Phạm Thị Hoài's Blog, page 14

August 29, 2014

Nhật thực

Phạm Thị Hoài


Trong chương trình Ngữ văn bậc Trung học CÆ¡ sở và Trung học Phổ thông ở Việt Nam, lớp 6 có bài thÆ¡ “Đêm nay Bác không ngá»§” cá»§a Minh Huệ; lớp 7 có hai bài thÆ¡ “Cảnh khuya” và “Rằm tháng Giêng” cá»§a Hồ Chí Minh, bài “Đức tính giản dị cá»§a Bác Hồ” cá»§a Phạm Văn Đồng và bài báo “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu” cá»§a Nguyễn Ái Quốc; lớp 8 có ba bài thÆ¡ “Tức cảnh Pác Bó”, “Ngắm trăng” và “Đi đường” cá»§a Hồ Chí Minh; lớp 9 có bài “Phong cách Hồ Chí Minh” cá»§a Lê Anh Trà và bài thÆ¡ “Viếng lăng Bác” cá»§a Viễn Phương; lớp 11 có “Vi hành” và Nhật kí trong tù cá»§a Nguyễn Ái Quốc; lớp 12 có “Tuyên ngôn độc lập” cá»§a Hồ Chá»§ tịch và bài thÆ¡ “Bác Æ¡i” cá»§a Tố Hữu; duy nhất lớp 10 vắng bóng Bác Hồ, chỉ vì chương trình lớp này dành riêng cho văn học cổ trung đại.


Bao nhiêu Bác Hồ thì đủ cho môn Văn? Dường như rút một Bác khỏi chương trình khác nào xóa một Bác trên tờ bạc [1], là chuyện kinh thiên động địa [2].


Song muốn chăm sóc nhu cầu kính yêu và thương nhớ lãnh tụ thì môn Văn trong trường phổ thông không phải là chỗ thắp hương thích hợp nhất. Văn chẳng được gì, Bác cÅ©ng chẳng được gì, nếu không muốn nói là đôi bên cùng thiệt. Có lẽ không một giáo viên nào giảng bài “Đêm nay Bác không ngá»§” lại không bất giác nghÄ© đến vô số những dị bản cá»§a bài thÆ¡ này, với một hình ảnh Bác Hồ nằm ngoài chá»§ trương và sá»± kiểm soát cá»§a Bộ Giáo dục. Còn bài thÆ¡ “Viếng lăng Bác” cá»§a Viễn Phương thì đẩy Bác – hay đúng hÆ¡n là phần còn lại cá»§a Bác – vào một khung cảnh thật tăm tối. Nguyên văn như sau:


Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.


Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.


Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim.


Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…


Bác là một mặt trời đỏ, ở trong lăng. Song cũng ở trong lăng, Bác lại được một mặt trăng dịu hiền phủ bóng. Mặt trăng và mặt trời rơi vào vị trí ấy là xảy ra nhật thực. Dù không phải là khoa học để buộc phải chính xác, văn chương cũng không phải là một rổ đinh vít vô chính phủ hay một vương quốc toàn mây mù. Muốn thế nào, viếng lăng Bác như thế giống rưng rưng nước mắt xem nhật thực.


Cho nên tôi chỉ có thể khâm phục quyết tâm giảng dạy cá»§a các nhà sư phạm ở Việt Nam. Ngoài những tin văn hóa như “Công khai nâng ngá»±c, Linh Chi ưỡn hết cỡ” hay “Phi công trẻ lộ ảnh cưới, Phi Thanh Vân sốc nặng“, “Hà Hồ tạo sóng dư luận với đầm ‘phòi’ ngá»±c“…, mới đây tôi còn đọc được trên tờ Giáo dục & Thời đại cá»§a Bộ Giáo dục và Đào tạo mẹo ra câu hỏi trắc nghiệm môn Ngữ văn cá»§a một giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, với chính bài thÆ¡ xem nhật thá»±c nói trên. Để tìm “cảm xúc chá»§ đạo” cá»§a tác giả, học sinh được chọn một trong bốn giải đáp:


A. Nỗi đau đớn, tiếc thương vô hạn của nhà thơ khi Bác không còn nữa.


B. Tình yêu và lòng biết ơn vô hạn của tác giả khi đến viếng Bác.


C. Những xúc động nghẹn ngào của tác giả khi từ miền Nam ra thăm lăng Bác.


D. Suy nghĩ về quê hương, đất nước của tác giả khi vào lăng viếng Bác.


A, C, D đều trật, đều là những phương án nhiễu. Phải có “cái nhìn sâu sắc và khái quát về tổng thể bài thÆ¡”, như yêu cầu cá»§a người ra đề, mới chọn được trúng lời giải B. Nếu phải học chương trình Ngữ văn bậc Trung học ở Việt Nam hôm nay, chắc chắn tôi trượt.


© 2014 pro&contra




[1] Trừ tờ mệnh giá 100 đồng hầu như không còn được sử dụng, tất cả các tờ tiền Việt Nam khác đang lưu hành đều in hình Hồ Chủ tịch.




[2] Bắc Triều Tiên vừa giải phóng tờ bạc có mệnh giá cao nhất, 5000 wŏn, khỏi sự án ngữ vĩnh viễn của Chủ tịch Vĩnh cửu Kim Nhật Thành, trong khi cũng như ở Việt Nam, trừ hai tờ có mệnh giá nhỏ nhất, 1 giác và 5 giác, tất cả các tờ bạc Trung Quốc khác đều in hình Mao Trạch Đông.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 29, 2014 13:32

August 27, 2014

Trật tự thế giới mới: Lao động, tư bản, và sáng kiến trong một nền kinh tế phân phối lợi tức theo luật lũy thừa

Eik Brynjolfsson, Andrew McAfee, và Michael Spence


Trần Ngọc Cư dịch


Ghi chú của dịch giả: Bài tiểu luận này là một trong nhiều bài viết xuất hiện trên Foreign Affairs trong những số gần đây, phân tích hậu quả của nền kinh tế hậu công nghiệp đồng thời đề xuất những biện pháp của một chế độ dân chủ xã hội (social democracy) nhằm đối phó tình trạng bất bình đẳng kinh tế-xã hội do hai lực tác động của thời đại gây ra: toàn cầu hóa và công nghệ thông tin. Những bài liên quan mà chúng tôi đã dịch đăng trên pro&contra là:  Chủ nghĩa tư bản và tình trạng bắt bình đẳng và Tương lai dân chủ xã hội Mỹ .


[image error]Những tiến bộ gần đây trong công nghệ đã tạo ra một thị trường toàn cầu ngày càng hợp nhất cho lao động và vốn. Khả năng chuyển dịch của cả hai yếu tố sản xuất này hướng đến những công dụng có giá trị cao nhất, bất chấp chúng được sử dụng ở quốc gia nào, đang làm cân bằng giá cả của chúng khắp hoàn cầu. Trong những năm gần đây, sự quân bình hóa rộng lớn giá cả của các yếu tố sản xuất đã có lợi cho những quốc gia dư thừa lao động rẻ và những quốc gia tiếp cận vốn rẻ dễ dàng. Một số nhà nghiên cứu tranh luận rằng tiến bộ công nghệ hiện nay đang phục vụ lao động, nhưng một số khác lại tranh luận rằng tiến bộ này đang phục vụ tư bản. Điều mà cả hai trường phái đã coi nhẹ là, công nghệ không những đang kết hợp các nguồn lao động và vốn hiện có lại với nhau, mà lại còn tạo ra các nguồn lao động và vốn mới.


Máy móc đang thay thế nhiều dạng thức lao động của con người hơn bao giờ hết. Và khi chúng tự  sao chép chính mình, máy móc cũng tạo thêm tư bản. Điều này có nghĩa là kẻ thắng thế thực sự trong tương lai không phải là các nguồn cung cấp lao động rẻ hay là các chủ tư bản thông thường, vì cả hai lực lượng kinh tế này càng ngày càng bị tiến trình tự động hóa [automation] chèn ép. Thay vào đó, vận may sẽ nghiêng về một nhóm thứ ba: những người có phát kiến và sáng tạo các sản phẩm, dịch vụ, và mẫu hình kinh doanh mới.


Sá»± phân phối lợi tức dành cho tầng lớp sáng tạo này thường mang dạng thức một biểu đồ cá»§a luật lÅ©y thừa [a power law], với một thiểu số gồm những kẻ thắng thế chiếm gần hết phần thưởng và một cái đuôi dài gồm các thành phần khác đã tham dá»± vào tiến trình kinh tế. Vì thế trong tương lai, các sáng kiến sẽ là đầu vào khan hiếm thá»±c sá»± trên thế giới — hiếm hÆ¡n cả lao động và vốn – và cái thiểu số cung cấp sáng kiến này sẽ gặt hái các phần thưởng khổng lồ. Đảm bảo một mức sống khả dÄ© chấp nhận được cho đa số còn lại và xây dá»±ng các nền kinh tế và xã hội không loại bỏ bất cứ ai sẽ là những thách thức ngày càng nghiêm trọng trong những năm sắp đến.


NHỮNG NỖI ĐAU CỦA GIỚI LAO ĐỘNG


Lật chiếc iPhone thì bạn có thể đọc được cả một kế hoạch kinh doanh gồm vỏn vẹn tám chữ đã phục vụ tốt cho hãng Apple: “Designed by Apple inCalifornia. Assembled inChina.” [Do Apple thiết kế tạiCalifornia. Được lắp ráp tại Trung Quốc.]  Với ước lượng vốn thị trường trên 500 tỉ USD, Apple đã trở thành công ty có giá trị nhất thế giới. Các biến thể khác nhau cá»§a chiến lược sản xuất này đã thành công không những đối với Apple và các đại công ty toàn cầu khác mà còn đối với các hãng có tầm cỡ trung bình và thậm chí đối với các “công ty đa quốc vi mô” [micro-multinationals]. Càng ngày càng có nhiều công ty cỡi lên trên hai lá»±c tác động vÄ© đại — công nghệ và toàn cầu hóa — để tiến tới việc thu hoạch lợi nhuận.


Công nghệ đã thúc đẩy nhanh chóng tiến trình toàn cầu hóa, cắt giảm các phí tổn vận chuyển và giao dịch một cách ngoạn mục và đưa thế giới tới gần một thị trường toàn cầu to lớn duy nhất đối với lao động, vốn, và các đầu vào khác cho việc sản xuất. Mặc dù lao động không dễ di chuyển, nhưng các yếu tố sản xuất khác ngày càng trở nên hoàn toàn di động. Do đó, những yếu tố khác nhau của các dây chuyền cung cấp toàn cầu có thể dời đến địa điểm có lao động rẻ mà ít gây ra xung đột hay tốn kém. Khoảng một phần ba hàng hóa và dịch vụ trong các nền kinh tế tiên tiến là có giá trị mậu dịch [tradable], và con số này đang gia tăng. Và hiệu ứng của cạnh tranh toàn cầu đang lây sang khu vực kinh tế phi mậu dịch, trong các nền kinh tế tiên tiến lẫn các nền kinh tế đang phát triển.


Tất cả sự kiện này tạo cơ hội không những cho việc gia tăng hiệu năng và lợi nhuận kinh tế, mà còn cho các đợt chuyển dịch công việc to lớn. Nếu một công nhân tại Trung Quốc hay Ấn Độ có thể làm một công việc như một công nhân tại Mỹ, thì qui luật kinh tế đòi hỏi rằng các công nhân này rốt cuộc sẽ kiếm được đồng lương tương đương (được điều chỉnh vì một vài chênh lệch khác trong năng suất quốc gia). Đó là một tin mừng cho hiệu năng kinh tế nói chung, cho giới tiêu thụ, và cho công nhân các nước đang phát triển – nhưng là điều bất lợi cho công nhân các nước đã phát triển hiện đang đối mặt với sự thi đua cắt giảm phí tổn tại các công ty. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các khu vực sản xuất hàng hóa mậu dịch tại các nước công nghiệp tiên tiến trong hai thập kỷ qua nói chung không tạo thêm công việc. Điều đó có nghĩa là việc tạo thêm công ăn việc làm gần như chỉ diễn ra trong khu vực phi mậu dịch [nontradable] rộng lớn, nơi đó lương công nhân bị kềm giữ ở mức thấp bởi sự cạnh tranh ngày càng gia tăng do những công nhân bị mất việc từ khu vực mậu dịch.


Tuy vậy, ngay cả khi câu chuyện toàn cầu hóa còn tiếp diễn, thì một câu chuyện khác thậm chí quan trọng hơn lại bắt đầu diễn ra: câu chuyện tự động hóa, gồm  trí thông minh nhân tạo, công nghệ người máy, và công nghệ in 3 chiều, v.v. Và câu chuyện thứ hai này đang vượt qua câu chuyện thứ nhất, với một số hậu quả nghiêm trọng nhất của nó chắc chắn sẽ ập đến cho giới công nhân tương đối thiếu kỹ năng tại các quốc gia đang phát triển.


Nếu đến thăm một nhà máy tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, chẳng hạn, bạn sẽ thấy hàng ngàn thanh niên lao động ngày này qua ngày khác trong những công việc thông thường, lặp đi lặp lại đều đặn, như nối hai phần của một bàn phím vi tính. Những công việc này hiếm khi thấy, nếu còn có chăng nữa, tại Mỹ và các nước giàu khác trên thế giới. Nhưng có lẽ chúng cũng không tồn tại lâu dài tại Trung Quốc và các nước đang phát triển khác, vì chúng gồm một loại động tác mà rôbốt có thể làm dễ dàng. Khi các loại máy thông minh trở nên rẻ hơn và có khả năng hơn, chúng sẽ càng ngày càng thay thế sức lao động của con người, đặc biệt trong những môi trường tương đối được cơ cấu như các nhà máy, nhất là đối với công việc lặp đi lặp lại thường ngày. Nói cách khác, việc các nước tiên tiến đưa công việc ra nước ngoài thường chỉ là một trạm trung chuyển trên con đường dẫn đến tự động hóa.


Điều này sẽ diễn ra thậm chí tại những nơi có giá lao động thấp. Thật vậy, Foxconn, công ty Trung Quốc lắp ráp iPhone và iPad, mướn hơn một triệu công nhân với mức lương thấp – nhưng hiện nay đang bổ sung và thay thế họ bằng một đạo quân rôbốt ngày một lớn mạnh. Như vậy, sau khi nhiều công việc trong khu vực chế tạo được đưa từ Mỹ sang Trung Quốc, bây giờ chúng có vẻ cũng đang biến mất từ Trung Quốc. (Dữ liệu đáng tin cậy về sự chuyển đổi này không dễ thu thập. Các số liệu chính thức của Trung Quốc cho thấy khu vực gia công đã giảm bớt 30 triệu công việc kể từ 1996, tức 25 phần trăm tổng số, thậm chí trong khi năng suất của ngành sản xuất tăng vọt quá 75 phần trăm, nhưng một phần của sự giảm bớt này có thể phản ánh những lần duyệt lại các phương pháp thu thập dữ liệu.) Ngoài ra, khi công việc không còn chạy theo lao động rẻ nữa, nó sẽ bị thu hút về những nơi nào có thị trường sau cùng, vì việc này sẽ gia tăng giá trị bằng cách thu ngắn thời gian giao hàng, cắt giảm các phí tổn tồn kho, và các chi phí tương tự.


Các tiềm năng đang tăng trưởng của việc tự động hóa đe dọa một trong những chiến lược đáng tin cậy nhất mà các nước nghèo đã sử dụng để thu hút đầu tư nước ngoài: cung cấp lao động rẻ để bù lại năng suất thấp và thiếu kỹ năng. Và xu thế này sẽ vượt ra ngoài khu vực chế tạo. Các hệ thống tương tác trả lời tự động [interactive voice response systems], chẳng hạn, giảm bớt nhu cầu tương tác trực tiếp giữa hai cá nhân [direct person-to-person interaction], việc này đang gây lo lắng cho các trung tâm chăm sóc khách hàng qua điện thoại [call centers] tại các nước đang phát triển. Tương tự như vậy, các chương trình vi tính ngày càng đáng tin cậy sẽ cắt giảm công việc của ngành tốc ký [transcription] thường được sử dụng trong thế giới đang phát triển. Càng ngày càng có nhiều lãnh vực, trong đó nguồn “lao động” rẻ nhất sẽ là các máy móc thông minh và linh động, đối lập với những con người có đồng lương thấp tại các nước khác.


HÌNH PHẠT DÀNH CHO TƯ BẢN


Nếu lao động rẻ và dễ kiếm không còn là một con đường hiển nhiên đưa đến tiến bộ kinh tế, thì cái gì mới là? Một trường phái tư duy chỉ vào những đóng góp ngày một gia tăng của tư bản: những tài sản hữu hình và vô hình kết hợp với lao động để sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (ta có thể nghĩ đến thiết bị, địa ốc, bằng sáng chế, thương hiệu, vân vân). Như nhà kinh tế Thomas Piketty lý luận trong cuốn sách bán chạy nhất của ông, Capital in the Twenty-first Century [Tư bản trong Thế kỷ 21], phần vốn trong nền kinh tế có khuynh hướng gia tăng khi tỉ số lợi nhuận trên số vốn đó lớn hơn tỉ lệ tăng trưởng kinh tế tổng quát, một tình trạng mà ông tiên đoán cho tương lai. Việc “tăng vốn” trong các nền kinh tế mà Piketty dự báo sẽ được đẩy mạnh hơn nữa khi rôbốt, máy vi tính, và phần mềm (tất cả đều là những dạng thức tư bản) càng ngày càng thay thế cho công nhân. Chứng liệu cho thấy rằng cùng một hình thức thay đổi công nghệ dựa vào vốn [capital-based technological change] như thế đang diễn ra tại Hoa Kỳ và khắp thế giới.


Sự phân chia gần như bất biến trong lịch sử giữa phần lợi tức quốc gia thuộc về lao động và phần lợi tức quốc gia thuộc về vốn hữu hình, có vẻ đã thay đổi đáng kể trong thập kỷ qua. Như các nhà kinh tế Susan Flex, John Glaser, và Shawn Sprague ghi nhận trong Nguyệt san Monthly Labor Review của Phòng Thống kê Lao động Mỹ năm 2011, “Phần lợi tức thuộc về lao động tính trung bình là 64,3% từ năm 1947 đến năm 2000. Phần lợi tức lao động đã sút giảm trong thập kỷ qua, rơi xuống mức thấp nhất trong quí ba năm 2010, là 57,8%.” Những động thái gần đây nhằm đưa hoạt động sản xuất từ nước ngoài về lại Mỹ, kể cả quyết định của Apple sản xuất máy vi tính Mac Pro mới nhất tại Texas, sẽ không giúp gì nhiều để đảo ngược xu thế này. Vì muốn đứng vững trong lãnh vực kinh tế, những cơ sở sản xuất mới ở trong nước cần phải được tự động hóa cao độ.


Các nước khác cũng đang chứng kiến những xu thế tương tự. Các nhà kinh tế Loukas Karabarbounis và Brent Neiman đã cung cấp tư liệu về những sút giảm đáng kể trong phần đóng góp của lao động cho Tổng sản lượng [GDP] tại 42 trong số 59 nước được nghiên cứu, kể cả Trung Quốc, Ấn Độ, và Mê-hi-cô. Trong việc mô tả những phát hiện của họ, Karabarbounis và Naiman đã diễn tả rõ ràng rằng tiến bộ trong các công nghệ kỹ thuật số là một động lực quan trọng đưa đến hiện tượng này: “Sự giảm giá tương đối của các hàng thiết bị [investment goods], thường được coi là do những tiến bộ của công nghệ thông tin và thời đại vi tính, đã khiến các công ty dần dần tách khỏi lao động và hướng tới vốn. Giá rẻ hơn của hàng thiết bị có thể giải thích sự cắt giảm gần một nửa phần đóng góp của lao động được quan sát trong bản nghiên cứu.”


Nhưng nếu phần đóng góp của vốn trong lợi tức quốc gia đã và đang gia tăng, sự tiếp diễn của xu thế này vào tương lai có thể bị đe dọa khi một thách đố mới đối với tư bản xuất hiện – không phải từ khu vực lao động được phục hồi, mà từ một đơn vị ngày một quan trọng ngay trong hàng ngũ của vốn: đó là vốn kỹ thuật số [digital capital].


Trong một thị trường tự do, những phần thưởng lớn nhất sẽ thuộc về những đầu vào hiếm hoi nhất được cần tới trong quá trình sản xuất. Trong một thế giới mà loại vốn như phần mềm và rôbốt có thể được tái tạo với giá rẻ, giá trị biên của chúng sẽ có xu thế đi xuống, thậm chí khi loại vốn này được sử dụng nhiều hơn trong tập hợp vốn. Và khi tăng thêm vốn mà không tốn kém thêm bao nhiêu, giá trị của vốn sẵn có trên thực tế sẽ bị đẩy xuống. Khác hẳn với các nhà máy thông thường chẳng hạn, nhiều loại vốn kỹ thuật số có thể được thêm vào với giá cực rẻ. Phần mềm có thể được sao chép và phân phối gần như không tốn kém thêm chút nào. Và nhiều thành tố của phần cứng máy vi tính, được chi phối bởi các biến thể của định luậtMoore, nhanh chóng và liên tục trở nên rẻ hơn qua thời gian. Tóm lại, vốn kỹ thuật số là rất dồi dào, càng tăng số lượng càng ít tốn kém, và ngày càng quan trọng gần như trong mọi công nghiệp.


Do đó, thậm chí khi quá trình sản xuất cần vốn hơn cần nhân công [more capital-intensive], các phần thưởng mà tập thể các nhà tư bản kiếm được có thể không nhất thiết tiếp tục gia tăng so với phần thưởng dành cho lao động. Các phần thưởng này sẽ tùy thuộc vào các chi tiết cụ thể của quá trình sản xuất, phân phối, và các hệ thống quản trị.


Quan trọng hơn cả, sự tưởng thưởng sẽ tùy vào những đầu vào nào là khan hiếm nhất đối với quá trình sản xuất. Nếu các công nghệ kỹ thuật số tạo ra các phương tiện sản xuất rẻ để càng ngày càng thay thế cho một số việc của công nhân, thì đó không phải là một vận hội tốt cho người lao động. Nhưng nếu các công nghệ kỹ thuật số cũng ngày càng thay thế cho vốn, thì tất cả các chủ tư bản cũng không nên kỳ vọng kiếm được những lợi nhuận kếch sù.


CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐẢO LỘN TRẬT TỰ THẾ GIỚI


Thành tố nào sẽ là tài nguyên khan hiếm nhất, và do đó có giá trị nhất trong cái mà hai người trong chúng tôi (Erik Brynjolfsson và Andrew McAfee) gọi là “thời đại cơ giới thứ hai,” một kỷ nguyên được thúc đẩy bởi các công nghệ kỹ thuật số và các đặc tính kinh tế của chúng? Thành tố đó sẽ không phải là lao động phổ thông hay vốn thông thường mà là những người có thể đưa ra các ý tưởng mới lạ và các cải tổ.


Hẳn nhiên, từ trước đến nay những người này luôn luôn có giá trị kinh tế cao và thường hưởng những lợi nhuận to lớn nhờ các phát minh của họ. Nhưng trong quá khứ họ phải chia lợi nhuận do sáng kiến của họ với giới lao động và các nhà tư bản, vốn là những thành phần cần thiết để mang thành quả trí tuệ của họ vào thị trường. Các công nghệ kỹ thuật số càng ngày càng biến cả lao động thông thường lẫn vốn thông thường thành hàng hóa, và do đó đa số các phần thưởng phát xuất từ sáng kiến sẽ thuộc về những người có óc sáng tạo, cải tổ và kinh doanh. Người có sáng kiến, chứ không phải là công nhân hay người đầu tư, sẽ là tài nguyên khan hiếm nhất.


Mô hình căn bản nhất mà các nhà kinh tế sử dụng để giải thích tác động của công nghệ coi tài nguyên khan hiếm nhất này như là số nhân giản đơn [a simple multiplier] cho mọi thứ khác, gia tăng năng suất tổng thể thậm chí cho cả mọi thành phần. Mô hình này được dùng trong tất cả các lớp kinh tế nhập môn và cung cấp nền tảng cho sự hiểu biết qua trực giác thông thường – và, mãi cho đến gần đây, rất hợp lý – rằng ngọn thủy triều đang dâng của tiến bộ công nghệ sẽ đồng loạt nâng mọi chiếc thuyền lên ngang nhau, khiến tất cả các công nhân có năng suất cao hơn và do đó có giá trị hơn.


Tuy nhiên, một mô hình phức tạp hơn và thực tế hơn lại cho phép một khả năng là công nghệ có thể không ảnh hưởng đồng đều lên mọi đầu vào mà thay vào đó dành ưu tiên cho một số đầu vào này nhiều hơn một số đầu vào khác. Biến chuyển kỹ thuật dựa vào kỹ năng [skill-based technical change], chẳng hạn, diễn ra có lợi cho những công nhân có tay nghề hơn những công nhân thiếu tay nghề, và biến chuyển kỹ thuật dựa vào vốn [capital-based technical change] sẽ ưu đãi các nhà tư bản hơn giới công nhân. Cả hai loại biến chuyển kỹ thuật này từng đóng vai trò quan trọng trong quá khứ, nhưng ngày càng rõ nét, một loại thứ ba – cái mà chúng tôi gọi là biến chuyển kỹ thuật dựa vào các siêu sao [superstar-based technical change] – đang đảo lộn nền kinh tế toàn cầu.


Ngày nay, người ta có thể đem nhiều hàng hóa, dịch vụ, và phương pháp ra mà mã hóa [codify] chúng. Một khi được mã hóa, chúng có thể được số hóa [digitized], và một khi được số hóa, chúng có thể được sao chép ra vô số phiên bản [replicated]. Các phiên bản kỹ thuật số có thể được làm ra gần như không tốn kém gì cả và có thể chuyển đến bất cứ nơi nào trên thế giới gần như tức khắc, mỗi đơn vị đều giống hệt nguyên bản. Sự kết hợp ba đặc tính sau đây đã đưa tới một ngành kinh tế kỳ lạ và tuyệt diệu: chi phí cực thấp, hiện hữu đều khắp và nhanh chóng, và hoàn toàn trung thực [perfect fidelity]. Nó có thể tạo ra sự dư thừa trong lãnh vực trước đây hoàn toàn khan hiếm, không những đối với các hàng hóa tiêu thụ, như video âm nhạc, mà còn đối với những đầu vào kinh tế, như một số loại lao động và loại vốn nhất định.


[image error]Lợi nhuận trong những thị trường kỹ thuật số này thường theo một mô hình rõ rệt — luật lÅ©y thừa, hay đường cung Pareto, trong đó một thiểu số tác nhân rất nhỏ gặt hái một phần quá lớn các phần thưởng kinh tế. Các hiệu ứng mạng lưới [network effects], theo đó một sản phẩm càng có giá trị nếu càng có nhiều người sá»­ dụng, cÅ©ng có thể tạo ra các loại thị trường như thế, trong đó những người thành công sẽ hưởng hết hoặc hầu hết mọi lợi nhuận [“được ăn cả” / winner-take-all]. Ta thá»­ lấy Instagram, diễn đàn chia sẻ ảnh, làm ví dụ cho khoa kinh tế cá»§a nền kinh tế mạng lưới kỹ thuật số. Mười bốn thành viên tạo dá»±ng công ty này không cần thuê mướn nhiều công nhân thiếu tay nghề để làm được việc đó, và họ cÅ©ng chẳng cần đến vốn hữu hình là bao nhiêu. Họ tạo ra một sản phẩm kỹ thuật số có thể vận dụng hiệu ứng mạng lưới, và một khi nó đã nhanh chóng chiếm thị trường, họ đã bán lại công ty chỉ sau một năm rưỡi với giá gần 3/4 tỉ USD — mỉa mai là việc này đã diễn ra chỉ vài tháng tiếp theo sau sá»± phá sản cá»§a một công ty ảnh khác, đó là công ty Kodak, một công ty mà ở đỉnh cao cá»§a nó đã có đến 145.000 nhân viên và giữ nhiều tài sản vốn đáng giá hàng tỉ USD.


Instagram là một ví dụ cực đoan của một qui luật tổng quát hơn. Thông thường là, khi các cải tiến trong các công nghệ kỹ thuật số thúc đẩy việc số hóa một sản phẩm hay một tiến trình, các siêu sao thấy lợi tức của mình tăng vọt, trong khi các ngôi sao hạng hai, các nhà kinh doanh thứ yếu, và các người đến muộn thường phải cạnh tranh vất vả hơn. Những diễn viên hàng đầu trong âm nhạc, thể thao, và các ngành khác cũng nhận thấy tiềm năng và lợi tức của mình tăng nhanh từ thập niên 1980, một cách trực tiếp hay gián tiếp đã cỡi lên những xu thế này để đi lên.


Nhưng không chỉ phần mềm và các phương tiện ghi hình ảnh và âm thanh là đang được chuyển đổi. Số hóa và mạng lưới [digitization and networks] là hai hiện tượng đang diễn ra đều khắp trong mọi công nghiệp và chức năng của nền kinh tế, từ buôn bán lẻ và các dịch vụ tài chính đến khu vực chế tạo và khuyến mãi. Nghĩa là kinh tế siêu sao đang ảnh hưởng lên nhiều hàng hóa, dịch vụ, và dân chúng hơn bao giờ hết.


Thậm chí lãnh đạo hàng đầu của các công ty cũng bắt đầu kiếm được thù lao tương đương với các ngôi sao nhạc rock. Vào năm 1990, lương trung bình của tổng giám đốc công ty tại Mỹ lớn gấp 70 lần lương của một công nhân bình thường; nhưng năm 2005, lớn gấp 300 lần. Thù lao của tổng giám đốc trên toàn cầu nói chung đều đi theo cùng một chiều hướng, dù có thay đổi đáng kể theo từng nước. Nhiều lực tác động đang diễn ra trong lãnh vực này, gồm các thay đổi thuế má và chính sách, các qui phạm văn hóa và tổ chức đang diễn biến, và cả vận may nữa. Nhưng nghiên cứu của một người trong chúng tôi (Brynjolfsson) và Heekyung Kim đã cho thấy, một phần của sự tăng trưởng thù lao này được gắn liền với việc sử dụng công nghệ thông tin rộng rãi hơn trước. Công nghệ đã mở rộng tầm với tiềm năng, phạm vi hoạt động, và khả năng theo dõi của một người làm quyết sách, gia tăng giá trị của một người làm quyết sách giỏi bằng cách khuyếch đại các hệ quả tiềm năng do các lựa chọn của người đó. Việc quản lý trực tiếp qua các công nghệ kỹ thuật số khiến một người quản lý giỏi trở nên có giá trị hơn trước đây, khi mà các lãnh đạo công ty phải chia sẻ quyền kiểm soát với những chuỗi dài gồm các thuộc cấp và chỉ có thể ảnh hưởng lên một tầm hoạt động nhỏ hơn. Ngày nay, trị giá thị trường của một công ty càng lớn, thì lý do phải cố gắng tìm cho ra các nhà quản lý ưu tú nhất để lãnh công ty càng trở nên bức thiết.


Khi lợi tức được phân phối theo luật lũy thừa, hầu hết mọi người sẽ ở dưới mức lương trung bình, và khi các nền kinh tế quốc gia rõ ràng ngày một chịu sự chi phối của các động lực này, mô hình phân phối lợi tức vừa nói sẽ diễn ra trên cấp độ quốc gia. Và như dự kiến, Hoa Kỳ ngày nay là một trong những nước đặc biệt có GDP trên mỗi đầu người cao nhất thế giới – trong khi thu nhập trung bình của người công nhân gần như đứng yên một chỗ suốt hai thập kỷ vừa qua.


CHUẨN BỊ CHO CUỘC CÁCH MẠNG THƯỜNG TRỰC


Các lực tác động trong thời đại cơ giới thứ hai là mãnh liệt, ảnh hưởng lên nhau, và phức tạp. Không ai có thể nhìn vào tương lai xa vời mà tiên đoán được phần nào tác động sau cùng của các lực này là gì. Tuy nhiên, nếu các cá nhân, các doanh nghiệp, và các chính phủ hiểu được những gì đang diễn ra, chí ít họ có thể cố gắng điều chỉnh và thích nghi.


Hoa Kỳ, chẳng hạn, có thể giành lại một số doanh nghiệp khi câu thứ hai trong kế hoạch kinh doanh tám chữ của hãng Apple được đảo nghĩa và các hoạt động sản xuất một lần nữa được thực hiện bên trong biên giới của nước Mỹ. Nhưng câu thứ nhất của kế hoạch này lại trở nên quan trọng hơn bao giờ cả, và chính ở điểm này, người Mỹ cần phải lo lắng chứ không được tự mãn. Vì không may là, chính cái tính năng động và óc sáng tạo đã từng làm cho nước Mỹ trở thành quốc gia có nhiều sáng kiến nhất thế giới có lẽ đang bị lung lay.


Nhờ cuộc cách mạng kỹ thuật số đang diễn ra không ngưng nghỉ, lãnh vực thiết kế và sáng kiến hiện nay đã trở thành một bộ phận của khu vực mậu dịch [tradable sector] trong nền kinh tế toàn cầu và sẽ gặp phải cùng loại cạnh tranh đã từng thay đổi khu vực sản suất. Khả năng lãnh đạo trong ngành thiết kế tùy thuộc vào một lực lượng lao động có kiến thức và một văn hóa kinh doanh, nhưng lợi thế truyền thống của Mỹ trong những lãnh vực này hiện đang suy giảm. Mặc dù có thời Mỹ đã dẫn đầu thế giới về số người tốt nghiệp đại học trong lực lượng lao động của mình chí ít với bằng cao đẳng, nhưng hiện nay Mỹ đã rơi xuống vị thứ 12. Và mặc dù cảm hứng kinh doanh tại những nơi như Thung lũng Silicon vẫn sôi sục, nhưng dữ liệu cho thấy kể từ 1996, số công ty khởi nghiệp [start-ups] tại Mỹ sử dụng nhiều hơn một người đã giảm hơn 20 phần trăm.


Nếu những xu thế đang bàn luận ở đây là có tính toàn cầu, thì những hệ quả địa phương của chúng sẽ bị chi phối một phần do các chính sách xã hội và đầu tư mà các nước lựa chọn để thực hiện, cả trong lãnh vực giáo dục nói riêng và trong việc nuôi dưỡng sáng kiến và tính năng động kinh tế nói chung. Qua hơn một thế kỷ, hệ thống giáo dục Mỹ được cả thế giới thèm muốn, với giáo dục phổ thông [miễn phí và cưỡng bách] từ mẫu giáo đến lớp 12 và các đại học đẳng cấp quốc tế có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Nhưng trong những thập kỷ gần đây, phẩm chất giáo dục tại các trường tiểu học và trung học Mỹ không được đồng đều, vì phải tùy thuộc vào mức lợi tức của từng khu dân cư và nhà trường vẫn còn chú trọng vào việc cho học sinh học thuộc lòng bằng cách lập đi lặp lại [rote learning].


May là, chính cuộc cách mạng kỹ thuật số hiện đang biến đổi các thị trường sản phẩm và lao động cũng đồng thời có thể đóng góp cho việc biến đổi giáo dục. Các chương trình học trực tuyến [online learning] có thể giúp sinh viên bất luận ở đâu tiếp cận các vị thầy, nội dung bài học, và các phương pháp hay nhất. Hơn nữa, các phương pháp mới mà sự tiến bộ dựa vào dữ liệu chứ không dựa vào trực giác hay kinh nghiệm cá nhân [data-driven approaches] để theo đuổi ngành học có thể khiến việc đo lường chỗ mạnh, chỗ yếu, và tiến bộ của người sinh viên dễ dàng hơn. Việc này chắc chắn tạo cơ hội thuận lợi cho các chương trình học tập và tiếp tục trau dồi bản thân theo nhu cầu của từng cá nhân, bằng cách sử dụng một số kỹ thuật phản hồi [feedback techniques] vốn đã biến đổi các khám phá khoa học, buôn bán lẻ, và khu vực sản xuất.


Toàn cầu hóa và thay đổi công nghệ có thể làm gia tăng của cải và hiệu năng kinh tế của các quốc gia và cả thế giới nói chung, nhưng chúng sẽ không mang phúc lợi đến cho hết thảy mọi người, chí ít trong ngắn hạn và trung hạn. Đặc biệt là, giới lao động phổ thông [ordinary workers] sẽ tiếp tục chịu những đòn nặng nề của những biến đổi kinh tế này; họ hưởng lợi trong vị thế của người tiêu thụ nhưng không nhất thiết hưởng lợi trong vị thế của người sản xuất. Điều này có nghĩa là, nếu không có sự can thiệp hơn nữa [của chính phủ], bất bình đẳng kinh tế có khả năng sẽ tiếp tục gia tăng, đặt ra một loạt vấn đề khác nhau. Lợi tức không đồng đều có thể dẫn đến cơ hội không đồng đều, tình trạng này sẽ tước đoạt của các quốc gia khả năng tiếp cận nhân tài và phá hoại khế ước xã hội [the social contract]. Đồng thời, quyền lực chính trị thường theo đuôi quyền lực kinh tế, trong trường hợp này sẽ phá hoại thể chế dân chủ.


Những thách thức này có thể và cần được đối phó thông qua việc cung cấp các dịch vụ công cộng cơ bản có chất lượng cao, gồm giáo dục, y tế, và an ninh kinh tế cho người nghỉ hưu. Những dịch vụ này sẽ là cốt yếu để tạo ra sự bình đẳng đích thực về cơ hội trong một môi trường kinh tế đang thay đổi nhanh chóng và để đẩy mạnh sự thăng tiến từ đời này sang đời khác về lợi tức, của cải, và viễn ảnh tương lai.


Riêng việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung, gần như có một sự đồng thuận giữa các nhà kinh tế nghiêm túc về đa số các chính sách được coi là cần thiết. Chiến lược cơ bản thì giản dị về mặt tri thức, dù khó thực hiện về mặt chính trị: đẩy mạnh đầu tư vào khu vực công trong ngắn hạn và trung hạn đồng thời làm cho đầu tư này có hiệu năng hơn và phải lên kế hoạch việc củng cố ngân sách qua dài hạn. Mọi người đều biết rằng các đầu tư công cộng thường có thành quả cao trong các nghiên cứu cơ bản về y tế, khoa học, và công nghệ; trong giáo dục; và trong chi phí hạ tầng về đường sá, phi trường, các hệ thống cung cấp nước và vệ sinh công cộng, về năng lượng và các mạng lưới giao thông. Gia tăng chi tiêu của chính phủ trong những lãnh vực này sẽ đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế hiện nay đồng thời tạo được của cải thực cho các thế hệ mai sau.


Nếu cuộc cách mạng kỹ thuật số vẫn tiếp tục mạnh mẽ trong tương lai như đã diễn ra trong những năm gần đây, thì cấu trúc của nền kinh tế hiện đại và vai trò của bản thân công việc có thể cần phải được xét lại. Như một tập thể, con cháu của chúng ta có thể sẽ làm việc ngắn giờ hơn và có cuộc sống tốt đẹp hơn – nhưng cả công việc lẫn các phần thưởng lao động có thể sẽ được phân phối thậm chí bất bình đẳng hơn trước, gây hậu quả xấu dưới nhiều hình thức khác nhau. Việc tạo tăng trưởng kinh tế bền vững, công bằng, và không loại bỏ một thành phần xã hội nào sẽ đòi hỏi nỗ lực phi thường. Bắt đầu bằng sự hiểu biết đúng đắn rằng mọi việc đã tiến nhanh tiến xa như thế nào.


ERIK BRYNJOLFSSON là Giáo sư Khoa Quản lý tại Trường Quản lý Sloan Đại học MIT và là đồng sáng lập viên chương trình Sáng kiến về Kinh tế Kỹ thuật số tại MIT. ANDREW MCAFEE là một nhà nghiên cứu chính tại Trung tâm Nghiên cứu Doanh nghiệp Kỹ thuật số thuộc Trường Quản lý Sloan tại MIT và là đồng sáng lập viên chương trình Sáng kiến về Kinh tế Kỹ thuật số tại MIT. MICHAEL SPENCE là Giáo sư Kinh tế và Kinh doanh tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York.


Nguồn: Foreign Affairs, July-August 2014


Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 27, 2014 09:05

August 21, 2014

Tố chất nào của người Hoa?

Lưu Du


Phạm Thị Hoài dịch


Nhiều người hẳn biết rằng một số khái niệm đặc sắc trong tiếng Trung rất khó dịch sang tiếng Anh, thí dụ đột kích thá»§ (突击手) [1], bất chiết đằng (不折腾) [2], tinh thần văn minh (精神文明), ban tá»­ kiến thiết (班子建设) [3]… Ai dịch được huyết nhiễm đích phong thái (血染的风采) [4] thì tôi xin tặng ngay cờ luân lưu. Tố chất (ç´ è´¨) là một trong những từ như thế.


Người Hoa tố chất kém, vì thế Trung Quốc không nên…” Câu này phổ biến tới mức nếu không đi cùng với hai từ kém và người Hoa thì từ tố chất như thể bÆ¡ vÆ¡ lạc lõng. Nhưng dịch tố chất như thế nào đây? Dịch thành quality có vẻ hợp hÆ¡n cả. Tuy nhiên, thá»­ nghÄ© kÄ© thì câu tiếng Anh “The quality of Chinese people is low, so China should not…” rõ ràng lại không hợp. Vì nếu dịch ngược trở lại tiếng Trung thì câu này sẽ thành “Người Hoa chất lượng kém, vì thế Trung Quốc không nên…” Mà như thế thì rõ là phân biệt chá»§ng tộc và chắc chắn không hợp ý người Hoa nào phát ngôn câu ấy.


Chắc chắn có nhiều lí do khiến một từ nào đó khó dịch sang những ngôn ngữ khác. Một lí do có thể là: bản thân hiện tượng liên quan đến từ đó không thật sá»± được nắm bắt rõ ràng. Thí dụ từ tố chất. Thá»±c ra tố chất là gì? Trá»±c giác bảo tôi rằng, đó là “trình độ văn hóa”. Nhưng theo thống kê dân số gần đây nhất thì tỉ lệ mù chữ ở Trung Quốc chỉ chiếm 4,08%, tức là thấp hÆ¡n nhiều so với mức trung bình trên thế giới. Một nghiên cứu năm 2009 cho thấy rõ là 18,03 % giới trẻ ở Trung Quốc từ 25 đến 30 tuổi có bằng cao học trở lên, như vậy là nhiều hÆ¡n cả ở những nước dân chá»§ như Tiệp (15,05%), Thổ NhÄ© Kì (13,06%) hay Brazil (10%). Vậy trình độ văn hóa cá»§a người Trung Quốc không hề thấp.


Thế nếu không phải là trình độ văn hóa thì tố chất cho thấy cái gì? Có lẽ là tinh thần hợp tác. Có thuyết bảo rằng người Trung Quốc như “cát rời trong chậu” (nhất bàn tán sa), một bằng chứng về tố chất kém. Trong xã hội học có khái niệm “vốn xã hội”, biểu thị độ nhớt và mật độ cá»§a quan hệ giữa người với người. Một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng để một nền dân chá»§ có thể vận hành thì vốn xã hội đóng vai trò tương tá»± như dầu nhớt cho động cÆ¡ ô tô. Chưa nói đến việc sau này nhiều nhà nghiên cứu hoài nghi hệ quả chính trị cá»§a vốn xã hội, ngay cả khi nó càng nhiều càng tốt (đa đa ích thiện), nhiều người cÅ©ng lưu ý rằng cái công thức “cát rời trong chậu” hoàn toàn không đúng với truyền thống Trung Quốc. Làng xã truyền thống có một mạng tương tác xã hội chặt chẽ và tá»± quản. Khi phải đắp một con đường hay đào một dòng kênh thì mọi nhà họp nhau bàn việc góp quỹ. Nhà này mâu thuẫn với nhà kia thì hương thân phụ lão đứng ra thương lượng theo luật làng. Ở Chinatown tại New York tôi thấy một cộng đồng người Hoa đã tha hương từ trên một thế kỉ vẫn tụ họp múa lân và đánh trống mỗi dịp hội hè. Vì thế khó có thể nói rằng người Hoa vốn không có gen đoàn kết.


Song với sá»± ra đời cá»§a “nhà nước toàn năng” thì cái gọi là “rác rưởi phong kiến” như tông tộc, xã đoàn, miếu hội bị cưỡng bách tiêu diệt. Xã hội ngày càng có xu hướng nguyên tá»­ hóa và chính trị trở thành chết keo duy nhất. Cho đến hôm nay, thể chế chính trị mạnh mẽ vẫn ức chế sá»± tích lÅ©y vốn xã hội. Những “hạt cát” muốn kết hợp lại, lập nên một nông hội ư? Quá nhạy cảm! Một công đoàn ư? Đã có công đoàn do chính phá»§ tổ chức rồi mà! Một tổ chức phi chính phá»§ ư? Được thôi, nhưng phải thông qua 48 thá»§ tục nhé… Như vậy, sá»± nguyên tá»­ hóa xã hội Trung Quốc không phải là nguyên nhân mà là kết quả cá»§a quyền lá»±c. Như thể tôi vừa trói chân bạn vừa bảo rằng: đấy, mày có chạy được đâu, chứng tỏ mày không biết chạy, hoặc thậm chí mày thiếu tố chất chạy! Cái đó không còn là một “dá»± báo tá»± hoàn thành” nữa, mà là một “mệnh lệnh tá»± xác nhận”.


Và nếu tố chất có nghÄ©a là ý thức luật pháp thì thế nào nhỉ? Người Hoa không thích xếp hàng và hay vượt đèn đỏ… Những hiện tượng như vậy cho thấy là người Hoa thiếu tố chất, vì thế mà phải để một nhóm tinh hoa kiểm soát, như tuyên bố “dân Trung Quốc cần quản thúc” cá»§a Jackie Chan [5] chăng? Cá nhân tôi biết rõ những tật xấu kể trên, nhất là chuyện xếp hàng. Nhiều khi tôi chỉ muốn ở quầy cá»­a hàng nào cÅ©ng có cảnh sát giao thông đứng trấn.


Nhưng tôi cũng từng đến Hồng Kông và Đài Loan, thấy mật độ dân số ở đó cũng rất dày mà người ta vẫn tự giác xếp hàng. Họ cũng là người Hoa, chứng tỏ không phải cứ là người Hoa thì thiếu ý thức luật pháp. Nhưng điều quan trọng hơn là: ngay cả khi người Hoa quả thật kém về mặt này thì từ đó cũng khó mà suy ra tính ưu việt của một thể chế độc tài. Thể chế độc tài hàm ẩn một tiền đề rằng dân chúng tố chất kém thì phải chịu sự giáo huấn và quản thúc của quan chức tố chất cao.


Song nhìn vào hàng ngÅ© quan chức thì ta phải phát hoảng. Hôm nay mở tờ báo này thấy một vị quan chức vào tù vì tham ô vài triệu, hôm sau mở tờ báo khác thấy một vị nữa vào tù vì tham ô vài chục triệu. Hôm nay nhấp chuột vào trang mạng này thấy chính phá»§ cưỡng chế dỡ nhà khiến một người dân phải đi kiến nghị, hôm sau nhấp chuột vào trang mạng khác thấy một người dân nữa bị dỡ nhà phải cùng quẫn tá»± thiêu. Đương nhiên đó không phải là đại diện cho tất cả quan chức, nhưng những việc như vậy là thá»±c tế và diễn ra vô tận. Nó nhắc nhở rằng chúng ta nên lí giải ý thức luật pháp kém cá»§a dân chúng như thế nào: khi “kẻ trên” thường xuyên lợi dụng đấu thầu dá»± án để ăn tay trong, bất tuân luật pháp trong tranh chấp đất đai hay bất chấp lệnh cấm vẫn nhậu nhẹt bằng tiền công quỹ thì làm sao có thể bắt “kẻ dưới” cung kính tôn trọng luật pháp? Kẻ đại tiểu tiện tứ tung làm sao dạy người khác đừng khạc nhổ được.


Vậy ngay cả khi tố chất cá»§a người Hoa có vấn đề chăng nữa thì nguyên nhân chá»§ yếu nằm ở chế độ, mặc dù nó tác động xấu đến chế độ. Tất nhiên tôi không nghÄ© rằng cải cách chế độ qua đêm là có thể biến đổi văn hóa, nhưng ít nhất nó có thể tạo ra một không gian sinh hoạt công cộng. Và cÅ©ng như việc muốn học chạy thì trước hết phải tháo xích chân, muốn bồi dưỡng năng lá»±c công dân thì trước hết phải có một không gian công cộng. Những ai ưa lặp lại câu “Người Hoa tố chất kém, vì thế Trung Quốc không nên…” có lẽ hãy thá»­ nghÄ© xem có nên đổi thành “Người Hoa tố chất kém, chính vì thế mà Trung Quốc càng nên…”


________


Nguồn: Lưu Du (Liu Yu, 1976) bảo vệ luận án tiến sÄ© tại Columbia University, từng dạy tại Cambridge và hiện là Phó Giáo sư ngành Chính trị tại Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh. Bà bắt đầu nổi tiếng ở Trung Quốc với tác phẩm 民主的细节 (Chi tiết cá»§a dân chá»§) xuất bản năm 2009. Bài viết “素什么质” này đăng trên blog cá»§a bà ngày 30/10/2011. Bản tiếng Việt dá»±a theo bản tiếng Đức đăng trên trang Freitag ngày 19/4/2014.


Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra


 




[1] Dùng theo nghĩa: một người rất hăng hái hoạt động (thường là chính trị)




[2] Dùng theo nghĩa: không bận tâm vào những chuyện vô nghĩa




[3] Dùng theo nghĩa: sắp xếp nhóm lãnh đạo trong các cơ quan của Đảng và chính phủ




[4]血染的风采” vốn là tên một bài hát tưởng niệm lính Trung Quốc chết trận trong Chiến tranh Biên giới 1979 giữa Việt Nam và Trung Quốc, sau này – đặc biệt ở Hồng Kông – được dùng để tưởng niệm nạn nhân cá»§a cuộc thảm sát Thiên An Môn 1989.




[5] Jackie Chan: Chinese People Need To Be Controlled, HuffPost 05/25/2011


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 21, 2014 07:48

August 16, 2014

“Gorbachev” Tàu đang xé nát Đảng Cộng sản

Gordon G. Chang


Phan Trinh dịch


“Tập Cận Bình, giống Gorbachev, muốn làm điều vĩ đại để cải cách một hệ thống bệnh hoạn. Nhưng cũng như lãnh tụ cuối của Liên Xô cũ, Tập vừa kích hoạt những chuyển biến mà ông không thể kiểm soát được.”


Giới thiệu của người dịch:


Lập luận của Gordon rất đáng chú ý, nhất là khi ông so Tập Cận Bình với Gorbachev, người vừa cố sửa vừa cố giữ, sao cho không đổ vỡ, một hệ thống đã không thể sửa. Thực ra, bài học của Gorbachev nôm na chính là: Sai không sửa không được, nhưng cứ sửa là sụp.


Hóa ra Tập không vô địch, mà đang “thọ địch”, Tàu không siêu cường muốn làm gì thì làm, mà là một pho tượng khổng lồ đứng trên bục đất bở. Và hóa ra Đặng Tiểu Bình nói quá đúng:“Nếu Trung Quốc rơi vào bất ổn, thì bất ổn sẽ xuất phát từ chính nội bộ Đảng Cộng sản”.


Nếu xâu chuỗi những ngày tháng nêu trong bài – Bộ Chính trị Tàu họp kín ngày 26/6, trong đó Tập tuyên bố không màng sống hay chết trong công cuộc chống tham nhÅ©ng, và ngày 29/7, ngày ra thông báo điều tra Chu VÄ©nh Khang – thì có thể đặt thêm một giả thuyết, không phải không có lý, đó là: Trung Quốc rút giàn khoan 981 khỏi vùng biển Việt Nam ngày 15/7, sớm trước một tháng, thá»±c ra cÅ©ng chỉ vì đấu đá nội bộ đang đến hồi quyết liệt. (Đó là chưa kể Chu VÄ©nh Khang từng là một ông trùm dầu khí với nhiều tay chân trong ngành.) Và với Tập Cận Bình, có lẽ “thù trong” còn đáng sợ gấp trăm lần “giặc ngoài”.


Bài gốc đăng trên National Interest ngày 14/8/2014 có tên “China’s “Gorbachev” Is Tearing the Communist Party Apart”. Những tiêu đề nhỏ là của người dịch.


__________


Sống-chết, mất-còn


“Tôi không màng mình sẽ  sống hay chết, tiếng tăm mình sẽ còn hay mất, trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng này.” Tập Cận Bình đã mạnh miệng như thế, trong một phiên họp kín của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 26/6 vừa qua. Lãnh tụ nhiều tham vọng họ Tập cũng nhắc đến hai đội quân, một bên là đội quân “tham nhũng”, bên kia là đội quân “chống tham nhũng”, và hai lực lượng, theo ông, đang lâm vào thế “tiến thoái lưỡng nan.”


Những lời tuyên bố hùng hồn này, được một Ủy viên Trung ương Đảng tiết lộ, có vẻ chính xác và phù hợp với những thông tin trước đó rằng ông Tập đã đọc một diễn văn “gay gắt đến chấn động” về chiến dịch chống tham nhũng. Báo South China Morning Post tại Hongkong cho biết một nguồn tin liên quan đến bài diễn văn của Tập đã xác minh điều vừa kể. Rõ ràng, hiện đang diễn ra cuộc đấu đá nghiêm trọng giữa các phe phái cao cấp ở Bắc Kinh.


Mới gần đây thôi, phần lớn dư luận chỉ chú trọng đến việc ông Tập nhanh chóng củng cố vị thế chính trị sau khi trở thành Tổng Bí thư Đảng vào tháng 11/2012. Chẳng hạn vào năm 2013,trong đêm trước ngày diễn ra hội nghị thượng đỉnh thân mật giữa Chủ tịch Tập và Tổng thống Obama, tờ New York Times và Wall Street Journal cho biết quan chức Nhà Trắng khẳng định Tập Cận Bình đã nắm được quyền kiểm soát các cơ quan quyền lực của Đảng và quân đội nhanh hơn họ dự báo rất nhiều.


CÅ©ng vậy, từ đó đến nay, việc truy tố rộng rãi các quan chức từ cao đến thấp – từ “hổ” đến “ruồi” trong từ vá»±ng Trung cộng – được xem như bằng chứng ông Tập đã nắm trong tay hệ thống chính trị. Đầu tháng này, nhà báo Andrew Browne, viết trên tờ Wall Street Journal rằng: “Ít nhất là cho đến bây giờ, gần như không có dấu hiệu chống đối.” Tuy nhiên, thời điểm bài báo cá»§a Browne xuất hiện quả là không may. Vì ngay khi bài báo “không có dấu hiệu chống đối” được đưa lên mạng thì thông tin về bài diễn văn mạnh miệng trước Bộ Chính trị cá»§a Tập Cận Bình bắt đầu được lan truyền tại Hoa lục.


Thời khắc quyết định


Những điều hùng hồn Tập Cận Bình nói ở trên làm người nghe nhớ đến tuyên bố đình đám năm 1998 của ông Chu Dung Cơ, về việc hãy chuẩn bị sẵn 100 cỗ quan tài cho bọn tham nhũng, nhưng cũng chuẩn bị luôn cho ông một cỗ vì ông sẵn sàng chết trong cuộc đấu tranh giành lại “niềm tin của nhân dân vào chính phủ”. Thế nhưng, tuy dùng ngôn ngữ đầy kịch tính, lời lẽ của ông Tập lại cho thấy tình trạng chống đối quyết liệt và sự bất mãn cao độ đang diễn ra trong giới lãnh đạo chóp bu.


Theo lời giáo sư Trương Minh (Zhang Ming) thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc, vì đang có quá nhiều chống đối và bất mãn nên có thể xem đây chính là thời khắc quyết định mất-còn, được ăn cả ngã về không, của đồng chí Tập Cận Bình. Quả là một thời kỳ tế nhị vì việc chuyển giao lãnh đạo chính là nhược điểm lớn nhất của những hệ thống độc tài toàn trị, và Trung Quốc đang ở ngay trong một thời điểm rất dễ vỡ. Việc chuyển giao quyền lực từ Thế hệ Thứ tư Hồ Cẩm Đào cho Thế hệ Thứ năm Tập Cận Bình là lần chuyển giao quyền lực đầu tiên trong lịch sử Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc mà không được lãnh tụ tối cao Đặng Tiểu Bình dàn xếp. Đặng Tiểu Bình, sau khi hất chân nhân vật chuyển tiếp Hoa Quốc Phong, đã tự đưa mình lên ngôi cao nhất, và sau đó ông chọn Giang Trạch Dân kế vị mình và sau nữa chọn Hồ Cẩm Đào kế vị Giang. Dĩ nhiên, Đặng không còn ở thế có thể dàn xếp người vào ghế cao nhất trong thời hậu-Hồ.


Các chuyên gia về Trung Quốc, dù không thân thiện với chế độ, đã cho rằng việc chuyển giao gần đây được thực hiện theo đúng các quy trình, thể lệ của Đảng, và đã diễn ra “êm thắm”. Mặc dù được chuyên gia nhận định như thế nhưng thực ra đã có những vấn đề nghiêm trọng,vì trong một nhà nước độc đảng, kể cả một nước quan liêu nặng như Trung Quốc, mọi nội quy luật lệ đều có thể thay đổi tùy theo ngẫu hứng bất chợt của lãnh tụ.Và trong cuộc chuyển giao Hồ-Tập vừa rồi, một số điều bất ngờ đã xảy ra.


9 còn 7, và ghế đập lưng ông


Chẳng hạn, đã có sá»± cắt giảm ngoài dá»± đoán con số thành viên cá»§a Ban Thường vụ Bộ Chính trị, tức đỉnh cao quyền lá»±c chính trị, từ con số chín người xuống còn bảy. Đây là bằng chứng cho thấy việc chuyển giao quyền lá»±c là kết quả sá»± dàn xếp giữa các bên, chứ không phải là kết quả bầu chọn theo luật định. Thêm vào đó, vụ Tập Cận Bình biến mất trong hai tuần vào tháng 9/2012 – theo một bài trên tờ Washington Post,Tập bặt tăm hai tuần vì bị chấn thương khi một đồng nghiệp ném ghế trong một phiên họp cấp cao, và ghế đập trúng lưng Tập – được cho là dấu hiệu cá»§a sá»± bất đồng nghiêm trọng trong hàng ngÅ© lãnh đạo. Lại cÅ©ng có hàng loạt tin đồn về các cuộc đảo chính trước khi chuyển giao quyền lá»±c diễn ra, có cả tin về vụ nổ súng tại trung tâm Bắc Kinh trong số những tin khác. Đặng Tiểu Bình từng dá»± báo: “Nếu Trung Quốc rÆ¡i vào bất ổn, thì bất ổn sẽ xuất phát từ chính nội bộ Đảng Cộng sản.”


Nhưng, có lẽ lý do quan trọng nhất cho thấy đây là thời khắc định đoạt mất-còn của Tập Cận Bình lại chính là tham vọng quá lớn của ông. Từ trước đến nay, lãnh tụ nào của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc cũng yếu hơn tiền nhiệm của mình, trừ Tập Cận Bình. Ông Tập rõ ràng là đã ấp ủ những hy vọng lớn và ước mơ vĩ đại kiểu Mao, và chính điều này đã khiến ông, hơn hẳn ba vị tiền nhiệm, tiến hành thanh trừng những đối thủ chính trị cản đường mình. Dưới vỏ bọc chống tham nhũng, ông đã thúc đẩy điều mà nhà bình luận John Minnich thuộc Viện Chính sách (think tank) Stratfor gọi là “nỗ lực rộng nhất và sâu nhất, kể từ khi Mao Trạch Đông chết năm 1976 và Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền hai năm sau đó, nhằm thanh trừng, tái tổ chức và chấn chỉnh lại vị thế của giới lãnh đạo Đảng Cộng sản.”


20 tháng 36 vị


Tính đến nay, cuộc chiến của Tập đã thực sự càn quét, hạ bệ ít nhất 36 quan chức ở vị trí thứ trưởng hoặc cao hơn trong 20 tháng đầu tiên nắm quyền.  Ủy ban Kỷ luật Trung ương Đảng cho biết năm ngoái họ đã kỷ luật 182.000 quan chức. Bộ sưu tập những con hổ sa bẫy có cả Bạc Hy Lai, một ủy viên Bộ Chính trị đầy sức hút, có cả Từ Tài Hậu, từng là một trong những vị tướng quyền lực nhất nước, và có cả Chu Vĩnh Khang, ông vua lực lượng an ninh nội chính, người phải phải rời ngôi vào năm 2012.


Thông báo về việc điều tra ông Chu Vĩnh Khang, đưa ra ngày 29/7/2014 vừa qua, đánh dấu điều một số người cho là “kết thúc giai đoạn quan trọng đầu tiên trong chiến dịch chống tham nhũng của Tập,” nhưng điều này còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Việc truy tố chưa từng có rõ ràng đánh dấu những ngày cuối cùng của hai thập niên ổn định chính trị, một thời kỳ đủ dài để cho phép Trung Quốc phục hồi sức lực sau 27 năm thảm hại dưới sự cai trị của Mao Trạch Đông.


Phạm điều tối kỵ


Việc điều tra Chu Vĩnh Khang thực ra vi phạm điều tối kỵ từng được mấy thế hệ lãnh đạo tuân thủ, đó là không được truy tố ủy viên hay cựu ủy viên của Ban Thường vụ Bộ Chính trị. Nếu các lãnh tụ biết mình sẽ không bị truy bức đến cùng, như họ từng bị truy bức trong thời Cách mạng Văn hóa do Mao phát động, thì họ sẽ sẵn lòng rút lui êm thắm nếu thất bại khi tranh giành quyền lực. Nói cách khác, người kế vị khôn khéo của Mao, ông Đặng Tiểu Bình đã giảm thiểu tối đa nguy cơ các nhân vật chính trị quan trọng phải chiến đấu đến cùng và xé nát Đảng Cộng sản. Nhìn như thế thì việc cấm đụng đến các vị Ủy viên ban Thường vụ là một yếu tố quan trọng trong việc tái lập ổn định sau thời kỳ thanh trừng điên dại kéo dài hàng thập niên do Mao tiến hành.


Thế nhưng, Tập Cận Bình đã đảo ngược thế cờ và quy trình quen thuộc, và điều này thể hiện rất rõ qua vụ cho điều tra Chu Vĩnh Khang và án chung thân dành cho Bạc Hy Lai. Đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang trở lại thời kỳ mà nhiều nhà quan sát nghĩ là đã qua từ lâu, và Tập Cận Bình đang phủ nhận cách làm chính trị của thời kỳ do Giang-Hồ thống lĩnh. Suốt thời kỳ vuốt mặt phải nể mũi đương nhiên đó, những kẻ chơi trò quyền lực đã cố duy trì thế cân bằng mong manh giữa những phe kình chống nhau trong Đảng. Còn đến thời Tập Cận Bình, cuộc chiến mất-còn sống-chết tranh giành quyền lực đang biến thành chủ trương“Tao còn, mày mất” hoặc “Mày chết, tao sống” (“You die, I live.”)


Như giáo sư Trương Minh thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc nhận xét, “trận đánh” giữa Tập và những quan chức khác “đã ở mức nóng bỏng cực độ.” Câu hỏi đặt ra là liệu trong những tháng sắp tới, các cuộc đấu đá kia sẽ giảm cường độ hay lại càng nóng bỏng.


Thỏa thuận?


Theo quan sát viên kỳ cá»±u về vấn đề Trung Quốc, ông Willy Lam, thì giai đoạn tệ hại nhất đã qua. Ông trích một nhận định cá»§a Đặng VÅ© Văn – nguyên Phó Tổng Biên tập tờ Học tập Thời báo (Study Times) cá»§a Trường Đảng Trung ương – đăng trên Đại Công báo (Ta kung Po), tờ báo Hongkong thường phản ảnh đường lối Bắc Kinh, số ra ngày 26/7: “Nhiều người muốn biết liệu những con “hổ lớn” hoặc “hổ già” có tiếp tục bị sa bẫy hay không. Và khả năng điều này xảy ra trong thời gian còn lại cá»§a nhiệm kỳ năm năm lần thứ nhất gần như bằng không.” Ông tin rằng Tập Cận Bình đã đạt được một thỏa thuận nào đó với Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, và những tai to mặt lớn khác trong Đảng để họ cho phép Tập làm bất cứ những gì Tập muốn với Chu VÄ©nh Khang, với điều kiện Tập sẽ không đụng đến họ hoặc con cháu họ.


Nhưng một thỏa thuận như thế là điều nhiều người còn hoài nghi. Hiện đang có rất nhiều dự đoán về những gì sẽ xảy ra, và tất cả dường như đều cho thấy suy đoán của Đặng Vũ Văn không đúng, ít nhất là với các lý do sau:


Con hổ lớn nhất & tà khí


Thứ nhất, Tập được cho là đang dùng chiến dịch chống tham nhũng – trên thực tế thì đây là một cuộc thanh trừng chính trị – để gạt ra ngoài những kẻ chống đối kế hoạch tái cấu trúc kinh tế sâu rộng. Nếu điều này đúng thì thỏa thuận mà Đặng Vũ Văn nhắc tới là sai. Xét cho cùng, nếu tìm cách thỏa thuận với phe bảo thủ thì phe bảo thủ, vốn chịu nhiều thiệt hại nhất nếu có thay đổi, sẽ ở vào thế có thể cản trở hầu hết các cải cách. Trong khi đó, Tập Cận Bình lại là tuýp người khát khao để lại một di sản đáng kể – Tập muốn được xem như người có công cứu sống Đảng Cộng sản và thực hiện được “Giấc mơ Hoa” – và ông cũng chẳng dại gì bán rẻ tiền đồ của chính mình nếu thỏa hiệp. Để làm được điều mọi người nói ông sẽ làm – hoặc ít nhất là nắm được quyền lực tối cao – Tập Cận Bình cần nhổ nanh mọi đối thủ, nhổ nanh mọi con hổ vẫn đang là chúa tể rừng rú.


Thứ hai, mọi người hầu như đang mất kiên nhẫn với Tập, hoặc đang gặp bất lợi vì các chính sách của ông. Điều này có nghĩa trên thực tế Tập đang có động lực rất chính đáng để tung một chiêu ngoạn mục nhằm lấy lại sự ủng hộ của xã hội, chẳng hạn như bủa lưới bắt luôn con hổ lớn nhất của bầy hổ là Giang Trạch Dân. Nhà bình luận thạo tin ở Bắc Kinh, ông Lý Vĩ Đông (Li Weidong) tin rằng Tập sẽ nhắm vào mạng lưới tay chân của Giang và từ đó đảm bảo rằng 19 vị cựu Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị sẽ vì sợ hãi mà phải tuân thủ mọi ý muốn của Tập.


Thứ ba, ngay cả khi có một thỏa thuận giữa Tập và các bác hổ già đi nữa, thì những thỏa thuận đó cũng không thể kéo dài. Tập chắc chắn hiểu rằng ông đã đẩy cao kỳ vọng của người dân Trung Quốc và giờ đây ông phải làm những gì mình hứa. Quần chúng đòi hỏi bọn tham nhũng và quan tham bị hạ bệ, quần chúng muốn thấy gió lành thổi bay “tà khí”, mượn lời người bạn thâm niên của Tập nói với nhà báo John Garnaut. Vì vậy, Tập sẽ không thỏa hiệp trong cuộc chiến chống tham nhũng, ngay cả khi đó là điều Tập muốn làm. Trong xã hội Trung Quốc phát triển ngày càng phức tạp, có những thế lực mới không thể nào xem thường.


Vượt tầm kiểm soát


Tập Cận Bình, giống Gorbachev, là người muốn làm điều vĩ đại để cải cách một hệ thống bệnh hoạn. Nhưng cũng như lãnh tụ cuối của Liên Xô cũ, Tập vừa kích hoạt những chuyển biến mà ông không thể kiểm soát được. Ông quyết định tấn công tham nhũng, nhưng tệ nạn này đã ăn quá sâu trong hệ thống chính trị cộng sản Trung Quốc, nên rất khó có thể quản lý những nỗ lực chống tham nhũng quyết liệt. Không may cho Tập, ông đã tạo ra những kỳ vọng lớn lao trong xã hội, và trong cả giới tinh hoa. Cũng vì vậy ông không thể nào ngưng chiến dịch chống tham nhũng, và điều này nghĩa là dù có ngầm thỏa thuận với những bác hổ già đi nữa, các thỏa thuận đó không sớm thì muộn cũng tan tành, bằng cách này hay cách khác.


Một hệ thống chính trị dễ vỡ không thể kiềm chế được những kẻ quyết chí chiến đấu đến cùng để tồn tại.


Chính trị Trung Quốc thời hiện đại có lẽ sẽ không man rợ như trong những năm đầu lập nước Cộng hòa Nhân dân, nhưng vẫn không thể cho phép một lãnh tụ chấp nhận tình thế bất phân thắng bại. Một lãnh tụ chỉ có thể hoặc thắng hoặc thua, nhất là với Tập Cận Bình, kẻ đã kích hoạt điều được xem như một cuộc chiến tranh hủy diệt mang động cơ chính trị.


Logic khốc liệt


Với những thử thách quá lớn trong những ngày này, không ai muốn thấy mình yếu kém, nhất là đối với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tập Cận Bình đã khởi động cuộc chiến sống-còn, và ông phải tiến hành đến khi kết thúc. Khác với những hệ thống pháp trị trong đó các cơ cấu có tính định chế sẽ kiềm chế những xung động và xung đột, hệ thống toàn trị ở Trung Quốc lại dễ dàng tưởng thưởng những hành động tồi bại nhất trong những thời kỳ căng thẳng nhất. Kiểu cách chính trị được ăn cả ngã về không của Tập Cận Bình trói ông vào một logic rất khốc liệt mà ông không thể thoát khỏi.


Trong tình hình đó, như nhận định của giáo sư Quách Ôn Lương (Guo Wenliang) thuộc Đại học Trung Sơn tỉnh Quảng Châu: “nguy cơ những con hổ sẽ liên kết để phản công là một nguy cơ rất, rất lớn” vì các quan chức cao cấp sẽ không thể ngồi chờ Tập đến tóm đi từng người một. Và Tập cũng không thể ngồi chờ họ tấn công phản kích.


Tập Cận Bình, một lãnh tụ cứng rắn đang định hình và tung hoành, đã thay đổi cục diện chính trị tại Trung Quốc Cộng sản – sự thay đổi này có thể tốt hay xấu hơn, nhưng điều chắc chắn là ông không thể quay ngược lại được nữa.


Nguồn: Gordon G. Chang, “China’s “Gorbachev” Is Tearing the Communist Party Apart“, The National Interest 14/8/2014


Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 16, 2014 12:51

“Gorbachev” Tàu đang xé nát Đảng Cộng sản

Gordon G. Chang


Phan Trinh dịch


“Tập Cận Bình, giống Gorbachev, muốn làm điều vĩ đại để cải cách một hệ thống bệnh hoạn. Nhưng cũng như lãnh tụ cuối của Liên Xô cũ, Tập vừa kích hoạt những chuyển biến mà ông không thể kiểm soát được.”


Giới thiệu của người dịch:


Lập luận của Gordon rất đáng chú ý, nhất là khi ông so Tập Cận Bình với Gorbachev, người vừa cố sửa vừa cố giữ, sao cho không đổ vỡ, một hệ thống đã không thể sửa. Thực ra, bài học của Gorbachev nôm na chính là: Sai không sửa không được, nhưng cứ sửa là sụp.


Hóa ra Tập không vô địch, mà đang “thọ địch”, Tàu không siêu cường muốn làm gì thì làm, mà là một pho tượng khổng lồ đứng trên bục đất bở. Và hóa ra Đặng Tiểu Bình nói quá đúng:“Nếu Trung Quốc rơi vào bất ổn, thì bất ổn sẽ xuất phát từ chính nội bộ Đảng Cộng sản”.


Nếu xâu chuỗi những ngày tháng nêu trong bài – Bộ Chính trị Tàu họp kín ngày 26/6, trong đó Tập tuyên bố không màng sống hay chết trong công cuộc chống tham nhũng, và ngày 29/7, ngày ra thông báo điều tra Chu Vĩnh Khang – thì có thể đặt thêm một giả thuyết, không phải không có lý, đó là: Trung Quốc rút giàn khoan 981 khỏi vùng biển Việt Nam ngày 15/7, sớm trước một tháng, thực ra cũng chỉ vì đấu đá nội bộ đang đến hồi quyết liệt. (Đó là chưa kể Chu Vĩnh Khang từng là một ông trùm dầu khí với nhiều tay chân trong ngành.) Và với Tập Cận Bình, có lẽ “thù trong” còn đáng sợ gấp trăm lần “giặc ngoài”.


Bài gốc đăng trên National Interest ngày 14/8/2014 có tên “China’s “Gorbachev” Is Tearing the Communist Party Apart”. Những tiêu đề nhỏ là của người dịch.


__________


Sống-chết, mất-còn


“Tôi không màng mình sẽ  sống hay chết, tiếng tăm mình sẽ còn hay mất, trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng này.” Tập Cận Bình đã mạnh miệng như thế, trong một phiên họp kín của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 26/6 vừa qua. Lãnh tụ nhiều tham vọng họ Tập cũng nhắc đến hai đội quân, một bên là đội quân “tham nhũng”, bên kia là đội quân “chống tham nhũng”, và hai lực lượng, theo ông, đang lâm vào thế “tiến thoái lưỡng nan.”


Những lời tuyên bố hùng hồn này, được một Ủy viên Trung ương Đảng tiết lộ, có vẻ chính xác và phù hợp với những thông tin trước đó rằng ông Tập đã đọc một diễn văn “gay gắt đến chấn động” về chiến dịch chống tham nhũng. Báo South China Morning Post tại Hongkong cho biết một nguồn tin liên quan đến bài diễn văn của Tập đã xác minh điều vừa kể. Rõ ràng, hiện đang diễn ra cuộc đấu đá nghiêm trọng giữa các phe phái cao cấp ở Bắc Kinh.


Mới gần đây thôi, phần lớn dư luận chỉ chú trọng đến việc ông Tập nhanh chóng củng cố vị thế chính trị sau khi trở thành Tổng Bí thư Đảng vào tháng 11/2012. Chẳng hạn vào năm 2013,trong đêm trước ngày diễn ra hội nghị thượng đỉnh thân mật giữa Chủ tịch Tập và Tổng thống Obama, tờ New York TimesWall Street Journal cho biết quan chức Nhà Trắng khẳng định Tập Cận Bình đã nắm được quyền kiểm soát các cơ quan quyền lực của Đảng và quân đội nhanh hơn họ dự báo rất nhiều.


Cũng vậy, từ đó đến nay, việc truy tố rộng rãi các quan chức từ cao đến thấp – từ “hổ” đến “ruồi” trong từ vựng Trung cộng – được xem như bằng chứng ông Tập đã nắm trong tay hệ thống chính trị. Đầu tháng này, nhà báo Andrew Browne, viết trên tờ Wall Street Journal rằng: “Ít nhất là cho đến bây giờ, gần như không có dấu hiệu chống đối.” Tuy nhiên, thời điểm bài báo của Browne xuất hiện quả là không may. Vì ngay khi bài báo “không có dấu hiệu chống đối” được đưa lên mạng thì thông tin về bài diễn văn mạnh miệng trước Bộ Chính trị của Tập Cận Bình bắt đầu được lan truyền tại Hoa lục.


Thời khắc quyết định


Những điều hùng hồn Tập Cận Bình nói ở trên làm người nghe nhớ đến tuyên bố đình đám năm 1998 của ông Chu Dung Cơ, về việc hãy chuẩn bị sẵn 100 cỗ quan tài cho bọn tham nhũng, nhưng cũng chuẩn bị luôn cho ông một cỗ vì ông sẵn sàng chết trong cuộc đấu tranh giành lại “niềm tin của nhân dân vào chính phủ”. Thế nhưng, tuy dùng ngôn ngữ đầy kịch tính, lời lẽ của ông Tập lại cho thấy tình trạng chống đối quyết liệt và sự bất mãn cao độ đang diễn ra trong giới lãnh đạo chóp bu.


Theo lời giáo sư Trương Minh (Zhang Ming) thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc, vì đang có quá nhiều chống đối và bất mãn nên có thể xem đây chính là thời khắc quyết định mất-còn, được ăn cả ngã về không, của đồng chí Tập Cận Bình. Quả là một thời kỳ tế nhị vì việc chuyển giao lãnh đạo chính là nhược điểm lớn nhất của những hệ thống độc tài toàn trị, và Trung Quốc đang ở ngay trong một thời điểm rất dễ vỡ. Việc chuyển giao quyền lực từ Thế hệ Thứ tư Hồ Cẩm Đào cho Thế hệ Thứ năm Tập Cận Bình là lần chuyển giao quyền lực đầu tiên trong lịch sử Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc mà không được lãnh tụ tối cao Đặng Tiểu Bình dàn xếp. Đặng Tiểu Bình, sau khi hất chân nhân vật chuyển tiếp Hoa Quốc Phong, đã tự đưa mình lên ngôi cao nhất, và sau đó ông chọn Giang Trạch Dân kế vị mình và sau nữa chọn Hồ Cẩm Đào kế vị Giang. Dĩ nhiên, Đặng không còn ở thế có thể dàn xếp người vào ghế cao nhất trong thời hậu-Hồ.


Các chuyên gia về Trung Quốc, dù không thân thiện với chế độ, đã cho rằng việc chuyển giao gần đây được thực hiện theo đúng các quy trình, thể lệ của Đảng, và đã diễn ra “êm thắm”. Mặc dù được chuyên gia nhận định như thế nhưng thực ra đã có những vấn đề nghiêm trọng,vì trong một nhà nước độc đảng, kể cả một nước quan liêu nặng như Trung Quốc, mọi nội quy luật lệ đều có thể thay đổi tùy theo ngẫu hứng bất chợt của lãnh tụ.Và trong cuộc chuyển giao Hồ-Tập vừa rồi, một số điều bất ngờ đã xảy ra.


9 còn 7, và ghế đập lưng ông


Chẳng hạn, đã có sự cắt giảm ngoài dự đoán con số thành viên của Ban Thường vụ Bộ Chính trị, tức đỉnh cao quyền lực chính trị, từ con số chín người xuống còn bảy. Đây là bằng chứng cho thấy việc chuyển giao quyền lực là kết quả sự dàn xếp giữa các bên, chứ không phải là kết quả bầu chọn theo luật định. Thêm vào đó, vụ Tập Cận Bình biến mất trong hai tuần vào tháng 9/2012 – theo một bài trên tờ Washington Post,Tập bặt tăm hai tuần vì bị chấn thương khi một đồng nghiệp ném ghế trong một phiên họp cấp cao, và ghế đập trúng lưng Tập – được cho là dấu hiệu của sự bất đồng nghiêm trọng trong hàng ngũ lãnh đạo. Lại cũng có hàng loạt tin đồn về các cuộc đảo chính trước khi chuyển giao quyền lực diễn ra, có cả tin về vụ nổ súng tại trung tâm Bắc Kinh trong số những tin khác. Đặng Tiểu Bình từng dự báo: “Nếu Trung Quốc rơi vào bất ổn, thì bất ổn sẽ xuất phát từ chính nội bộ Đảng Cộng sản.”


Nhưng, có lẽ lý do quan trọng nhất cho thấy đây là thời khắc định đoạt mất-còn của Tập Cận Bình lại chính là tham vọng quá lớn của ông. Từ trước đến nay, lãnh tụ nào của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc cũng yếu hơn tiền nhiệm của mình, trừ Tập Cận Bình. Ông Tập rõ ràng là đã ấp ủ những hy vọng lớn và ước mơ vĩ đại kiểu Mao, và chính điều này đã khiến ông, hơn hẳn ba vị tiền nhiệm, tiến hành thanh trừng những đối thủ chính trị cản đường mình. Dưới vỏ bọc chống tham nhũng, ông đã thúc đẩy điều mà nhà bình luận John Minnich thuộc Viện Chính sách (think tank) Stratfor gọi là “nỗ lực rộng nhất và sâu nhất, kể từ khi Mao Trạch Đông chết năm 1976 và Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền hai năm sau đó, nhằm thanh trừng, tái tổ chức và chấn chỉnh lại vị thế của giới lãnh đạo Đảng Cộng sản.”


20 tháng 36 vị


Tính đến nay, cuộc chiến của Tập đã thực sự càn quét, hạ bệ ít nhất 36 quan chức ở vị trí thứ trưởng hoặc cao hơn trong 20 tháng đầu tiên nắm quyền.  Ủy ban Kỷ luật Trung ương Đảng cho biết năm ngoái họ đã kỷ luật 182.000 quan chức. Bộ sưu tập những con hổ sa bẫy có cả Bạc Hy Lai, một ủy viên Bộ Chính trị đầy sức hút, có cả Từ Tài Hậu, từng là một trong những vị tướng quyền lực nhất nước, và có cả Chu Vĩnh Khang, ông vua lực lượng an ninh nội chính, người phải phải rời ngôi vào năm 2012.


Thông báo về việc điều tra ông Chu Vĩnh Khang, đưa ra ngày 29/7/2014 vừa qua, đánh dấu điều một số người cho là “kết thúc giai đoạn quan trọng đầu tiên trong chiến dịch chống tham nhũng của Tập,” nhưng điều này còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Việc truy tố chưa từng có rõ ràng đánh dấu những ngày cuối cùng của hai thập niên ổn định chính trị, một thời kỳ đủ dài để cho phép Trung Quốc phục hồi sức lực sau 27 năm thảm hại dưới sự cai trị của Mao Trạch Đông.


Phạm điều tối kỵ


Việc điều tra Chu Vĩnh Khang thực ra vi phạm điều tối kỵ từng được mấy thế hệ lãnh đạo tuân thủ, đó là không được truy tố ủy viên hay cựu ủy viên của Ban Thường vụ Bộ Chính trị. Nếu các lãnh tụ biết mình sẽ không bị truy bức đến cùng, như họ từng bị truy bức trong thời Cách mạng Văn hóa do Mao phát động, thì họ sẽ sẵn lòng rút lui êm thắm nếu thất bại khi tranh giành quyền lực. Nói cách khác, người kế vị khôn khéo của Mao, ông Đặng Tiểu Bình đã giảm thiểu tối đa nguy cơ các nhân vật chính trị quan trọng phải chiến đấu đến cùng và xé nát Đảng Cộng sản. Nhìn như thế thì việc cấm đụng đến các vị Ủy viên ban Thường vụ là một yếu tố quan trọng trong việc tái lập ổn định sau thời kỳ thanh trừng điên dại kéo dài hàng thập niên do Mao tiến hành.


Thế nhưng, Tập Cận Bình đã đảo ngược thế cờ và quy trình quen thuộc, và điều này thể hiện rất rõ qua vụ cho điều tra Chu Vĩnh Khang và án chung thân dành cho Bạc Hy Lai. Đây là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang trở lại thời kỳ mà nhiều nhà quan sát nghĩ là đã qua từ lâu, và Tập Cận Bình đang phủ nhận cách làm chính trị của thời kỳ do Giang-Hồ thống lĩnh. Suốt thời kỳ vuốt mặt phải nể mũi đương nhiên đó, những kẻ chơi trò quyền lực đã cố duy trì thế cân bằng mong manh giữa những phe kình chống nhau trong Đảng. Còn đến thời Tập Cận Bình, cuộc chiến mất-còn sống-chết tranh giành quyền lực đang biến thành chủ trương“Tao còn, mày mất” hoặc “Mày chết, tao sống” (“You die, I live.”)


Như giáo sư Trương Minh thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc nhận xét, “trận đánh” giữa Tập và những quan chức khác “đã ở mức nóng bỏng cực độ.” Câu hỏi đặt ra là liệu trong những tháng sắp tới, các cuộc đấu đá kia sẽ giảm cường độ hay lại càng nóng bỏng.


Thỏa thuận?


Theo quan sát viên kỳ cựu về vấn đề Trung Quốc, ông Willy Lam, thì giai đoạn tệ hại nhất đã qua. Ông trích một nhận định của Đặng Vũ Văn – nguyên Phó Tổng Biên tập tờ Học tập Thời báo (Study Times) của Trường Đảng Trung ương – đăng trên Đại Công báo (Ta kung Po), tờ báo Hongkong thường phản ảnh đường lối Bắc Kinh, số ra ngày 26/7: “Nhiều người muốn biết liệu những con “hổ lớn” hoặc “hổ già” có tiếp tục bị sa bẫy hay không. Và khả năng điều này xảy ra trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ năm năm lần thứ nhất gần như bằng không.” Ông tin rằng Tập Cận Bình đã đạt được một thỏa thuận nào đó với Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, và những tai to mặt lớn khác trong Đảng để họ cho phép Tập làm bất cứ những gì Tập muốn với Chu Vĩnh Khang, với điều kiện Tập sẽ không đụng đến họ hoặc con cháu họ.


Nhưng một thỏa thuận như thế là điều nhiều người còn hoài nghi. Hiện đang có rất nhiều dự đoán về những gì sẽ xảy ra, và tất cả dường như đều cho thấy suy đoán của Đặng Vũ Văn không đúng, ít nhất là với các lý do sau:


Con hổ lớn nhất & tà khí


Thứ nhất, Tập được cho là đang dùng chiến dịch chống tham nhũng – trên thực tế thì đây là một cuộc thanh trừng chính trị – để gạt ra ngoài những kẻ chống đối kế hoạch tái cấu trúc kinh tế sâu rộng. Nếu điều này đúng thì thỏa thuận mà Đặng Vũ Văn nhắc tới là sai. Xét cho cùng, nếu tìm cách thỏa thuận với phe bảo thủ thì phe bảo thủ, vốn chịu nhiều thiệt hại nhất nếu có thay đổi, sẽ ở vào thế có thể cản trở hầu hết các cải cách. Trong khi đó, Tập Cận Bình lại là tuýp người khát khao để lại một di sản đáng kể – Tập muốn được xem như người có công cứu sống Đảng Cộng sản và thực hiện được “Giấc mơ Hoa” – và ông cũng chẳng dại gì bán rẻ tiền đồ của chính mình nếu thỏa hiệp. Để làm được điều mọi người nói ông sẽ làm – hoặc ít nhất là nắm được quyền lực tối cao – Tập Cận Bình cần nhổ nanh mọi đối thủ, nhổ nanh mọi con hổ vẫn đang là chúa tể rừng rú.


Thứ hai, mọi người hầu như đang mất kiên nhẫn với Tập, hoặc đang gặp bất lợi vì các chính sách của ông. Điều này có nghĩa trên thực tế Tập đang có động lực rất chính đáng để tung một chiêu ngoạn mục nhằm lấy lại sự ủng hộ của xã hội, chẳng hạn như bủa lưới bắt luôn con hổ lớn nhất của bầy hổ là Giang Trạch Dân. Nhà bình luận thạo tin ở Bắc Kinh, ông Lý Vĩ Đông (Li Weidong) tin rằng Tập sẽ nhắm vào mạng lưới tay chân của Giang và từ đó đảm bảo rằng 19 vị cựu Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị sẽ vì sợ hãi mà phải tuân thủ mọi ý muốn của Tập.


Thứ ba, ngay cả khi có một thỏa thuận giữa Tập và các bác hổ già đi nữa, thì những thỏa thuận đó cũng không thể kéo dài. Tập chắc chắn hiểu rằng ông đã đẩy cao kỳ vọng của người dân Trung Quốc và giờ đây ông phải làm những gì mình hứa. Quần chúng đòi hỏi bọn tham nhũng và quan tham bị hạ bệ, quần chúng muốn thấy gió lành thổi bay “tà khí”, mượn lời người bạn thâm niên của Tập nói với nhà báo John Garnaut. Vì vậy, Tập sẽ không thỏa hiệp trong cuộc chiến chống tham nhũng, ngay cả khi đó là điều Tập muốn làm. Trong xã hội Trung Quốc phát triển ngày càng phức tạp, có những thế lực mới không thể nào xem thường.


Vượt tầm kiểm soát


Tập Cận Bình, giống Gorbachev, là người muốn làm điều vĩ đại để cải cách một hệ thống bệnh hoạn. Nhưng cũng như lãnh tụ cuối của Liên Xô cũ, Tập vừa kích hoạt những chuyển biến mà ông không thể kiểm soát được. Ông quyết định tấn công tham nhũng, nhưng tệ nạn này đã ăn quá sâu trong hệ thống chính trị cộng sản Trung Quốc, nên rất khó có thể quản lý những nỗ lực chống tham nhũng quyết liệt. Không may cho Tập, ông đã tạo ra những kỳ vọng lớn lao trong xã hội, và trong cả giới tinh hoa. Cũng vì vậy ông không thể nào ngưng chiến dịch chống tham nhũng, và điều này nghĩa là dù có ngầm thỏa thuận với những bác hổ già đi nữa, các thỏa thuận đó không sớm thì muộn cũng tan tành, bằng cách này hay cách khác.


Một hệ thống chính trị dễ vỡ không thể kiềm chế được những kẻ quyết chí chiến đấu đến cùng để tồn tại.


Chính trị Trung Quốc thời hiện đại có lẽ sẽ không man rợ như trong những năm đầu lập nước Cộng hòa Nhân dân, nhưng vẫn không thể cho phép một lãnh tụ chấp nhận tình thế bất phân thắng bại. Một lãnh tụ chỉ có thể hoặc thắng hoặc thua, nhất là với Tập Cận Bình, kẻ đã kích hoạt điều được xem như một cuộc chiến tranh hủy diệt mang động cơ chính trị.


Logic khốc liệt


Với những thử thách quá lớn trong những ngày này, không ai muốn thấy mình yếu kém, nhất là đối với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tập Cận Bình đã khởi động cuộc chiến sống-còn, và ông phải tiến hành đến khi kết thúc. Khác với những hệ thống pháp trị trong đó các cơ cấu có tính định chế sẽ kiềm chế những xung động và xung đột, hệ thống toàn trị ở Trung Quốc lại dễ dàng tưởng thưởng những hành động tồi bại nhất trong những thời kỳ căng thẳng nhất. Kiểu cách chính trị được ăn cả ngã về không của Tập Cận Bình trói ông vào một logic rất khốc liệt mà ông không thể thoát khỏi.


Trong tình hình đó, như nhận định của giáo sư Quách Ôn Lương (Guo Wenliang) thuộc Đại học Trung Sơn tỉnh Quảng Châu: “nguy cơ những con hổ sẽ liên kết để phản công là một nguy cơ rất, rất lớn” vì các quan chức cao cấp sẽ không thể ngồi chờ Tập đến tóm đi từng người một. Và Tập cũng không thể ngồi chờ họ tấn công phản kích.


Tập Cận Bình, một lãnh tụ cứng rắn đang định hình và tung hoành, đã thay đổi cục diện chính trị tại Trung Quốc Cộng sản – sự thay đổi này có thể tốt hay xấu hơn, nhưng điều chắc chắn là ông không thể quay ngược lại được nữa.


Nguồn: Gordon G. Chang, “China’s “Gorbachev” Is Tearing the Communist Party Apart“, The National Interest 14/8/2014


Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 16, 2014 12:51

August 13, 2014

Người Việt và người Đức

Phạm Thị Hoài


Quê hương thứ hai của tôi khác hẳn quê hương thứ nhất. Khí hậu, thể chế chính trị, tổ chức xã hội, ngôn ngữ và văn hóa, đời sống hàng ngày, phong tục tập quán và tính cách con người, cây, nước, không khí và bầu trời… Cả chó, mèo, vịt, chim bồ câu và vi khuẩn cũng khác. Chỉ có dân số, diện tích [1] và vài chục năm trong lịch sử cận hiện đại là tương đối gần nhau. Tôi thuộc phe không tin rằng bộ gene sinh học góp phần quyết định số phận của một dân tộc [2], vậy mà nhiều khi phải phân vân: Người Việt và người Đức dường như được hai tạo hóa nhào nặn bằng hai chất liệu không thể khác nhau hơn.


Chẳng hạn: tạo hóa của người Việt cho họ năng khiếu hạnh phúc ở kích thước khiêm tốn. Tạo hóa của người Đức cho họ biệt tài than vãn ở tầm cao. Ta hãy lấy một ví dụ.


Trong báo cáo về Chỉ số Nhận thức Tham nhũng năm ngoái của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Việt Nam đạt 31 điểm, dưới trung bình gần 20 điểm, xếp thứ 116/177; Đức đạt 78 điểm, trên trung bình gần 30 điểm, xếp thứ 12 [3].


Lẽ ra có thể nhìn sang Nhật (xếp thứ 18), Mỹ (xếp thứ 19), Pháp (xếp thứ 22) hay Ý (xếp thứ 69) để tá»± an á»§i thì người Đức lại bất mãn khá»§ng khiếp về vị trí chỉ đứng thứ 12 cá»§a mình. Và nguyên nhân khiến họ không lọt Top Ten những nước trong sạch nhất đã được chỉ ra rành rọt: cho đến nay Công ước Phòng chống Tham nhÅ©ng cá»§a Liên Hiệp Quốc mà Đức kí từ năm 2003 chưa được phê chuẩn. Lí do chính nằm ở thá»§ tục điều chỉnh Bộ Luật Hình sá»± để phù hợp với Công ước này, trong đó điểm kẹt lại nằm trớ trêu ở điều 108e về tội hối lộ dân biểu. Nhưng ở đất nước làm cái gì cÅ©ng phải lên lịch từ thế kỉ trước này, điều chỉnh Luật Hình sá»± cần không dưới 5 năm [4]. Vậy là người Đức có thêm 5 năm để than vãn. Cách đây không lâu Tổng thống cá»§a họ phải từ chức, xuất phát từ vụ vay tiền – vâng, vay chứ không phải cướp, vay trả dần, cộng cả lãi suất – cá»§a vợ một doanh nhân để mua nhà. Một vị từng là ứng cá»­ viên cho chức Thá»§ tướng thì đi diễn thuyết cho các doanh nghiệp, với tổng thù lao lên đến gần một triệu Euro một năm [5]. Cả hai đều không chính thức phạm luật, song vẫn bốc mùi. Cứ thế này, dân Đức than thở,  họ sẽ thành một nước “cộng hòa chuối”.


Người Việt dÄ© nhiên cÅ©ng than thở và hÆ¡n cả than thở, họ bức xúc. Họ phẫn nộ và cương quyết. Họ có một điều luật cho phép xá»­ tá»­ hình kẻ nào tham ô từ 500 triệu tiền Cụ Hồ – tức 25.000 dollar – trở lên. Ở Đức, hối lộ cộng tham ô cộng trốn thuế 44 triệu dollar nặng nhất cÅ©ng chỉ xứng đáng 8 năm 6 tháng tù, như trường hợp ông xếp ngân hàng Gribkowsky trong vụ bê bối mua bán bản quyền truyền hình giải đua xe F1. Song hành trình với tham nhÅ©ng cá»§a người Việt không phải là đường một chiều. Nó giống một bùng binh hÆ¡n. Ở đó mọi người cùng chen lấn, giành giật và chá»­i rá»§a để nhích lên từng centimet, cùng hành hạ nhau và mang Æ¡n nhau, cùng thay phiên trong các vai nạn nhân, ân nhân và thá»§ phạm. Cảnh tượng dÄ© nhiên là đáng ngao ngán, tốc độ thảm hại, diện mạo con người méo mó, chân dung môi trường tàn khốc, nhưng một lúc nào đó, với xe để ở cần số 1 và lí trí để ở cần số 0, tất cả cÅ©ng ra khỏi bùng binh, cùng tràn đầy sung sướng, trước khi dấn thân vào bùng binh kế tiếp.


*


Một ví dụ khác:


Ngày 5/8/2014, một chiếc xe bus chở 48 người bị mất thắng ở Lâm Đồng, đâm vào vách núi, khiến 3 người thiệt mạng. Song 45 người bị thương còn lại, từ chấn thương phần mềm đến chấn thương cột sống, từ gãy xương chân tay đến vỡ xương chậu, nhưng thoát chết, vẫn đầy lòng biết ơn số phận và cảm ơn người tài xế đã dũng cảm hi sinh, bằng cách thà lao xe vào vách đá để chết ít còn hơn lao xe xuống vực mà chết tuốt. Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia lập tức viết thư chia buồn với gia đình người tài xế và biểu dương hành động anh hùng của ông. Hàng trăm độc giả bày tỏ lòng xúc động, cảm phục, ngưỡng mộ, coi đó là tấm gương đạo đức cao cả và lương tâm nghề nghiệp sáng chói, nhiều người đề nghị nhà nước truy tặng ông huân chương dũng cảm và danh hiệu liệt sĩ, nhiều người lấy đó để tự hào rằng Việt Nam luôn sinh ra những anh hùng.


Mùa Đông 2010, tại Sölden, một chiếc xe bus trên đường chở khách đi trượt tuyết từ Áo về Đức cũng mất thắng, tài xế cũng tìm mọi cách tránh lao xe xuống vực, cuối cùng cũng chấp nhận đâm vào một cọc bê tông và rơi xuống một đường trượt băng, khiến một người chết và 36 người còn lại bị thương. Tài xế bị thương nặng. Ông được coi là một người dày dạn kinh nghiệm, đã đào tạo 150 tài xế xe bus và theo các nhân chứng, đã phản ứng rất nhanh và chuyên nghiệp khi sự việc xảy ra, nếu không có thể chẳng ai sống sót. Song thay vì được cảm ơn chứ chưa nói đến chuyện anh hùng, ông bị truy tố với tội danh sơ ý làm chết người và sơ ý gây thương tích cơ thể. Ngoài Viện Công tố, gia đình của người bị thiệt mạng và những người bị thương hôm đó đồng tham gia tố tụng. Ông bị tòa kết án. Lí do: là tài xế, ông phải biết rằng chạy đường trơn, lại ở đồi núi, hệ thống phanh thường bị sử dụng quá giới hạn, cần cho xe nghỉ đủ để phanh hạ nhiệt và hoạt động hiệu quả trở lại. Tai nạn lẽ ra có thể tránh được và ông phải chịu trách nhiệm vì đã để nó xảy ra.


Cùng một hành vi, người Việt coi là anh hùng cao cả, đáng tuyên dương; người Đức kết án. Người Việt biết ơn vì chết ít thay vì chết cả nút. Người Đức phẫn nộ, vì cái chết nào không đáng cũng là quá nhiều. Nếu không phải là con người lấy chính mình làm khuôn mẫu tạo ra Thượng đế mà ngược lại, thì Thượng đế của người Việt thật dễ tính, Thượng đế của người Đức khó khăn trăm bề.


Tôi thích ông khó tính hơn. Ngồi trên một chiếc xe bus ở Đức, tôi yên tâm rằng phanh xe không phải là một thế lực siêu nhiên, còn thì phúc, mất thì ráng chịu; hơn nữa tôi không trả tiền mua vé để được sống sót, chỉ vì bác tài xế dũng cảm sẽ hi sinh.


© 2014 pro&contra




[1] Việt Nam: 91 triệu người, 331.000 km2; Đức: 81 triệu, 357.000 km2




[2] Đề tài này gần đây lại bùng nổ, xung quanh cuốn A Troublesome Inheritance (Một di sản phiền hà) mới xuất bản của nhà báo Nicholas Wade.




[3] Khoảng cách này lặp lại ở một số chỉ số quan trọng khác. Thu nhập bình quân đầu người (theo Ngân hàng Thế giới): Việt Nam xếp hạng 130, Đức: 18. Chỉ số Dân chủ (Theo tạp chí The Economist): Việt Nam xếp hạng 143, Đức: 14. Tự do Báo chí (Theo tổ chức Phóng viên Không Biên giới): Việt Nam 172, Đức: 16.




[4] Để tham khảo: Người Tầu cần 46 tuần để hoàn thành sân bay Bạch Vân ở Quảng Châu cho 41 triệu lượt khách mỗi năm. Người Đức xây từ 8 năm qua chưa xong sân bay mới, mang tên Willy Brandt ở Berlin cho 27 triệu lượt khách.




[5] So với cựu Ngoại trưởng và ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ sắp tới, bà Hillary Clinton, thì mức thù lao đó còn quá khiêm tốn. Tháng 10/2013 bà diễn thuyết 45 phút tại Đại học Buffalo New York với giá 275.000 dollar, 90 phút tháng 3/2014 tại Đại học California Los Angeles (UCLA) với giá 300.000 dollar. Buổi diễn thuyết dự định vào tháng 10 năm nay của bà ở Đại học Nevada Las Vegas sẽ được trả 225.000 dollar. Theo Washington Post thì chồng bà, cựu Tổng thống Bill Clinton, thu 104,9 triệu dollar cho tổng cộng 542 bài diễn thuyết từ khi hết nhiệm kì 2001 đến 2013, trung bình mỗi bài xấp xỉ 200.000 dollar.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 13, 2014 16:21

Người Việt và người Đức

Phạm Thị Hoài


Quê hương thứ hai của tôi khác hẳn quê hương thứ nhất. Khí hậu, thể chế chính trị, tổ chức xã hội, ngôn ngữ và văn hóa, đời sống hàng ngày, phong tục tập quán và tính cách con người, cây, nước, không khí và bầu trời… Cả chó, mèo, vịt, chim bồ câu và vi khuẩn cũng khác. Chỉ có dân số, diện tích [1] và vài chục năm trong lịch sử cận hiện đại là tương đối gần nhau. Tôi thuộc phe không tin rằng bộ gene sinh học góp phần quyết định số phận của một dân tộc [2], vậy mà nhiều khi phải phân vân: Người Việt và người Đức dường như được hai tạo hóa nhào nặn bằng hai chất liệu không thể khác nhau hơn.


Chẳng hạn: tạo hóa của người Việt cho họ năng khiếu hạnh phúc ở kích thước khiêm tốn. Tạo hóa của người Đức cho họ biệt tài than vãn ở tầm cao. Ta hãy lấy một ví dụ.


Trong báo cáo về Chỉ số Nhận thức Tham nhũng năm ngoái của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Việt Nam đạt 31 điểm, dưới trung bình gần 20 điểm, xếp thứ 116/177; Đức đạt 78 điểm, trên trung bình gần 30 điểm, xếp thứ 12 [3].


Lẽ ra có thể nhìn sang Nhật (xếp thứ 18), Mỹ (xếp thứ 19), Pháp (xếp thứ 22) hay Ý (xếp thứ 69) để tự an ủi thì người Đức lại bất mãn khủng khiếp về vị trí chỉ đứng thứ 12 của mình. Và nguyên nhân khiến họ không lọt Top Ten những nước trong sạch nhất đã được chỉ ra rành rọt: cho đến nay Công ước Phòng chống Tham nhũng của Liên Hiệp Quốc mà Đức kí từ năm 2003 chưa được phê chuẩn. Lí do chính nằm ở thủ tục điều chỉnh Bộ Luật Hình sự để phù hợp với Công ước này, trong đó điểm kẹt lại nằm trớ trêu ở điều 108e về tội hối lộ dân biểu. Nhưng ở đất nước làm cái gì cũng phải lên lịch từ thế kỉ trước này, điều chỉnh Luật Hình sự cần không dưới 5 năm [4]. Vậy là người Đức có thêm 5 năm để than vãn. Cách đây không lâu Tổng thống của họ phải từ chức, xuất phát từ vụ vay tiền – vâng, vay chứ không phải cướp, vay trả dần, cộng cả lãi suất – của vợ một doanh nhân để mua nhà. Một vị từng là ứng cử viên cho chức Thủ tướng thì đi diễn thuyết cho các doanh nghiệp, với tổng thù lao lên đến gần một triệu Euro một năm [5]. Cả hai đều không chính thức phạm luật, song vẫn bốc mùi. Cứ thế này, dân Đức than thở,  họ sẽ thành một nước “cộng hòa chuối”.


Người Việt dĩ nhiên cũng than thở và hơn cả than thở, họ bức xúc. Họ phẫn nộ và cương quyết. Họ có một điều luật cho phép xử tử hình kẻ nào tham ô từ 500 triệu tiền Cụ Hồ – tức 25.000 dollar – trở lên. Ở Đức, hối lộ cộng tham ô cộng trốn thuế 44 triệu dollar nặng nhất cũng chỉ xứng đáng 8 năm 6 tháng tù, như trường hợp ông xếp ngân hàng Gribkowsky trong vụ bê bối mua bán bản quyền truyền hình giải đua xe F1. Song hành trình với tham nhũng của người Việt không phải là đường một chiều. Nó giống một bùng binh hơn. Ở đó mọi người cùng chen lấn, giành giật và chửi rủa để nhích lên từng centimet, cùng hành hạ nhau và mang ơn nhau, cùng thay phiên trong các vai nạn nhân, ân nhân và thủ phạm. Cảnh tượng dĩ nhiên là đáng ngao ngán, tốc độ thảm hại, diện mạo con người méo mó, chân dung môi trường tàn khốc, nhưng một lúc nào đó, với xe để ở cần số 1 và lí trí để ở cần số 0, tất cả cũng ra khỏi bùng binh, cùng tràn đầy sung sướng, trước khi dấn thân vào bùng binh kế tiếp.


*


Một ví dụ khác:


Ngày 5/8/2014, một chiếc xe bus chở 48 người bị mất thắng ở Lâm Đồng, đâm vào vách núi, khiến 3 người thiệt mạng. Song 45 người bị thương còn lại, từ chấn thương phần mềm đến chấn thương cột sống, từ gãy xương chân tay đến vỡ xương chậu, nhưng thoát chết, vẫn đầy lòng biết ơn số phận và cảm ơn người tài xế đã dũng cảm hi sinh, bằng cách thà lao xe vào vách đá để chết ít còn hơn lao xe xuống vực mà chết tuốt. Phó Thủ tướng kiêm Chủ tịch Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia lập tức viết thư chia buồn với gia đình người tài xế và biểu dương hành động anh hùng của ông. Hàng trăm độc giả bày tỏ lòng xúc động, cảm phục, ngưỡng mộ, coi đó là tấm gương đạo đức cao cả và lương tâm nghề nghiệp sáng chói, nhiều người đề nghị nhà nước truy tặng ông huân chương dũng cảm và danh hiệu liệt sĩ, nhiều người lấy đó để tự hào rằng Việt Nam luôn sinh ra những anh hùng.


Mùa Đông 2010, tại Sölden, một chiếc xe bus trên đường chở khách đi trượt tuyết từ Áo về Đức cũng mất thắng, tài xế cũng tìm mọi cách tránh lao xe xuống vực, cuối cùng cũng chấp nhận đâm vào một cọc bê tông và rơi xuống một đường trượt băng, khiến một người chết và 36 người còn lại bị thương. Tài xế bị thương nặng. Ông được coi là một người dày dạn kinh nghiệm, đã đào tạo 150 tài xế xe bus và theo các nhân chứng, đã phản ứng rất nhanh và chuyên nghiệp khi sự việc xảy ra, nếu không có thể chẳng ai sống sót. Song thay vì được cảm ơn chứ chưa nói đến chuyện anh hùng, ông bị truy tố với tội danh sơ ý làm chết người và sơ ý gây thương tích cơ thể. Ngoài Viện Công tố, gia đình của người bị thiệt mạng và những người bị thương hôm đó đồng tham gia tố tụng. Ông bị tòa kết án. Lí do: là tài xế, ông phải biết rằng chạy đường trơn, lại ở đồi núi, hệ thống phanh thường bị sử dụng quá giới hạn, cần cho xe nghỉ đủ để phanh hạ nhiệt và hoạt động hiệu quả trở lại. Tai nạn lẽ ra có thể tránh được và ông phải chịu trách nhiệm vì đã để nó xảy ra.


Cùng một hành vi, người Việt coi là anh hùng cao cả, đáng tuyên dương; người Đức kết án. Người Việt biết ơn vì chết ít thay vì chết cả nút. Người Đức phẫn nộ, vì cái chết nào không đáng cũng là quá nhiều. Nếu không phải là con người lấy chính mình làm khuôn mẫu tạo ra Thượng đế mà ngược lại, thì Thượng đế của người Việt thật dễ tính, Thượng đế của người Đức khó khăn trăm bề.


Tôi thích ông khó tính hơn. Ngồi trên một chiếc xe bus ở Đức, tôi yên tâm rằng phanh xe không phải là một thế lực siêu nhiên, còn thì phúc, mất thì ráng chịu; hơn nữa tôi không trả tiền mua vé để được sống sót, chỉ vì bác tài xế dũng cảm sẽ hi sinh.


© 2014 pro&contra




[1] Việt Nam: 91 triệu người, 331.000 km2; Đức: 81 triệu, 357.000 km2




[2] Đề tài này gần đây lại bùng nổ, xung quanh cuốn A Troublesome Inheritance (Một di sản phiền hà) mới xuất bản của nhà báo Nicholas Wade.




[3] Khoảng cách này lặp lại ở một số chỉ số quan trọng khác. Thu nhập bình quân đầu người (theo Ngân hàng Thế giới): Việt Nam xếp hạng 130, Đức: 18. Chỉ số Dân chủ (Theo tạp chí The Economist): Việt Nam xếp hạng 143, Đức: 14. Tự do Báo chí (Theo tổ chức Phóng viên Không Biên giới): Việt Nam 172, Đức: 16.




[4] Để tham khảo: Người Tầu cần 46 tuần để hoàn thành sân bay Bạch Vân ở Quảng Châu cho 41 triệu lượt khách mỗi năm. Người Đức xây từ 8 năm qua chưa xong sân bay mới, mang tên Willy Brandt ở Berlin cho 27 triệu lượt khách.




[5] So với cựu Ngoại trưởng và ứng cử viên Tổng thống Hoa Kỳ sắp tới, bà Hillary Clinton, thì mức thù lao đó còn quá khiêm tốn. Tháng 10/2013 bà diễn thuyết 45 phút tại Đại học Buffalo New York với giá 275.000 dollar, 90 phút tháng 3/2014 tại Đại học California Los Angeles (UCLA) với giá 300.000 dollar. Buổi diễn thuyết dự định vào tháng 10 năm nay của bà ở Đại học Nevada Las Vegas sẽ được trả 225.000 dollar. Theo Washington Post thì chồng bà, cựu Tổng thống Bill Clinton, thu 104,9 triệu dollar cho tổng cộng 542 bài diễn thuyết từ khi hết nhiệm kì 2001 đến 2013, trung bình mỗi bài xấp xỉ 200.000 dollar.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 13, 2014 16:21

August 12, 2014

Từ Thành Đô tới Đông Đô

Phạm Việt Vinh


Mấy ngày nay, dư luận Việt Nam đang sôi động về cái gọi là Hội nghị Thành Đô đã bí mật diễn ra giữa lãnh đạo hai Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam và Trung Quốc vào tháng Chín 1990. Thực ra thì từ vài năm trước đã có nhiều tin đồn về Hội nghị này, trong đó phải kể đến Hồi ký của ông cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ năm 2003, nhưng các thông tin có được còn quá mơ hồ, người ta có cảm giác là Hội nghị này chủ yếu chỉ xoay quanh vấn đề Campuchia, và vì vậy sự chú ý cũng như hồ nghi đã dừng ở mức giới hạn.


Trái lại, những kiến nghị công khai mới đây cá»§a thiếu tướng Lê Văn Mật và cá»±u đại tá Nguyễn Đăng Quang với trích dẫn “Ká»· yếu Hội nghị Thành Đô” từ tờ Hoàn cầu Thời báo cá»§a Trung Quốc đã làm chấn động Việt Nam. Nếu thật sá»± là tại Hội nghị này, các nhà lãnh đạo cộng sản Hà Nội cao nhất đã ký vào những dòng chữ: “Vì sá»± tồn tại cá»§a sá»± nghiệp xây dá»±ng chá»§ nghÄ©a cộng sản… Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vá»±c tá»± trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh” thì những tên tuổi như Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng sẽ là nỗi kinh hoàng cá»§a người Việt, và kết luận cá»§a cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn CÆ¡ Thạch rằng “Hội nghị Thành Đô đã mở đầu một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm” là hoàn toàn có lý.


Cho đến hôm nay, các thông tin trên vẫn chỉ là điều đồn đoán. Người ta hoàn toàn có quyền nghi ngờ những bài viết trên tờ Hoàn cầu Thời báo; và cũng như hàng loạt Hồi ký của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam khác; những tâm sự, ghi chép của ông Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ chưa chắc đã mang tải toàn sự thật. Mặc dù vậy, với nội dung vô cùng nghiêm trọng của nó, với những sự kiện đã xảy ra trong quan hệ Việt-Trung gần đây, những thông tin về Hội nghị Thành Đô xứng đáng là một quả bom trong dư luận. Rất có thể, Hội nghị này đã là một cái mốc quyết định vận mệnh dân tộc Việt Nam. Vì vậy, người Việt có quyền, và có trách nhiệm đòi chính quyền phải nhanh chóng bạch hóa tiến trình cũng như nội dung Hội nghị đó. Nhưng chính điều này lại chứa đựng hàng loạt vấn đề nan giải.


Thứ nhất, một chính quyền không nhất thiết phải bạch hóa toàn bộ những thỏa thuận chính trị cá»§a mình với nước khác. Chỉ cần viện cớ “an ninh quốc gia”, Hà Nội hoàn toàn có quyền thoái thác việc công bố nội dung Hội nghị. Thêm vào đó, trong một xã hội toàn trị như ở Việt Nam, dư luận quần chúng không bao giờ có đủ sức ép để bắt chính quyền phải làm một việc mà nó không muốn. Nếu Hội nghị Thành Đô đã diễn ra đúng, hoặc chỉ cần gần đúng với những thông tin hiện nay, thì hành vi quỳ gối trước Bắc Kinh cá»§a các nhà lãnh đạo Hà Nội hồi đó sẽ tước bỏ hoàn toàn tính hợp thức tá»± phong cá»§a chính quyền cộng sản hiện nay. Tuy Hội nghị Thành Đô là sản phẩm cá»§a những nguời tiền nhiệm, nhưng với nó, các nhà lãnh đạo hôm nay sẽ hoàn toàn phá sản trong lý luận dùng “thành tích” quá khứ để biện minh cho vai trò cầm quyền duy nhất và tuyệt đối cá»§a mình. Bạch hóa Hội nghị Thành Đô như thế đương nhiên là tá»± sát, và chính quyền Hà Nội chắc chắn sẽ không tá»± nguyện làm như vậy.


Thông thường, trong một chính thể lành mạnh, khi có những nghi vấn về hành vi khuất tất của chính phủ hoặc thành viên chính phủ, thì đại biểu quốc hội với tư cách thay mặt cho cử chi sẽ có quyền chất vấn chính phủ, và khi cần thiết quốc hội sẽ có trách nhiệm lập ra các uỷ ban điều tra làm sáng tỏ vụ việc. Với cơ chế chính trị và với gương mặt quốc hội Việt Nam hiện nay, điều này hầu như không có khả năng xảy ra.


Thực tế là hiện nay, trước xôn xao của dư luận và đòi hỏi của nhiều người, trong đó có cả cán bộ và đảng viên cao cấp, chính quyền Việt Nam vẫn hoàn toàn im ắng. Có vẻ như Hà Nội muốn dùng sự im lặng của mình để chứng tỏ rằng các tin tức đã được đăng tải về Hội nghị Thành Đô chỉ là những bịa đặt nhảm nhí không đáng quan tâm, và dư luận cũng như sự bất bình của dân chúng rồi sẽ tự tiêu tan như từ trước tới nay.


Nhưng cÅ©ng có thể, do tính chất cá»±c kỳ nghiêm trọng cá»§a sá»± việc lần này, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ không được tiếp tục ngồi yên và phải lên tiếng về cuộc gặp gỡ bí mật tại Thành Đô. Họ có thể sẽ thẳng thừng tuyên bố gạt phắt những thông tin đồn đại. Họ cÅ©ng có thể đưa ra một cái gì đó giống như là “bạch hoá” những thỏa thuận ở Thành Đô. Đáng tiếc là trong cả hai trường hợp, xác suất nhìn được sá»± thật cá»§a người Việt chắc chắn sẽ rất gần với số không.


Trong lịch sử hoạt động chính trị và điều hành đất nước của mình, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ chứng tỏ là họ có khả năng ngay thẳng và minh bạch. Ở vị trí lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện, họ không bao giờ bị bắt buộc phải công nhận và chịu trách nhiệm về những sai phạm nghiêm trọng của mình. Rất có thể là vào những ngày tháng tới, vì một lý do nào đó, nhà cầm quyền Việt Nam sẽ đưa ra những thông tin chính thức về Hội nghị Thành Đô. Dĩ nhiên là những thông tin này sẽ hoàn toàn không có khả năng được kiểm chứng, nhưng một bộ phận cán bộ, đảng viên sẽ tạm yên lòng, còn những người khác sẽ tiếp tục mỏi mòn trong nghi ngờ, bất bình và bất lực.


Điều dễ thấy là ở các nước theo hệ thống đa đảng, khi thẩm tra hoạt động của chính quyền, tại các cuộc điều trần trước quốc hội hoặc trong hoạt động của các uỷ ban điều tra do quốc hội chỉ định, vai trò của phe đối lập là một điều bắt buộc phải có. Khi điều tra, chính đại diện của các đảng đối lập mới là những người chất vấn, truy tìm các sai phạm, khiếm khuyết của chính quyền. Trong chính trường, không có đối lập sẽ không có khả năng tìm ra sự thật!


Khi chính quyền vẫn không công nhận đối lập, vẫn đàn áp đối lập thì những hy vọng thá»±c sá»± “bạch hoá” một sá»± kiện chính trị rất quan trọng và có thể rất nguy hiểm như Hội nghị Thành Đô là điều không tưởng. Đại đa số người Việt sẽ tiếp tục phải làm những con tin trong một mê hồn trận cá»§a các tin tức mờ ảo, thất thiệt và gian trá. Chính quyền vẫn hoàn toàn có khả năng “bí mật” tiến hành những hoạt động cá»§a mình. Và nếu tình hình không thay đổi, có lẽ sẽ đến lúc chúng ta phải đón nhận một kết quả không mấy tốt lành cá»§a một Hội nghị kín mới, diễn ra không phải ở Thành Đô, mà ngay ở giữa Đông Đô Hà Nội.


12/8/2014


© 2014 Phạm Việt Vinh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 12, 2014 08:25

Từ Thành Đô tới Đông Đô

Phạm Việt Vinh


Mấy ngày nay, dư luận Việt Nam đang sôi động về cái gọi là Hội nghị Thành Đô đã bí mật diễn ra giữa lãnh đạo hai Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam và Trung Quốc vào tháng Chín 1990. Thực ra thì từ vài năm trước đã có nhiều tin đồn về Hội nghị này, trong đó phải kể đến Hồi ký của ông cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ năm 2003, nhưng các thông tin có được còn quá mơ hồ, người ta có cảm giác là Hội nghị này chủ yếu chỉ xoay quanh vấn đề Campuchia, và vì vậy sự chú ý cũng như hồ nghi đã dừng ở mức giới hạn.


Trái lại, những kiến nghị công khai mới đây của thiếu tướng Lê Văn Mật và cựu đại tá Nguyễn Đăng Quang với trích dẫn “Kỷ yếu Hội nghị Thành Đô” từ tờ Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đã làm chấn động Việt Nam. Nếu thật sự là tại Hội nghị này, các nhà lãnh đạo cộng sản Hà Nội cao nhất đã ký vào những dòng chữ: “Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa cộng sản… Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh” thì những tên tuổi như Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng sẽ là nỗi kinh hoàng của người Việt, và kết luận của cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch rằng “Hội nghị Thành Đô đã mở đầu một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm” là hoàn toàn có lý.


Cho đến hôm nay, các thông tin trên vẫn chỉ là điều đồn đoán. Người ta hoàn toàn có quyền nghi ngờ những bài viết trên tờ Hoàn cầu Thời báo; và cũng như hàng loạt Hồi ký của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam khác; những tâm sự, ghi chép của ông Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ chưa chắc đã mang tải toàn sự thật. Mặc dù vậy, với nội dung vô cùng nghiêm trọng của nó, với những sự kiện đã xảy ra trong quan hệ Việt-Trung gần đây, những thông tin về Hội nghị Thành Đô xứng đáng là một quả bom trong dư luận. Rất có thể, Hội nghị này đã là một cái mốc quyết định vận mệnh dân tộc Việt Nam. Vì vậy, người Việt có quyền, và có trách nhiệm đòi chính quyền phải nhanh chóng bạch hóa tiến trình cũng như nội dung Hội nghị đó. Nhưng chính điều này lại chứa đựng hàng loạt vấn đề nan giải.


Thứ nhất, một chính quyền không nhất thiết phải bạch hóa toàn bộ những thỏa thuận chính trị của mình với nước khác. Chỉ cần viện cớ “an ninh quốc gia”, Hà Nội hoàn toàn có quyền thoái thác việc công bố nội dung Hội nghị. Thêm vào đó, trong một xã hội toàn trị như ở Việt Nam, dư luận quần chúng không bao giờ có đủ sức ép để bắt chính quyền phải làm một việc mà nó không muốn. Nếu Hội nghị Thành Đô đã diễn ra đúng, hoặc chỉ cần gần đúng với những thông tin hiện nay, thì hành vi quỳ gối trước Bắc Kinh của các nhà lãnh đạo Hà Nội hồi đó sẽ tước bỏ hoàn toàn tính hợp thức tự phong của chính quyền cộng sản hiện nay. Tuy Hội nghị Thành Đô là sản phẩm của những nguời tiền nhiệm, nhưng với nó, các nhà lãnh đạo hôm nay sẽ hoàn toàn phá sản trong lý luận dùng “thành tích” quá khứ để biện minh cho vai trò cầm quyền duy nhất và tuyệt đối của mình. Bạch hóa Hội nghị Thành Đô như thế đương nhiên là tự sát, và chính quyền Hà Nội chắc chắn sẽ không tự nguyện làm như vậy.


Thông thường, trong một chính thể lành mạnh, khi có những nghi vấn về hành vi khuất tất của chính phủ hoặc thành viên chính phủ, thì đại biểu quốc hội với tư cách thay mặt cho cử chi sẽ có quyền chất vấn chính phủ, và khi cần thiết quốc hội sẽ có trách nhiệm lập ra các uỷ ban điều tra làm sáng tỏ vụ việc. Với cơ chế chính trị và với gương mặt quốc hội Việt Nam hiện nay, điều này hầu như không có khả năng xảy ra.


Thực tế là hiện nay, trước xôn xao của dư luận và đòi hỏi của nhiều người, trong đó có cả cán bộ và đảng viên cao cấp, chính quyền Việt Nam vẫn hoàn toàn im ắng. Có vẻ như Hà Nội muốn dùng sự im lặng của mình để chứng tỏ rằng các tin tức đã được đăng tải về Hội nghị Thành Đô chỉ là những bịa đặt nhảm nhí không đáng quan tâm, và dư luận cũng như sự bất bình của dân chúng rồi sẽ tự tiêu tan như từ trước tới nay.


Nhưng cũng có thể, do tính chất cực kỳ nghiêm trọng của sự việc lần này, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ không được tiếp tục ngồi yên và phải lên tiếng về cuộc gặp gỡ bí mật tại Thành Đô. Họ có thể sẽ thẳng thừng tuyên bố gạt phắt những thông tin đồn đại. Họ cũng có thể đưa ra một cái gì đó giống như là “bạch hoá” những thỏa thuận ở Thành Đô. Đáng tiếc là trong cả hai trường hợp, xác suất nhìn được sự thật của người Việt chắc chắn sẽ rất gần với số không.


Trong lịch sử hoạt động chính trị và điều hành đất nước của mình, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ chứng tỏ là họ có khả năng ngay thẳng và minh bạch. Ở vị trí lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện, họ không bao giờ bị bắt buộc phải công nhận và chịu trách nhiệm về những sai phạm nghiêm trọng của mình. Rất có thể là vào những ngày tháng tới, vì một lý do nào đó, nhà cầm quyền Việt Nam sẽ đưa ra những thông tin chính thức về Hội nghị Thành Đô. Dĩ nhiên là những thông tin này sẽ hoàn toàn không có khả năng được kiểm chứng, nhưng một bộ phận cán bộ, đảng viên sẽ tạm yên lòng, còn những người khác sẽ tiếp tục mỏi mòn trong nghi ngờ, bất bình và bất lực.


Điều dễ thấy là ở các nước theo hệ thống đa đảng, khi thẩm tra hoạt động của chính quyền, tại các cuộc điều trần trước quốc hội hoặc trong hoạt động của các uỷ ban điều tra do quốc hội chỉ định, vai trò của phe đối lập là một điều bắt buộc phải có. Khi điều tra, chính đại diện của các đảng đối lập mới là những người chất vấn, truy tìm các sai phạm, khiếm khuyết của chính quyền. Trong chính trường, không có đối lập sẽ không có khả năng tìm ra sự thật!


Khi chính quyền vẫn không công nhận đối lập, vẫn đàn áp đối lập thì những hy vọng thực sự “bạch hoá” một sự kiện chính trị rất quan trọng và có thể rất nguy hiểm như Hội nghị Thành Đô là điều không tưởng. Đại đa số người Việt sẽ tiếp tục phải làm những con tin trong một mê hồn trận của các tin tức mờ ảo, thất thiệt và gian trá. Chính quyền vẫn hoàn toàn có khả năng “bí mật” tiến hành những hoạt động của mình. Và nếu tình hình không thay đổi, có lẽ sẽ đến lúc chúng ta phải đón nhận một kết quả không mấy tốt lành của một Hội nghị kín mới, diễn ra không phải ở Thành Đô, mà ngay ở giữa Đông Đô Hà Nội.


12/8/2014


© 2014 Phạm Việt Vinh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 12, 2014 08:25

August 7, 2014

Sự thật về sự thật rẻ tiền

Phạm Thị Hoài


1.


Đầu tiên là một bài đăng ngày 25/7/2014 trên Die Allgemeine Morgenpost Rundschau, một trong hàng triệu hay hàng chục triệu trang cá nhân ở Đức: “Phi công Ukraine thú nhận bắn rơi MH17“. Chủ nhân trang này ghi rõ: “Die Allgemeine Morgenpost Rundschau là một trang châm biếm. Tất cả những nội dung mà bạn đọc được ở đây đều hoàn toàn là hư cấu và đôi khi thậm chí là bịa trắng trợn. Trong trường hợp có bài này hay bài khác kéo theo nguy cơ nhầm với hiện thực thì xin đừng ghè đầu chúng tôi, mà hãy ghè đầu hiện thực.” Song khó mà có nguy cơ nhầm. Phương châm “Liêm chính và bán mình, phiến diện và độc lập, công bằng và cơ hội” ghi ngay trên đầu trang, cùng những cái tít kiểu “tin khó tin” như “Mỹ không thể trưng bày bằng chứng vì Colin Powell còn đi nghỉ“… báo hiệu hơi quá rõ rằng chúng tôi đang đùa, bạn chuẩn bị cười dần đi là vừa. Mẫu mực của những trang trào phúng như vậy, trang Củ hành của Mỹ, vẫn là đỉnh cao chưa ai vượt qua.


Nhưng khi ồ ạt đăng cái tin “phi công Ukraine thú nhận bắn rơi MH17″ ấy thì truyền thông Việt Nam – không chỉ những tờ lá cải mà cả hàng loạt cơ quan truyền thông chính thức, từ  Đài Tiếng nói Việt Nam đến báo Công an, thậm chí cả tờ Tuổi Trẻ – lại trưng ra một nguồn tin khác, được gọi là “tờ báo Đức” mang tên Wahrheit für Deutschland (Sự thật cho nước Đức). Đã chọn một cái tên như thế thì chủ nhân trang ấy dĩ nhiên không biết đùa, ông ta đăng uỵch cái “tin khó tin” kia lên như một sự thật sâu sắc. Rồi đến lượt những tờ báo Nga của Putin khuếch trương sự thật ấy. Truyền thông Việt Nam hồ hởi ăn theo. Cho đến tận bây giờ, trừ tờ Tuổi Trẻ đã lẳng lặng rút bài nhưng để lại dấu vết trên đường link, câu chuyện có phần củ chuối thay vì củ hành này vẫn hiện diện nguyên vẹn trên rất nhiều trang báo trong nước, như một sự thật. Một sự thật rẻ tiền.


2.


Một tờ báo khác, cũng mang tên Sự thật, tờ Комсомольская правда (Sự thật Komsomol), sáu năm trước đã thực hiện một đoạn phim phóng sự về một cựu chuyên gia Liên Xô ở Việt Nam, ông Yury Trushyekin, người cho biết rằng mình đã đích thân bắn rơi máy bay của viên phi công Mỹ John McCain ngày 26/10/1967, nay đang sống nghèo khổ và bị lãng quên. Tin này cũng được Hãng Thông tấn Nga RIA Novosti loan tải. Nhân vụ ông Phạm Quang Nghị mang “quà độc” sang Mỹ tặng ông Thượng Nghị sĩ John McCain, một bài viết trên trang Dân Làm Báo, được nhiều website tiếng Việt ở hải ngoại chia sẻ, lại dẫn tin này để đưa ra những kết luận rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam bị bẽ mặt vì cố tình giấu diếm việc Liên Xô Trung Quốc trực tiếp tham gia chiến tranh, nay bị chính các nước này nói thẳng toẹt ra sự thật đó; vậy là Đảng nói láo; Quân đội Nhân dân Việt Nam kém cỏi, phải nhờ đến ngoại bang Liên Xô Trung Quốc mới thắng, vì thế phải mang ơn mà dâng đất, dâng biển đảo cho ngoại bang.


Sự thật Komsomol tránh được số phận của tờ báo Đảng Sự thật (Правда), bắt đầu chuyển sang hướng lá cải từ thời hậu Xô-viết và trở thành tờ báo rẻ tiền kinh hoàng và nhiều thế lực nhất ở nước Nga dưới thời Putin, từ lâu do đồng chí Vladimir Sungorkin phụ trách, người vừa được vị Tổng thống này thưởng Huân chương Tổ quốc vì những đóng góp xuất sắc trong Chiến dịch sáp nhập Krym. Cá nhân tôi sẽ xấu hổ nếu phải dẫn tờ báo này ra làm nguồn tin. Báo chí rẻ tiền thường lòi đẳng cấp của mình ngay trong những tiểu tiết. Theo tờ báo ấy, ông cựu sĩ quan Xô-viết bắn rơi chiếc F-4 Con Ma. Nhưng máy bay của “tên Jchn Sney Macan” mà chúng ta rất biết lại là Chim Ưng A-4. Tấm huy chương “Đoàn kết chiến thắng giặc Mỹ” đề tên ông là có thật, nhưng hàng trăm cựu chuyên gia Liên Xô từng giúp Hà Nội trong chiến tranh cũng có, họ có thể bắn rơi Jchn Sney Macan hàng trăm lần. Tìm ông Yury Trushyekin trên mạng, tôi có được vỏn vẹn 59 kết quả, trong đó 90 % từ các trang tiếng Việt.


Vì sao một phóng sự cẩu thả trên một tờ báo lá cải, chiếc loa tuyên truyền khổng lồ của một hệ thống chính trị càng ngày càng xích lại gần quá khứ Xô-viết chuyên chế, lại được một tờ báo tiếng Việt ở hải ngoại đang phấn đấu chống một chế độ cũng chuyên chế, cũng đầy gắn bó với Liên Xô, nghiễm nhiên coi là sự thật? Chiến tranh thông tin trên thế giới ngày nay đang khiến cả những cơ quan truyền thông uy tín ở phương Tây có nguy cơ sa bẫy tuyên truyền, song dù thế nào tôi vẫn có đủ lí do để tin BBC hơn truyền thông Nga. Ở đâu các nhà báo dám đương đầu với quyền lực cũng gặp rắc rối, song ở Nga họ bị bỏ tù, đầu độc hay ám sát là chuyện bình thường. Vâng, ở Nga, cách đây vài ngày, blogger độc lập Timur Kuashev chỉ còn là một cái xác bị quẳng trong rừng. Mới đầu tháng Sáu vừa rồi, hãng truyền hình Nga LifeNews, rất thân thiết với Putin, đăng tin quân Kiev ném bom phốt-pho xuống làng Semenovka, song đoạn video làm bằng chứng lại nguyên là của CNN trong Chiến tranh Iraq từ năm 2004, như trang stopfake.org của một nhóm nhà báo Ukraine, mới ra đời từ tháng Ba năm nay, chỉ rõ. Cảnh một vụ tai nạn đường sắt ở Quebec City, Canada, thì bị truyền thông Nga giả mạo thành hình ảnh thành phố Sloviansk của quân li khai chìm trong khói lửa. RIA Novosti thì lấy ngay bức hình một người Hồi giáo bị lính Nga hành hình trong chiến tranh Chechnya để biến hóa thành một trong 300 nạn nhân bị “mổ bụng moi gan” tại Ukraine những ngày này… Vụ “phi công Ukraine thú nhận bắn rơi MH17″ kể trên dĩ nhiên cũng nằm trong bộ sưu tập của stopfake.


Trở lại với bài viết trên trang Dân Làm Báo: Ngay cả khi cái phóng sự rẻ tiền nói trên có cho biết sự thật thì tôi vẫn không hiểu, từ một ông Liên Xô bắn rơi máy bay Mỹ làm cách nào có thể suy ra chuyện Đảng Cộng sản Việt Nam “dâng đất, dâng biển cho ngoại bang”. Liên Xô hình như không phải là Trung Quốc. Last but not least, hàng năm cứ đến ngày 5/8, ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Hải quân và Bộ đội Phòng không Việt Nam, Đại sứ quán Việt Nam tại CHLB Nga đều tổ chức gặp mặt những cựu chuyên gia Liên Xô từng chung chiến hào chống Mỹ, trong tinh thầnNgắm những cụ ông cụ bà cựu công dân Liên Xô, ngực nặng huân huy chương ngồi nghe kể chuyện ngày xưa đánh giặc ở một xứ sở lạ hoắc, thưởng thức văn nghệ cây nhà lá vườn từ một sinh viên Việt Nam để kiểu tóc kết hợp giữa Kim Chính Ân và Kim Chính Nhật, ngoan ngoãn xếp hàng ăn buffet lèo tèo vài món cơm rang nem rán, rồi đứng nghiêm chụp hình lưu niệm để sang năm lại như thế, tôi chỉ thấy một cảnh thác ngộ thời đại, nửa gợi thương cảm, nửa gây cười. Không có gì chứng tỏ phía Việt Nam muốn giấu diếm hay thậm chí chối bỏ công lao của các bạn Xô-viết.


3.


Nếu tránh tất cả những gì có hai chữ sự thật, có lẽ chẳng còn gì nhiều trên báo chí tiếng Việt bây giờ để đọc, từ báo chí quốc doanh đến báo chí ngoài luồng, từ báo chí kế hoạch đến báo chí tự phát, từ trong nước đến hải ngoại. Thông tin sự thật về một cái gì đó chưa đủ, truyền thông tiếng Việt còn phải bổ sung rằng đó là những sự thật đáng buồn, sự thật trần trụi, sự thật bất ngờ, sự thật kinh hoàng; liên tục đặt câu hỏi đâu là sự thật rồi bận rộn hé lộ, hé mở bật mí sự thật, vạch trần lột trần sự thật cũng như thường xuyên giật mình, sốc, choáng với sự thật… Chỉ còn thiếu những sự thật về sự thật.


Sự thật lũy thừa bao nhiêu bậc thì hết rẻ tiền, nếu cả hai phía, báo chí của chính quyền và báo chí tự do, đều thản nhiên dùng bừa những nguồn tin đáng ngờ, chưa nói đến dùng cho những mục đích agitprop? Tôi thật ghen tị với các bạn Ukraine. Thay vì lập ra hàng trăm trang mạng để rút cục cũng chỉ đăng đi đăng lại bài vở của lẫn nhau, không khác nhiều lắm 700 tờ báo trong nước cùng chung một tổng biên tập, sao chúng ta, các nhà báo tự do, không có nổi một trang hữu ích như stopfake.org?


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 07, 2014 15:20

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.