh nghiệm, sản xuất, công giáo, kế hoạch buớc 1-10 ngày

Cộng: 38 ngày


Tháng 2/1956 ông đã quay lại Hà Nội, như vậy ông chỉ tham quan hai tháng đầu của đợt 5, còn chủ yếu là tham dự hội nghị tổng kết đợt 4, nhưng có lẽ chỉ ở tư cách dự thính. Ông ghi:


Đoàn á»§y viên bảo TD: – Sớm nay đi họp đảng viên nhé.

TD: – Tôi không được họp.

Đoàn ủy viên im lặng không nói gì. Lát sau đồng chí Khoa lại bảo TD đi họp.

TD: – Tôi không được họp. TD đem ít báo CCRĐ đợt 4 ra đầu ngõ ngồi xem. Ngõ rải đầy rÆ¡m mới xanh úa, nắng ná»­a ngõ, bóng râm ná»­a ngõ. Gà nó bới tung cả rÆ¡m. Một bà xi con đái đầu ngõ. Mấy đứa trẻ lăn lộn tùng phèo trên đống rÆ¡m. Trong nhà họp Đảng. TD muốn để cả tâm trí vào tờ báo, song lại lÆ¡ đãng nhìn nắng, nhìn rÆ¡m, những ý nghÄ© nó để đi đâu. TD đứng dậy không thèm rÅ© rÆ¡m, đi tìm một cái quán ngồi ăn chút gì, nói chuyện với bà hàng, nghÄ© đi đâu, nhưng chợt lại nhớ rằng ở nhà Đảng đang họp. TD không được họp.


Như vậy ghi chép của ông về CCRĐ là những thu hoạch từ hội nghị tổng kết đợt 4 này, không phải từ trải nghiệm trực tiếp, vì thế chúng cũng không được đề ngày tháng nối tiếp như các ghi chép mang tính nhật kí khác. Tuy vậy, những trang „ghi nóng“ này, ngay giữa cao trào của CCRĐ, là những tư liệu lịch sử quý giá, lẽ ra chúng phải chiếm một vị trí đặc biệt trong một triển lãm về CCRĐ. Tôi đã đưa một phần những ghi chép này vào cuốn Trần Dần: Ghi 1954-1960, do nhà Văn Nghệ ở California in năm 2001. Nhân sự kiện cuộc triển lãm về CCRĐ tại Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội phải đóng cửa sau vài ngày, đánh thức sự quan tâm mạnh mẽ của dư luận về một chương đau đớn trong lịch sử Việt Nam, tôi bổ sung vào phần đã công bố nhiều đoạn khác, mong được một công luận rộng rãi tại Việt Nam tiếp cận.


Những nghiệm thu của Trần Dần đặc biệt thú vị vì một mặt ông vẫn còn là một „cán bộ“ trong guồng máy tuyên truyền của Đảng, chấp hành về căn bản những đường lối lớn của Đảng; thậm chí quan sát thực tế CCRĐ qua một lăng kính và một bộ lọc thông tin chính thống hoặc không xa chính thống. Mặt khác, cũng chính thực tế đó đã khiến ông không hòa giải được với Đảng của mình mà ngược lại. Số phận bất đồng chính kiến mà ông vừa bắt đầu đã đi tiếp những kịch tính của nó, để rồi dẫn đến Nhân văn-Giai phẩm không lâu sau đó mà tín hiệu rõ ràng nhất là truyện ngắn „Anh Cò Lấm“ viết về CCRĐ của ông, với bút danh Trần Bá Xá. Cuối tháng 1/1956, tạp chí Tổ quốc số 27 đăng truyện ngắn này. Đầu tháng 3/1956, cũng tạp chí này, số 30, đăng lời „Tự phê bình“ gay gắt vì đã „sai lầm nghiêm trọng“, không nhận ra „mánh khóe tinh vi“,„tính chất phản động“ của tác phẩm đó [5]. Nhân văn-Giai phẩm rất cần đặt chung với Cải cách Ruộng đất trong cùng một khung cảnh chính trị.


Bản gốc các sổ ghi chép của Trần Dần vẫn được lưu tại gia đình ông. Bản chụp tôi có trong tay nhiều đoạn không đọc rõ, sau đây được kí hiệu bằng dấu [...]. Khi biên soạn những cuốn sổ ghi chép vốn không dành cho công luận này, việc chọn, bỏ, sử dụng nguyên văn hay can thiệp vào văn bản, dù chỉ là sửa chính tả, đều đặt người biên soạn trước những quyết định khó khăn, nhất là khi phần ghi chép về CCRĐ của Trần Dần lại nằm tương đối không theo trật tự thời gian trong 3 cuốn số khác nhau. Người biên soạn mong được sự thông cảm và hi vọng khi toàn bộ di cảo của Trần Dần được công bố, dựa trên bản gốc dễ đọc hơn, những sai sót nếu có trong văn bản sau đây chắc chắn sẽ được sửa lại.


Phạm Thị Hoài


___________


Vụ tự sát ở xã Quốc Tuấn


1) Nguyễn Văn Cộng 47 tuổi. CCRĐ bị duyệt là bá, hôm sau cả hai vợ chồng thắt cổ tự vẫn. Nghe bên nhà nó có tiếng động mạnh, cán bộ chủ quan cho là trâu bò cọ mình, nên không sang.


2) Nguyễn Văn Ân. Nghi phú ông, tự sát. Bị đình chỉ sinh hoạt. Ăn một bữa thịt chó cho sướng đời.


Những vụ tự sát như vậy – nhất là vụ 2 – không ngăn ngừa được thì rất hại chính trị và sai chính sách. Cán bộ kiểm điểm: tả, thiếu cảnh giác.


*


Chết vì bức tử


Ở Hoàn Long. Vợ cán bộ CCRĐ. Chị bị hậu sản, không làm ăn gì được.


Tay sai địa chủ dọa dẫm: „Chị [...] ăn bám. Chị là địa chủ rồi. Nay mai sẽ đấu, không ai đi lại chơi bời với nữa. Ra đường phải gọi trẻ con là ông.“


Chị toan treo cổ mấy lần, chú và mẹ chồng biết, ngăn lại được. Nhưng cứ bị dọa dẫm [...] đi đâu cũng không thoát. Rừng xanh núi đỏ cũng bắt về đấu. Hoang mang mãi, rốt cục bị điên đầu bể óc. Hai mẹ con cùng chết.


Địa chủ như vậy. Khi chúng mất ruộng, chúng còn cố bắt mạng của người ta.


*


Thuốc độc


Ở Quỳnh Côi địa chủ sai người bỏ thuốc độc ám hại cán bộ CCRĐ và nhân dân. Trong 4 ngày 3 vụ liền.


Một vụ: chúng cho một em bé có 100 $, đưa em một cục bằng quả chanh, bảo em vào chơi chỗ cấp dưỡng rồi tìm cách bỏ lẻn cục thuốc vào nồi nước. Anh chị em cấp dưỡng vô tình, lại hay mến trẻ, đứa bé lên 10 kháu khỉnh ngây thơ ngày nào chả chơi ở đó, ai mà chẳng yêu.


Em bé đánh rơi cục thuốc, vỡ ra, em chỉ nhặt có một mảnh bằng ngón tay cái. Lừa lúc vô tình, em bỏ vào nồi nước.


Kết quả: 76 anh chị em cán bộ bị đi tả, nôn má»­a mất 3 ngày, tưởng chết, – may có thuốc giã ngay từ hôm đầu, không có thì nguy.


*


Đem nhà ngói trả Nông hội


Ông cụ gàn dở bị nó dọa: nhà ngói này sắp đổ. Địa chủ nó chết thành ma, nó quật đổ nhà chết người. Ông cụ hoảng quá đem nhà ra trả nông hội.


*


Một vụ ám sát cả gia đình 7 người


Bọn Quốc dân Đảng giết cả một gia đình: 5 người con nhỏ nằm chết ngang giường, người mẹ nằm dọc, cổ tím bầm cả, chắc là bị bóp cổ. Người cha treo cổ kèo nhà. Khám thi thể không thấy hộc máu vãi cứt, tức là không phải chết vì treo cổ, mà có vết tay ở cổ, chắc bị chúng bóp chết rồi mới treo lên.


Ta mất với địa chủ 7 người, một gia đình nông dân, một cái rễ tốt, một đầu mối biết rất nhiều về bọn địa chủ và Quốc dân Đảng ở đó.


*


Cảnh giác quá


Hội nghị họp ở Đình Bảng, đã giảm tô, bọn phản động càng hoạt động dữ: cắt điện thoại, đốt nhà một lần, ném đá hai lần.


Có anh phê bình ngay Đoàn ủy là thiếu cảnh giác. Vậy thì muốn có cảnh giác phải lên trời mà họp hay sao?


Một anh khác đóng ở một gia đình rất tốt. Anh em đi vắng, chủ nhà cất ba lô vào buồng rồi khóa. Anh ta bị ám ảnh những địch, phản động nọ kia, vội phê bình: ta mất cảnh giác cao độ! [...] Người ta gọi là cảnh giác quá. Quá nghĩa là lố bịch, gàn, hoảng hốt.


*


Không mưa mà cũng có ếch


Khi thảo luận nội quy, chị X cứ thắc mắc về mục: „Thế nhỡ anh ấy ở đoàn bạn, lâu ngày mới gặp thì có được đi nói chuyện với nhau không?“.


Anh em can: Không nên đi một trai một gái nhiều quá. Tuy là vô tư nhưng nhân dân có con mắt nghi ngờ, kẻ địch có cái miệng hiểm, đàn bà có cái lưỡi bép xép, v.v…


Về sau ban đêm có hai cái bóng cõng nhau ngoài đồng. Ì ọp mãi. Có anh thấy vắng chị ở giường, mãi sau chị mới về, thay quần áo ban đêm. Anh đâm nghi, hôm sau báo cáo.


Dư luận nhân dân tức thì ngay hôm ấy có ngay câu: „Không mưa mà lại có ếch. Ếch to lắm, cõng nhau ngoài đồng.“.


Về sau chị X mới kiểm thảo ra. Và dĩ nhiên chịu kỉ luật của đoàn.


Chị X: mắt một mí, lông mi nhổ còn một vệt cong mà sắc, hay hát „từng đoàn bươm bướm xinh, tung tăng cánh bay vờn…“, người thanh, mặt trái xoan, mắt đảo như chớp, giọng nói uốn éo.


*


[...] figures


1. Đội trưởng Thái Hòa tên là ông Liễu. Người gày đét, quần áo nâu bạc, khoác một cái vét ton tím, có giòng giọc trắng đã bạc, cổ áo đã sờn, khuỷu tay áo rách lòi vải lót trắng. Mũ trắng phở. Đeo kính. Mặt khô đét. Nhưng đôi môi dầy lúc nào cũng mở làm cho bộ mặt có cái gì dễ tính. Cả mặt chỉ có đôi môi là có duyên. Cả mặt chỉ thấy môi. Thành phần gì? – Trung nông. Quê đồng chí phát động chưa? – Chưa. Vậy thì cái trung nông ấy là có vấn đề đấy. Đánh một cái dấu hỏi. Ông Liễu cười khì.


2. Đội trưởng đoàn giảm tô VÄ©nh Phúc trước sát nhập sang đây chỉ làm đội viên. Trên 40 tuổi. Mắt to, vuông. Mắt sâu vào lỗ, xong lại lồi lên trong đáy, viền đỏ; khi nhìn cứ trờn trợn đôi mắt toét lên, lông mày nhấp nháy, đôi môi mỏng mà sắc, hai mép nhọn hoắt cứ mấp máy, bộ mặt tuy xanh vàng nhưng có lẫn những vầng máu đỏ nó tụ lên, cổ khoác khăn mặt, quần áo nâu mới, dáng cứng, tất cả toát lên một cái vẻ gì hào lý cÅ©. Ăn nói sang sảng, gọi người trống không. Có ai thắc mắc gì không? – Không đâu, nhưng tổ tôi có lẽ có anh Tôm anh Tiếc gì đấy thắc mắc sát nhập gì đó… Phải không?… Có thì nói lên… Nhưng không ai nói cả… Ông ta cười.


Bên kia làm đội trưởng, sang đây làm đội viên, ông ta có thắc mắc ngầm nhưng không nói, định xui bẩy đội viên khác nói. Phát biểu ra vẻ đành hanh, kiểu ta đây biết rồi: – Kinh nghiệm bên Quỳnh Côi thế này là ổn lắm… Chứ đây thì…


Làm ra vẻ không có thắc mắc, càng cố tích cá»±c. Ban sáng, xắn quần gánh một gánh nước đầy về cho anh em rá»­a mặt. Đấy, nước đấy các cậu ạ… Chiềng hết người này người nọ.


Hội trường kém 7 đầy 5 nghìn người, mà ông ta đề nghị: ra từng đội, hết đội này đến đội khác cho nó có trật tự! Người ta phản đối, vì lâu quá, mất 4,5 tiếng đồng hồ sao? Ông ta nhất định giữ ý kiến: cần phải trật tự. Người ta có cảm tưởng ai làm việc với ông ta sẽ bị biến thành con cờ gỗ, tùy ông xếp đặt cho nó đẹp mắt, gọn gàng, khỏi lung tung có vấn đề gì lôi thôi cho ông ta.


Tôi xin thảo luận, theo tôi thì anh em ở cải cách mới có biết chứ chúng tôi ở giảm tô thì biết sao được. Mà theo Đảng ủy thì bảo rằng bên cải cách là chính cơ mà.


Phát biểu gì là có tính cách thay mặt anh em VÄ©nh Phúc. Kiểu anh chị. Hay cãi. Hay chối. Hay chiềng. „Sở dÄ© tôi nói thế là vì… Ý tôi là thế này cÆ¡… Đấy tôi làm việc ấy đấy…“


*


Gọi „bà Quản“ là mất 5 cân gạo


Đội vừa về, đi đâu thấy dân đang nói chuyện bỗng im thin thít. Mãi sau mới là vì có tin tung ra đội phát động về, hễ ai gọi ông bà là bị phạt 5 cân gạo. Thành ra dân sợ, giữ mồm miệng. Nếu nói kiêng thì phải kiêng nhiều lắm: Ông Quản, bà Lý, ông Hào, cụ ThÆ¡, ông Chánh, bà Giáo…


Đã biết ai là địa chủ ai không mà tránh? Đâu mà đã dễ đổi giọng lưỡi, hôm qua ông bà, hôm nay thằng ngay? Đó là tâm lý của nhân dân. Chi bằng giữ miệng là hơn.


*


Vụ lựu đạn Xã Cảnh Hưng (Phủ Từ Sơn)


9 người chết, 39 người bị thương. Đang hội nghị, nhân dân thì bị ném lựu đạn. Sau bắt ra thủ phạm: con địa chủ, là học sinh, mới ở Hà Nội về.


*


Cấm thoái tô


Chúng cấm không địa chủ nào được thoái tô cho nông dân. Một địa chủ xin ta về sớm mai sẽ trù tính thoái tô. Chúng lẻn ban đêm vào bóp cổ cả hai vợ chồng địa chủ này; xong đem lên gác, buộc thừng vào cổ, chằng hai đầu vào hai tay, xếp hai vợ chồng sóng soài trên sàn gác, làm như họ tự vẫn.


Chúng giết lẫn nhau để cảnh cáo nhau và để vu cho cán bộ ta.


*


Lương giáo


Lương giáo gặp nhau, tránh vào ngõ, rẽ đường khác. Đang ngồi hàng bỏ đi. Không thèm nói với nhau một câu nào.


*


Giết rễ


Ông cụ đi đồng về. Vợ đang phơi thóc ngoài sân. Ông cụ ngả nón vào buồng định nghỉ hút điếu thuốc. Lát sau bà vợ vào thấy chồng nằm thẳng cẳng. Trên mái nhà có một lỗ hổng.


Chúng rỡ mái ra vào bằng đường ấy, giết mất ông cụ.


*


Ta khác địa chủ


Một anh cán bộ X thấy tịch biên gia sản của địa chủ, lại tịch thu từ cái tã của con cái nó. Anh thương lắm.


Anh Y bảo: Thường gì nó? Nó có thương con cái nhân dân mình đâu?


Anh X đáp: Tôi nghĩ ta khác địa chủ ở chỗ đó. Những đứa bé con kia có tội tình gì? Chúng nó giết trẻ con. Chúng ta cứu trẻ con chứ, Mà phải cứu cho trẻ con thoát cả khỏi ảnh hưởng bố mẹ nó nữa chứ.


*


Không đem xe đạp – Ông tỉnh đội trưởng không biết gì


Trước khi đi, ông tỉnh đội trưởng không biết nghe đâu về nói ầm ầm với anh em những đi cải cách phải mặc quần áo nâu, không được mang theo xe đạp… Ông ấy gắt ngậu lên cÆ¡ mà. Đem xe đạp đi mà nát nông dân à?


Thế là có anh gửi, có anh bán xe đáng 8, 9 vạn chỉ bán 6, 7 vạn thốc tháo đi. Tới nơi mới thấy là không có xe đạp thì khổ quá [...] dại quá, nghe ông tỉnh đội trưởng không biết gì ấy đâm ra khổ. Phàm ở đời, những anh không biết gì lại là những anh ngậu xị, nhắng nhất.


Gắt: Đi cải cách mà ăn vận công tá»­ vậy à (quân phục mới)? Xe đạp với xe điếc, đem đi người ta lại đuổi về cho ấy à? Đừng có làm xấu hổ tỉnh đội ta đi. Tôi xin các ông, các ông miễn cho cái món xe cộ xa xỉ ấy đi cho. Ba cùng mà lại còn kè kè cái xe bên cạnh sao? Giải quyết thế nào á? Gá»­i đi… Bán đi… Chiều nay là lên đường rồi… Lại còn coi cái xe hÆ¡n là cải cách sao?…


*


Gánh củi đi nhanh


Cán bộ ba cùng với một anh làm nghề đốn củi rừng bán kiếm ăn. Ban sớm đi theo anh vào rừng. Anh ta đi thoăn thoắt, cán bộ theo không kịp, một lát thì thấy mất hút, vào rừng tìm mãi mới thấy anh ta thì bó củi đã to rồi. Cán bộ đẵn giúp ít cành, cũng chưa kịp phát động gì cả. Anh kia bó vội thành hai bó, xâu đòn gánh chạy về. Cán bộ đuổi theo không kịp. Loáng cái lại mất hút. Cán bộ nghĩ có lẽ anh ấy sợ cán hộ hay sao? Có vấn đề gì mà cứ lẩn như vậy?


Mãi sau mới biết: chỉ vì anh ấy không có gạo, phải vội đi vội về, bán củi lấy tí gạo mà ăn.


*


[...]


Cạnh thị xã Bắc Ninh. Hơn 4000 người/ 43 địa chủ.


Một tên giả điên cầm dao đi các xóm thực hiện âm mưu đe dọa, phản tuyên truyền, của địa chủ.  Một ông cụ trung nông, gù, mất lao động, ăn nhờ gia đình bị đe dọa là Việt Minh sẽ đấu, coi là địa chủ. Ông hoảng hốt định tự vẫn.


Bọn phản động bàn nhau giết hai tên đã già mà hay hoang mang của chúng (Côn và Mưu). Để khi đội về sẽ tố cả vào hai tên đã chết ấy.


Con giai giết bố (Tuân)


Tây: như nắm tay co vào rồi sẽ duỗi ra. Nhân dân đấu địa chá»§. Tây về, địa chá»§ lại đấu nhân dân. Ai có tội, ngụy quân ngụy quyền v.v… Việt Minh nó sẽ đấu hết. Chào thầy Cai,… Chết bà mất lập trường rồi.


*


Đấu tên Bút


Anh Bông là một anh em họ, làm thẩm phán. Anh nói đến một tiếng đồng hồ để thanh minh sự liên quan của anh với tên Bút. Quần chúng xì xào, anh em với nó thì kể lể gì? Ai cũng sốt ruột. Cán bộ véo anh Bông hai lần, véo cái nào Bông càng thanh minh dài dòng mãi. Trời nắng nhễ nhại. Cuối cùng Bông cũng im, hết lời lải nhải.


Trong khi đấu, tên Bút cứ nhìn lên trời. Anh Bông tố. Xong hỏi, Bút, mày có nhận không? – Dạ thưa ông, bố ông chết tôi phải chôn, mẹ ông đi lấy chồng tôi phải rước ông với các con ông về nuôi. Ông tố vậy, chúng tôi xin nhận là có ạ. Xong nó lại nhìn lên trời cười ha hả.


Quần chúng có người cười. Có người mắng: Lại còn cười, mất cả lập trường. Có người chửi sư thằng phản động. Có người trách: Cái anh Bông mới dại chứ! Mà sao thẩm phán cứ ngồi im cả thế kia! Nắng quá càng thêm khó chịu.


Kết quả: phải ngừng cuộc đấu lại.


(còn tiếp)


© 2014 pro&contra




[1] Vì những tội: 1) cùng 5 văn nghệ sĩ khác đệ trình „Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa“ yêu cầu tự do sáng tác và sửa đổi chính sách quản lý văn nghệ trong quân đội; 2) quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê bất chấp sự phản đối của các cấp lãnh đạo; 3) viết đơn xin giải ngũ và đơn xin ra khỏi Đảng. (Các chú thích trong bài đều của người biên soạn.)




[2] Nhà văn Hoàng Yến (1922-2012). Bài viết được nhắc tới là bài „Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?“ viết ngày 28/2/1955, đăng trên tập san Sinh hoạt Văn nghệ số 35, báo Văn nghệ và báo Nhân dân. Xem talawas, 9/7/2005.




[3] Nhà văn Văn Phác (1926-2012). Ở thời điểm năm 1955, ông là Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ Quân đội, cơ quan của Trần Dần. Sau này ông trở thành Bộ trưởng Văn hóa, Ủy viên BCHTƯ Đảng, đại biểu Quốc hội.




[4] Nhạc sĩ Lương Ngọc Trác (1928-2013)




[5] talawas, 30/5/2008

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 21, 2014 08:29

September 18, 2014

Công bất an, chết bất thường

pro&contra - Phúc trình vừa công bố hôm 16/9/2014 của Human Rights Watch “Công bất an – Những vụ tử vong khi bị tạm giam, giữ và vấn nạn công an bạo hành ở Việt Nam” (bản tiếng Anhbản tiếng Việt, xem thêm Thông cáo báo chí bản tiếng Anhbản tiếng Việt) trình bày tình trạng được đúc kết bằng câu nói trong dân gian “Bình thường như chết ở công an phường” tại Việt Nam bốn năm qua, từ tháng Tám 2010 đến nay. 28 trường hợp tử vong được đề cập, trong đó 14 vụ công an giết dân và 14 vụ người dân chết bất thường trong vòng tay của công an mà theo tuyên bố từ phía chính quyền là vì tự tử, bệnh tật hay những nguyên nhân chưa rõ ràng. Song đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Con số thật chưa bao giờ được công bố.


Danh sách sau đây, do một cộng tác viên gửi đến pro&contra, là một bổ sung trong giới hạn có thể cho bản phúc trình đau xót nói trên. Phần lớn các trường hợp này chỉ được báo chí nhắc đến trong một bản tin vài dòng ngắn ngủi, rồi mất hút trong vòng xoáy bạo lực mà dường như người ta đã quen đến mức không còn bận tâm nhiều nữa. Theo đó, 36/67 trường hợp tự tử, cách phổ biến nhất mà 29 người đã chọn là treo cổ ngay tại trụ sở hoặc trong nhà giam của công an. Những người bỗng chết vì bệnh, thường là bệnh tim, lại còn rất trẻ, có người mới 17 tuổi. Còn lại là những cái chết chưa rõ nguyên nhân. Bất thường đã trở thành bình thường.


______________



Lê Hoài Thương (21 tuổi), ngày 18/8/2014 tại TP Pleiku, Gia Lai: tự gây tai nạn giao thông dẫn đến tử vong khi bị CSGT truy đuổi vì không đội mũ bảo hiểm;
Bùi Tấn Hoàng (27 tuổi), ngày 18/8/2014 tại TP HCM: tự ngã dẫn đến tử vong sau khi vào trụ sở công an cầu cứu;
Nguyễn Tiến Thọ (29 tuổi), ngày 16/8/2014 tại Sơn Tây, Hà Nội: nhảy xuống sông chết đuối khi bị công an giải về trụ sở;
Trần Giang Nam (43 tuổi), ngày 5/8/2014 tại huyện Hưng Hà,Thái Bình: treo cổ tự tử trong đồn công an sau khi bị bắt vì nghi án ăn trộm 21 con gà;
Nguyễn Văn Tuấn (39 tuổi), ngày 5/8/2014 tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang: tự ngã dẫn đến tử vong khi bỏ chạy do không đội mũ bảo hiểm, bị CSGT kiểm tra và đánh bằng dùi cui;
Phạm Duy Quý (21 tuổi), ngày 4/8/2014 tại Hải Dương: treo cổ tự tử trong trại tạm giam của công an tỉnh sau khi đến đầu thú về vụ giết 4 người trong gia đình;
Nguyễn Văn Chín (44 tuổi), ngày 25/6/2014 tại TP HCM: bị “người lạ” đánh đến chết sau khi CSGT kiểm tra nồng độ cồn;
Lê Văn Nam, ngày 19/6/2014, tại TP Phan Thiết, Bình Thuận: chết đuối khi chạy trốn khỏi nhà tạm giữ của công an;
Nguyễn Thị Gái (30 tuổi), ngày 17/6/2014 tại TP HCM: chết chưa rõ nguyên nhân khi bị tạm giữ tại công an phường;
Trần Đình Toàn (54 tuổi), ngày 11/6/2014 tại TP Nam Định: chết do sốc ma tuý tại trụ sở công an phường;
Bùi Thị Hương (42 tuổi), ngày 18/3/2014 tại Thị xã Đồng Xoài, Bình Phước: treo cổ tự tử trong trụ sở công an phường;
Huỳnh Nhất Trung (20 tuổi), ngày11/3/2014  tại huyện Vân Canh, Bình Định: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an huyện;
Trịnh Hoàng Dương (23 tuổi), ngày 7/2/2014 tại TP Hòa Bình: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an thành phố;
Nguyễn Văn Hải (44 tuổi), ngày 20/1/2104 tại huyện Thanh Hà, Hải Dương: nhảy lầu tự tử tại trụ sở công an huyện;
Lầu Nguyên Sầu (39 tuổi), ngày 4/1/2014 tại huyện Cẩm Mỹ, Đồng Nai: bị bắn chết vì súng của cảnh sát bị cướp cò trong khi vây sòng bạc;
Nguyễn Văn Pha (60 tuổi), ngày 3/1/2014 tại Phú Yên: chết do nhồi máu cơ tim trong trại tạm giam của công an tỉnh;
Đỗ Duy Việt (48 tuổi), ngày 23/12/2013 tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công huyện;
Đinh Ngọc Hóa (36 tuổi), ngày 21/12/2013 tại thị xã Dĩ An, Bình Dương: treo cổ tự tử tại trụ sở công an phường;
Y Beo Ksơr (17 tuổi), ngày 14/12/2013 tại Đắk Lắk: chết vì bệnh tim trong nhà tạm giam của công an tỉnh;
Trần Mạnh Viễn (26 tuổi), ngày 26/10/2013 tại Hà Nội: bị hai công an đánh chết trong một vụ ẩu đả tại quán nhậu;
Trần Thị Hải Yến (31 tuổi), ngày 7/10/2013 tại huyện Tụy An, Phú Yên: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an huyện;
Lê Duy Định (46 tuổi), ngày 23/9/2013 tại Hà Nội: chết chưa rõ nguyên nhân sau khi bị công an bắt về đồn;
Nguyễn Đăng Cự (41 tuổi), ngày 12/5/2013 tại huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an huyện;
Lê Hoàng Triệu Khang (15 tuổi): ngày 19/8/2013 tại TP Bảo Lộc, Lâm Đồng: treo cổ tự tử sau khi bị công an lấy cung;
Trần Kim Phụng (59 tuổi), ngày 14/4/2013 tại TP HCM: chết vì phù phổi cấp trong nhà tạm giữ của công an quận;
Lê Quốc Đạt, ngày 13/4/2013 tại TP HCM: chết trong trại giam của công an vì tiêu chảy kéo dài do bệnh AIDS;
Trần Văn Hiền (42 tuổi), ngày 09/4/2013 tại TP HCM: bị “người lạ” đánh chết sau khi cãi vã với CSGT;
Nguyễn Văn Quệ (47 tuổi), ngày 7/4/2013 tại huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng: chết vì bệnh tim khi bị công an vây bắt;
Trần Bá Lộc (24 tuổi), này 04/1/2013 tại thị trấn Sông Đốc, Cà Mau: treo cổ tự tử tại trụ sở công an tỉnh;
Đoàn Vũ Hòa (33 tuổi), ngày 19/12/2012 tại TP Hải Phòng: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an thành phố;
Phạm Thế Hiền (28 tuổi), ngày 18/9/2012 tại huyện Tiểu Cần, Trà Vinh: treo cổ tự tử tại trụ sở công an huyện;
Nguyễn Trung Giảng, ngày 11/9/2012 tại Lâm Đồng: tự tử trong trại giam;
Hồ Long Giang (27 tuổi), ngày 14/9/2012 tại thị xã Long Khánh, Đồng Nai: treo cổ tự tử tại nhà tạm giam của công an thị xã;
Dương Mỹ Linh (54 tuổi), ngày 6/8/2012 tại Cà Mau: treo cổ tự tử trong trại tạm giam của công an tỉnh;
Lê Thanh Tuấn (49 tuổi), ngày 2/5/2012 tại Vĩnh Long: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an tỉnh;
Phan Thanh Dương (18 tuổi), ngày 6/4/2012 tại Cần Thơ: tự tử (không rõ bằng cách nào) trong trại giam của công an;
Tăng Hồng Phúc (26 tuổi), ngày 2/4/2012 tại TP HCM: chết do tràn dịch màng phổi trong trại tạm giam của công an thành phố;
Hoàng Gia Đạt Phước (35 tuổi), ngày 19/2/2012 tại TP HCM: chết do phù thủng cấp tính trong trại tạm giam của công an thành phố;
Võ Tấn Tâm (27 tuổi), ngày 1/2/2012 tại TP Đà Nẵng: chết do bệnh lý về tim mạch, có dấu hiệu bị đánh;
Ngô Tuấn Khanh (22 tuổi), ngày 30/12/2011 tại huyện Cần Đước, Long An: chết trước phiên phúc thẩm trong trại giam, chưa rõ nguyên nhân;
Nguyễn Văn Nhẫn (20 tuổi), ngày 19/12/2011 tại huyện Yên Định, Thanh Hóa: treo cổ tự tử tại nhà tạm giữ của công an huyện;
Nguyễn Minh Tâm (29 tuổi), ngày 23/11/2011 tại huyện Tiên Phước, Quảng Nam: chết trong nhà tạm giam của công an huyện vì bệnh tim;
Đoàn Văn Chí (36 tuổi), ngày 8/11/2011 tại huyện Bù Gia Mập, Bình Phước: chết khi bị công an giam giữ, không rõ nguyên nhân;
Nguyễn Văn Hận (19 tuổi), ngày 23/10/2011 tại TP Biên Hòa, Đồng Nai: chết trong nhà tạm giữ của công an thành phố, chưa rõ nguyên nhân;
Ngô Văn Cường (43 tuổi), ngày 12/10/2011 tại huyện An Dương, Hải Phòng: chết sau một phát súng chỉ thiên của công an xã;
Nguyễn Văn Sậm (62 tuổi), ngày 10/10/2011 tại TP Cần Thơ: chết không rõ nguyên nhân trong nhà tạm giữ của công an;
Trương Mạnh Tuấn (51 tuổi), ngày 5/10/2011 tại TP Nha Trang, Khánh Hòa: chết do nhảy lầu tự tử tại trụ sở công an phường;
Nguyễn Gia Trung (29 tuổi), ngày 11/9/2011 tại huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng: đập đầu tự tử trong trại giam;
Trần Thị Vượng (49 tuổi), ngày 8/8/2011 tại TP Thái Bình: nhảy lầu tự tử tại trụ sở công an thành phố;
Đặng Phi Vũ (35 tuổi), ngày 17/7/2011 tại TP Cà Mau: treo cổ tự tử tại phòng tạm giữ của công an thành phố;
Lê Anh Thắng (34 tuổi), ngày 25/4/2011 tại Phú Yên: treo cổ tự tử trong nhà tạm giữ của công an thành phố;
Đặng Ngọc Trung (48 tuổi), ngày 15/3/2011 tại thị xã Đồng Xoài, Bình Phước: treo cổ tự tử tại trụ sở công an xã;
Ngô Quang Phái (59 tuổi), ngày 6/3/2011 tại huyện Tân Lạc, Hòa Bình: treo cổ tự tử tại trại giam của công an huyện;
Nguyễn Lập Phương (46 tuổi), ngày 6/3/2011 tại huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng: chết vì bệnh tim tại trụ sở công an huyện;
Trần Văn Trường (30 tuổi), ngày 25/2/2011 tại Bắc Giang: chết trong trại tạm giam của công an tỉnh vì suy thận và suy gan nặng;
Võ Đức Duy (28 tuổi), ngày 23/2/2011 tại TP Đà Nẵng: chết vì bệnh lý trong trại tạm gaim của công an thành phố;
Lê Bá Thụ (25 tuổi), ngày 27/1/2011 tại huyện Như Xuân, Thanh Hóa: treo cổ tự tử tại trụ sở công an huyện;
Đặng Văn Đen (32 tuổi), ngày 17/12/2010 tại TP Long Xuyên, An Giang: chết vì bệnh lý tim, phổi cấp tính sau khi ở trụ sở công an về;
Nguyễn Văn Thăng (33 tuổi), ngày 3/12/2010 tại huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng: nuốt bả chó tự tử tại trụ sở công an xã;
Nguyễn Nam Hà (33 tuổi), ngày 24/11/2010 tại Khánh Hòa: treo cổ tự tử trong trại tạm giam của công an tỉnh;
Trần Minh Tình (27 tuổi), ngày 20/10/2010 tại Phú Yên: treo cổ tự tử trong trại giam của công an tỉnh;
Bùi Đinh Thanh Huy (20 tuổi), ngày 17/10/2010 tại TP Mỹ Tho, Tiền Giang: treo cổ tự tử tại trụ sở công an phường;
Liên Triều Ân, ngày 12/10/2012 tại TP Phan Thiết, Bình Thuận: treo cổ tự tử tại trụ sở công an thành phố;
Huỳnh Văn Thâm (32 tuổi), ngày 9/10/2010 tại huyện Châu Thành, Tiền Giang:  treo cổ tự tử tại trụ sở công an xã;
Lê Vĩnh Lân (21 tuổi), ngày 2/10/2010 tại TP Đà Nẵng: chết tại trụ sở công an quận do bệnh lý;
Trần Ngọc Đường (52 tuổi), ngày 9/9/2010 tại huyện Trảng Bom, Đồng Nai: treo cổ tự tử tại trụ sở ủy ban xã;
Trần Duy Hải (32 tuổi), ngày 8/8/2010 tại huyện Châu Thành A, Hậu Giang: treo cổ tự tử tại nhà tạm giữ của công an huyện;

© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 18, 2014 01:21

Công bất an, chết bất thường

pro&contra - Phúc trình vừa công bố hôm 16/9/2014 cá»§a Human Rights Watch “Công bất an – Những vụ tá»­ vong khi bị tạm giam, giữ và vấn nạn công an bạo hành ở Việt Nam” (bản tiếng Anh và bản tiếng Việt, xem thêm Thông cáo báo chí bản tiếng Anh và bản tiếng Việt) trình bày tình trạng được đúc kết bằng câu nói trong dân gian “Bình thường như chết ở công an phường” tại Việt Nam bốn năm qua, từ tháng Tám 2010 đến nay. 28 trường hợp tá»­ vong được đề cập, trong đó 14 vụ công an giết dân và 14 vụ người dân chết bất thường trong vòng tay cá»§a công an mà theo tuyên bố từ phía chính quyền là vì tá»± tá»­, bệnh tật hay những nguyên nhân chưa rõ ràng. Song đó chỉ là phần nổi cá»§a tảng băng chìm. Con số thật chưa bao giờ được công bố.


Danh sách sau đây, do một cộng tác viên gửi đến pro&contra, là một bổ sung trong giới hạn có thể cho bản phúc trình đau xót nói trên. Phần lớn các trường hợp này chỉ được báo chí nhắc đến trong một bản tin vài dòng ngắn ngủi, rồi mất hút trong vòng xoáy bạo lực mà dường như người ta đã quen đến mức không còn bận tâm nhiều nữa. Theo đó, 36/67 trường hợp tự tử, cách phổ biến nhất mà 29 người đã chọn là treo cổ ngay tại trụ sở hoặc trong nhà giam của công an. Những người bỗng chết vì bệnh, thường là bệnh tim, lại còn rất trẻ, có người mới 17 tuổi. Còn lại là những cái chết chưa rõ nguyên nhân. Bất thường đã trở thành bình thường.


______________



Lê Hoài Thương (21 tuổi), ngày 18/8/2014 tại TP Pleiku, Gia Lai: tự gây tai nạn giao thông dẫn đến tử vong khi bị CSGT truy đuổi vì không đội mũ bảo hiểm;
Bùi Tấn Hoàng (27 tuổi), ngày 18/8/2014 tại TP HCM: tự ngã dẫn đến tử vong sau khi vào trụ sở công an cầu cứu;
Nguyễn Tiến Thọ (29 tuổi), ngày 16/8/2014 tại Sơn Tây, Hà Nội: nhảy xuống sông chết đuối khi bị công an giải về trụ sở;
Trần Giang Nam (43 tuổi), ngày 5/8/2014 tại huyện Hưng Hà,Thái Bình: treo cổ tự tử trong đồn công an sau khi bị bắt vì nghi án ăn trộm 21 con gà;
Nguyễn Văn Tuấn (39 tuổi), ngày 5/8/2014 tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang: tự ngã dẫn đến tử vong khi bỏ chạy do không đội mũ bảo hiểm, bị CSGT kiểm tra và đánh bằng dùi cui;
Phạm Duy Quý (21 tuổi), ngày 4/8/2014 tại Hải Dương: treo cổ tự tử trong trại tạm giam của công an tỉnh sau khi đến đầu thú về vụ giết 4 người trong gia đình;
Nguyễn Văn Chín (44 tuổi), ngày 25/6/2014 tại TP HCM: bị “người lạ” đánh đến chết sau khi CSGT kiểm tra nồng độ cồn;
Lê Văn Nam, ngày 19/6/2014, tại TP Phan Thiết, Bình Thuận: chết đuối khi chạy trốn khỏi nhà tạm giữ của công an;
Nguyễn Thị Gái (30 tuổi), ngày 17/6/2014 tại TP HCM: chết chưa rõ nguyên nhân khi bị tạm giữ tại công an phường;
Trần Đình Toàn (54 tuổi), ngày 11/6/2014 tại TP Nam Định: chết do sốc ma tuý tại trụ sở công an phường;
Bùi Thị Hương (42 tuổi), ngày 18/3/2014 tại Thị xã Đồng Xoài, Bình Phước: treo cổ tự tử trong trụ sở công an phường;
Huỳnh Nhất Trung (20 tuổi), ngày11/3/2014  tại huyện Vân Canh, Bình Định: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an huyện;
Trịnh Hoàng Dương (23 tuổi), ngày 7/2/2014 tại TP Hòa Bình: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an thành phố;
Nguyễn Văn Hải (44 tuổi), ngày 20/1/2104 tại huyện Thanh Hà, Hải Dương: nhảy lầu tự tử tại trụ sở công an huyện;
Lầu Nguyên Sầu (39 tuổi), ngày 4/1/2014 tại huyện Cẩm Mỹ, Đồng Nai: bị bắn chết vì súng của cảnh sát bị cướp cò trong khi vây sòng bạc;
Nguyễn Văn Pha (60 tuổi), ngày 3/1/2014 tại Phú Yên: chết do nhồi máu cơ tim trong trại tạm giam của công an tỉnh;
Đỗ Duy Việt (48 tuổi), ngày 23/12/2013 tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công huyện;
Đinh Ngọc Hóa (36 tuổi), ngày 21/12/2013 tại thị xã Dĩ An, Bình Dương: treo cổ tự tử tại trụ sở công an phường;
Y Beo Ksơr (17 tuổi), ngày 14/12/2013 tại Đắk Lắk: chết vì bệnh tim trong nhà tạm giam của công an tỉnh;
Trần Mạnh Viễn (26 tuổi), ngày 26/10/2013 tại Hà Nội: bị hai công an đánh chết trong một vụ ẩu đả tại quán nhậu;
Trần Thị Hải Yến (31 tuổi), ngày 7/10/2013 tại huyện Tụy An, Phú Yên: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an huyện;
Lê Duy Định (46 tuổi), ngày 23/9/2013 tại Hà Nội: chết chưa rõ nguyên nhân sau khi bị công an bắt về đồn;
Nguyễn Đăng Cự (41 tuổi), ngày 12/5/2013 tại huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an huyện;
Lê Hoàng Triệu Khang (15 tuổi): ngày 19/8/2013 tại TP Bảo Lộc, Lâm Đồng: treo cổ tự tử sau khi bị công an lấy cung;
Trần Kim Phụng (59 tuổi), ngày 14/4/2013 tại TP HCM: chết vì phù phổi cấp trong nhà tạm giữ của công an quận;
Lê Quốc Đạt, ngày 13/4/2013 tại TP HCM: chết trong trại giam của công an vì tiêu chảy kéo dài do bệnh AIDS;
Trần Văn Hiền (42 tuổi), ngày 09/4/2013 tại TP HCM: bị “người lạ” đánh chết sau khi cãi vã với CSGT;
Nguyễn Văn Quệ (47 tuổi), ngày 7/4/2013 tại huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng: chết vì bệnh tim khi bị công an vây bắt;
Trần Bá Lộc (24 tuổi), này 04/1/2013 tại thị trấn Sông Đốc, Cà Mau: treo cổ tự tử tại trụ sở công an tỉnh;
Đoàn Vũ Hòa (33 tuổi), ngày 19/12/2012 tại TP Hải Phòng: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an thành phố;
Phạm Thế Hiền (28 tuổi), ngày 18/9/2012 tại huyện Tiểu Cần, Trà Vinh: treo cổ tự tử tại trụ sở công an huyện;
Nguyễn Trung Giảng, ngày 11/9/2012 tại Lâm Đồng: tự tử trong trại giam;
Hồ Long Giang (27 tuổi), ngày 14/9/2012 tại thị xã Long Khánh, Đồng Nai: treo cổ tự tử tại nhà tạm giam của công an thị xã;
Dương Mỹ Linh (54 tuổi), ngày 6/8/2012 tại Cà Mau: treo cổ tự tử trong trại tạm giam của công an tỉnh;
Lê Thanh Tuấn (49 tuổi), ngày 2/5/2012 tại Vĩnh Long: treo cổ tự tử trong nhà tạm giam của công an tỉnh;
Phan Thanh Dương (18 tuổi), ngày 6/4/2012 tại Cần Thơ: tự tử (không rõ bằng cách nào) trong trại giam của công an;
Tăng Hồng Phúc (26 tuổi), ngày 2/4/2012 tại TP HCM: chết do tràn dịch màng phổi trong trại tạm giam của công an thành phố;
Hoàng Gia Đạt Phước (35 tuổi), ngày 19/2/2012 tại TP HCM: chết do phù thủng cấp tính trong trại tạm giam của công an thành phố;
Võ Tấn Tâm (27 tuổi), ngày 1/2/2012 tại TP Đà Nẵng: chết do bệnh lý về tim mạch, có dấu hiệu bị đánh;
Ngô Tuấn Khanh (22 tuổi), ngày 30/12/2011 tại huyện Cần Đước, Long An: chết trước phiên phúc thẩm trong trại giam, chưa rõ nguyên nhân;
Nguyễn Văn Nhẫn (20 tuổi), ngày 19/12/2011 tại huyện Yên Định, Thanh Hóa: treo cổ tự tử tại nhà tạm giữ của công an huyện;
Nguyễn Minh Tâm (29 tuổi), ngày 23/11/2011 tại huyện Tiên Phước, Quảng Nam: chết trong nhà tạm giam của công an huyện vì bệnh tim;
Đoàn Văn Chí (36 tuổi), ngày 8/11/2011 tại huyện Bù Gia Mập, Bình Phước: chết khi bị công an giam giữ, không rõ nguyên nhân;
Nguyễn Văn Hận (19 tuổi), ngày 23/10/2011 tại TP Biên Hòa, Đồng Nai: chết trong nhà tạm giữ của công an thành phố, chưa rõ nguyên nhân;
Ngô Văn Cường (43 tuổi), ngày 12/10/2011 tại huyện An Dương, Hải Phòng: chết sau một phát súng chỉ thiên của công an xã;
Nguyễn Văn Sậm (62 tuổi), ngày 10/10/2011 tại TP Cần Thơ: chết không rõ nguyên nhân trong nhà tạm giữ của công an;
Trương Mạnh Tuấn (51 tuổi), ngày 5/10/2011 tại TP Nha Trang, Khánh Hòa: chết do nhảy lầu tự tử tại trụ sở công an phường;
Nguyễn Gia Trung (29 tuổi), ngày 11/9/2011 tại huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng: đập đầu tự tử trong trại giam;
Trần Thị Vượng (49 tuổi), ngày 8/8/2011 tại TP Thái Bình: nhảy lầu tự tử tại trụ sở công an thành phố;
Đặng Phi Vũ (35 tuổi), ngày 17/7/2011 tại TP Cà Mau: treo cổ tự tử tại phòng tạm giữ của công an thành phố;
Lê Anh Thắng (34 tuổi), ngày 25/4/2011 tại Phú Yên: treo cổ tự tử trong nhà tạm giữ của công an thành phố;
Đặng Ngọc Trung (48 tuổi), ngày 15/3/2011 tại thị xã Đồng Xoài, Bình Phước: treo cổ tự tử tại trụ sở công an xã;
Ngô Quang Phái (59 tuổi), ngày 6/3/2011 tại huyện Tân Lạc, Hòa Bình: treo cổ tự tử tại trại giam của công an huyện;
Nguyễn Lập Phương (46 tuổi), ngày 6/3/2011 tại huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng: chết vì bệnh tim tại trụ sở công an huyện;
Trần Văn Trường (30 tuổi), ngày 25/2/2011 tại Bắc Giang: chết trong trại tạm giam của công an tỉnh vì suy thận và suy gan nặng;
Võ Đức Duy (28 tuổi), ngày 23/2/2011 tại TP Đà Nẵng: chết vì bệnh lý trong trại tạm gaim của công an thành phố;
Lê Bá Thụ (25 tuổi), ngày 27/1/2011 tại huyện Như Xuân, Thanh Hóa: treo cổ tự tử tại trụ sở công an huyện;
Đặng Văn Đen (32 tuổi), ngày 17/12/2010 tại TP Long Xuyên, An Giang: chết vì bệnh lý tim, phổi cấp tính sau khi ở trụ sở công an về;
Nguyễn Văn Thăng (33 tuổi), ngày 3/12/2010 tại huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng: nuốt bả chó tự tử tại trụ sở công an xã;
Nguyễn Nam Hà (33 tuổi), ngày 24/11/2010 tại Khánh Hòa: treo cổ tự tử trong trại tạm giam của công an tỉnh;
Trần Minh Tình (27 tuổi), ngày 20/10/2010 tại Phú Yên: treo cổ tự tử trong trại giam của công an tỉnh;
Bùi Đinh Thanh Huy (20 tuổi), ngày 17/10/2010 tại TP Mỹ Tho, Tiền Giang: treo cổ tự tử tại trụ sở công an phường;
Liên Triều Ân, ngày 12/10/2012 tại TP Phan Thiết, Bình Thuận: treo cổ tự tử tại trụ sở công an thành phố;
Huỳnh Văn Thâm (32 tuổi), ngày 9/10/2010 tại huyện Châu Thành, Tiền Giang:  treo cổ tự tử tại trụ sở công an xã;
Lê Vĩnh Lân (21 tuổi), ngày 2/10/2010 tại TP Đà Nẵng: chết tại trụ sở công an quận do bệnh lý;
Trần Ngọc Đường (52 tuổi), ngày 9/9/2010 tại huyện Trảng Bom, Đồng Nai: treo cổ tự tử tại trụ sở ủy ban xã;
Trần Duy Hải (32 tuổi), ngày 8/8/2010 tại huyện Châu Thành A, Hậu Giang: treo cổ tự tử tại nhà tạm giữ của công an huyện;

© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 18, 2014 01:21

September 16, 2014

Để hiểu Putin, hãy đọc „1984“ của George Orwell

Timothy Snyder


Phạm Thị Hoài dịch


Ai muốn hiểu thái độ của Nga với Ukraine hiện nay, hãy đọc 1984 [1], tác phẩm kinh điển của George Orwell. Cuốn sách này dẫn chúng ta, nhiều khi chính xác kinh hoàng, đến những sự kiện đang diễn ra. Nga đã hiển nhiên xâm chiếm Ukraine , nên dễ nhất là bắt đầu bằng „Chiến tranh là hòa bình“ [2], một trong những khẩu hiệu của đế chế hư cấu trong câu chuyện của Orwell. Rốt cuộc thì đến nay mỗi cố gắng đàm phán và thỏa thuận ngừng bắn đều chắc chắn kèm theo một sự leo thang mới của Nga, rõ ràng điều đó không có gì là ngẫu nhiên.


Khi Tổng thống Nga Vladimir Putin gặp gỡ các nhà lãnh đạo quốc gia khác thì chúng ta phải hiểu rằng, đó chẳng qua là để xoa dịu sự phẫn nộ quốc tế gần đây nhất, như cuộc hội đàm vừa rồi ở Minsk [3], đi kèm bằng sự can thiệp tiếp theo của quân đội, pháo và xe tăng Nga vào chiến trận.


Nhưng chúng ta phải dấn sâu hơn một chút vào luận lí Orwell để hiểu cuộc chiến tranh rất lạ lùng này, một cuộc chiến để Putin cực đoan hóa nền chính trị Nga, phá hủy trật tự hòa bình ở châu Âu, gạt phăng những dự kiến tương lai của người châu Âu – và thậm chí đánh thức nguy cơ một cuộc chiến tranh nguyên tử. Mọi nỗ lực đi tìm lí do của cuộc chiến vô nghĩa đến độ hư vô này đều cho thấy, hoặc nó bị giả mạo, hoặc nó chứa đầy những mâu thuẫn tự thân, hoặc cả hai. Để hiểu cái biến cố khủng khiếp, khiến người ta giết và người ta chết không hề có một nguyên cớ rõ ràng này, ta phải nhớ lại một số khái niệm then chốt của Orwell: „Eurasia“, „song tưởng“ [4] và „học yêu Big Brother“.


Euroasia


Trong 1984 của Orwell có một cường quốc tên là Euroasia, Đế chế Á-Âu. Đáng chú ý là học thuyết đối ngoại quan trọng nhất của Nga cũng trùng tên ấy, học thuyết Á-Âu. Trong thế giới phản địa đàng của Orwell, Euroasia là một quốc gia đàn áp, hiếu chiến, chiếm toàn bộ miền Bắc lục địa châu Âu và châu Á, từ Bồ Đào Nha đến Eo biển Bering. Trong chính sách đối ngoại của Nga, Euroasia là một dự án hội nhập tất cả các nước – như bạn có thể đoán trước – từ Bồ Đào Nha đến Eo biển Bering. Euroasia của Orwell thực hành một chủ nghĩa Tân Bolshevik. Lí thuyết gia Á-Âu đầu đàn của Nga, Alesandr Dugin, từng tự xưng là một nhà „Bolshevik dân tộc“. Ông ta, một tác giả có ảnh hưởng lớn, từ lâu đã tác động nhằm triệt tiêu quốc gia Ukraine và gần đây kêu gọi Nga hãy xóa sổ Ukraine.


Song tưởng


Orwell có thể giúp chúng ta nhận ra tương lai mình sẽ ra sao, nếu chúng ta ngây thơ thử tìm cách hiểu thế giới qua các cơ quan truyền thông Nga chính thống. Hệ thống tuyên truyền của Nga về Ukraine là song tưởng thời nay. Như Orwell đã diễn tả, nó đòi hỏi người ta „đồng thời đại diện cho hai quan điểm ngược nhau mà vẫn tin ở cả hai“. Bộ máy tuyên truyền Nga ngày ngày chế biến ra hai mặt của cùng một sự kiện, mà cả hai đều sai và mặt này mâu thuẫn với mặt kia. Ta hãy xem vài trong số những luận điểm mà cứ lặp lại liên tục trong vòng tám tháng là sẽ thành quen tai đó.


Một mặt, Nga bảo mình phải đem quân chiếm đóng Ukraine, vì nhà nước Ukraine đàn áp nhân dân. Trong thực tế, Ukraine là một quốc gia dân chủ, có tự do ngôn luận và về mọi phương diện đều tự do hơn Nga. Mặt khác, Nga bảo mình phải can thiệp vì nhà nước Ukraine không còn hiện diện. Trong thực tế, nhà nước Ukraine hoạt động không thua gì nhà nước Nga, trừ trong các lĩnh vực rắc rối là chiến tranh, mật vụ và tuyên truyền.


Một mặt, Nga bảo mình phải ra tay vì người Nga ở Ukraine bị ép phải nói tiếng Ukraine. Điều này sai. Người Nga ở Ukraine được tự do chọn ngôn ngữ theo ý mình hơn nhiều so với người Nga ở chính nước Nga. Phần lớn những người nói tiếng Nga ở Ukraine không thật sự là người Nga, cũng như không phải tất cả những người nói tiếng Anh đều là người Anh. Mặt khác, Nga bảo ngôn ngữ Ukraine không tồn tại. Nó tồn tại quá đi chứ. Ngôn ngữ Ukraine có một truyền thống văn học kiêu hãnh và đang được hàng triệu người sử dụng.


Một mặt, Nga bảo mọi người Ukraine đều theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Trong thực tế, phe cực hữu chỉ chiếm được vỏn vẹn 2 % số phiếu trong đợt bầu Tổng thống vừa rồi, ít hơn ở bất kì một nước châu Âu nào. Mặt khác, Nga bảo làm gì có dân tộc Ukraine trên đời. Trong thực tế, những cuộc thăm dò dư luận cho thấy điều ngược lại. Người Ukraine là những người yêu nước. Trong những tháng ngày cách mạng, hàng triệu trong số họ đã sẵn sàng dấn thân cho Tổ quốc và hàng ngàn đã tự nguyện mạo hiểm mạng sống nơi chiến trường.


Nào, bạn đã đủ chóng mặt chưa? Ví dụ cuối cùng nhé: Một mặt, Nga bảo là phải tiến hành chiến tranh để cứu thế giới khỏi họa phát xít. Thực sự thì chính Nga là nơi giới cực hữu có ảnh hưởng mạnh và chính nguyên thủ quốc gia của Nga đã theo đúng thể thức của Hitler mà tuyên bố xâm chiếm một quốc gia khác để bảo vệ đồng bào kiều dân. Đồng minh chính trị của Nga là những đảng cực hữu ở châu Âu, kể cả những đảng phát xít và Tân Quốc xã. Mặt khác, Nga lại bảo phát xít là tốt. Ở Nga, Hitler trong tư cách nhà lãnh đạo quốc gia đã được phục hồi danh dự, trong khi người Do Thái bị quy trách nhiệm cho vụ Holocaust, còn người đồng tính thì bị coi là tay chân của mạng lưới âm mưu quốc tế.


Học yêu Big Brother


Mỗi vấn đề đều được hệ thống tuyên truyền Nga cung cấp hai mặt như thế. Chúng ta, ngược lại, cho rằng sự thật nằm ở đâu đó giữa những mặt khác nhau. Nhưng giữa những luận điệu cố tình sai và cố tình mâu thuẫn thì không thể có sự thật. Mà chỉ có sự hoang tưởng, hoặc, như Orwell diễn tả, sự nhận thức thông tuệ rằng hãy „học yêu Big Brother“, học yêu Lão Đại ca, nhân vật thủ lãnh toàn trị, ngự xa tắp ở nơi không ai với tới, trong cuốn tiểu thuyết. Trong 1984, người ta học yêu Lão Đại ca bằng cách hi sinh những gì mình quý giá nhất. Ở Ukraine, đó chính là chủ quyền quốc gia mà Putin đang đòi người Ukraine phải hi sinh, bằng việc chia cắt đất nước này và thành lập một Novorossiya (Tân Nga) sát biên giới Đông Nam của Putin.


Đã quá nhiều lần chúng ta tìm cách đoán điều gì đang diễn ra trong đầu Putin. Chúng ta đem nét mặt, cử chỉ và những phát ngôn của ông ta ra diễn giải, thay vì đối mặt với thế giới của các sự kiện trần trụi. Có thật cần phải biết ông ta là con đẻ tinh thần của ai không? Mà có ai thật sự biết điều đó, kể cả chính Putin? Ông ta là một diễn viên lớn trong vai tự đánh bóng bản thân. Nếu cần thì thậm chí ông ta can thiệp vào cả truyện tranh cho trẻ em và chủ xướng những chương trình truyền hình bàn về nguồn gốc rất có thể là thần thánh của chính mình.


Cuối cuốn tiểu thuyết 1984, một thành viên chính quyền của Big Brother đang tra tấn một nạn nhân buông ra nhận định: „Quyền lực không phải là phương tiện. Mà là mục đích.“ Putin có nghĩ gì trong đầu, có nói gì và làm gì, tất cả đều không ngoài một mục đích: bảo vệ và củng cố quyền lực của bản thân. Đàn áp ở Nga, chiến tranh ở Ukraine và bất an ở châu Âu là cái giá kinh dị phải trả cho sự tự nống mình lên của nhà lãnh đạo quốc gia này. Thay vì tiếp tục nhìn mãi vào mắt kẻ tư duy song tưởng ấy, chúng ta nên nghĩ xem mình trân trọng điều gì và có thể làm gì để bảo vệ nó thì tốt hơn. Nếu Ukraine trở thành một phần của Tân Nga thì châu Âu sẽ hóa thành cõi Á-Âu và phương Tây sẽ sụp đổ. Đó sẽ không phải vì sức mạnh quân sự của Nga, mà vì sự suy nhược tinh thần của chính chúng ta.


_________


Timothy Snyder là giáo sư sử học tại Đại học Yale và tác giả cuốn Bloodlands: Europe Between Hitler and Stalin (20109, được trao giải Hannah Arendt 2013. Bài viết này đăng trên trang Politico. Bản dịch tiếng Đức trên Tagesspiegel ngày 8/9/2014.


Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra




[1] Xem bản dịch của Phạm Minh Ngọc, talawas 2004




[2]Nguyên văn tiếng Anh trong 1984: “War is peace; Freedom is slavery; Ignorance is strength” (Chiến tranh là hòa bình; tự do là nô lệ; ngu dốt là sức mạnh).




[3] Hội đàm giữa Putin và Tổng thống Ukraine Poroshenko tại Minsk cuối tháng 8/2014




[4] Nguyên văn tiếng Anh trong 1984: doublethink, khái niệm của Newspeak (Tân ngữ)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 16, 2014 04:59

Để hiểu Putin, hãy đọc „1984“ của George Orwell

Timothy Snyder


Phạm Thị Hoài dịch


Ai muốn hiểu thái độ của Nga với Ukraine hiện nay, hãy đọc 1984 [1], tác phẩm kinh điển của George Orwell. Cuốn sách này dẫn chúng ta, nhiều khi chính xác kinh hoàng, đến những sự kiện đang diễn ra. Nga đã hiển nhiên xâm chiếm Ukraine , nên dễ nhất là bắt đầu bằng „Chiến tranh là hòa bình“ [2], một trong những khẩu hiệu của đế chế hư cấu trong câu chuyện của Orwell. Rốt cuộc thì đến nay mỗi cố gắng đàm phán và thỏa thuận ngừng bắn đều chắc chắn kèm theo một sự leo thang mới của Nga, rõ ràng điều đó không có gì là ngẫu nhiên.


Khi Tổng thống Nga Vladimir Putin gặp gỡ các nhà lãnh đạo quốc gia khác thì chúng ta phải hiểu rằng, đó chẳng qua là để xoa dịu sự phẫn nộ quốc tế gần đây nhất, như cuộc hội đàm vừa rồi ở Minsk [3], đi kèm bằng sự can thiệp tiếp theo của quân đội, pháo và xe tăng Nga vào chiến trận.


Nhưng chúng ta phải dấn sâu hơn một chút vào luận lí Orwell để hiểu cuộc chiến tranh rất lạ lùng này, một cuộc chiến để Putin cực đoan hóa nền chính trị Nga, phá hủy trật tự hòa bình ở châu Âu, gạt phăng những dự kiến tương lai của người châu Âu – và thậm chí đánh thức nguy cơ một cuộc chiến tranh nguyên tử. Mọi nỗ lực đi tìm lí do của cuộc chiến vô nghĩa đến độ hư vô này đều cho thấy, hoặc nó bị giả mạo, hoặc nó chứa đầy những mâu thuẫn tự thân, hoặc cả hai. Để hiểu cái biến cố khủng khiếp, khiến người ta giết và người ta chết không hề có một nguyên cớ rõ ràng này, ta phải nhớ lại một số khái niệm then chốt của Orwell: „Eurasia“, „song tưởng“ [4] và „học yêu Big Brother“.


Euroasia


Trong 1984 của Orwell có một cường quốc tên là Euroasia, Đế chế Á-Âu. Đáng chú ý là học thuyết đối ngoại quan trọng nhất của Nga cũng trùng tên ấy, học thuyết Á-Âu. Trong thế giới phản địa đàng của Orwell, Euroasia là một quốc gia đàn áp, hiếu chiến, chiếm toàn bộ miền Bắc lục địa châu Âu và châu Á, từ Bồ Đào Nha đến Eo biển Bering. Trong chính sách đối ngoại của Nga, Euroasia là một dự án hội nhập tất cả các nước – như bạn có thể đoán trước – từ Bồ Đào Nha đến Eo biển Bering. Euroasia của Orwell thực hành một chủ nghĩa Tân Bolshevik. Lí thuyết gia Á-Âu đầu đàn của Nga, Alesandr Dugin, từng tự xưng là một nhà „Bolshevik dân tộc“. Ông ta, một tác giả có ảnh hưởng lớn, từ lâu đã tác động nhằm triệt tiêu quốc gia Ukraine và gần đây kêu gọi Nga hãy xóa sổ Ukraine.


Song tưởng


Orwell có thể giúp chúng ta nhận ra tương lai mình sẽ ra sao, nếu chúng ta ngây thơ thử tìm cách hiểu thế giới qua các cơ quan truyền thông Nga chính thống. Hệ thống tuyên truyền của Nga về Ukraine là song tưởng thời nay. Như Orwell đã diễn tả, nó đòi hỏi người ta „đồng thời đại diện cho hai quan điểm ngược nhau mà vẫn tin ở cả hai“. Bộ máy tuyên truyền Nga ngày ngày chế biến ra hai mặt của cùng một sự kiện, mà cả hai đều sai và mặt này mâu thuẫn với mặt kia. Ta hãy xem vài trong số những luận điểm mà cứ lặp lại liên tục trong vòng tám tháng là sẽ thành quen tai đó.


Một mặt, Nga bảo mình phải đem quân chiếm đóng Ukraine, vì nhà nước Ukraine đàn áp nhân dân. Trong thực tế, Ukraine là một quốc gia dân chủ, có tự do ngôn luận và về mọi phương diện đều tự do hơn Nga. Mặt khác, Nga bảo mình phải can thiệp vì nhà nước Ukraine không còn hiện diện. Trong thực tế, nhà nước Ukraine hoạt động không thua gì nhà nước Nga, trừ trong các lĩnh vực rắc rối là chiến tranh, mật vụ và tuyên truyền.


Một mặt, Nga bảo mình phải ra tay vì người Nga ở Ukraine bị ép phải nói tiếng Ukraine. Điều này sai. Người Nga ở Ukraine được tự do chọn ngôn ngữ theo ý mình hơn nhiều so với người Nga ở chính nước Nga. Phần lớn những người nói tiếng Nga ở Ukraine không thật sự là người Nga, cũng như không phải tất cả những người nói tiếng Anh đều là người Anh. Mặt khác, Nga bảo ngôn ngữ Ukraine không tồn tại. Nó tồn tại quá đi chứ. Ngôn ngữ Ukraine có một truyền thống văn học kiêu hãnh và đang được hàng triệu người sử dụng.


Một mặt, Nga bảo mọi người Ukraine đều theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Trong thực tế, phe cực hữu chỉ chiếm được vỏn vẹn 2 % số phiếu trong đợt bầu Tổng thống vừa rồi, ít hơn ở bất kì một nước châu Âu nào. Mặt khác, Nga bảo làm gì có dân tộc Ukraine trên đời. Trong thực tế, những cuộc thăm dò dư luận cho thấy điều ngược lại. Người Ukraine là những người yêu nước. Trong những tháng ngày cách mạng, hàng triệu trong số họ đã sẵn sàng dấn thân cho Tổ quốc và hàng ngàn đã tự nguyện mạo hiểm mạng sống nơi chiến trường.


Nào, bạn đã đủ chóng mặt chưa? Ví dụ cuối cùng nhé: Một mặt, Nga bảo là phải tiến hành chiến tranh để cứu thế giới khỏi họa phát xít. Thực sự thì chính Nga là nơi giới cực hữu có ảnh hưởng mạnh và chính nguyên thủ quốc gia của Nga đã theo đúng thể thức của Hitler mà tuyên bố xâm chiếm một quốc gia khác để bảo vệ đồng bào kiều dân. Đồng minh chính trị của Nga là những đảng cực hữu ở châu Âu, kể cả những đảng phát xít và Tân Quốc xã. Mặt khác, Nga lại bảo phát xít là tốt. Ở Nga, Hitler trong tư cách nhà lãnh đạo quốc gia đã được phục hồi danh dự, trong khi người Do Thái bị quy trách nhiệm cho vụ Holocaust, còn người đồng tính thì bị coi là tay chân của mạng lưới âm mưu quốc tế.


Học yêu Big Brother


Mỗi vấn đề đều được hệ thống tuyên truyền Nga cung cấp hai mặt như thế. Chúng ta, ngược lại, cho rằng sự thật nằm ở đâu đó giữa những mặt khác nhau. Nhưng giữa những luận điệu cố tình sai và cố tình mâu thuẫn thì không thể có sự thật. Mà chỉ có sự hoang tưởng, hoặc, như Orwell diễn tả, sự nhận thức thông tuệ rằng hãy „học yêu Big Brother“, học yêu Lão Đại ca, nhân vật thủ lãnh toàn trị, ngự xa tắp ở nơi không ai với tới, trong cuốn tiểu thuyết. Trong 1984, người ta học yêu Lão Đại ca bằng cách hi sinh những gì mình quý giá nhất. Ở Ukraine, đó chính là chủ quyền quốc gia mà Putin đang đòi người Ukraine phải hi sinh, bằng việc chia cắt đất nước này và thành lập một Novorossiya (Tân Nga) sát biên giới Đông Nam của Putin.


Đã quá nhiều lần chúng ta tìm cách đoán điều gì đang diễn ra trong đầu Putin. Chúng ta đem nét mặt, cử chỉ và những phát ngôn của ông ta ra diễn giải, thay vì đối mặt với thế giới của các sự kiện trần trụi. Có thật cần phải biết ông ta là con đẻ tinh thần của ai không? Mà có ai thật sự biết điều đó, kể cả chính Putin? Ông ta là một diễn viên lớn trong vai tự đánh bóng bản thân. Nếu cần thì thậm chí ông ta can thiệp vào cả truyện tranh cho trẻ em và chủ xướng những chương trình truyền hình bàn về nguồn gốc rất có thể là thần thánh của chính mình.


Cuối cuốn tiểu thuyết 1984, một thành viên chính quyền của Big Brother đang tra tấn một nạn nhân buông ra nhận định: „Quyền lực không phải là phương tiện. Mà là mục đích.“ Putin có nghĩ gì trong đầu, có nói gì và làm gì, tất cả đều không ngoài một mục đích: bảo vệ và củng cố quyền lực của bản thân. Đàn áp ở Nga, chiến tranh ở Ukraine và bất an ở châu Âu là cái giá kinh dị phải trả cho sự tự nống mình lên của nhà lãnh đạo quốc gia này. Thay vì tiếp tục nhìn mãi vào mắt kẻ tư duy song tưởng ấy, chúng ta nên nghĩ xem mình trân trọng điều gì và có thể làm gì để bảo vệ nó thì tốt hơn. Nếu Ukraine trở thành một phần của Tân Nga thì châu Âu sẽ hóa thành cõi Á-Âu và phương Tây sẽ sụp đổ. Đó sẽ không phải vì sức mạnh quân sự của Nga, mà vì sự suy nhược tinh thần của chính chúng ta.


_________


Timothy Snyder là giáo sư sử học tại Đại học Yale và tác giả cuốn Bloodlands: Europe Between Hitler and Stalin (20109, được trao giải Hannah Arendt 2013. Bài viết này đăng trên trang Politico. Bản dịch tiếng Đức trên Tagesspiegel ngày 8/9/2014.


Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra




[1] Xem bản dịch của Phạm Minh Ngọc, talawas 2004




[2]Nguyên văn tiếng Anh trong 1984: “War is peace; Freedom is slavery; Ignorance is strength” (Chiến tranh là hòa bình; tự do là nô lệ; ngu dốt là sức mạnh).




[3] Hội đàm giữa Putin và Tổng thống Ukraine Poroshenko tại Minsk cuối tháng 8/2014




[4] Nguyên văn tiếng Anh trong 1984: doublethink, khái niệm của Newspeak (Tân ngữ)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 16, 2014 04:59

September 9, 2014

Của ta, của Tàu (2)

Xem kì 1


Từ mấy năm nay sư tử đá Trung Quốc đã bị vạch trần chân tướng là những kẻ xâm lăng văn hóa. Đem chúng đặt trước chùa chiền, công sở, dinh thự là giao cho những tên lính ngoại quốc đứng canh cửa nhà mình, khiến mình không thể sống yên ổn. Là phạm tội rước sư tử về giày mồ mả văn hóa dân tộc, khiến Việt Nam thành cái đuôi văn hóa của nước ngoài hay bị „suy yếu vị thế“ trong các cuộc „đối thoại văn hóa quốc tế“. Năm nay trong tinh thần „thoát Trung“ toàn diện, có lẽ chúng sẽ là những Hoa kiều đầu tiên bị trói gô, quăng lên xe tải, tống vào trại tập trung cho đến khi cải tạo tốt, hết nhe nanh giơ vuốt, hoặc bị trục xuất và tiêu diệt hàng loạt.


Tình hình nghiêm trọng ấy khiến tôi không thể không xem kĩ lại chân dung kẻ xâm lược.


Có chuyên gia giải thích với tất cả sự nghiêm túc rằng sư tử ta thì trông „hiền lành, hướng nội“, vì „người Việt Nam chủ yếu là nông dân, tính tình hiền lành chất phác“, trong khi sư tử Tàu thì „hình tướng dữ dằn, mang tính đe dọa“ vì Tàu có một „kinh tế thương mại phân hóa cao“. Như thể con cháu Lạc Long Quân thì cày ruộng, trong khi con cháu Thần Nông thì đi buôn. kĩ lưỡng hơn, phân biệt rõ sư tử ta không có răng nanh ở hàm dưới, trong khi sư tử Tàu đầy răng cả hai hàm, nanh hàm dưới còn sắc và rõ hơn nanh hàm trên. Quả là hung tợn!


Các giám định hình tướng và nha khoa này thật thú vị, nhất là khi cả ta, cả Tàu, cả Đông Á và Đông Nam Á vốn đều không biết đến con sư tử. Nó là con vật ngoại lai cả ở Trung Quốc, với tên sư tử (獅子), lẫn Việt Nam, cũng tên sư tử. Tôi không tin có người nông dân, nghệ nhân hay thậm chí vua quan đời Lý nào từng trực tiếp nhìn vào mắt nó, đếm răng trong miệng nó để vĩnh cửu nó trong chân dung đôi sư tử đá Chùa Phật tích mà chúng ta nhất quyết khẳng định là thuần túy Việt Nam.


Song triều đình của vua Lý Thánh Tông đã không dẹp nạn linh vật ngoại lai, mà ai từng ghé các nước Đông Á và Đông Nam Á hoặc chỉ cần sượt qua mạng đều dễ dàng tìm thấy cả những con sư tử mặt mũi hiền lành và móm răng – thậm chí móm luôn cả nanh hàm trên lẫn nanh hàm dưới – và những con sư tử dữ tợn khoe nanh vuốt ở cả Trung Quốc lẫn hầu hết các nước khác. Chỉ riêng mấy trăm con trên Cầu Lư Câu ở Bắc Kinh đã cho thấy phong cách khác nhau của mỗi thời đại Trung Hoa. Càng về sau chúng càng mô phỏng hiện thực sát hơn, đương nhiên, trong khi trước đó nhiều thế kỉ chúng hoàn toàn phó thác diện mạo mình cho trí tưởng tượng của từng nghệ nhân, thậm chí không có nanh, vuốt, không có cả giới tính và nhiều khi trông như một ước mơ có cánh. Tôi yêu nhất trên cây cầu này một em sư tử vừa ngố vừa thương, giống một chú cún lạc mẹ đang ngoẹo đầu ngơ ngác nhìn khách du lịch. Không thể hiền lành hơn. Một chàng thạch sư ở Công viên Bồng Lai, Thượng Hải, đời Nguyên, thì cực kì hướng nội. Trán lồi, mắt sâu, mũi gãy, miệng dài đến mang tai, tứ chi gày nhom, chồm hổm ngồi buồn như con chó giữ nhà vắng chủ. Hay có phần giống con nghê mà giới chuyên gia nước nhà phong là linh vật thuần Việt và đang được cổ vũ đem ra thay thế con sư tử ngoại lai.


Nghê là một câu chuyện dài. Ngẫu nhiên Trung Quốc có một linh vật, tên toan nghê (狻猊). Tàu cóp tên đồ ta hay ta cóp tên đồ Tàu? Con nghê văn hóa Việt hay con toan nghê văn hóa Hán ra đời trước? Những câu hỏi giản dị này chưa được giải đáp, tuy nhiên chúng ta biết ba điều. Một là xuất xứ của con nghê Hán được chính người Tàu xác nhận: trong Tây du kí, Đường Đại Cao tăng đã thuyết rằng „toan nghê tức sư tử dã, xuất Tây vực“, mà Đại Việt không nằm ở hướng Tây. Hai là nhân vật Đặng Phi trong Thủy hử được mệnh danh là „hỏa nhãn toan nghê“. Ba là nghê Tàu giống nghê ta đến đáng ngờ. Lúc thì nó cũng nhiều phần khuyển hơn phần sư, như con nghê đời Nguyên này trong Công viên Bồng Lai ở Thượng Hải. Lúc thì mặt mũi nó cũng láu lỉnh, như con nghê này ở Chùa Quan Độ, Đài Bắc, và phần lớn thì nó giống một con sư tử cách điệu. Nhưng khác với nghê ta, nghê Tàu không cần Bộ Văn hóa Trung Quốc khuyến khích vẫn sinh sôi nảy nở mạnh, đi đâu cũng gặp, từ công viên đến đồ chơi, đồ trang sức, đồ lưu niệm, đồ thờ cúng. Việc đám nghê này đổ bộ vào Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Có lẽ khi ấy các hiệp sĩ văn hóa dân tộc sẽ chỉ ra rằng con nghê ngoại lai không nuột nà, mềm mại, dân gian như con nghê thuần Việt, mà đầy vẻ hống hách bá quyền. Nếu chưa đủ độ phân biệt thì thêm giám định răng trên răng dưới.


Như thể chưa đủ rắc rối, con nghê ấy cũng thản nhiên xuất hiện ở nhiều nước Đông Á và Đông Nam Á khác: Nhật Bản, Triều Tiên, Thái Lan, Miến Điện… Ở Nhật nó đặc biệt phổ biến với tên komainu, cũng nửa sư nửa khuyển, cũng giống nhiều phiên bản nghê Việt đến đáng ngờ. Song khác với người Việt, người Nhật không nhận nó là linh vật thuần Nippon, mà sòng phẳng chỉ ra rằng nó đến từ Trung Hoa, qua ngả Triều Tiên.


Trở lại với con sư tử. Một vị hòa thượng nổi tiếng, đại biểu Quốc hội, đã khai sáng cho những kẻ nhầm lẫn rằng tòa sư tử (nghê tòa) sở dĩ có tên như vậy vì tiếng thuyết pháp của các nhà sư như tiếng rống của sư tử, đánh bạt điều xấu, chứ không có con sư tử cụ thể nào ở đó. Ông tuyên bố „chùa triền [sic!] là nơi thờ tự tôn nghiêm, ngoài bốn con vật linh là Long, Ly, Quy, Phượng thì không nên xuất hiện những linh vật khác không phù hợp với văn hóa truyền thống. Phải giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.“


Cả bộ tứ linh lẫn chùa chiền Phật giáo đều đến từ những nền văn hóa bên ngoài nước Việt. Điều đó chẳng những không đáng buồn mà đáng mừng, vì nếu dân tộc này có một bản sắc văn hóa thì đó chính là khả năng chiết trung, dung hợp, tổng hòa, cộng sinh bất diệt của nó. Cái kho hàng nhập khẩu vĩ đại đó đương nhiên là một thử thách khổng lồ, và cách đầu hàng hùng hổ nhất là hôm nay đòi thanh lí món này, ngày mai đòi thanh lí món kia, hôm nào cũng nhân danh truyền thống và bản sắc, hôm nào cũng chiêu hồn nước. Để dễ hình dung: chiêu hồn nước bằng tứ linh để thanh lí sư tử trong chùa nhà Phật có thể sánh với chiêu hồn nước bằng Tôn Dật Tiên để thanh lí Victor Hugo trong Thánh thất Cao Đài.


Bất chấp sự dị ứng sư tử của vị hòa thượng Việt Nam, ngôi chùa Wat Thammikarat đẹp đổ nát xiêu lòng ở Thái Lan từ thời các vua Xiêm được hẳn một tập thể hùng hậu 52 con đứng trấn. Người Việt mê võ hiệp từ mấy thế hệ, chẳng lẽ không biết cặp sư tử oai vệ trước ngôi chùa huyền thoại, chùa Thiếu Lâm? Tìm một ngôi chùa ở Nhật Bản không có sư tử có lẽ khó hơn ngược lại.


Shíshī or not shíshī? Để công bằng với những con sư tử đá Trung Quốc, những người đang hăng say bảo vệ chủ quyền văn hóa Việt Nam sao không đặt câu hỏi: Rồng ta hay rồng Tàu? Quan Công ta hay Quan Công Tàu? Tượng Phật ta hay tượng Phật Tàu? Ngoài ra, Phật Thái Lan và Phật Đài Loan đang rất được ưa chuộng, Phật nào hợp bản sắc Việt Nam hơn? Phần lớn đồ thờ cúng và thậm chí đồ lưu niệm bán cho khách du lịch tại Việt Nam hiện nay cũng là hàng Tàu. Trong những gì nhà Nguyễn và triều đình Huế – vương triều thoát Trung nhiều nhất về quan hệ chính trị, đồng thời là đỉnh cao của sự tự nguyện rập khuôn Trung Hoa – để lại, của ta còn bao nhiêu sau khi trừ đi phần của Tàu?


Mới đây, trang tin BBC đăng ảnh chụp khu tưởng niệm những người được gọi là các chiến sĩ Nhật Bản „tuẫn nạn cho Nhật hoàng Chiêu Hòa“ (昭和殉難者, Shōwa junnansha) ở chùa Okunoin. Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đi viếng tội phạm chiến tranh. Nhà văn Nhật nổi tiếng Naoki Hyakuta, đồng thời nằm trong ban lãnh đạo tập đoàn truyền thông nhà nước NHK, phủ nhận vụ Thảm sát ở Nam Kinh. Sách giáo khoa Nhật trong trường phổ thông nhất loạt được sửa lại vì chủ quyền ở Điếu Ngư. Những tác phẩm „hiềm Trung, ghét Hàn“ (kenchu-zokan) thành hẳn một thể loại, chiếm riêng một góc trong tiệm sách, được giới trẻ Nhật yêu thích. Song hai con sư tử đặc Tàu vẫn nhe răng ở đó, trong ngôi chùa Nhật của họ, canh giấc ngàn thu cho những người Nhật đã tàn sát, hãm hiếp, hủy diệt vô độ ở chính Trung Quốc.


Người Việt thì trút hận lên đầu mấy con thạch sư. Tôi chẳng ưa gì chúng, song tôi tin rằng sẽ có ngày chúng tự động biến mất. Không phải vì chủ quyền văn hóa Việt Nam sẽ được xác lập, mà đơn giản vì thế hệ của cái thẩm mĩ khủng khiếp này rồi cũng qua đi. Họ treo tranh „Mã đáo thành công“. Họ mặc áo dài thêu rồng và bên ngoài khoác thêm chiếc vét cán bộ màu be. Họ đắp núi giả và gò hòn non bộ. Họ xây chùa xanh đỏ. Họ ngồi trên gụ, ngủ trên trắc, chết trên sưa. Họ nuốt chửng sừng tê, nhau thai, óc khỉ, mắt đại bàng, tổ yến và bào thai rắn. Họ đắp mặt nạ vàng để mong da trắng. Họ chơi siêu sim, siêu xe và siêu tâm linh. Họ khai thác một tài nguyên mênh mông là những kẻ không có lựa chọn nào khác ngoài dùng hàng Tàu giá rẻ. Mặt họ là cuốn sổ khai sinh ghi rõ, đã đẻ ra bao nhiêu con sư tử đá bị đổ oan là bầy quân xâm lăng.


__________


Ảnh 1: Sư tử đá trên Cầu Lư Câu, Bắc Kinh, Trung Quốc


Ảnh 2: Sư tử đá tại Công viên Bồng Lai, Thượng Hải, Trung Quốc


Ảnh 3: Toan nghê trong Công viên Bồng Lai, Thượng Hải, Trung Quốc


Ảnh 4: Toan nghê ở Chùa Quan Độ, Đài Bắc, Đài Loan


Ảnh 5: Sư tử đá ở chùa Wat Thammikarat, Thái Lan


Ảnh 6: Sư tử đá ở Thiếu Lâm Tự, Trung Quốc


Ảnh 7: Sư tử đá ở chùa Okunoin, Nhật Bản


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 09, 2014 13:25

Của ta, của Tàu (2)

Xem kì 1


Từ mấy năm nay sư tử đá Trung Quốc đã bị vạch trần chân tướng là những kẻ xâm lăng văn hóa. Đem chúng đặt trước chùa chiền, công sở, dinh thự là giao cho những tên lính ngoại quốc đứng canh cửa nhà mình, khiến mình không thể sống yên ổn. Là phạm tội rước sư tử về giày mồ mả văn hóa dân tộc, khiến Việt Nam thành cái đuôi văn hóa của nước ngoài hay bị „suy yếu vị thế“ trong các cuộc „đối thoại văn hóa quốc tế“. Năm nay trong tinh thần „thoát Trung“ toàn diện, có lẽ chúng sẽ là những Hoa kiều đầu tiên bị trói gô, quăng lên xe tải, tống vào trại tập trung cho đến khi cải tạo tốt, hết nhe nanh giơ vuốt, hoặc bị trục xuất và tiêu diệt hàng loạt.


Tình hình nghiêm trọng ấy khiến tôi không thể không xem kĩ lại chân dung kẻ xâm lược.


Có chuyên gia giải thích với tất cả sự nghiêm túc rằng sư tử ta thì trông „hiền lành, hướng nội“, vì „người Việt Nam chủ yếu là nông dân, tính tình hiền lành chất phác“, trong khi sư tử Tàu thì „hình tướng dữ dằn, mang tính đe dọa“ vì Tàu có một „kinh tế thương mại phân hóa cao“. Như thể con cháu Lạc Long Quân thì cày ruộng, trong khi con cháu Thần Nông thì đi buôn. kĩ lưỡng hơn, phân biệt rõ sư tử ta không có răng nanh ở hàm dưới, trong khi sư tử Tàu đầy răng cả hai hàm, nanh hàm dưới còn sắc và rõ hơn nanh hàm trên. Quả là hung tợn!


Các giám định hình tướng và nha khoa này thật thú vị, nhất là khi cả ta, cả Tàu, cả Đông Á và Đông Nam Á vốn đều không biết đến con sư tử. Nó là con vật ngoại lai cả ở Trung Quốc, với tên sư tử (獅子), lẫn Việt Nam, cũng tên sư tử. Tôi không tin có người nông dân, nghệ nhân hay thậm chí vua quan đời Lý nào từng trực tiếp nhìn vào mắt nó, đếm răng trong miệng nó để vĩnh cửu nó trong chân dung đôi sư tử đá Chùa Phật tích mà chúng ta nhất quyết khẳng định là thuần túy Việt Nam.


Song triều đình cá»§a vua Lý Thánh Tông đã không dẹp nạn linh vật ngoại lai, mà ai từng ghé các nước Đông Á và Đông Nam Á hoặc chỉ cần sượt qua mạng đều dễ dàng tìm thấy cả những con sư tá»­ mặt mÅ©i hiền lành và móm răng – thậm chí móm luôn cả nanh hàm trên lẫn nanh hàm dưới – và những con sư tá»­ dữ tợn khoe nanh vuốt ở cả Trung Quốc lẫn hầu hết các nước khác. Chỉ riêng mấy trăm con trên Cầu Lư Câu ở Bắc Kinh đã cho thấy phong cách khác nhau cá»§a mỗi thời đại Trung Hoa. Càng về sau chúng càng mô phỏng hiện thá»±c sát hÆ¡n, đương nhiên, trong khi trước đó nhiều thế kỉ chúng hoàn toàn phó thác diện mạo mình cho trí tưởng tượng cá»§a từng nghệ nhân, thậm chí không có nanh, vuốt, không có cả giới tính và nhiều khi trông như một ước mÆ¡ có cánh. [image error]Tôi yêu nhất trên cây cầu này một em sư tá»­ vừa ngố vừa thương, giống một chú cún lạc mẹ đang ngoẹo đầu ngÆ¡ ngác nhìn khách du lịch. Không thể hiền lành hÆ¡n. [image error]Một chàng thạch sư ở Công viên Bồng Lai, Thượng Hải, đời Nguyên, thì cá»±c kì hướng nội. Trán lồi, mắt sâu, mÅ©i gãy, miệng dài đến mang tai, tứ chi gày nhom, chồm hổm ngồi buồn như con chó giữ nhà vắng chá»§. Hay có phần giống con nghê mà giới chuyên gia nước nhà phong là linh vật thuần Việt và đang được cổ vÅ© đem ra thay thế con sư tá»­ ngoại lai.


Nghê là một câu chuyện dài. Ngẫu nhiên Trung Quốc có một linh vật, tên toan nghê (狻猊). Tàu cóp tên đồ ta hay ta cóp tên đồ Tàu? Con nghê văn hóa Việt hay con toan nghê văn hóa Hán ra đời trước? Những câu hỏi giản dị này chưa được giải đáp, tuy nhiên chúng ta biết ba điều. Một là xuất xứ của con nghê Hán được chính người Tàu xác nhận: trong Tây du kí, Đường Đại Cao tăng đã thuyết rằng „toan nghê tức sư tử dã, xuất Tây vực“, mà Đại Việt không nằm ở hướng Tây. Hai là nhân vật Đặng Phi trong Thủy hử được mệnh danh là „hỏa nhãn toan nghê“. Ba là nghê Tàu giống nghê ta đến đáng ngờ. [image error]Lúc thì nó cũng nhiều phần khuyển hơn phần sư, như con nghê đời Nguyên này trong Công viên Bồng Lai ở Thượng Hải. [image error]Lúc thì mặt mũi nó cũng láu lỉnh, như con nghê này ở Chùa Quan Độ, Đài Bắc, và phần lớn thì nó giống một con sư tử cách điệu. Nhưng khác với nghê ta, nghê Tàu không cần Bộ Văn hóa Trung Quốc khuyến khích vẫn sinh sôi nảy nở mạnh, đi đâu cũng gặp, từ công viên đến đồ chơi, đồ trang sức, đồ lưu niệm, đồ thờ cúng. Việc đám nghê này đổ bộ vào Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Có lẽ khi ấy các hiệp sĩ văn hóa dân tộc sẽ chỉ ra rằng con nghê ngoại lai không nuột nà, mềm mại, dân gian như con nghê thuần Việt, mà đầy vẻ hống hách bá quyền. Nếu chưa đủ độ phân biệt thì thêm giám định răng trên răng dưới.


Như thể chưa đủ rắc rối, con nghê ấy cÅ©ng thản nhiên xuất hiện ở nhiều nước Đông Á và Đông Nam Á khác: Nhật Bản, Triều Tiên, Thái Lan, Miến Điện… Ở Nhật nó đặc biệt phổ biến với tên komainu, cÅ©ng ná»­a sư ná»­a khuyển, cÅ©ng giống nhiều phiên bản nghê Việt đến đáng ngờ. Song khác với người Việt, người Nhật không nhận nó là linh vật thuần Nippon, mà sòng phẳng chỉ ra rằng nó đến từ Trung Hoa, qua ngả Triều Tiên.


Trở lại với con sư tử. Một vị hòa thượng nổi tiếng, đại biểu Quốc hội, đã khai sáng cho những kẻ nhầm lẫn rằng tòa sư tử (nghê tòa) sở dĩ có tên như vậy vì tiếng thuyết pháp của các nhà sư như tiếng rống của sư tử, đánh bạt điều xấu, chứ không có con sư tử cụ thể nào ở đó. Ông tuyên bố „chùa triền [sic!] là nơi thờ tự tôn nghiêm, ngoài bốn con vật linh là Long, Ly, Quy, Phượng thì không nên xuất hiện những linh vật khác không phù hợp với văn hóa truyền thống. Phải giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.“


Cả bộ tứ linh lẫn chùa chiền Phật giáo đều đến từ những nền văn hóa bên ngoài nước Việt. Điều đó chẳng những không đáng buồn mà đáng mừng, vì nếu dân tộc này có một bản sắc văn hóa thì đó chính là khả năng chiết trung, dung hợp, tổng hòa, cộng sinh bất diệt của nó. Cái kho hàng nhập khẩu vĩ đại đó đương nhiên là một thử thách khổng lồ, và cách đầu hàng hùng hổ nhất là hôm nay đòi thanh lí món này, ngày mai đòi thanh lí món kia, hôm nào cũng nhân danh truyền thống và bản sắc, hôm nào cũng chiêu hồn nước. Để dễ hình dung: chiêu hồn nước bằng tứ linh để thanh lí sư tử trong chùa nhà Phật có thể sánh với chiêu hồn nước bằng Tôn Dật Tiên để thanh lí Victor Hugo trong Thánh thất Cao Đài.


Bất chấp sự dị ứng sư tử của vị hòa thượng Việt Nam, [image error]ngôi chùa Wat Thammikarat đẹp đổ nát xiêu lòng ở Thái Lan từ thời các vua Xiêm được hẳn một tập thể hùng hậu 52 con đứng trấn. [image error]Người Việt mê võ hiệp từ mấy thế hệ, chẳng lẽ không biết cặp sư tử oai vệ trước ngôi chùa huyền thoại, chùa Thiếu Lâm? Tìm một ngôi chùa ở Nhật Bản không có sư tử có lẽ khó hơn ngược lại.


ShíshÄ« or not shíshÄ«? Để công bằng với những con sư tá»­ đá Trung Quốc, những người đang hăng say bảo vệ chá»§ quyền văn hóa Việt Nam sao không đặt câu hỏi: Rồng ta hay rồng Tàu? Quan Công ta hay Quan Công Tàu? Tượng Phật ta hay tượng Phật Tàu? Ngoài ra, Phật Thái Lan và Phật Đài Loan đang rất được ưa chuộng, Phật nào hợp bản sắc Việt Nam hÆ¡n? Phần lớn đồ thờ cúng và thậm chí đồ lưu niệm bán cho khách du lịch tại Việt Nam hiện nay cÅ©ng là hàng Tàu. Trong những gì nhà Nguyễn và triều đình Huế – vương triều thoát Trung nhiều nhất về quan hệ chính trị, đồng thời là đỉnh cao cá»§a sá»± tá»± nguyện rập khuôn Trung Hoa – để lại, cá»§a ta còn bao nhiêu sau khi trừ đi phần cá»§a Tàu?


Mới đây, trang tin BBC đăng ảnh chụp khu tưởng niệm những người được gọi là các chiến sĩ Nhật Bản „tuẫn nạn cho Nhật hoàng Chiêu Hòa“ (昭和殉難者, Shōwa junnansha) ở chùa Okunoin. Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đi viếng tội phạm chiến tranh. Nhà văn Nhật nổi tiếng Naoki Hyakuta, đồng thời nằm trong ban lãnh đạo tập đoàn truyền thông nhà nước NHK, phủ nhận vụ Thảm sát ở Nam Kinh. Sách giáo khoa Nhật trong trường phổ thông nhất loạt được sửa lại vì chủ quyền ở Điếu Ngư. Những tác phẩm „hiềm Trung, ghét Hàn“ (kenchu-zokan) thành hẳn một thể loại, chiếm riêng một góc trong tiệm sách, được giới trẻ Nhật yêu thích. [image error]Song hai con sư tử đặc Tàu vẫn nhe răng ở đó, trong ngôi chùa Nhật của họ, canh giấc ngàn thu cho những người Nhật đã tàn sát, hãm hiếp, hủy diệt vô độ ở chính Trung Quốc.


Người Việt thì trút hận lên đầu mấy con thạch sư. Tôi chẳng ưa gì chúng, song tôi tin rằng sẽ có ngày chúng tự động biến mất. Không phải vì chủ quyền văn hóa Việt Nam sẽ được xác lập, mà đơn giản vì thế hệ của cái thẩm mĩ khủng khiếp này rồi cũng qua đi. Họ treo tranh „Mã đáo thành công“. Họ mặc áo dài thêu rồng và bên ngoài khoác thêm chiếc vét cán bộ màu be. Họ đắp núi giả và gò hòn non bộ. Họ xây chùa xanh đỏ. Họ ngồi trên gụ, ngủ trên trắc, chết trên sưa. Họ nuốt chửng sừng tê, nhau thai, óc khỉ, mắt đại bàng, tổ yến và bào thai rắn. Họ đắp mặt nạ vàng để mong da trắng. Họ chơi siêu sim, siêu xe và siêu tâm linh. Họ khai thác một tài nguyên mênh mông là những kẻ không có lựa chọn nào khác ngoài dùng hàng Tàu giá rẻ. Mặt họ là cuốn sổ khai sinh ghi rõ, đã đẻ ra bao nhiêu con sư tử đá bị đổ oan là bầy quân xâm lăng.


__________


Ảnh 1: Sư tử đá trên Cầu Lư Câu, Bắc Kinh, Trung Quốc


Ảnh 2: Sư tử đá tại Công viên Bồng Lai, Thượng Hải, Trung Quốc


Ảnh 3: Toan nghê trong Công viên Bồng Lai, Thượng Hải, Trung Quốc


Ảnh 4: Toan nghê ở Chùa Quan Độ, Đài Bắc, Đài Loan


Ảnh 5: Sư tử đá ở chùa Wat Thammikarat, Thái Lan


Ảnh 6: Sư tử đá ở Thiếu Lâm Tự, Trung Quốc


Ảnh 7: Sư tử đá ở chùa Okunoin, Nhật Bản


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 09, 2014 13:25

September 6, 2014

Vì sao phá ngục lại là biểu tượng của cách mạng?

Lê Tuấn Huy


Đáp lại những ý kiến không thuận về án tù giam cho Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh, hệ thống thông tin nhà nước hẳn sẽ cho rằng một vụ án hình sự đã bị các thế lực thù địch chính trị hóa, dù thực tế, các cấp chỉ đạo họ thừa biết mức độ chính trị của vụ việc.


Tôi đã tá»± hỏi: đưa Bùi Thị Minh Hằng vào án là một cÆ¡ hội ngẫu nhiên hay đã được toan tính từ đầu, mà mồi nhá»­ là sá»± vụ với Nguyễn Bắc Truyển trước đó? Phải chăng, theo quan niệm “cảnh giác cách mạng”, một Nguyễn Bắc Truyển nay có gia đình vợ sống ở vùng có tín đồ Phật giáo Hòa Hảo (và cả các họ đạo Cao Đài) là đã quá đủ, hiện diện thêm một Bùi Thị Minh Hằng vừa dấn thân và hiệp nghÄ©a, vừa xông pha, ứng biến và lợi khẩu…, là sẽ quá thừa những bất ổn tiềm tàng? Bởi, cho dù chính quyền không hề sợ Bùi Thị Minh Hằng (hay bất kỳ người hoặc nhóm người nào) thì họ vẫn sợ cái cảm hứng (nằm xuống để đất nước này) đứng lên mà Bùi Thị Minh Hằng có thể sẽ trá»±c tiếp truyền sang người dân nÆ¡i này.


Dù việc “xây dựng” án ra sao và mức án như thế nào, thì giới quan tâm thời cuộc cũng đã quá hiểu sự “bình thường” của công lý ở xứ sở này, nhưng hòn đá mà phiên tòa đó quăng thêm vào, trên con đường đi tới đã lởm chởm gạch đá của Việt Nam, là điều khó tránh khỏi trong suy nghĩ.


Không thể không lo âu trước việc chặn giữ, bắt bớ, hành hung những người muốn đến phiên tòa “công khai” ấy. Theo dõi thông tin trong ngày xử, cảm giác như có sự ruồng bố khắp Bắc, Trung, Nam với nhiều thứ “nghiệp vụ”, cốt để những người bị xử không nhận được sự hậu thuẫn tinh thần và hỗ trợ chứng lý tốt nhất có thể.


Cho dù ai ủng hộ sự cản trở này, chỉ cần một ít lương tri, cũng biết rằng những việc đó xâm phạm quyền tự do đi lại và tự do cư trú. Nhưng điều đáng ngẫm là, sâu hơn thế, sự xâm phạm hiển nhiên này, và mọi thứ chà đạp khác lên quyền con người, từ lâu đã được khoác chiếc áo chính nghĩa, với biện minh rằng vì sự nghiệp cách mạng, có thể dùng đến mọi biện pháp cách mạng. Và theo lẽ ấy, không một “biện pháp nghiệp vụ” nào mà lại không là biện pháp cách mạng. Nó đã trở thành lý lẽ tự nhiên đến mức hồn nhiên, đánh dân cũng vì công việc chung. Những năm gần đây, việc truy đuổi, hành hung, dẫn đến cái chết hoặc gây thương tích cho dân cứ nở rộ lên. Có ai trong chính quyền đã tự hỏi tình trạng đó phần nào là hiện tượng “đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt” khi công an, an ninh và các loại công cụ sống của họ ở các địa phương đã quá quen với việc truy bức, đánh đập những người bất đồng chính kiến và các nhà hoạt động khác, mà không bị xem là phi pháp và xử lý theo pháp luật?


Với tinh thần chính nghÄ©a bất chấp tất cả đó, từ những “nghiệp vụ” nhỏ đến sá»± xâm hại lớn chẳng là bao xa, và cÅ©ng chẳng dễ dàng thức tỉnh. Hầu như những kẻ sống bằng quyền lá»±c chuyên chế, đến ngày tàn cá»§a chế độ hay khi đứng trước sá»± phán xét, vẫn tin vào cái chính nghÄ©a bất chấp cá»§a mình. Chẳng hạn, các biện pháp tàn bạo cá»§a Khmer Đỏ thá»±c chất cÅ©ng chỉ là “cưỡng chế” các quyền con người căn bản: quyền thân thể và sinh mạng, quyền cư trú và đi lại, quyền ngôn luận, quyền hôn nhân…, nhằm tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên chá»§ nghÄ©a xã hội. Thế mà, trong khi cả loài người đều thấy rõ sá»± sai trái đó, thì bản thân họ lại không. Tại những phiên tòa xá»­ các lãnh tụ Khmer Đỏ, kẻ thì dứt khoát rằng chẳng gây tội gì với nhân dân Campuchea mà là do Việt Nam, kẻ thì nói chỉ do cấp dưới làm.


Quay lại phiên tòa Đồng Tháp, sự bất chấp dường như đã ở một nấc mới khi đã triệt tiêu thành công mọi cố gắng đến gần nơi xử. Đó là nối tiếp thành công của việc triệt tiêu lần tổng biểu tình thứ hai chống giàn khoan 981, và hẳn sẽ được nhân rộng “mô hình” cho những sự vụ tương tự lần sau. Cái nguy cơ tiềm tàng của thành công kiểu này là người dân mất hết cơ hội biểu thị thực tế sự phản đối của mình một cách hòa bình. Thay vào đó, khả năng biểu thị phi hòa bình sẽ tăng lên một khi những bất bình xã hội cứ tiếp tục tích tục và dồn nén.


Cơ hội chuyển đổi hòa bình thì vẫn luôn có, nhưng phiên tòa này đem lại một nỗi lo, là khả năng đối đầu và hỗn loạn cũng đã tăng lên, tương ứng với sự nâng cấp của ý chí triệt hạ những tiếng nói và hành động tự do.


Cái ý chí đấy lắm khi khiến người ta phải tức cười. Như ở bản án này, không kể việc phải quàng cho được án từ chuyện đi xe hàng ba, tình tiết chỉ đúng một cái đánh vào tay, không chút trầy xướt, mà bị cáo không thừa nhận, cũng bị quy tội hành hung công an, khiến tôi phải phì cười mà nghĩ: lực lượng bạo lực sao ngày càng “mong manh, dễ vỡ” đến thế.


Tôi liên tưởng ngay đến đến chuyện vì âu lo người thi hành công vụ bị tổn thương sức khỏe và tinh thần từ hai cái tát (trong đó một cái vào mũ bảo hiểm) nên người ta quyết giam sáu tháng (ban đầu là chín tháng) một nữ sinh có bệnh về thần kinh, bất chấp tương lai học hành của cô bé. Cũng vì sự tổn thương của những nam nhi có quyền hành mà trong vụ khác, (ban đầu là ba năm) bởi cắn hai vết.


Cùng lúc, tôi cÅ©ng nhớ đến vụ một câu nói năm năm tù, đến những vụ án mà với vài con vịt, nhiều người phải ở tù nhiều năm. Tôi cÅ©ng sá»±c nhớ đến một vụ đã lâu (thời Việt Nam chỉ có báo giấy, chưa có internet), ở một tỉnh miền Trung, dân nghèo vì trộm cáp cá»§a đường dây cao thế mà chịu án tá»­ vì (bị cho là) xâm phạm an ninh quốc gia…


Bất giác, tôi “khai sáng” cho mình một điều mà từ lâu đã tá»± đặt sang một bên, không lý giải. Đó là việc phá ngục Bastille mở đầu cho Đại Cách mạng Pháp 1789. Lần đầu tiên biết chi tiết này hồi trung học, tôi đã thắc mắc: vì sao giải thoát tội phạm lại là biểu tượng cá»§a cách mạng? Giờ, từ hiện thá»±c tôi hiểu được lịch sá»­. Thì ra, trong trong nhà tù chuyên chế, không chỉ có những kẻ “đúng người đúng tội”, mà còn là nÆ¡i giam cầm chính những sản phẩm-nạn nhân cá»§a một xã hội đã băng hoại mọi giá trị, nÆ¡i thi hành những bản án oan ức từ sá»± lượng tội tắc trách hay lượng hình độc đoán, nÆ¡i nối tiếp tận cùng sá»± bất công đối với những người dân bị tước đoạt điền sản bằng quyền lá»±c, nÆ¡i hoàn tất những vụ án ngụy tạo với những ai chỉ muốn thá»±c thi quyền con người vốn có và chống lại sá»± bạo ngược cá»§a cường quyền…


02-05/09/2014


© 2014 Lê Tuấn Huy & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 06, 2014 05:00

September 4, 2014

Của ta, của Tàu (1)

Phạm Thị Hoài


Trong phóng sự Vẽ nhọ bôi hề [1], điều tra về các rạp hát và đời đào kép, Vũ Trọng Phụng kể chuyện một nhà hát ở ta đã „ném sang Tàu“ hàng bạc vạn để mua trang phục, khí giới biểu diễn.


Nhà hát giải thích: „Làm thế nào được! Chúng tôi vẫn muốn thá»­a tại các cá»­a hiệu cá»§a người mình lắm chứ… Nhưng đồ đã đắt mà lại chóng hỏng, chúng tôi cứ nghÄ© mãi đến đồng bào thì để rạp hát đóng cá»­a ư? Một đôi hia cá»§a Tàu, giá hai chục bạc, không kể thêu đẹp, dùng được đến hai năm. Một đôi hia thá»­a cá»§a ta, cÅ©ng ngần ấy tiền, đã không được đẹp thì thôi, lại dùng chưa quá một năm đã hỏng! Hai nữa, thợ ta không biết pha màu. Người Tàu không bao giờ họ lại dùng những chỉ: đen, đỏ thẫm, vàng ệch với xanh lÆ¡ để thêu một cái áo. Cái áo lụa xanh da giời thì phải những hoa xanh thẫm với những ngân tuyến điểm tô cho. Họ không chịu để cho đồ thêu những màu gay gắt. Còn người mình… thì thôi!“ Ông này, sau khi thá»­ thách tác giả, cho đoán thá»­ hai cái mÅ©, cái nào cá»§a ta cái nào cá»§a Tàu, kết luận: „Nếu ông chỉ trông thấy xấu cÅ©ng đủ nhận được người thợ làm đồ thì đừng vội vàng trách chúng tôi. MÄ© thuật cá»§a người Việt Nam dễ nhận ra vì… vì trông nó xấu!“


Đó là 1934, tròn 80 năm trước, Pháp thuộc chứ không phải Bắc thuộc, “Pháp-Việt đề huề” chứ không phải mười sáu chữ vàng Việt-Trung, song ngôi trên cá»§a văn hóa Trung Hoa vẫn thấm vào tận đường kim mÅ©i chỉ trên xống áo đào kép. Ghét lắm nhưng không bỏ được. Ngày nay người Việt chê Tàu kém chất lượng. Bõ ghét được vài phút, song ở Việt Nam mÄ© thuật Trung Hoa vẫn thống trị từ trong nhà ra ngoài đường.


*


Vẫn theo Vũ Trọng Phụng trong phóng sự nói trên, bản thân cái nghệ thuật sâu khấu ấy là „một sự sáng kiến của Trung Quốc, làm quen với dân mình vào hồi Đức Trần Hưng Đạo đánh đuổi quân Nguyên. Trong đám tù binh Tàu có tên lính Lý Nguyên Cát trong ngục cũng vẫn hát hỏng cho tù binh khác khuây khỏa nỗi lo buồn – việc làm tiêu thời giờ trong lúc ưu nhàn bất đắc dĩ. Thấy sự lạ, lính canh tù bẩm lên quan trên. Người ta hỏi Lý Nguyên Cát, y cắt nghĩa hết. Theo lệnh của Đức Trần Hưng Đạo, Lý Nguyên Cát bèn diễn một tấn tuồng do y soạn ra. ‚ Vương Mẫu hiến đào‘ là tấn tuồng trước tiên diễn trên mặt đất của Đức Đại Việt Hoàng đế, kép hát gồm 12 người, nam ban đóng giả nữ ban. Họ mặc áo gấm vóc, múa hát theo điệu đàn sáo, kèn, trống thành hẳn một khúc âm nhạc có tiết tấu và theo tích hát có thể khiến người „Ố Nàm“ mình phải vui mừng giận ghét hẳn hoi. Sau buổi diễn, Lý Nguyên Cát với 12 tù binh kia nghiễm nhiên trở nên những ông giáo sư dạy tuồng! Đến đời Trần Dụ Tông, các khanh tướng vương hầu nhận thấy chiếu của Vua truyền soạn tích hát. Rồi từ đó trở đi, những buổi dạ yến đều có tiếng trống kèn vang lừng hoàng cung.“


Thuở ấy mà Đức Thánh Trần quyết liệt tảy chay sản phẩm Trung Quốc hay chống xâm lăng văn hóa thì ngày nay người Việt đã không có những dòng âm nhạc và sân khấu âm nhạc được coi là văn hóa truyền thống của mình, từ hát bội đến nhã nhạc cung đình, từ nhạc tài tử đến cải lương và vọng cổ. Song Ngài có tư thế để cởi mở, để liberal như vậy, Ngài ba lần đánh tan quân Nguyên Mông, đứng trên mọi nghi ngờ quỳ gối trước phương Bắc.


© 2014 pro&contra




[1] VÅ© Trọng Phụng. Vẽ nhọ bôi hề – Những tác phẩm mới tìm thấy năm 2000. Peter Zinoman sưu tầm. Lại Nguyên Ân giới thiệu và chú thích. Nxb Hội Nhà văn và Công ty Văn hóa Phương Nam. 2004.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 04, 2014 08:05

September 1, 2014

Lời kêu gọi của trí thức Ba Lan: Hôm qua Danzig, hôm nay Donetsk

Phạm Thị Hoài dịch


pro&contra – Ngày 1 tháng Chín năm 1939, Thế chiến II bùng nổ với màn nổ súng xâm lược Ba Lan cá»§a Đức Quốc xã. Tròn 75 năm sau, ở châu Âu lại xuất hiện nhiều dấu hiệu chính trị và xung đột tương tá»± trong đêm trước cá»§a cuộc Đại chiến Thế giới đó. Một nhóm các nhà trí thức Ba Lan, trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như đạo diễn điện ảnh Andrzej Wajda, sá»­ gia Władysław Bartoszewski, nhà văn Wojciech Kuczok,… vừa gá»­i đến công dân và các chính phá»§ thuộc Liên minh Châu Âu (EU, với nhà lãnh đạo cao nhất trong nhiệm kì sắp tới là Thá»§ tướng Ba Lan Donald Tusk) “Lời kêu gọi” sau đây.


_________


“Chết cho Danzig ư?”, câu hỏi đó thể hiện thái độ cá»§a Tây Âu với Thế chiến II, nổ ra tròn 75 năm trước. Anh và Pháp đã ba lần khích lệ nhà độc tài Quốc xã: Hitler và đế chế Nazi không phải chịu một hậu quả nghiêm trọng nào cho vụ sáp nhập Áo, vụ chiếm đóng Sudetenland và cuối cùng là vụ xâm lược Tiệp Khắc. Thậm chí sau Hiệp ướp Xô-Đức, khi những phát súng đầu tiên vang lên ở Danzig ngày 1 tháng Chín 1939, các nước phương Tây cÅ©ng chỉ đủ can đảm để bắt đầu một cuộc “giả chiến” biểu tượng. Đó là lần thứ tư Hitler được khích lệ. Phương Tây đã tưởng rằng thí thành phố Danzig cá»§a Ba Lan thì chính mình sẽ thoát. Nhưng – sau Warszawa – Paris trở thành thá»§ đô thứ hai bị chiếm đóng và ít lâu sau thì London bắt đầu bị ném bom. Mãi đến khi ấy các nước Đồng minh mới hét lên đòi chấm dứt ngay lập tức và chấm dứt vÄ©nh viễn chiến tranh.


Tây Âu không được phép lặp lại một chính sách ích kỉ và thiển cận như thế nữa trước một kẻ xâm lược. Hiện trạng hôm nay và sự đột biến gia tăng căng thẳng nhắc chúng ta nhớ lại tình hình năm 1939. Hôm nay, nước Nga, một quốc gia hiếu chiến, đã chiếm đóng Krym, một khu vực của nước láng giềng nhỏ bé hơn mình. Quân đội và mật vụ của Tổng thống Putin tác chiến, cho tới nay thường giấu mặt, tại miền Đông Ukraine, ủng hộ những thế lực đang khủng bố cư dân vùng này, và trắng trợn dọa sẽ tràn vào xâm lược.


Nhưng so với năm 1939 thì tình thế hiện nay có một điểm mới: Trong những năm gần đây, khi các đối tác phương Tây còn tin vào “bộ mặt người” cá»§a kẻ xâm lược thì kẻ đó đã thu hút được nhiều chính khách và doanh nhân châu Âu vào quỹ đạo quyền lợi cá»§a mình. Nhóm lợi ích hình thành từ khi đó đã và đang tiếp tục ảnh hưởng đến chính sách Đông Âu cá»§a nhiều quốc gia, với phương châm đặc biệt ưu tiên Nga hoặc thậm chí chỉ chú trọng vào Nga. Giờ đây chính sách ấy đang phá sản. Châu Âu cần cấp bách một chính sách Đông Âu mới và thá»±c tiễn.


Vì thế chúng tôi kêu gọi các nước láng giềng, nhân dân và các chính phủ Châu Âu:


1. Tổng thống François Hollande và chính phá»§ Pháp đang đứng trước cạm bẫy tiến hành một bước đi có thể còn tệ hại hÆ¡n cả sá»± bị động cá»§a Pháp năm 1939. Trong những tuần tới, Pháp là nước Châu Âu duy nhất có thể sẽ giúp kẻ xâm lược: qua việc bán những hàng không mẫu hạm Mistral khổng lồ mới đóng theo hợp đồng cho Nga. Pháp bắt đầu sá»± hợp tác này từ năm 2010 và ngay khi đó đã bị nhiều chỉ trích mà Tổng thống Pháp lúc ấy là Nicolas Sarkozy thường dẹp bỏ bằng lập luận rằng “Chiến tranh Lạnh đã qua rồi”. Giờ đây một cuộc Chiến tranh Nóng đang bùng nổ ở Ukraine; như vậy không còn cÆ¡ sở nào để Pháp phải thá»±c hiện bản hợp đồng cÅ© nữa. Nhiều chính khách đã đề nghị Pháp nên bán lại số tàu đó cho Liên minh Châu Âu hay cho Khối Quân sá»± NATO. Nếu Tổng thống Hollande không sớm thay đổi ý kiến thì nhân dân Châu Âu nên tảy chay hàng hóa Pháp để gây sức ép. Trung thành với truyền thống vÄ© đại cá»§a mình, Pháp phải kiên định là một quốc gia phụng sá»± cho nền tá»± do cá»§a Châu Âu.


2. Từ khoảng năm 1982, CHLB Đức đã bắt đầu đẩy mình vào vị thế phụ thuộc vào khí đốt cá»§a Nga ở quy mô lớn. Ngay từ khi đó, các trí thức Ba Lan, trong đó có Czesław Miłosz và Leszek Kołakowski, đã cảnh báo rằng các đường ống dẫn khí đốt mới này có thể trở thành công cụ cưỡng bức Châu Âu. Các Tổng thống Ba Lan Aleksander Kwaśniewski và Lech Kaczyński cÅ©ng từng lưu ý điều đó. Song các nhà chính trị Đức rất đề cao sá»± hợp tác với chính quyền Xô-viết thuở đó và chính quyền Nga sau này, có thể xuất phát từ mặc cảm tội lỗi cá»§a người Đức, có thể từ lòng tin vào một “phép màu kinh tế Nga” hay cÅ©ng có thể từ hi vọng lợi lộc cá nhân. Qua đó họ  – có lẽ vô thức – đồng thời tiếp tục một truyền thống bất hạnh cá»§a Đức, khiến họ coi Nga là đối tác duy nhất cá»§a mình ở Đông Âu. Trong những năm gần đây, các công ti nhà nước và cá»§a giới quả đầu Nga bắt rễ ngày càng sâu ở Đức, từ lÄ©nh vá»±c năng lượng đến kinh doanh bóng đá và du lịch. Đức nên khống chế sá»± đan kết này, vì nó luôn kéo theo sá»± lệ thuộc chính trị.


3. Mọi người dân và mọi quốc gia Châu Âu đều nên tham gia cứu trợ Ukraine đang gặp nguy khốn. Hàng trăm ngàn người chạy nạn đang cần viện trợ nhân đạo. Nền kinh tế nước này đang cạn kiệt vì những hợp đồng dài hạn bất lợi với hãng Gazprom của Nga. Cho đến nay, nhà độc quyền khí đốt này đang ép Ukraine, một trong những khách hàng nghèo nhất, phải trả mức giá cao nhất. Kinh tế, đời sống văn hóa tuyệt vời, sống động cũng như các hoạt động truyền thông và xã hội dân sự của Ukraine đang khẩn thiết cần viện trợ, đối tác và các nhà đầu tư mới.


4. Nhiều năm nay Liên minh Châu Âu đều bảo Ukraine rằng đừng hi vọng – cả về việc gia nhập EU lẫn về việc được nhận ủng hộ gì hơn ngoài mang tính biểu tượng. Ngay cả Chương trình Đối tác Đông Âu của EU cũng không thay đổi được gì nhiều; thực tế đó chẳng qua là một chính sách thay thế vô nghĩa. Song vấn đề này bỗng vận hành theo đà của nó, chủ yếu nhờ ở sự kiên cường của các nhà dân chủ Ukraine. Lần đầu tiên trong lịch sử có những người dân gục ngã trước làn đạn, với lá cờ của EU trên tay. Lẽ nào Châu  không tỏ tình đoàn kết với họ? Nếu như vậy thì những giá trị của cuộc Cách mạng 1789, Tự do và Bác ái, đã trở thành vô nghĩa với cái Châu Âu này.


Ukraine có quyền bảo vệ lãnh thổ và công dân cá»§a mình trước một kẻ ngoại xâm, bằng cả quân đội và cảnh sát, ở cả những khu vá»±c sát biên giới với Nga. Ở Donetsk cÅ©ng như mọi nÆ¡i khác trên toàn quốc, từ khi Ukraine tái lập nền độc lập năm 1991 đến nay là hòa bình: Không hề có xung đột bạo lá»±c, kể cả trong vấn đề quyền cá»§a các sắc dân thiểu số. Nhưng giờ đây Vladimir Putin đã tháo xích cho “những con chó cá»§a chiến tranh” và đang tập dượt một hình thức xâm lăng mới. Ông ta đang biến Ukraine thành một vùng thí nghiệm, như Tây Ban Nha thời Nội chiến. Thời đó các lá»±c lượng phát-xít được Đức Quốc xã á»§ng hộ chiến đấu chống phe Cộng hòa. Hôm nay, không hô vang khẩu hiệu “No pasarán”[1] để chặn Putin là biến Liên minh Châu Âu và những giá trị cá»§a nó thành lố bịch và đồng tình để trật tá»± thế giới bị đảo lộn.


Không ai biết ba năm nữa ai sẽ cai trị nước Nga. Chúng ta không biết điều gì sẽ đến với giới thượng lưu quyền lá»±c ở Nga, những kẻ đang thúc đẩy cái chính sách phiêu lưu, đi ngược lại quyền lợi cá»§a chính dân tộc mình. Chúng ta chỉ biết rằng: Hôm nay, ai tiếp tục theo đuổi chính sách “business as usual“, bất chấp mọi sá»±, là đang đùa với sinh mệnh cá»§a hàng ngàn người Nga và người Ukraine. Là mạo hiểm chấp nhận thêm hàng trăm ngàn người chạy nạn và thêm một cú xâm lăng cá»§a đế quốc Putin vào những nước khác. Hôm qua Danzig (Gdańsk), hôm nay Donetsk: Chúng ta không được phép để Châu Âu sống cả vài thập kỉ với một vết thương để ngỏ và rỏ máu.


Những người kí tên: Władysław Bartoszewski, Jacek Dehnel, Inga Iwasiów, Ignacy Karpowicz, Wojciech Kuczok, Dorota Masłowska, Zbigniew Mentzel, Tomasz Różycki, Janusz Rudnicki, Piotr Sommer, Andrzej Stasiuk, Ziemowit Szczerek, Olga Tokarczuk, Eugeniusz Tkaczyszyn-Dycki, Magdalena Tulli, Agata Tuszyńska, Szczepan Twardoch, Andrzej Wajda, Kazimierz Wóycicki, Krystyna Zachwatowicz


01/9/2014


Nguồn: Bản tiếng Ba Lan: “Gdańsk 1939. Donieck 2014“, Gazeta Wyborcza. Bản tiếng Anh: 1939-2014: Die in Danzig – Live in Donetsk, EurActiv. Bản tiếng Đức: “Europa´s Auftrag“, Welt.


Bản tiếng Việt  © 2014 pro&contra




[1] Khẩu hiệu “Không cho (chúng) vượt qua”, nổi tiếng trong diễn thuyết cá»§a nhà hoạt động chính trị Dolores Ibárruri, kêu gọi phe Cộng hòa chiến đấu bảo vệ thá»§ đô Madrid trong Nội chiến Tây Ban Nha.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 01, 2014 09:02

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.