Phạm Thị Hoài's Blog, page 18

June 3, 2014

Ngày 4 tháng 6 và giới tinh hoa Trung Quốc

Lưu Hiểu Ba


Phạm Thị Hoài dịch


Phần trích dịch sau đây rút từ tiểu luận „Tiếng nói của những người mẹ Thiên An Môn“ viết năm 2004, nhân 15 năm Sự kiện Lục Tứ. Lưu Hiểu Ba dành phần đầu bài viết cho số phận của những nạn nhân được tập hợp trong một cuốn sách nhỏ, do bà Đinh Tử Lâm, nguyên Giáo sư Triết trường Đại học Nhân dân Trung Quốc tự xuất bản. Con trai bà, 17 tuổi, là một trong những thanh niên đầu tiên bị giết tại Quảng trường Thiên An Môn. Cùng với những người mẹ và gia đình mất con khác, bà thành lập nhóm „Những người mẹ Thiên An Môn“ (Thiên An Môn Mẫu thân Vận động) kiên trì đòi công lí cho các nạn nhân. Lưu Hiểu Ba, bị coi là một trong những người „giật dây“ của phong trào dân chủ Trung Quốc và sau đó bị kết án tù, ngay từ đầu đã tận tình ủng hộ Những người mẹ Thiên An Môn.


Trong phần cuối bài viết, Lưu Hiểu Ba một lần nữa đặt câu hỏi về vai trò và vị thế của giới trí thức tinh hoa Trung Quốc trong phong trào 89. Sự phê phán của ông, tuy trước hết và đồng thời là tự phê phán, nhưng vẫn gây sóng gió trong giới đấu tranh dân chủ Trung Quốc. Tiểu luận „Chúng ta bị công lí của chính mình đè bẹp“ của ông, viết năm 1993, nhân 4 năm Sự kiện Lục Tứ, mà tôi đã giới thiệu trên pro&contra năm ngoái, cũng chung mạch tự phê phán và phản tỉnh đó. Bản dịch tập trung vào phần cuối này của tiểu luận.


Người dịch


__________


Phần lớn các tù nhân chính trị của ngày 4 tháng 6 bị kết án nặng mà tôi biết đều là những người hoàn toàn bình thường. Một sinh viên Viện Truyền thanh Bắc Kinh bị kết án mười một năm tù vì tham gia chặn không cho xe quân sự tiến vào Quảng trường. Một chàng trai trẻ ở Thanh Đảo bị kết án mười tám năm tù vì đã công khai phản đối bạo lực của chính quyền khi vụ thảm sát bắt đầu diễn ra. Nhà thơ Liệu Diệc Vũ, người Tứ Xuyên, từng ở chung nhà giam với nhiều tù nhân chính trị bị kết án trên mười năm vì vụ Lục Tứ. Còn rất nhiều những tù nhân chính trị vô danh như thế của ngày 4 tháng 6 đang ở khắp các trại tù trong toàn quốc.


Còn những nhân vật danh tiếng thì sao? Khi đó họ kẻ cả nhìn xuống đám dân thường, nhưng không một ai trong số họ phải thiệt mạng hay bị thương trong vụ thảm sát ở Thiên An Môn, và cũng chỉ một số ít bị kết án nhiều hơn mười năm tù. Họ đều thoát khỏi lưỡi rìu đao phủ và sống sót, có thể đang ở một nhà tù nào đó trong nước hay lưu vong ở nước ngoài, nhưng đều còn sống, đều ít nhiều nổi tiếng, ít nhiều được dư luận chú ý. Trong „những kẻ giật dây vụ Lục Tứ“ nổi tiếng, chỉ có Vương Quân Đào và Trần Tử Minh bị kết án 13 năm tù, nhưng giữa thập niên 90 họ được tại ngoại để chữa bệnh. Từ tháng 6 năm 1989 đến nay, tôi, cũng là một đầu sỏ „giật dây“, bị kết án ba lần, song cũng chỉ bị ngồi tù tổng cộng không đầy 6 năm.


Nói như vậy không phải là để so bì nạn nhân. Là một trong những nhân vật cầm trịch và „giật dây“ tôi chỉ muốn đặt ra câu hỏi, rằng cuối cùng đâu là sự thực lịch sử của vụ Lục Tứ. Khi tình huống bắt đầu diễn biến kinh hoàng, vì sao những người bị trừng phạt nặng nề, những người đứng ra lo giúp các nạn nhân nguy kịch vì thương tích, những người bỏ mạng trong vụ thảm sát, vì sao họ đều là những người dân hoàn toàn bình thường, trong khi phong trào 89 lại do sinh viên và giới tinh hoa trí thức cầm đầu?


Vì sao những người đã phải trả cái giá cao nhất là sinh mạng của mình lại phần lớn thuộc về đám đông thầm lặng trong nước, không có nổi cái quyền thuật lại câu chuyện của mình, trong khi giới tinh hoa thuộc về phía sống sót lại cho mình cái quyền ba hoa chém gió không biết đâu là dừng?


Vì sao sau Lục Tứ, máu của những người dân chất phác ấy lại bị đem ra nuôi những kẻ cơ hội lớn nhỏ và cho phép một số kẻ ăn theo vô liêm sỉ trong chốn hội chợ phù hoa, tranh đua hóa „phong trào dân chủ“?


[image error]15 năm đã qua, dường như máu của ngày 4 tháng Sáu đã không hề khiến dân tộc lãnh cảm này bước thêm một bước nào đáng kể, nếu không tính đến cái mùi „anh hùng“ sặc sụa được đem ra phun vào những nhân vật trọng yếu, những kẻ quen xơi món màn thầu chấm máu người. Giới được coi là tinh hoa của đất nước này đã không hề tiến bộ hơn; đến hôm nay cảm giác về sự ô nhục, cảm giác về tội lỗi vẫn còn rất hiếm hoi, và chúng ta cũng chưa học được cách biến khổ đau thành một tài nguyên tinh thần để từ đó, bằng phẩm giá và tư cách bình đẳng, dấn thân cho sự khổ đau của những con người bình thường, cụ thể.


Những kẻ tự phong mình vào hạng tinh hoa văn hóa ở thập niên 80 như tôi, những nhân vật trọng yếu của sự kiện 1989 như tôi, đã làm được gì cho những hồn ma ấy? Suốt 15 năm qua, tôi thường xuyên bị ám ảnh vì một cảm giác tội lỗi. Tôi đã viết một bản nhận tội trong nhà tù Tần Thành, bán rẻ phẩm giá của cá nhân mình và cũng bán luôn cả máu của những hồn ma Thiên An Môn. Khi được thả, tôi vẫn tiếp tục ít nhiều nổi tiếng và được hưởng sự chia sẻ từ khắp nơi. Nhưng những nạn nhân bình thường kia thì sao? Những con người tàn phế đã mất tất cả từ lâu kia, họ thì sao? Và những người vô danh hiện vẫn bị giam cầm thì sao? Họ được gì? Trong một bài thơ, tác giả Liệu Diệc Vũ, bị tù bốn năm vì hai bài thơ, bài „Thảm sát“ và bài „Lễ cầu hồn“, tự hỏi: „Ai sống sót? Sống sót là rác rưởi!“


Trước số phận cay nghiệt của những con người bình thường ghi trong tập sách này, tôi thấy mình thậm chí không có cả cái quyền làm một kẻ „sống sót“! Dù tôi là một trong những người cuối cùng rời khỏi Thiên An Môn hôm ấy, nhưng sau vụ tắm máu tôi đã không đứng thẳng lên để bày tỏ một nhân cách, điều chỉ hiện ra qua hành động. Sau khi rời Quảng trường, tôi đã không quay lại Đại học Sư phạm Bắc Kinh, ngôi trường cũ của tôi, để giúp những sinh viên từ Quảng trường chạy về; tôi lại càng không ra đường giúp cáng thương và gom xác chết, tôi đã chui vào tòa nhà tương đối an toàn của Bộ Ngoại giao để trốn. Không có gì đáng ngạc nhiên, nếu những con người bình thường đã đích thân trải qua ngày 4 tháng 6 đẫm máu ấy lên tiếng hỏi: Khi Bắc Kinh chìm trong vụ thảm sát, các vị „cầm trịch“ bỗng biến đi đằng nào?


15 năm đã trôi qua. Dù sá»± kiện Lục Tứ chưa thay đổi được sá»± tàn nhẫn cá»§a những kẻ đã gây nên vụ thảm sát, nhưng ít nhất ta có thể hỏi những nhân vật trọng yếu thời ấy hiện đang ưỡn ngá»±c phô phù hiệu nạn nhân rằng: Các vị không thấy có trách nhiệm gì với những nạn nhân tuyệt không được hưởng một chút gì hoặc thậm chí còn ít hÆ¡n thế hay sao? Các vị không thấy lương tâm cắn rứt ư? Chẳng lẽ các vị không thấy ít ra cÅ©ng nên giữ những điều kiện tối thiểu cho nhân tính tồn tại, chẳng hạn việc xiển dương tá»± do và xiển dương cội nguồn cá»§a công lí mà vô số người đã hi sinh đời mình để bảo vệ – cái cội nguồn duy nhất mà chúng ta có để chống lại một chế độ toàn trị? Trước những người mẹ kiên tâm đòi công lí cho hồn ma cá»§a con cái họ, giới tinh hoa sống sót thời đó không lẽ nào lại không sẵn lòng chia sẻ một chút tình người, thá»±c hành một chút tình đoàn kết bình đẳng và một tí xíu công bằng, để bù lại cho những con người đã chịu nhiều khổ đau hÆ¡n hẳn ấy mức công bằng mà họ xứng đáng được hưởng?


Tôi xin cảm ơn thân nhân của những nạn nhân ấy. Họ đã để lại cho Trung Quốc hình ảnh những con người bình thường trong vụ thảm sát ngày 4 tháng 6.


Nguồn: Trích dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die Stimme der Mütter von Tiananmen”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 23-33. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Nhan đề của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 03, 2014 14:57

Ngày 4 tháng 6 và giới tinh hoa Trung Quốc

Lưu Hiểu Ba


Phạm Thị Hoài dịch


Phần trích dịch sau đây rút từ tiểu luận „Tiếng nói của những người mẹ Thiên An Môn“ viết năm 2004, nhân 15 năm Sự kiện Lục Tứ. Lưu Hiểu Ba dành phần đầu bài viết cho số phận của những nạn nhân được tập hợp trong một cuốn sách nhỏ, do bà Đinh Tử Lâm, nguyên Giáo sư Triết trường Đại học Nhân dân Trung Quốc tự xuất bản. Con trai bà, 17 tuổi, là một trong những thanh niên đầu tiên bị giết tại Quảng trường Thiên An Môn. Cùng với những người mẹ và gia đình mất con khác, bà thành lập nhóm „Những người mẹ Thiên An Môn“ (Thiên An Môn Mẫu thân Vận động) kiên trì đòi công lí cho các nạn nhân. Lưu Hiểu Ba, bị coi là một trong những người „giật dây“ của phong trào dân chủ Trung Quốc và sau đó bị kết án tù, ngay từ đầu đã tận tình ủng hộ Những người mẹ Thiên An Môn.


Trong phần cuối bài viết, Lưu Hiểu Ba một lần nữa đặt câu hỏi về vai trò và vị thế của giới trí thức tinh hoa Trung Quốc trong phong trào 89. Sự phê phán của ông, tuy trước hết và đồng thời là tự phê phán, nhưng vẫn gây sóng gió trong giới đấu tranh dân chủ Trung Quốc. Tiểu luận „Chúng ta bị công lí của chính mình đè bẹp“ của ông, viết năm 1993, nhân 4 năm Sự kiện Lục Tứ, mà tôi đã giới thiệu trên pro&contra năm ngoái, cũng chung mạch tự phê phán và phản tỉnh đó. Bản dịch tập trung vào phần cuối này của tiểu luận.


Người dịch


__________


Phần lớn các tù nhân chính trị của ngày 4 tháng 6 bị kết án nặng mà tôi biết đều là những người hoàn toàn bình thường. Một sinh viên Viện Truyền thanh Bắc Kinh bị kết án mười một năm tù vì tham gia chặn không cho xe quân sự tiến vào Quảng trường. Một chàng trai trẻ ở Thanh Đảo bị kết án mười tám năm tù vì đã công khai phản đối bạo lực của chính quyền khi vụ thảm sát bắt đầu diễn ra. Nhà thơ Liệu Diệc Vũ, người Tứ Xuyên, từng ở chung nhà giam với nhiều tù nhân chính trị bị kết án trên mười năm vì vụ Lục Tứ. Còn rất nhiều những tù nhân chính trị vô danh như thế của ngày 4 tháng 6 đang ở khắp các trại tù trong toàn quốc.


Còn những nhân vật danh tiếng thì sao? Khi đó họ kẻ cả nhìn xuống đám dân thường, nhưng không một ai trong số họ phải thiệt mạng hay bị thương trong vụ thảm sát ở Thiên An Môn, và cũng chỉ một số ít bị kết án nhiều hơn mười năm tù. Họ đều thoát khỏi lưỡi rìu đao phủ và sống sót, có thể đang ở một nhà tù nào đó trong nước hay lưu vong ở nước ngoài, nhưng đều còn sống, đều ít nhiều nổi tiếng, ít nhiều được dư luận chú ý. Trong „những kẻ giật dây vụ Lục Tứ“ nổi tiếng, chỉ có Vương Quân Đào và Trần Tử Minh bị kết án 13 năm tù, nhưng giữa thập niên 90 họ được tại ngoại để chữa bệnh. Từ tháng 6 năm 1989 đến nay, tôi, cũng là một đầu sỏ „giật dây“, bị kết án ba lần, song cũng chỉ bị ngồi tù tổng cộng không đầy 6 năm.


Nói như vậy không phải là để so bì nạn nhân. Là một trong những nhân vật cầm trịch và „giật dây“ tôi chỉ muốn đặt ra câu hỏi, rằng cuối cùng đâu là sự thực lịch sử của vụ Lục Tứ. Khi tình huống bắt đầu diễn biến kinh hoàng, vì sao những người bị trừng phạt nặng nề, những người đứng ra lo giúp các nạn nhân nguy kịch vì thương tích, những người bỏ mạng trong vụ thảm sát, vì sao họ đều là những người dân hoàn toàn bình thường, trong khi phong trào 89 lại do sinh viên và giới tinh hoa trí thức cầm đầu?


Vì sao những người đã phải trả cái giá cao nhất là sinh mạng của mình lại phần lớn thuộc về đám đông thầm lặng trong nước, không có nổi cái quyền thuật lại câu chuyện của mình, trong khi giới tinh hoa thuộc về phía sống sót lại cho mình cái quyền ba hoa chém gió không biết đâu là dừng?


Vì sao sau Lục Tứ, máu của những người dân chất phác ấy lại bị đem ra nuôi những kẻ cơ hội lớn nhỏ và cho phép một số kẻ ăn theo vô liêm sỉ trong chốn hội chợ phù hoa, tranh đua hóa „phong trào dân chủ“?


15 năm đã qua, dường như máu của ngày 4 tháng Sáu đã không hề khiến dân tộc lãnh cảm này bước thêm một bước nào đáng kể, nếu không tính đến cái mùi „anh hùng“ sặc sụa được đem ra phun vào những nhân vật trọng yếu, những kẻ quen xơi món màn thầu chấm máu người. Giới được coi là tinh hoa của đất nước này đã không hề tiến bộ hơn; đến hôm nay cảm giác về sự ô nhục, cảm giác về tội lỗi vẫn còn rất hiếm hoi, và chúng ta cũng chưa học được cách biến khổ đau thành một tài nguyên tinh thần để từ đó, bằng phẩm giá và tư cách bình đẳng, dấn thân cho sự khổ đau của những con người bình thường, cụ thể.


Những kẻ tự phong mình vào hạng tinh hoa văn hóa ở thập niên 80 như tôi, những nhân vật trọng yếu của sự kiện 1989 như tôi, đã làm được gì cho những hồn ma ấy? Suốt 15 năm qua, tôi thường xuyên bị ám ảnh vì một cảm giác tội lỗi. Tôi đã viết một bản nhận tội trong nhà tù Tần Thành, bán rẻ phẩm giá của cá nhân mình và cũng bán luôn cả máu của những hồn ma Thiên An Môn. Khi được thả, tôi vẫn tiếp tục ít nhiều nổi tiếng và được hưởng sự chia sẻ từ khắp nơi. Nhưng những nạn nhân bình thường kia thì sao? Những con người tàn phế đã mất tất cả từ lâu kia, họ thì sao? Và những người vô danh hiện vẫn bị giam cầm thì sao? Họ được gì? Trong một bài thơ, tác giả Liệu Diệc Vũ, bị tù bốn năm vì hai bài thơ, bài „Thảm sát“ và bài „Lễ cầu hồn“, tự hỏi: „Ai sống sót? Sống sót là rác rưởi!“


Trước số phận cay nghiệt của những con người bình thường ghi trong tập sách này, tôi thấy mình thậm chí không có cả cái quyền làm một kẻ „sống sót“! Dù tôi là một trong những người cuối cùng rời khỏi Thiên An Môn hôm ấy, nhưng sau vụ tắm máu tôi đã không đứng thẳng lên để bày tỏ một nhân cách, điều chỉ hiện ra qua hành động. Sau khi rời Quảng trường, tôi đã không quay lại Đại học Sư phạm Bắc Kinh, ngôi trường cũ của tôi, để giúp những sinh viên từ Quảng trường chạy về; tôi lại càng không ra đường giúp cáng thương và gom xác chết, tôi đã chui vào tòa nhà tương đối an toàn của Bộ Ngoại giao để trốn. Không có gì đáng ngạc nhiên, nếu những con người bình thường đã đích thân trải qua ngày 4 tháng 6 đẫm máu ấy lên tiếng hỏi: Khi Bắc Kinh chìm trong vụ thảm sát, các vị „cầm trịch“ bỗng biến đi đằng nào?


15 năm đã trôi qua. Dù sự kiện Lục Tứ chưa thay đổi được sự tàn nhẫn của những kẻ đã gây nên vụ thảm sát, nhưng ít nhất ta có thể hỏi những nhân vật trọng yếu thời ấy hiện đang ưỡn ngực phô phù hiệu nạn nhân rằng: Các vị không thấy có trách nhiệm gì với những nạn nhân tuyệt không được hưởng một chút gì hoặc thậm chí còn ít hơn thế hay sao? Các vị không thấy lương tâm cắn rứt ư? Chẳng lẽ các vị không thấy ít ra cũng nên giữ những điều kiện tối thiểu cho nhân tính tồn tại, chẳng hạn việc xiển dương tự do và xiển dương cội nguồn của công lí mà vô số người đã hi sinh đời mình để bảo vệ – cái cội nguồn duy nhất mà chúng ta có để chống lại một chế độ toàn trị? Trước những người mẹ kiên tâm đòi công lí cho hồn ma của con cái họ, giới tinh hoa sống sót thời đó không lẽ nào lại không sẵn lòng chia sẻ một chút tình người, thực hành một chút tình đoàn kết bình đẳng và một tí xíu công bằng, để bù lại cho những con người đã chịu nhiều khổ đau hơn hẳn ấy mức công bằng mà họ xứng đáng được hưởng?


Tôi xin cảm ơn thân nhân của những nạn nhân ấy. Họ đã để lại cho Trung Quốc hình ảnh những con người bình thường trong vụ thảm sát ngày 4 tháng 6.


Nguồn: Trích dịch từ bản tiếng Đức, tiểu luận “Die Stimme der Mütter von Tiananmen”, trong tuyển tập tác phẩm của Lưu Hiểu Ba Ich habe keine Feinde, ich kenne keinen Hass, tr. 23-33. Fischer Taschenbuch. Frankfurt am Main, 2013. Nhan đề của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 03, 2014 14:57

June 2, 2014

Những hồn ma Thiên An Môn

Ian Johnson


Phạm Vũ Lửa Hạ dịch


Trong bài viết sau đây, ký giả Ian Johnson điểm hai cuốn sách mới về Thiên An Môn: Cộng hòa Nhân dân Lãng quên: Nhìn lại Thiên An Môn (The People’s Republic of Amnesia: Tiananmen Revisited) của Louisa Lim, do Oxford University Press xuất bản, và Những người lưu vong Thiên An Môn: Những tiếng nói của cuộc đấu tranh đòi dân chủ ở Trung Quốc (Tiananmen Exiles: Voices of the Struggle for Democracy in China) của Rowena He [Hà Tiểu Thanh] do Palgrave Macmillan xuất bản. Ian Johnson là phóng viên đóng tại Bắc Kinh của tờ The New York Times. Ông đã giành giải Pulitzer Prize cho tin bài về Trung Quốc, và đang viết một cuốn sách về việc Trung Quốc đi tìm các giá trị.


_____________


[image error]Mỗi độ xuân về, một người bạn lớn tuổi của tôi tên là Từ Giác đến nghĩa trang Bát Bảo Sơn ở ngoại ô mạn tây Bắc Kinh để đặt hoa trên mộ của chồng và con quá cố. Bà luôn sắp xếp đi viếng vào ngày 5 tháng 4, nhằm lễ Thanh Minh. Lịch cổ truyền Trung Hoa có ba ngày lễ để tưởng niệm người chết, trong đó quan trọng nhất là Thanh Minh – quan trọng đến nỗi vào năm 2008, sau mấy chục năm cố gắng cấm đoán các tập quán tôn giáo truyền thống, chính quyền đã công bố đó là ngày lễ toàn quốc và cho người dân được nghỉ một ngày để làm tròn bổn phận của mình. Ngày nay các quan chức Đảng Cộng sản cũng tham gia; gần như năm nào cũng vậy, truyền hình quốc gia chiếu cảnh họ viếng thăm đài tưởng niệm các liệt sĩ cộng sản hay cúng bái Hoàng Đế, theo thần thoại là vị vua sáng lập của dân tộc Trung Hoa, tại một lăng mộ hùng vĩ trên sông Hoàng Hà.


Nhưng tưởng nhớ có thể đặt ra những câu hỏi khó chịu. Vài ngày trước cuộc viếng mộ dự kiến của Từ Giác, hai công an đến nhà bà và cho biết họ sẽ có một ân huệ đặc biệt dành cho bà. Họ sẽ đích thân hộ tống bà đến nghĩa trang và giúp bà quét dọn hai ngôi mộ và đặt hoa. Họ đặt điều kiện là sẽ không đi vào ngày 5 tháng 4 dễ bị xúc động. Thay vì thế, họ sẽ đi sớm vài ngày. Bà biết mình không có lựa chọn nào khác nên đành chấp nhận. Năm nào họ cũng tạo ra cảnh tượng lạ: một bà lão đến bằng ô tô đen với bốn công an mặc thường phục, theo bà đến ngôi mộ của hai người thân đã ra đi của bà.


Con trai của Từ Giác bị lính bắn chết. Chỉ vài tuần sau, tóc chồng bà bạc trắng. Năm năm sau, ông qua đời. Khí tử liễu, bà giải thích: uất ức đến chết. Trên bia mộ của chồng có khắc một bài thơ lý giải nguyên nhân giết chết hai người:


Xin dâng một bó hoa tươi

Tám cánh loa kèn

Chín đóa cúc vàng

Sáu bông tulip trắng

Bốn nụ hồng đỏ

Tám-chín-sáu-bốn: ngày 4 tháng 6 năm 1989


Đó là cái ngày mà Đảng Cộng sản xưa nay cố gắng hết sức để xóa khỏi ký ức người dân. Vào đêm ngày 3 rạng ngày 4 tháng 6, lãnh tụ tối cao của Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình, và một nhóm lãnh đạo cao cấp phát lệnh cho Quân đội Giải phóng Nhân dân đàn áp Bắc Kinh. Với mục đích bề ngoài là giải tán sinh viên biểu tình khỏi Quảng trường Thiên An Môn, đó thực ra là một cuộc phô trương vũ lực đẫm máu, một lời cảnh báo rằng chính quyền sẽ không chấp nhận việc công khai phản đối sự cai trị của họ. Đến thời điểm đó, các cuộc biểu tình đã lan đến hơn tám mươi thành phố trên khắp Trung Quốc, với hàng ngàn người biểu tình kêu gọi có một hình thức chế độ chính trị cởi mở hơn, dân chủ giúp chấm dứt nạn tham nhũng, đặc quyền, và sự tàn bạo của chế độ cai trị cộng sản.[i] Cuộc thảm sát ở Bắc Kinh và bạo lực do chính quyền chỉ đạo ở nhiều thành phố khác cũng là lời nhắc nhở rằng quyền lực của Đảng Cộng sản xuất phát từ nòng súng. Trong những thập niên tiếp theo nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ đáng kể, giúp hàng trăm triệu người thực sự giàu lên và có cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng đằng sau đó là một lời răn đe, một thông điệp nhắn nhủ rằng chính quyền sẵn sàng tàn sát một số bộ phận dân chúng nếu họ cư xử không phải phép.


Khi tôi trở lại Trung Quốc làm báo vào đầu những năm 1990, các sự kiện Thiên An Môn đã trở thành một tấn tuồng được trình diễn vào mỗi mùa xuân. Cứ đến gần ngày đó, những người bất đồng trên khắp Trung Quốc sẽ bị triệu tập, an ninh ở Bắc Kinh tăng gấp đôi, kiểm duyệt được siết chặt. Đó là một trong nhiều ngày nhạy cảm trong lịch cộng sản, những ngày ngầm cấm kỵ phản ánh nỗi sợ chủ yếu của bộ máy điều hành đất nước. Cứ như thể ngày 4 tháng 6, hay lục tứ trong tiếng Hoa, đã trở thành một ngày Thanh Minh mới, một ngày mà chính quyền xấu hổ khi phải thừa nhận là nó tồn tại. Hiện nay những vụ bắt bớ trong tháng 5 và tháng 6 đã bớt đi nhưng vẫn là một phần trong đời sống thường nhật của hàng trăm người trên khắp Trung Quốc, chẳng hạn như Từ Giác, mẹ của một nạn nhân Thiên An Môn.


Còn lại gì? Tác giả Christa Wolf dùng cụm từ này làm nhan đề cho một truyện vừa có bối cảnh ở Đông Berlin vào cuối thập niên 1970. Một phụ nữ nhận thấy mình bị theo dõi và cố gắng khắc ghi một ngày trong đời mình vào ký ức để bà có thể nhớ lại vào một thời điểm nào đó trong tương lai khi mọi việc được bàn luận tự do hơn. Đó là câu chuyện về sự uy hiếp và nỗi khát khao bị đè nén. Đây có phải là cách thích hợp để nghĩ về Thiên An Môn, xem nó như một hồi kịch đóng băng trong thời gian, chờ đến lúc được công nhận thực sự và có kết cục trong một tương lai mơ hồ nào đó?


HAI cuốn sách mới tìm hiểu các sự kiện Thiên An Môn từ góc nhìn này. Một cuốn có bối cảnh ở Trung Quốc và bàn về việc kiềm chế ký ức; cuốn kia có bối cảnh ở nước ngoài và bàn về việc gìn giữ ký ức. Cả hai cuốn đồng ý rằng ngày 4 tháng 6 là một thời điểm trọng đại trong lịch sử Trung Quốc đương đại, một bước ngoặt làm chấm dứt lý tưởng và sự thử nghiệm của thập niên 1980, và đưa đến một Trung Quốc siêu tư bản chủ nghĩa và siêu nhạy cảm của thời nay.


Cả hai cuốn sách không nhận là kể lại tường tận vụ thảm sát đó, hay những sự kiện dẫn đến vụ thảm sát. Câu chuyện lịch sử đó được kể lại trong cuốn Dẹp yên nhân dân: chuyện quân đội đàn áp phong trào dân chủ Bắc Kinh (Quelling the People: The Military Suppression of the Beijing Democracy Movement) của Timothy Brook, một sử gia được đào tạo kinh viện biết sử dụng khả năng phân tích và truy tìm dữ kiện để tìm hiểu vụ thảm sát này.[ii] Tuy cuốn sách của Brook không dẫn một số tác phẩm quan trọng xuất bản trong những năm 2000 (đặc biệt là hồi ký của tổng bí thư thời đó Triệu Tử Dương[iii] và tuyển tập những tài liệu [nhà nước] bị rò rỉ gọi là Hồ sơ Thiên An Môn [The Tiananmen Papers]), Dẹp yên nhân dân vẫn là cuốn sách sử hay nhất kể về những sự kiện ở Bắc Kinh. Lời kết của ông tóm  tắt phần lớn những gì được viết về sau:


Những sự kiện ban đầu ngày càng chìm sâu vào trạng thái quên lãng mà trong đó nhiều người, cả ngoại quốc lẫn Trung Quốc, muốn thấy chúng biến mất, khi một mối quan hệ mới và có lợi hơn với nền kinh tế thế giới bắt buộc thế hệ kế tiếp tránh lo ngại về nhân quyền. [iv]


Hai cuốn sách mới lấy bối cảnh thời kỳ hậu Thiên An Môn, tìm hiểu xem sự kiện Thiên An Môn đã góp phần định hình xã hội Trung Quốc ra sao, và có ảnh hưởng ra sao đối với một số nhân vật chủ yếu từng tham gia sự kiện đó và nay đang sống lưu vong.


Cuốn Cộng hòa Nhân dân Lãng quên: Nhìn lại Thiên An Môn của Louisa Lim có nhan đề tuyệt vời, cho thấy phần lớn những gì chúng ta xem là đương nhiên ở Trung Quốc ngày nay là do những nỗ lực quên hoặc vượt qua vụ thảm sát đó. Cuốn sách này là một loạt chân dung những người từng tham gia ở Thiên An Môn hoặc chịu ảnh hưởng của nó, trong đó có một số đã xuất hiện trong chương trình chuyên đề của Đài Phát thanh Quốc gia Mỹ (NPR) – tác giả làm phóng viên của NPR ở Bắc Kinh trong nhiều năm. Cấu trúc kể chuyện riêng rẽ của sách có một số nhược điểm, chủ yếu là ở đầu sách thiếu một phần kiến thức nền tảng hoàn chỉnh về vụ thảm sát – những diễn biến dẫn đến sự kiện, diễn ra như thế nào và tại sao.


Nhưng Lim mở đầu bằng một chương hữu ích tên là “Người lính”, mô tả cơ chế của vụ giết chóc, theo lời kể của một anh lính quèn thuộc đơn vị trong Quân đội Giải phóng Nhân dân được lệnh giải tán quảng trường. Ai cũng đã biết rằng quân đội không giải tán được quảng trường, trước tiên tập trung binh lính ở ngoại ô, rồi chỉ cố gắng nửa vời để tiến vào Bắc Kinh trong nhiều ngày liên tiếp khi các đám đông quần chúng nài nỉ và chọc ghẹo những người lính trẻ, bảo họ đừng nghe theo lời tuyên truyền của các chính ủy và quay lại doanh trại của họ. Cuối cùng, khi binh lính nhận được lệnh dứt khoát để ra tay, họ gây thương vong khủng khiếp cho dân thường, những thương vong mà ta có thể lý giải – tùy theo quan điểm của mỗi người – là do binh lính được huấn luyện kém, các thủ đoạn thô bạo của cấp trên, hoặc là một nỗ lực có chủ đích để bình định bằng khủng bố.


Lim phả hơi thở sinh động vào những kết luận tổng quát này thông qua nhân vật của mình, một thanh niên u mê, bị tẩy não thuộc một đơn vị bị lén lút đưa vào thành phố trên những phương tiện giao thông giả trang trông như xe buýt công cộng, trong khi các đơn vị khác đi bằng tàu điện ngầm. Đó là cách duy nhất để đơn vị của anh vượt qua được các chiến lũy dân sự và để nhanh chóng tuồn binh lính và vũ khí vào Đại Lễ đường Nhân dân, một trong những tòa nhà chính yếu trên quảng trường mà họ dùng làm nơi triển khai cuộc tấn công. Trong những ngày sau vụ thảm sát, chúng ta biết có chuyện còn đáng ngạc nhiên hơn – dân thường bắt đầu nhanh chóng đứng chung phía với binh lính, ít nhất là ở nơi công khai:


Anh không tin là sự trở mặt này xuất phát từ nỗi sợ, mà do ước nguyện sâu xa – thậm chí là điều cần thiết – muốn đứng chung phía với những người chiến thắng, bất luận tổn hại đến đâu: “Đó là một cơ chế tồn vong mà người dân ở Trung Quốc đã dần dần học được nhờ sống lâu dưới chế độ này. Để tồn tại, tất tần tật đều là tuân thủ thượng lệnh.”


Cuốn sách tiếp tục với những chương khác xây dựng xung quanh chân dung của nhiều nhân vật khác nhau. Chúng ta gặp một lãnh tụ sinh viên về sau thành một doanh nhân, một sinh viên đương đại tò mò nhưng cẩn trọng về quá khứ, một quan chức có đầu óc cải cách luôn bị chính quyền theo dõi, một lãnh tụ sinh viên sống lưu vong, người mẹ của một sinh viên đã chết, và một thanh niên có đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Mỗi nhân vật giúp Lim đưa ra các nhận định tổng quát hơn về việc chuyện lãng quên tổn hại ra sao đối với một người, và đối với một xã hội.


Trong chương về vị cựu quan chức, Bào Đồng (Bao Tong), Lim cũng sử dụng các hồi ký mới xuất bản để chất vấn các luận điểm chủ yếu về cách chúng ta hiểu các mưu toan chính trị nội bộ đã dẫn đến cuộc thảm sát. Cho đến nay, phần lớn các nhà quan sát giả định rằng sinh viên đã gây ra sự chia rẽ trong giới lãnh đạo, với Đặng Tiểu Bình đứng về phe cứng rắn chống lại Triệu Tử Dương, tổng bí thư có chủ trương cải cách và có phần thông cảm với sinh viên. Đây cũng là quan điểm của Bào Đồng cho đến khi ông đọc hồi ký của thủ tướng thời đó Lý Bằng, vốn cũng là một người có đường lối cứng rắn. Lý Bằng cho rằng từ trước đó khá lâu Đặng Tiểu Bình đã phật ý với các khuynh hướng tự do của Triệu Tử Dương. Khó mà biết được liệu cách lý giải này có đúng hay không, nhưng Lim đúng khi nhấn mạnh điều này, cho thấy ngay từ đầu Triệu Tử Dương đã sa cơ thất thế ra sao:


“Điều này chẳng liên quan gì đến sinh viên,” Bào Đồng nói với tôi. Ông tin rằng Đặng đã dùng sinh viên làm công cụ để phế truất người được chỉ định kế nhiệm ông. “Ông ta phải tìm ra được một lý do. Sinh viên càng đấu tranh mạnh mẽ, Đặng Tiểu Bình càng có lý do. Nếu sinh viên đều về nhà, Đặng Tiểu Bình chẳng có lý do gì.”


Điều này đặt ra câu hỏi được bàn luận nhiều trong một phần tư thế kỷ qua là liệu sinh viên có thể tránh bị thảm sát hay không nếu họ đã giải tán vài ngày trước khi hành động quân sự có vẻ trở thành tất yếu. Tuy nhiên, khi xem lại tư liệu, ta có cảm nhận rằng không chỉ sự thất sủng của Triệu Tử Dương mà cả vụ thảm sát cũng gần như là điều tất yếu. Đặng Tiểu Bình trước đó đã luôn phản đối bất cứ sự bất đồng chính trị nào và ông dường như quyết tâm dứt khoát phát đi một thông điệp rằng sự chống đối công khai sẽ không được dung thứ.


TUY nhiên, mối quan tâm lớn hơn của Lim là sự kiện Thiên An Môn có ý nghĩa ra sao trong xã hội ngày nay. Bà nhiều lần chứng minh rằng những người dưới bốn mươi tuổi biết rất ít về Thiên An Môn. Trong một chương, người sinh viên từng hoạt động nay thành doanh nhân thấy chẳng nghĩa lý gì đem chuyện Thiên An Môn nói với cô vợ trẻ của mình. “Lý do họ không thích nói về năm 1989 không phải là vì đó là một chủ đề nhạy cảm chính trị hoặc nó khiến họ thấy khó chịu. Chỉ đơn giản là nó chẳng nghĩa lý gì với họ.”


Điểm này được thể hiện mạnh hơn trong một chương về một sinh viên Trung Quốc đại lục mà Lim gặp tại một cuộc triển lãm về vụ thảm sát này ở Hong Kong (ở đó một bảo tàng chuyên về Thiên An Môn vừa mở cửa). Bà thấy chàng trai này, tên là “Feel” vì anh có “cảm nhận đặc biệt” về tiếng Anh, rất tất bật và háo hức muốn biết nhiều hơn. Nhưng về sau khi bà đến thăm anh tại trường ở Trung Quốc, anh trầm ngâm và cẩn thận, biết càng ít càng tốt về chuyện đã xảy ra và tuân theo các chuẩn mực xã hội yêu cầu phải phớt lờ chuyện đó. Lim giải thích sự nói dối và ngờ vực phổ biến trong giới trẻ bằng cách trích dẫn một phát biểu của người đoạt giải Nobel Hòa bình Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo) nói rằng Trung Quốc đã bước vào một thời đại “trong đó người ta chẳng còn tin vào bất cứ điều gì và trong đó lời nói của họ không đi đôi với hành động, vì họ nói điều này nhưng lại có nghĩa khác.”


[image error]Một trong những điểm quan trọng nhất của Lim là Thiên An Môn khiến bạo lực trở thành điều có thể chấp nhận trong thời kỳ cải cách hiện nay. Sau bạo lực của thời kỳ Mao Trạch Đông, người ta đã hy vọng rằng các bất đồng xã hội sẽ không được giải quyết bằng vũ lực – rằng sẽ không còn Hồng Vệ binh lục soát nhà để lùng bắt các kẻ thù có thật cũng như tưởng tượng, hay sử dụng đại trà các trại lao động. Và tuy nhiều loại bạo lực trong những hình thức bạo lực tàn khốc này đã được hạn chế, Đảng thường xuyên dùng vũ lực chống lại những người phản đối mình, khám xét và giam giữ một cách phi pháp những người chỉ trích. Biểu tình chưa chấm dứt. Dù nhà nước liên tục nói về sự hài hòa xã hội và chi tiêu nhiều cho “việc duy trì ổn định” hơn cho các lực lượng vũ trang, Trung Quốc còn đầy rẫy hàng chục ngàn cuộc biểu tình quy mô nhỏ mỗi năm, “các tiểu Thiên An Môn” như lời của Bào Đồng nói với bà. Có khi là biểu tình vô thưởng vô phạt của người lao động về hưu đòi lương hưu, nhưng có khi là biểu tình của những người cố giữ không để nhà của mình bị cướp đi, và họ bị trừng phạt bằng các cuộc tấn công bạo lực của bọn côn đồ nhà nước hoặc bằng các màn hạ sát phi pháp của bọn công an trật tự đô thị thành quản [cách gọi tắt của Sở Quản lý Hành chính và Chấp pháp Thành thị, N.D.]


Lim kể chuyện sinh động và rõ ràng. Bà nhanh nhẹn chuyển đổi qua lại giữa chuyện kể của các nhân vật và các chiêm nghiệm tổng quát, điểm xuyết cả hai bằng các tình tiết ngắn, cay nghiệt, ví như chuyện một nghệ sĩ cắt đứt một phần ngón tay để phản đối vụ thảm sát, nhưng nay thấy ông không thể giải thích lý do với đứa con trai mười hai tuổi. Rõ ràng Lim đã suy nghĩ và quan tâm rất nhiều về sự kiện Thiên An Môn, và bà chấp nhận rủi ro lớn khi viết cuốn sách này; nếu ta lấy lịch sử làm căn cứ, cuốn sách này có thể khiến bà khó trở lại Trung Quốc, ở đó chính quyền có danh sách đen gồm những học giả và ký giả có tác phẩm đụng đến các chủ đề nhạy cảm. Bởi vậy cuốn sách của bà đầy can đảm, nghiên cứu một trong những vết thương đau đớn nhất của Đảng Cộng sản.


Chương cuối của Lim là một trong những chương đáng đọc nhất, nhưng cũng cho thấy một số trở ngại của cuốn sách này. Thay vì phác họa chân dung một nhân vật, bà kể lại vụ đàn áp người biểu tình ở Thành Đô, một thành phố lớn ở miền tây nam và là trung tâm tri thức quan trọng thứ nhì của Trung Quốc. Lim đào xới các công điện của Bộ Ngoại giao Mỹ và qua phỏng vấn nghe các nhân chứng kể về sự đàn áp hết sức bạo lực các cuộc biểu tình ở đó. Đây là một chương đọc đến sợ, viết đầy cao hứng.


Tuy nhiên, đôi khi Lim hơi gấp gáp khi mô tả các phát hiện mới mẻ của mình. Các tác giả khác đã đưa ra luận điểm tổng quát cho rằng điều đã xảy ra vào năm 1989 là một phong trào trên toàn quốc, nhất là trong cuốn The Pro-Democracy Protests in China: Reports from the Provinces (Biểu tình đòi dân chủ ở Trung Quốc: Tường thuật từ các tỉnh, xuất bản năm 1991), do Jonathan Unger chủ biên. Về các sự kiện ở Thành Đô, các tác giả đã bàn về chúng, nhất là nhà văn Liệu Diệc Vũ.[v] Lim đáng được khen vì đã kể lại các sự kiện dưới một hình thức hoàn chỉnh hơn, và vì đã tìm ra rất nhiều thông tin mới. Nhưng việc người ngoài cuộc thường xem sự kiện ngày 4 tháng 6 chỉ là chuyện ở Bắc Kinh chủ yếu phản ánh sự thật là các sự kiện trên toàn quốc năm 1989 vẫn chưa được đề cập trọn vẹn trong một cuốn sách. Có lẽ điều này cho thấy nhiều về sự thiển cận và tủn mủn của các nghiên cứu học thuật hiện đại hơn là về chủ đề chính “sự lãng quên” của Lim.


ROWENA He [Hà Tiểu Thanh] cũng đưa bức tranh vượt ra khỏi ranh giới Bắc Kinh trong câu chuyện cảm động và rất riêng tư về cuộc đời của một người di cư chính trị, Những người lưu vong Thiên An Môn: Những tiếng nói của cuộc đấu tranh đòi dân chủ ở Trung Quốc.[vi] Nay là một giảng viên dạy một môn học nổi tiếng về Thiên An Môn cấp đại học tại Harvard, Hà Tiểu Thanh chỉ mới là học sinh trung học trong đợt biểu tình năm đó. Song bà vẫn hăng hái tham gia các cuộc biểu tình ở Quảng Châu, quê của bà tại miền nam Trung Quốc, bà xuống đường dù cha mẹ cảm thấy bất an. Sau khi các cuộc biểu tình bị dẹp tan ở đó, bà ngoan ngoãn học thuộc lòng luận điệu tuyên truyền của chính quyền để có thể thi đỗ đại học, tốt nghiệp, và cuối cùng kiếm được một việc làm tốt trong thời kỳ kinh tế Trung Quốc bắt đầu bùng nổ.


Tuy nhiên, trong thâm tâm bà không thể quên được các cuộc biểu tình. Rốt cuộc, bà khiến gia đình và bạn bè ngạc nhiên khi nghỉ việc để sang Canada học cao học. Bà chọn chuyên ngành giáo dục với suy nghĩ rằng giáo dục có ý nghĩa quan trọng để tránh một sự kiện Thiên An Môn khác. Bà cũng bắt đầu kể chuyện lịch sử về cuộc nổi dậy này.


Cuốn sách của bà được viết theo truyền thống nghiên cứu tự sự học thuật đương đại, qua đó bà kể chuyện của chính mình theo cách giúp nhấn mạnh quan điểm của mình. Chúng ta biết về quãng đời bà lớn lên trong Cách mạng Văn hóa, những khó khăn gia đình bà gặp phải, và chuyện lý tưởng của cha bà đã bị đập tan ra sao trong thời Mao Trạch Đông. Bà theo mẹ rong ruổi với một gánh hát, và đi đi lại lại giữa thành thị và nông thôn trong khi cha mẹ bà phải chật vật thích nghi với những chiều hướng chính trị của thời kỳ đó. Tất cả những chi tiết này giúp chúng ta hiểu cảm giác bị mắc bẫy mà thế hệ Thiên An Môn cảm nhận khi lớn lên trong thời Mao Trạch Đông, và nỗi khát khao xuất phát từ cảm giác đó được thoát ra và đi theo phong trào năm 1989.


Chuyện của chính tác giả được cân đối bằng ba câu chuyện khác của các nhân vật nổi tiếng tham gia biểu tình: các lãnh tụ sinh viên Dịch Đan Hiên (Yi Danxuan), Thẩm Đồng (Shen Tong), và Vương Đan (Wang Dan). Những lời hỏi đáp của bà được điểm xuyết bằng các phần mở ngoặc chú thích các câu trả lời, những lúc im lặng, và tâm trạng của những người nói chuyện với bà.


Dù chuyện của Thẩm Đồng và Vương Đan đã được khá nhiều người biết, những câu hỏi thăm dò nhẹ nhàng và các hiểu biết sâu sắc về tâm lý giúp chúng ta hiểu cái lý tưởng đôi khi vị kỷ của những nhân vật này, những người lao mình vào phong trào sinh viên mặc cho cha mẹ nài nỉ đừng tham gia. Như Dịch Đan Hiên kể với tác giả:


Bạn bè và tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng chính quyền sẽ ra lệnh cho quân đội nổ súng dù ngay từ đầu cha tôi đã nói là sẽ có chuyện đó. Đúng là chúng tôi chẳng hiểu rõ bản chất của chế độ này.


Những nhân vật trong sách của Rowena He có thể được xem là những kẻ thất bại. Thua cuộc, họ buộc phải sống ở nước ngoài, nơi họ luôn ở trong tâm trạng ngờ vực và bất an – cũng chẳng đáng ngạc nhiên nếu biết rằng chính quyền tiếp tục tìm cách lẻn vào máy vi tính của họ và theo dõi nhất cử nhất động của họ. Cho dù họ đã tạo dựng cuộc sống có ích cho chính mình trong môi trường kinh doanh hay học thuật, theo cách viết của tác giả,


xét về nhiều mặt Thiên An Môn là một bi kịch vẫn tiếp diễn vì các nạn nhân không còn được xem là nạn nhân, còn bọn thủ ác không còn được xem là kẻ thủ ác. Thay vì thế, kẻ thủ ác đã trở thành người thắng cuộc trong bối cảnh một “Trung Quốc vươn lên”.


Nhưng Rowena He có những mối quan tâm sâu xa hơn là chỉ tính ai thắng ai bại. Thay vì thế, bà cố hình dung chuyện gì xảy ra khi điều ta yêu quý bị tiêu diệt. Nó có thật sự chết đi hay vẫn sống dưới những dạng khác? Phải chăng ký ức của những người lưu vong không giá trị bằng hiện thực của một chế độ quả đầu chính trị và kinh tế mà lâu nay đã xóa sạch lý tưởng của một thế hệ trước? Tầm nhìn nào có khả năng tồn tại lâu dài hơn?


Với tôi, nghiên cứu là một trải nghiệm về không gian và thời gian, một mối liên kết giữa nơi này và chốn kia, giữa quá khứ và tương lai, với chúng ta sống ở hiện tại, cố gắng biến các giấc mơ cũ thành hiện thực. Cội rễ luôn còn đó, nhưng các giấc mơ của ta có thể chết đi. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ giữ cho các giấc mơ đó còn sống mãi – không chỉ những giấc mơ của chính tôi mà cả các giấc mơ của những người khác.


Thảng hoặc, cuốn sách của Rowena He lãng mạn thái quá và chú trọng quá nhiều vào trải nghiệm của các sinh viên để xem đó là tiêu biểu của toàn phong trào đấu tranh này – hàng ngàn người lao động cũng đã tham gia, và hầu như chẳng được nhắc đến. Nhưng tôi thấy cuốn sách này lý giải đầy thuyết phục và rất hay về một trải nghiệm quan trọng trong đời sống Trung Quốc đương đại. Ta không nên quên rằng, vì sự kiện Thiên An Môn, một số trí thức thuộc hàng vĩ đại nhất của Trung Quốc ở cuối thế kỷ hai mươi đã chết ở xứ người. Phương Lệ Chi (Fang Lizhi), Lưu Tân Nhạn (Liu Binyan), và Vương Nhược Vọng (Wang Ruowang) nằm trong số những người nổi tiếng nhất. (Phương Lệ Chi và Lưu Tân Nhạn từng cộng tác với The New York Review).


Về mặt này, phong trào lưu vong của Trung Quốc tương đồng với các cộng đồng lưu vong lớn ở Châu Âu trong thế kỷ 20: người Ba Lan ở London, người Nga ở Paris, sự lẩn tránh và ngờ vực của các sắc dân thiểu số Đông Âu và Xô-viết ở Munich thời chiến tranh lạnh. Họ đôi khi bị chế nhạo và chỉ còn làm phông trong các tiểu thuyết gián điệp, nhưng họ cũng có phẩm giá của mình và thành tựu lớn lao, mặc dù họ hầu như không được biết đến nhiều ở quê hương sau khi Bức màn sắt sụp đổ.


SỐNG ở Trung Quốc ngày nay, người ta nhận ra rằng nhà nhà người người lãng quên và lưu vong là chuyện phổ biến, nhưng cũng phổ biến không kém là ý nghĩ cho rằng các sự kiện Thiên An Môn vẫn còn có ý nghĩa – rằng chúng tiếp tục hiện diện, không chỉ theo nghĩa tiêu cực về việc gây ra trấn áp và kiểm duyệt, mà còn theo nhiều cách tích cực. Tôi được nhắc về các phóng viên của tờ New York Times Nicholas Kristof và Sheryl WuDunn; họ đã đặt nhan đề cho cuốn sách bán chạy trong những năm 1990 của họ về thời kỳ đó là China Wakes (Trung Quốc thức tỉnh). Ngày nay, một cuốn sách như vậy có lẽ sẽ bàn về GDP, sự di cư của nông dân [lên thành thị], và các hàng không mẫu hạm, nhưng các tác giả thiên tài ở chỗ cũng bàn đến Thiên An Môn, không chỉ như là một bối cảnh cho tăng trưởng kinh tế – trong đó lý thuyết cho rằng sự cất cánh kinh tế, về căn bản, là sự đền bù cho trấn áp chính trị – mà còn là một sự thức tỉnh nói chung của người Trung Quốc, cho dù các khía cạnh chính trị của sự thức tỉnh đó đã bị lu mờ trước sự phát triển kinh tế trong một phần tư thế kỷ qua.


Nếu điều này nghe có vẻ ngây thơ, hãy nhớ là gần đúng một thập niên sau Thiên An Môn, mười ngàn người biểu tình lặng lẽ bao vây khu đầu não lãnh đạo Trung Nam Hải của Đảng Cộng sản ở Bắc Kinh, đòi cho Pháp Luân Công được hợp pháp hóa. Phải chăng họ đã không nhận ra thông điệp tàn bạo của chính quyền, hay họ đang ở một mức độ tiềm thức nào đó được khích lệ bởi một ý thức đang gia tăng của dân thường – một ý thức cảm nhận rằng họ cũng có quyền?


Những người biểu tình Pháp Luân Công bị đàn áp dữ dội, trong đó có tra tấn, và hiện nay phần lớn người dân thận trọng hơn về việc kêu gọi thay đổi. Nhưng khi nói chuyện với các trí thức, nhà hoạt động, giáo viên, mục sư, cha xứ, và nhà đấu tranh vì môi trường trong những năm qua, tôi đã nhận thấy rằng hầu như tất cả đều nói rằng Thiên An Môn là một thời điểm hệ trọng trong đời họ, giây phút mà họ thức tỉnh và nhận ra rằng xã hội cần được cải thiện. Ví dụ, không thể nào trùng hợp ngẫu nhiên mà nhiều lãnh tụ Tin Lành quan trọng ở Trung Quốc bàn về Thiên An Môn theo chiều hướng này, hoặc hàng ngàn cựu sinh viên – không phải những lãnh tụ nổi tiếng đang lưu vong hay ở tù, mà là những người tràn ngập các quảng trường và đường phố ở các thành phố Trung Quốc cách đây hai mươi lăm năm – đang lặng lẽ đấu tranh cho các quyền hợp pháp và vận động cho các vấn đề môi trường.


Đúng là nhiều người trong số này đã ít nhất bốn mươi tuổi, và ta có thể có băn khoăn hợp lý, như tác giả Lim, về thế hệ sắp đến, thế hệ mà lý tưởng của họ có thể nghe ấu trĩ hoặc không liên quan. Nhưng những người theo đuổi lý tưởng chỉ chiếm thiểu số trong bất cứ xã hội nào. Thói ngờ vực cay nghiệt và thói chuộng vật chất là rất đáng lo ngại, nhưng chính người Trung Quốc – kể cả giới trẻ – hàng ngày vẫn bàn về sự hiện diện và mối nguy của chúng khi trao đổi trực tiếp với nhau hoặc khi thảo luận trên mạng.


Cũng không kém phần mãnh liệt là nỗi khát khao phổ biến về một điều gì khác – một cuộc tìm kiếm các giá trị và ý nghĩa sâu sắc cho cuộc sống. Có người Trung Quốc tìm được điều này trong sinh hoạt tôn giáo, nên tôn giáo có tổ chức liên tục phát triển mạnh. Nhưng nhiều người cũng tích cực theo những cách khác. Có người đang hồi sinh và tái tạo các truyền thống, hoặc chiêm nghiệm câu hỏi từ ngàn xưa của người Trung Quốc là làm sao để sống không chỉ một kiếp bình thường gồm lao động, kết hôn và tạo dựng gia đình, mà còn là một cuộc đời có đạo đức. Quả là sẽ quá nông cạn nếu ta quy kết mối quan ngại này chỉ là do Thiên An Môn, nhưng một phần của cái động lực nhân văn này chắc chắn có cội nguồn từ lý tưởng vô tận của thời kỳ đó. Có lẽ đây là một cách khác, ít mô phạm hơn để nhìn về Thiên An Môn: xem đó là một sự hy sinh, không chủ tâm và không ai muốn, đã giúp định hình một thời kỳ mới.


Đây chắc chắn là cách nhìn của Rowena He. Sau vụ thảm sát, bà trở lại trường trung học, ngang ngạnh mang băng đen tưởng niệm người đã khuất. Thầy cô buộc bà phải tháo băng đen, và bà đã khóc đầy cay đắng, nghĩ rằng giấc mơ đã chấm dứt:


Khi tôi bị buộc phải tháo băng đen năm 1989, tôi nghĩ rằng mọi việc xem như đã chấm dứt. Các thi thể đã bị nghiền nát, những cuộc đời đã bị hủy hoại, các tiếng nói đã bị dập tắt. Họ có súng, nhà tù, và các cỗ máy tuyên truyền. Chúng tôi chẳng có gì cả. Song, bằng cách nào đó chính vào ngày 4 tháng 6 các hạt giống dân chủ đã được gieo trong tim tôi, và nỗi khát khao tự do và nhân quyền đã ấp ủ. Như vậy hóa ra đó không phải là một sự kết thúc, mà là một sự khởi đầu khác.


 __________


Ảnh 1: Binh lính Trung Quốc quan sát cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn vào tháng 5 năm 1989 trước khi quân đội được lệnh tấn công. (Ảnh: Ken Jarecke/Contact Press Images)


Ảnh 2: Dựng tượng Nữ thần Dân chủ, Quảng trường Thiên An Môn, tháng 5 năm 1989 (Ảnh: Alon Reininger/Contact Press Images)


Nguồn: Ian Johnson, The Ghosts of Tiananmen Square, The New York Review of Books, số ra ngày 5/6/2014


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra




[i] Số thành phố có biểu tình được nêu rõ trong một triển lãm sau vụ thảm sát ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự ở Bắc Kinh và được James Miles trích dẫn trong The Legacy of Tiananmen: China in Disarray [Di sản của Thiên An Môn: Trung Quốc hỗn loạn] (University of Michigan Press, 1996).




[ii] Độc giả cũng nên lưu ý tác phẩm của Ngô Nhân Hoa, một người tham gia biểu tình ở Thiên An Môn và tác giả của hai tác phẩm bằng tiếng Hoa, cùng với một cuốn sách sắp xuất bản của Jeremy Brown thuộc Đại học Simon Fraser. Cảm ơn Perry Link đã nhắc đến các tác phẩm này.




[iii] Được Jonathan Mirsky điểm trên tạp chí The New York Review of Books, ngày 2/7/2009.




[iv] Stanford University Press, 1998, trang 218. Cuốn sách này được xuất bản lần đầu vào năm 1992. Ấn bản năm 1998 có thêm lời bạt, và câu này được trích dẫn từ đó.




[v] For a Song and a Hundred Songs: A Poet’s Journey Through a Chinese Prison (Vì một bài hát và một trăm bài hát: Hành trình của một nhà thơ qua một nhà tù Trung Quốc), nhà xuất bản Houghton Mifflin Harcourt, năm 2013, được Perry Link điểm trên tạp chí The New York Review of Books ngày 24/10/2013. [Chú thích của người dịch: độc giả có thể đọc một bài khác của Ian Buruma điểm cuốn sách này trên tạp chí The New Yorker ngày 1/7/2013; xem bản dịch tiếng Việt Ngục tù của trí tuệ.]




[vi] Độc giả có thể đọc một phiên bản của lời giới thiệu do Perry Link viết cho cuốn sách này đăng trên NYRblog ngày 31/3/2014 với nhan đề China After Tiananmen: Money, Yes; Ideas, No (Trung Quốc sau Thiên An Môn: tiền thì được, tư tưởng thì cấm). [Chú thích của người dịch: một phiên bản khác dài hơn của cùng tác giả Perry Link có nhan đề “The Specter of June Fourth” đăng trên trang China File ngày 20/4/2014; xem bản dịch tiếng Việt Bóng ma Lục Tứ.]

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 02, 2014 11:42

Những hồn ma Thiên An Môn

Ian Johnson


Phạm Vũ Lửa Hạ dịch


Trong bài viết sau đây, ký giả Ian Johnson điểm hai cuốn sách mới về Thiên An Môn: Cộng hòa Nhân dân Lãng quên: Nhìn lại Thiên An Môn (The People’s Republic of Amnesia: Tiananmen Revisited) của Louisa Lim, do Oxford University Press xuất bản, và Những người lưu vong Thiên An Môn: Những tiếng nói của cuộc đấu tranh đòi dân chủ ở Trung Quốc (Tiananmen Exiles: Voices of the Struggle for Democracy in China) của Rowena He [Hà Tiểu Thanh] do Palgrave Macmillan xuất bản. Ian Johnson là phóng viên đóng tại Bắc Kinh của tờ The New York Times. Ông đã giành giải Pulitzer Prize cho tin bài về Trung Quốc, và đang viết một cuốn sách về việc Trung Quốc đi tìm các giá trị.


_____________


Mỗi độ xuân về, một người bạn lớn tuổi của tôi tên là Từ Giác đến nghĩa trang Bát Bảo Sơn ở ngoại ô mạn tây Bắc Kinh để đặt hoa trên mộ của chồng và con quá cố. Bà luôn sắp xếp đi viếng vào ngày 5 tháng 4, nhằm lễ Thanh Minh. Lịch cổ truyền Trung Hoa có ba ngày lễ để tưởng niệm người chết, trong đó quan trọng nhất là Thanh Minh – quan trọng đến nỗi vào năm 2008, sau mấy chục năm cố gắng cấm đoán các tập quán tôn giáo truyền thống, chính quyền đã công bố đó là ngày lễ toàn quốc và cho người dân được nghỉ một ngày để làm tròn bổn phận của mình. Ngày nay các quan chức Đảng Cộng sản cũng tham gia; gần như năm nào cũng vậy, truyền hình quốc gia chiếu cảnh họ viếng thăm đài tưởng niệm các liệt sĩ cộng sản hay cúng bái Hoàng Đế, theo thần thoại là vị vua sáng lập của dân tộc Trung Hoa, tại một lăng mộ hùng vĩ trên sông Hoàng Hà.


Nhưng tưởng nhớ có thể đặt ra những câu hỏi khó chịu. Vài ngày trước cuộc viếng mộ dự kiến của Từ Giác, hai công an đến nhà bà và cho biết họ sẽ có một ân huệ đặc biệt dành cho bà. Họ sẽ đích thân hộ tống bà đến nghĩa trang và giúp bà quét dọn hai ngôi mộ và đặt hoa. Họ đặt điều kiện là sẽ không đi vào ngày 5 tháng 4 dễ bị xúc động. Thay vì thế, họ sẽ đi sớm vài ngày. Bà biết mình không có lựa chọn nào khác nên đành chấp nhận. Năm nào họ cũng tạo ra cảnh tượng lạ: một bà lão đến bằng ô tô đen với bốn công an mặc thường phục, theo bà đến ngôi mộ của hai người thân đã ra đi của bà.


Con trai của Từ Giác bị lính bắn chết. Chỉ vài tuần sau, tóc chồng bà bạc trắng. Năm năm sau, ông qua đời. Khí tử liễu, bà giải thích: uất ức đến chết. Trên bia mộ của chồng có khắc một bài thơ lý giải nguyên nhân giết chết hai người:


Xin dâng một bó hoa tươi

Tám cánh loa kèn

Chín đóa cúc vàng

Sáu bông tulip trắng

Bốn nụ hồng đỏ

Tám-chín-sáu-bốn: ngày 4 tháng 6 năm 1989


Đó là cái ngày mà Đảng Cộng sản xưa nay cố gắng hết sức để xóa khỏi ký ức người dân. Vào đêm ngày 3 rạng ngày 4 tháng 6, lãnh tụ tối cao của Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình, và một nhóm lãnh đạo cao cấp phát lệnh cho Quân đội Giải phóng Nhân dân đàn áp Bắc Kinh. Với mục đích bề ngoài là giải tán sinh viên biểu tình khỏi Quảng trường Thiên An Môn, đó thực ra là một cuộc phô trương vũ lực đẫm máu, một lời cảnh báo rằng chính quyền sẽ không chấp nhận việc công khai phản đối sự cai trị của họ. Đến thời điểm đó, các cuộc biểu tình đã lan đến hơn tám mươi thành phố trên khắp Trung Quốc, với hàng ngàn người biểu tình kêu gọi có một hình thức chế độ chính trị cởi mở hơn, dân chủ giúp chấm dứt nạn tham nhũng, đặc quyền, và sự tàn bạo của chế độ cai trị cộng sản.[i] Cuộc thảm sát ở Bắc Kinh và bạo lực do chính quyền chỉ đạo ở nhiều thành phố khác cũng là lời nhắc nhở rằng quyền lực của Đảng Cộng sản xuất phát từ nòng súng. Trong những thập niên tiếp theo nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ đáng kể, giúp hàng trăm triệu người thực sự giàu lên và có cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng đằng sau đó là một lời răn đe, một thông điệp nhắn nhủ rằng chính quyền sẵn sàng tàn sát một số bộ phận dân chúng nếu họ cư xử không phải phép.


Khi tôi trở lại Trung Quốc làm báo vào đầu những năm 1990, các sự kiện Thiên An Môn đã trở thành một tấn tuồng được trình diễn vào mỗi mùa xuân. Cứ đến gần ngày đó, những người bất đồng trên khắp Trung Quốc sẽ bị triệu tập, an ninh ở Bắc Kinh tăng gấp đôi, kiểm duyệt được siết chặt. Đó là một trong nhiều ngày nhạy cảm trong lịch cộng sản, những ngày ngầm cấm kỵ phản ánh nỗi sợ chủ yếu của bộ máy điều hành đất nước. Cứ như thể ngày 4 tháng 6, hay lục tứ trong tiếng Hoa, đã trở thành một ngày Thanh Minh mới, một ngày mà chính quyền xấu hổ khi phải thừa nhận là nó tồn tại. Hiện nay những vụ bắt bớ trong tháng 5 và tháng 6 đã bớt đi nhưng vẫn là một phần trong đời sống thường nhật của hàng trăm người trên khắp Trung Quốc, chẳng hạn như Từ Giác, mẹ của một nạn nhân Thiên An Môn.


Còn lại gì? Tác giả Christa Wolf dùng cụm từ này làm nhan đề cho một truyện vừa có bối cảnh ở Đông Berlin vào cuối thập niên 1970. Một phụ nữ nhận thấy mình bị theo dõi và cố gắng khắc ghi một ngày trong đời mình vào ký ức để bà có thể nhớ lại vào một thời điểm nào đó trong tương lai khi mọi việc được bàn luận tự do hơn. Đó là câu chuyện về sự uy hiếp và nỗi khát khao bị đè nén. Đây có phải là cách thích hợp để nghĩ về Thiên An Môn, xem nó như một hồi kịch đóng băng trong thời gian, chờ đến lúc được công nhận thực sự và có kết cục trong một tương lai mơ hồ nào đó?


HAI cuốn sách mới tìm hiểu các sự kiện Thiên An Môn từ góc nhìn này. Một cuốn có bối cảnh ở Trung Quốc và bàn về việc kiềm chế ký ức; cuốn kia có bối cảnh ở nước ngoài và bàn về việc gìn giữ ký ức. Cả hai cuốn đồng ý rằng ngày 4 tháng 6 là một thời điểm trọng đại trong lịch sử Trung Quốc đương đại, một bước ngoặt làm chấm dứt lý tưởng và sự thử nghiệm của thập niên 1980, và đưa đến một Trung Quốc siêu tư bản chủ nghĩa và siêu nhạy cảm của thời nay.


Cả hai cuốn sách không nhận là kể lại tường tận vụ thảm sát đó, hay những sự kiện dẫn đến vụ thảm sát. Câu chuyện lịch sử đó được kể lại trong cuốn Dẹp yên nhân dân: chuyện quân đội đàn áp phong trào dân chủ Bắc Kinh (Quelling the People: The Military Suppression of the Beijing Democracy Movement) của Timothy Brook, một sử gia được đào tạo kinh viện biết sử dụng khả năng phân tích và truy tìm dữ kiện để tìm hiểu vụ thảm sát này.[ii] Tuy cuốn sách của Brook không dẫn một số tác phẩm quan trọng xuất bản trong những năm 2000 (đặc biệt là hồi ký của tổng bí thư thời đó Triệu Tử Dương[iii] và tuyển tập những tài liệu [nhà nước] bị rò rỉ gọi là Hồ sơ Thiên An Môn [The Tiananmen Papers]), Dẹp yên nhân dân vẫn là cuốn sách sử hay nhất kể về những sự kiện ở Bắc Kinh. Lời kết của ông tóm  tắt phần lớn những gì được viết về sau:


Những sự kiện ban đầu ngày càng chìm sâu vào trạng thái quên lãng mà trong đó nhiều người, cả ngoại quốc lẫn Trung Quốc, muốn thấy chúng biến mất, khi một mối quan hệ mới và có lợi hơn với nền kinh tế thế giới bắt buộc thế hệ kế tiếp tránh lo ngại về nhân quyền. [iv]


Hai cuốn sách mới lấy bối cảnh thời kỳ hậu Thiên An Môn, tìm hiểu xem sự kiện Thiên An Môn đã góp phần định hình xã hội Trung Quốc ra sao, và có ảnh hưởng ra sao đối với một số nhân vật chủ yếu từng tham gia sự kiện đó và nay đang sống lưu vong.


Cuốn Cộng hòa Nhân dân Lãng quên: Nhìn lại Thiên An Môn của Louisa Lim có nhan đề tuyệt vời, cho thấy phần lớn những gì chúng ta xem là đương nhiên ở Trung Quốc ngày nay là do những nỗ lực quên hoặc vượt qua vụ thảm sát đó. Cuốn sách này là một loạt chân dung những người từng tham gia ở Thiên An Môn hoặc chịu ảnh hưởng của nó, trong đó có một số đã xuất hiện trong chương trình chuyên đề của Đài Phát thanh Quốc gia Mỹ (NPR) – tác giả làm phóng viên của NPR ở Bắc Kinh trong nhiều năm. Cấu trúc kể chuyện riêng rẽ của sách có một số nhược điểm, chủ yếu là ở đầu sách thiếu một phần kiến thức nền tảng hoàn chỉnh về vụ thảm sát – những diễn biến dẫn đến sự kiện, diễn ra như thế nào và tại sao.


Nhưng Lim mở đầu bằng một chương hữu ích tên là “Người lính”, mô tả cơ chế của vụ giết chóc, theo lời kể của một anh lính quèn thuộc đơn vị trong Quân đội Giải phóng Nhân dân được lệnh giải tán quảng trường. Ai cũng đã biết rằng quân đội không giải tán được quảng trường, trước tiên tập trung binh lính ở ngoại ô, rồi chỉ cố gắng nửa vời để tiến vào Bắc Kinh trong nhiều ngày liên tiếp khi các đám đông quần chúng nài nỉ và chọc ghẹo những người lính trẻ, bảo họ đừng nghe theo lời tuyên truyền của các chính ủy và quay lại doanh trại của họ. Cuối cùng, khi binh lính nhận được lệnh dứt khoát để ra tay, họ gây thương vong khủng khiếp cho dân thường, những thương vong mà ta có thể lý giải – tùy theo quan điểm của mỗi người – là do binh lính được huấn luyện kém, các thủ đoạn thô bạo của cấp trên, hoặc là một nỗ lực có chủ đích để bình định bằng khủng bố.


Lim phả hơi thở sinh động vào những kết luận tổng quát này thông qua nhân vật của mình, một thanh niên u mê, bị tẩy não thuộc một đơn vị bị lén lút đưa vào thành phố trên những phương tiện giao thông giả trang trông như xe buýt công cộng, trong khi các đơn vị khác đi bằng tàu điện ngầm. Đó là cách duy nhất để đơn vị của anh vượt qua được các chiến lũy dân sự và để nhanh chóng tuồn binh lính và vũ khí vào Đại Lễ đường Nhân dân, một trong những tòa nhà chính yếu trên quảng trường mà họ dùng làm nơi triển khai cuộc tấn công. Trong những ngày sau vụ thảm sát, chúng ta biết có chuyện còn đáng ngạc nhiên hơn – dân thường bắt đầu nhanh chóng đứng chung phía với binh lính, ít nhất là ở nơi công khai:


Anh không tin là sự trở mặt này xuất phát từ nỗi sợ, mà do ước nguyện sâu xa – thậm chí là điều cần thiết – muốn đứng chung phía với những người chiến thắng, bất luận tổn hại đến đâu: “Đó là một cơ chế tồn vong mà người dân ở Trung Quốc đã dần dần học được nhờ sống lâu dưới chế độ này. Để tồn tại, tất tần tật đều là tuân thủ thượng lệnh.”


Cuốn sách tiếp tục với những chương khác xây dựng xung quanh chân dung của nhiều nhân vật khác nhau. Chúng ta gặp một lãnh tụ sinh viên về sau thành một doanh nhân, một sinh viên đương đại tò mò nhưng cẩn trọng về quá khứ, một quan chức có đầu óc cải cách luôn bị chính quyền theo dõi, một lãnh tụ sinh viên sống lưu vong, người mẹ của một sinh viên đã chết, và một thanh niên có đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Mỗi nhân vật giúp Lim đưa ra các nhận định tổng quát hơn về việc chuyện lãng quên tổn hại ra sao đối với một người, và đối với một xã hội.


Trong chương về vị cựu quan chức, Bào Đồng (Bao Tong), Lim cũng sử dụng các hồi ký mới xuất bản để chất vấn các luận điểm chủ yếu về cách chúng ta hiểu các mưu toan chính trị nội bộ đã dẫn đến cuộc thảm sát. Cho đến nay, phần lớn các nhà quan sát giả định rằng sinh viên đã gây ra sự chia rẽ trong giới lãnh đạo, với Đặng Tiểu Bình đứng về phe cứng rắn chống lại Triệu Tử Dương, tổng bí thư có chủ trương cải cách và có phần thông cảm với sinh viên. Đây cũng là quan điểm của Bào Đồng cho đến khi ông đọc hồi ký của thủ tướng thời đó Lý Bằng, vốn cũng là một người có đường lối cứng rắn. Lý Bằng cho rằng từ trước đó khá lâu Đặng Tiểu Bình đã phật ý với các khuynh hướng tự do của Triệu Tử Dương. Khó mà biết được liệu cách lý giải này có đúng hay không, nhưng Lim đúng khi nhấn mạnh điều này, cho thấy ngay từ đầu Triệu Tử Dương đã sa cơ thất thế ra sao:


“Điều này chẳng liên quan gì đến sinh viên,” Bào Đồng nói với tôi. Ông tin rằng Đặng đã dùng sinh viên làm công cụ để phế truất người được chỉ định kế nhiệm ông. “Ông ta phải tìm ra được một lý do. Sinh viên càng đấu tranh mạnh mẽ, Đặng Tiểu Bình càng có lý do. Nếu sinh viên đều về nhà, Đặng Tiểu Bình chẳng có lý do gì.”


Điều này đặt ra câu hỏi được bàn luận nhiều trong một phần tư thế kỷ qua là liệu sinh viên có thể tránh bị thảm sát hay không nếu họ đã giải tán vài ngày trước khi hành động quân sự có vẻ trở thành tất yếu. Tuy nhiên, khi xem lại tư liệu, ta có cảm nhận rằng không chỉ sự thất sủng của Triệu Tử Dương mà cả vụ thảm sát cũng gần như là điều tất yếu. Đặng Tiểu Bình trước đó đã luôn phản đối bất cứ sự bất đồng chính trị nào và ông dường như quyết tâm dứt khoát phát đi một thông điệp rằng sự chống đối công khai sẽ không được dung thứ.


TUY nhiên, mối quan tâm lớn hơn của Lim là sự kiện Thiên An Môn có ý nghĩa ra sao trong xã hội ngày nay. Bà nhiều lần chứng minh rằng những người dưới bốn mươi tuổi biết rất ít về Thiên An Môn. Trong một chương, người sinh viên từng hoạt động nay thành doanh nhân thấy chẳng nghĩa lý gì đem chuyện Thiên An Môn nói với cô vợ trẻ của mình. “Lý do họ không thích nói về năm 1989 không phải là vì đó là một chủ đề nhạy cảm chính trị hoặc nó khiến họ thấy khó chịu. Chỉ đơn giản là nó chẳng nghĩa lý gì với họ.”


Điểm này được thể hiện mạnh hơn trong một chương về một sinh viên Trung Quốc đại lục mà Lim gặp tại một cuộc triển lãm về vụ thảm sát này ở Hong Kong (ở đó một bảo tàng chuyên về Thiên An Môn vừa mở cửa). Bà thấy chàng trai này, tên là “Feel” vì anh có “cảm nhận đặc biệt” về tiếng Anh, rất tất bật và háo hức muốn biết nhiều hơn. Nhưng về sau khi bà đến thăm anh tại trường ở Trung Quốc, anh trầm ngâm và cẩn thận, biết càng ít càng tốt về chuyện đã xảy ra và tuân theo các chuẩn mực xã hội yêu cầu phải phớt lờ chuyện đó. Lim giải thích sự nói dối và ngờ vực phổ biến trong giới trẻ bằng cách trích dẫn một phát biểu của người đoạt giải Nobel Hòa bình Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo) nói rằng Trung Quốc đã bước vào một thời đại “trong đó người ta chẳng còn tin vào bất cứ điều gì và trong đó lời nói của họ không đi đôi với hành động, vì họ nói điều này nhưng lại có nghĩa khác.”


Một trong những điểm quan trọng nhất của Lim là Thiên An Môn khiến bạo lực trở thành điều có thể chấp nhận trong thời kỳ cải cách hiện nay. Sau bạo lực của thời kỳ Mao Trạch Đông, người ta đã hy vọng rằng các bất đồng xã hội sẽ không được giải quyết bằng vũ lực – rằng sẽ không còn Hồng Vệ binh lục soát nhà để lùng bắt các kẻ thù có thật cũng như tưởng tượng, hay sử dụng đại trà các trại lao động. Và tuy nhiều loại bạo lực trong những hình thức bạo lực tàn khốc này đã được hạn chế, Đảng thường xuyên dùng vũ lực chống lại những người phản đối mình, khám xét và giam giữ một cách phi pháp những người chỉ trích. Biểu tình chưa chấm dứt. Dù nhà nước liên tục nói về sự hài hòa xã hội và chi tiêu nhiều cho “việc duy trì ổn định” hơn cho các lực lượng vũ trang, Trung Quốc còn đầy rẫy hàng chục ngàn cuộc biểu tình quy mô nhỏ mỗi năm, “các tiểu Thiên An Môn” như lời của Bào Đồng nói với bà. Có khi là biểu tình vô thưởng vô phạt của người lao động về hưu đòi lương hưu, nhưng có khi là biểu tình của những người cố giữ không để nhà của mình bị cướp đi, và họ bị trừng phạt bằng các cuộc tấn công bạo lực của bọn côn đồ nhà nước hoặc bằng các màn hạ sát phi pháp của bọn công an trật tự đô thị thành quản [cách gọi tắt của Sở Quản lý Hành chính và Chấp pháp Thành thị, N.D.]


Lim kể chuyện sinh động và rõ ràng. Bà nhanh nhẹn chuyển đổi qua lại giữa chuyện kể của các nhân vật và các chiêm nghiệm tổng quát, điểm xuyết cả hai bằng các tình tiết ngắn, cay nghiệt, ví như chuyện một nghệ sĩ cắt đứt một phần ngón tay để phản đối vụ thảm sát, nhưng nay thấy ông không thể giải thích lý do với đứa con trai mười hai tuổi. Rõ ràng Lim đã suy nghĩ và quan tâm rất nhiều về sự kiện Thiên An Môn, và bà chấp nhận rủi ro lớn khi viết cuốn sách này; nếu ta lấy lịch sử làm căn cứ, cuốn sách này có thể khiến bà khó trở lại Trung Quốc, ở đó chính quyền có danh sách đen gồm những học giả và ký giả có tác phẩm đụng đến các chủ đề nhạy cảm. Bởi vậy cuốn sách của bà đầy can đảm, nghiên cứu một trong những vết thương đau đớn nhất của Đảng Cộng sản.


Chương cuối của Lim là một trong những chương đáng đọc nhất, nhưng cũng cho thấy một số trở ngại của cuốn sách này. Thay vì phác họa chân dung một nhân vật, bà kể lại vụ đàn áp người biểu tình ở Thành Đô, một thành phố lớn ở miền tây nam và là trung tâm tri thức quan trọng thứ nhì của Trung Quốc. Lim đào xới các công điện của Bộ Ngoại giao Mỹ và qua phỏng vấn nghe các nhân chứng kể về sự đàn áp hết sức bạo lực các cuộc biểu tình ở đó. Đây là một chương đọc đến sợ, viết đầy cao hứng.


Tuy nhiên, đôi khi Lim hơi gấp gáp khi mô tả các phát hiện mới mẻ của mình. Các tác giả khác đã đưa ra luận điểm tổng quát cho rằng điều đã xảy ra vào năm 1989 là một phong trào trên toàn quốc, nhất là trong cuốn The Pro-Democracy Protests in China: Reports from the Provinces (Biểu tình đòi dân chủ ở Trung Quốc: Tường thuật từ các tỉnh, xuất bản năm 1991), do Jonathan Unger chủ biên. Về các sự kiện ở Thành Đô, các tác giả đã bàn về chúng, nhất là nhà văn Liệu Diệc Vũ.[v] Lim đáng được khen vì đã kể lại các sự kiện dưới một hình thức hoàn chỉnh hơn, và vì đã tìm ra rất nhiều thông tin mới. Nhưng việc người ngoài cuộc thường xem sự kiện ngày 4 tháng 6 chỉ là chuyện ở Bắc Kinh chủ yếu phản ánh sự thật là các sự kiện trên toàn quốc năm 1989 vẫn chưa được đề cập trọn vẹn trong một cuốn sách. Có lẽ điều này cho thấy nhiều về sự thiển cận và tủn mủn của các nghiên cứu học thuật hiện đại hơn là về chủ đề chính “sự lãng quên” của Lim.


ROWENA He [Hà Tiểu Thanh] cũng đưa bức tranh vượt ra khỏi ranh giới Bắc Kinh trong câu chuyện cảm động và rất riêng tư về cuộc đời của một người di cư chính trị, Những người lưu vong Thiên An Môn: Những tiếng nói của cuộc đấu tranh đòi dân chủ ở Trung Quốc.[vi] Nay là một giảng viên dạy một môn học nổi tiếng về Thiên An Môn cấp đại học tại Harvard, Hà Tiểu Thanh chỉ mới là học sinh trung học trong đợt biểu tình năm đó. Song bà vẫn hăng hái tham gia các cuộc biểu tình ở Quảng Châu, quê của bà tại miền nam Trung Quốc, bà xuống đường dù cha mẹ cảm thấy bất an. Sau khi các cuộc biểu tình bị dẹp tan ở đó, bà ngoan ngoãn học thuộc lòng luận điệu tuyên truyền của chính quyền để có thể thi đỗ đại học, tốt nghiệp, và cuối cùng kiếm được một việc làm tốt trong thời kỳ kinh tế Trung Quốc bắt đầu bùng nổ.


Tuy nhiên, trong thâm tâm bà không thể quên được các cuộc biểu tình. Rốt cuộc, bà khiến gia đình và bạn bè ngạc nhiên khi nghỉ việc để sang Canada học cao học. Bà chọn chuyên ngành giáo dục với suy nghĩ rằng giáo dục có ý nghĩa quan trọng để tránh một sự kiện Thiên An Môn khác. Bà cũng bắt đầu kể chuyện lịch sử về cuộc nổi dậy này.


Cuốn sách của bà được viết theo truyền thống nghiên cứu tự sự học thuật đương đại, qua đó bà kể chuyện của chính mình theo cách giúp nhấn mạnh quan điểm của mình. Chúng ta biết về quãng đời bà lớn lên trong Cách mạng Văn hóa, những khó khăn gia đình bà gặp phải, và chuyện lý tưởng của cha bà đã bị đập tan ra sao trong thời Mao Trạch Đông. Bà theo mẹ rong ruổi với một gánh hát, và đi đi lại lại giữa thành thị và nông thôn trong khi cha mẹ bà phải chật vật thích nghi với những chiều hướng chính trị của thời kỳ đó. Tất cả những chi tiết này giúp chúng ta hiểu cảm giác bị mắc bẫy mà thế hệ Thiên An Môn cảm nhận khi lớn lên trong thời Mao Trạch Đông, và nỗi khát khao xuất phát từ cảm giác đó được thoát ra và đi theo phong trào năm 1989.


Chuyện của chính tác giả được cân đối bằng ba câu chuyện khác của các nhân vật nổi tiếng tham gia biểu tình: các lãnh tụ sinh viên Dịch Đan Hiên (Yi Danxuan), Thẩm Đồng (Shen Tong), và Vương Đan (Wang Dan). Những lời hỏi đáp của bà được điểm xuyết bằng các phần mở ngoặc chú thích các câu trả lời, những lúc im lặng, và tâm trạng của những người nói chuyện với bà.


Dù chuyện của Thẩm Đồng và Vương Đan đã được khá nhiều người biết, những câu hỏi thăm dò nhẹ nhàng và các hiểu biết sâu sắc về tâm lý giúp chúng ta hiểu cái lý tưởng đôi khi vị kỷ của những nhân vật này, những người lao mình vào phong trào sinh viên mặc cho cha mẹ nài nỉ đừng tham gia. Như Dịch Đan Hiên kể với tác giả:


Bạn bè và tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng chính quyền sẽ ra lệnh cho quân đội nổ súng dù ngay từ đầu cha tôi đã nói là sẽ có chuyện đó. Đúng là chúng tôi chẳng hiểu rõ bản chất của chế độ này.


Những nhân vật trong sách của Rowena He có thể được xem là những kẻ thất bại. Thua cuộc, họ buộc phải sống ở nước ngoài, nơi họ luôn ở trong tâm trạng ngờ vực và bất an – cũng chẳng đáng ngạc nhiên nếu biết rằng chính quyền tiếp tục tìm cách lẻn vào máy vi tính của họ và theo dõi nhất cử nhất động của họ. Cho dù họ đã tạo dựng cuộc sống có ích cho chính mình trong môi trường kinh doanh hay học thuật, theo cách viết của tác giả,


xét về nhiều mặt Thiên An Môn là một bi kịch vẫn tiếp diễn vì các nạn nhân không còn được xem là nạn nhân, còn bọn thủ ác không còn được xem là kẻ thủ ác. Thay vì thế, kẻ thủ ác đã trở thành người thắng cuộc trong bối cảnh một “Trung Quốc vươn lên”.


Nhưng Rowena He có những mối quan tâm sâu xa hơn là chỉ tính ai thắng ai bại. Thay vì thế, bà cố hình dung chuyện gì xảy ra khi điều ta yêu quý bị tiêu diệt. Nó có thật sự chết đi hay vẫn sống dưới những dạng khác? Phải chăng ký ức của những người lưu vong không giá trị bằng hiện thực của một chế độ quả đầu chính trị và kinh tế mà lâu nay đã xóa sạch lý tưởng của một thế hệ trước? Tầm nhìn nào có khả năng tồn tại lâu dài hơn?


Với tôi, nghiên cứu là một trải nghiệm về không gian và thời gian, một mối liên kết giữa nơi này và chốn kia, giữa quá khứ và tương lai, với chúng ta sống ở hiện tại, cố gắng biến các giấc mơ cũ thành hiện thực. Cội rễ luôn còn đó, nhưng các giấc mơ của ta có thể chết đi. Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ giữ cho các giấc mơ đó còn sống mãi – không chỉ những giấc mơ của chính tôi mà cả các giấc mơ của những người khác.


Thảng hoặc, cuốn sách của Rowena He lãng mạn thái quá và chú trọng quá nhiều vào trải nghiệm của các sinh viên để xem đó là tiêu biểu của toàn phong trào đấu tranh này – hàng ngàn người lao động cũng đã tham gia, và hầu như chẳng được nhắc đến. Nhưng tôi thấy cuốn sách này lý giải đầy thuyết phục và rất hay về một trải nghiệm quan trọng trong đời sống Trung Quốc đương đại. Ta không nên quên rằng, vì sự kiện Thiên An Môn, một số trí thức thuộc hàng vĩ đại nhất của Trung Quốc ở cuối thế kỷ hai mươi đã chết ở xứ người. Phương Lệ Chi (Fang Lizhi), Lưu Tân Nhạn (Liu Binyan), và Vương Nhược Vọng (Wang Ruowang) nằm trong số những người nổi tiếng nhất. (Phương Lệ Chi và Lưu Tân Nhạn từng cộng tác với The New York Review).


Về mặt này, phong trào lưu vong của Trung Quốc tương đồng với các cộng đồng lưu vong lớn ở Châu Âu trong thế kỷ 20: người Ba Lan ở London, người Nga ở Paris, sự lẩn tránh và ngờ vực của các sắc dân thiểu số Đông Âu và Xô-viết ở Munich thời chiến tranh lạnh. Họ đôi khi bị chế nhạo và chỉ còn làm phông trong các tiểu thuyết gián điệp, nhưng họ cũng có phẩm giá của mình và thành tựu lớn lao, mặc dù họ hầu như không được biết đến nhiều ở quê hương sau khi Bức màn sắt sụp đổ.


SỐNG ở Trung Quốc ngày nay, người ta nhận ra rằng nhà nhà người người lãng quên và lưu vong là chuyện phổ biến, nhưng cũng phổ biến không kém là ý nghĩ cho rằng các sự kiện Thiên An Môn vẫn còn có ý nghĩa – rằng chúng tiếp tục hiện diện, không chỉ theo nghĩa tiêu cực về việc gây ra trấn áp và kiểm duyệt, mà còn theo nhiều cách tích cực. Tôi được nhắc về các phóng viên của tờ New York Times Nicholas Kristof và Sheryl WuDunn; họ đã đặt nhan đề cho cuốn sách bán chạy trong những năm 1990 của họ về thời kỳ đó là China Wakes (Trung Quốc thức tỉnh). Ngày nay, một cuốn sách như vậy có lẽ sẽ bàn về GDP, sự di cư của nông dân [lên thành thị], và các hàng không mẫu hạm, nhưng các tác giả thiên tài ở chỗ cũng bàn đến Thiên An Môn, không chỉ như là một bối cảnh cho tăng trưởng kinh tế – trong đó lý thuyết cho rằng sự cất cánh kinh tế, về căn bản, là sự đền bù cho trấn áp chính trị – mà còn là một sự thức tỉnh nói chung của người Trung Quốc, cho dù các khía cạnh chính trị của sự thức tỉnh đó đã bị lu mờ trước sự phát triển kinh tế trong một phần tư thế kỷ qua.


Nếu điều này nghe có vẻ ngây thơ, hãy nhớ là gần đúng một thập niên sau Thiên An Môn, mười ngàn người biểu tình lặng lẽ bao vây khu đầu não lãnh đạo Trung Nam Hải của Đảng Cộng sản ở Bắc Kinh, đòi cho Pháp Luân Công được hợp pháp hóa. Phải chăng họ đã không nhận ra thông điệp tàn bạo của chính quyền, hay họ đang ở một mức độ tiềm thức nào đó được khích lệ bởi một ý thức đang gia tăng của dân thường – một ý thức cảm nhận rằng họ cũng có quyền?


Những người biểu tình Pháp Luân Công bị đàn áp dữ dội, trong đó có tra tấn, và hiện nay phần lớn người dân thận trọng hơn về việc kêu gọi thay đổi. Nhưng khi nói chuyện với các trí thức, nhà hoạt động, giáo viên, mục sư, cha xứ, và nhà đấu tranh vì môi trường trong những năm qua, tôi đã nhận thấy rằng hầu như tất cả đều nói rằng Thiên An Môn là một thời điểm hệ trọng trong đời họ, giây phút mà họ thức tỉnh và nhận ra rằng xã hội cần được cải thiện. Ví dụ, không thể nào trùng hợp ngẫu nhiên mà nhiều lãnh tụ Tin Lành quan trọng ở Trung Quốc bàn về Thiên An Môn theo chiều hướng này, hoặc hàng ngàn cựu sinh viên – không phải những lãnh tụ nổi tiếng đang lưu vong hay ở tù, mà là những người tràn ngập các quảng trường và đường phố ở các thành phố Trung Quốc cách đây hai mươi lăm năm – đang lặng lẽ đấu tranh cho các quyền hợp pháp và vận động cho các vấn đề môi trường.


Đúng là nhiều người trong số này đã ít nhất bốn mươi tuổi, và ta có thể có băn khoăn hợp lý, như tác giả Lim, về thế hệ sắp đến, thế hệ mà lý tưởng của họ có thể nghe ấu trĩ hoặc không liên quan. Nhưng những người theo đuổi lý tưởng chỉ chiếm thiểu số trong bất cứ xã hội nào. Thói ngờ vực cay nghiệt và thói chuộng vật chất là rất đáng lo ngại, nhưng chính người Trung Quốc – kể cả giới trẻ – hàng ngày vẫn bàn về sự hiện diện và mối nguy của chúng khi trao đổi trực tiếp với nhau hoặc khi thảo luận trên mạng.


Cũng không kém phần mãnh liệt là nỗi khát khao phổ biến về một điều gì khác – một cuộc tìm kiếm các giá trị và ý nghĩa sâu sắc cho cuộc sống. Có người Trung Quốc tìm được điều này trong sinh hoạt tôn giáo, nên tôn giáo có tổ chức liên tục phát triển mạnh. Nhưng nhiều người cũng tích cực theo những cách khác. Có người đang hồi sinh và tái tạo các truyền thống, hoặc chiêm nghiệm câu hỏi từ ngàn xưa của người Trung Quốc là làm sao để sống không chỉ một kiếp bình thường gồm lao động, kết hôn và tạo dựng gia đình, mà còn là một cuộc đời có đạo đức. Quả là sẽ quá nông cạn nếu ta quy kết mối quan ngại này chỉ là do Thiên An Môn, nhưng một phần của cái động lực nhân văn này chắc chắn có cội nguồn từ lý tưởng vô tận của thời kỳ đó. Có lẽ đây là một cách khác, ít mô phạm hơn để nhìn về Thiên An Môn: xem đó là một sự hy sinh, không chủ tâm và không ai muốn, đã giúp định hình một thời kỳ mới.


Đây chắc chắn là cách nhìn của Rowena He. Sau vụ thảm sát, bà trở lại trường trung học, ngang ngạnh mang băng đen tưởng niệm người đã khuất. Thầy cô buộc bà phải tháo băng đen, và bà đã khóc đầy cay đắng, nghĩ rằng giấc mơ đã chấm dứt:


Khi tôi bị buộc phải tháo băng đen năm 1989, tôi nghĩ rằng mọi việc xem như đã chấm dứt. Các thi thể đã bị nghiền nát, những cuộc đời đã bị hủy hoại, các tiếng nói đã bị dập tắt. Họ có súng, nhà tù, và các cỗ máy tuyên truyền. Chúng tôi chẳng có gì cả. Song, bằng cách nào đó chính vào ngày 4 tháng 6 các hạt giống dân chủ đã được gieo trong tim tôi, và nỗi khát khao tự do và nhân quyền đã ấp ủ. Như vậy hóa ra đó không phải là một sự kết thúc, mà là một sự khởi đầu khác.


 __________


Ảnh 1: Binh lính Trung Quốc quan sát cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn vào tháng 5 năm 1989 trước khi quân đội được lệnh tấn công. (Ảnh: Ken Jarecke/Contact Press Images)


Ảnh 2: Dựng tượng Nữ thần Dân chủ, Quảng trường Thiên An Môn, tháng 5 năm 1989 (Ảnh: Alon Reininger/Contact Press Images)


Nguồn: Ian Johnson, The Ghosts of Tiananmen Square, The New York Review of Books, số ra ngày 5/6/2014


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra




[i] Số thành phố có biểu tình được nêu rõ trong một triển lãm sau vụ thảm sát ở Bảo tàng Lịch sử Quân sự ở Bắc Kinh và được James Miles trích dẫn trong The Legacy of Tiananmen: China in Disarray [Di sản của Thiên An Môn: Trung Quốc hỗn loạn] (University of Michigan Press, 1996).




[ii] Độc giả cũng nên lưu ý tác phẩm của Ngô Nhân Hoa, một người tham gia biểu tình ở Thiên An Môn và tác giả của hai tác phẩm bằng tiếng Hoa, cùng với một cuốn sách sắp xuất bản của Jeremy Brown thuộc Đại học Simon Fraser. Cảm ơn Perry Link đã nhắc đến các tác phẩm này.




[iii] Được Jonathan Mirsky điểm trên tạp chí The New York Review of Books, ngày 2/7/2009.




[iv] Stanford University Press, 1998, trang 218. Cuốn sách này được xuất bản lần đầu vào năm 1992. Ấn bản năm 1998 có thêm lời bạt, và câu này được trích dẫn từ đó.




[v] For a Song and a Hundred Songs: A Poet’s Journey Through a Chinese Prison (Vì một bài hát và một trăm bài hát: Hành trình của một nhà thơ qua một nhà tù Trung Quốc), nhà xuất bản Houghton Mifflin Harcourt, năm 2013, được Perry Link điểm trên tạp chí The New York Review of Books ngày 24/10/2013. [Chú thích của người dịch: độc giả có thể đọc một bài khác của Ian Buruma điểm cuốn sách này trên tạp chí The New Yorker ngày 1/7/2013; xem bản dịch tiếng Việt Ngục tù của trí tuệ.]




[vi] Độc giả có thể đọc một phiên bản của lời giới thiệu do Perry Link viết cho cuốn sách này đăng trên NYRblog ngày 31/3/2014 với nhan đề China After Tiananmen: Money, Yes; Ideas, No (Trung Quốc sau Thiên An Môn: tiền thì được, tư tưởng thì cấm). [Chú thích của người dịch: một phiên bản khác dài hơn của cùng tác giả Perry Link có nhan đề “The Specter of June Fourth” đăng trên trang China File ngày 20/4/2014; xem bản dịch tiếng Việt Bóng ma Lục Tứ.]

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 02, 2014 11:42

June 1, 2014

Ảo tưởng địa chính trị – Sức mạnh bền vững cá»§a trật tá»± tá»± do

G. John Ikenberry


Trần Ngọc Cư dịch


Trong tiểu luận sau đây, G. John Ikenberry phản biện lại bài viết nhan đề “Địa chính trị đang trở lại vị trí trung tâm” cá»§a Walter Russell Mead, bản dịch đã đăng trên pro&contra ngày 11/5/2014. Cả hai tiểu luận đều xuất hiện trên Foreign Affairs, May/June 2014.


Người dịch


______


Walter Russell Mead vẽ một bức tranh nhiễu loạn về tình trạng khó xử của Hoa Kỳ trong lãnh vực địa chính trị. Theo quan điểm của ông, một liên minh ngày càng đáng sợ của các cường quốc phi tự do –Trung Quốc, Iran, và Nga – đang quyết tâm phá hoại sự dàn xếp sau Chiến tranh Lạnh và trật tự toàn cầu do Mỹ lãnh đạo vốn đứng đằng sau sự dàn xếp ấy. Khắp khu vực Á Âu, ông lý luận, nhóm quốc gia thù hận này đang ra sức xây dựng các vùng ảnh hưởng nhằm đe dọa các nền tảng của vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ và trật tự toàn cầu. Vì vậy, Hoa Kỳ cần phải xét lại thái độ lạc quan của mình, gồm sự cả tin phát sinh sau Chiến tranh Lạnh cho rằng các quốc gia đang trỗi dậy bên ngoài phương Tây có thể được thuyết phục gia nhập khối này và chơi theo luật lệ của nó. Theo Mead, đã đến lúc phải đối đầu với những đe dọa từ những kẻ thù địa chính trị ngày càng nguy hiểm này.


Nhưng chủ nghĩa báo động [alarmism] của Mead đặt cơ sở trên một nhận thức sai lầm vô cùng to lớn về thực tế quyền lực hiện đại. Đó là một nhận thức sai lầm về logic và đặc tính của trật tự thế giới hiện hữu, vốn ổn định và có sức bành trướng hơn cách Mead mô tả; nhận thức này đã khiến ông đánh giá quá cao khả năng của “trục sâu mọt” [the axis of weevils] trong việc phá hoại trật tự tự do. Và đó là một nhận thức sai lầm về Trung Quốc và Nga, vốn không phải là những cường quốc theo chủ nghĩa xét lại trên qui mô lớn, mà bất quá chỉ là những kẻ phá đám bán thời gian [part-time spoilers]; hai nước này cũng nghi ngờ lẫn nhau như họ đang nghi ngờ thế giới bên ngoài. Đúng là, họ tìm cơ hội để chống lại vai trò lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ, và gần đây, cũng như trong quá khứ, họ đã cố đẩy lùi vai trò này của Mỹ, đặc biệt khi họ bị đối đầu ngay trong khu vực láng giềng của mình. Nhưng ngay cả những xung đột này cũng được nuôi dưỡng bởi sự yếu kém chứ không bởi sức mạnh của lãnh đạo và chế độ của họ. Những nước này không có một thương hiệu hấp dẫn nào đối với thế giới. Và khi cần theo đuổi những lợi ích quan trọng hàng đầu của mình, Nga và, đặc biệt là, Trung Quốc lại sẵn sàng hội nhập sâu đậm vào nền kinh tế thế giới và các định chế điều hành nó.


Mead còn mô tả sai lạc đặc tính cốt lõi của chính sách đối ngoại Mỹ. Kể từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, Mead lý luận, Hoa Kỳ đã bỏ qua những vấn đề địa chính trị liên quan đến lãnh thổ và các vùng ảnh hưởng và thay vào đó đã quá lạc quan khi tập trung vào việc xây dựng trật tự toàn cầu. Nhưng đây là một phân tích sai lạc, bằng cách chẻ đôi vấn đề thành hai phần tương khắc. Hoa Kỳ không tập trung vào những vấn đề liên quan đến trật tự toàn cầu, như kiểm soát vũ khí và mậu dịch, chỉ vì họ cho rằng xung đột địa chính trị đã chấm dứt vĩnh viễn; sở dĩ họ theo đuổi những nỗ lực này chính vì họ muốn quản lý sự cạnh tranh giữa các đại cường. Nỗ lực xây dựng trật tự toàn cầu không đặt cơ sở trên sự cáo chung của địa chính trị; mục đích của nó là làm thế nào để giải quyết các vấn đề to lớn trong lãnh vực địa chính trị.


Thật vậy, việc xây dá»±ng một trật tá»± toàn cầu do Hoa Kỳ lãnh đạo không bắt đầu với sá»± cáo chung cá»§a Chiến tranh Lạnh; chính nó đã giành thắng lợi trong Chiến tranh Lạnh cho phương Tây. Trong gần 70 năm kể từ Thế chiến II chấm dứt, Washington đã theo đuổi những nỗ lá»±c bền bỉ trong việc xây dá»±ng một hệ thống rộng lớn gồm những định chế đa phương, những liên minh, những thỏa ước mậu dịch, và những đối tác chính trị. Dá»± án này đã giúp thu hút nhiều nước vào quÄ© đạo cá»§a Hoa Kỳ. Nó đã giúp tăng cường các qui phạm và luật lệ toàn cầu, làm suy giảm tính chính đáng cá»§a các vùng ảnh hưởng kiểu thế ká»· 19, chặn đứng các mưu đồ thống trị khu vá»±c và chiếm đoạt lãnh thổ [cá»§a chá»§ nghÄ©a thá»±c dân]. Và dá»± án này đã mang lại cho Hoa Kỳ những tiềm năng, những đối tác, và những nguyên tắc để đối đầu với những đại cường phá hoại và theo chá»§ nghÄ©a xét lại ngày nay, như đang diễn ra. Các liên minh, các đối tác, chá»§ nghÄ©a đa phương, thể chế dân chá»§ – đây chính là những công cụ trong vai trò lãnh đạo cá»§a Hoa Kỳ, và chúng đang thắng, chứ không phải đang thua, trong những cuộc đấu tranh về địa chính trị và trật tá»± thế giới cá»§a thế ká»· 21.


NGƯỜI KHỔNG LỒ QUÂN TỬ


Năm 1904, nhà nghiên cứu địa lý Anh Halford Mackinder đã viết rằng đại cường nào kiểm soát được vùng trung châu của khu vực Á Âu thì sẽ thống lĩnh luôn “Đảo Thế giới này” và nhờ đó thống lĩnh toàn thế giới. Trong quan điểm của Mead, khu vực Á Âu đã tái xuất hiện như một giải thưởng vĩ đại trong lãnh vực địa chính trị. Khắp những vùng xa xôi của siêu lục địa này, ông lý luận, Trung Quốc, Iran, và Nga đang tìm cách thiết lập vùng ảnh hưởng của mình và thách đố các lợi ích của Mỹ, dần dà nhưng không ngớt toan tính thống trị khu vực Á Âu và vì thế đe dọa Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới.


Viễn kiến này không nắm bắt được một thực tế sâu sắc hơn. Trong các vấn đề địa chính trị (chưa nói đến các lãnh vực dân số, chính trị và tư tưởng), Hoa Kỳ có một lợi thế quyết định so với Trung Quốc,Iran, và Nga. Mặc dù rõ ràng là Hoa Kỳ không còn ở điểm đỉnh bá quyền mà họ chiếm giữ trong thời kỳ đơn cực [the unipolar era], quyền lực Mỹ vẫn còn là vô địch. Sự giàu có và các lợi thế công nghệ của Hoa Kỳ vẫn còn nằm ngoài tầm với của Trung Quốc và Nga, đừng nói chi đếnIran. Kinh tế Mỹ đang phục hồi, được các nguồn khí đốt thiên nhiên khổng lồ mới khai thác tiếp sức, cho phép Hoa Kỳ duy trì một sự hiện diện quân sự toàn cầu và các cam kết an ninh đáng tin cậy.


Thật vậy, Washington thừa hưởng một khả năng độc đáo trong việc chinh phục bạn bè và ảnh hưởng lên các quốc gia. Theo một nghiên cứu do nhà chính trị học Brett Ashley Leeds hướng dẫn, Hoa Kỳ có đối tác quân sự với hơn 60 nước, trong khi Nga đếm được tám đồng minh chính thức và Trung Quốc chỉ vỏn vẹn có một mà thôi (Bắc Triều Tiên). Như một nhà ngoại giao Anh đã nói với tôi cách đây dăm bảy năm, “Trung Quốc không tỏ ra muốn lập các liên minh.” Nhưng Hoa Kỳ muốn làm điều này, và các liên minh này đã mang đến hai mối lợi cùng một lúc: không những chúng cung cấp một bệ phóng cho quyền lực toàn cầu của Mỹ, mà còn phân phối gánh nặng duy trì an ninh với các đồng minh. Các tiềm năng quân sự tích lũy trong hệ thống liên minh do Mỹ lãnh đạo này đã vượt hẳn lên trên bất cứ sức mạnh nào mà Trung Quốc hoặc Nga có thể tạo ra trong nhiều thập kỷ tới.


Lại còn có vấn đề vũ khí hạt nhân. Những vũ khí này, cả Hoa Kỳ, Trung Quốc, và Nga đều có (và Iran đang theo đuổi), sẽ giúp cho Hoa Kỳ theo hai cách sau đây. Một, nhờ cái logic hai bên chắc chắn có thể hủy diệt lẫn nhau [mutual assured destruction], sự thủ đắc vũ khí hạt nhân sẽ cực kỳ giảm bớt khả năng đưa đến chiến tranh giữa các đại cường. Các đại loạn thuộc loại này đã từng tạo cơ hội cho các đại cường trong quá khứ, kể cả Hoa Kỳ trong Thế chiến II, củng cố trật tự quốc tế của mình. Nhưng thời đại hạt nhân đã cướp mất của Trung Quốc và Nga cơ hội này. Hai, vũ khí hạt nhân cũng làm cho Trung Quốc và Nga cảm thấy an toàn hơn, giúp họ yên chí rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ xâm lăng họ. Đó là điều tốt, vì nó giảm bớt khả năng họ sẽ dùng đến những nước cờ tuyệt vọng, phát sinh từ bất ổn, có nguy cơ đưa đến chiến tranh và phá hoại trật tự tự do.


Vị trí địa lý còn tăng cường các lợi thế khác của Hoa Kỳ. Là đại cường duy nhất không bị các đại cường khác vây quanh, Hoa Kỳ tỏ ra ít đe dọa đối với các quốc gia khác và nhờ đó có thể trỗi dậy nhanh chóng trong thế kỷ trước mà không kích nổ một cuộc chiến tranh. Sau Chiến tranh Lạnh, trong giai đoạn Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất trên thế giới, các cường quốc toàn cầu khác, ở bên kia đại dương, thậm chí đã không toan tính quân bình lực lượng với Mỹ. Trên thực tế, vị trí địa lý cô lập của Hoa Kỳ đã khiến các quốc gia khác lo ngại bị bỏ rơi hơn là bị khống chế. Các đồng minh của Mỹ tại châu Âu, châu Á, và Trung Đông đã tìm cách lôi kéo Hoa Kỳ vào việc đóng một vai trò to lớn hơn trong khu vực của mình. Việc này đưa đến cái mà Geir Lundestad gọi là “một đế quốc do mời gọi”.


Lợi thế địa lý cá»§a Hoa Kỳ được phÆ¡i bày trọn vẹn tại châu Á. Hầu hết mọi quốc gia tại đây đều coi Trung Quốc là một mối nguy tiềm năng lớn hÆ¡n Hoa Kỳ – vì Trung Quốc nằm sát bên cạnh, nếu không phải một lý do khác. Ngoài Hoa Kỳ ra, mọi cường quốc chính trên thế giới đều sống trong một khu láng giềng địa chính trị chen chúc, tại đó những chuyển dịch quyền lá»±c thường xuyên kích động các nỗ lá»±c đối trọng [provoke counterbalancing] – kể cả giữa họ với nhau. Trung Quốc hiện đang phát hiện động lá»±c tương tác này khi các quốc gia láng giềng phản ứng lại sá»± trỗi dậy cá»§a Trung Quốc bằng cách hiện đại hóa quân đội và tăng cường các liên minh cá»§a mình. Nga biết điều này từ nhiều thập ká»· nay, và gần đây nhất đã đối diện thá»±c tế tại Ukraine, một quốc gia trong những năm gần đây đã gia tăng chi tiêu quân sá»± và theo đuổi các quan hệ gần gÅ©i hÆ¡n với EU.


Tính cô lập địa lý còn cho Hoa Kỳ lý do để cổ vũ các nguyên tắc phổ quát cho phép họ tiếp cận nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Từ lâu, Hoa Kỳ vốn là nước theo đuổi chính sách mở cửa và nguyên tắc dân tộc tự quyết, đồng thời chống lại chủ nghĩa thực dân – vì lý tưởng thì ít, mà vì những lý do thực tiễn thì nhiều, trong nỗ lực biến châu Âu, châu Á, và Trung Đông thành những khu vực cởi mở đối với thương mại và ngoại giao. Vào những năm cuối của thập niên 1930, câu hỏi chủ yếu đối với Hoa Kỳ là, Mỹ sẽ cần đến một không gian địa chính trị, hay “đại địa bàn” rộng lớn bao nhiêu để tồn tại như một đại cường trong một thế giới gồm những đế quốc, những khối liên minh khu vực, và những vùng ảnh hưởng. Thế chiến II đã cho một câu trả lời rõ ràng: sự phồn thịnh và an ninh của nước Mỹ tuỳ vào khả năng tiếp cận với mọi khu vực. Và trong những thập niên tiếp theo, với một vài ngoại lệ nghiêm trọng và gây tổn thất, như Chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã theo đuổi những nguyên tắc hậu đế quốc [postimperial principles].


Chính trong những năm hậu chiến này, địa chính trị và nỗ lực xây dựng trật tự thế giới đã hòa nhập vào nhau. Một khuôn khổ quốc tế tự do là câu trả lời mà các chính khách tài ba như Dean Acheson, George Kennan, và George Marshall đã đưa ra trước sự thách thức của chủ nghĩa bành trướng Xô-viết. Hệ thống mà họ xây dựng đã gia tăng sức mạnh và làm giàu cho Hoa Kỳ và các đồng minh, gây tổn thất cho các địch thủ phi tự do [illiberal opponents] của nó. Hệ thống này còn ổn định được kinh tế thế giới và thiết lập các cơ chế để đối phó với các vấn đề toàn cầu. Sự cáo chung của Chiến tranh Lạnh không hề thay đổi cái logic từng chống đỡ dự án này.


May mắn là, những nguyên tắc tự do mà Washington thúc đẩy có sức thu hút gần như phổ quát, vì chúng có xu thế là rất phù hợp với các lực hiện đại hóa của việc tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Như sử gia Charles Maier viết, Hoa Kỳ đã cỡi được cơn sóng hiện đại hóa của thế kỷ 20. Nhưng một số học giả lại tranh luận rằng sự phù hợp giữa dự án của Mỹ và các lực hiện đại hóa đã giảm bớt trong những năm gần đây. Theo quan niệm này, cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đánh dấu một bước ngoặt lịch sử thế giới, theo đó Hoa Kỳ đã đánh mất vai trò tiên phong trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.


Nhưng thậm chí nếu điều này có thực sự xảy ra đi nữa, người ta vẫn không suy diễn rằng Trung Quốc và Nga đã thay thế Hoa Kỳ cầm cờ đi tiên phong trong mặt trận kinh tế toàn cầu. Ngay cả Mead cũng không tranh luận rằng Trung Quốc, Iran, và Nga có thể cống hiến cho thế giới một mô hình mới về tính hiện đại. Nếu những cường quốc phi tự do này muốn thật sự đe dọa Washington và phần còn lại của thế giới tư bản tự do, thì họ cần phải phát hiện được đợt sóng hiện đại hóa vĩ đại sắp đến và phải cỡi lên nó. Họ không có khả năng làm điều này.


SỰ TRỖI DẬY CỦA DÂN CHỦ


Viễn kiến của Mead về một cuộc đọ sức tại khu vực Á Âu giữa một bên là Hoa Kỳ và bên kia là Trung Quốc, Iran, và Nga đã bỏ qua một chuyển đổi quyền lực sâu sắc hơn đang diễn ra: sự vươn dậy ngày một lớn mạnh của thể chế dân chủ tư bản tự do. Đành rằng, nhiều nước dân chủ tự do ở thời điểm này đang vật lộn với tăng trưởng kinh tế chậm chạp, bất bình đẳng xã hội, và bất ổn chính trị. Nhưng sự bành trướng của thể chế dân chủ tự do khắp thế giới, bắt đầu cuối thập niên 1970 và tăng tốc sau Chiến tranh Lạnh đã nhanh chóng tăng cường địa vị của Hoa Kỳ và thắt vòng vây địa chiến lược quanh Trung Quốc và Nga.


Người ta dễ dàng quên rằng trước đây thể chế dân chủ hãy còn rất hiếm hoi. Mãi đến Thế kỷ 20, thể chế này chỉ có ở phương Tây và một số nước châu Mỹ La tinh. Nhưng sau Thế chiến II, nó bắt đầu vượt ra ngoài biên giới của những khu vực này, khi những quốc gia mới được độc lập dựng nên chế độ tự trị. Trong những thập niên 1950, 1960, và đầu thập niên 1970, các cuộc đảo chính quân sự và các nhà độc tài mới đã kềm hãm tiến trình chuyển đổi sang chế độ dân chủ. Nhưng vào cuối thập niên 1970, cái mà nhà nghiên cứu chính trị Samuel Huntington gọi là “đợt sóng dân chủ hóa thứ ba” đã tràn qua miền Nam châu Âu, Châu Mỹ La tinh, và Đông Á. Tiếp đến, Chiến tranh Lạnh kết thúc, và một loạt gồm các quốc gia cộng sản trước đó tại Đông Âu được đưa vào nếp sống dân chủ. Vào cuối thập niên 1990, 60 phần trăm toàn thể các nước trên thế giới đã trở thành các quốc gia dân chủ.


Mặc dù có tình trạng thoái trào diễn ra tại một số quốc gia, nhưng xu thế có ý nghĩa hơn lại là sự xuất hiện một nhóm các cường quốc dân chủ bậc trung, gồm Australia, Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Mexico, Nam Hàn, và Thổ Nhĩ Kỳ. Những cường quốc dân chủ mới trỗi dậy này đang đóng vai trò những thành viên có trách nhiệm [stakeholders] trong hệ thống quốc tế: đẩy mạnh hợp tác đa phương, theo đuổi những quyền lợi và trách nhiệm lớn hơn, và thể hiện ảnh hưởng của mình thông qua các phương tiện hòa bình.


Những nước nói trên tăng thêm trọng lượng địa chính trị cá»§a trật tá»± thế giới tá»± do. Như nhà nghiên cứu chính trị Larry Diamond nhận xét, nếu Argentina, Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Nam Phi, và Thổ NhÄ© Kỳ lấy lại thế đứng kinh tế và tăng cường chế độ dân chá»§ cá»§a mình, thì Nhóm G-20, trong đó có cả Hoa Kỳ và các nước châu Âu, “sẽ trở thành một ‘câu lạc bộ dân chủ’ hùng mạnh, chỉ có Nga, Trung Quốc, và Ả Rập Saudi còn bám víu mà thôi.” Sá»± trỗi dậy cá»§a một tầng lớp trung lưu toàn cầu gồm các quốc gia dân chá»§ sẽ biến Trung Quốc và Nga thành những kẻ đứng ngoài – chứ không phải là những đối thá»§ chính đáng trong việc tranh giành vai trò lãnh đạo toàn cầu, như Mead lo ngại.


Trên thực tế, sự trỗi dậy của làn sóng dân chủ đã trở thành vấn đề nghiêm trọng cho cả Nga lẫn Trung Quốc. Tại Đông Âu, các quốc gia và các chư hầu Xô-viết cũ đã theo thể chế dân chủ và gia nhập phương Tây. Mặc dù các nước cờ của Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Crimea là đáng lo ngại, nhưng chúng phản ánh thế yếu chứ không phải thế mạnh địa chính trị của Nga. Trong hai thập kỷ vừa qua, phương Tây đã dần dần tiến tới gần biên giới Nga. Năm 1999, Cộng hòa Séc, Hungary, và Ba Lan gia nhập NATO. Năm 2004 có thêm bảy thành viên của khối Xô-viết cũ nối đuôi những nước này để gia nhập NATO, và năm 2009 Albania và Croatia cũng làm như thế. Trong khi đó, có thêm sáu cộng hòa Xô-viết cũ đã đi theo con đường dẫn đến địa vị thành viên của NATO bằng cách tham gia chương trình Đối tác vì Hòa bình của khối này. Mead chú trọng quá nhiều vào những thành công của Putin tại Georgia, Armenia, và Crimea. Tuy nhiên, dù Putin đang thắng vài trận nhỏ, ông lại đang thua một cuộc chiến. Nga không ở trong thế đi lên; trái lại, Nga đang trải qua một trong những mất mát địa chính trị lớn nhất so với bất cứ cường quốc quan trọng nào trong thời hiện đại.


Thể chế dân chá»§ cÅ©ng đang bao vây Trung Quốc. Vào giữa thập ká»· 1980, chỉ có Ấn Độ và Nhật Bản là những nước dân chá»§ duy nhất tại châu Á, nhưng sau đó, Indonesia, Mongolia, Philippines, Nam Hàn, Đài Loan, và Thái Lan đã gia nhập câu lạc bộ này. Gần đây Myanma (còn gọi là Miến Điện) đã thá»±c hiện những bước dè dặt tiến tới chế độ đa đảng – việc này đã diễn ra đồng bộ với những quan hệ đang trở nên nồng ấm với Hoa Kỳ, điều mà Trung Quốc không thể không để ý. Trung Quốc đang sống trong một khu vá»±c gồm tuyệt đại đa số láng giềng theo dân chá»§.


Những chuyển đổi chính trị nói trên đã đặt Trung Quốc và Nga vào thế thủ. Bây giờ xin xét đến các diễn biến gần đây tại Ukraine. Những động thái kinh tế và chính trị trong đại bộ phận nước này đang hướng về phương Tây một cách không khoan nhượng, một xu thế đang làm Putin hoảng sợ. Ông chỉ còn trông cậy vào sức mạnh cơ bắp để o ép Ukrainevào thế chống lại EU và ở lại trong quĩ đạo của Nga. Mặc dù Putin có thể đủ sức kềm kẹp Crimea dưới quyền kiểm soát của mình, nhưng nắm tay bấu víu của ông trên phần còn lại của Ukraine đang tuột dần. Như nhà ngoại giao EU, ông Robert Cooper, đã nhận xét, Putin có thể cố gắng làm trì hoãn cái thời điểm Ukraine “liên minh với EU, nhưng ông ta không thể chặn đứng được việc này.” Thật vậy, thậm chí Putin không có khả năng thể hiện sự trì hoãn này, vì những nước cờ khiêu khích của ông có thể chỉ thúc nhanh chuyển động của Ukraine hướng về châu Âu.


Trung Quốc cũng đối diện một nan đề tương tự tại Đài Loan. Các lãnh đạo Trung Quốc thực tâm tin rằng Đài Loan là một phần của Trung Quốc, nhưng người Đài Loan không nghĩ như vậy. Cuộc chuyển đổi dân chủ trên đảo này đã khiến những đòi hỏi độc lập quốc gia của người dân trở nên vừa bức thiết vừa chính đáng hơn. Một thăm dò năm 2011 cho thấy rằng nếu người Đài Loan có thể được trấn an là Trung Quốc sẽ không tấn công Đài Loan, 80% dân chúng đảo này sẽ ủng hộ việc tuyên bố độc lập. Cũng như Nga, Trung Quốc muốn duy trì quyền kiểm soát địa chính trị đối với các nước láng giềng. Nhưng sự bành trướng của thể chế dân chủ đến mọi khu vực tại châu Á đã khiến Bắc Kinh chỉ còn cách duy nhất là áp đặt ách thống trị lỗi thời [old-fashioned domination] để đạt mục tiêu địa chiến trị của mình, và phương án này là rất tốn kém và tự chuốc lấy thất bại.


Trong khi sự trỗi dậy của các quốc gia dân chủ gây nhiều khó khăn cho Trung Quốc và Nga, thì sự thể này lại giúp thế giới trở nên an toàn hơn trước mắt Hoa Kỳ. Hai cường quốc nói trên được coi là đối thủ của Hoa Kỳ, nhưng sự cạnh tranh đã diễn ra trên một sân chơi rất gập ghềnh đối với họ: Hoa Kỳ có nhiều nước bạn nhất, và cũng là những nước bạn có khả năng nhất. Ngân sách quốc phòng của Washington và đồng minh của Mỹ chiếm đến 75 phần trăm chi phí quân sự toàn cầu. Tiến trình dân chủ hóa [tại khu vực Á Âu] đã nhốt Trung Quốc và Nga trong một chiếc hộp địa chính trị.


Iran không bị các nước dân chá»§ bao vây, nhưng nó bị đe dọa bởi một phong trào đòi hỏi dân chá»§ đầy bất ổn ở trong nước. Nghiêm trọng hÆ¡n nữa, Iran là thành viên yếu kém nhất trong trục [xét lại] cá»§a Mead, với một nền kinh tế và một lá»±c lượng quân sá»± nhỏ bé hÆ¡n nhiều so với Hoa Kỳ và hai đại cường kia. Iran còn là mục tiêu cá»§a một chế độ trừng phạt quốc tế mạnh mẽ nhất từ trước tới nay mà LHQ có thể huy động được, nhờ sá»± giúp đỡ cá»§a Trung Quốc và Nga. Chính sách ngoại giao đối với Iran cá»§a chính quyền Obama có thể thành công hoặc không thành công, nhưng một chính sách khác theo ý Mead để ngăn chặn nước này thá»§ đắc vÅ© khí hạt nhân thì lại không rõ ràng. Đường lối cá»§a Tổng thống Mỹ Barack Obama có ưu điểm là đưa ra một lộ trình theo đó Tehran có thể chuyển đổi từ một cường quốc khu vá»±c thù nghịch thành một thành viên phi hạt nhân có tinh thần xây dá»±ng cá»§a cộng đồng quốc tế – một nước có tiềm năng thay đổi trò chÆ¡i địa chính trị mà Mead không đánh giá cao.


XÉT LẠI CHỦ NGHĨA XÉT LẠI


Không những Mead đánh giá thấp sức mạnh của Hoa Kỳ và trật tự mà nó đã xây dựng; ông còn cường điệu mức độ mà Trung Quốc và Nga đang ra sức chống lại hai đối tượng này. (Gác tham vọng hạt nhân qua một bên, Iran trông giống một quốc gia đang thực sự kháng cự thì ít mà vô vọng phản đối thì nhiều, vì thế ta không nên coi Iran có địa vị gần như một cường quốc xét lại [a revisionist power].)  Rõ ràng là, Trung Quốc và Nga mong muốn bành trướng ảnh hưởng trong khu vực. Trung Quốc đã đưa ra các đòi hỏi hung hăng về chủ quyền trên biển và các đảo tranh chấp gần bờ, đồng thời lao vào việc tăng cường sức mạnh vũ khí. Putin có viễn kiến khôi phục lại địa vị bá quyền của Nga đối với “những nước lân cận”. Cả hai đại cường này đang hung hăng giận dữ trước địa vị lãnh đạo của Hoa Kỳ và sẵn sàng chống lại nó khi họ có thể.


Nhưng Trung Quốc và Nga không hẳn là những cường quốc xét lại. Như cựu Bộ trưởng Ngoại giao Israel, ông Shlomo Ben-Ami, từng nói, chính sách đối ngoại của Putin “phản ánh sự căm phẫn của Putin về việc Nga bị cho ra bên lề địa chính trị hơn là tiếng hò reo xung trận của một đế quốc đang trỗi dậy.” Hẳn nhiên, Trung Quốc mới thực là một cương quốc đang trỗi dậy, và điều này đã cám dỗ Trung Quốc vào một cuộc đọ sức nguy hiểm với các đồng minh của Hoa Kỳ tại châu Á. Nhưng hiện nay, Trung Quốc không ra sức phá vỡ những liên minh này của Mỹ hay lật đổ cái hệ thống quản trị an ninh khu vực rộng lớn hơn, hiện thân trong các tổ chức như Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) hay Thượng đỉnh Đông Á. Và thậm chí nếu Trung Quốc nuôi tham vọng cuối cùng sẽ làm điều này đi nữa, các đối tác an ninh của Mỹ trong khu vực ít ra cũng đang trở nên mạnh hơn, chứ không yếu hơn chút nào. Tối đa, Trung Quốc và Nga chỉ là những kẻ phá đám. Họ không có những lợi ích – xin đừng nói đến tư duy, khả năng, hay đồng minh – thúc đẩy họ lật đổ những luật lệ và định chế toàn cầu đang có.


Trên thực tế, mặc dù Trung Quốc và Nga phẫn nộ vì Hoa Kỳ đứng đầu hệ thống địa chính trị hiện nay, nhưng họ chấp nhận cái logic chủ yếu của khuôn khổ này, và chấp nhận với lý do chính đáng. Sự cởi mở cho phép họ tiếp cận thương mại, đầu tư, và công nghệ từ các xã hội khác. Luật lệ cung cấp họ công cụ để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Mặc dù có các tranh cãi về sáng kiến mới là “trách nhiệm bảo hộ” (một nguyên tắc chỉ được áp dụng một cách có chọn lọc gần đây), trật tự thế giới hiện nay vẫn tôn trọng các qui phạm lâu đời về chủ quyền quốc gia và nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ nước khác. Những nguyên tắc này của Hiệp ước Westphalia vẫn là nền tảng của chính trị thế giới – vì thế Trung Quốc và Nga đã ràng buộc lợi ích quốc gia mình với chúng (mặc dù Putin có chủ trương phục hồi lãnh thổ đang gây ra tình trạng nhiễu loạn).


Vì vậy, ta không nên ngạc nhiên là Trung Quốc và Nga đã hội nhập sâu sắc vào trật tự quốc tế hiện nay. Cả hai đều là hội viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, với quyền phủ quyết, và cả hai đều tham gia tích cực vào Tổ chức Thương mại Thế giới, Quĩ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, và Nhóm G-20. Họ là những cường quốc địa chính trị trong hệ thống, ngồi ở chiếu trên trong việc quản trị toàn cầu.


Trung Quốc, mặc dù trỗi dậy nhanh chóng, nhưng không có một nghị trình toàn cầu đầy tham vọng nào cả; họ vẫn tập trung vào công việc nội bộ, quyết duy trì chế độ đảng trị. Một số trí thức và nhân vật chính trị, như Diêm Học Thông (Yan Xuetong) và Chu Thành Hổ (Zhu Chenghu), thực sự theo đuổi một danh mục gồm các mục tiêu xét lại. Họ coi hệ thống phương Tây như một mối đe dọa và đang chờ đợi cái ngày mà Trung Quốc có thể tổ chức lại trật tự quốc tế. Nhưng những tiếng nói này không lọt vào tai tầng lớp lãnh đạo chính trị ở chóp bu. Thật vậy, các lãnh đạo Trung Quốc không còn muốn theo đuổi những hiệu triệu mà họ đưa ra trước đây về một cuộc thay đổi sâu rộng. Năm 2007, tại một hội nghị Ủy ban Trung ương, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thay thế những đề xuất trước đó về một “trật tự kinh tế quốc tế mới” bằng lời kêu gọi đòi hỏi những cải tổ khiêm tốn hơn tập trung vào công bằng và công lý. Học giả Trung Quốc Vương Tập Tư (Wang Jisi) đã lý luận rằng động thái này là “tinh tế nhưng quan trọng,” đưa định hướng của Trung Quốc tiến gần tới định hướng của một nhà cải cách toàn cầu. Hiện nay Trung Quốc muốn giữ một vai trò lớn hơn tại Quĩ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, muốn có một tiếng nói lớn hơn trong những diễn đàn như G-20, và muốn thấy đồng Nhân dân tệ được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Đó không phải là nghị trình của một nước đang cố gắng xét lại trật tự kinh tế.


Trung Quốc và Nga còn là những thành viên có uy tín trong câu lạc bộ hạt nhân. Đặc điểm quan trọng nhất của cuộc dàn xếp trong thời Chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô (và sau này với Nga) là nỗ lực chung của hai nước nhằm giới hạn vũ khí hạt nhân. Mặc dù quan hệ Mỹ-Nga đã xấu đi từ đó, nhưng yếu tố hạt nhân trong dàn xếp này vẫn được duy trì. Năm 2010, Moskva vàWashingtonđã ký kết Hiệp ước cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược mới nhất (New START), đòi hỏi hai bên cùng cắt giảm vũ khí hạt nhân tầm xa.


Trước thập niên 1990, Trung Quốc là kẻ đứng ngoài câu lạc bộ hạt nhân này. Mặc dù Bắc Kinh có một kho vũ khí hạt nhân khiêm tốn, nhưng họ tự coi mình là một tiếng nói của thế giới đang phát triển phi hạt nhân (the nonnuclear developing world) và lên tiếng chỉ trích các hiệp ước kiểm soát vũ khí và cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Nhưng bằng một thay đổi ngoạn mục, sau đó Trung Quốc đã quay qua ủng hộ một loạt hiệp định về vũ khí hạt nhân, gồm Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân và Hiệp ước cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân toàn diện. Trung Quốc đã khẳng định một lý thuyết “không ra tay trước trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân”, duy trì một kho vũ khí hạt nhân nhỏ, và đưa toàn bộ lực lượng hạt nhân của mình ra khỏi tình trạng báo động. Trung Quốc còn đóng một vai trò tích cực trong Hội nghị thượng đỉnh về an ninh hạt nhân, một sáng kiến do Obama đề xuất năm 2009, và Trung Quốc đã tham gia “tiến trình P5”, một nỗ lực hợp tác [giữa năm hội viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ và cũng là năm cường quốc hạt nhân] để bảo đảm an toàn vũ khí hạt nhân.


Qua một loạt vấn đề rộng lớn, Trung Quốc và Nga đang hành xử như những đại cường có địa vị ổn định hơn là những đại cường xét lại. Họ thường tìm cách tránh né các giải pháp đa phương, nhưng thỉnh thoảng chính Hoa Kỳ và các cường quốc dân chủ khác cũng làm như vậy. (Bắc Kinh đã phê chuẩn Công ước LHQ về Luật Biển; nhưng Washington thì chưa.) Và hiện nay, Trung Quốc và Nga đang sử dụng luật lệ và định chế toàn cầu để thúc đẩy lợi ích của mình. Những xung đột với Hoa Kỳ xoay quanh việc Trung Quốc và Nga muốn có tiếng nói mạnh hơn trong trật tự hiện hữu và tìm cách vận dụng trật tự này sao cho phù hợp với nhu cầu của mình. Mặc dù hai cường quốc này muốn tăng cường địa vị của mình trong hệ thống, nhưng hiện nay họ không tìm cách thay thế hệ thống này.


TIẾP TỤC NẰM TRONG HỆ THỐNG


Cuối cùng, thậm chí nếu Trung Quốc và Nga có toan tính bác bỏ những điều cÆ¡ bản cá»§a trật tá»± toàn cầu hiện nay, thì sá»± mạo hiểm này sẽ chỉ làm họ nản chí và chuốc lấy thất bại mà thôi. Những cường quốc này không những sẽ chống lại một mình Hoa Kỳ, mà họ còn phải đương đầu với một trật tá»± có tổ chức và kiên cố nhất toàn cầu mà thế giới chưa từng biết đến trước đây, một trật tá»± được ngá»± trị bởi những quốc gia theo chế độ tá»± do, tư bản, và dân chá»§. Trật tá»± này được hậu thuẫn bởi một mạng lưới do Hoa Kỳ lãnh đạo gồm các liên minh, các định chế, các mặc cả địa chính trị, các quốc gia lệ thuộc, và các đối tác dân chá»§. Trật tá»± này tỏ ra năng động và có sức bành trướng, dễ dàng kết nạp những quốc gia đang trỗi dậy, bắt đầu bằng Nhật Bản và Đức sau Thế chiến II. Trật tá»± này chứng tỏ có khả năng chấp nhận một lãnh đạo chung [shared leadership], chẳng hạn như trong các diễn đàn như G-8 và G-20. Nó cho phép các nước nằm ngoài phương Tây trao đổi thương mại và tăng trưởng kinh tế, chia sẻ các lợi ích cá»§a việc hiện đại hóa. Nó đáp ứng nhu cầu cá»§a nhiều mô hình chính trị và kinh tế khác nhau đến mức độ ta phải ngạc nhiên – dân chá»§ xã hội (Tây Âu), tân tá»± do (Vương quốc Anh và Hoa Kỳ), và tư bản nhà nước (Đông Á). Sá»± phồn thịnh cá»§a gần như mọi nước – và sá»± ổn định cá»§a chính phá»§ họ – trên cÆ¡ bản dá»±a vào trật tá»± này.


Trong thời đại của trật tự tự do, những vùng vẫy của các thế lực xét lại chỉ là công khó dã tràng. Thật ra, Trung Quốc và Nga đều biết rõ điều này. Họ không có những viễn kiến tầm cỡ để tìm ra một trật tự khác thay thế. Đối với những cường quốc này, các quan hệ quốc tế chủ yếu nhắm vào việc tìm kiếm thương mại và tài nguyên, bảo vệ chủ quyền của mình, và, nơi nào có thể, bá quyền khu vực. Họ chưa từng chứng tỏ có ý muốn xây dựng trật tự riêng cho mình hay thậm chí chấp nhận đầy đủ trách nhiệm đối với trật tự hiện nay và chưa từng đưa ra các viễn kiến thay thế về tiến bộ kinh tế hay chính trị toàn cầu. Đó là một khuyết điểm nghiêm trọng, vì các trật tự quốc tế thịnh và suy không chỉ vì quyền lực của quốc gia dẫn đầu; sự thành công của chúng còn tùy thuộc vào việc chúng có được coi là có chính nghĩa hay không và hoạt động cụ thể của chúng có giải quyết những vấn đề mà các quốc gia yếu cũng như mạnh đều quan tâm hay không. Trong cuộc đấu tranh vì trật tự thế giới, Trung Quốc và Nga (và chắc chắn Iran) giản dị là những kẻ đứng ngoài.


Trong tình huống này, Hoa Kỳ không nên từ bỏ các nỗ lực tăng cường trật tự tự do. Thế giới mà người Mỹ đang sống hôm nay là một thế giới mà họ phải hân hoan đón chào. Và đại chiến lược [grand strategy] mà Washington phải theo đuổi chính là cái đại chiến lược mà họ từng theo đuổi hàng chục năm nay: một dấn thân toàn cầu sâu đậm [deep global engagement]. Đấy là một chiến lược theo đó Hoa Kỳ tự ràng buộc mình với các khu vực trên thế giới thông qua thương mại, thông qua các liên minh quân sự, các định chế đa phương, và chính sách ngoại giao. Đấy là một chiến lược theo đó Hoa Kỳ thiết định được quyền lãnh đạo không những thông qua việc sử dụng quyền lực mà còn thông qua các nỗ lực bền bỉ nhắm vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu và làm ra luật lệ. Chiến lược này đã tạo được một thế giới thân thiện đối với những lợi ích của Mỹ, và thế giới trở nên thân thiện chính vì, như Tổng thống John F. Kennedy từng nói, đó là một thế giới ‘trong đó kẻ yếu hưởng được an toàn và kẻ mạnh tôn trọng công lý.”


G. John Ikenberry là Giáo sư Chính trị học và Các Vấn đề Quốc tế tại Đại học Princeton và là Giáo sư Thỉnh giảng tại Trường Balliol, Đại học Oxford.


Nguồn: Foreign Affairs, May/June 2014


Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 01, 2014 08:01

Ảo tưởng địa chính trị – Sức mạnh bền vững của trật tự tự do

G. John Ikenberry


Trần Ngọc Cư dịch


Trong tiểu luận sau đây, G. John Ikenberry phản biện lại bài viết nhan đề “Địa chính trị đang trở lại vị trí trung tâm” của Walter Russell Mead, bản dịch đã đăng trên pro&contra ngày 11/5/2014. Cả hai tiểu luận đều xuất hiện trên Foreign Affairs, May/June 2014.


Người dịch


______


Walter Russell Mead vẽ một bức tranh nhiễu loạn về tình trạng khó xử của Hoa Kỳ trong lãnh vực địa chính trị. Theo quan điểm của ông, một liên minh ngày càng đáng sợ của các cường quốc phi tự do –Trung Quốc, Iran, và Nga – đang quyết tâm phá hoại sự dàn xếp sau Chiến tranh Lạnh và trật tự toàn cầu do Mỹ lãnh đạo vốn đứng đằng sau sự dàn xếp ấy. Khắp khu vực Á Âu, ông lý luận, nhóm quốc gia thù hận này đang ra sức xây dựng các vùng ảnh hưởng nhằm đe dọa các nền tảng của vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ và trật tự toàn cầu. Vì vậy, Hoa Kỳ cần phải xét lại thái độ lạc quan của mình, gồm sự cả tin phát sinh sau Chiến tranh Lạnh cho rằng các quốc gia đang trỗi dậy bên ngoài phương Tây có thể được thuyết phục gia nhập khối này và chơi theo luật lệ của nó. Theo Mead, đã đến lúc phải đối đầu với những đe dọa từ những kẻ thù địa chính trị ngày càng nguy hiểm này.


Nhưng chủ nghĩa báo động [alarmism] của Mead đặt cơ sở trên một nhận thức sai lầm vô cùng to lớn về thực tế quyền lực hiện đại. Đó là một nhận thức sai lầm về logic và đặc tính của trật tự thế giới hiện hữu, vốn ổn định và có sức bành trướng hơn cách Mead mô tả; nhận thức này đã khiến ông đánh giá quá cao khả năng của “trục sâu mọt” [the axis of weevils] trong việc phá hoại trật tự tự do. Và đó là một nhận thức sai lầm về Trung Quốc và Nga, vốn không phải là những cường quốc theo chủ nghĩa xét lại trên qui mô lớn, mà bất quá chỉ là những kẻ phá đám bán thời gian [part-time spoilers]; hai nước này cũng nghi ngờ lẫn nhau như họ đang nghi ngờ thế giới bên ngoài. Đúng là, họ tìm cơ hội để chống lại vai trò lãnh đạo toàn cầu của Hoa Kỳ, và gần đây, cũng như trong quá khứ, họ đã cố đẩy lùi vai trò này của Mỹ, đặc biệt khi họ bị đối đầu ngay trong khu vực láng giềng của mình. Nhưng ngay cả những xung đột này cũng được nuôi dưỡng bởi sự yếu kém chứ không bởi sức mạnh của lãnh đạo và chế độ của họ. Những nước này không có một thương hiệu hấp dẫn nào đối với thế giới. Và khi cần theo đuổi những lợi ích quan trọng hàng đầu của mình, Nga và, đặc biệt là, Trung Quốc lại sẵn sàng hội nhập sâu đậm vào nền kinh tế thế giới và các định chế điều hành nó.


Mead còn mô tả sai lạc đặc tính cốt lõi của chính sách đối ngoại Mỹ. Kể từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, Mead lý luận, Hoa Kỳ đã bỏ qua những vấn đề địa chính trị liên quan đến lãnh thổ và các vùng ảnh hưởng và thay vào đó đã quá lạc quan khi tập trung vào việc xây dựng trật tự toàn cầu. Nhưng đây là một phân tích sai lạc, bằng cách chẻ đôi vấn đề thành hai phần tương khắc. Hoa Kỳ không tập trung vào những vấn đề liên quan đến trật tự toàn cầu, như kiểm soát vũ khí và mậu dịch, chỉ vì họ cho rằng xung đột địa chính trị đã chấm dứt vĩnh viễn; sở dĩ họ theo đuổi những nỗ lực này chính vì họ muốn quản lý sự cạnh tranh giữa các đại cường. Nỗ lực xây dựng trật tự toàn cầu không đặt cơ sở trên sự cáo chung của địa chính trị; mục đích của nó là làm thế nào để giải quyết các vấn đề to lớn trong lãnh vực địa chính trị.


Thật vậy, việc xây dựng một trật tự toàn cầu do Hoa Kỳ lãnh đạo không bắt đầu với sự cáo chung của Chiến tranh Lạnh; chính nó đã giành thắng lợi trong Chiến tranh Lạnh cho phương Tây. Trong gần 70 năm kể từ Thế chiến II chấm dứt, Washington đã theo đuổi những nỗ lực bền bỉ trong việc xây dựng một hệ thống rộng lớn gồm những định chế đa phương, những liên minh, những thỏa ước mậu dịch, và những đối tác chính trị. Dự án này đã giúp thu hút nhiều nước vào quĩ đạo của Hoa Kỳ. Nó đã giúp tăng cường các qui phạm và luật lệ toàn cầu, làm suy giảm tính chính đáng của các vùng ảnh hưởng kiểu thế kỷ 19, chặn đứng các mưu đồ thống trị khu vực và chiếm đoạt lãnh thổ [của chủ nghĩa thực dân]. Và dự án này đã mang lại cho Hoa Kỳ những tiềm năng, những đối tác, và những nguyên tắc để đối đầu với những đại cường phá hoại và theo chủ nghĩa xét lại ngày nay, như đang diễn ra. Các liên minh, các đối tác, chủ nghĩa đa phương, thể chế dân chủ – đây chính là những công cụ trong vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ, và chúng đang thắng, chứ không phải đang thua, trong những cuộc đấu tranh về địa chính trị và trật tự thế giới của thế kỷ 21.


NGƯỜI KHỔNG LỒ QUÂN TỬ


Năm 1904, nhà nghiên cứu địa lý Anh Halford Mackinder đã viết rằng đại cường nào kiểm soát được vùng trung châu của khu vực Á Âu thì sẽ thống lĩnh luôn “Đảo Thế giới này” và nhờ đó thống lĩnh toàn thế giới. Trong quan điểm của Mead, khu vực Á Âu đã tái xuất hiện như một giải thưởng vĩ đại trong lãnh vực địa chính trị. Khắp những vùng xa xôi của siêu lục địa này, ông lý luận, Trung Quốc, Iran, và Nga đang tìm cách thiết lập vùng ảnh hưởng của mình và thách đố các lợi ích của Mỹ, dần dà nhưng không ngớt toan tính thống trị khu vực Á Âu và vì thế đe dọa Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới.


Viễn kiến này không nắm bắt được một thực tế sâu sắc hơn. Trong các vấn đề địa chính trị (chưa nói đến các lãnh vực dân số, chính trị và tư tưởng), Hoa Kỳ có một lợi thế quyết định so với Trung Quốc,Iran, và Nga. Mặc dù rõ ràng là Hoa Kỳ không còn ở điểm đỉnh bá quyền mà họ chiếm giữ trong thời kỳ đơn cực [the unipolar era], quyền lực Mỹ vẫn còn là vô địch. Sự giàu có và các lợi thế công nghệ của Hoa Kỳ vẫn còn nằm ngoài tầm với của Trung Quốc và Nga, đừng nói chi đếnIran. Kinh tế Mỹ đang phục hồi, được các nguồn khí đốt thiên nhiên khổng lồ mới khai thác tiếp sức, cho phép Hoa Kỳ duy trì một sự hiện diện quân sự toàn cầu và các cam kết an ninh đáng tin cậy.


Thật vậy, Washington thừa hưởng một khả năng độc đáo trong việc chinh phục bạn bè và ảnh hưởng lên các quốc gia. Theo một nghiên cứu do nhà chính trị học Brett Ashley Leeds hướng dẫn, Hoa Kỳ có đối tác quân sự với hơn 60 nước, trong khi Nga đếm được tám đồng minh chính thức và Trung Quốc chỉ vỏn vẹn có một mà thôi (Bắc Triều Tiên). Như một nhà ngoại giao Anh đã nói với tôi cách đây dăm bảy năm, “Trung Quốc không tỏ ra muốn lập các liên minh.” Nhưng Hoa Kỳ muốn làm điều này, và các liên minh này đã mang đến hai mối lợi cùng một lúc: không những chúng cung cấp một bệ phóng cho quyền lực toàn cầu của Mỹ, mà còn phân phối gánh nặng duy trì an ninh với các đồng minh. Các tiềm năng quân sự tích lũy trong hệ thống liên minh do Mỹ lãnh đạo này đã vượt hẳn lên trên bất cứ sức mạnh nào mà Trung Quốc hoặc Nga có thể tạo ra trong nhiều thập kỷ tới.


Lại còn có vấn đề vũ khí hạt nhân. Những vũ khí này, cả Hoa Kỳ, Trung Quốc, và Nga đều có (và Iran đang theo đuổi), sẽ giúp cho Hoa Kỳ theo hai cách sau đây. Một, nhờ cái logic hai bên chắc chắn có thể hủy diệt lẫn nhau [mutual assured destruction], sự thủ đắc vũ khí hạt nhân sẽ cực kỳ giảm bớt khả năng đưa đến chiến tranh giữa các đại cường. Các đại loạn thuộc loại này đã từng tạo cơ hội cho các đại cường trong quá khứ, kể cả Hoa Kỳ trong Thế chiến II, củng cố trật tự quốc tế của mình. Nhưng thời đại hạt nhân đã cướp mất của Trung Quốc và Nga cơ hội này. Hai, vũ khí hạt nhân cũng làm cho Trung Quốc và Nga cảm thấy an toàn hơn, giúp họ yên chí rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ xâm lăng họ. Đó là điều tốt, vì nó giảm bớt khả năng họ sẽ dùng đến những nước cờ tuyệt vọng, phát sinh từ bất ổn, có nguy cơ đưa đến chiến tranh và phá hoại trật tự tự do.


Vị trí địa lý còn tăng cường các lợi thế khác của Hoa Kỳ. Là đại cường duy nhất không bị các đại cường khác vây quanh, Hoa Kỳ tỏ ra ít đe dọa đối với các quốc gia khác và nhờ đó có thể trỗi dậy nhanh chóng trong thế kỷ trước mà không kích nổ một cuộc chiến tranh. Sau Chiến tranh Lạnh, trong giai đoạn Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất trên thế giới, các cường quốc toàn cầu khác, ở bên kia đại dương, thậm chí đã không toan tính quân bình lực lượng với Mỹ. Trên thực tế, vị trí địa lý cô lập của Hoa Kỳ đã khiến các quốc gia khác lo ngại bị bỏ rơi hơn là bị khống chế. Các đồng minh của Mỹ tại châu Âu, châu Á, và Trung Đông đã tìm cách lôi kéo Hoa Kỳ vào việc đóng một vai trò to lớn hơn trong khu vực của mình. Việc này đưa đến cái mà Geir Lundestad gọi là “một đế quốc do mời gọi”.


Lợi thế địa lý của Hoa Kỳ được phơi bày trọn vẹn tại châu Á. Hầu hết mọi quốc gia tại đây đều coi Trung Quốc là một mối nguy tiềm năng lớn hơn Hoa Kỳ – vì Trung Quốc nằm sát bên cạnh, nếu không phải một lý do khác. Ngoài Hoa Kỳ ra, mọi cường quốc chính trên thế giới đều sống trong một khu láng giềng địa chính trị chen chúc, tại đó những chuyển dịch quyền lực thường xuyên kích động các nỗ lực đối trọng [provoke counterbalancing] – kể cả giữa họ với nhau. Trung Quốc hiện đang phát hiện động lực tương tác này khi các quốc gia láng giềng phản ứng lại sự trỗi dậy của Trung Quốc bằng cách hiện đại hóa quân đội và tăng cường các liên minh của mình. Nga biết điều này từ nhiều thập kỷ nay, và gần đây nhất đã đối diện thực tế tại Ukraine, một quốc gia trong những năm gần đây đã gia tăng chi tiêu quân sự và theo đuổi các quan hệ gần gũi hơn với EU.


Tính cô lập địa lý còn cho Hoa Kỳ lý do để cổ vũ các nguyên tắc phổ quát cho phép họ tiếp cận nhiều khu vực khác nhau trên thế giới. Từ lâu, Hoa Kỳ vốn là nước theo đuổi chính sách mở cửa và nguyên tắc dân tộc tự quyết, đồng thời chống lại chủ nghĩa thực dân – vì lý tưởng thì ít, mà vì những lý do thực tiễn thì nhiều, trong nỗ lực biến châu Âu, châu Á, và Trung Đông thành những khu vực cởi mở đối với thương mại và ngoại giao. Vào những năm cuối của thập niên 1930, câu hỏi chủ yếu đối với Hoa Kỳ là, Mỹ sẽ cần đến một không gian địa chính trị, hay “đại địa bàn” rộng lớn bao nhiêu để tồn tại như một đại cường trong một thế giới gồm những đế quốc, những khối liên minh khu vực, và những vùng ảnh hưởng. Thế chiến II đã cho một câu trả lời rõ ràng: sự phồn thịnh và an ninh của nước Mỹ tuỳ vào khả năng tiếp cận với mọi khu vực. Và trong những thập niên tiếp theo, với một vài ngoại lệ nghiêm trọng và gây tổn thất, như Chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã theo đuổi những nguyên tắc hậu đế quốc [postimperial principles].


Chính trong những năm hậu chiến này, địa chính trị và nỗ lực xây dựng trật tự thế giới đã hòa nhập vào nhau. Một khuôn khổ quốc tế tự do là câu trả lời mà các chính khách tài ba như Dean Acheson, George Kennan, và George Marshall đã đưa ra trước sự thách thức của chủ nghĩa bành trướng Xô-viết. Hệ thống mà họ xây dựng đã gia tăng sức mạnh và làm giàu cho Hoa Kỳ và các đồng minh, gây tổn thất cho các địch thủ phi tự do [illiberal opponents] của nó. Hệ thống này còn ổn định được kinh tế thế giới và thiết lập các cơ chế để đối phó với các vấn đề toàn cầu. Sự cáo chung của Chiến tranh Lạnh không hề thay đổi cái logic từng chống đỡ dự án này.


May mắn là, những nguyên tắc tự do mà Washington thúc đẩy có sức thu hút gần như phổ quát, vì chúng có xu thế là rất phù hợp với các lực hiện đại hóa của việc tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Như sử gia Charles Maier viết, Hoa Kỳ đã cỡi được cơn sóng hiện đại hóa của thế kỷ 20. Nhưng một số học giả lại tranh luận rằng sự phù hợp giữa dự án của Mỹ và các lực hiện đại hóa đã giảm bớt trong những năm gần đây. Theo quan niệm này, cuộc khủng hoảng tài chính 2008 đánh dấu một bước ngoặt lịch sử thế giới, theo đó Hoa Kỳ đã đánh mất vai trò tiên phong trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế.


Nhưng thậm chí nếu điều này có thực sự xảy ra đi nữa, người ta vẫn không suy diễn rằng Trung Quốc và Nga đã thay thế Hoa Kỳ cầm cờ đi tiên phong trong mặt trận kinh tế toàn cầu. Ngay cả Mead cũng không tranh luận rằng Trung Quốc, Iran, và Nga có thể cống hiến cho thế giới một mô hình mới về tính hiện đại. Nếu những cường quốc phi tự do này muốn thật sự đe dọa Washington và phần còn lại của thế giới tư bản tự do, thì họ cần phải phát hiện được đợt sóng hiện đại hóa vĩ đại sắp đến và phải cỡi lên nó. Họ không có khả năng làm điều này.


SỰ TRỖI DẬY CỦA DÂN CHỦ


Viễn kiến của Mead về một cuộc đọ sức tại khu vực Á Âu giữa một bên là Hoa Kỳ và bên kia là Trung Quốc, Iran, và Nga đã bỏ qua một chuyển đổi quyền lực sâu sắc hơn đang diễn ra: sự vươn dậy ngày một lớn mạnh của thể chế dân chủ tư bản tự do. Đành rằng, nhiều nước dân chủ tự do ở thời điểm này đang vật lộn với tăng trưởng kinh tế chậm chạp, bất bình đẳng xã hội, và bất ổn chính trị. Nhưng sự bành trướng của thể chế dân chủ tự do khắp thế giới, bắt đầu cuối thập niên 1970 và tăng tốc sau Chiến tranh Lạnh đã nhanh chóng tăng cường địa vị của Hoa Kỳ và thắt vòng vây địa chiến lược quanh Trung Quốc và Nga.


Người ta dễ dàng quên rằng trước đây thể chế dân chủ hãy còn rất hiếm hoi. Mãi đến Thế kỷ 20, thể chế này chỉ có ở phương Tây và một số nước châu Mỹ La tinh. Nhưng sau Thế chiến II, nó bắt đầu vượt ra ngoài biên giới của những khu vực này, khi những quốc gia mới được độc lập dựng nên chế độ tự trị. Trong những thập niên 1950, 1960, và đầu thập niên 1970, các cuộc đảo chính quân sự và các nhà độc tài mới đã kềm hãm tiến trình chuyển đổi sang chế độ dân chủ. Nhưng vào cuối thập niên 1970, cái mà nhà nghiên cứu chính trị Samuel Huntington gọi là “đợt sóng dân chủ hóa thứ ba” đã tràn qua miền Nam châu Âu, Châu Mỹ La tinh, và Đông Á. Tiếp đến, Chiến tranh Lạnh kết thúc, và một loạt gồm các quốc gia cộng sản trước đó tại Đông Âu được đưa vào nếp sống dân chủ. Vào cuối thập niên 1990, 60 phần trăm toàn thể các nước trên thế giới đã trở thành các quốc gia dân chủ.


Mặc dù có tình trạng thoái trào diễn ra tại một số quốc gia, nhưng xu thế có ý nghĩa hơn lại là sự xuất hiện một nhóm các cường quốc dân chủ bậc trung, gồm Australia, Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Mexico, Nam Hàn, và Thổ Nhĩ Kỳ. Những cường quốc dân chủ mới trỗi dậy này đang đóng vai trò những thành viên có trách nhiệm [stakeholders] trong hệ thống quốc tế: đẩy mạnh hợp tác đa phương, theo đuổi những quyền lợi và trách nhiệm lớn hơn, và thể hiện ảnh hưởng của mình thông qua các phương tiện hòa bình.


Những nước nói trên tăng thêm trọng lượng địa chính trị của trật tự thế giới tự do. Như nhà nghiên cứu chính trị Larry Diamond nhận xét, nếu Argentina, Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Nam Phi, và Thổ Nhĩ Kỳ lấy lại thế đứng kinh tế và tăng cường chế độ dân chủ của mình, thì Nhóm G-20, trong đó có cả Hoa Kỳ và các nước châu Âu, “sẽ trở thành một ‘câu lạc bộ dân chủ’ hùng mạnh, chỉ có Nga, Trung Quốc, và Ả Rập Saudi còn bám víu mà thôi.” Sự trỗi dậy của một tầng lớp trung lưu toàn cầu gồm các quốc gia dân chủ sẽ biến Trung Quốc và Nga thành những kẻ đứng ngoài – chứ không phải là những đối thủ chính đáng trong việc tranh giành vai trò lãnh đạo toàn cầu, như Mead lo ngại.


Trên thực tế, sự trỗi dậy của làn sóng dân chủ đã trở thành vấn đề nghiêm trọng cho cả Nga lẫn Trung Quốc. Tại Đông Âu, các quốc gia và các chư hầu Xô-viết cũ đã theo thể chế dân chủ và gia nhập phương Tây. Mặc dù các nước cờ của Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Crimea là đáng lo ngại, nhưng chúng phản ánh thế yếu chứ không phải thế mạnh địa chính trị của Nga. Trong hai thập kỷ vừa qua, phương Tây đã dần dần tiến tới gần biên giới Nga. Năm 1999, Cộng hòa Séc, Hungary, và Ba Lan gia nhập NATO. Năm 2004 có thêm bảy thành viên của khối Xô-viết cũ nối đuôi những nước này để gia nhập NATO, và năm 2009 Albania và Croatia cũng làm như thế. Trong khi đó, có thêm sáu cộng hòa Xô-viết cũ đã đi theo con đường dẫn đến địa vị thành viên của NATO bằng cách tham gia chương trình Đối tác vì Hòa bình của khối này. Mead chú trọng quá nhiều vào những thành công của Putin tại Georgia, Armenia, và Crimea. Tuy nhiên, dù Putin đang thắng vài trận nhỏ, ông lại đang thua một cuộc chiến. Nga không ở trong thế đi lên; trái lại, Nga đang trải qua một trong những mất mát địa chính trị lớn nhất so với bất cứ cường quốc quan trọng nào trong thời hiện đại.


Thể chế dân chủ cũng đang bao vây Trung Quốc. Vào giữa thập kỷ 1980, chỉ có Ấn Độ và Nhật Bản là những nước dân chủ duy nhất tại châu Á, nhưng sau đó, Indonesia, Mongolia, Philippines, Nam Hàn, Đài Loan, và Thái Lan đã gia nhập câu lạc bộ này. Gần đây Myanma (còn gọi là Miến Điện) đã thực hiện những bước dè dặt tiến tới chế độ đa đảng – việc này đã diễn ra đồng bộ với những quan hệ đang trở nên nồng ấm với Hoa Kỳ, điều mà Trung Quốc không thể không để ý. Trung Quốc đang sống trong một khu vực gồm tuyệt đại đa số láng giềng theo dân chủ.


Những chuyển đổi chính trị nói trên đã đặt Trung Quốc và Nga vào thế thủ. Bây giờ xin xét đến các diễn biến gần đây tại Ukraine. Những động thái kinh tế và chính trị trong đại bộ phận nước này đang hướng về phương Tây một cách không khoan nhượng, một xu thế đang làm Putin hoảng sợ. Ông chỉ còn trông cậy vào sức mạnh cơ bắp để o ép Ukrainevào thế chống lại EU và ở lại trong quĩ đạo của Nga. Mặc dù Putin có thể đủ sức kềm kẹp Crimea dưới quyền kiểm soát của mình, nhưng nắm tay bấu víu của ông trên phần còn lại của Ukraine đang tuột dần. Như nhà ngoại giao EU, ông Robert Cooper, đã nhận xét, Putin có thể cố gắng làm trì hoãn cái thời điểm Ukraine “liên minh với EU, nhưng ông ta không thể chặn đứng được việc này.” Thật vậy, thậm chí Putin không có khả năng thể hiện sự trì hoãn này, vì những nước cờ khiêu khích của ông có thể chỉ thúc nhanh chuyển động của Ukraine hướng về châu Âu.


Trung Quốc cũng đối diện một nan đề tương tự tại Đài Loan. Các lãnh đạo Trung Quốc thực tâm tin rằng Đài Loan là một phần của Trung Quốc, nhưng người Đài Loan không nghĩ như vậy. Cuộc chuyển đổi dân chủ trên đảo này đã khiến những đòi hỏi độc lập quốc gia của người dân trở nên vừa bức thiết vừa chính đáng hơn. Một thăm dò năm 2011 cho thấy rằng nếu người Đài Loan có thể được trấn an là Trung Quốc sẽ không tấn công Đài Loan, 80% dân chúng đảo này sẽ ủng hộ việc tuyên bố độc lập. Cũng như Nga, Trung Quốc muốn duy trì quyền kiểm soát địa chính trị đối với các nước láng giềng. Nhưng sự bành trướng của thể chế dân chủ đến mọi khu vực tại châu Á đã khiến Bắc Kinh chỉ còn cách duy nhất là áp đặt ách thống trị lỗi thời [old-fashioned domination] để đạt mục tiêu địa chiến trị của mình, và phương án này là rất tốn kém và tự chuốc lấy thất bại.


Trong khi sự trỗi dậy của các quốc gia dân chủ gây nhiều khó khăn cho Trung Quốc và Nga, thì sự thể này lại giúp thế giới trở nên an toàn hơn trước mắt Hoa Kỳ. Hai cường quốc nói trên được coi là đối thủ của Hoa Kỳ, nhưng sự cạnh tranh đã diễn ra trên một sân chơi rất gập ghềnh đối với họ: Hoa Kỳ có nhiều nước bạn nhất, và cũng là những nước bạn có khả năng nhất. Ngân sách quốc phòng của Washington và đồng minh của Mỹ chiếm đến 75 phần trăm chi phí quân sự toàn cầu. Tiến trình dân chủ hóa [tại khu vực Á Âu] đã nhốt Trung Quốc và Nga trong một chiếc hộp địa chính trị.


Iran không bị các nước dân chủ bao vây, nhưng nó bị đe dọa bởi một phong trào đòi hỏi dân chủ đầy bất ổn ở trong nước. Nghiêm trọng hơn nữa, Iran là thành viên yếu kém nhất trong trục [xét lại] của Mead, với một nền kinh tế và một lực lượng quân sự nhỏ bé hơn nhiều so với Hoa Kỳ và hai đại cường kia. Iran còn là mục tiêu của một chế độ trừng phạt quốc tế mạnh mẽ nhất từ trước tới nay mà LHQ có thể huy động được, nhờ sự giúp đỡ của Trung Quốc và Nga. Chính sách ngoại giao đối với Iran của chính quyền Obama có thể thành công hoặc không thành công, nhưng một chính sách khác theo ý Mead để ngăn chặn nước này thủ đắc vũ khí hạt nhân thì lại không rõ ràng. Đường lối của Tổng thống Mỹ Barack Obama có ưu điểm là đưa ra một lộ trình theo đó Tehran có thể chuyển đổi từ một cường quốc khu vực thù nghịch thành một thành viên phi hạt nhân có tinh thần xây dựng của cộng đồng quốc tế – một nước có tiềm năng thay đổi trò chơi địa chính trị mà Mead không đánh giá cao.


XÉT LẠI CHỦ NGHĨA XÉT LẠI


Không những Mead đánh giá thấp sức mạnh của Hoa Kỳ và trật tự mà nó đã xây dựng; ông còn cường điệu mức độ mà Trung Quốc và Nga đang ra sức chống lại hai đối tượng này. (Gác tham vọng hạt nhân qua một bên, Iran trông giống một quốc gia đang thực sự kháng cự thì ít mà vô vọng phản đối thì nhiều, vì thế ta không nên coi Iran có địa vị gần như một cường quốc xét lại [a revisionist power].)  Rõ ràng là, Trung Quốc và Nga mong muốn bành trướng ảnh hưởng trong khu vực. Trung Quốc đã đưa ra các đòi hỏi hung hăng về chủ quyền trên biển và các đảo tranh chấp gần bờ, đồng thời lao vào việc tăng cường sức mạnh vũ khí. Putin có viễn kiến khôi phục lại địa vị bá quyền của Nga đối với “những nước lân cận”. Cả hai đại cường này đang hung hăng giận dữ trước địa vị lãnh đạo của Hoa Kỳ và sẵn sàng chống lại nó khi họ có thể.


Nhưng Trung Quốc và Nga không hẳn là những cường quốc xét lại. Như cựu Bộ trưởng Ngoại giao Israel, ông Shlomo Ben-Ami, từng nói, chính sách đối ngoại của Putin “phản ánh sự căm phẫn của Putin về việc Nga bị cho ra bên lề địa chính trị hơn là tiếng hò reo xung trận của một đế quốc đang trỗi dậy.” Hẳn nhiên, Trung Quốc mới thực là một cương quốc đang trỗi dậy, và điều này đã cám dỗ Trung Quốc vào một cuộc đọ sức nguy hiểm với các đồng minh của Hoa Kỳ tại châu Á. Nhưng hiện nay, Trung Quốc không ra sức phá vỡ những liên minh này của Mỹ hay lật đổ cái hệ thống quản trị an ninh khu vực rộng lớn hơn, hiện thân trong các tổ chức như Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) hay Thượng đỉnh Đông Á. Và thậm chí nếu Trung Quốc nuôi tham vọng cuối cùng sẽ làm điều này đi nữa, các đối tác an ninh của Mỹ trong khu vực ít ra cũng đang trở nên mạnh hơn, chứ không yếu hơn chút nào. Tối đa, Trung Quốc và Nga chỉ là những kẻ phá đám. Họ không có những lợi ích – xin đừng nói đến tư duy, khả năng, hay đồng minh – thúc đẩy họ lật đổ những luật lệ và định chế toàn cầu đang có.


Trên thực tế, mặc dù Trung Quốc và Nga phẫn nộ vì Hoa Kỳ đứng đầu hệ thống địa chính trị hiện nay, nhưng họ chấp nhận cái logic chủ yếu của khuôn khổ này, và chấp nhận với lý do chính đáng. Sự cởi mở cho phép họ tiếp cận thương mại, đầu tư, và công nghệ từ các xã hội khác. Luật lệ cung cấp họ công cụ để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Mặc dù có các tranh cãi về sáng kiến mới là “trách nhiệm bảo hộ” (một nguyên tắc chỉ được áp dụng một cách có chọn lọc gần đây), trật tự thế giới hiện nay vẫn tôn trọng các qui phạm lâu đời về chủ quyền quốc gia và nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ nước khác. Những nguyên tắc này của Hiệp ước Westphalia vẫn là nền tảng của chính trị thế giới – vì thế Trung Quốc và Nga đã ràng buộc lợi ích quốc gia mình với chúng (mặc dù Putin có chủ trương phục hồi lãnh thổ đang gây ra tình trạng nhiễu loạn).


Vì vậy, ta không nên ngạc nhiên là Trung Quốc và Nga đã hội nhập sâu sắc vào trật tự quốc tế hiện nay. Cả hai đều là hội viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, với quyền phủ quyết, và cả hai đều tham gia tích cực vào Tổ chức Thương mại Thế giới, Quĩ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, và Nhóm G-20. Họ là những cường quốc địa chính trị trong hệ thống, ngồi ở chiếu trên trong việc quản trị toàn cầu.


Trung Quốc, mặc dù trỗi dậy nhanh chóng, nhưng không có một nghị trình toàn cầu đầy tham vọng nào cả; họ vẫn tập trung vào công việc nội bộ, quyết duy trì chế độ đảng trị. Một số trí thức và nhân vật chính trị, như Diêm Học Thông (Yan Xuetong) và Chu Thành Hổ (Zhu Chenghu), thực sự theo đuổi một danh mục gồm các mục tiêu xét lại. Họ coi hệ thống phương Tây như một mối đe dọa và đang chờ đợi cái ngày mà Trung Quốc có thể tổ chức lại trật tự quốc tế. Nhưng những tiếng nói này không lọt vào tai tầng lớp lãnh đạo chính trị ở chóp bu. Thật vậy, các lãnh đạo Trung Quốc không còn muốn theo đuổi những hiệu triệu mà họ đưa ra trước đây về một cuộc thay đổi sâu rộng. Năm 2007, tại một hội nghị Ủy ban Trung ương, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thay thế những đề xuất trước đó về một “trật tự kinh tế quốc tế mới” bằng lời kêu gọi đòi hỏi những cải tổ khiêm tốn hơn tập trung vào công bằng và công lý. Học giả Trung Quốc Vương Tập Tư (Wang Jisi) đã lý luận rằng động thái này là “tinh tế nhưng quan trọng,” đưa định hướng của Trung Quốc tiến gần tới định hướng của một nhà cải cách toàn cầu. Hiện nay Trung Quốc muốn giữ một vai trò lớn hơn tại Quĩ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, muốn có một tiếng nói lớn hơn trong những diễn đàn như G-20, và muốn thấy đồng Nhân dân tệ được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Đó không phải là nghị trình của một nước đang cố gắng xét lại trật tự kinh tế.


Trung Quốc và Nga còn là những thành viên có uy tín trong câu lạc bộ hạt nhân. Đặc điểm quan trọng nhất của cuộc dàn xếp trong thời Chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô (và sau này với Nga) là nỗ lực chung của hai nước nhằm giới hạn vũ khí hạt nhân. Mặc dù quan hệ Mỹ-Nga đã xấu đi từ đó, nhưng yếu tố hạt nhân trong dàn xếp này vẫn được duy trì. Năm 2010, Moskva vàWashingtonđã ký kết Hiệp ước cắt giảm vũ khí tiến công chiến lược mới nhất (New START), đòi hỏi hai bên cùng cắt giảm vũ khí hạt nhân tầm xa.


Trước thập niên 1990, Trung Quốc là kẻ đứng ngoài câu lạc bộ hạt nhân này. Mặc dù Bắc Kinh có một kho vũ khí hạt nhân khiêm tốn, nhưng họ tự coi mình là một tiếng nói của thế giới đang phát triển phi hạt nhân (the nonnuclear developing world) và lên tiếng chỉ trích các hiệp ước kiểm soát vũ khí và cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân. Nhưng bằng một thay đổi ngoạn mục, sau đó Trung Quốc đã quay qua ủng hộ một loạt hiệp định về vũ khí hạt nhân, gồm Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân và Hiệp ước cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân toàn diện. Trung Quốc đã khẳng định một lý thuyết “không ra tay trước trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân”, duy trì một kho vũ khí hạt nhân nhỏ, và đưa toàn bộ lực lượng hạt nhân của mình ra khỏi tình trạng báo động. Trung Quốc còn đóng một vai trò tích cực trong Hội nghị thượng đỉnh về an ninh hạt nhân, một sáng kiến do Obama đề xuất năm 2009, và Trung Quốc đã tham gia “tiến trình P5”, một nỗ lực hợp tác [giữa năm hội viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ và cũng là năm cường quốc hạt nhân] để bảo đảm an toàn vũ khí hạt nhân.


Qua một loạt vấn đề rộng lớn, Trung Quốc và Nga đang hành xử như những đại cường có địa vị ổn định hơn là những đại cường xét lại. Họ thường tìm cách tránh né các giải pháp đa phương, nhưng thỉnh thoảng chính Hoa Kỳ và các cường quốc dân chủ khác cũng làm như vậy. (Bắc Kinh đã phê chuẩn Công ước LHQ về Luật Biển; nhưng Washington thì chưa.) Và hiện nay, Trung Quốc và Nga đang sử dụng luật lệ và định chế toàn cầu để thúc đẩy lợi ích của mình. Những xung đột với Hoa Kỳ xoay quanh việc Trung Quốc và Nga muốn có tiếng nói mạnh hơn trong trật tự hiện hữu và tìm cách vận dụng trật tự này sao cho phù hợp với nhu cầu của mình. Mặc dù hai cường quốc này muốn tăng cường địa vị của mình trong hệ thống, nhưng hiện nay họ không tìm cách thay thế hệ thống này.


TIẾP TỤC NẰM TRONG HỆ THỐNG


Cuối cùng, thậm chí nếu Trung Quốc và Nga có toan tính bác bỏ những điều cơ bản của trật tự toàn cầu hiện nay, thì sự mạo hiểm này sẽ chỉ làm họ nản chí và chuốc lấy thất bại mà thôi. Những cường quốc này không những sẽ chống lại một mình Hoa Kỳ, mà họ còn phải đương đầu với một trật tự có tổ chức và kiên cố nhất toàn cầu mà thế giới chưa từng biết đến trước đây, một trật tự được ngự trị bởi những quốc gia theo chế độ tự do, tư bản, và dân chủ. Trật tự này được hậu thuẫn bởi một mạng lưới do Hoa Kỳ lãnh đạo gồm các liên minh, các định chế, các mặc cả địa chính trị, các quốc gia lệ thuộc, và các đối tác dân chủ. Trật tự này tỏ ra năng động và có sức bành trướng, dễ dàng kết nạp những quốc gia đang trỗi dậy, bắt đầu bằng Nhật Bản và Đức sau Thế chiến II. Trật tự này chứng tỏ có khả năng chấp nhận một lãnh đạo chung [shared leadership], chẳng hạn như trong các diễn đàn như G-8 và G-20. Nó cho phép các nước nằm ngoài phương Tây trao đổi thương mại và tăng trưởng kinh tế, chia sẻ các lợi ích của việc hiện đại hóa. Nó đáp ứng nhu cầu của nhiều mô hình chính trị và kinh tế khác nhau đến mức độ ta phải ngạc nhiên – dân chủ xã hội (Tây Âu), tân tự do (Vương quốc Anh và Hoa Kỳ), và tư bản nhà nước (Đông Á). Sự phồn thịnh của gần như mọi nước – và sự ổn định của chính phủ họ – trên cơ bản dựa vào trật tự này.


Trong thời đại của trật tự tự do, những vùng vẫy của các thế lực xét lại chỉ là công khó dã tràng. Thật ra, Trung Quốc và Nga đều biết rõ điều này. Họ không có những viễn kiến tầm cỡ để tìm ra một trật tự khác thay thế. Đối với những cường quốc này, các quan hệ quốc tế chủ yếu nhắm vào việc tìm kiếm thương mại và tài nguyên, bảo vệ chủ quyền của mình, và, nơi nào có thể, bá quyền khu vực. Họ chưa từng chứng tỏ có ý muốn xây dựng trật tự riêng cho mình hay thậm chí chấp nhận đầy đủ trách nhiệm đối với trật tự hiện nay và chưa từng đưa ra các viễn kiến thay thế về tiến bộ kinh tế hay chính trị toàn cầu. Đó là một khuyết điểm nghiêm trọng, vì các trật tự quốc tế thịnh và suy không chỉ vì quyền lực của quốc gia dẫn đầu; sự thành công của chúng còn tùy thuộc vào việc chúng có được coi là có chính nghĩa hay không và hoạt động cụ thể của chúng có giải quyết những vấn đề mà các quốc gia yếu cũng như mạnh đều quan tâm hay không. Trong cuộc đấu tranh vì trật tự thế giới, Trung Quốc và Nga (và chắc chắn Iran) giản dị là những kẻ đứng ngoài.


Trong tình huống này, Hoa Kỳ không nên từ bỏ các nỗ lực tăng cường trật tự tự do. Thế giới mà người Mỹ đang sống hôm nay là một thế giới mà họ phải hân hoan đón chào. Và đại chiến lược [grand strategy] mà Washington phải theo đuổi chính là cái đại chiến lược mà họ từng theo đuổi hàng chục năm nay: một dấn thân toàn cầu sâu đậm [deep global engagement]. Đấy là một chiến lược theo đó Hoa Kỳ tự ràng buộc mình với các khu vực trên thế giới thông qua thương mại, thông qua các liên minh quân sự, các định chế đa phương, và chính sách ngoại giao. Đấy là một chiến lược theo đó Hoa Kỳ thiết định được quyền lãnh đạo không những thông qua việc sử dụng quyền lực mà còn thông qua các nỗ lực bền bỉ nhắm vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu và làm ra luật lệ. Chiến lược này đã tạo được một thế giới thân thiện đối với những lợi ích của Mỹ, và thế giới trở nên thân thiện chính vì, như Tổng thống John F. Kennedy từng nói, đó là một thế giới ‘trong đó kẻ yếu hưởng được an toàn và kẻ mạnh tôn trọng công lý.”


G. John Ikenberry là Giáo sư Chính trị học và Các Vấn đề Quốc tế tại Đại học Princeton và là Giáo sư Thỉnh giảng tại Trường Balliol, Đại học Oxford.


Nguồn: Foreign Affairs, May/June 2014


Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 01, 2014 08:01

May 29, 2014

Quan hệ Nga-Trung: Thực sự đặc biệt hữu hảo?

Trần Hoàng


Trong những năm gần đây, đặc biệt là trong tháng này, người ta thấy Nga và Trung Quốc có vẻ ngày càng thân thiện hơn, gần gũi hơn. Quan hệ song phương giữa hai nước được chính phủ hai nước này đánh giá là “tốt đẹp chưa từng có”. Quả thật, hai quốc gia lớn này đã không ngừng tăng cường cộng tác trong tất cả các lĩnh vực như kinh tế, tài chính, an ninh, ngoại giao, quân sự, năng lượng v..v. Trong lúc hải quân hai nước đang có một cuộc tập trận chung trên Biển Hoa Đông những ngày này thì Tổng thống Nga Vladimir Putin có chuyến đi thăm chính thức Trung Quốc nhân dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ tư về phối hợp hành động và các biện pháp củng cố lòng tin ở châu Á (CICA). Hai bên đã dành cho nhau những lời lẽ đặc biệt tốt đẹp, ông Putin nhận xét về Trung Quốc là “người bạn tin cậy của Nga” và thêm rằng hai quốc gia đã đạt tới một giai đoạn mới trong quan hệ song phương và quân sự. Còn ông Tập Cận Bình, người đã tới Moskva trong chuyến đi công du nước ngoài đầu tiên của mình từ khi trở thành Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào tháng Ba năm ngoái thì hứa hẹn một hợp tác chiến lược với Nga.


Tuy nhiên, có những nhìn nhận cho thấy thực chất “tình bạn tin cậy” giữa hai cường quốc này không được tốt đẹp, hữu hảo như những biểu hiện bề ngoài. Có một số căng thẳng đáng nói trong mối quan hệ giữa họ.


Trong cuốn Theo dõi an ninh toàn cầu – Trung Quốc (Global Security Watch – China) xuất bản vào tháng 7 năm 2013, một cuốn sách trong bộ Theo dõi an ninh toàn cầu của Nhà xuất bản Praeger, tác giả Richard Weitz đã đặt chú trọng vào việc xem xét các chính sách ngoại giao và quốc phòng có tính nguyên tắc của Trung Quốc. Nhiều thí dụ được nêu ra trong cuốn sách này khiến cho độc giả phải suy nghĩ về bản chất mối quan hệ Nga-Trung: đó là một liên minh chiến thuật hay cộng tác chiến lược? Nêu ra ở đây một thí dụ khá điển hình: Ai cũng biết là trong nhiều thập kỷ, Nga đã sẵn lòng bán cho Trung Quốc nhiều hệ thống vũ khí trọn bộ, bao gồm các tàu chiến, tên lửa phòng không tối tân … Nhưng Trung Quốc đã không chỉ còn là người mua công nghệ quân sự mà đang dần dần xâm nhập vào thị trường cung cấp vũ khí hiện đại. Ở Trung Cận Đông, Trung Quốc đã có cạnh tranh trực tiếp với Nga, tìm cách bán vũ khí tối tân cho các nước trong khu vực này. Khi Mỹ và Israel tìm cách phong tỏa Nga trước một hợp đồng tên lửa đất đối không S-300 béo bở với Iran, và Tổng thống Nga Dmitry Medvedev ký sắc lệnh ngừng bán mặt hàng này cho Iran tháng 9 năm 2010, Trung Quốc đã nhảy vào cuộc, mời bán cho Iran một phiên bản riêng S-300 của nước này nhưng không thành công. Có nhiều những thí dụ tương tự như vậy.


Ông Weitz nhắc lại cho người đọc rằng về mặt lịch sử, quan hệ Nga-Trung được đặc trưng bởi những cuộc chiến tranh đẫm máu, các cuộc xâm lấn đế chế và lên án, tố cáo lẫn nhau. Nghi ngờ sâu sắc tiếp tục hiện hình trong thời Xô-viết, đặc biệt là trong thời kỳ Nikita Khrushchev nắm quyền lực ở Nga. Cuộc chia tay Nga-Trung vào năm 1961 được tiếp nối bởi cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước năm 1969. Ngay cả tới những năm 70 và 80 thế kỷ trước, quan hệ giữa hai quốc gia cộng sản cũng không được mấy tốt đẹp.


Tuy nhiên, thời thế thay đổi, cũng tương tự như những bất đối xứng quyền lực. Từ năm 2001, khi Nga và Trung Quốc ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Cộng tác, quan hệ song phương tiến triển và nâng cấp thành cái mà ông Weitz gọi là “tạm ước hài hòa”. Cho tới năm 2008, Trung Quốc và Nga đã cùng vạch định những đoạn cuối cùng trên đường biên giới chung dài nhất thế giới 4300 km của họ.


Điểm tương đồng cơ bản giữa Nga và Trung Quốc là ở chỗ chính sách ngoại giao của họ có  chung vấn đề trung tâm: làm thế nào với vai trò bá chủ đơn phương của Mỹ. Vì thế nội dung then chốt trong chính sách đối ngoại của cả hai nước này là mong muốn, tìm cách xây một thế giới đa cực. Chính điều này là yếu tố quyết định, nếu không muốn nói là duy nhất, khiến hai quốc gia này tăng cường cộng tác với nhau trong những năm qua. Nga và Trung Quốc hoàn toàn không có điểm chung xét theo khía cạnh tư tưởng. Người Nga luôn coi mình là dân tộc châu Âu, có định hướng tương lai ở châu Âu, có các câu hỏi, vấn đề sống còn, cốt lõi ở phương Tây. Trung Quốc tự coi mình là cường quốc đang lên không chỉ ở châu Á mà còn trên phạm vi toàn thế giới, dường như họ có nhìn nhận rằng Nga là cường quốc của quá khứ, ngày càng đi xuống, ngày càng mất đi chỗ đứng trên trường quốc tế.


Hệ quả là các mối quan hệ, cộng tác giữa hai cường quốc này có tính chiến thuật hơn là chiến lược, phát triển trong mối tương quan với việc theo đuổi các mối quan tâm, lợi ích ngắn hạn. Chúng có thể nhanh chóng thay đổi hướng diễn biến, các nhân tố làm thay đổi hướng diễn biến chính là các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội tiềm ẩn trong hai quốc gia này, và thêm vào đó nhưng không kém phần quan trọng là các chính sách, chiến lược, suy tính địa chính trị toàn cầu của Mỹ.


Ông Bobo Lo, chuyên gia về quan hệ Nga-Trung, giám đốc phụ trách các chương trình nghiên cứu về Nga và Trung Quốc cá»§a Viện Chính sách Trung tâm Cải cách châu Âu (CER) quả thật rất có lý khi gọi bộ đôi Nga, Trung Quốc là “trục cá»§a sá»± tiện lợi” trong một bài phỏng vấn có tá»±a đề “Nga – Trung: Trục cá»§a sá»± tiện lợi” (Russia-China: Axis of Convenience) đăng trên trang điện tá»­ openDemocracy ngày 20.5.2008.


Một cách đơn giản, chỉ cần xem xét các thá»±c tế cÆ¡ bản – Trung Quốc hiện đang có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, nhưng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng rất cao, có lượng dân số khổng lồ vẫn đang gia tăng, lại có tham vọng đánh bật Mỹ khỏi vị trí bá chá»§ thế giới; Nga thì có nền kinh tế lớn thứ mười trên thế giới, nhưng tốc độ tăng trưởng đang chững lại một cách đáng lo ngại, dân số chỉ bằng khoảng một phần tám dân số Trung Quốc nhưng lại đang giảm và già đi, tuy vậy lại có quân đội và nền kỹ thuật quân sá»± trội hÆ¡n nhiều so với Trung Quốc, lại cÅ©ng không giấu giếm tham vọng khôi phục vị trí cường quốc xứng đáng trên trường quốc tế – thì sẽ thấy trong quan hệ hai nước, khả năng bất hòa là cao hÆ¡n so với khả năng hữu hảo.


Không có gì đáng ngạc nhiên khi khái niệm “frenemies” (kẻ thù giả bộ bạn bè) càng ngày càng được dùng nhiều hÆ¡n để chỉ cặp đôi Nga-Trung Quốc (thí dụ xem bài “Best frenemies” đăng trên The Economist ngày 24.5.2014).


Những điểm căng thẳng nổi bật nhất trong quan hệ Nga – Trung có thể kể đến: Trung Á, Viễn Đông và châu Á-Thái Bình Dương (ngoài Viễn Đông).


1. Trung Á


Trong thời gian gần đây, có thể nhận biết ngày càng rõ là người Nga nói chung, đặc biệt là ông Putin nói riêng, chứa sâu trong tâm tư một hội chứng về sự tan rã của Liên bang Xô-viết. Người Nga coi đó là một sai lầm không dễ tha thứ và không ngừng mong muốn và nuôi hy vọng khôi phục lại một “nước Nga vĩ đại”. Điều này lý giải những nỗ lực không ngừng nghỉ của giới hoạch định đường lối, chiến lược chính trị nước này trong việc tìm cách khôi phục và tăng cường vị thế và ảnh hưởng của Nga ở các quốc gia thuộc Liên bang Xô-viết cũ. Ukraine là một thí dụ gần đây nhất và gây nhiều ngạc nhiên, ấn tượng nhất.


Kể từ khi Liên bang Xô-viết tan rã năm 1991, Nga đã tìm cách thông qua nhiều hiệp ước chính trị, an ninh và kinh tế khác nhau để phục hồi sự kiểm soát của mình với các nước cộng hòa Trung Á. Hiệp ước đầu tiên như thế, đồng thời được biết tới nhiều nhất, là Cộng đồng các Quốc gia Độc lập gồm 12 nước cộng hòa mới độc lập, được thành lập năm 1991. Tiếp theo là một loạt các hiệp ước thương mại, kinh tế như hiệp ước thành lập Liên minh Thuế quan (1995), Cộng đồng Kinh tế Âu Á (Eurasia) (2000), Liên minh Âu Á (2011). Tháng 10 năm 2002, Tổ chức Hiệp định An ninh Tập thể (SCTO), một liên minh quân sự, đã được Nga cùng 5 nước Trung Á khác ký kết thành lập … Ý tưởng một cộng đồng chung cho khu vực ngày càng phát triển và từ năm 2013, các đợt hội đàm nhằm thành lập và mở rộng Cộng đồng Kinh tế Âu Á và Liên minh Âu Á được tiến hành, cho phép mở rộng cửa cho các quốc gia nằm ngoài biên giới Trung Á.


Các phân tích của hai ông Baktybek Beshimov và Ryskeldi Satke trong bài viết có tựa đề “Cuộc đấu giành Trung Á: Nga vs Trung Quốc” (The struggle for Central Asia: Russia vs China) đăng trên trang Aljazeera ngày 12.3.2014 cho biết:


“Tấn công kinh tế của Điện Kremlin là nhằm mục đích kiềm chế giới lãnh đạo ở Trung Á đang ngày càng trở nên độc lập hơn. Ảnh hưởng của Nga ngày một tăng ở các nước Trung Á nghèo nhất như Kyrgyzstan và Tajikistan, nhưng lại giảm sút ở các nước giàu nhất như Kazakhstan hay Uzbekistan. Dự án địa chính trị của Nga ở Trung Á đang đối mặt với nhiều khó khăn hơn khi những đối thủ từ phía Đông (Trung Quốc) và từ phía Nam (Thổ Nhĩ Kỳ) xuất hiện, thách thức sức mạnh của Nga trong vùng… Có lẽ dự án hội nhập khu vực của ông Putin không ngăn chặn, mà thậm chí còn mở đường cho sự bành trướng kinh tế toàn diện của Trung Quốc. Trong khi Nga cần các nước Trung Á thuộc Liên minh Thuế quan nhằm duy trì sự hiện diện địa chính trị của mình thì Trung Quốc theo đuổi các lợi ích kinh tế. Nga dựa vào sức mạnh quân sự và sức mạnh mềm truyền thống của mình trong vùng, còn Trung Quốc dùng con bài tài chính.”


Vì thế, theo hai tác giả trên, “Bắc Kinh kiềm chế không xung đột lợi ích với Nga (ngược lại với quan điểm diều hâu của nước này ở Đông và Đông Nam Á), các nhà thiết kế chính sách Trung Quốc chắc hẳn muốn lợi dụng những sai lầm và khả năng hạn chế của Kremlin.”


Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (STO), tổ chức an ninh chung liên chính phủ do Trung Quốc khởi xướng thành lập năm 1996, đã được Trung Quốc sử dụng triệt để cho các mục đích của họ ở Trung Á. Dưới ô che của tổ chức này, Trung Quốc có thể dễ nói hơn khi tự gọi mình là một thành viên trong khu vực.


Trong lĩnh vực thương mại, Trung Quốc hiện đã bỏ xa Nga, trở thành bạn hàng chủ yếu đối với tất cả các nước Trung Á thuộc Liên bang Xô-viết cũ, chỉ trừ Uzbekistan, nơi Trung Quốc chịu xếp thứ hai. Không những đẩy mạnh thương mại, Trung Quốc còn tăng cường đầu tư trực tiếp vào các láng giềng xa gần của mình ở Trung Á, trở thành một trong những nguồn cung cấp đầu tư nước ngoài chủ yếu của các nước này. Trung Quốc đã và đang thực hiện những dự án kinh tế lớn, điển hình là các dự án khai thác, xây dựng đường ống dẫn dầu và khí đốt, tinh lọc dầu khí, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng … trong khắp khu vực. Chỉ nửa năm sau khi chính thức trở thành chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, vào tháng 9 năm 2013, ông Tập Cận Bình đã thực hiện đợt thăm chính thức bốn quốc gia lớn nhất ở Trung Á là Turkmenistan, Kazakhstan, Uzbekistan và Kyrgyzstan. Ông Tập đã đưa ra đề xuất thành lập và xây dựng cái gọi là vành đai kinh tế “Con đường Tơ lụa” với Âu Á nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi hơn cho đầu tư của Trung Quốc.


Giới quan sát cho rằng Trung Quốc hiện tại đang nắm thế thượng phong trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng ở Trung Á, đẩy Nga vào thế bí. Đó không chỉ là do tiềm năng kinh tế của họ hơn hẳn Nga mà còn vì cách tiếp cận khôn ngoan của họ – khác  với Nga, họ tránh không động chạm tới các công việc chính trị nội bộ và tránh để các quốc gia đối tác có cảm giác bị thiệt thòi về chủ quyền dân tộc – và  xu hướng muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Nga trong các quốc gia nằm trong khu vực.


Tuy hiện có nhiều bất lợi, hiển nhiên là Nga sẽ không dễ dàng bỏ cuộc, để Trung Quốc “nẫng” mất Trung Á, để khu vực này rơi sâu vào vòng ảnh hưởng, tạm thời trước mắt là kinh tế của Trung Quốc. Theo như bài viết “Cuộc đấu giành Trung Á: Nga vs Trung Quốc” nói tới ở trên thì Nga đã có những nỗ lực mạnh mẽ phục hồi lại vị thế ở các nước Trung Á yếu nhất như Kyrgzstan, Tajikistan, mở rộng sự có mặt về quân sự tại các quốc gia này (thí dụ như chi 1,5 tỉ USD cho việc tái trang bị vũ khí cho quân đội hai nước). Hiện tại, vị thế của Kremlin ở Kyrgyzstan và Tajikistian được cho là khá vững chắc.


Cũng trong bài phỏng vấn đăng trên openDemocracy đã nhắc tới ở trên, ông Bobo Lo, giám đốc phụ trách các chương trình nghiên cứu về Nga và Trung Quốc thuộc Viện chính sách Trung tâm Cải cách châu Âu CER cho biết: “Người Nga hiểu trò chơi của Trung Quốc, vì thế họ đã trở nên thờ ơ với Tổ chức Hợp tác Thượng Hải STO. Với Trung Quốc, tổ chức này có vai trò tương tự như Tổ chức Hiệp định An ninh Tập thể SCTO đối với Nga. Tổ chức Hiệp định An ninh tập Thể, do Nga thành lập vào năm 2002 có một đặc tính tối cao theo cách nhìn của Moskva: Trung Quốc không phải là thành viên. Tổ chức Hiệp định An ninh Tập thể giúp Nga tái khẳng định ảnh hưởng ở Trung Á. Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và Tổ chức Hiệp định An ninh Tập thể thực chất là các tổ chức cạnh trạnh với nhau.”


Viễn Đông


Vùng Viễn Đông là một vùng đất rộng lớn nằm ở rìa phía Đông của nước Nga, trải dài từ hồ Baikal ở phía Tây tới tận Thái Bình Dương ở phía Đông. Tên gọi hành chính của vùng này là Vùng Liên bang Viễn Đông, nó tiếp giáp với Vùng Liên bang Siberia không kém phần rộng lớn ở phía Tây. Người Nga đã khai phá vùng đất này từ lâu đời, tới giữa thế kỷ 17 họ tiến sát tới bờ Thái Bình Dương, thành lập thành phố Okhotsk, từ đó, đặc biệt là trong thế kỷ 19, người Nga đã củng cố kiểm soát của họ ở Viễn Đông.


Viễn Đông bao gồm một vùng địa lý đáng lưu ý tới, đó là vùng Priamurye hay theo như cách người Trung Quốc cố tình gọi là Ngoại Mãn Châu. Nga tiếp quản vùng này theo Hiệp ước Aigun (1858) và Hiệp ước Bắc Kinh (1860) từ triều Mãn Thanh. Người Trung Quốc xếp hai hiệp ước này vào nhóm các hiệp ước mà họ gọi là “bất bình đẳng” mà Trung Quốc buộc phải ký kết với các nước phương Tây trong “thế kỷ nhục nhã”. Nên nhớ là Bắc Kinh chưa bao giờ chính thức công nhận hai hiệp ước này.


Mãi đến một vài thập kỷ trước, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố địa lý và tập trung phát triển kinh tế ở các vùng trọng điểm trung tâm, Nga không chú trọng nhiều tới vùng này. Về phía Trung Quốc thì sự quan tâm của họ tới vùng này cũng chỉ bắt đầu trở nên rõ rệt khi nhu cầu mở rộng địa bàn hoạt động kinh tế và nguồn cung cấp tài nguyên khoáng sản trở nên cấp bách hơn.


Trong bài phân tích có tiêu đề “Viễn Đông cá»§a Nga đang dần trở thành cá»§a người Trung Quốc” (Analysis: Russia’s Far East Turning Chinese) đăng trên trang mạng ABC News ngày 14.7.2013, tác giả Peter Zeihan cảnh báo: “Người Trung Quốc đang xâm nhập nước Nga – không phải với xe tăng, mà với va ly hành lý”. Ông Zeihan cho biết: “Không thể biết được chính xác lượng người Trung Quốc di cư vào vùng Viễn Đông cá»§a Nga; Nga không tiến hành kiểm tra dân số trong hÆ¡n một thập ká»· gần đây. Nhưng theo các dấu hiệu thì có một dòng người đáng kể đang tràn qua biên giới”. Và tuy có chênh lệch lớn trong số liệu dòng nhập cư từ Trung Quốc từ các nguồn khác nhau, nhưng  “Cục Xuất nhập cảnh Liên bang lo ngại một dòng lÅ©. Cục này đã nhiều lần cảnh báo rằng người Trung Quốc có thể sẽ trở thành dân tộc thiểu số lớn nhất ở Nga trong 20-30 năm tới.” Về phương diện nhân lá»±c cÅ©ng như kinh tế và tài chính, người Nga kém thế hÆ¡n so với người Trung Quốc trong khả năng khai thác và phát triển vùng Viễn Đông, nếu họ được cho phép làm điều này. Viễn Đông là vùng đất khổng lồ, nhưng có thể nói là hoàn toàn trống trải, chỉ có hÆ¡n 7 triệu người Nga sinh sống ở đây. Trong khi đó ở các vùng Đông Bắc Trung Quốc có tới hÆ¡n 70 triệu người. Đó lại là một vùng được cho là giàu có về tài nguyên khoáng sản, với các hải cảng giá trị, rất hấp dẫn đối với người Trung Quốc đang không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động và tìm kiếm các nguồn nguyên vật liệu mới phục vụ cho nền kinh tế đang phát triển chóng mặt cá»§a họ.


Ông Zeihan lưu ý: “Bất kỳ sự bành trướng nào của người Trung Quốc trong trong khu vực này đều đưa đến câu hỏi: Bắc Kinh có đòi hỏi gì ở đây? Phần lớn vùng biên – một vùng với diện tích tương tự Iran – là nơi sinh sống của người Trung Quốc. Nga tiếp nhận vùng này vào năm 1858 và 1860, sau các Hiệp ước Aigun và Bắc Kinh. Trong số các hiệp ước ‘không công bằng’ mà Trung Quốc dưới triều đại nhà Thanh bị buộc phải ký kết với nước ngoài thì chỉ còn hai hiệp ước này là Trung Quốc chưa xử lý được.”


Theo ông Vasily Kashil, cán bộ nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Công nghệ, Moskva, đồng thời là cán bộ của Viện Nghiên cứu Viễn Đông, Moskva, cho biết trong bài viết có tựa đề “Tổng các mối lo sợ” (The Sum Total of All Fears) đăng trên trang mạng Russia in Global Affairs ngày 15.4.2013 thì người Nga ý thức được rằng những nguy cơ tiềm năng trong vùng Viễn Đông có khả năng phát sinh từ phía Trung Quốc.


Ông Kashil cho biết: “Phân tích số liệu liên quan tới việc cung cấp vũ khí mới cho các lực lượng của Quân lực Nga cho thấy Khu vực Quân sự miền Đông có tốc độ tái trang bị vũ khí thuộc loại cao nhất trong cả liên bang. Điều động quân lực từ phần châu Âu của Nga tới Viễn Đông là một trong những kịch bản then chốt cho các đợt tập trận qui mô lớn của nước này. Phần lớn các tuyên bố báo chí của Cục An ninh Liên bang FSB về hoạt động gián điệp có liên quan tới Trung Quốc. Thêm vào đó, Nga rõ ràng là có hạn chế đầu tư của Trung Quốc trong các khu vực chiến lược của nền kinh tế quốc gia.”


Trong mối liên hệ này, đáng nhắc lại ở đây là vào tháng 7 năm 2013, khi Nga có một cuộc tập trận chung qui mô lớn với Trung Quốc ở vùng bờ biển Thái Bình Dương phía Bắc Trung Quốc thì quân đội nước này cũng có một cuộc tập trận được cho là có qui mô lớn nhất trong kỷ nguyên hậu Xô-viết tại Viễn Đông. Giới quan sát cho rằng đây là một phản ứng của Nga trước nỗ lực tăng cường sức mạnh quân sự của Trung Quốc, một cử chỉ nhắm vào Trung Quốc lưu ý họ phải “cẩn thận”.


Ông Kashil viết tiếp: “Rõ ràng là mọi biện pháp phòng ngừa của Nga không liên quan tới các mối đe dọa trực tiếp, mà tới các mối đe dọa tiềm năng cho lợi ích, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ có khả năng xuất phát từ Trung Quốc. Nhưng một đe dọa tiềm năng từ phía Trung Quốc cũng đã là một yếu tố đáng kể trong chính sách ngoại giao và quốc phòng của Nga.”


Ông Kashil cảnh báo người Nga phải tiếp tục tăng cường chú ý tới các “đe dọa tiềm năng” từ phía Trung Quốc:


“Người Nga ung dung ngồi xem cảnh các cửa hàng, công ty của Nhật ở Trung Quốc bị quấy phá trong đợt sóng giận dữ của người Trung Quốc trong vụ xung đột liên quan tới quần đảo Senkaku năm 2012, một đợt vận động chống các siêu thị Carrefour của Pháp do quan điểm của Pháp về Tibet năm 2008, các trừng phạt chống Philippines, các bản tin xuất hiện đây đó về một cuộc chiến sắp tới với Philippines, Việt Nam hay Nhật Bản. Nhưng nếu sự căm ghét của công chúng có thể hướng về một nước nhỏ, vô hại như Philippines, thì bất kể một quốc gia nào cũng có thể trở thành mục tiêu, hoàn toàn phụ thuộc vào chủ ý chính trị của giới lãnh đạo Trung Quốc.


Vấn đề là ở chỗ không ai có thể biết chủ ý chính trị của giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ hướng về đâu, thậm chí chỉ trong 10 năm tới đây. Cũng như Nga, Trung Quốc là nước có hệ thống chính trị đang chuyển đổi. Tương lai dự tính của nước này được công nhận và ghi trong các tài liệu của Đảng Cộng sản, và một số lớn các tuyên bố về đường lối của giới lãnh đạo Trung Quốc nói tới cải tổ chính trị không thể tránh được.


Những cải tổ như thế làm sao có thể đặt được dưới tầm kiểm soát? Trung Quốc đang trên con đường đô thị hóa và chuyển hóa dân số, tương tự như các nước châu Âu đã trải qua cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Tương tự như châu Âu, Trung Quốc đang trải nghiệm sự bất bình đẳng kinh tế, bất công xã hội nghiêm trọng cũng như khoảng cách phân biệt trong giáo dục ngày càng lớn giữa các tầng lớp trung lưu thành thị và các tầng lớp thấp hơn.


Tình hình trên bị làm thêm nghiêm trọng bởi khủng hoảng tư tưởng trong Đảng Cộng sản cầm quyền, họ càng ngày càng sử dụng nhiều nỗ lực tuyên truyền cho các tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tư tưởng siêu cường quốc.


Đối đầu với Nga hoàn toàn vô nghĩa, nếu xét theo các lợi ích lâu dài của Trung Quốc, nhưng ngay cả trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cũng chẳng có cớ gì để Trung Quốc đối đầu với Nga. Chính sách đối đầu này xuất phát từ các lợi ích chính trị nội bộ của Mao Trạch Đông và nhóm kề cận ông ta. Nga bắt buộc phải tính đến khả năng này.” (Hết trích dẫn)


Theo ý kiến nhận xét của nhiều chuyên gia phân tích thì cuộc khủng hoảng gần đây ở Crimea đặt Nga vào thế bất lợi mới. Nga rất cần Trung Quốc im lặng, tránh đả động tới hành vi của Nga, nhưng chính sách của Nga trong vụ Crimea – khẳng định chủ quyền lãnh thổ có tính lịch sử – có  thể tạo ra một tiền lệ pháp lý cho các quốc gia khác đang có ý định thay đổi biên giới lãnh thổ quốc gia theo hướng có lợi cho họ. Liệu điều gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc đưa ra ý tưởng đòi lại một phần Viễn Đông, vốn nằm trong lãnh thổ của họ trong lịch sử gần đây?


Châu Á-Thái Bình Dương ngoài Viễn Đông


Như đã có nhắc tới ở phần trên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, Nga chỉ mới tăng cường chú ý của mình tới vùng Viễn Đông của Nga cũng như toàn bộ châu Á-Thái Bình Dương trong những năm gần đây.


Khoảng từ năm 2010, nhu cầu nhiên liệu năng lượng của vùng châu Á-Thái Bình Dương tăng mạnh, trong khi tiêu thụ nhiên liệu năng lượng cũng như nguyên vật liệu của Mỹ và Liên minh châu Âu lại giảm; thêm vào đó Liên minh châu Âu lại có chính sách bớt phụ thuộc năng lượng vào Nga, vì thế việc Nga có ý định tăng cường định hướng về châu Á-Thái Bình Dương, khu vực năng động kinh tế nhất thế giới, là điều dễ hiểu, hợp lý, nếu không muốn nói là bắt buộc.


Yếu tố địa chính trị cũng không kém phần quyết định cho chiến lược châu Á của Nga. Với hoài bão khôi phục lại vị trí cường quốc xứng đáng trên thế giới, Nga muốn trở thành một trong các thế lực quyết định trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cùng với Mỹ và Trung Quốc. Trong bước đi này, Nga cảm nhận được một thuận lợi rất đáng kể là vai trò suy yếu của Mỹ và thái độ cảnh giác, nghi ngờ của các nước trong khu vực trước một Trung Quốc đang lên.


Điểm mốc quan trọng trong việc phục hồi sự hiện diện của Nga tại châu Á-Thái Bình Dương là Hội nghị thượng đỉnh của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương tháng 9 năm 2012 tại Vladivostok. Tại hội nghị này ông Putin đã có lời phát biểu nhấn mạnh Nga là một bộ phận của khu vực châu Á-Thái Bình Dương đầy năng động, khu vực này là chìa khóa cho thành công của toàn bộ nước Nga, đặc biệt là cho công cuộc phát triển vùng Viễn Đông. Nga cũng kêu gọi các nước thành viên tăng cường giúp đỡ đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông vận tải ở khắp các vùng rộng lớn của nước Nga. Một năm sau, tháng 6.2013, ông Putin đã gây nhiều chú ý với bài phát biểu của mình tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại thành phố St. Peterburg khi thông báo một kế hoạch đầy hoài bão nhằm thúc đẩy nền kinh tế nước Nga thông qua việc chuyển định hướng về phía châu Á-Thái Bình Dương thay cho các thị trường truyền thống ở châu Âu. Ông cũng đề xuất các dự án khổng lồ trong hệ thống cơ sở hạ tầng, gồm nâng cấp tuyến đường sắt xuyên Siberia để nối nước Nga tốt hơn với vùng Thái Bình Dương. Bài phát biểu này được giới chuyên gia coi như một tuyên bố chính sách “xoay trục” của Nga về phía châu Á-Thái Bình Dương, nơi Nga có một vị trí đáng kể trong quá khứ gần đây.


Để thực hiện việc này, trước hết Nga thiết lập các quan hệ gần gũi với nhóm các nước ASEAN. Từ năm 2010, Nga có các cuộc gặp gỡ Nga–ASEAN, đầu tiên là ở cấp nguyên thủ quốc gia, sau đó là ở cấp bộ trưởng, có sự tham gia của đại diện giới kinh doanh và văn hóa. Tuy nhiên, dường như người Nga nhận thấy vai trò và vị thế yếu kém của nhóm này nên dần mất đi hào hứng.


Nga đặc biệt đẩy mạnh quan hệ cộng tác với Trung Quốc, coi Trung Quốc là đối tác chính trong toàn bộ khu vực. Tuy nhiên, chính sách coi Trung Quốc là chìa khóa trong quan hệ với khu vực nhanh chóng biểu lộ hạn chế. Người Nga thấy rõ, nếu chỉ dựa vào Trung Quốc thì do kém thế về mọi mặt, họ mãi mãi sẽ chỉ đóng vai trò phụ, ngẫu nhiên giúp sức cho Trung Quốc củng cố thế lực trong khu vực. Vì thế, ông Putin đã mở rộng nỗ lực theo một hướng khác, đầu tiên với hai nước Đông Á là Nhật Bản và Hàn Quốc, những nước có nền kinh tế mạnh nhất ở châu Á, và sau đó là Việt Nam, một quốc gia có nền kinh tế năng động, lại là đồng minh gần gũi cũ của Nga.


Cuối năm 2013 có thể được gọi là thời gian châu Á của ngoại giao Nga. Tháng 11, Nga và Nhật Bản đã có một cuộc đàm phán lịch sử 2+2 giữa các bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng hai nước ở Tokyo, được đánh giá là sự kiện “mở ra một trang mới” trong quan hệ giữa hai nước. Tại đây, hai bên đồng ý đẩy mạnh quan hệ an ninh, song song với quan hệ kinh tế và trao đổi chuyên gia. Vài ngày sau, Tổng thống Nga Putin đã có cuộc đi thăm chính thức Hàn Quốc, với mục tiêu thúc đẩy cộng tác thương mại và kỹ thuật, đồng thời cũng trao đổi về các vấn đề an ninh trong khu vực. Tiếp theo, ông Putin đã thăm Việt Nam, một đồng minh cũ mà Nga đang cung cấp trang bị vũ khí quân sự và giúp xây dựng nhà máy điện hạt nhân; hai nước cũng có quan tâm thiết lập quan hệ cộng tác chiến lược.


Nếu để ý, người ta có thể dễ dàng nhận ra một điều là hai trong số ba nước mà Nga đặc biệt quan tâm ở Đông và Đông Nam Á nói trên – Nhật Bản và Việt Nam – đang có những vấn đề nghiêm trọng liên quan tới tranh chấp lãnh thổ chủ quyền với Trung Quốc. Hàn Quốc thì được biết đến như một nước luôn khá “rắn” với Trung Quốc. Người Nga biết rõ là trước hết các nước này, và sau đó là các nước Đông, Đông Nam Á khác, tuy ở mức độ thấp hơn, chắc chắn sẽ có những nhìn nhận tốt đẹp, khuyến khích và ủng hộ hơn cho sự tái hiện diện của Nga trong một khu vực có nhiều căng thẳng, đặc biệt là khi sự can thiệp, hỗ trợ từ phía Mỹ ngày càng suy yếu và thái độ quả quyết, hung hăng từ phía Trung Quốc ngày càng gia tăng. Nga chưa bao giờ chính thức ủng hộ các đòi hỏi lãnh thổ của Trung Quốc cả ở Biển Hoa Đông cũng như ở Biển Đông.


Tóm lại, quan hệ Nga -Trung trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương có thể nói là có tính cạnh tranh, ganh đua nhiều hơn là tính cộng tác.


Thay cho phần kết


Cuộc khủng hoảng Crimea và diễn biến của nó chắc chắn đã tạo nhiều thay đổi trong chính sách, chiến thuật ngoại giao của Kremlin. Trong quan hệ với Trung Quốc, chuyến đi thăm vừa qua của ông Putin hé lộ Nga sẽ dựa vào Trung Quốc nhiều hơn, thay thế cho quan hệ với phương Tây đang xấu đi nghiêm trọng. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng điều này là bắt buộc đối với Nga hơn là sự lựa chọn tự nguyện. Nga tính đến đẩy mạnh xuất khẩu nhiên liệu năng lượng, nguyên vật liệu và công nghệ sang Trung Quốc và lôi kéo các nguồn đầu tư từ Trung Quốc, thay cho các nguồn đầu tư từ phương Tây. Theo bản tin “Nga ký kết với Trung Quốc một hợp đồng khí đốt 30 năm” (Russia signs 30-year gas deal with China) của BBC ngày 21.5.2014 thì sau 10 năm đàm phán kéo dài, cuối cùng Nga và Trung Quốc đã ký kết thỏa thuận với giá trị được cho là khoảng 400 tỉ USD cung cấp khí đốt cho Trung Quốc trong vòng 30 năm; tuy nhiên, có nhiều nhận xét nghi ngờ rằng các điều kiện của thỏa thuận này, đặc biệt là giá cả, khó có thể làm cho phía Nga hoàn toàn hài lòng.  Trung Quốc cũng hứa hẹn trước mắt sẽ đầu tư khoảng 5 tỉ USD vào vùng Viễn Đông của Nga.


Trong bài viết có tiêu đề “Ông Putin tìm kiếm các nguồn tài chính Trung Quốc nhằm chèo chống nền kinh tế đang sa sút của Nga” (Putin Going After Chinese Money to Sustain Sagging Russian Economy) đăng trên trang điện tử của Bloomberg ngày 9.5.2014, các tác giả Evgenia Pismennaya, Yuliya Fedorinova and Ilya Arkhipov chỉ ra:


“Nga đã xây dựng các mối quan hệ thương mại với Trung Quốc, bao gồm các thỏa thuận dầu khí với giá trị hàng trăm tỉ đô la, để cung cấp năng lượng cho Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ nhiều nhất ở châu Á, trong hoàn cảnh kinh tế châu Âu đang chững lại. Trung Quốc là bạn hàng thương mại lớn nhất của Nga với tổng giá trị kim ngạch 95.6 tỉ vào năm 2012, theo sau là Đức, theo số liệu của Bloomberg.


Tuy vậy, Trung Quốc chỉ có vài dự án lớn ở Nga, đó là dấu hiệu cho thấy có các hạn chế không chính thức cho đầu tư của nước này, như một quan chức Nga kho biết. Trong tháng 5 này, ít nhất có hai cuộc thảo luận của chính phủ để định ra các nguyên tắc cho phép giới đầu tư Trung Quốc làm việc ở Nga.


Ngoài hạn chế quyền xâm nhập vào các ngành kim loại quí và kim cương, có thể Nga cũng hạn chế đầu tư của Trung Quốc vào các dự án công nghệ cao. Chính phủ Nga cũng xem xét không cho phép người Trung Quốc thành lập các khu dân cư lớn để tránh gây các căng thẳng sắc tộc.”


Điều này, ngoài các hệ quả khác, củng cố nhận định rằng mặc dù tăng cường quan hệ với Trung Quốc nhưng mãi cho tới gần đây, người Nga vẫn có thái độ nghi ngờ và cảnh giác trước Trung Quốc và việc ngày nay Nga quay sang dùng đến các nguồn tài chính từ phía Đông là có phần miễn cưỡng.


Bài viết “Xoay trục của Nga sang Trung Quốc không làm thay đổi hình dạng kinh tế Nga” (Russia’s Pivot to China Won’t Reshape Russian’s Economy”) của tác giả Alexey Eremenko đăng trên trang điện tử The Moscow Times ngày 21.5.2014 tìm cách phân tích các hiệu quả kinh tế của ý định sử dụng Trung Quốc như là đồng minh kinh tế chính của Kremlin. Bài báo cho biết:


“Giới chuyên gia (Nga) cho rằng Trung Quốc có khả năng thay thế Liên minh châu Âu trong phần lớn các khu vực của nền kinh tế Nga, bao gồm cả xuất khẩu dầu khí, công nghệ và đầu tư. Nhưng liên minh với một nước đang phát triển chỉ làm co cứng hiện trạng của nền kinh tế, các chuyên gia cảnh báo, điều này không giúp Nga tăng cơ hội thoát khỏi vị thế một nền kinh tế cung cấp nguyên liệu.


Thêm vào đó, dựa vào Trung Quốc như là đồng minh kinh tế duy nhất chứa nguy cơ mặc nhiên trao cho Bắc Kinh khả năng kiểm soát nền kinh tế Nga – tuy rằng điều này có thể tránh được nếu Moskva lưu ý đến việc đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế.”


Hơn nữa, giới chuyên gia lưu ý: “Xuất khẩu của Nga sang Liên minh châu Âu trong (năm 2012) đạt 238 tỉ USD, hơn hẳn nhập khẩu với tổng giá trị 134 tỉ, theo số liệu của Tổng cục Thuế quan Nga. Xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 35 tỉ trong cùng thời kỳ, trong khi nhập khẩu từ nước này đạt 53 tỉ … Về mặt đổi mới công nghệ, sản phẩm Trung Quốc không thể thay thế được châu Âu.”


Các chuyên gia thống nhất quan điểm rằng nguy cơ chủ yếu của Nga là sẽ quá phụ thuộc vào Trung Quốc – Trung Quốc sẽ không từ khai thác triệt để một nước Nga quá phơi bày, một khi có điều kiện.”


Qua bài viết trên, có thể thấy là người Nga ý thức rõ ràng rằng ngoài các lợi ích trong việc cộng tác gần gũi hơn với nền kinh tế thứ hai trên thế giới, cần phải tính đến các mặt hạn chế cũng như các mối nguy cơ tiềm ẩn. Điều này có thể sẽ có nhiều ảnh hưởng tới chiều sâu và tính lâu dài của đường lối Trung Quốc của ông Putin.


Trong một bài viết gây nhiều chú ý trong thời gian vừa qua với tựa đề “Ông Putin tái sáng chế công tác chiến tranh như thế nào” (How Putin Is Reinventing Warfare) đăng trên trang Foreign Policy ngày 5.5.2014, tác giả  Peter Pomerantsev đưa ra khẳng định: Kremlin đang theo đuổi đường lối chiến lược gọi là “chiến tranh phi tuyến” (non-linear war) , khái niệm được sử dụng trong một truyện ngắn của ông Vladislav Surkov, một trong những cố vấn chính trị gần gũi nhất của ông Putin, được đăng tải dưới bút danh của ông này là Nathan Dubovitsky, chỉ vài ngày trước khi Crimea bị sáp nhập vào Liên bang Nga. Surkov là người được cho là tác giả của hệ thống “dân chủ có/được điều hành” thống lãnh tư tưởng ở Nga trong thế kỷ 21 và những định hướng tập trung mới trong đường lối ngoại giao.


Surkov cho rằng “trong các cuộc chiến tranh sÆ¡ khai thế ká»· 19 và 20 thường là có hai phía đối chiến. Hai nước, hai khối hay hai liên minh. Nhưng giờ đây bốn liên minh đối kháng nhau. Không phải hai đối hai, hay ba đối một. Tất cả đối đầu với tất cả.” Trong một cuộc chiến tranh như thế, “một vài vùng có thể đứng về phía này, một vài vùng lại đứng về phía khác. Một thành phố hay thế hệ hay phái giới có thể tham gia một phía khác nữa. Rồi sau đó lại đổi bên, đôi khi chính giữa cuộc chiến. Mục đích hoàn toàn khác nhau. Phần lớn coi chiến tranh như một bộ phận cá»§a một quá trình. Không nhất thiết phải là bộ phận quan trọng nhất.”


Nếu quả thật Kremlin đang theo đuổi chiến lược “phi tuyến” như thế, hẳn người ta sẽ còn được chứng kiến nhiều thay đổi, diễn biến bất ngờ trong quan hệ Nga-Trung.


© 2014 Trần Hoàng & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 29, 2014 06:58

Quan hệ Nga-Trung: Thực sự đặc biệt hữu hảo?

Trần Hoàng


Trong những năm gần đây, đặc biệt là trong tháng này, người ta thấy Nga và Trung Quốc có vẻ ngày càng thân thiện hơn, gần gũi hơn. Quan hệ song phương giữa hai nước được chính phủ hai nước này đánh giá là “tốt đẹp chưa từng có”. Quả thật, hai quốc gia lớn này đã không ngừng tăng cường cộng tác trong tất cả các lĩnh vực như kinh tế, tài chính, an ninh, ngoại giao, quân sự, năng lượng v..v. Trong lúc hải quân hai nước đang có một cuộc tập trận chung trên Biển Hoa Đông những ngày này thì Tổng thống Nga Vladimir Putin có chuyến đi thăm chính thức Trung Quốc nhân dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ tư về phối hợp hành động và các biện pháp củng cố lòng tin ở châu Á (CICA). Hai bên đã dành cho nhau những lời lẽ đặc biệt tốt đẹp, ông Putin nhận xét về Trung Quốc là “người bạn tin cậy của Nga” và thêm rằng hai quốc gia đã đạt tới một giai đoạn mới trong quan hệ song phương và quân sự. Còn ông Tập Cận Bình, người đã tới Moskva trong chuyến đi công du nước ngoài đầu tiên của mình từ khi trở thành Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào tháng Ba năm ngoái thì hứa hẹn một hợp tác chiến lược với Nga.


Tuy nhiên, có những nhìn nhận cho thấy thực chất “tình bạn tin cậy” giữa hai cường quốc này không được tốt đẹp, hữu hảo như những biểu hiện bề ngoài. Có một số căng thẳng đáng nói trong mối quan hệ giữa họ.


Trong cuốn Theo dõi an ninh toàn cầu – Trung Quốc (Global Security Watch – China) xuất bản vào tháng 7 năm 2013, một cuốn sách trong bộ Theo dõi an ninh toàn cầu của Nhà xuất bản Praeger, tác giả Richard Weitz đã đặt chú trọng vào việc xem xét các chính sách ngoại giao và quốc phòng có tính nguyên tắc của Trung Quốc. Nhiều thí dụ được nêu ra trong cuốn sách này khiến cho độc giả phải suy nghĩ về bản chất mối quan hệ Nga-Trung: đó là một liên minh chiến thuật hay cộng tác chiến lược? Nêu ra ở đây một thí dụ khá điển hình: Ai cũng biết là trong nhiều thập kỷ, Nga đã sẵn lòng bán cho Trung Quốc nhiều hệ thống vũ khí trọn bộ, bao gồm các tàu chiến, tên lửa phòng không tối tân … Nhưng Trung Quốc đã không chỉ còn là người mua công nghệ quân sự mà đang dần dần xâm nhập vào thị trường cung cấp vũ khí hiện đại. Ở Trung Cận Đông, Trung Quốc đã có cạnh tranh trực tiếp với Nga, tìm cách bán vũ khí tối tân cho các nước trong khu vực này. Khi Mỹ và Israel tìm cách phong tỏa Nga trước một hợp đồng tên lửa đất đối không S-300 béo bở với Iran, và Tổng thống Nga Dmitry Medvedev ký sắc lệnh ngừng bán mặt hàng này cho Iran tháng 9 năm 2010, Trung Quốc đã nhảy vào cuộc, mời bán cho Iran một phiên bản riêng S-300 của nước này nhưng không thành công. Có nhiều những thí dụ tương tự như vậy.


Ông Weitz nhắc lại cho người đọc rằng về mặt lịch sử, quan hệ Nga-Trung được đặc trưng bởi những cuộc chiến tranh đẫm máu, các cuộc xâm lấn đế chế và lên án, tố cáo lẫn nhau. Nghi ngờ sâu sắc tiếp tục hiện hình trong thời Xô-viết, đặc biệt là trong thời kỳ Nikita Khrushchev nắm quyền lực ở Nga. Cuộc chia tay Nga-Trung vào năm 1961 được tiếp nối bởi cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước năm 1969. Ngay cả tới những năm 70 và 80 thế kỷ trước, quan hệ giữa hai quốc gia cộng sản cũng không được mấy tốt đẹp.


Tuy nhiên, thời thế thay đổi, cũng tương tự như những bất đối xứng quyền lực. Từ năm 2001, khi Nga và Trung Quốc ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Cộng tác, quan hệ song phương tiến triển và nâng cấp thành cái mà ông Weitz gọi là “tạm ước hài hòa”. Cho tới năm 2008, Trung Quốc và Nga đã cùng vạch định những đoạn cuối cùng trên đường biên giới chung dài nhất thế giới 4300 km của họ.


Điểm tương đồng cơ bản giữa Nga và Trung Quốc là ở chỗ chính sách ngoại giao của họ có  chung vấn đề trung tâm: làm thế nào với vai trò bá chủ đơn phương của Mỹ. Vì thế nội dung then chốt trong chính sách đối ngoại của cả hai nước này là mong muốn, tìm cách xây một thế giới đa cực. Chính điều này là yếu tố quyết định, nếu không muốn nói là duy nhất, khiến hai quốc gia này tăng cường cộng tác với nhau trong những năm qua. Nga và Trung Quốc hoàn toàn không có điểm chung xét theo khía cạnh tư tưởng. Người Nga luôn coi mình là dân tộc châu Âu, có định hướng tương lai ở châu Âu, có các câu hỏi, vấn đề sống còn, cốt lõi ở phương Tây. Trung Quốc tự coi mình là cường quốc đang lên không chỉ ở châu Á mà còn trên phạm vi toàn thế giới, dường như họ có nhìn nhận rằng Nga là cường quốc của quá khứ, ngày càng đi xuống, ngày càng mất đi chỗ đứng trên trường quốc tế.


Hệ quả là các mối quan hệ, cộng tác giữa hai cường quốc này có tính chiến thuật hơn là chiến lược, phát triển trong mối tương quan với việc theo đuổi các mối quan tâm, lợi ích ngắn hạn. Chúng có thể nhanh chóng thay đổi hướng diễn biến, các nhân tố làm thay đổi hướng diễn biến chính là các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội tiềm ẩn trong hai quốc gia này, và thêm vào đó nhưng không kém phần quan trọng là các chính sách, chiến lược, suy tính địa chính trị toàn cầu của Mỹ.


Ông Bobo Lo, chuyên gia về quan hệ Nga-Trung, giám đốc phụ trách các chương trình nghiên cứu về Nga và Trung Quốc của Viện Chính sách Trung tâm Cải cách châu Âu (CER) quả thật rất có lý khi gọi bộ đôi Nga, Trung Quốc là “trục của sự tiện lợi” trong một bài phỏng vấn có tựa đề “Nga – Trung: Trục của sự tiện lợi” (Russia-China: Axis of Convenience) đăng trên trang điện tử openDemocracy ngày 20.5.2008.


Một cách đơn giản, chỉ cần xem xét các thực tế cơ bản – Trung Quốc hiện đang có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, nhưng vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng rất cao, có lượng dân số khổng lồ vẫn đang gia tăng, lại có tham vọng đánh bật Mỹ khỏi vị trí bá chủ thế giới; Nga thì có nền kinh tế lớn thứ mười trên thế giới, nhưng tốc độ tăng trưởng đang chững lại một cách đáng lo ngại, dân số chỉ bằng khoảng một phần tám dân số Trung Quốc nhưng lại đang giảm và già đi, tuy vậy lại có quân đội và nền kỹ thuật quân sự trội hơn nhiều so với Trung Quốc, lại cũng không giấu giếm tham vọng khôi phục vị trí cường quốc xứng đáng trên trường quốc tế – thì sẽ thấy trong quan hệ hai nước, khả năng bất hòa là cao hơn so với khả năng hữu hảo.


Không có gì đáng ngạc nhiên khi khái niệm “frenemies” (kẻ thù giả bộ bạn bè) càng ngày càng được dùng nhiều hơn để chỉ cặp đôi Nga-Trung Quốc (thí dụ xem bài “Best frenemies” đăng trên The Economist ngày 24.5.2014).


Những điểm căng thẳng nổi bật nhất trong quan hệ Nga – Trung có thể kể đến: Trung Á, Viễn Đông và châu Á-Thái Bình Dương (ngoài Viễn Đông).


1. Trung Á


Trong thời gian gần đây, có thể nhận biết ngày càng rõ là người Nga nói chung, đặc biệt là ông Putin nói riêng, chứa sâu trong tâm tư một hội chứng về sự tan rã của Liên bang Xô-viết. Người Nga coi đó là một sai lầm không dễ tha thứ và không ngừng mong muốn và nuôi hy vọng khôi phục lại một “nước Nga vĩ đại”. Điều này lý giải những nỗ lực không ngừng nghỉ của giới hoạch định đường lối, chiến lược chính trị nước này trong việc tìm cách khôi phục và tăng cường vị thế và ảnh hưởng của Nga ở các quốc gia thuộc Liên bang Xô-viết cũ. Ukraine là một thí dụ gần đây nhất và gây nhiều ngạc nhiên, ấn tượng nhất.


Kể từ khi Liên bang Xô-viết tan rã năm 1991, Nga đã tìm cách thông qua nhiều hiệp ước chính trị, an ninh và kinh tế khác nhau để phục hồi sự kiểm soát của mình với các nước cộng hòa Trung Á. Hiệp ước đầu tiên như thế, đồng thời được biết tới nhiều nhất, là Cộng đồng các Quốc gia Độc lập gồm 12 nước cộng hòa mới độc lập, được thành lập năm 1991. Tiếp theo là một loạt các hiệp ước thương mại, kinh tế như hiệp ước thành lập Liên minh Thuế quan (1995), Cộng đồng Kinh tế Âu Á (Eurasia) (2000), Liên minh Âu Á (2011). Tháng 10 năm 2002, Tổ chức Hiệp định An ninh Tập thể (SCTO), một liên minh quân sự, đã được Nga cùng 5 nước Trung Á khác ký kết thành lập … Ý tưởng một cộng đồng chung cho khu vực ngày càng phát triển và từ năm 2013, các đợt hội đàm nhằm thành lập và mở rộng Cộng đồng Kinh tế Âu Á và Liên minh Âu Á được tiến hành, cho phép mở rộng cửa cho các quốc gia nằm ngoài biên giới Trung Á.


Các phân tích của hai ông Baktybek Beshimov và Ryskeldi Satke trong bài viết có tựa đề “Cuộc đấu giành Trung Á: Nga vs Trung Quốc” (The struggle for Central Asia: Russia vs China) đăng trên trang Aljazeera ngày 12.3.2014 cho biết:


“Tấn công kinh tế của Điện Kremlin là nhằm mục đích kiềm chế giới lãnh đạo ở Trung Á đang ngày càng trở nên độc lập hơn. Ảnh hưởng của Nga ngày một tăng ở các nước Trung Á nghèo nhất như Kyrgyzstan và Tajikistan, nhưng lại giảm sút ở các nước giàu nhất như Kazakhstan hay Uzbekistan. Dự án địa chính trị của Nga ở Trung Á đang đối mặt với nhiều khó khăn hơn khi những đối thủ từ phía Đông (Trung Quốc) và từ phía Nam (Thổ Nhĩ Kỳ) xuất hiện, thách thức sức mạnh của Nga trong vùng… Có lẽ dự án hội nhập khu vực của ông Putin không ngăn chặn, mà thậm chí còn mở đường cho sự bành trướng kinh tế toàn diện của Trung Quốc. Trong khi Nga cần các nước Trung Á thuộc Liên minh Thuế quan nhằm duy trì sự hiện diện địa chính trị của mình thì Trung Quốc theo đuổi các lợi ích kinh tế. Nga dựa vào sức mạnh quân sự và sức mạnh mềm truyền thống của mình trong vùng, còn Trung Quốc dùng con bài tài chính.”


Vì thế, theo hai tác giả trên, “Bắc Kinh kiềm chế không xung đột lợi ích với Nga (ngược lại với quan điểm diều hâu của nước này ở Đông và Đông Nam Á), các nhà thiết kế chính sách Trung Quốc chắc hẳn muốn lợi dụng những sai lầm và khả năng hạn chế của Kremlin.”


Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (STO), tổ chức an ninh chung liên chính phủ do Trung Quốc khởi xướng thành lập năm 1996, đã được Trung Quốc sử dụng triệt để cho các mục đích của họ ở Trung Á. Dưới ô che của tổ chức này, Trung Quốc có thể dễ nói hơn khi tự gọi mình là một thành viên trong khu vực.


Trong lĩnh vực thương mại, Trung Quốc hiện đã bỏ xa Nga, trở thành bạn hàng chủ yếu đối với tất cả các nước Trung Á thuộc Liên bang Xô-viết cũ, chỉ trừ Uzbekistan, nơi Trung Quốc chịu xếp thứ hai. Không những đẩy mạnh thương mại, Trung Quốc còn tăng cường đầu tư trực tiếp vào các láng giềng xa gần của mình ở Trung Á, trở thành một trong những nguồn cung cấp đầu tư nước ngoài chủ yếu của các nước này. Trung Quốc đã và đang thực hiện những dự án kinh tế lớn, điển hình là các dự án khai thác, xây dựng đường ống dẫn dầu và khí đốt, tinh lọc dầu khí, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng … trong khắp khu vực. Chỉ nửa năm sau khi chính thức trở thành chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, vào tháng 9 năm 2013, ông Tập Cận Bình đã thực hiện đợt thăm chính thức bốn quốc gia lớn nhất ở Trung Á là Turkmenistan, Kazakhstan, Uzbekistan và Kyrgyzstan. Ông Tập đã đưa ra đề xuất thành lập và xây dựng cái gọi là vành đai kinh tế “Con đường Tơ lụa” với Âu Á nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi hơn cho đầu tư của Trung Quốc.


Giới quan sát cho rằng Trung Quốc hiện tại đang nắm thế thượng phong trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng ở Trung Á, đẩy Nga vào thế bí. Đó không chỉ là do tiềm năng kinh tế của họ hơn hẳn Nga mà còn vì cách tiếp cận khôn ngoan của họ – khác  với Nga, họ tránh không động chạm tới các công việc chính trị nội bộ và tránh để các quốc gia đối tác có cảm giác bị thiệt thòi về chủ quyền dân tộc – và  xu hướng muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Nga trong các quốc gia nằm trong khu vực.


Tuy hiện có nhiều bất lợi, hiển nhiên là Nga sẽ không dễ dàng bỏ cuộc, để Trung Quốc “nẫng” mất Trung Á, để khu vực này rơi sâu vào vòng ảnh hưởng, tạm thời trước mắt là kinh tế của Trung Quốc. Theo như bài viết “Cuộc đấu giành Trung Á: Nga vs Trung Quốc” nói tới ở trên thì Nga đã có những nỗ lực mạnh mẽ phục hồi lại vị thế ở các nước Trung Á yếu nhất như Kyrgzstan, Tajikistan, mở rộng sự có mặt về quân sự tại các quốc gia này (thí dụ như chi 1,5 tỉ USD cho việc tái trang bị vũ khí cho quân đội hai nước). Hiện tại, vị thế của Kremlin ở Kyrgyzstan và Tajikistian được cho là khá vững chắc.


Cũng trong bài phỏng vấn đăng trên openDemocracy đã nhắc tới ở trên, ông Bobo Lo, giám đốc phụ trách các chương trình nghiên cứu về Nga và Trung Quốc thuộc Viện chính sách Trung tâm Cải cách châu Âu CER cho biết: “Người Nga hiểu trò chơi của Trung Quốc, vì thế họ đã trở nên thờ ơ với Tổ chức Hợp tác Thượng Hải STO. Với Trung Quốc, tổ chức này có vai trò tương tự như Tổ chức Hiệp định An ninh Tập thể SCTO đối với Nga. Tổ chức Hiệp định An ninh tập Thể, do Nga thành lập vào năm 2002 có một đặc tính tối cao theo cách nhìn của Moskva: Trung Quốc không phải là thành viên. Tổ chức Hiệp định An ninh Tập thể giúp Nga tái khẳng định ảnh hưởng ở Trung Á. Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và Tổ chức Hiệp định An ninh Tập thể thực chất là các tổ chức cạnh trạnh với nhau.”


Viễn Đông


Vùng Viễn Đông là một vùng đất rộng lớn nằm ở rìa phía Đông của nước Nga, trải dài từ hồ Baikal ở phía Tây tới tận Thái Bình Dương ở phía Đông. Tên gọi hành chính của vùng này là Vùng Liên bang Viễn Đông, nó tiếp giáp với Vùng Liên bang Siberia không kém phần rộng lớn ở phía Tây. Người Nga đã khai phá vùng đất này từ lâu đời, tới giữa thế kỷ 17 họ tiến sát tới bờ Thái Bình Dương, thành lập thành phố Okhotsk, từ đó, đặc biệt là trong thế kỷ 19, người Nga đã củng cố kiểm soát của họ ở Viễn Đông.


Viễn Đông bao gồm một vùng địa lý đáng lưu ý tới, đó là vùng Priamurye hay theo như cách người Trung Quốc cố tình gọi là Ngoại Mãn Châu. Nga tiếp quản vùng này theo Hiệp ước Aigun (1858) và Hiệp ước Bắc Kinh (1860) từ triều Mãn Thanh. Người Trung Quốc xếp hai hiệp ước này vào nhóm các hiệp ước mà họ gọi là “bất bình đẳng” mà Trung Quốc buộc phải ký kết với các nước phương Tây trong “thế kỷ nhục nhã”. Nên nhớ là Bắc Kinh chưa bao giờ chính thức công nhận hai hiệp ước này.


Mãi đến một vài thập kỷ trước, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu tố địa lý và tập trung phát triển kinh tế ở các vùng trọng điểm trung tâm, Nga không chú trọng nhiều tới vùng này. Về phía Trung Quốc thì sự quan tâm của họ tới vùng này cũng chỉ bắt đầu trở nên rõ rệt khi nhu cầu mở rộng địa bàn hoạt động kinh tế và nguồn cung cấp tài nguyên khoáng sản trở nên cấp bách hơn.


Trong bài phân tích có tiêu đề “Viễn Đông của Nga đang dần trở thành của người Trung Quốc” (Analysis: Russia’s Far East Turning Chinese) đăng trên trang mạng ABC News ngày 14.7.2013, tác giả Peter Zeihan cảnh báo: “Người Trung Quốc đang xâm nhập nước Nga – không phải với xe tăng, mà với va ly hành lý”. Ông Zeihan cho biết: “Không thể biết được chính xác lượng người Trung Quốc di cư vào vùng Viễn Đông của Nga; Nga không tiến hành kiểm tra dân số trong hơn một thập kỷ gần đây. Nhưng theo các dấu hiệu thì có một dòng người đáng kể đang tràn qua biên giới”. Và tuy có chênh lệch lớn trong số liệu dòng nhập cư từ Trung Quốc từ các nguồn khác nhau, nhưng  “Cục Xuất nhập cảnh Liên bang lo ngại một dòng lũ. Cục này đã nhiều lần cảnh báo rằng người Trung Quốc có thể sẽ trở thành dân tộc thiểu số lớn nhất ở Nga trong 20-30 năm tới.” Về phương diện nhân lực cũng như kinh tế và tài chính, người Nga kém thế hơn so với người Trung Quốc trong khả năng khai thác và phát triển vùng Viễn Đông, nếu họ được cho phép làm điều này. Viễn Đông là vùng đất khổng lồ, nhưng có thể nói là hoàn toàn trống trải, chỉ có hơn 7 triệu người Nga sinh sống ở đây. Trong khi đó ở các vùng Đông Bắc Trung Quốc có tới hơn 70 triệu người. Đó lại là một vùng được cho là giàu có về tài nguyên khoáng sản, với các hải cảng giá trị, rất hấp dẫn đối với người Trung Quốc đang không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động và tìm kiếm các nguồn nguyên vật liệu mới phục vụ cho nền kinh tế đang phát triển chóng mặt của họ.


Ông Zeihan lưu ý: “Bất kỳ sự bành trướng nào của người Trung Quốc trong trong khu vực này đều đưa đến câu hỏi: Bắc Kinh có đòi hỏi gì ở đây? Phần lớn vùng biên – một vùng với diện tích tương tự Iran – là nơi sinh sống của người Trung Quốc. Nga tiếp nhận vùng này vào năm 1858 và 1860, sau các Hiệp ước Aigun và Bắc Kinh. Trong số các hiệp ước ‘không công bằng’ mà Trung Quốc dưới triều đại nhà Thanh bị buộc phải ký kết với nước ngoài thì chỉ còn hai hiệp ước này là Trung Quốc chưa xử lý được.”


Theo ông Vasily Kashil, cán bộ nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Công nghệ, Moskva, đồng thời là cán bộ của Viện Nghiên cứu Viễn Đông, Moskva, cho biết trong bài viết có tựa đề “Tổng các mối lo sợ” (The Sum Total of All Fears) đăng trên trang mạng Russia in Global Affairs ngày 15.4.2013 thì người Nga ý thức được rằng những nguy cơ tiềm năng trong vùng Viễn Đông có khả năng phát sinh từ phía Trung Quốc.


Ông Kashil cho biết: “Phân tích số liệu liên quan tới việc cung cấp vũ khí mới cho các lực lượng của Quân lực Nga cho thấy Khu vực Quân sự miền Đông có tốc độ tái trang bị vũ khí thuộc loại cao nhất trong cả liên bang. Điều động quân lực từ phần châu Âu của Nga tới Viễn Đông là một trong những kịch bản then chốt cho các đợt tập trận qui mô lớn của nước này. Phần lớn các tuyên bố báo chí của Cục An ninh Liên bang FSB về hoạt động gián điệp có liên quan tới Trung Quốc. Thêm vào đó, Nga rõ ràng là có hạn chế đầu tư của Trung Quốc trong các khu vực chiến lược của nền kinh tế quốc gia.”


Trong mối liên hệ này, đáng nhắc lại ở đây là vào tháng 7 năm 2013, khi Nga có một cuộc tập trận chung qui mô lớn với Trung Quốc ở vùng bờ biển Thái Bình Dương phía Bắc Trung Quốc thì quân đội nước này cũng có một cuộc tập trận được cho là có qui mô lớn nhất trong kỷ nguyên hậu Xô-viết tại Viễn Đông. Giới quan sát cho rằng đây là một phản ứng của Nga trước nỗ lực tăng cường sức mạnh quân sự của Trung Quốc, một cử chỉ nhắm vào Trung Quốc lưu ý họ phải “cẩn thận”.


Ông Kashil viết tiếp: “Rõ ràng là mọi biện pháp phòng ngừa của Nga không liên quan tới các mối đe dọa trực tiếp, mà tới các mối đe dọa tiềm năng cho lợi ích, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ có khả năng xuất phát từ Trung Quốc. Nhưng một đe dọa tiềm năng từ phía Trung Quốc cũng đã là một yếu tố đáng kể trong chính sách ngoại giao và quốc phòng của Nga.”


Ông Kashil cảnh báo người Nga phải tiếp tục tăng cường chú ý tới các “đe dọa tiềm năng” từ phía Trung Quốc:


“Người Nga ung dung ngồi xem cảnh các cửa hàng, công ty của Nhật ở Trung Quốc bị quấy phá trong đợt sóng giận dữ của người Trung Quốc trong vụ xung đột liên quan tới quần đảo Senkaku năm 2012, một đợt vận động chống các siêu thị Carrefour của Pháp do quan điểm của Pháp về Tibet năm 2008, các trừng phạt chống Philippines, các bản tin xuất hiện đây đó về một cuộc chiến sắp tới với Philippines, Việt Nam hay Nhật Bản. Nhưng nếu sự căm ghét của công chúng có thể hướng về một nước nhỏ, vô hại như Philippines, thì bất kể một quốc gia nào cũng có thể trở thành mục tiêu, hoàn toàn phụ thuộc vào chủ ý chính trị của giới lãnh đạo Trung Quốc.


Vấn đề là ở chỗ không ai có thể biết chủ ý chính trị của giới lãnh đạo Trung Quốc sẽ hướng về đâu, thậm chí chỉ trong 10 năm tới đây. Cũng như Nga, Trung Quốc là nước có hệ thống chính trị đang chuyển đổi. Tương lai dự tính của nước này được công nhận và ghi trong các tài liệu của Đảng Cộng sản, và một số lớn các tuyên bố về đường lối của giới lãnh đạo Trung Quốc nói tới cải tổ chính trị không thể tránh được.


Những cải tổ như thế làm sao có thể đặt được dưới tầm kiểm soát? Trung Quốc đang trên con đường đô thị hóa và chuyển hóa dân số, tương tự như các nước châu Âu đã trải qua cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Tương tự như châu Âu, Trung Quốc đang trải nghiệm sự bất bình đẳng kinh tế, bất công xã hội nghiêm trọng cũng như khoảng cách phân biệt trong giáo dục ngày càng lớn giữa các tầng lớp trung lưu thành thị và các tầng lớp thấp hơn.


Tình hình trên bị làm thêm nghiêm trọng bởi khủng hoảng tư tưởng trong Đảng Cộng sản cầm quyền, họ càng ngày càng sử dụng nhiều nỗ lực tuyên truyền cho các tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tư tưởng siêu cường quốc.


Đối đầu với Nga hoàn toàn vô nghĩa, nếu xét theo các lợi ích lâu dài của Trung Quốc, nhưng ngay cả trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cũng chẳng có cớ gì để Trung Quốc đối đầu với Nga. Chính sách đối đầu này xuất phát từ các lợi ích chính trị nội bộ của Mao Trạch Đông và nhóm kề cận ông ta. Nga bắt buộc phải tính đến khả năng này.” (Hết trích dẫn)


Theo ý kiến nhận xét của nhiều chuyên gia phân tích thì cuộc khủng hoảng gần đây ở Crimea đặt Nga vào thế bất lợi mới. Nga rất cần Trung Quốc im lặng, tránh đả động tới hành vi của Nga, nhưng chính sách của Nga trong vụ Crimea – khẳng định chủ quyền lãnh thổ có tính lịch sử – có  thể tạo ra một tiền lệ pháp lý cho các quốc gia khác đang có ý định thay đổi biên giới lãnh thổ quốc gia theo hướng có lợi cho họ. Liệu điều gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc đưa ra ý tưởng đòi lại một phần Viễn Đông, vốn nằm trong lãnh thổ của họ trong lịch sử gần đây?


Châu Á-Thái Bình Dương ngoài Viễn Đông


Như đã có nhắc tới ở phần trên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, Nga chỉ mới tăng cường chú ý của mình tới vùng Viễn Đông của Nga cũng như toàn bộ châu Á-Thái Bình Dương trong những năm gần đây.


Khoảng từ năm 2010, nhu cầu nhiên liệu năng lượng của vùng châu Á-Thái Bình Dương tăng mạnh, trong khi tiêu thụ nhiên liệu năng lượng cũng như nguyên vật liệu của Mỹ và Liên minh châu Âu lại giảm; thêm vào đó Liên minh châu Âu lại có chính sách bớt phụ thuộc năng lượng vào Nga, vì thế việc Nga có ý định tăng cường định hướng về châu Á-Thái Bình Dương, khu vực năng động kinh tế nhất thế giới, là điều dễ hiểu, hợp lý, nếu không muốn nói là bắt buộc.


Yếu tố địa chính trị cũng không kém phần quyết định cho chiến lược châu Á của Nga. Với hoài bão khôi phục lại vị trí cường quốc xứng đáng trên thế giới, Nga muốn trở thành một trong các thế lực quyết định trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cùng với Mỹ và Trung Quốc. Trong bước đi này, Nga cảm nhận được một thuận lợi rất đáng kể là vai trò suy yếu của Mỹ và thái độ cảnh giác, nghi ngờ của các nước trong khu vực trước một Trung Quốc đang lên.


Điểm mốc quan trọng trong việc phục hồi sự hiện diện của Nga tại châu Á-Thái Bình Dương là Hội nghị thượng đỉnh của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương tháng 9 năm 2012 tại Vladivostok. Tại hội nghị này ông Putin đã có lời phát biểu nhấn mạnh Nga là một bộ phận của khu vực châu Á-Thái Bình Dương đầy năng động, khu vực này là chìa khóa cho thành công của toàn bộ nước Nga, đặc biệt là cho công cuộc phát triển vùng Viễn Đông. Nga cũng kêu gọi các nước thành viên tăng cường giúp đỡ đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông vận tải ở khắp các vùng rộng lớn của nước Nga. Một năm sau, tháng 6.2013, ông Putin đã gây nhiều chú ý với bài phát biểu của mình tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại thành phố St. Peterburg khi thông báo một kế hoạch đầy hoài bão nhằm thúc đẩy nền kinh tế nước Nga thông qua việc chuyển định hướng về phía châu Á-Thái Bình Dương thay cho các thị trường truyền thống ở châu Âu. Ông cũng đề xuất các dự án khổng lồ trong hệ thống cơ sở hạ tầng, gồm nâng cấp tuyến đường sắt xuyên Siberia để nối nước Nga tốt hơn với vùng Thái Bình Dương. Bài phát biểu này được giới chuyên gia coi như một tuyên bố chính sách “xoay trục” của Nga về phía châu Á-Thái Bình Dương, nơi Nga có một vị trí đáng kể trong quá khứ gần đây.


Để thực hiện việc này, trước hết Nga thiết lập các quan hệ gần gũi với nhóm các nước ASEAN. Từ năm 2010, Nga có các cuộc gặp gỡ Nga–ASEAN, đầu tiên là ở cấp nguyên thủ quốc gia, sau đó là ở cấp bộ trưởng, có sự tham gia của đại diện giới kinh doanh và văn hóa. Tuy nhiên, dường như người Nga nhận thấy vai trò và vị thế yếu kém của nhóm này nên dần mất đi hào hứng.


Nga đặc biệt đẩy mạnh quan hệ cộng tác với Trung Quốc, coi Trung Quốc là đối tác chính trong toàn bộ khu vực. Tuy nhiên, chính sách coi Trung Quốc là chìa khóa trong quan hệ với khu vực nhanh chóng biểu lộ hạn chế. Người Nga thấy rõ, nếu chỉ dựa vào Trung Quốc thì do kém thế về mọi mặt, họ mãi mãi sẽ chỉ đóng vai trò phụ, ngẫu nhiên giúp sức cho Trung Quốc củng cố thế lực trong khu vực. Vì thế, ông Putin đã mở rộng nỗ lực theo một hướng khác, đầu tiên với hai nước Đông Á là Nhật Bản và Hàn Quốc, những nước có nền kinh tế mạnh nhất ở châu Á, và sau đó là Việt Nam, một quốc gia có nền kinh tế năng động, lại là đồng minh gần gũi cũ của Nga.


Cuối năm 2013 có thể được gọi là thời gian châu Á của ngoại giao Nga. Tháng 11, Nga và Nhật Bản đã có một cuộc đàm phán lịch sử 2+2 giữa các bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng hai nước ở Tokyo, được đánh giá là sự kiện “mở ra một trang mới” trong quan hệ giữa hai nước. Tại đây, hai bên đồng ý đẩy mạnh quan hệ an ninh, song song với quan hệ kinh tế và trao đổi chuyên gia. Vài ngày sau, Tổng thống Nga Putin đã có cuộc đi thăm chính thức Hàn Quốc, với mục tiêu thúc đẩy cộng tác thương mại và kỹ thuật, đồng thời cũng trao đổi về các vấn đề an ninh trong khu vực. Tiếp theo, ông Putin đã thăm Việt Nam, một đồng minh cũ mà Nga đang cung cấp trang bị vũ khí quân sự và giúp xây dựng nhà máy điện hạt nhân; hai nước cũng có quan tâm thiết lập quan hệ cộng tác chiến lược.


Nếu để ý, người ta có thể dễ dàng nhận ra một điều là hai trong số ba nước mà Nga đặc biệt quan tâm ở Đông và Đông Nam Á nói trên – Nhật Bản và Việt Nam – đang có những vấn đề nghiêm trọng liên quan tới tranh chấp lãnh thổ chủ quyền với Trung Quốc. Hàn Quốc thì được biết đến như một nước luôn khá “rắn” với Trung Quốc. Người Nga biết rõ là trước hết các nước này, và sau đó là các nước Đông, Đông Nam Á khác, tuy ở mức độ thấp hơn, chắc chắn sẽ có những nhìn nhận tốt đẹp, khuyến khích và ủng hộ hơn cho sự tái hiện diện của Nga trong một khu vực có nhiều căng thẳng, đặc biệt là khi sự can thiệp, hỗ trợ từ phía Mỹ ngày càng suy yếu và thái độ quả quyết, hung hăng từ phía Trung Quốc ngày càng gia tăng. Nga chưa bao giờ chính thức ủng hộ các đòi hỏi lãnh thổ của Trung Quốc cả ở Biển Hoa Đông cũng như ở Biển Đông.


Tóm lại, quan hệ Nga -Trung trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương có thể nói là có tính cạnh tranh, ganh đua nhiều hơn là tính cộng tác.


Thay cho phần kết


Cuộc khủng hoảng Crimea và diễn biến của nó chắc chắn đã tạo nhiều thay đổi trong chính sách, chiến thuật ngoại giao của Kremlin. Trong quan hệ với Trung Quốc, chuyến đi thăm vừa qua của ông Putin hé lộ Nga sẽ dựa vào Trung Quốc nhiều hơn, thay thế cho quan hệ với phương Tây đang xấu đi nghiêm trọng. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng điều này là bắt buộc đối với Nga hơn là sự lựa chọn tự nguyện. Nga tính đến đẩy mạnh xuất khẩu nhiên liệu năng lượng, nguyên vật liệu và công nghệ sang Trung Quốc và lôi kéo các nguồn đầu tư từ Trung Quốc, thay cho các nguồn đầu tư từ phương Tây. Theo bản tin “Nga ký kết với Trung Quốc một hợp đồng khí đốt 30 năm” (Russia signs 30-year gas deal with China) của BBC ngày 21.5.2014 thì sau 10 năm đàm phán kéo dài, cuối cùng Nga và Trung Quốc đã ký kết thỏa thuận với giá trị được cho là khoảng 400 tỉ USD cung cấp khí đốt cho Trung Quốc trong vòng 30 năm; tuy nhiên, có nhiều nhận xét nghi ngờ rằng các điều kiện của thỏa thuận này, đặc biệt là giá cả, khó có thể làm cho phía Nga hoàn toàn hài lòng.  Trung Quốc cũng hứa hẹn trước mắt sẽ đầu tư khoảng 5 tỉ USD vào vùng Viễn Đông của Nga.


Trong bài viết có tiêu đề “Ông Putin tìm kiếm các nguồn tài chính Trung Quốc nhằm chèo chống nền kinh tế đang sa sút của Nga” (Putin Going After Chinese Money to Sustain Sagging Russian Economy) đăng trên trang điện tử của Bloomberg ngày 9.5.2014, các tác giả Evgenia Pismennaya, Yuliya Fedorinova and Ilya Arkhipov chỉ ra:


“Nga đã xây dựng các mối quan hệ thương mại với Trung Quốc, bao gồm các thỏa thuận dầu khí với giá trị hàng trăm tỉ đô la, để cung cấp năng lượng cho Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ nhiều nhất ở châu Á, trong hoàn cảnh kinh tế châu Âu đang chững lại. Trung Quốc là bạn hàng thương mại lớn nhất của Nga với tổng giá trị kim ngạch 95.6 tỉ vào năm 2012, theo sau là Đức, theo số liệu của Bloomberg.


Tuy vậy, Trung Quốc chỉ có vài dự án lớn ở Nga, đó là dấu hiệu cho thấy có các hạn chế không chính thức cho đầu tư của nước này, như một quan chức Nga kho biết. Trong tháng 5 này, ít nhất có hai cuộc thảo luận của chính phủ để định ra các nguyên tắc cho phép giới đầu tư Trung Quốc làm việc ở Nga.


Ngoài hạn chế quyền xâm nhập vào các ngành kim loại quí và kim cương, có thể Nga cũng hạn chế đầu tư của Trung Quốc vào các dự án công nghệ cao. Chính phủ Nga cũng xem xét không cho phép người Trung Quốc thành lập các khu dân cư lớn để tránh gây các căng thẳng sắc tộc.”


Điều này, ngoài các hệ quả khác, củng cố nhận định rằng mặc dù tăng cường quan hệ với Trung Quốc nhưng mãi cho tới gần đây, người Nga vẫn có thái độ nghi ngờ và cảnh giác trước Trung Quốc và việc ngày nay Nga quay sang dùng đến các nguồn tài chính từ phía Đông là có phần miễn cưỡng.


Bài viết “Xoay trục của Nga sang Trung Quốc không làm thay đổi hình dạng kinh tế Nga” (Russia’s Pivot to China Won’t Reshape Russian’s Economy”) của tác giả Alexey Eremenko đăng trên trang điện tử The Moscow Times ngày 21.5.2014 tìm cách phân tích các hiệu quả kinh tế của ý định sử dụng Trung Quốc như là đồng minh kinh tế chính của Kremlin. Bài báo cho biết:


“Giới chuyên gia (Nga) cho rằng Trung Quốc có khả năng thay thế Liên minh châu Âu trong phần lớn các khu vực của nền kinh tế Nga, bao gồm cả xuất khẩu dầu khí, công nghệ và đầu tư. Nhưng liên minh với một nước đang phát triển chỉ làm co cứng hiện trạng của nền kinh tế, các chuyên gia cảnh báo, điều này không giúp Nga tăng cơ hội thoát khỏi vị thế một nền kinh tế cung cấp nguyên liệu.


Thêm vào đó, dựa vào Trung Quốc như là đồng minh kinh tế duy nhất chứa nguy cơ mặc nhiên trao cho Bắc Kinh khả năng kiểm soát nền kinh tế Nga – tuy rằng điều này có thể tránh được nếu Moskva lưu ý đến việc đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế.”


Hơn nữa, giới chuyên gia lưu ý: “Xuất khẩu của Nga sang Liên minh châu Âu trong (năm 2012) đạt 238 tỉ USD, hơn hẳn nhập khẩu với tổng giá trị 134 tỉ, theo số liệu của Tổng cục Thuế quan Nga. Xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 35 tỉ trong cùng thời kỳ, trong khi nhập khẩu từ nước này đạt 53 tỉ … Về mặt đổi mới công nghệ, sản phẩm Trung Quốc không thể thay thế được châu Âu.”


Các chuyên gia thống nhất quan điểm rằng nguy cơ chủ yếu của Nga là sẽ quá phụ thuộc vào Trung Quốc – Trung Quốc sẽ không từ khai thác triệt để một nước Nga quá phơi bày, một khi có điều kiện.”


Qua bài viết trên, có thể thấy là người Nga ý thức rõ ràng rằng ngoài các lợi ích trong việc cộng tác gần gũi hơn với nền kinh tế thứ hai trên thế giới, cần phải tính đến các mặt hạn chế cũng như các mối nguy cơ tiềm ẩn. Điều này có thể sẽ có nhiều ảnh hưởng tới chiều sâu và tính lâu dài của đường lối Trung Quốc của ông Putin.


Trong một bài viết gây nhiều chú ý trong thời gian vừa qua với tựa đề “Ông Putin tái sáng chế công tác chiến tranh như thế nào” (How Putin Is Reinventing Warfare) đăng trên trang Foreign Policy ngày 5.5.2014, tác giả  Peter Pomerantsev đưa ra khẳng định: Kremlin đang theo đuổi đường lối chiến lược gọi là “chiến tranh phi tuyến” (non-linear war) , khái niệm được sử dụng trong một truyện ngắn của ông Vladislav Surkov, một trong những cố vấn chính trị gần gũi nhất của ông Putin, được đăng tải dưới bút danh của ông này là Nathan Dubovitsky, chỉ vài ngày trước khi Crimea bị sáp nhập vào Liên bang Nga. Surkov là người được cho là tác giả của hệ thống “dân chủ có/được điều hành” thống lãnh tư tưởng ở Nga trong thế kỷ 21 và những định hướng tập trung mới trong đường lối ngoại giao.


Surkov cho rằng “trong các cuộc chiến tranh sơ khai thế kỷ 19 và 20 thường là có hai phía đối chiến. Hai nước, hai khối hay hai liên minh. Nhưng giờ đây bốn liên minh đối kháng nhau. Không phải hai đối hai, hay ba đối một. Tất cả đối đầu với tất cả.” Trong một cuộc chiến tranh như thế, “một vài vùng có thể đứng về phía này, một vài vùng lại đứng về phía khác. Một thành phố hay thế hệ hay phái giới có thể tham gia một phía khác nữa. Rồi sau đó lại đổi bên, đôi khi chính giữa cuộc chiến. Mục đích hoàn toàn khác nhau. Phần lớn coi chiến tranh như một bộ phận của một quá trình. Không nhất thiết phải là bộ phận quan trọng nhất.”


Nếu quả thật Kremlin đang theo đuổi chiến lược “phi tuyến” như thế, hẳn người ta sẽ còn được chứng kiến nhiều thay đổi, diễn biến bất ngờ trong quan hệ Nga-Trung.


© 2014 Trần Hoàng & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 29, 2014 06:58

May 28, 2014

Tổng Bí thư đang làm gì?

Từ Linh


Tôi nhục, ổng không nhục


Giữa những ngày sôi sục, có hai tin nghe rất tức về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Không chỉ tức, mà đại nhục.


Một. Báo The New York Times ngày 13/5/2014 đưa tin: một nhà ngoại giao cấp cao ở Bắc Kinh tiết lộ người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng) muốn qua Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình để nói chuyện về Biển Đông, nhưng Tập Cận Bình không chịu gặp.


Nhục! Thằng ăn cướp đến cắm dùi trên đất nhà mình, khơi khơi nói chín khúc nhà mày là của tao, nhưng thay vì đương đầu đường hoàng như người có chính nghĩa trước kẻ cướp láo xược, thì chủ nhà lại len lén muốn đi đêm (chui nhủi như kẻ trộm), toan tìm đến nhà kẻ cướp (kiêu ngạo như chủ soái), mong gõ cửa, xin phép được gặp để tâu bẩm gì đó. Kẻ cướp nhìn thấy ắt phì cười, khinh bỉ, cho mày chết cú nữa, không thèm tiếp!


Nhưng, thế là sao? Ai là cướp, ai là trộm? Ai chủ ai, ai tớ ai?


Chỉ còn một cách hiểu: Chúng là đồng bọn. Tay chủ nhà bị cướp đang gõ cửa thực ra là tay sai, còn kẻ không thèm tiếp là chủ nó, coi nó và bè đảng của nó chẳng ra gì.


Bỗng nhớ chuyện thật này: Một ông bố có con gái 8 tuổi bị hãm hiếp. Nhưng thay vì đưa thủ phạm ra trị tội trước pháp luật, ông bố lại đến gặp thằng hiếp dâm để thỏa thuận: “Ra tòa hay không, tùy mày chi cho tao ít hay nhiều!” Xin lỗi, nghe chuyện, không thể không nghĩ ông bố đang chung tay hãm hiếp con mình.


Hai. Ngày 14/5/2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI kết thúc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có diễn văn bế mạc hội nghị. Diễn văn được giáo sư Trần Hữu Dũng đúc kết như sau:


“Diễn văn bế mạc cá»§a Nguyễn Phú Trọng có 7 đề tài chính. Hai đề tài đầu tiên (và dài nhất) là: 1) Bản sắc dân tộc cá»§a văn hóa Việt Nam, và 2) Tích cá»±c đấu tranh với những biểu hiện lai căng. Đề tài thứ 4 là ngắn nhất, nói về quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Không có bất cứ một chữ ‘Trung Quốc’ nào, và chỉ có duy nhất một chữ ‘Biển Đông’ (còn chữ Văn Hóa thì được nói đền hÆ¡n 30 lần).” [i]


Nhục! Trên thế giới, có lãnh tụ cao cấp nào khi kẻ xâm lược đã vào đến tận nhà lộng hành mà vẫn cứ thản nhiên đứng trước quần thần nói chuyện văn hóa lai tạp, không một lần dám gọi tên kẻ xâm lược, chỉ nhắc chuyện ngoại xâm cho có lệ, bất chấp hàng triệu người dân, trong đó có cả Đảng viên yêu nước, đang lòng như lửa đốt.


Nghe chuyện này, không thể không nhớ ngụ ngôn “Hoàng đế cởi truồng” của Hans Christian Andersen, và muốn lập tức trở thành thằng bé trong đám đông há hốc miệng, la toáng lên rằng: Ới bà con ơi! Ới đồng bào ơi! Ới đồng chí ơi! Ới công an, quân đội ơi… Tổng Bí thư cởi truồng!!!


Truồng bên người hùng


Mà truồng thật! Và không chỉ một, mà truồng cả cặp.


Tổng Bí thư Tập Cận Bình cởi truồng! “Giấc mơ Hoa” mỹ miều ông rêu rao không che đậy được giấc mộng Thiên triều bành trướng xấu xí dài nghìn năm.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cởi truồng! 16 chữ vàng vớ vẩn không che đậy được hình ảnh ông Trọng và bè đảng đang tồng ngồng khấu đầu ô nhục.


Thực ra, Tổng Bí thư truồng cũng lâu rồi, nhưng chỉ một số người thấy, đại chúng chưa thấy. Quả là tuyệt đại đa số dân Việt nói chung, cũng như bao dân tộc khác, ít quan tâm đến chính trị, chưa hẳn biết dân chủ là gì, cũng không quan tâm bao nhiêu đến nhân quyền, nhưng khi đụng đến chuyện giặc Tàu xâm lược Việt Nam thì lại là chuyện hoàn toàn khác. Tất cả 90 triệu dân, từ trẻ đến già, từ thất phu đến sĩ phu, sẽ lập tức sôi lên. Nhưng trong khi toàn dân sôi lên, máu chống Tàu như bản năng sinh tồn sôi lên, thì ông Trọng lại nguội lạnh, ung dung xem kẻ xâm lăng là bạn, và thế là cùng lúc, 90 triệu dân thấy ông truồng như nhộng.


Cả nước thấy rồi, này ông Trọng, ông còn ngồi đó làm gì? Ông từ chức đi!


Giữa khi Tổng Trọng truồng như thế và các đồng đảng khác của ông cũng chỉ thập thò trò hữu nghị, vừa trơ tráo vừa như gà phải cáo, thì trong tứ trụ lại có một cú chuyển ngoạn mục, từ số không, thậm chí âm không, vút trở thành người hùng (from zero to hero). Thật vậy, “đồng chí X”, từng được xem như tội đồ, bỗng chốc được hoan hô, và gần như được mọi người “xóa tội”, khi nói một câu để đời “không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông.” Hoan hô đồng chí X.


Nhưng, sau tuyên bố lẫy lừng đó của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, dân Saigon bỗng dưng đâm lo, vì không biết liệu kẻ xấu có “thịt” ông không, không biết chuyến máy bay của ông có bị “tự nhiên” rớt như các quan chức lớn vừa rớt máy bay bên Lào không? Cũng có người bảo: Trung Quốc muốn có một chính quyền thân Tàu ở Việt Nam, và như thế, họ có thể “thịt” ông Dũng vì ông không chịu hàng, nhưng họ cũng có thể thịt luôn cả ông Trọng vì đã dở hơi để “lộ hàng”.


Dân Saigon cũng xì xầm rằng biết đâu Tàu có thể giựt dây đảo chính, để có một chính quyền bù nhìn, như các nước lớn như Liên Xô, hay Mỹ thời Chiến tranh Lạnh vẫn làm.


Quân đội và đảo chính


Chết, lớn chuyện rồi! Đảo chính! Lâu nay không ai nhắc điều này trong chính trường Việt Nam, nhưng vụ đảo chính vừa xảy ra bên Thái Lan làm mọi người nghĩ đến nó như một điều có thể, thậm chí không xa.


Nói tới đảo chính, Samuel Hungtington (nổi tiếng với Xung đột giữa các nền văn minh) có nhắc đến các loại đảo chính (coup d’etat) như: i) Đảo chính bứt phá để cải cách, lập chính quyền mới, nhân sự mới, thể chế mới; ii) Đảo chính “cung đình” để bảo vệ chế độ, chỉ thay người, không thay thể chế; và iii) Đảo chính trấn áp, khi chính quyền đương nhiệm đi quá xa, hoặc dân nổi loạn không theo ý quân đội. Cả ba loại đảo chính đều do quân đội tiến hành. [ii]


Quả thật, những ngày này, không thể không nghĩ đến vai trò của quân đội. Trong khi ở một xã hội dân chủ, quân đội đứng ngoài chính trị, chỉ phục vụ đất nước theo điều động của chính quyền dân cử, thì ở nước ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại từng kịch liệt phản đối, xem là thoái hóa biến chất những ai đòi phi chính trị hóa quân đội, và luôn nhấn mạnh quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng.


Thực ra, Tổng Trọng cũng chỉ học bài người ngoài dậy. Tập đoàn Giang-Hồ (Giang Trạch Dân – Hồ Cầm Đào) cũng đã học bài học này từ bộ đôi Mao-Đặng. Đặng Tiểu Bình có lần đã khẩn khoản chỉ bảo Giang Trạch Dân, khi Giang lên nắm chức Tổng Bí thư, rằng: ”Có năm ngày làm việc, hãy dành bốn ngày cho các tướng lĩnh chóp bu” (“Out of five working days, spend four with the top brass”). Và Giang-Hồ tuân răm rắp. Chỉ trong hai năm nắm quyền, Giang đã đích thân đến thăm và làm việc với 100 đơn vị quân đội.[iii]


Thực ra, giới cầm quyền Bắc Kinh đã từng e ngại đảo chính vào năm 1989, khi sinh viên xuống đường rầm rộ ở Thiên An Môn. Điều đáng nói là một số tướng lĩnh, khi được lệnh đưa quân đàn áp sinh viên, đã bất tuân thượng lệnh. Tiêu biểu là Trung tướng Từ Cần Tiên (Xu Qinxian) tư lệnh Quân đoàn 38 lừng danh thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa. Chuyện kể rằng, khi Tướng tư lệnh Quân khu Bắc Kinh yêu cầu ông điều quân dẹp sinh viên, ông đã hỏi đi hỏi lại: Có lệnh của Triệu Tử Dương chưa? (Triệu Tử Dương là Tổng Bí thư Đảng thời kỳ đó, là người ủng hộ sinh viên muốn dân chủ hóa.) Và khi biết không có lệnh của Triệu Tử Dương, Từ Cần Tiên đã nhất định không điều quân. Không chỉ có trung tướng họ Từ, người đỡ đầu ông là Tần Cơ Vĩ (Qin Jiwei) lúc đó là Bộ trưởng Quốc phòng và ủy viên Bộ Chính trị, cũng tìm cách liên kết với Triệu Tử Dương để chống thiết quân luật. Còn có tướng Hà Yên Nhiên (He Yanran), tư lệnh Quân đoàn 28, khi đám đông giận dữ đốt phá các xe thiết giáp của đơn vị ông, ông cũng đã bất tuân lệnh nổ súng đàn áp đám đông.[iv]


Đông Âu 1989


Quân đội bất tuân, hay án binh bất động, cũng đã từng xảy ra ở Đông Âu năm 1989, như trong cuộc Cách mạng Nhung ở Tiệp Khắc, và cuộc cách mạng ở Rumani lật đổ nhà độc tài Ceausescu. [v]


Thực vậy, các Đảng Cộng sản tại Tiệp Khắc và Rumani cho đến sát ngày cách mạng đều tự tin rằng chế độ mình sẽ trường tồn bất bại, Ceausescu vẫn hùng hồn trước hàng ngàn cử tọa ngoan ngoãn rằng: “Tương lai của chủ nghĩa xã hội còn dài. Nó chỉ chết khi nào quả lê rụng từ cành táo!” (Tiên tri làm sao! Đến nay, đúng là mác-lê đã rụng, “quả táo” mác-kinh-tốt đã phủ khắp từ Baltic đến Adriatic, từ Mỹ sang Âu qua Á.)


Xin lược qua vài diễn biến chính của Cách mạng Nhung để bạn đọc dễ hình dung, cũng vì tình hình đó và đây không phải không có điểm giống:


Cách mạng Nhung bắt đầu từ những cuộc biểu tình của quần chúng bị đàn áp, đỉnh điểm của cuộc đàn áp là khi 3000 người lọt vào điểm “phục kích” của công an, họ ngồi cả xuống, hát vang, công an ùa tới đánh đập dã man, hốt lên xe. Có âm mưu tạo cái chết giả nhằm kích động quần chúng giận dữ chống phe bảo thủ. Nhưng vô tác dụng. Quần chúng nổi giận. Diễn đàn Dân sự (Civic Forum do Vaclav Havel lãnh đạo) hình thành, ra công bố 4 điểm: yêu cầu Tổng Bí thư từ chức; yêu cầu Bí thư Thành ủy và quan chức đứng sau vụ đàn áp sinh viên từ chức; yêu cầu điều tra vụ đàn áp; yêu cầu thả tất cả tù nhân lương tâm. Diễn đàn kêu gọi tổng đình công 2 tiếng ngày thứ hai, từ 12 g đến 2 giờ, để thăm dò phản ứng của đại chúng. Nếu tất cả tham gia, thì ý chí của phe bảo thủ trong Đảng coi như tan tành. Quân đội thay vì đàn áp lại ở trong trại lính. Nhân dân xuống đường 6 đêm liền sau đó, tràn ngập quảng trường trung tâm. Đại diện chính quyền liên lạc kín với Diễn đàn Dân sự để thương lượng cuộc bàn giao quyền lực. Và cuối cùng Tổng Bí thư và toàn bộ hàng ngũ lãnh đạo Đảng Cộng sản Tiệp Khắc từ chức. Cách mạng thành công.


Tổng Bí thư Trọng rất có thể sẽ trở thành phiên bản của Tổng Bí thư Jakes của Tiệp Khắc, toan tính thẳng tay đàn áp quần chúng bằng công an, thiết quân luật, điều xe tăng vào thành phố… Jakes nói:


“Phải lấy sức chọi sức! Chúng ta không thể ngồi yên giương mắt nhìn hành vi của các nhóm hoạt động ngoài vòng pháp luật và bị nước ngoài giựt dây… Những âm mưu kích động các thành phần thanh niên Tiệp có thể đưa xã hội vào vòng khủng hoảng với hậu quả khó lường!”


Nghe quen quen! Cũng kích động, cũng “khó lường”…


Về phản ứng của những kẻ kiểm soát quân đội, vào giờ phút lâm chung, Phó Thủ tướng Tiệp Khắc Marian Calfa cho biết:


“Toàn bộ guồng máy công an và an ninh nằm trong tay chúng tôi. Vậy mà không ai có đủ dũng cảm, đủ nhạy bén, đủ bản lĩnh, nói chung là đủ những gì cần thiết để dùng vũ lực…”


Tổng Bí thư Jakes còn bị quan thầy Liên Xô giáng cho một đòn chí tử khi thông báo rằng ông không thể chờ mong gì ở các lực lượng Xô-viết, cũng không có bất cứ hỗ trợ chính trị nào để Jakes tiếp tục nắm quyền.


Về quần chúng, họ như vừa thoát xác, lớn lên chẳng khác gì Phù Đổng, như lời một người dân:


“Mỗi ngày trôi qua là một ngày dân chúng thấy mình mạnh mẽ hơn, và đứng thẳng lưng hơn. Tôi có cảm tưởng như tảng đá đè trong lòng suốt 20 năm vừa qua giờ đã được gỡ bỏ. Người Tiệp chúng tôi thấy mình đường hoàng hơn. Chúng tôi đã quá hèn mọn. Nhưng giờ chúng tôi bắt đầu cảm thấy tự hào. Quả là một cảm giác phi thường.”


Cuộc Cách mạng Nhung 1989 tại Tiệp Khắc cũng nhắc nhở vài điều quan trọng khác: Cần một phe đối lập, đại diện cho tiếng nói của quần chúng. Và để hình thành lực lượng này, cần có người đủ uy tín và tầm vóc để có thể quy tụ mọi phe phái, dù trái ngược nhau đến mấy. Những nhân vật cũ trong chính quyền mới, như ông Alexander Dubcek (tác giả của Mùa xuân Praha 1968) ban đầu được quần chúng tung hô, nhưng khi ông bộc lộ tư duy cũ, vẫn tin cậy chủ nghĩa xã hội thì dân phản đối ngay (Dubcek thất bại trong cuộc bầu cử, chỉ trở thành chủ tịch Hạ viện hậu cộng sản, trong khi Vaclav Havel trở thành tổng thống.) Một bài học cho các chính khách Việt Nam?


Phá Tống và dời đô


Giữa những ngày sôi động này bỗng nhớ các vị Lê Hoàn, Lý Công Uẩn và Lý Thường Kiệt.


Dường như các thày phong thủy, tướng số, tử vi của Trung Quốc quên đọc lại lịch sử, nên đã phạm một sai lầm cực lớn khi đưa giàn khoan HD-981 vào cắm ở biển Việt Nam, vì năm 981 chính là năm Lê Hoàn (Lê Đại Hành) nhà Tiền Lê phá tan quân Tống xâm lược.


Một trong những việc làm ghi dấu sử xanh là việc Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010. Và trong triều đại Nhà Lý, tôn giáo được phát triển, nhân tài được sử dụng, giáo dục được khai sáng, kinh bang tế thế được thực hiện hiệu quả làm dân giàu, nước mạnh.


Cũng chưa bao giờ nhiều người lại ngâm nga và thấm thía bài tuyên ngôn độc lập tuyệt vời, được Lý Thường Kiệt đọc năm 1077 khi đánh giặc Tống, như trong những ngày này:


“Non nước trời Nam vua Nam ở. Rành mạch định phận tại sách trời. Quân thù cớ sao xâm phạm tới. Rồi bay sẽ bị đánh tơi bời.”


Nói một câu hợp ý toàn dân là điều đáng hoan nghênh. Ra một tuyên ngôn nức lòng người là điều cần thiết. Nhưng có lẽ điều quan trọng nhất về lâu về dài, như Lý Công Uẩn đã làm, là dời đô, dời đổi thể chế, dứt khoát từ bỏ “chỗ chật hẹp không thể mở mang” để đất nước và lịch sử thực sự sang trang.


Thực ra, việc chuyển đổi thể chế có thể diễn ra trong nhiều tuần, nhiều ngày, hay chỉ qua một đêm.


© 2014 Từ Linh & pro&contra






[i] “Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư tại Hội nghị Trung ương Đảng lần chín”, Báo Điện tử Chính phủ 14/5/2014




[ii] Wikipedia, từ mục “coup d’etat”.




[iii] Richard McGregor, The Party, NXB Harper Collins, NY 2010, trang 105.




[iv] “How top generals refused to march on Tiananmen Square”, The Sydney Morning Herald, ngày 4/6/2010.




[v] Chi tiết và trích đoạn về Cách mạng tại Tiệp Khắc và Rumani trong bài được lấy từ hai bài “Cách mạng Nhung”, và “Làm thế nào để giết một đồng chí: Cách mạng Rumani 1989”, của Victor Sebestyen, Phan Trinh dịch, đăng trên pro&contra.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 28, 2014 01:59

Tổng Bí thư đang làm gì?

Từ Linh


Tôi nhục, ổng không nhục


Giữa những ngày sôi sục, có hai tin nghe rất tức về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Không chỉ tức, mà đại nhục.


Một. Báo The New York Times ngày 13/5/2014 đưa tin: một nhà ngoại giao cấp cao ở Bắc Kinh tiết lộ người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng) muốn qua Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình để nói chuyện về Biển Đông, nhưng Tập Cận Bình không chịu gặp.


Nhục! Thằng ăn cướp đến cắm dùi trên đất nhà mình, khơi khơi nói chín khúc nhà mày là của tao, nhưng thay vì đương đầu đường hoàng như người có chính nghĩa trước kẻ cướp láo xược, thì chủ nhà lại len lén muốn đi đêm (chui nhủi như kẻ trộm), toan tìm đến nhà kẻ cướp (kiêu ngạo như chủ soái), mong gõ cửa, xin phép được gặp để tâu bẩm gì đó. Kẻ cướp nhìn thấy ắt phì cười, khinh bỉ, cho mày chết cú nữa, không thèm tiếp!


Nhưng, thế là sao? Ai là cướp, ai là trộm? Ai chủ ai, ai tớ ai?


Chỉ còn một cách hiểu: Chúng là đồng bọn. Tay chủ nhà bị cướp đang gõ cửa thực ra là tay sai, còn kẻ không thèm tiếp là chủ nó, coi nó và bè đảng của nó chẳng ra gì.


Bỗng nhớ chuyện thật này: Một ông bố có con gái 8 tuổi bị hãm hiếp. Nhưng thay vì đưa thủ phạm ra trị tội trước pháp luật, ông bố lại đến gặp thằng hiếp dâm để thỏa thuận: “Ra tòa hay không, tùy mày chi cho tao ít hay nhiều!” Xin lỗi, nghe chuyện, không thể không nghĩ ông bố đang chung tay hãm hiếp con mình.


Hai. Ngày 14/5/2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI kết thúc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có diễn văn bế mạc hội nghị. Diễn văn được giáo sư Trần Hữu Dũng đúc kết như sau:


“Diễn văn bế mạc của Nguyễn Phú Trọng có 7 đề tài chính. Hai đề tài đầu tiên (và dài nhất) là: 1) Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam, và 2) Tích cực đấu tranh với những biểu hiện lai căng. Đề tài thứ 4 là ngắn nhất, nói về quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Không có bất cứ một chữ ‘Trung Quốc’ nào, và chỉ có duy nhất một chữ ‘Biển Đông’ (còn chữ Văn Hóa thì được nói đền hơn 30 lần).” [i]


Nhục! Trên thế giới, có lãnh tụ cao cấp nào khi kẻ xâm lược đã vào đến tận nhà lộng hành mà vẫn cứ thản nhiên đứng trước quần thần nói chuyện văn hóa lai tạp, không một lần dám gọi tên kẻ xâm lược, chỉ nhắc chuyện ngoại xâm cho có lệ, bất chấp hàng triệu người dân, trong đó có cả Đảng viên yêu nước, đang lòng như lửa đốt.


Nghe chuyện này, không thể không nhớ ngụ ngôn “Hoàng đế cởi truồng” của Hans Christian Andersen, và muốn lập tức trở thành thằng bé trong đám đông há hốc miệng, la toáng lên rằng: Ới bà con ơi! Ới đồng bào ơi! Ới đồng chí ơi! Ới công an, quân đội ơi… Tổng Bí thư cởi truồng!!!


Truồng bên người hùng


Mà truồng thật! Và không chỉ một, mà truồng cả cặp.


Tổng Bí thư Tập Cận Bình cởi truồng! “Giấc mơ Hoa” mỹ miều ông rêu rao không che đậy được giấc mộng Thiên triều bành trướng xấu xí dài nghìn năm.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cởi truồng! 16 chữ vàng vớ vẩn không che đậy được hình ảnh ông Trọng và bè đảng đang tồng ngồng khấu đầu ô nhục.


Thực ra, Tổng Bí thư truồng cũng lâu rồi, nhưng chỉ một số người thấy, đại chúng chưa thấy. Quả là tuyệt đại đa số dân Việt nói chung, cũng như bao dân tộc khác, ít quan tâm đến chính trị, chưa hẳn biết dân chủ là gì, cũng không quan tâm bao nhiêu đến nhân quyền, nhưng khi đụng đến chuyện giặc Tàu xâm lược Việt Nam thì lại là chuyện hoàn toàn khác. Tất cả 90 triệu dân, từ trẻ đến già, từ thất phu đến sĩ phu, sẽ lập tức sôi lên. Nhưng trong khi toàn dân sôi lên, máu chống Tàu như bản năng sinh tồn sôi lên, thì ông Trọng lại nguội lạnh, ung dung xem kẻ xâm lăng là bạn, và thế là cùng lúc, 90 triệu dân thấy ông truồng như nhộng.


Cả nước thấy rồi, này ông Trọng, ông còn ngồi đó làm gì? Ông từ chức đi!


Giữa khi Tổng Trọng truồng như thế và các đồng đảng khác của ông cũng chỉ thập thò trò hữu nghị, vừa trơ tráo vừa như gà phải cáo, thì trong tứ trụ lại có một cú chuyển ngoạn mục, từ số không, thậm chí âm không, vút trở thành người hùng (from zero to hero). Thật vậy, “đồng chí X”, từng được xem như tội đồ, bỗng chốc được hoan hô, và gần như được mọi người “xóa tội”, khi nói một câu để đời “không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông.” Hoan hô đồng chí X.


Nhưng, sau tuyên bố lẫy lừng đó của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, dân Saigon bỗng dưng đâm lo, vì không biết liệu kẻ xấu có “thịt” ông không, không biết chuyến máy bay của ông có bị “tự nhiên” rớt như các quan chức lớn vừa rớt máy bay bên Lào không? Cũng có người bảo: Trung Quốc muốn có một chính quyền thân Tàu ở Việt Nam, và như thế, họ có thể “thịt” ông Dũng vì ông không chịu hàng, nhưng họ cũng có thể thịt luôn cả ông Trọng vì đã dở hơi để “lộ hàng”.


Dân Saigon cũng xì xầm rằng biết đâu Tàu có thể giựt dây đảo chính, để có một chính quyền bù nhìn, như các nước lớn như Liên Xô, hay Mỹ thời Chiến tranh Lạnh vẫn làm.


Quân đội và đảo chính


Chết, lớn chuyện rồi! Đảo chính! Lâu nay không ai nhắc điều này trong chính trường Việt Nam, nhưng vụ đảo chính vừa xảy ra bên Thái Lan làm mọi người nghĩ đến nó như một điều có thể, thậm chí không xa.


Nói tới đảo chính, Samuel Hungtington (nổi tiếng với Xung đột giữa các nền văn minh) có nhắc đến các loại đảo chính (coup d’etat) như: i) Đảo chính bứt phá để cải cách, lập chính quyền mới, nhân sự mới, thể chế mới; ii) Đảo chính “cung đình” để bảo vệ chế độ, chỉ thay người, không thay thể chế; và iii) Đảo chính trấn áp, khi chính quyền đương nhiệm đi quá xa, hoặc dân nổi loạn không theo ý quân đội. Cả ba loại đảo chính đều do quân đội tiến hành. [ii]


Quả thật, những ngày này, không thể không nghĩ đến vai trò của quân đội. Trong khi ở một xã hội dân chủ, quân đội đứng ngoài chính trị, chỉ phục vụ đất nước theo điều động của chính quyền dân cử, thì ở nước ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại từng kịch liệt phản đối, xem là thoái hóa biến chất những ai đòi phi chính trị hóa quân đội, và luôn nhấn mạnh quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng.


Thực ra, Tổng Trọng cũng chỉ học bài người ngoài dậy. Tập đoàn Giang-Hồ (Giang Trạch Dân – Hồ Cầm Đào) cũng đã học bài học này từ bộ đôi Mao-Đặng. Đặng Tiểu Bình có lần đã khẩn khoản chỉ bảo Giang Trạch Dân, khi Giang lên nắm chức Tổng Bí thư, rằng: ”Có năm ngày làm việc, hãy dành bốn ngày cho các tướng lĩnh chóp bu” (“Out of five working days, spend four with the top brass”). Và Giang-Hồ tuân răm rắp. Chỉ trong hai năm nắm quyền, Giang đã đích thân đến thăm và làm việc với 100 đơn vị quân đội.[iii]


Thực ra, giới cầm quyền Bắc Kinh đã từng e ngại đảo chính vào năm 1989, khi sinh viên xuống đường rầm rộ ở Thiên An Môn. Điều đáng nói là một số tướng lĩnh, khi được lệnh đưa quân đàn áp sinh viên, đã bất tuân thượng lệnh. Tiêu biểu là Trung tướng Từ Cần Tiên (Xu Qinxian) tư lệnh Quân đoàn 38 lừng danh thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa. Chuyện kể rằng, khi Tướng tư lệnh Quân khu Bắc Kinh yêu cầu ông điều quân dẹp sinh viên, ông đã hỏi đi hỏi lại: Có lệnh của Triệu Tử Dương chưa? (Triệu Tử Dương là Tổng Bí thư Đảng thời kỳ đó, là người ủng hộ sinh viên muốn dân chủ hóa.) Và khi biết không có lệnh của Triệu Tử Dương, Từ Cần Tiên đã nhất định không điều quân. Không chỉ có trung tướng họ Từ, người đỡ đầu ông là Tần Cơ Vĩ (Qin Jiwei) lúc đó là Bộ trưởng Quốc phòng và ủy viên Bộ Chính trị, cũng tìm cách liên kết với Triệu Tử Dương để chống thiết quân luật. Còn có tướng Hà Yên Nhiên (He Yanran), tư lệnh Quân đoàn 28, khi đám đông giận dữ đốt phá các xe thiết giáp của đơn vị ông, ông cũng đã bất tuân lệnh nổ súng đàn áp đám đông.[iv]


Đông Âu 1989


Quân đội bất tuân, hay án binh bất động, cũng đã từng xảy ra ở Đông Âu năm 1989, như trong cuộc Cách mạng Nhung ở Tiệp Khắc, và cuộc cách mạng ở Rumani lật đổ nhà độc tài Ceausescu. [v]


Thực vậy, các Đảng Cộng sản tại Tiệp Khắc và Rumani cho đến sát ngày cách mạng đều tự tin rằng chế độ mình sẽ trường tồn bất bại, Ceausescu vẫn hùng hồn trước hàng ngàn cử tọa ngoan ngoãn rằng: “Tương lai của chủ nghĩa xã hội còn dài. Nó chỉ chết khi nào quả lê rụng từ cành táo!” (Tiên tri làm sao! Đến nay, đúng là mác-lê đã rụng, “quả táo” mác-kinh-tốt đã phủ khắp từ Baltic đến Adriatic, từ Mỹ sang Âu qua Á.)


Xin lược qua vài diễn biến chính của Cách mạng Nhung để bạn đọc dễ hình dung, cũng vì tình hình đó và đây không phải không có điểm giống:


Cách mạng Nhung bắt đầu từ những cuộc biểu tình của quần chúng bị đàn áp, đỉnh điểm của cuộc đàn áp là khi 3000 người lọt vào điểm “phục kích” của công an, họ ngồi cả xuống, hát vang, công an ùa tới đánh đập dã man, hốt lên xe. Có âm mưu tạo cái chết giả nhằm kích động quần chúng giận dữ chống phe bảo thủ. Nhưng vô tác dụng. Quần chúng nổi giận. Diễn đàn Dân sự (Civic Forum do Vaclav Havel lãnh đạo) hình thành, ra công bố 4 điểm: yêu cầu Tổng Bí thư từ chức; yêu cầu Bí thư Thành ủy và quan chức đứng sau vụ đàn áp sinh viên từ chức; yêu cầu điều tra vụ đàn áp; yêu cầu thả tất cả tù nhân lương tâm. Diễn đàn kêu gọi tổng đình công 2 tiếng ngày thứ hai, từ 12 g đến 2 giờ, để thăm dò phản ứng của đại chúng. Nếu tất cả tham gia, thì ý chí của phe bảo thủ trong Đảng coi như tan tành. Quân đội thay vì đàn áp lại ở trong trại lính. Nhân dân xuống đường 6 đêm liền sau đó, tràn ngập quảng trường trung tâm. Đại diện chính quyền liên lạc kín với Diễn đàn Dân sự để thương lượng cuộc bàn giao quyền lực. Và cuối cùng Tổng Bí thư và toàn bộ hàng ngũ lãnh đạo Đảng Cộng sản Tiệp Khắc từ chức. Cách mạng thành công.


Tổng Bí thư Trọng rất có thể sẽ trở thành phiên bản của Tổng Bí thư Jakes của Tiệp Khắc, toan tính thẳng tay đàn áp quần chúng bằng công an, thiết quân luật, điều xe tăng vào thành phố… Jakes nói:


“Phải lấy sức chọi sức! Chúng ta không thể ngồi yên giương mắt nhìn hành vi của các nhóm hoạt động ngoài vòng pháp luật và bị nước ngoài giựt dây… Những âm mưu kích động các thành phần thanh niên Tiệp có thể đưa xã hội vào vòng khủng hoảng với hậu quả khó lường!”


Nghe quen quen! Cũng kích động, cũng “khó lường”…


Về phản ứng của những kẻ kiểm soát quân đội, vào giờ phút lâm chung, Phó Thủ tướng Tiệp Khắc Marian Calfa cho biết:


“Toàn bộ guồng máy công an và an ninh nằm trong tay chúng tôi. Vậy mà không ai có đủ dũng cảm, đủ nhạy bén, đủ bản lĩnh, nói chung là đủ những gì cần thiết để dùng vũ lực…”


Tổng Bí thư Jakes còn bị quan thầy Liên Xô giáng cho một đòn chí tử khi thông báo rằng ông không thể chờ mong gì ở các lực lượng Xô-viết, cũng không có bất cứ hỗ trợ chính trị nào để Jakes tiếp tục nắm quyền.


Về quần chúng, họ như vừa thoát xác, lớn lên chẳng khác gì Phù Đổng, như lời một người dân:


“Mỗi ngày trôi qua là một ngày dân chúng thấy mình mạnh mẽ hơn, và đứng thẳng lưng hơn. Tôi có cảm tưởng như tảng đá đè trong lòng suốt 20 năm vừa qua giờ đã được gỡ bỏ. Người Tiệp chúng tôi thấy mình đường hoàng hơn. Chúng tôi đã quá hèn mọn. Nhưng giờ chúng tôi bắt đầu cảm thấy tự hào. Quả là một cảm giác phi thường.”


Cuộc Cách mạng Nhung 1989 tại Tiệp Khắc cũng nhắc nhở vài điều quan trọng khác: Cần một phe đối lập, đại diện cho tiếng nói của quần chúng. Và để hình thành lực lượng này, cần có người đủ uy tín và tầm vóc để có thể quy tụ mọi phe phái, dù trái ngược nhau đến mấy. Những nhân vật cũ trong chính quyền mới, như ông Alexander Dubcek (tác giả của Mùa xuân Praha 1968) ban đầu được quần chúng tung hô, nhưng khi ông bộc lộ tư duy cũ, vẫn tin cậy chủ nghĩa xã hội thì dân phản đối ngay (Dubcek thất bại trong cuộc bầu cử, chỉ trở thành chủ tịch Hạ viện hậu cộng sản, trong khi Vaclav Havel trở thành tổng thống.) Một bài học cho các chính khách Việt Nam?


Phá Tống và dời đô


Giữa những ngày sôi động này bỗng nhớ các vị Lê Hoàn, Lý Công Uẩn và Lý Thường Kiệt.


Dường như các thày phong thủy, tướng số, tử vi của Trung Quốc quên đọc lại lịch sử, nên đã phạm một sai lầm cực lớn khi đưa giàn khoan HD-981 vào cắm ở biển Việt Nam, vì năm 981 chính là năm Lê Hoàn (Lê Đại Hành) nhà Tiền Lê phá tan quân Tống xâm lược.


Một trong những việc làm ghi dấu sử xanh là việc Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) dời kinh đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010. Và trong triều đại Nhà Lý, tôn giáo được phát triển, nhân tài được sử dụng, giáo dục được khai sáng, kinh bang tế thế được thực hiện hiệu quả làm dân giàu, nước mạnh.


Cũng chưa bao giờ nhiều người lại ngâm nga và thấm thía bài tuyên ngôn độc lập tuyệt vời, được Lý Thường Kiệt đọc năm 1077 khi đánh giặc Tống, như trong những ngày này:


“Non nước trời Nam vua Nam ở. Rành mạch định phận tại sách trời. Quân thù cớ sao xâm phạm tới. Rồi bay sẽ bị đánh tơi bời.”


Nói một câu hợp ý toàn dân là điều đáng hoan nghênh. Ra một tuyên ngôn nức lòng người là điều cần thiết. Nhưng có lẽ điều quan trọng nhất về lâu về dài, như Lý Công Uẩn đã làm, là dời đô, dời đổi thể chế, dứt khoát từ bỏ “chỗ chật hẹp không thể mở mang” để đất nước và lịch sử thực sự sang trang.


Thực ra, việc chuyển đổi thể chế có thể diễn ra trong nhiều tuần, nhiều ngày, hay chỉ qua một đêm.


© 2014 Từ Linh & pro&contra






[i] “Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư tại Hội nghị Trung ương Đảng lần chín”, Báo Điện tử Chính phủ 14/5/2014




[ii] Wikipedia, từ mục “coup d’etat”.




[iii] Richard McGregor, The Party, NXB Harper Collins, NY 2010, trang 105.




[iv] “How top generals refused to march on Tiananmen Square”, The Sydney Morning Herald, ngày 4/6/2010.




[v] Chi tiết và trích đoạn về Cách mạng tại Tiệp Khắc và Rumani trong bài được lấy từ hai bài “Cách mạng Nhung”, và “Làm thế nào để giết một đồng chí: Cách mạng Rumani 1989”, của Victor Sebestyen, Phan Trinh dịch, đăng trên pro&contra.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 28, 2014 01:59

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.