Phạm Thị Hoài's Blog, page 16

July 18, 2014

Lorca Nguyễn Văn Trỗi

Phạm Thị Hoài


Bài thÆ¡ “Đàn ghi ta cá»§a Lorca” cá»§a Thanh Thảo được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn lớp 12 tập 1 năm học 2008/2009 và từ đó hay được chọn làm đề thi tốt nghiệp, thi thá»­ đại học và thi đại học. Năm nay cÅ©ng như vậy.


Tôi không có gì phản đối. Mọi thứ đều tốt hÆ¡n ngá»§ vùi trong thời đại muôn thuở Vợ chồng A Phá»§. Thá»±c tình tôi đã ngại nó lại một lần nữa được chiếu cố, như một nén nhang cho cụ Tô Hoài, chúng ta thường thích những cá»­ chỉ nghÄ©a tình và đa cảm. May rằng không phải như thế. Nhưng tôi đoán Thời đại Đàn ghi ta cá»§a Lorca cÅ©ng sẽ kéo dài vài thập kỉ. Mấy dòng sau đây là một lời an á»§i cho những sÄ© tá»­ năm nay chống bút than “nếu em rớt, hãy chôn em với đề thi này”.


Ở hoàn cảnh cá»§a các em, tôi cÅ©ng sẽ chống bút. Không phải vì đó là một bài thÆ¡ khó hiểu. Truyện Kiều khó hiểu hÆ¡n nhiều, và khó hiểu nhất là những bài thÆ¡ không có gì để hiểu. Thứ này chúng ta có bạt ngàn, đọc chúng thá»±c sá»± điên đầu vì thần kinh cá»§a chúng ta bị tra tấn kinh khá»§ng bởi sá»± vô nghÄ©a. Cái bẫy giăng ra cho các em trong đề thi Lorca năm nay lẽ ra nên sập vào người ra đề, người bảo các em lên chuyến tầu nối thi ca với hiện thá»±c nhưng bắt các em xuống nhầm ga. Lorca trong bài thÆ¡ cá»§a Thanh Thảo và Lorca có thật trong lịch sá»­ chỉ giống nhau như một hình chữ S vẽ trên giấy và nước Việt Nam cÅ©ng hình chữ S ngoài đời, như cặp mắt sáng “như sao” với chòm “râu hÆ¡i dài” cá»§a một nhân vật được gọi là “Bác” trong một bài hát với Hồ Chá»§ tịch trong hiện thá»±c. Bài thÆ¡ ấy khóc thương một chàng nghệ sÄ© ghi ta xứ Tây Ban Nha tên là Lorca đột ngột bị giết hại dã man. Chấm hết. Tuyệt không đề cập điều gì hÆ¡n. Hình tượng Lorca trong bài thÆ¡ ấy không gánh vác câu chuyện gì về chàng, nó chỉ chở cảm xúc cá»§a Thanh Thảo trước cái chết đau thương cá»§a một nghệ sÄ© tài năng, bằng một ngôn ngữ thÆ¡ mà nền thi ca hiện thá»±c xã hội chá»§ nghÄ©a Việt Nam ở thời điểm ấy còn lạ lẫm.


Chỉ có chừng ấy, song đề thi yêu cầu như sau: “Về hình tượng Lor-ca trong bài thơ ’Đàn ghi ta cá»§a Lor-ca’ cá»§a Thanh Thảo, có ý kiến cho rằng: Đó là mẫu nghệ sÄ©-chiến sÄ©, vì dấn thân tranh đấu cho dân chá»§ và tá»± do nên bị bọn phát xít hành hình. Ý kiến khác thì khẳng định: Đó là mẫu nghệ sÄ© thuần túy chỉ đam mê cái đẹp và sáng tạo nghệ thuật, nhưng bị giết hại oan khuất. Bằng cảm nhận về hình tượng Lor-ca, anh/chị hãy bình luận các ý kiến trên.”


Những thứ ầm Ä© đó ở đâu ra nhỉ? Bọn phát xít nấp ở chỗ gieo vần trúc trắc nào mà tôi không thấy? Tôi cÅ©ng không phát hiện được chiến sÄ© nào dấn thân tranh đấu cho dân chá»§ tá»± do trong bài thÆ¡ cá»§a Thanh Thảo. Nếu có thì nó đã không vào được sách giáo khoa trong nhà trường Việt Nam, vì về nguyên tắc tiêu diệt người khác chính kiến thì các nhà nước cộng sản không cần phải hổ thẹn sánh vai với các nhà nước phát xít. Các tác giả Nhân văn-Giai phẩm bị ai “hành hình”? Đó là chưa kể lối bình giảng mà đúng ra nên gọi là “mớm lời” đầy tinh thần giáo án: nghệ sÄ© nên là một chiến sÄ© vị nhân sinh hay nên thuần túy vị nghệ thuật. Tôi xin cược toàn bộ tài sản tinh thần cá»§a mình vào cá»­a này, rằng câu trả lời chiết trung vô tận sẽ là: phải dung hòa cả hai. Thật là một nhận thức lay động thế giới!


Thi sÄ© Tây Ban Nha Federico García Lorca quả thật bị lá»±c lượng dân binh cá»±c hữu dưới trướng tướng phát xít Franco hành hình ngày 19.8.1936. Song cuộc đời và cái chết cá»§a ông nằm ngoài bài thÆ¡ cá»§a Thanh Thảo. Ông không là một chiến sÄ© tranh đấu, không trá»±c tiếp tham gia các phong trào chính trị, thậm chí có nhiều bạn bè và cả người bảo trợ trong giới thuộc hạ Franco. Ông bị bắt khi nương náu trong chính một gia đình thân phát xít. Ông cÅ©ng không là một thiên tài cô đơn, trước khi bị giết ông đang ở đỉnh cao cá»§a danh tiếng. Ông là cái gai trong mắt giới cá»±c hữu thá»§ cá»±u vì tư tưởng thiên tả, vì lối sống phóng túng, vì tài năng và sá»± nổi tiếng. Quá nổi tiếng. Một bài thÆ¡, một vở kịch cá»§a ông có tác động hÆ¡n ngàn khẩu súng, những kẻ muốn trừ khá»­ ông nghÄ© thế. Song còn một chi tiết nữa, có thể là chi tiết quan trọng nhất: ông là người đồng tính luyến ái. Trong chế độ phát xít, đó là án tá»­ hình. Một trong những đao phá»§ giết ông đã khoe bắn thêm hai phát vào mông “thằng đồng cô”. Cho đến bây giờ cái chết cá»§a ông vẫn chưa hoàn toàn sáng tỏ và xác ông chôn ở đâu không rõ.


Tôi không nghĩ rằng câu chuyện thực về Lorca không thể kể trong nhà trường Việt Nam. Bảo thủ và lạc hậu trong rất nhiều lĩnh vực, song chính quyền Việt Nam cởi mở và tiến bộ đến bất ngờ trong vấn đề đồng tính luyến ái. Khi cuốn Lorca y el mundo gay của nhà viết tiểu sử Lorca uy tín Ian Gibson ra mắt mấy năm trước, chính là Thông tấn xã Việt Nam đã thông tin đầu tiên. Gần đây hơn, một số tờ báo chính thống khác cũng không ngần ngại thông tin về người tình đồng tính cuối cùng của Lorca, soi thêm vào một góc còn khuất về những ngày cuối cùng của ông. Song ào ào giảng và tán, rồi ào ào ra đề thi về chiến sĩ nghệ sĩ chống phát xít hi sinh gì đó thì dễ hơn. Tôi thật thông cảm nếu có em nào quá tuyệt vọng, miêu tả chàng Lorca cầm cả đàn lẫn súng ra trận đánh Franco trong Nội chiến Tây Ban Nha, để rồi bị địch bịt mắt bắt ra pháp trường như Nguyễn Văn Trỗi.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 18, 2014 16:11

July 16, 2014

Đại cường không được nghỉ hưu: Thế giới sẽ nguy hiểm, nếu Mỹ từ bỏ vai trò lãnh đạo

Robert Kagan


Phạm Việt Vinh dịch


Trước hiểm họa Trung Quốc ngày càng gia tăng, nhiều người Việt đang đặt hy vọng vào sự “chuyển trục” sang châu Á của Mỹ và vai trò của Mỹ tại khu vực này. Tiểu luận sau đây có thể cung cấp một góc nhìn đáng tham khảo.


Tác giả Robert Kagan, 55 tuổi, là một cây bút và cố vấn chính trị người Mỹ. Là một nhân vật tân bảo thủ có thế lực và là một chuyên gia về chính trị quốc tế, ông viết nhiều cuốn sách, trong đó có quyển Sức mạnh và bất lực bảo vệ đường lối ngoại giao của Mỹ dưới thời George W. Busch. Victoria Nuland, vợ ông, làm việc tại Bộ Ngoại giao Mỹ chuyên trách các vấn đề Châu Âu và Á-Âu. Gần đây nhất, một cuộc điện đàm giữa bà và Đại sứ Hoa Kỳ tại Ukraine về những diễn biến căng thẳng ở Ukraine và vai trò của phương Tây bị nghe trộm và tung lên YouTube, trong đó bà dùng cụm từ “Fuck the EU” và cho biết Mỹ muốn nhân vật dân chủ nào sẽ đứng đầu chính phủ Ukraine mới. Theo cách phân định thường gặp, Robert Kagan đại diện quan điểm của phe được mệnh danh là “diều hâu” trong đường lối ngoại giao và quân sự Hoa Kỳ.


Người dịch


___________


I.


Các đây gần 70 năm, một trật tự thế giới mới đã hình thành từ đống hoang tàn của Thế chiến thứ hai. Trung tâm của trật tự mới này là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Ngày hôm nay, ở trật tự thế giới đó đã xuất hiện những vết nứt. Thực ra thì những khủng hoảng ví dụ như giữa Nga và Ukraine hay như ở Syria không phải là hy hữu và cũng chẳng phải là không kiểm soát nổi. Ngay cả những phản ứng rụt rè của Liên Hiệp Quốc trước các biến động tại Ukraine, rồi các vụ nổi dậy tại Trung Cận Đông, tại Bắc Phi, các chiến thắng của lực lượng Thánh chiến khủng bố tại Syria và Iraq, sự căng thẳng mang tính quốc gia chủ nghĩa ngày càng gia tăng giữa các cường quốc tại Đông Á hay là sự lấn lướt của toàn trị và sự thoái lui của dân chủ trên khắp thế giới cũng không là điều đặc biệt và bất khả kháng. Nhưng tất cả những điều đó gộp lại cho thấy một cái gì đó đã thay đổi; và sự thay đổi này diễn ra nhanh hơn chúng ta tưởng. Có vẻ như một trật tự thế giới mới đang xuất hiện.


Nếu thật sự là trật tự thế giới cũ sẽ bị sụp đổ, thì nguyên do không nằm ở sự suy giảm thế lực của Mỹ – sự cường thịnh và vai trò của nước Mỹ vẫn đủ lớn để nó có thể giải quyết thành công các thách thức của thế giới hôm nay. Nguyên do này cũng không nằm ở chỗ các vấn đề chính trị toàn cầu hiện nay ngày càng trở nên phức tạp và khó giải quyết hơn. Và nguyên do này cũng không đơn giản nằm ở sự mệt mỏi vì chiến tranh. Điều hy hữu là nguyên do này nằm trong đầu của (người Mỹ) chúng ta, đó là vấn đề về bản ngã và sự quyết đoán của người Mỹ.


Nhiều người Mỹ và các thủ lĩnh chính trị của cả hai đảng (Dân chủ và Cộng hoà), kể cả Tổng thổng Obama đã quên, hoặc lánh xa những cái đã làm nên thành công của ngoại giao Mỹ – trước hết, đó là ý tưởng về một trách nhiệm toàn cầu, trong đó quyền lợi của nước Mỹ được đặt ngang bằng với quyền lợi của nhiều nước khác trên khắp thế giới. Có vẻ như ngày hôm nay nguời ta lại quay về với những khái niệm lợi ích quốc gia được hiểu theo nghĩa hẹp. Điều này nhiều khi được gọi là “chủ nghĩa cô lập”. Nhưng cụm từ này không đúng. Thực chất, nó chính là một nỗ lực tiến tới sự bình thường. Đằng sau sự bức bối của người Mỹ muốn tiếp tục đảm đương vai trò cũ là lòng mong mỏi muốn rũ bỏ những gánh nặng trách nhiệm mà các thế hệ trước đã tự lãnh nhận trong Thế chiến thứ hai và trong toàn bộ tiến trình Chiến tranh Lạnh. Nước Mỹ muốn trở lại thành một quốc gia “bình thường”, muốn quan tâm nhiều hơn tới những nhu cầu riêng và cắt giảm sự chú ý tới những nhu cầu của thế giới.


Để có thể hiểu Mỹ và nhân loại có thể sẽ tiến tới đâu, chúng ta cần phải nhớ lại trong quá khứ  nguời Mỹ đã quyết định như thế nào, và đã tạo ra những biến đổi sâu sắc như thế nào cho thế giới. Cái đã xảy ra trước đây gần 70 năm là một cuộc cách mạng trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Trước đó, tức là trước Thế chiến hai, Mỹ luôn từ chối những đóng góp toàn cầu mang tính dài hạn. Đối với phần lớn người Mỹ, đó là sự trả lời hợp lý nhất cho thế giới trong những năm 20 (của thế kỷ trước). Khi đó, hầu như đe dọa không hiển hiện: người ta cho rằng nền Cộng hoà Weimar non yếu rồi sẽ nhanh chóng sụp đổ trước khi nước Đức một lần nữa tìm cách thống trị châu Âu. Nước Nga thì kiệt quệ vì nội chiến và khủng hoảng kinh tế. Và mặc dù đang theo đuổi những ý đồ to lớn thì ở Nhật Bản vẫn có một nền dân chủ mong manh.


Người Mỹ vẫn tiếp tục giữ đường lối bình thường ngay cả khi trật thứ thế giới khi đó bị tẩy xóa và sụp đổ: bắt đầu bằng sự tiến quân của Nhật Bản vào Mãn Châu năm 1931 cho đến khi nước Áo sáp nhập vào nước Đức của Hitler và tiếp theo là sự thâu tóm Tiệp Khắc năm 1938/1939 của nước Đức Quốc xã. Những sự kiện này làm cho người Mỹ kinh hoàng, nhưng họ vẫn không nhìn thấy sự cần thiết phải ra tay.


Ngay cả khi quân Đức tràn vào Ba Lan năm 1939 và Thế chiến hai bùng nổ, những sách lược gia Mỹ vẫn tuyên bố rằng nước Mỹ là bất khả xâm phạm, nước Mỹ được bảo vệ bởi hai đại dương và có trong tay một lực lượng hải quân hùng mạnh. Nhận thức này phổ cập đến mức một vị Tổng thống có đầu óc toàn cầu như Franklin Roosevelt cũng e dè trong ăn nói và phải hứa hẹn rằng nước Mỹ sẽ không tham gia chiến tranh. Trong một diễn văn nổi tiếng vào năm 1936, ông tuyên bố: “Tôi căm ghét  chiến tranh!” Nhưng hai năm sau đó, khi Hiệp ước München được ký kết, ông ta mới phát hoảng và bắt đầu cảm thấy rằng những cường quốc Tây Âu như Anh và Pháp đã mất hết quyết tâm đương đầu với Hitler. Chỉ khi đó Roosevelt mới bắt đầu cảnh báo người Mỹ về một hiểm họa đang bùng phát.


Quyết định tham chiến chỉ diễn ra sau vụ Trân Châu Cảng. Cuộc tấn công năm 1941 của Nhật vào Hạm đội Thái Bình Dương, tuyên bố chiến tranh của Hitler sau đó và cuộc tham chiến toàn diện của Mỹ vào các xung đột tại châu Âu và châu Á là một cú sốc với người Mỹ. Lòng tin của (người Mỹ) chúng ta rằng nước Mỹ vẫn ổn vững giữa một thế giới hỗn loạn đã vỡ vụn trong một ngày. Những sự kiện năm 1941 đòi hỏi phải có một định nghĩa mới cho khái niệm quyền lợi của nước Mỹ. Thêm vào đó, người ta hiểu ra rằng sự thịnh vượng và ngay cả an ninh của nước Mỹ cũng phụ thuộc vào một nền kinh tế toàn cầu lành mạnh.


Với nhận thức rằng nguồn gốc của Thế chiến hai nằm ở sự sụp đổ của trật tự thế giới trên các mặt chính trị, kinh tế và sách lược, ngay sau khi nhảy vào cuộc chiến, chính phủ Mỹ bắt đầu triển khai một trật tự thế giới lâu dài mới. Lần này, nó phải là một trật tự thế giới dựa trên sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự của Mỹ. Người châu Âu đã tự chứng tỏ rằng họ bất lực khi phải gìn giữ hòa bình. Mỹ đứng ra đảm lãnh vai trò quyết định trong việc chiếm đóng và chuyển hóa các nước bại trận. Tại các nước đó, Mỹ tự lãnh trách nhiệm phải tạo ra một chính thể dân chủ nào đó để thay thế chế độ độc tài đã lôi kéo các quốc gia đó vào cuộc chiến. Nước Mỹ phải có một sức mạnh áp đảo về quân sự, và khi cần thiết, phải có khả năng điều một lực lượng chiến đấu cần thiết đi bảo vệ sự ổn định và an ninh tại châu Âu, châu Á và Trung Cận Đông. Trong tính toán của Roosevelt và các cố vấn của ông, vũ lực quân sự đóng một vai trò trung tâm. “Hòa bình phải được gìn giữ bằng vũ lực”, Roosevelt tuyên bố như vậy. Ngoài ra, “không còn con đường nào khác”.


II.


Sách lược tổng thể như trên là một bước ngoặt dứt khoát của Mỹ đối với cái gọi là “sách lược bình thường”. Sách lược này không phải là vô tư hay không vụ lợi. Những người cầm đầu chính phủ Mỹ tin rằng, sách lược trên phục vụ tốt nhất cho quyền lợi của Hợp chúng quốc. Ngoại trưởng Mỹ (từ 1949 đến 1953, ND) Dean Ascheson từng tuyên bố: “Nước Mỹ phải học cách hành xử trong một liên đới trách nhiệm lớn hơn cả lợi ích của bản thân nước Mỹ”. Điều này là một cuộc cách mạng thực sự trong sách lược ngoại giao của Mỹ.


Vào cuối những năm 40 và trong những năm 50, Mỹ đã chi ra hàng tỷ Dollar để tái thiết châu Âu và lập liên minh quân sự với các cựu thù của mình như Đức và Nhật Bản cũng như nhiều nước châu Âu khác mà trước đây Mỹ không mấy tin tưởng. Thậm chí, người Mỹ còn mở rộng lá chắn hạt nhân để ngăn chặn khả năng tấn công thông thường của Liên Xô đối với Tây Âu; bằng cách này, người Mỹ đã tự nguyện đứng ra làm mục tiêu của vũ khí hạt nhân Liên Xô. Trong những năm 50 và 60, nhiều khi Mỹ đã chi ra 10 phần trăm hoặc cao hơn 10 phần trăm tổng thu nhập quốc gia cho quốc phòng. Mỹ cũng tiến hành hai cuộc chiến tốn kém tại Triều Tiên và Việt Nam.


Sau Thế chiến hai, vào những năm 50, Mỹ đã gây dựng và thúc đẩy sự phát triển của một trật tự thế giới tự do;  Mỹ đã tạo ra “thế giới tự do”, trong đó hòa bình và thịnh vượng đã có khả năng ra hoa kết trái ở một thời kỳ có một không hai trong lịch sử thế giới.


Mặc dù sự căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô có những lúc gia tăng đến mức nguy hiểm, nhưng về cơ bản, đây là thời kỳ được đánh dấu bởi nền hòa bình giữa các đại cường. Sự có mặt của Mỹ tại châu Âu và Đông Á kết thúc vòng xoáy chiến tranh đã hủy hoại nặng nề hai vùng đất này kể từ đầu thế kỷ 19. Trên thế giới, số lượng các nền dân chủ tăng lên nhanh chóng. Phần lớn thế giới được thụ hưởng một sự thịnh vượng chưa từng có từ trước tới nay. Mặc dù không thiếu những thảm họa và nguy cơ thảm họa cũng như đã xảy ra hai cuộc chiến tốn kém tại châu Á, nhưng về tổng thể, sách luợc trên đã thành công, và thành công đến mức là Đế chế Xô-viết cuối cùng đã sụp đổ cũng như đã phải tự động thoái lui trước những thành tựu về kinh tế và chính trị của Phương Tây. Tất cả những điều trên là kết quả của nhiều yếu tố, nhưng không một thành tích nào có thể hiển hiện nếu không có ý chí của Mỹ đảm trách vai trò bất bình thường của người gìn giữ và bảo vệ một trật tự thế giới vị tự do.


Sự công nhận rộng khắp thế lực của Mỹ, số lượng đông đảo các nước liên minh và thực tế là không có một cường quốc nào liên kết với Liên Xô để chống lại Mỹ đã tạo ra một tình thế có một không hai, đó là: trong lịch sử thế giới, chưa từng có một quốc gia nào đóng một vai trò toàn cầu to lớn như vậy, và cũng chưa từng có một quốc gia nào có khả năng như vậy. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như Liên bang Xô-viết tan vỡ và sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản tiêu tan?


III.


Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều người đã nghĩ rằng, cuối cùng thì nước Mỹ cũng được giải phóng khỏi cái trách nhiệm toàn cầu nặng nề mà nó đã mang vác hơn 40 năm. Thế giới vào đầu những năm 90 có vẻ như khá ổn vững. Liên bang Xô-viết hồi đó đang nằm trong tình trạng phá sản về chính trị và kinh tế; Trung Quốc bị cô lập về kinh tế và ngoại giao sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Vậy thì có mối đe dọa nào bắt nước Mỹ phải tiếp tục gánh chịu vai trò bất bình thường trên thế giới? Liệu nước Mỹ có thể quay trở lại làm một quốc gia bình thường với một định nghĩa bình thường về lợi ích quốc gia?


Tháng Chín 1990, Jeane Kirkpatrick, nữ đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc dưới thời Tổng thống Ronald Reagan, đã tuyên bố một câu trong bài viết “A Normal Nation in a Normal Time”, rằng “không còn có nhu cầu cấp thiết về chủ nghĩa anh hùng và lòng hy sinh” nữa. Kirkpatrick đã nói ra điều mà nhiều người đã nghĩ sau khi bức tường Berlin đổ sụp. Với tiểu luận  “Sự cáo chung của lịch sử”, nhà nghiên cứu chính trị Francis Fukuyama khẳng định rằng, với chiến thắng của dân chủ thì bóng dáng của những thách thức về ý thức hệ và về địa chính trị cũng biến mất. Nỗi nguy hiểm lớn nhất cho tương lai sẽ là cái tẻ nhạt trống rỗng của sự tồn tại trong một chủ nghĩa tự do Tây phương thiếu vắng tinh thần và hủy hoại tâm hồn.


Điều đáng lưu ý là trong hai thập niên đầu  sau Chiến tranh Lạnh, nước Mỹ đã vẫn theo đuổi sách lược ngoại giao tổng thể có từ thời Roosevelt. Tháng Tám 1990, quân đội Iraq của Sadam Hussein tràn vào Kuwait và nuốt trọn xứ này chỉ trong có vài ngày. Cuộc xâm lược đã diễn tiến một cách tàn bạo, nhưng so với những sự kiến chấn động của thế kỷ 20 thì nó vẫn còn khá êm dịu. Mặc dù tiên liệu việc đánh đuổi quân Iraq ra khỏi Kuwait là “hao tốn và bất trắc”, nhưng chính phủ Bush lo rằng nếu được bỏ qua, thì cuộc xâm lăng của Iraq rất có thể sẽ là “một tiền lệ khủng khiếp cho thời đại sau Chiến tranh Lạnh”. Sự tha thứ cho việc lấn chiếm trong một khu vực sẽ kích thích chiến tranh xâm lược tại những khu vực khác. Tổng thống Bush còn nhớ rất rõ những điều này trong các năm 30. Lần này, ông viết trong hồi ký của mình: “Tôi không muốn luôn phải nhượng bộ trước những hành vi bành trướng”.


Vậy là trong vòng 10 năm sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, nước Mỹ đã tiến hành hàng loạt những chiến dịch quân sự: Panama (1989), Iraq (1991), Somalia (1992), Haiti (1994), Bosnia (1995), Iraq lần thứ hai (1998) và Kosovo (1999). Không một cuộc chiến nào trong số đó là phản ứng trước một cái gọi là đe dọa sống còn đối với lợi ích quốc gia. Tất cả đều nhằm mục đích bảo vệ và mở rộng trật tự thế giới vị tự do thông qua việc lật đổ các chế độ độc tài và dẹp các cuộc đảo chính.


Bill Clinton mở rộng khối Nato tới Ba Lan, Tiệp, và thúc đẩy hợp tác quân sự với các nước vùng Baltic. Với hàng tỷ dollar, ông tìm cách cứu vớt cuộc thí nghiệm dân chủ còn ngất ngư của Boris Yeltsin tại Nga, và tiến hành một chính sách ngăn chặn dứt khoát đối với Bắc Triều Tiên, Iran và Iraq – những nước bị gọi là “các nhà nước bất hảo” do đã khinh bỉ một trật tự thế giới vị tự do. Những xung đột tại các vùng xa xôi và bất ổn không phải là điều vô hại đối với lợi ích của nước Mỹ.


Theo nhận định thông thường thì người Mỹ hôm nay đã mệt mỏi với chiến tranh. Nhưng có lẽ sẽ chính xác hơn nếu cho rằng người Mỹ đã “mệt mỏi với thế giới”. Ngày hôm nay, hơn 50 % người Mỹ nghĩ là “trên trường quốc tế, nước Mỹ chỉ nên quan tâm tới các vấn đề của mình và phó mặc cho các quốc gia khác tự giải quyết công việc của họ” – đó là một tỷ lệ cao chưa từng có trong lịch sử thăm dò dư luận tại Mỹ.


IV.


Các sử gia thường nói đến quá trình trưởng thành của chính sách ngoại giao Mỹ kể từ thế kỷ 19. Nhưng nếu một quốc gia có thể học hỏi dần thì nó cũng có khả năng quên dần. Khi quan sát kỹ hơn đường lối ngoại giao của Mỹ hiện nay và các cuộc tranh luận về nó, dần dần người ta sẽ có cảm giác là những tiền đề của sách lược tổng thể thời Roosevelt đã bị lãng quên. Cũng có lẽ đó là điều không thể tránh khỏi. Ngày nay, Thế chiến hai đối với những người sinh vào thời kỳ chuyển tiếp thiên niên niên kỷ cũng xa xưa như cuộc Nội chiến Mỹ đối với thế hệ những năm 30. Một thế hệ không còn nhớ đến thời Chiến tranh Lạnh và chỉ trải qua các cuộc xung đột tại Iraq và Afghanistan sẽ có một cách nhìn khác về vai trò của Mỹ trên thế giới. Người Mỹ hôm nay không còn là những kẻ cô lập như thời những năm 20. Họ ủng hộ một trật tự thế giới tự do khi nào nó cho họ thấy một nguồn lợi trước mắt. Nhưng họ không còn muốn phải hy sinh nhiều để giữ vững trật tự thế giới đó. Như thần Atlas, người Mỹ đang phải vác nặng thế giới trên đôi vai của mình. Đó là một trách nhiệm vĩ đại. Số tiền khổng lồ  mà họ phải chi ra cho kinh phí quốc phòng lớn hơn tất cả số tiền của các quốc gia khác cộng lại. Vậy thì liệu những đồng minh của họ có thể sẽ có những đóng góp lớn hơn không?


Câu hỏi này đã được đặt ra từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhưng câu trả lời luôn luôn là: Rất có khả năng không! Những nguyên do cho phép nước Mỹ bảo vệ trật tự thế giới tự do cũng lý giải vì sao những đồng minh của Mỹ luôn rụt rè và ít có khả năng làm việc này:  Họ không có sức mạnh và sự an toàn để có thể nhìn vuợt qua lợi ích quốc gia đã bị định nghĩa hẹp của họ và phản ứng một cách thích đáng. Vì thế, chỗ nào mà họ đã thất bại thì họ cũng sẽ lại thất bại. Ngay cả những người châu Âu của thế kỷ 21 với những thành tựu tuyệt vời của họ trong quá trình thống nhất chính trị có vẻ cũng hoàn toàn không có khả năng nắm tay nhau để chống lại một “con thú dữ”, và cũng như trong quá khứ, nếu cần thiết thì họ cũng sẵn sàng ném những kẻ ốm yếu cho “con thú dữ” đó xé xác để cứu vãn sự an toàn (cho túi tiền) của họ.  Đạo đức cũng có giá của nó.


Như phần lớn nhân loại, người Mỹ rất thích tin rằng họ sẽ hành xử đúng và đứng vào phía đúng. Họ cũng mong rằng những hành động của họ là chính nghĩa hay là hợp pháp.


Nhưng trên thế giới không tồn tại một cơ cấu đảm bảo trật tự có tổ chức và theo một luật lệ toàn cầu, đó là chưa nói đến việc nó không thể có một cơ cấu đảm bảo trật tự dân chủ mà tất cả các quốc gia phải tuân theo. Vấn đề chính nghĩa hay phi chính nghĩa không được phân định bởi một tiến trình tìm lẽ phải vô tư, mà hoàn toàn phụ thuộc vào sự phân chia quyền lực trong hệ thống. Về nguyên tắc, để hợp lý thì ngoài lòng tin của bản thân, người Mỹ phải sử dụng sức mạnh của mình để thực hiện những ý tưởng về chính nghĩa của mình mà không cần thêm sự công nhận của bên ngoài. Đó là một gánh nặng về đạo đức cho một xã hội dân chủ. Ở quốc gia của mình, người Mỹ đã quen với việc chia xẻ đều gánh nặng này cho những đôi vai khác nhau trong xã hội. Người dân tạo ra luật pháp, cảnh sát làm cho pháp luật có giá trị, thẩm phán và bồi thẩm ra phán quyết và nhân viên nhà tù thực thi bản án. Trong khi đó, trên trường quốc tế, nước Mỹ vừa là thẩm phán, bồi thẩm, vừa là cảnh sát, và khi có hành động quân sự thì nó đóng luôn cả vai đao phủ. Cái gì đã cho phép nước Mỹ hàng động nhân danh một trật tự thế giới vị tự do? Thực tế là không có cái gì như thế cả, ngoài lòng tin rằng trật tự thế giới vị tự do là một thực thể chính nghĩa nhất.


Nan đề đạo đức này có thể dễ dàng được bỏ qua vào thời Chiến tranh Lạnh; khi đó mọi hành động, ngay cả khi chúng được tiến hành ở những nơi xa xôi nhất, cũng có thể được biện hộ bởi quyền lợi quốc gia lành mạnh. Ngược lại, những biện pháp bảo vệ trật tự thế giới luôn làm bật ra những câu hỏi phức tạp về đạo đức. Mỹ và châu Âu khẳng định rằng chủ quyền của Ukraine là bất khả xâm phạm và người  Ukraine phải được quyền quyết định rằng họ có nên trở thành một thành viên của Liên minh châu Âu hay không. Vladimir Putin biện hộ việc sáp nhập Krym vào Nga bằng những ràng buộc lịch sử và lý giải sự kiện này là một phản ứng trước  việc Mỹ và châu Âu can thiệp vào một khu vực ảnh hưởng lịch sử của Nga. Vậy ai là người có khả năng vô tư để phân định đúng sai giữa những quan niệm đối chọi nhau về pháp lý như trên? Sẽ vô vọng nếu như mang cách nhìn được coi là có ưu thế về đạo đức của thế kỷ 21 đối chọi với  tiêu chuẩn đạo đức được coi là yếu thế của thế kỷ 19.


Thế kỷ hiện nay của chúng ta cũng chẳng có nhiều hơn cái gọi là đạo đức tuyệt mỹ như những thế kỷ đã qua. Và trong thế kỷ này các đại cường cũng không hề trong trắng hơn khi bị lôi kéo vào những xung đột như trong các thế kỷ khác. Tất cả đều ích kỷ, tất cả đều thoả hiệp về đạo đức. Thực tế là như vậy – một quốc gia càng hùng mạnh bao nhiêu thì càng dễ có xu hướng hành xử chẳng có gì là phù hợp với các giá trị đạo đức của Cơ đốc giáo hay là của thời Khai sáng.


Ai có thể khẳng định được rằng việc bảo vệ trật tự thế giới vị tự do là nhất thiết đúng đắn? Người ta chưa bao giờ cho nhân dân toàn thế giới bỏ phiếu tán thành hay phản đối một trật tự thế giới vị tự do. Trật tự này không phải là do Chúa tạo ra. Nó cũng không phải là điểm kết thúc của tiến bộ loài người. Nó chỉ là một trật tự thế giới tạm thời đáp ứng nhu cầu, lợi ích và trước hết là lý tưởng của một bộ phận đông đảo và hùng mạnh, chứ không nhất thiết phải là đòi hỏi và mong muốn của tất cả mọi người. Chủ nghĩa cộng sản có thể là đã phá sản, nhưng tư tưởng toàn trị và các nhà nước chuyên chế vẫn còn. Và không phải là dân chủ, mà chính sự chuyên chế mới là cái đã từng là thước đo trong lịch sử loài người.


Trong những thập niên vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Mỹ và châu Âu, dân chủ đã có sức mạnh để xây dựng thế giới theo những ý tưởng của mình. Nhưng ai dám nói rằng Chủ nghĩa Putin ở Nga hay là dạng thái đặc biệt của chuyên chế tại Trung Quốc sẽ không có khả năng tồn tại lâu đúng như nền dân chủ châu Âu, cái mà ở ngoài nước Anh ra thì cho đến nay mới có nhỉnh hơn 100 năm tuổi? Đối với một quốc gia mệt mỏi về quyền lực thì điều này là một câu hỏi làm rối trí. Nhà nghiên cứu chính trị Hans Morgenthau có lần đã nhắc nhở rằng người Mỹ có lẽ “sẽ rất thích thú với ảo tưởng là một quốc gia… sẽ thoát khỏi sách lược quyền lực”, rằng sẽ đến lúc “tấm màn kết thúc sẽ được kéo xuống và trò chơi quyền lực sẽ không còn tiếp diễn”. Suy nghĩ trốn tránh thực tế này đã có một đồng vọng rộng lớn vào những năm cuối thời Chiến tranh Lạnh. Năm 1989 Fukuyama tuyên bố với người Mỹ rằng, với sự cáo chung của lịch sử thì “nền dân chủ vị tự do sẽ không còn đối thủ ý thức hệ nào cần phải chú ý”. Tiến bộ dân chủ là không thể tránh khỏi, và vì vậy, người ta không còn cần phải làm bất cứ gì để thúc đẩy và bảo vệ nó. Trong thời đại mới, cái mà nước Mỹ cần là cắt giảm quyền lực cứng (hard power) và tăng cường quyền lực mềm (soft power).


Đó là suy nghĩ chủ đạo, ít nhất là từ cuối thời Chiến tranh Lạnh cho tới năm 2008 và cho tới khi bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính. Đó là lúc xảy ra sự chuyển đổi mô hình. Bây giờ không phải là hồi kết của lịch sử, mà là hồi kết của nước Mỹ, hồi kết của phương Tây. Khúc khải hoàn đã nhường chỗ cho học thuyết thoái trào. Nếu như trước đó người ta cho rằng việc nước Mỹ dùng sức mạnh của mình để hướng dẫn thế giới vào một trật tự nhất định là không cần thiết, thậm chí là sai trái, thì ngày nay đột nhiên người ta thấy rằng điều đó không còn có khả năng xảy ra, vì Hợp chúng quốc đã không còn đủ sức. Các quan chức cao cấp trong chính phủ Mỹ, đặc biệt là giới trẻ, cho rằng trong cuộc xung đột tại Syria, Mỹ đã bị trói buộc chân tay quá nhiều. Đây là một bài học cho thế hệ của họ, bài học từ Iraq và Afghanistan: rằng Mỹ không còn sức mạnh, không còn sự hiểu biết, và cũng không còn cả khả năng giải quyết các vấn đề của thế giới.


Nhưng chính quan điểm cho rằng những hoạt động quốc tế chỉ là vô bổ lại cất giấu trong lòng nó một huyền thoại. Qua cặp kính màu hồng, chúng ta nhìn lại Chiến tranh Lạnh và tưởng tượng rằng nước Mỹ lúc đó đã dễ dàng thúc đẩy các quốc gia khác làm những gì mà Mỹ muốn. Nhưng nếu bỏ sang một bên những thành công, thì trong Chiến tranh Lạnh, sách lược ngoại giao của Mỹ cũng đã phạm phải hàng loạt những lỗi lầm, những xuẩn ngốc, nhiều tai nạn và cả một số thảm họa theo đúng nghĩa. Ngay từ đầu, các đồng minh của Mỹ đã tự chứng tỏ là họ thích gây rối, hay hờn dỗi và luôn bướng bỉnh. Phải chăng giới chiến lược gia của ngày hôm nay thật sự nghĩ rằng những người tiền nhiệm của họ trong các chính phủ trước đây có nhiều thuận lợi hơn họ?


Đường lối ngoại giao của bất kỳ quốc gia nào cũng thường thất bại nhiều hơn thành công. Ngay cả những cố gắng tác động vào hành xử của dân chúng trong nội địa cũng đã rất khó khăn. Vậy thì việc gây ảnh hưởng lên những dân tộc khác, quốc gia khác mà không lạnh lùng hủy diệt họ đương nhiên phải là một công việc khó khăn nhất của loài người. Điều chắc chắn trong ngoại giao –  nó cũng chắc chắn như sự tồn tại của loài người chúng ta, là tất cả những hành động giải quyết các vấn đề chỉ có thể làm nẩy sinh ra những vấn đề mới. Và điều này có giá trị cho mọi cuộc chiến tranh. Không có một cuộc chiến nào có kết cục hoàn hảo, ngay cả những cuộc chiến có những lý cớ tốt đẹp nhất cũng như vậy. Tiêu chuẩn cho một chiến thắng không nằm ở chỗ là kết quả cuối cùng có đáp ứng 100 % ước vọng ban đầu hay không, mà là liệu kết quả không ưng ý đã đạt được tốt hơn hay xấu hơn so với cái kết quả sẽ có nếu không có hành động. Việc chỉ chú tâm vào những kết quả phục vụ những mục tiêu tối đa với tốn phí tối thiểu là một biểu hiện của tâm thức trốn chạy thực tế.


Thực tế cho thấy người Mỹ ngày nay có vẻ như bị quá tải trước sự phức tạp của thế giới. Họ mong muốn được quay trở lại vị trí “vô tội của người vô trách nhiệm” như nhà thần học Mỹ Reinhold Niebuhr có lần đã nói, hay ít nhất cũng là có được một vị trí bình thường để nước Mỹ có thể giảm thiểu mức độ đóng góp cho thế giới. Với phương cách đó, nước Mỹ có thể sẽ quay trở về không khí của những năm 20. Tuy nhiên, ở đây có một điều khác biệt: Trong những năm 20 người Mỹ tin là Anh quốc và châu Âu có trách nhiệm bảo vệ cái trật tự thế giới mà họ đã tạo ra. Còn bây giờ, liệu người Mỹ có hiểu ra rằng lần này chỉ có họ mới có khả năng giữ vững trật tự thế giới đó?


Khi Tổng thống Obama mới nhậm chức, Peter Baker đã viết trên tờ New York Times rằng Obama muốn “tiếp nhận một thế giới như nó đang hiện hữu chứ không phải như người ta có thể mong muốn”. Đó chính là gốc rễ của cái điệp khúc mà các đại diện của nội các Obama luôn luôn đưa ra để giải thích tại sao Tổng thống lại chống việc tiến hành các hoạt động tại nơi này hay nơi kia trên thế giới để phấn đấu cho một “lý tưởng” đáng mơ ước nhưng khó thực hiện. Có vẻ như càng ngày càng ít người hiểu được rằng, đối với người Mỹ và nhiều người khác, 70 năm qua là một thời hạn ân huệ của chính cái thế giới “đang hiện hữu”.


Giai đoạn hòa bình và thịnh vượng có thể làm cho con người quên mất bản chất thật sự của cái thế giới  “đang hiện hữu”; nó cũng ru ngủ con người với lòng tin là loài người đã đạt đến một cấp bậc sinh tồn cao hơn. Người ta công bố những kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy đã đến “giai đoạn chuyển hóa của các quan hệ quốc tế”, và “sự thay đổi biên giới bằng vũ lực” đã giảm mạnh “kể từ năm 1946″.


Nhưng liệu có phải ngẫu nhiên mà trào lưu đáng phấn khởi như trên đã xuất hiện sau khi trật tự thế giới kiểu Mỹ được tạo dựng sau Thế chiến thứ hai? Thật ra thì thế giới – như nó “đang hiện hữu”, là một nơi đầy nguy hiểm và nhiều khi rất tàn bạo. Hành xử của con người, và cả các quan hệ quốc tế, về cơ bản cũng chẳng có nhiều thay đổi. Ngay cả trong thế kỷ 21, vũ lực vẫn là phương tiện cuối cùng. Vấn đề được đặt ra không phải là các quốc gia có sẵn sàng sử dụng vũ lực hay không, mà là các quốc gia đó nghĩ rằng, nếu sử dụng vũ lực thì họ có bị trừng phạt hay không. Khi Vladimir Putin thấy rằng không thể đạt được những mục tiêu của mình tại Ukraine bằng phương tiện chính trị và kinh tế, ông ta đã dùng đến vũ lực vì tin rằng mình có thể làm như vậy. Chừng nào vẫn còn tin rằng hiệu quả cao hơn cái giá phải trả khi dùng vũ khí, ông ta sẽ tiếp tục sử dụng vũ lực. Suy tính này cũng không có gì đặc biệt. Trong cách nhìn như vậy, liệu Trung Quốc sẽ làm tất cả những gì nếu như họ không bị ngăn cản bởi một hàng rào nhiều cường quốc được sự hỗ trợ của Mỹ? Và cũng trong mối liên quan này: Nhật Bản sẽ làm gì nếu như nó sẽ mạnh lên nhiều và ít phụ thuộc hơn vào nước Mỹ? Hiện tại chúng ta chưa phải tìm trả lời cho câu hỏi này vì với vị thế thống lĩnh của Mỹ, chiếc hộp thần tai họa của Pandora vẫn còn được giữ kín.


Hệ thống thế giới là một đan kết chặt chẽ của các tương quan sức mạnh, trong đó mỗi một quốc gia – từ lớn nhất cho tới nhỏ nhất, luôn phải ghi nhận một cách tinh vi những biến động và quấy rối. Từ 1945, và nhất là từ 1989, mối đan kết này đã được tạo ra để choàng vào nước Mỹ. Các đồng minh quan sát thái độ của Mỹ và tìm cách đánh giá độ tin cậy của nó. Các quốc gia cảm thấy bị Mỹ chèn ép hay đe dọa thì soi tìm những chỉ dấu tăng giảm về sức mạnh và quyết tâm của nó. Và khi nước Mỹ có vẻ như lùi bước, thì các đồng minh của nó an lòng trong khi các quốc gia khác hoan hỉ chờ cơ hội.


Trong những năm qua, thế giới đã tiếp nhận những tín hiệu cho thấy người Mỹ không còn muốn tiếp tục gánh vác trên vai sức nặng của trách nhiệm toàn cầu. Mới đây, khi nói về chuyện tiến quân vào Syria, Tổng thống Obama tuyên bố: “Đó không có nghĩa là việc này không đáng làm. Nhưng sau một thập niên chiến tranh, nước Mỹ đã tiến tới giới hạn của mình.”


Đến hôm nay thì những chỉ dấu sụp đổ của trật tự thế giới đã xuất hiện ở khắp nơi. Khi Nga tiến quân vào Ukraine và thâu tóm Krym, thì đây là lần đầu tiên kể từ sau Thế chiến hai, một quốc gia châu Âu đã xâm chiếm lãnh thổ của nước khác. Nếu Iran chế tạo bom nguyên tử, các nước khác bắt buộc phải làm theo. Iran, Saudi Arabia và Nga tiến hành chiến tranh uỷ nhiệm tại Syria, giết hại cho đến nay là 150.000 người và làm cho hàng triệu người phải phiêu bạt. Và những sự kiện mới đây tại Syria và Iraq đang làm tăng khả năng hình thành một nhà nước Thánh chiến Hồi giáo tại trung tâm Cận Đông, một nhà nước không chấp nhận biên giới. Nếu trào lưu này tiếp diễn thì trong tương lai gần, chúng ta sẽ có nhiều chiến tranh về lãnh thổ hơn, nhiều bạo lực vì sắc tộc và tôn giáo hơn, và sẽ nhìn thấy một thế giới vị tự do càng ngày càng thu hẹp.


Câu hỏi là nước Mỹ phải phản ứng ra sao. Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót khi Syria vẫn ở trong tay của Assad hay – có khả năng hơn, là Syria sẽ bị phân rã và trong vòng hỗn loạn,  quân Thánh chiến sẽ kiểm soát thêm nhiều vùng đất mới? Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót nếu như Iran có trong tay bom nguyên tử và để đáp lại thì sẽ xuất hiện những quả bom như vậy tại Saudi Arabia, tại Thổ Nhĩ Kỳ và tại Ai Cập? Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót trong một thế giới mà trong đó nước Nga thống lĩnh Đông Âu, không phải chỉ là ở Ukraine, mà ở cả vùng Baltic và có thể là cả Ba Lan?


Tất nhiên là nước Mỹ có thể còn sống sót. Có thể việc can thiệp thực tế là không bức thiết. Nước Mỹ vẫn có thể làm ăn buôn bán với một Trung Quốc nắm quyền thống lĩnh và cũng có thể tìm thấy một phương thức thỏa thuận chung sống với một đế quốc Nga tái hùng cường. Rồi sẽ như trong quá khứ, người Mỹ sẽ là những người cuối cùng phải chịu nỗi đau khi trật tự thế giới sụp đổ. Và khi họ thực sự cảm nhận được nỗi đau đó thì đã là rất muộn.


Nhà nghiên cứu chính trị Mỹ Robert Osgood, có thể được coi là tư tưởng gia chính trị thực tiễn thông minh nhất của thế kỷ vừa qua, khi nhìn lại thời kỳ trước Thế chiến hai đã phát hiện ra một điều kinh hoàng: Những định nghĩa thuần thực dụng về “lợi ích quốc gia” là hoàn toàn không đủ. Điều nghịch lý là chính những “người có lý tưởng” đã là những người phản ứng một cách “đặc biệt nhanh nhậy trước nguy cơ phát-xít đối với văn hóa và văn minh phương Tây”.  Lý tưởng chủ nghĩa là một “động cơ tinh thần không thể bỏ qua để con người có thể nhận ra những đòi hỏi bắt buộc của một chính sách quyền lực”. Điều này cũng chính là thông điệp của Roosevelt khi ông kêu gọi người Mỹ phải đứng lên bảo vệ “không những nhà cửa đất đai, mà cả lòng tin và tình người của họ”.


Có lẽ người ta lại phải khuyến khích người Mỹ làm như vậy ngay cả khi không có sự đe dọa của một Hitler mới. Nhưng lần này nước Mỹ sẽ không có một thời gian dài 20 năm để suy tính và quyết định. Thế giới biến chuyển nhanh hơn sức tưởng tượng của người Mỹ. Và sẽ không có một siêu cường dân chủ nào khác túc trực đằng sau sân khấu để cứu vãn thế giới nếu như nước Mỹ, siêu cường dân chủ duy nhất hiện nay, tỏ ra ngần ngại.


Nguồn: Robert Kagan: ”Die Welt wird zu gefährlichwenn Amerika den Führungsanspruch aufgibt“, Spiegel 26/2014


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Việt Vinh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 16, 2014 14:52

Đại cường không được nghỉ hưu: Thế giới sẽ nguy hiểm, nếu Mỹ từ bỏ vai trò lãnh đạo

Robert Kagan


Phạm Việt Vinh dịch


Trước hiểm họa Trung Quốc ngày càng gia tăng, nhiều người Việt đang đặt hy vọng vào sự “chuyển trục” sang châu Á của Mỹ và vai trò của Mỹ tại khu vực này. Tiểu luận sau đây có thể cung cấp một góc nhìn đáng tham khảo.


Tác giả Robert Kagan, 55 tuổi, là một cây bút và cố vấn chính trị người Mỹ. Là một nhân vật tân bảo thủ có thế lực và là một chuyên gia về chính trị quốc tế, ông viết nhiều cuốn sách, trong đó có quyển Sức mạnh và bất lực bảo vệ đường lối ngoại giao của Mỹ dưới thời George W. Busch. Victoria Nuland, vợ ông, làm việc tại Bộ Ngoại giao Mỹ chuyên trách các vấn đề Châu Âu và Á-Âu. Gần đây nhất, một cuộc điện đàm giữa bà và Đại sứ Hoa Kỳ tại Ukraine về những diễn biến căng thẳng ở Ukraine và vai trò của phương Tây bị nghe trộm và tung lên YouTube, trong đó bà dùng cụm từ “Fuck the EU” và cho biết Mỹ muốn nhân vật dân chủ nào sẽ đứng đầu chính phủ Ukraine mới. Theo cách phân định thường gặp, Robert Kagan đại diện quan điểm của phe được mệnh danh là “diều hâu” trong đường lối ngoại giao và quân sự Hoa Kỳ.


Người dịch


___________


I.


Các đây gần 70 năm, một trật tự thế giới mới đã hình thành từ đống hoang tàn của Thế chiến thứ hai. Trung tâm của trật tự mới này là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Ngày hôm nay, ở trật tự thế giới đó đã xuất hiện những vết nứt. Thực ra thì những khủng hoảng ví dụ như giữa Nga và Ukraine hay như ở Syria không phải là hy hữu và cũng chẳng phải là không kiểm soát nổi. Ngay cả những phản ứng rụt rè của Liên Hiệp Quốc trước các biến động tại Ukraine, rồi các vụ nổi dậy tại Trung Cận Đông, tại Bắc Phi, các chiến thắng của lực lượng Thánh chiến khủng bố tại Syria và Iraq, sự căng thẳng mang tính quốc gia chủ nghĩa ngày càng gia tăng giữa các cường quốc tại Đông Á hay là sự lấn lướt của toàn trị và sự thoái lui của dân chủ trên khắp thế giới cũng không là điều đặc biệt và bất khả kháng. Nhưng tất cả những điều đó gộp lại cho thấy một cái gì đó đã thay đổi; và sự thay đổi này diễn ra nhanh hơn chúng ta tưởng. Có vẻ như một trật tự thế giới mới đang xuất hiện.


Nếu thật sự là trật tự thế giới cũ sẽ bị sụp đổ, thì nguyên do không nằm ở sự suy giảm thế lực của Mỹ – sự cường thịnh và vai trò của nước Mỹ vẫn đủ lớn để nó có thể giải quyết thành công các thách thức của thế giới hôm nay. Nguyên do này cũng không nằm ở chỗ các vấn đề chính trị toàn cầu hiện nay ngày càng trở nên phức tạp và khó giải quyết hơn. Và nguyên do này cũng không đơn giản nằm ở sự mệt mỏi vì chiến tranh. Điều hy hữu là nguyên do này nằm trong đầu của (người Mỹ) chúng ta, đó là vấn đề về bản ngã và sự quyết đoán của người Mỹ.


Nhiều người Mỹ và các thủ lĩnh chính trị của cả hai đảng (Dân chủ và Cộng hoà), kể cả Tổng thổng Obama đã quên, hoặc lánh xa những cái đã làm nên thành công của ngoại giao Mỹ – trước hết, đó là ý tưởng về một trách nhiệm toàn cầu, trong đó quyền lợi của nước Mỹ được đặt ngang bằng với quyền lợi của nhiều nước khác trên khắp thế giới. Có vẻ như ngày hôm nay nguời ta lại quay về với những khái niệm lợi ích quốc gia được hiểu theo nghĩa hẹp. Điều này nhiều khi được gọi là “chủ nghĩa cô lập”. Nhưng cụm từ này không đúng. Thực chất, nó chính là một nỗ lực tiến tới sự bình thường. Đằng sau sự bức bối của người Mỹ muốn tiếp tục đảm đương vai trò cũ là lòng mong mỏi muốn rũ bỏ những gánh nặng trách nhiệm mà các thế hệ trước đã tự lãnh nhận trong Thế chiến thứ hai và trong toàn bộ tiến trình Chiến tranh Lạnh. Nước Mỹ muốn trở lại thành một quốc gia “bình thường”, muốn quan tâm nhiều hơn tới những nhu cầu riêng và cắt giảm sự chú ý tới những nhu cầu của thế giới.


Để có thể hiểu Mỹ và nhân loại có thể sẽ tiến tới đâu, chúng ta cần phải nhớ lại trong quá khứ  nguời Mỹ đã quyết định như thế nào, và đã tạo ra những biến đổi sâu sắc như thế nào cho thế giới. Cái đã xảy ra trước đây gần 70 năm là một cuộc cách mạng trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Trước đó, tức là trước Thế chiến hai, Mỹ luôn từ chối những đóng góp toàn cầu mang tính dài hạn. Đối với phần lớn người Mỹ, đó là sự trả lời hợp lý nhất cho thế giới trong những năm 20 (của thế kỷ trước). Khi đó, hầu như đe dọa không hiển hiện: người ta cho rằng nền Cộng hoà Weimar non yếu rồi sẽ nhanh chóng sụp đổ trước khi nước Đức một lần nữa tìm cách thống trị châu Âu. Nước Nga thì kiệt quệ vì nội chiến và khủng hoảng kinh tế. Và mặc dù đang theo đuổi những ý đồ to lớn thì ở Nhật Bản vẫn có một nền dân chủ mong manh.


Người Mỹ vẫn tiếp tục giữ đường lối bình thường ngay cả khi trật thứ thế giới khi đó bị tẩy xóa và sụp đổ: bắt đầu bằng sự tiến quân của Nhật Bản vào Mãn Châu năm 1931 cho đến khi nước Áo sáp nhập vào nước Đức của Hitler và tiếp theo là sự thâu tóm Tiệp Khắc năm 1938/1939 của nước Đức Quốc xã. Những sự kiện này làm cho người Mỹ kinh hoàng, nhưng họ vẫn không nhìn thấy sự cần thiết phải ra tay.


Ngay cả khi quân Đức tràn vào Ba Lan năm 1939 và Thế chiến hai bùng nổ, những sách lược gia Mỹ vẫn tuyên bố rằng nước Mỹ là bất khả xâm phạm, nước Mỹ được bảo vệ bởi hai đại dương và có trong tay một lực lượng hải quân hùng mạnh. Nhận thức này phổ cập đến mức một vị Tổng thống có đầu óc toàn cầu như Franklin Roosevelt cũng e dè trong ăn nói và phải hứa hẹn rằng nước Mỹ sẽ không tham gia chiến tranh. Trong một diễn văn nổi tiếng vào năm 1936, ông tuyên bố: “Tôi căm ghét  chiến tranh!” Nhưng hai năm sau đó, khi Hiệp ước München được ký kết, ông ta mới phát hoảng và bắt đầu cảm thấy rằng những cường quốc Tây Âu như Anh và Pháp đã mất hết quyết tâm đương đầu với Hitler. Chỉ khi đó Roosevelt mới bắt đầu cảnh báo người Mỹ về một hiểm họa đang bùng phát.


Quyết định tham chiến chỉ diễn ra sau vụ Trân Châu Cảng. Cuộc tấn công năm 1941 của Nhật vào Hạm đội Thái Bình Dương, tuyên bố chiến tranh của Hitler sau đó và cuộc tham chiến toàn diện của Mỹ vào các xung đột tại châu Âu và châu Á là một cú sốc với người Mỹ. Lòng tin của (người Mỹ) chúng ta rằng nước Mỹ vẫn ổn vững giữa một thế giới hỗn loạn đã vỡ vụn trong một ngày. Những sự kiện năm 1941 đòi hỏi phải có một định nghĩa mới cho khái niệm quyền lợi của nước Mỹ. Thêm vào đó, người ta hiểu ra rằng sự thịnh vượng và ngay cả an ninh của nước Mỹ cũng phụ thuộc vào một nền kinh tế toàn cầu lành mạnh.


Với nhận thức rằng nguồn gốc của Thế chiến hai nằm ở sự sụp đổ của trật tự thế giới trên các mặt chính trị, kinh tế và sách lược, ngay sau khi nhảy vào cuộc chiến, chính phủ Mỹ bắt đầu triển khai một trật tự thế giới lâu dài mới. Lần này, nó phải là một trật tự thế giới dựa trên sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự của Mỹ. Người châu Âu đã tự chứng tỏ rằng họ bất lực khi phải gìn giữ hòa bình. Mỹ đứng ra đảm lãnh vai trò quyết định trong việc chiếm đóng và chuyển hóa các nước bại trận. Tại các nước đó, Mỹ tự lãnh trách nhiệm phải tạo ra một chính thể dân chủ nào đó để thay thế chế độ độc tài đã lôi kéo các quốc gia đó vào cuộc chiến. Nước Mỹ phải có một sức mạnh áp đảo về quân sự, và khi cần thiết, phải có khả năng điều một lực lượng chiến đấu cần thiết đi bảo vệ sự ổn định và an ninh tại châu Âu, châu Á và Trung Cận Đông. Trong tính toán của Roosevelt và các cố vấn của ông, vũ lực quân sự đóng một vai trò trung tâm. “Hòa bình phải được gìn giữ bằng vũ lực”, Roosevelt tuyên bố như vậy. Ngoài ra, “không còn con đường nào khác”.


II.


Sách lược tổng thể như trên là một bước ngoặt dứt khoát của Mỹ đối với cái gọi là “sách lược bình thường”. Sách lược này không phải là vô tư hay không vụ lợi. Những người cầm đầu chính phủ Mỹ tin rằng, sách lược trên phục vụ tốt nhất cho quyền lợi của Hợp chúng quốc. Ngoại trưởng Mỹ (từ 1949 đến 1953, ND) Dean Ascheson từng tuyên bố: “Nước Mỹ phải học cách hành xử trong một liên đới trách nhiệm lớn hơn cả lợi ích của bản thân nước Mỹ”. Điều này là một cuộc cách mạng thực sự trong sách lược ngoại giao của Mỹ.


Vào cuối những năm 40 và trong những năm 50, Mỹ đã chi ra hàng tỷ Dollar để tái thiết châu Âu và lập liên minh quân sự với các cựu thù của mình như Đức và Nhật Bản cũng như nhiều nước châu Âu khác mà trước đây Mỹ không mấy tin tưởng. Thậm chí, người Mỹ còn mở rộng lá chắn hạt nhân để ngăn chặn khả năng tấn công thông thường của Liên Xô đối với Tây Âu; bằng cách này, người Mỹ đã tự nguyện đứng ra làm mục tiêu của vũ khí hạt nhân Liên Xô. Trong những năm 50 và 60, nhiều khi Mỹ đã chi ra 10 phần trăm hoặc cao hơn 10 phần trăm tổng thu nhập quốc gia cho quốc phòng. Mỹ cũng tiến hành hai cuộc chiến tốn kém tại Triều Tiên và Việt Nam.


Sau Thế chiến hai, vào những năm 50, Mỹ đã gây dựng và thúc đẩy sự phát triển của một trật tự thế giới tự do;  Mỹ đã tạo ra “thế giới tự do”, trong đó hòa bình và thịnh vượng đã có khả năng ra hoa kết trái ở một thời kỳ có một không hai trong lịch sử thế giới.


Mặc dù sự căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô có những lúc gia tăng đến mức nguy hiểm, nhưng về cơ bản, đây là thời kỳ được đánh dấu bởi nền hòa bình giữa các đại cường. Sự có mặt của Mỹ tại châu Âu và Đông Á kết thúc vòng xoáy chiến tranh đã hủy hoại nặng nề hai vùng đất này kể từ đầu thế kỷ 19. Trên thế giới, số lượng các nền dân chủ tăng lên nhanh chóng. Phần lớn thế giới được thụ hưởng một sự thịnh vượng chưa từng có từ trước tới nay. Mặc dù không thiếu những thảm họa và nguy cơ thảm họa cũng như đã xảy ra hai cuộc chiến tốn kém tại châu Á, nhưng về tổng thể, sách luợc trên đã thành công, và thành công đến mức là Đế chế Xô-viết cuối cùng đã sụp đổ cũng như đã phải tự động thoái lui trước những thành tựu về kinh tế và chính trị của Phương Tây. Tất cả những điều trên là kết quả của nhiều yếu tố, nhưng không một thành tích nào có thể hiển hiện nếu không có ý chí của Mỹ đảm trách vai trò bất bình thường của người gìn giữ và bảo vệ một trật tự thế giới vị tự do.


Sự công nhận rộng khắp thế lực của Mỹ, số lượng đông đảo các nước liên minh và thực tế là không có một cường quốc nào liên kết với Liên Xô để chống lại Mỹ đã tạo ra một tình thế có một không hai, đó là: trong lịch sử thế giới, chưa từng có một quốc gia nào đóng một vai trò toàn cầu to lớn như vậy, và cũng chưa từng có một quốc gia nào có khả năng như vậy. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như Liên bang Xô-viết tan vỡ và sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản tiêu tan?


III.


Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhiều người đã nghĩ rằng, cuối cùng thì nước Mỹ cũng được giải phóng khỏi cái trách nhiệm toàn cầu nặng nề mà nó đã mang vác hơn 40 năm. Thế giới vào đầu những năm 90 có vẻ như khá ổn vững. Liên bang Xô-viết hồi đó đang nằm trong tình trạng phá sản về chính trị và kinh tế; Trung Quốc bị cô lập về kinh tế và ngoại giao sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Vậy thì có mối đe dọa nào bắt nước Mỹ phải tiếp tục gánh chịu vai trò bất bình thường trên thế giới? Liệu nước Mỹ có thể quay trở lại làm một quốc gia bình thường với một định nghĩa bình thường về lợi ích quốc gia?


Tháng Chín 1990, Jeane Kirkpatrick, nữ đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc dưới thời Tổng thống Ronald Reagan, đã tuyên bố một câu trong bài viết “A Normal Nation in a Normal Time”, rằng “không còn có nhu cầu cấp thiết về chủ nghĩa anh hùng và lòng hy sinh” nữa. Kirkpatrick đã nói ra điều mà nhiều người đã nghĩ sau khi bức tường Berlin đổ sụp. Với tiểu luận  “Sự cáo chung của lịch sử”, nhà nghiên cứu chính trị Francis Fukuyama khẳng định rằng, với chiến thắng của dân chủ thì bóng dáng của những thách thức về ý thức hệ và về địa chính trị cũng biến mất. Nỗi nguy hiểm lớn nhất cho tương lai sẽ là cái tẻ nhạt trống rỗng của sự tồn tại trong một chủ nghĩa tự do Tây phương thiếu vắng tinh thần và hủy hoại tâm hồn.


Điều đáng lưu ý là trong hai thập niên đầu  sau Chiến tranh Lạnh, nước Mỹ đã vẫn theo đuổi sách lược ngoại giao tổng thể có từ thời Roosevelt. Tháng Tám 1990, quân đội Iraq của Sadam Hussein tràn vào Kuwait và nuốt trọn xứ này chỉ trong có vài ngày. Cuộc xâm lược đã diễn tiến một cách tàn bạo, nhưng so với những sự kiến chấn động của thế kỷ 20 thì nó vẫn còn khá êm dịu. Mặc dù tiên liệu việc đánh đuổi quân Iraq ra khỏi Kuwait là “hao tốn và bất trắc”, nhưng chính phủ Bush lo rằng nếu được bỏ qua, thì cuộc xâm lăng của Iraq rất có thể sẽ là “một tiền lệ khủng khiếp cho thời đại sau Chiến tranh Lạnh”. Sự tha thứ cho việc lấn chiếm trong một khu vực sẽ kích thích chiến tranh xâm lược tại những khu vực khác. Tổng thống Bush còn nhớ rất rõ những điều này trong các năm 30. Lần này, ông viết trong hồi ký của mình: “Tôi không muốn luôn phải nhượng bộ trước những hành vi bành trướng”.


Vậy là trong vòng 10 năm sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, nước Mỹ đã tiến hành hàng loạt những chiến dịch quân sự: Panama (1989), Iraq (1991), Somalia (1992), Haiti (1994), Bosnia (1995), Iraq lần thứ hai (1998) và Kosovo (1999). Không một cuộc chiến nào trong số đó là phản ứng trước một cái gọi là đe dọa sống còn đối với lợi ích quốc gia. Tất cả đều nhằm mục đích bảo vệ và mở rộng trật tự thế giới vị tự do thông qua việc lật đổ các chế độ độc tài và dẹp các cuộc đảo chính.


Bill Clinton mở rộng khối Nato tới Ba Lan, Tiệp, và thúc đẩy hợp tác quân sự với các nước vùng Baltic. Với hàng tỷ dollar, ông tìm cách cứu vớt cuộc thí nghiệm dân chủ còn ngất ngư của Boris Yeltsin tại Nga, và tiến hành một chính sách ngăn chặn dứt khoát đối với Bắc Triều Tiên, Iran và Iraq – những nước bị gọi là “các nhà nước bất hảo” do đã khinh bỉ một trật tự thế giới vị tự do. Những xung đột tại các vùng xa xôi và bất ổn không phải là điều vô hại đối với lợi ích của nước Mỹ.


Theo nhận định thông thường thì người Mỹ hôm nay đã mệt mỏi với chiến tranh. Nhưng có lẽ sẽ chính xác hơn nếu cho rằng người Mỹ đã “mệt mỏi với thế giới”. Ngày hôm nay, hơn 50 % người Mỹ nghĩ là “trên trường quốc tế, nước Mỹ chỉ nên quan tâm tới các vấn đề của mình và phó mặc cho các quốc gia khác tự giải quyết công việc của họ” – đó là một tỷ lệ cao chưa từng có trong lịch sử thăm dò dư luận tại Mỹ.


IV.


Các sử gia thường nói đến quá trình trưởng thành của chính sách ngoại giao Mỹ kể từ thế kỷ 19. Nhưng nếu một quốc gia có thể học hỏi dần thì nó cũng có khả năng quên dần. Khi quan sát kỹ hơn đường lối ngoại giao của Mỹ hiện nay và các cuộc tranh luận về nó, dần dần người ta sẽ có cảm giác là những tiền đề của sách lược tổng thể thời Roosevelt đã bị lãng quên. Cũng có lẽ đó là điều không thể tránh khỏi. Ngày nay, Thế chiến hai đối với những người sinh vào thời kỳ chuyển tiếp thiên niên niên kỷ cũng xa xưa như cuộc Nội chiến Mỹ đối với thế hệ những năm 30. Một thế hệ không còn nhớ đến thời Chiến tranh Lạnh và chỉ trải qua các cuộc xung đột tại Iraq và Afghanistan sẽ có một cách nhìn khác về vai trò của Mỹ trên thế giới. Người Mỹ hôm nay không còn là những kẻ cô lập như thời những năm 20. Họ ủng hộ một trật tự thế giới tự do khi nào nó cho họ thấy một nguồn lợi trước mắt. Nhưng họ không còn muốn phải hy sinh nhiều để giữ vững trật tự thế giới đó. Như thần Atlas, người Mỹ đang phải vác nặng thế giới trên đôi vai của mình. Đó là một trách nhiệm vĩ đại. Số tiền khổng lồ  mà họ phải chi ra cho kinh phí quốc phòng lớn hơn tất cả số tiền của các quốc gia khác cộng lại. Vậy thì liệu những đồng minh của họ có thể sẽ có những đóng góp lớn hơn không?


Câu hỏi này đã được đặt ra từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhưng câu trả lời luôn luôn là: Rất có khả năng không! Những nguyên do cho phép nước Mỹ bảo vệ trật tự thế giới tự do cũng lý giải vì sao những đồng minh của Mỹ luôn rụt rè và ít có khả năng làm việc này:  Họ không có sức mạnh và sự an toàn để có thể nhìn vuợt qua lợi ích quốc gia đã bị định nghĩa hẹp của họ và phản ứng một cách thích đáng. Vì thế, chỗ nào mà họ đã thất bại thì họ cũng sẽ lại thất bại. Ngay cả những người châu Âu của thế kỷ 21 với những thành tựu tuyệt vời của họ trong quá trình thống nhất chính trị có vẻ cũng hoàn toàn không có khả năng nắm tay nhau để chống lại một “con thú dữ”, và cũng như trong quá khứ, nếu cần thiết thì họ cũng sẵn sàng ném những kẻ ốm yếu cho “con thú dữ” đó xé xác để cứu vãn sự an toàn (cho túi tiền) của họ.  Đạo đức cũng có giá của nó.


Như phần lớn nhân loại, người Mỹ rất thích tin rằng họ sẽ hành xử đúng và đứng vào phía đúng. Họ cũng mong rằng những hành động của họ là chính nghĩa hay là hợp pháp.


Nhưng trên thế giới không tồn tại một cơ cấu đảm bảo trật tự có tổ chức và theo một luật lệ toàn cầu, đó là chưa nói đến việc nó không thể có một cơ cấu đảm bảo trật tự dân chủ mà tất cả các quốc gia phải tuân theo. Vấn đề chính nghĩa hay phi chính nghĩa không được phân định bởi một tiến trình tìm lẽ phải vô tư, mà hoàn toàn phụ thuộc vào sự phân chia quyền lực trong hệ thống. Về nguyên tắc, để hợp lý thì ngoài lòng tin của bản thân, người Mỹ phải sử dụng sức mạnh của mình để thực hiện những ý tưởng về chính nghĩa của mình mà không cần thêm sự công nhận của bên ngoài. Đó là một gánh nặng về đạo đức cho một xã hội dân chủ. Ở quốc gia của mình, người Mỹ đã quen với việc chia xẻ đều gánh nặng này cho những đôi vai khác nhau trong xã hội. Người dân tạo ra luật pháp, cảnh sát làm cho pháp luật có giá trị, thẩm phán và bồi thẩm ra phán quyết và nhân viên nhà tù thực thi bản án. Trong khi đó, trên trường quốc tế, nước Mỹ vừa là thẩm phán, bồi thẩm, vừa là cảnh sát, và khi có hành động quân sự thì nó đóng luôn cả vai đao phủ. Cái gì đã cho phép nước Mỹ hàng động nhân danh một trật tự thế giới vị tự do? Thực tế là không có cái gì như thế cả, ngoài lòng tin rằng trật tự thế giới vị tự do là một thực thể chính nghĩa nhất.


Nan đề đạo đức này có thể dễ dàng được bỏ qua vào thời Chiến tranh Lạnh; khi đó mọi hành động, ngay cả khi chúng được tiến hành ở những nơi xa xôi nhất, cũng có thể được biện hộ bởi quyền lợi quốc gia lành mạnh. Ngược lại, những biện pháp bảo vệ trật tự thế giới luôn làm bật ra những câu hỏi phức tạp về đạo đức. Mỹ và châu Âu khẳng định rằng chủ quyền của Ukraine là bất khả xâm phạm và người  Ukraine phải được quyền quyết định rằng họ có nên trở thành một thành viên của Liên minh châu Âu hay không. Vladimir Putin biện hộ việc sáp nhập Krym vào Nga bằng những ràng buộc lịch sử và lý giải sự kiện này là một phản ứng trước  việc Mỹ và châu Âu can thiệp vào một khu vực ảnh hưởng lịch sử của Nga. Vậy ai là người có khả năng vô tư để phân định đúng sai giữa những quan niệm đối chọi nhau về pháp lý như trên? Sẽ vô vọng nếu như mang cách nhìn được coi là có ưu thế về đạo đức của thế kỷ 21 đối chọi với  tiêu chuẩn đạo đức được coi là yếu thế của thế kỷ 19.


Thế kỷ hiện nay của chúng ta cũng chẳng có nhiều hơn cái gọi là đạo đức tuyệt mỹ như những thế kỷ đã qua. Và trong thế kỷ này các đại cường cũng không hề trong trắng hơn khi bị lôi kéo vào những xung đột như trong các thế kỷ khác. Tất cả đều ích kỷ, tất cả đều thoả hiệp về đạo đức. Thực tế là như vậy – một quốc gia càng hùng mạnh bao nhiêu thì càng dễ có xu hướng hành xử chẳng có gì là phù hợp với các giá trị đạo đức của Cơ đốc giáo hay là của thời Khai sáng.


Ai có thể khẳng định được rằng việc bảo vệ trật tự thế giới vị tự do là nhất thiết đúng đắn? Người ta chưa bao giờ cho nhân dân toàn thế giới bỏ phiếu tán thành hay phản đối một trật tự thế giới vị tự do. Trật tự này không phải là do Chúa tạo ra. Nó cũng không phải là điểm kết thúc của tiến bộ loài người. Nó chỉ là một trật tự thế giới tạm thời đáp ứng nhu cầu, lợi ích và trước hết là lý tưởng của một bộ phận đông đảo và hùng mạnh, chứ không nhất thiết phải là đòi hỏi và mong muốn của tất cả mọi người. Chủ nghĩa cộng sản có thể là đã phá sản, nhưng tư tưởng toàn trị và các nhà nước chuyên chế vẫn còn. Và không phải là dân chủ, mà chính sự chuyên chế mới là cái đã từng là thước đo trong lịch sử loài người.


Trong những thập niên vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Mỹ và châu Âu, dân chủ đã có sức mạnh để xây dựng thế giới theo những ý tưởng của mình. Nhưng ai dám nói rằng Chủ nghĩa Putin ở Nga hay là dạng thái đặc biệt của chuyên chế tại Trung Quốc sẽ không có khả năng tồn tại lâu đúng như nền dân chủ châu Âu, cái mà ở ngoài nước Anh ra thì cho đến nay mới có nhỉnh hơn 100 năm tuổi? Đối với một quốc gia mệt mỏi về quyền lực thì điều này là một câu hỏi làm rối trí. Nhà nghiên cứu chính trị Hans Morgenthau có lần đã nhắc nhở rằng người Mỹ có lẽ “sẽ rất thích thú với ảo tưởng là một quốc gia… sẽ thoát khỏi sách lược quyền lực”, rằng sẽ đến lúc “tấm màn kết thúc sẽ được kéo xuống và trò chơi quyền lực sẽ không còn tiếp diễn”. Suy nghĩ trốn tránh thực tế này đã có một đồng vọng rộng lớn vào những năm cuối thời Chiến tranh Lạnh. Năm 1989 Fukuyama tuyên bố với người Mỹ rằng, với sự cáo chung của lịch sử thì “nền dân chủ vị tự do sẽ không còn đối thủ ý thức hệ nào cần phải chú ý”. Tiến bộ dân chủ là không thể tránh khỏi, và vì vậy, người ta không còn cần phải làm bất cứ gì để thúc đẩy và bảo vệ nó. Trong thời đại mới, cái mà nước Mỹ cần là cắt giảm quyền lực cứng (hard power) và tăng cường quyền lực mềm (soft power).


Đó là suy nghĩ chủ đạo, ít nhất là từ cuối thời Chiến tranh Lạnh cho tới năm 2008 và cho tới khi bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính. Đó là lúc xảy ra sự chuyển đổi mô hình. Bây giờ không phải là hồi kết của lịch sử, mà là hồi kết của nước Mỹ, hồi kết của phương Tây. Khúc khải hoàn đã nhường chỗ cho học thuyết thoái trào. Nếu như trước đó người ta cho rằng việc nước Mỹ dùng sức mạnh của mình để hướng dẫn thế giới vào một trật tự nhất định là không cần thiết, thậm chí là sai trái, thì ngày nay đột nhiên người ta thấy rằng điều đó không còn có khả năng xảy ra, vì Hợp chúng quốc đã không còn đủ sức. Các quan chức cao cấp trong chính phủ Mỹ, đặc biệt là giới trẻ, cho rằng trong cuộc xung đột tại Syria, Mỹ đã bị trói buộc chân tay quá nhiều. Đây là một bài học cho thế hệ của họ, bài học từ Iraq và Afghanistan: rằng Mỹ không còn sức mạnh, không còn sự hiểu biết, và cũng không còn cả khả năng giải quyết các vấn đề của thế giới.


Nhưng chính quan điểm cho rằng những hoạt động quốc tế chỉ là vô bổ lại cất giấu trong lòng nó một huyền thoại. Qua cặp kính màu hồng, chúng ta nhìn lại Chiến tranh Lạnh và tưởng tượng rằng nước Mỹ lúc đó đã dễ dàng thúc đẩy các quốc gia khác làm những gì mà Mỹ muốn. Nhưng nếu bỏ sang một bên những thành công, thì trong Chiến tranh Lạnh, sách lược ngoại giao của Mỹ cũng đã phạm phải hàng loạt những lỗi lầm, những xuẩn ngốc, nhiều tai nạn và cả một số thảm họa theo đúng nghĩa. Ngay từ đầu, các đồng minh của Mỹ đã tự chứng tỏ là họ thích gây rối, hay hờn dỗi và luôn bướng bỉnh. Phải chăng giới chiến lược gia của ngày hôm nay thật sự nghĩ rằng những người tiền nhiệm của họ trong các chính phủ trước đây có nhiều thuận lợi hơn họ?


Đường lối ngoại giao của bất kỳ quốc gia nào cũng thường thất bại nhiều hơn thành công. Ngay cả những cố gắng tác động vào hành xử của dân chúng trong nội địa cũng đã rất khó khăn. Vậy thì việc gây ảnh hưởng lên những dân tộc khác, quốc gia khác mà không lạnh lùng hủy diệt họ đương nhiên phải là một công việc khó khăn nhất của loài người. Điều chắc chắn trong ngoại giao –  nó cũng chắc chắn như sự tồn tại của loài người chúng ta, là tất cả những hành động giải quyết các vấn đề chỉ có thể làm nẩy sinh ra những vấn đề mới. Và điều này có giá trị cho mọi cuộc chiến tranh. Không có một cuộc chiến nào có kết cục hoàn hảo, ngay cả những cuộc chiến có những lý cớ tốt đẹp nhất cũng như vậy. Tiêu chuẩn cho một chiến thắng không nằm ở chỗ là kết quả cuối cùng có đáp ứng 100 % ước vọng ban đầu hay không, mà là liệu kết quả không ưng ý đã đạt được tốt hơn hay xấu hơn so với cái kết quả sẽ có nếu không có hành động. Việc chỉ chú tâm vào những kết quả phục vụ những mục tiêu tối đa với tốn phí tối thiểu là một biểu hiện của tâm thức trốn chạy thực tế.


Thực tế cho thấy người Mỹ ngày nay có vẻ như bị quá tải trước sự phức tạp của thế giới. Họ mong muốn được quay trở lại vị trí “vô tội của người vô trách nhiệm” như nhà thần học Mỹ Reinhold Niebuhr có lần đã nói, hay ít nhất cũng là có được một vị trí bình thường để nước Mỹ có thể giảm thiểu mức độ đóng góp cho thế giới. Với phương cách đó, nước Mỹ có thể sẽ quay trở về không khí của những năm 20. Tuy nhiên, ở đây có một điều khác biệt: Trong những năm 20 người Mỹ tin là Anh quốc và châu Âu có trách nhiệm bảo vệ cái trật tự thế giới mà họ đã tạo ra. Còn bây giờ, liệu người Mỹ có hiểu ra rằng lần này chỉ có họ mới có khả năng giữ vững trật tự thế giới đó?


Khi Tổng thống Obama mới nhậm chức, Peter Baker đã viết trên tờ New York Times rằng Obama muốn “tiếp nhận một thế giới như nó đang hiện hữu chứ không phải như người ta có thể mong muốn”. Đó chính là gốc rễ của cái điệp khúc mà các đại diện của nội các Obama luôn luôn đưa ra để giải thích tại sao Tổng thống lại chống việc tiến hành các hoạt động tại nơi này hay nơi kia trên thế giới để phấn đấu cho một “lý tưởng” đáng mơ ước nhưng khó thực hiện. Có vẻ như càng ngày càng ít người hiểu được rằng, đối với người Mỹ và nhiều người khác, 70 năm qua là một thời hạn ân huệ của chính cái thế giới “đang hiện hữu”.


Giai đoạn hòa bình và thịnh vượng có thể làm cho con người quên mất bản chất thật sự của cái thế giới  “đang hiện hữu”; nó cũng ru ngủ con người với lòng tin là loài người đã đạt đến một cấp bậc sinh tồn cao hơn. Người ta công bố những kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy đã đến “giai đoạn chuyển hóa của các quan hệ quốc tế”, và “sự thay đổi biên giới bằng vũ lực” đã giảm mạnh “kể từ năm 1946″.


Nhưng liệu có phải ngẫu nhiên mà trào lưu đáng phấn khởi như trên đã xuất hiện sau khi trật tự thế giới kiểu Mỹ được tạo dựng sau Thế chiến thứ hai? Thật ra thì thế giới – như nó “đang hiện hữu”, là một nơi đầy nguy hiểm và nhiều khi rất tàn bạo. Hành xử của con người, và cả các quan hệ quốc tế, về cơ bản cũng chẳng có nhiều thay đổi. Ngay cả trong thế kỷ 21, vũ lực vẫn là phương tiện cuối cùng. Vấn đề được đặt ra không phải là các quốc gia có sẵn sàng sử dụng vũ lực hay không, mà là các quốc gia đó nghĩ rằng, nếu sử dụng vũ lực thì họ có bị trừng phạt hay không. Khi Vladimir Putin thấy rằng không thể đạt được những mục tiêu của mình tại Ukraine bằng phương tiện chính trị và kinh tế, ông ta đã dùng đến vũ lực vì tin rằng mình có thể làm như vậy. Chừng nào vẫn còn tin rằng hiệu quả cao hơn cái giá phải trả khi dùng vũ khí, ông ta sẽ tiếp tục sử dụng vũ lực. Suy tính này cũng không có gì đặc biệt. Trong cách nhìn như vậy, liệu Trung Quốc sẽ làm tất cả những gì nếu như họ không bị ngăn cản bởi một hàng rào nhiều cường quốc được sự hỗ trợ của Mỹ? Và cũng trong mối liên quan này: Nhật Bản sẽ làm gì nếu như nó sẽ mạnh lên nhiều và ít phụ thuộc hơn vào nước Mỹ? Hiện tại chúng ta chưa phải tìm trả lời cho câu hỏi này vì với vị thế thống lĩnh của Mỹ, chiếc hộp thần tai họa của Pandora vẫn còn được giữ kín.


Hệ thống thế giới là một đan kết chặt chẽ của các tương quan sức mạnh, trong đó mỗi một quốc gia – từ lớn nhất cho tới nhỏ nhất, luôn phải ghi nhận một cách tinh vi những biến động và quấy rối. Từ 1945, và nhất là từ 1989, mối đan kết này đã được tạo ra để choàng vào nước Mỹ. Các đồng minh quan sát thái độ của Mỹ và tìm cách đánh giá độ tin cậy của nó. Các quốc gia cảm thấy bị Mỹ chèn ép hay đe dọa thì soi tìm những chỉ dấu tăng giảm về sức mạnh và quyết tâm của nó. Và khi nước Mỹ có vẻ như lùi bước, thì các đồng minh của nó an lòng trong khi các quốc gia khác hoan hỉ chờ cơ hội.


Trong những năm qua, thế giới đã tiếp nhận những tín hiệu cho thấy người Mỹ không còn muốn tiếp tục gánh vác trên vai sức nặng của trách nhiệm toàn cầu. Mới đây, khi nói về chuyện tiến quân vào Syria, Tổng thống Obama tuyên bố: “Đó không có nghĩa là việc này không đáng làm. Nhưng sau một thập niên chiến tranh, nước Mỹ đã tiến tới giới hạn của mình.”


Đến hôm nay thì những chỉ dấu sụp đổ của trật tự thế giới đã xuất hiện ở khắp nơi. Khi Nga tiến quân vào Ukraine và thâu tóm Krym, thì đây là lần đầu tiên kể từ sau Thế chiến hai, một quốc gia châu Âu đã xâm chiếm lãnh thổ của nước khác. Nếu Iran chế tạo bom nguyên tử, các nước khác bắt buộc phải làm theo. Iran, Saudi Arabia và Nga tiến hành chiến tranh uỷ nhiệm tại Syria, giết hại cho đến nay là 150.000 người và làm cho hàng triệu người phải phiêu bạt. Và những sự kiện mới đây tại Syria và Iraq đang làm tăng khả năng hình thành một nhà nước Thánh chiến Hồi giáo tại trung tâm Cận Đông, một nhà nước không chấp nhận biên giới. Nếu trào lưu này tiếp diễn thì trong tương lai gần, chúng ta sẽ có nhiều chiến tranh về lãnh thổ hơn, nhiều bạo lực vì sắc tộc và tôn giáo hơn, và sẽ nhìn thấy một thế giới vị tự do càng ngày càng thu hẹp.


Câu hỏi là nước Mỹ phải phản ứng ra sao. Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót khi Syria vẫn ở trong tay của Assad hay – có khả năng hơn, là Syria sẽ bị phân rã và trong vòng hỗn loạn,  quân Thánh chiến sẽ kiểm soát thêm nhiều vùng đất mới? Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót nếu như Iran có trong tay bom nguyên tử và để đáp lại thì sẽ xuất hiện những quả bom như vậy tại Saudi Arabia, tại Thổ Nhĩ Kỳ và tại Ai Cập? Liệu nước Mỹ sẽ còn sống sót trong một thế giới mà trong đó nước Nga thống lĩnh Đông Âu, không phải chỉ là ở Ukraine, mà ở cả vùng Baltic và có thể là cả Ba Lan?


Tất nhiên là nước Mỹ có thể còn sống sót. Có thể việc can thiệp thực tế là không bức thiết. Nước Mỹ vẫn có thể làm ăn buôn bán với một Trung Quốc nắm quyền thống lĩnh và cũng có thể tìm thấy một phương thức thỏa thuận chung sống với một đế quốc Nga tái hùng cường. Rồi sẽ như trong quá khứ, người Mỹ sẽ là những người cuối cùng phải chịu nỗi đau khi trật tự thế giới sụp đổ. Và khi họ thực sự cảm nhận được nỗi đau đó thì đã là rất muộn.


Nhà nghiên cứu chính trị Mỹ Robert Osgood, có thể được coi là tư tưởng gia chính trị thực tiễn thông minh nhất của thế kỷ vừa qua, khi nhìn lại thời kỳ trước Thế chiến hai đã phát hiện ra một điều kinh hoàng: Những định nghĩa thuần thực dụng về “lợi ích quốc gia” là hoàn toàn không đủ. Điều nghịch lý là chính những “người có lý tưởng” đã là những người phản ứng một cách “đặc biệt nhanh nhậy trước nguy cơ phát-xít đối với văn hóa và văn minh phương Tây”.  Lý tưởng chủ nghĩa là một “động cơ tinh thần không thể bỏ qua để con người có thể nhận ra những đòi hỏi bắt buộc của một chính sách quyền lực”. Điều này cũng chính là thông điệp của Roosevelt khi ông kêu gọi người Mỹ phải đứng lên bảo vệ “không những nhà cửa đất đai, mà cả lòng tin và tình người của họ”.


Có lẽ người ta lại phải khuyến khích người Mỹ làm như vậy ngay cả khi không có sự đe dọa của một Hitler mới. Nhưng lần này nước Mỹ sẽ không có một thời gian dài 20 năm để suy tính và quyết định. Thế giới biến chuyển nhanh hơn sức tưởng tượng của người Mỹ. Và sẽ không có một siêu cường dân chủ nào khác túc trực đằng sau sân khấu để cứu vãn thế giới nếu như nước Mỹ, siêu cường dân chủ duy nhất hiện nay, tỏ ra ngần ngại.


Nguồn: Robert Kagan: ”Die Welt wird zu gefährlichwenn Amerika den Führungsanspruch aufgibt“, Spiegel 26/2014


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Việt Vinh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 16, 2014 14:52

July 14, 2014

Và cuối cùng người Đức đã thắng

Phạm Thị Hoài


Bóng đá lí trí hay bóng đá cảm xúc, đó là câu hỏi truyền thống chia rẽ giới hâm mộ túc cầu. Những phiên bản khác của nó là: bóng đá chiến thuật hay bóng đá cảm hứng, kĩ thuật hay nghệ thuật, hiệu quả hay thẩm mĩ, thực dụng hay trình diễn, tỉ số hay sáng tạo, lạnh lùng hay bốc lửa… Thậm chí bóng đá văn xuôi hay bóng đá thơ.


Tôi biết đến nhận định của nghệ sĩ Ý đa tài đa tình và mê đá banh Pier Paolo Pasolini rằng bóng đá châu Âu đậm chất văn xuôi, bóng đá Nam Mỹ đậm chất thơ trước khi làm quen với bóng đá. Làm quen qua chàng trai tí hon của tôi từ thuở còn nhờ mẹ buộc hộ dây giày, một trong bảy triệu cầu thủ của Hiệp Hội Bóng đá Đức DFB cuối tuần nào cũng như cuối tuần nào quần nhau; trung bình mỗi cuối tuần trên toàn nước Đức diễn ra 100.000 trận đấu có ghi sổ, có tính điểm, có trọng tài và trọng tài có chứng chỉ thổi còi. Chỗ của chàng là trong khung thành. Giữ gôn ở đất nước của Sepp Maier, Oliver Kahn và Manuel Neuer không phải là nghề dở nhất. Chàng đã chăm chỉ gãy tay một lần, trật khớp nhiều lần và sở hữu một hồ sơ nắn xương từ thuở chưa biết đọc. Vinh quang còn lại sau một đời thủ môn là hai bàn tay không ngón nào chưa gãy. Vận tốc của trái bóng sút vào gôn có thể lên đến 120 km/ giờ, người có lí trí bình thường không xông ra hứng một vật nặng gần nửa cân đang lao vun vút như thế. Đứng sau khung thành cầu nguyện cho con, mắt xích duy nhất trong chuỗi liên tưởng văn chương và bóng đá có ý nghĩa đối với tôi là cựu thủ môn một đội bóng vô danh châu Phi, Racing Universitaire d’Alger: Albert Camus. Ông không làm thơ. Những tác giả châu Âu như Per Olov Enquist – cũng một thủ môn, Péter Esterházy – tiền vệ, Javier Marías – cổ động viên trung thành của Real Madrid, và tất nhiên Kafka – fan của đội bóng Do Thái SC Hakoah Wien khi ấy đang nổi như cồn, họ đều viết văn xuôi hảo hạng.


Ngôn ngữ thơ của bóng đá Nam Mỹ mà điển hình là bóng đá Brazil được chính nhà xã hội học danh tiếng nhất của đất nước này, ông Gilberto Freyre, khắc họa: đó là những phẩm chất bất ngờ, thanh thoát, uyển chuyển, và ngẫu hứng cá nhân. Nếu thật là thế thì đội tuyển Brazil trong trận thua 1:7 đã cạn kiệt cảm hứng thi ca, đã bán sạch những ưu thế của thơ để mua về những nhược điểm của văn xuôi. Sân Mineirão hôm ấy đã trở thành Ground Zero của Thời đại Brazil ngự trị suốt nửa thế kỉ. Song đã từ nhiều năm nay, cầu thủ Brazil duy nhất thỉnh thoảng cho tôi một cảm giác về sự lãng mạn của bóng đá không phải là Pelé huyền thoại, không phải là Ronaldo hoành tráng, dĩ nhiên không phải là Neymar chưa kịp lớn đã sắm vai người khổng lồ, mà là Ronaldinho, nhoẻn cười khoe trọn răng lợi nhấp nhô cả những khi hụt lưới hay mất bóng. Nếu chất thơ, theo định nghĩa của Pasolini, đặc biệt nằm ở nghệ thuật nhồi bóng và cảm hứng tấn công thì quả nhiên Nam Mỹ có một thiên tài thi ca, Messi. Trớ trêu thay thiên tài này chỉ tỏa sáng ở châu Âu sau khi bị chính quê hương mình lạnh nhạt. Đặc biệt trong mùa World Cup này, hầu như lúc nào tôi cũng chỉ thấy một Messi lạc lõng, một Messi cô đơn lang thang bách bộ ở đâu đó trên sân, nhìn mây ngắm cỏ, cách xa các đồng đội Argentina, hoàn thành chỉ tiêu mỗi trận chạy không quá 3 km và chạm không quá chục lần vào bóng. Có thể đó là ngoại lệ dành cho một thứ thi ca xuất thần, đặc tuyển, trong khi phần còn lại của bóng đá Nam Mỹ, không có ngoại lệ, từ chủ nhà trở đi, vượt xa châu Âu trong nghệ thuật chơi xấu. Nếu bóng đá châu Âu là bóng đá Thái dương thần và bóng đá Nam Mỹ là bóng đá Tửu thần, vẫn theo Gilberto Freyre, thì rất nhiều cầu thủ Nam Mỹ có lẽ đã chơi bẩn vì quá chén. Đỉnh cao của những cơn say cuồng bạo ấy là trận thuần túy Nam Mỹ, giữa chủ nhà và nước láng giềng Columbia.


Châu Âu chia tay với totaalvoetbal tiqui-taca, đến lượt Nam Mỹ vĩnh biệt jogo bonito. Một tác giả Đức từng miêu tả lịch sử bóng đá với chương một là nền bóng đá người hùng nước Anh, chương hai là nền bóng đá siêu hình nước Đức, chương ba là nền bóng đá phản xạ Hà Lan và vĩ thanh là nền bóng đá mĩ thuật Brazil. Vĩ thanh ấy đã tắt. World Cup lần này có thể giàu kịch tính và cuối cùng cũng thành tựu trong một trận chung kết ở đẳng cấp cao, song về tổng thể, chưa bao giờ bản thân nghệ thuật bóng đá thoái hóa hơn để nghệ thuật phạm lỗi lên ngôi hơn. Không một đội tuyển nào bị loại oan vì đã hết mình cống hiến cho nghệ thuật ấy. Các ông lớn về vườn đều đáng về vườn. Các underdog đều chiến thắng đến hết tầm là hết. Trong khung cảnh ấy, duy nhất thực sự xứng đáng đăng quang là đội tuyển Đức. Không phải vì cuối cùng người Đức luôn chiến thắng. Cuối cùng họ đã thắng vì họ đã chơi một thứ bóng đá thanh khiết và đáng yêu nhất trong khả năng có thể ở thế giới bóng đá ngày hôm nay, một thế giới càng ngày càng xấu xí, thô bạo, thương mại hóa, đầy phô trương, bê bối, tham nhũng và mưu mô quyền lực. Họ, những người thừa kế một nền bóng đá tuy nhiều thành công nhưng luôn bị coi là thô thiển, đáng ghét. Xe tăng Đức không hóa thành đại bàng, cầu thủ Đức không thảnh thơi đếm cỏ trên sân và thai nghén thơ, không làm xiếc, không bay bổng, không làm cột ăng-ten đón ơn Chúa, không làm ngôi sao, họ thuần túy tuân thủ những yếu tố bắt buộc để có một nền bóng đá chất lượng cao: chiến thuật, kĩ thuật, thể lực, tài năng, ý chí, kinh nghiệm, tổ chức và một tập thể đồng lòng, một Mannschaft. Cú sút cuối cùng đưa họ lên ngôi vô địch không đẹp thót tim, mà đơn giản là hoàn hảo.


Tác giả của cú sút ấy là một chú nhóc trẻ măng, bằng đúng tuổi con trai tôi. Chàng đã rời khung thành từ lâu, đi theo một tình yêu thể thao khác. Bóng đá quả thật là chuyện rất phụ, dù là chuyện phụ tuyệt vời nhất thế gian, die schönste Nebensache der Welt theo cách nói của người Đức. Song dấu ấn của những năm tháng giữ gôn ở đội bóng tí hon trên sân vận động cạnh nhà ấy chắc chắn còn lại. Camus nói rồi, sau này dù cuộc đời đã dạy ông khá nhiều điều nhưng “ce que finalement je sais sur la morale et les obligations des hommes, c’est au sport que je le dois“. Cuối cùng thì những gì ông biết về đạo đức và bổn phận của con người đều là nhờ thể thao mà có. Môn thể thao của ông là bóng đá.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 14, 2014 16:06

Và cuối cùng người Đức đã thắng

Phạm Thị Hoài


Bóng đá lí trí hay bóng đá cảm xúc, đó là câu hỏi truyền thống chia rẽ giới hâm mộ túc cầu. Những phiên bản khác cá»§a nó là: bóng đá chiến thuật hay bóng đá cảm hứng, kÄ© thuật hay nghệ thuật, hiệu quả hay thẩm mÄ©, thá»±c dụng hay trình diễn, tỉ số hay sáng tạo, lạnh lùng hay bốc lá»­a… Thậm chí bóng đá văn xuôi hay bóng đá thÆ¡.


Tôi biết đến nhận định cá»§a nghệ sÄ© Ý đa tài đa tình và mê đá banh Pier Paolo Pasolini rằng bóng đá châu Âu đậm chất văn xuôi, bóng đá Nam Mỹ đậm chất thÆ¡ trước khi làm quen với bóng đá. Làm quen qua chàng trai tí hon cá»§a tôi từ thuở còn nhờ mẹ buộc hộ dây giày, một trong bảy triệu cầu thá»§ cá»§a Hiệp Hội Bóng đá Đức DFB cuối tuần nào cÅ©ng như cuối tuần nào quần nhau; trung bình mỗi cuối tuần trên toàn nước Đức diễn ra 100.000 trận đấu có ghi sổ, có tính điểm, có trọng tài và trọng tài có chứng chỉ thổi còi. Chỗ cá»§a chàng là trong khung thành. Giữ gôn ở đất nước cá»§a Sepp Maier, Oliver Kahn và Manuel Neuer không phải là nghề dở nhất. Chàng đã chăm chỉ gãy tay một lần, trật khớp nhiều lần và sở hữu một hồ sÆ¡ nắn xương từ thuở chưa biết đọc. Vinh quang còn lại sau một đời thá»§ môn là hai bàn tay không ngón nào chưa gãy. Vận tốc cá»§a trái bóng sút vào gôn có thể lên đến 120 km/ giờ, người có lí trí bình thường không xông ra hứng một vật nặng gần ná»­a cân đang lao vun vút như thế. Đứng sau khung thành cầu nguyện cho con, mắt xích duy nhất trong chuỗi liên tưởng văn chương và bóng đá có ý nghÄ©a đối với tôi là cá»±u thá»§ môn một đội bóng vô danh châu Phi, Racing Universitaire d’Alger: Albert Camus. Ông không làm thÆ¡. Những tác giả châu Âu như Per Olov Enquist – cÅ©ng một thá»§ môn, Péter Esterházy – tiền vệ, Javier Marías – cổ động viên trung thành cá»§a Real Madrid, và tất nhiên Kafka – fan cá»§a đội bóng Do Thái SC Hakoah Wien khi ấy đang nổi như cồn, họ đều viết văn xuôi hảo hạng.


Ngôn ngữ thơ của bóng đá Nam Mỹ mà điển hình là bóng đá Brazil được chính nhà xã hội học danh tiếng nhất của đất nước này, ông Gilberto Freyre, khắc họa: đó là những phẩm chất bất ngờ, thanh thoát, uyển chuyển, và ngẫu hứng cá nhân. Nếu thật là thế thì đội tuyển Brazil trong trận thua 1:7 đã cạn kiệt cảm hứng thi ca, đã bán sạch những ưu thế của thơ để mua về những nhược điểm của văn xuôi. Sân Mineirão hôm ấy đã trở thành Ground Zero của Thời đại Brazil ngự trị suốt nửa thế kỉ. Song đã từ nhiều năm nay, cầu thủ Brazil duy nhất thỉnh thoảng cho tôi một cảm giác về sự lãng mạn của bóng đá không phải là Pelé huyền thoại, không phải là Ronaldo hoành tráng, dĩ nhiên không phải là Neymar chưa kịp lớn đã sắm vai người khổng lồ, mà là Ronaldinho, nhoẻn cười khoe trọn răng lợi nhấp nhô cả những khi hụt lưới hay mất bóng. Nếu chất thơ, theo định nghĩa của Pasolini, đặc biệt nằm ở nghệ thuật nhồi bóng và cảm hứng tấn công thì quả nhiên Nam Mỹ có một thiên tài thi ca, Messi. Trớ trêu thay thiên tài này chỉ tỏa sáng ở châu Âu sau khi bị chính quê hương mình lạnh nhạt. Đặc biệt trong mùa World Cup này, hầu như lúc nào tôi cũng chỉ thấy một Messi lạc lõng, một Messi cô đơn lang thang bách bộ ở đâu đó trên sân, nhìn mây ngắm cỏ, cách xa các đồng đội Argentina, hoàn thành chỉ tiêu mỗi trận chạy không quá 3 km và chạm không quá chục lần vào bóng. Có thể đó là ngoại lệ dành cho một thứ thi ca xuất thần, đặc tuyển, trong khi phần còn lại của bóng đá Nam Mỹ, không có ngoại lệ, từ chủ nhà trở đi, vượt xa châu Âu trong nghệ thuật chơi xấu. Nếu bóng đá châu Âu là bóng đá Thái dương thần và bóng đá Nam Mỹ là bóng đá Tửu thần, vẫn theo Gilberto Freyre, thì rất nhiều cầu thủ Nam Mỹ có lẽ đã chơi bẩn vì quá chén. Đỉnh cao của những cơn say cuồng bạo ấy là trận thuần túy Nam Mỹ, giữa chủ nhà và nước láng giềng Columbia.


[image error]Châu Âu chia tay với totaalvoetbal và tiqui-taca, đến lượt Nam Mỹ vĩnh biệt jogo bonito. Một tác giả Đức từng miêu tả lịch sử bóng đá với chương một là nền bóng đá người hùng nước Anh, chương hai là nền bóng đá siêu hình nước Đức, chương ba là nền bóng đá phản xạ Hà Lan và vĩ thanh là nền bóng đá mĩ thuật Brazil. Vĩ thanh ấy đã tắt. World Cup lần này có thể giàu kịch tính và cuối cùng cũng thành tựu trong một trận chung kết ở đẳng cấp cao, song về tổng thể, chưa bao giờ bản thân nghệ thuật bóng đá thoái hóa hơn để nghệ thuật phạm lỗi lên ngôi hơn. Không một đội tuyển nào bị loại oan vì đã hết mình cống hiến cho nghệ thuật ấy. Các ông lớn về vườn đều đáng về vườn. Các underdog đều chiến thắng đến hết tầm là hết. Trong khung cảnh ấy, duy nhất thực sự xứng đáng đăng quang là đội tuyển Đức. Không phải vì cuối cùng người Đức luôn chiến thắng. Cuối cùng họ đã thắng vì họ đã chơi một thứ bóng đá thanh khiết và đáng yêu nhất trong khả năng có thể ở thế giới bóng đá ngày hôm nay, một thế giới càng ngày càng xấu xí, thô bạo, thương mại hóa, đầy phô trương, bê bối, tham nhũng và mưu mô quyền lực. Họ, những người thừa kế một nền bóng đá tuy nhiều thành công nhưng luôn bị coi là thô thiển, đáng ghét. Xe tăng Đức không hóa thành đại bàng, cầu thủ Đức không thảnh thơi đếm cỏ trên sân và thai nghén thơ, không làm xiếc, không bay bổng, không làm cột ăng-ten đón ơn Chúa, không làm ngôi sao, họ thuần túy tuân thủ những yếu tố bắt buộc để có một nền bóng đá chất lượng cao: chiến thuật, kĩ thuật, thể lực, tài năng, ý chí, kinh nghiệm, tổ chức và một tập thể đồng lòng, một Mannschaft. Cú sút cuối cùng đưa họ lên ngôi vô địch không đẹp thót tim, mà đơn giản là hoàn hảo.


Tác giả cá»§a cú sút ấy là một chú nhóc trẻ măng, bằng đúng tuổi con trai tôi. Chàng đã rời khung thành từ lâu, đi theo một tình yêu thể thao khác. Bóng đá quả thật là chuyện rất phụ, dù là chuyện phụ tuyệt vời nhất thế gian, die schönste Nebensache der Welt theo cách nói cá»§a người Đức. Song dấu ấn cá»§a những năm tháng giữ gôn ở đội bóng tí hon trên sân vận động cạnh nhà ấy chắc chắn còn lại. Camus nói rồi, sau này dù cuộc đời đã dạy ông khá nhiều điều nhưng “ce que finalement je sais sur la morale et les obligations des hommes, c’est au sport que je le dois“. Cuối cùng thì những gì ông biết về đạo đức và bổn phận cá»§a con người đều là nhờ thể thao mà có. Môn thể thao cá»§a ông là bóng đá.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 14, 2014 16:06

July 10, 2014

World Cup, sự bất lực từ vị trí bên lề và một mỹ học khác về Tổ quốc

Nguyễn Hoàng Văn


Không phải là người cuồng nhiệt với bóng đá nên tôi vẫn thường theo dõi World Cup một cách tuỳ hứng, cầm chừng, hoàn toàn không dính vào mấy trò cá cược, cho đến World Cup năm nay. Chú ý hơn, tôi còn hồi hộp như một tay cá cược hạng nặng đã vung hết vốn liếng và ngày mai vào đường bay bất định của trái bóng, thế nhưng ấn tượng sâu đậm nhất, day dứt như một ám ảnh, đã không đến từ hướng bóng bất ngờ, những bàn thắng bàn thua nghẹt thở bất ngờ. Cái làm tôi chú ý là hình ảnh thẫn thờ hay chờ chực nổ tung của những nhà huấn luyện, trái tim và linh hồn của trận đấu nhưng bó tay, bất lực bên lề một trận đấu.


Tôi săm soi để ý dẫu họ chỉ thấp thoáng mờ nhạt bên lề, hiu hắt chìm khuất dưới một núi những cổ động viên rực rỡ, ồn ào. Tôi để ý từng phản ứng, cử động. Tôi săm soi từng vẻ mặt, nét mày. Banh lên, họ đờ người nín thở, mồm há hốc, mắt căng ra, chờ đợi. Sân nhà bị đối phương tràn ngập, cái ghế ngồi hoá thành lò lửa, họ nhấp nhổm, không yên. Đội hình loạng choạng, họ giận dữ gào thét, vung tay ra dấu chỉnh đốn thế trận. Một cú sút cháy lưới đối phương, khí sắc căng cứng trên mặt họ bùng ra, vỡ oà, tay vung lên đấm vào không khí. Đường bóng căng như dây đàn bay vọt sà ngang trong gang tấc, họ hụt hẫng tiếc nuối, tay chùng xuống, vô hồn. Khoảnh khắc cuối, một sai lầm không đáng của hàng phòng ngự khiến công khó trong 90 phút trôi sông đổ biển, họ bùng dậy phẫn nộ hay họ rũ xuống đớn đau.


Là trái tim đội bóng, họ nắm bắt sở trường của từng cầu thủ để tạo nên nhịp đập chung cho toàn đội. Bóng đá là trò chơi tập thể, ở đó nhiệm vụ của họ là tạo nên sức mạnh chung như là bệ phóng để từng tài nghệ thăng hoa và khai thác từng tài nghệ cá nhân như là chất xúc tác cho sức mạnh chung toàn đội. Bóng đá là một dự án chung mà nhiệm vụ của họ là kết nối các cầu thủ lại thành một khối để bất cứ thao tác nào với trái bóng cũng phải mang tính cộng đồng, nghĩa là phải nằm trong khả năng phán đoán của đồng đội. Bóng đá là một trận chiến mà bất cứ một lơ là cá nhân nào cũng có thể dẫn đến cái giá chung tập thể, bởi các cầu thủ của họ không những phải chu toàn nhiệm vụ tại vị trí phân định mà còn phải bảo đảm mối liên lạc giữa các tuyến để có thể làm chủ nhịp điệu của thế trận, có thể lèo lái cuộc chơi theo ý đồ chiến thuật của mình.


Chỉ hiểu lõm bõm mấy lý thuyết sơ đẳng về nghề nghiệp của họ, tôi có thể hiểu tại sao tôi chú ý đến họ. Bởi như họ, tôi và bạn, những người Việt bình thường với mối ưu tư thường tình về đất nước của mình, ai cũng ý thức rất rõ về thế trận nhưng đành chịu, bó tay, bất lực đứng ở vị trí bên lề. Tại sao trận đấu lại có thể diễn ra như thế này? Tại sao đội hình lại rời rạc, loạng choạng, thiếu ăn ý như vậy? Tại sao cứ tiếp tục cái đấu pháp lỗi thời, không những vô hiệu lực mà còn phản tác dụng kia? Tại sao có thể buông xuôi, để mặc những máu, mồ hôi và nước mắt trôi sông đổ biển trong phút chốc? Tại sao, tại sao và tại sao. Hàng loạt câu hỏi nhức nhối nối tiếp nhau, như thác, gầm gừ trong đầu chúng ta, như sấm và, vô hình trung, chúng ta bỗng hoá thành của những nhà huấn luyện đang muốn nổ tung cái đầu của mình ra với ý tưởng xốc lại đội hình, chỉnh đốn lại thế trận, ấn định lại đấu pháp nhưng đành, đau đớn và phẫn nộ, bó tay bất lực đứng nhìn từ vị trí bên lề.


Nhưng đó không đơn thuần là chuyện hư bột hư đường với “vinh dự quốc gia”, của một đội tuyển bóng đá quốc gia. Vinh dự ấy chỉ có hiệu lực bốn năm trong khi chúng ta thì đau với mối nguy đang đe doạ sức sinh tồn của dân tộc có hiệu lực ngàn vạn năm. Cái trận đấu quốc tế về chủ quyền quốc gia, đang nằm trong tay một “đội tuyển chính trị quốc gia”.


Danh chính ngôn thuận thì, như một chính quyền đã được Liên Hiệp Quốc công nhận, cái “đội tuyển chính trị” trong trận đấu này chính là đội hình “Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (CHXHCNVN) và, như những cổ động viên đã phó thác toàn bộ vốn liếng và ngày mai, chúng ta đang đau đớn chứng kiến lối đá lạ lùng của một đội bóng lạ lùng.


Đó là một trận đấu mà đội trưởng hoàn toàn mất tích, hậu vệ không dám cản banh, trung vệ đòi làm trọng tài biên trong khi tiền đạo thì, mãi đến nay, chỉ có mỗi một thao tác duy nhất là… sút vào lưới nhà. Sự lạ lùng không chỉ giới hạn trên sân. Nó lan ra cả bốn phía khán đài khi cổ động viên nửa được van lơn, nửa bị đe nẹt, viện cớ những holligan cò mồi, là phải câm họng, không được công khai cổ động đội nhà. Trên hết là mục tiêu, chiến thuật. Thay vì tạo ra nhịp điệu thế trận của mình để hoá giải đấu pháp của đối phương, đội tuyển này lại ra sân như muốn phục vụ cho ý đồ chiến thuật của đối phương.


Bất cứ trận đấu hay dự án nào cũng cần phải một vị trí đầu đàn. Nếu, trên thực tế, vai trò đội trưởng phải thuộc về Tổng Bí thư thì, trên danh nghĩa, đó lại là vị trí của Chủ tịch nước. Thế nhưng “trên thực tế” hay “trên danh nghĩa”, Tổng Bí thư hay Chủ tịch, đội trưởng nào cũng không dám ra sân. Cả hai đều vắng mặt, như hai tên đào ngũ. [1]


Đội trưởng tự nhận thẻ đỏ từ đầu và những cầu thủ khác thì ra sân với tấm thẻ đỏ lơ lửng trên đầu, một thứ vòng kim cô hay một thứ lưỡi gươm Democles. Chủ tịch Quốc hội, trên lý thuyết, là nhân vật có vai trò tập hợp sức dân, thể hiện ý nguyện và lòng dân nên, do đó, có thể xếp vào hàng hậu vệ. Thế nhưng đây lại là một hậu vệ nhát banh. Thỉnh thoảng y quay mặt sang hai phía khán đài hếch mũi nhăn mặt như muốn pha trò nhưng nhiệm vụ thực sự của mình thì thoái thác và lảng tránh. Hoàn toàn không dám cản banh, chỉ một “nghị quyết” về Biển Đông thôi, y cũng són dái.


Quan trọng không kém là Thủ tướng. Có trách nhiệm điều phối chính quyền, điều phối các hoạt động phân phối và quản trị tài nguyên, nhân vật này cần đứng vào vị trí trung vệ, cầu nối giữa tuyến dưới và tuyến trên, cái vai trò cực kỳ quan trọng khi vừa kiến tạo những đợt tấn công vừa đóng vai trò tiếp ứng cho hàng phòng ngự. Thế nhưng va cũng chẳng đảm nhiệm được tý ty phần trăm nhiệm vụ trên phần đất phân định mà chỉ thấy lăng xăng ở dọc đường biên. Thỉnh thoảng va tạt sang nước này nước kia để, hoặc phát biểu dăm câu, hoặc hăm he sẽ có hành động pháp lý dăm câu. Tất cả chỉ có vậy. Chỉ hăm thôi, và chỉ hăm khi đã dạt ra biên. Va tuyệt đối không dám thực hiện cú sút phạt đáng ra được hưởng từ những lỗi mà mình đã phất cờ từ vị trí trọng tài biên.


Vai trò xông pha trận mạc ắt phải thuộc về Đại tướng – Bộ trưởng Quốc phòng. Và để tương xứng với hậu vệ sợ banh và trung vệ sợ tuột dây giày, ông tiền đạo – Đại tướng này lại lúng ta lúng túng với ngọn cờ trắng trong tay như có thể thấy ở bài diễn văn “giải quyết song phương” trong Diễn đàn An ninh Á châu Shangri-la tại Singapore. Không chỉ đẩy cổ động viên Nhật – Mỹ vào tình thế việt vị, há miệng mắc quai, tiền đạo ấy đã biến cú đá phạt lẽ ra phải hướng vào lưới địch thành cú sút ngược bắn vào khung thành nhà!


Không dám tổ chức các đợt tấn công đã đành, đội tuyển chính trị ấy còn e dè khép nép như thể sợ rằng trọng tài sẽ cho mình hưởng quả phạt đền. Đội tuyển chính trị CHXHCNVN đã ra sân như sợ rằng mình sẽ… thắng. Thiên về phòng ngự hay tấn công, đội bóng nào cũng nhập cuộc với giấc mơ chiến thắng hay thực tế hơn theo cán cân thực lực là giảm đến mức tối thiểu số bàn thua. Không đấu pháp, không huấn luyện viên và không đội trưởng nhưng, với bóng dáng lộ liễu của một trùm cá độ không thèm ra mặt, đội bóng này ra sân như muốn… tối đa số hoá số bàn thua.


Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt

Mỗi con sông đều muốn hoá Bạch Đằng

(“Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” – Chế Lan Viên)


Nếu những đứa trẻ còn biết mơ ngựa sắt thì những nhà lãnh đạo quốc gia này lại bằng lòng với… ngựa gỗ, thứ ngựa đồ chơi sản xuất trong những công xưởng rẻ tiền Trung Quốc, chỉ có thể lắc tới lắc lui cái nhịp điệu chán phèo đã lên dây cót sẵn của nhà sản xuất Trung Quốc; hết lắc về sự cân bằng giữa “chủ quyền” với “tình hữu nghị” thì lắc đến sự cân bằng giữa “hoà bình ổn định” và nguy cơ “phức tạp hoá vấn đề”. Nếu chú bé Làng Gióng trong truyền thuyết vươn mình hoá thành người khổng lồ phóng lên lưng ngựa sắt đi giữ nước thì hôm nay chúng ta chứng kiến những nhà chính trị trong tuổi trưởng thành hoá thân thành trẻ con giữ nước. Sợ, không dám làm “Thánh” trên sân đấu, họ lẩn vào bốn phía khán đài để làm những ông thánh ăn vụng với từng nhóm nhỏ khán giả / cử tri. Họ “sẽ” bảo vệ chủ quyền thế này. Họ “sẽ” lấy lại những gì đã mất thế kia. [2] Họ nói thánh nói tướng bằng thì tương lai trong khi ngôn ngữ cho hiện tại thì mập mờ và gian trá, ngầm đe nẹt và ra mặt van lơn, rằng hãy “yên tâm / tin tưởng”, rằng phải “tự chế / đừng để bị lôi kéo / kích động”, rằng “không nhất thiết” phải công khai hò hét các khẩu hiệu đòi hỏi chủ quyền. Ngựa sắt của Thánh Gióng, với họ, chỉ còn lại là ngựa gỗ và con sông Bạch Đằng “tự cổ huyết do hồng”, cơ hồ, chỉ còn là một con kênh Nhiêu Lộc đen ngòm.


Chế Lan Viên viết mấy câu thơ “mơ ngựa sắt” ấy vào thập niên 60, cái thời mà hào quang của Pelé rực rỡ trên đấu trường quốc tế và danh tiếng của Đỗ Thới Vinh cùng Phạm Văn Rạng tỏa sáng trên sân cỏ Á châu. [3] Từ những hào quang ấy nhà văn Duyên Anh đã thổi bùng ước mơ World Cup và “vinh dự Việt Nam” vào tâm hồn của thế hệ trẻ em thời ấy, qua những câu chuyện dành riêng cho trẻ em. [4]


Duyên Anh chỉ viết truyện riêng cho trẻ em thôi chứ chưa đạt tới tầm cỡ của một nhà văn vừa viết cho trẻ em, vừa viết cả cho những ai “đã từng là trẻ em”. Dẫu vậy tôi vẫn muốn sống lại những khát vọng hồn nhiên của cái thời… chưa từng là người lớn, cái khát vọng mà, nói theo Chế Lan Viên là “mơ ngựa sắt”, và nói theo Duyên Anh là “Mơ thành người Quang Trung”.


Trong giấc mơ đó Đội tuyển Việt Nam Cộng hoà, với những cầu thủ trụ cột như “Bồn lừa” và “Chương còm”, diễn tả như những đứa em từng hâm mộ “anh Vinh / anh Rạng”, đã chiến thắng vô địch thế giới Brazil ngay trên sân Brazil. Và trong giấc mơ đó những tuyển thủ Việt Nam không chỉ khiến một danh thủ lẫy lừng như Pelé và đất nước Brazil phải tâm phục khẩu phục mà còn khiến người Pháp phải tự cảm thấy xấu hổ, cúi đầu xin lỗi người Việt về 80 năm đô hộ.


Đó không chỉ là vinh quang sân cỏ và hành động ngoại giao tưởng tượng kia chỉ là một cái cớ bởi sâu thẳm trong đó là ước mơ đau đáu về một nước Việt Nam mạnh mẽ ngẩng đầu, không ai dám khinh nhờn, không bị ai ức hiếp, một ước mơ không phải là xa vời lắm nếu chúng ta nhìn vào những nước Á châu như Nhật hay Nam Hàn ngày nay. Con hơn cha là nhà có phúc, nếu những Đỗ Thới Vinh và Phạm Văn Rạng có thể đạt đến trình độ thượng thặng của nền bóng đá Á châu ở thập niên 60 thì những thế hệ tiếp nối cũng có thể đi xa hơn đàn anh mình và, tệ ra, cũng có thể tiến tới World Cup như Nhật hay Nam Hàn chứ? Và nếu, năm 2008 nguyên Thủ tướng Úc Kevin Rudd từng đứng ra xin lỗi những thế hệ thổ dân bị đánh cắp, năm 1998 nguyên Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã đứng ra xin lỗi Phi châu về về tệ buôn bán nô lệ da đen, thì viễn ảnh về việc người Pháp đứng ra xin lỗi về hành động thực dân của cha ông họ ngày trước cũng là điều mà chúng ta có thể kỳ vọng chứ?


Và bây giờ cũng tại Brazil, cũng ngay trong mùa World Cup, cái tên Việt Nam lại được nêu lên, nhưng như một vết nhục: “It’s the World Cup, not a friendly in Vietnam”. [5] Đó là World Cup chứ không phải một trận giao hữu tại Việt Nam, có người Việt bình thường nào mà không cảm thấy đau khi Raúl Albiol, một tuyển thủ Tây Ban Nha, trong cuộc phỏng vấn của tờ The Guardian trước trận đấu chỉ mang ý nghĩa thủ tục với đội tuyển Úc để rồi lên đường về nước, đã lôi tên đất nước mình ra như là hạng vứt đi của nền bóng đá thế giới, cái nơi thua chẳng sao mà thắng cũng chả vinh dự gì? Nếu trên sân bóng đá, đội tuyển Việt Nam đã đồng hoá cái tên đất nước như là trình độ đáy hạng của thế giới thì, trên bản đồ bang giao quốc tế, qua cuộc tranh chấp chủ quyền mà chúng ta đang chứng kiến, “đội tuyển chính trị” Việt Nam đã biến cái tên Việt Nam thành một mục tiêu của sự… thương hại.


Sự thương hại bao giờ cũng chỉ ban phát cho hạng người không thể ngóc đầu và, cơ hồ, trên muôn mặt đời sống, chúng ta chỉ đối mặt với những tình huống phải cúi đầu. Chưa bao giờ phẩm giá Việt Nam bị hạ thấp như hôm nay. Chúng ta tủi nhục cúi đầu khi người Nhật và người Thái dựng những biển cấm bằng tiếng Việt. Chúng ta nhục nhã chứng kiến cảnh “đội tuyển chính trị quốc gia” líu ríu cúi đầu, cúi đầu khi sinh mạng và tài sản của người dân bị trắng trợn xúc phạm, cúi đầu cả khi chủ quyền quốc gia bị ngang nhiên xâm phạm. Và lời xin lỗi về 80 năm thực dân sẽ là một giấc mơ rất xa vời khi mà, không cần đợi những thế lực thực dân đến bắt người Việt làm nô lệ lần nữa, chính cái đội tuyển chính trị kia đã hiện nguyên hình là một thế lực thực dân.[6]


Cái gì đã đẩy đất nước chúng ta đến mức tận cùng của sự nhu nhược, sa đoạ và hèn yếu này?


Tôi nghĩ đến những bài thơ trên của Chế Lan Viên, “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”:


Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

– Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn,

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…

Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả

Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn…


Bài thơ được viết vào năm 1965, là thời của chiến tranh chia cắt và Tổ quốc có thể nào “đẹp” trong cái hình hài quằn quại đau đớn vì cắt xẻ và xung đột ấy? Nhưng với nhà thơ thì Tổ quốc không chỉ rất “đẹp”, mà là “đẹp nhất” bởi, từ góc nhìn lịch sử:


Có phải cha ông đến sớm chăng và cháu con thì lại muộn?

Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút giây bây giờ

Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng,

Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ…


và bởi, từ góc nhìn riêng:


Ôi! Trường Sơn vĩ đại của ta ơi!

Ta tựa vào ngươi, kéo pháo lên đồi,

Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát,

Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ-cát,

Rồng năm móng vua quan thành bụi đất,

Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!


Tiếng cười dẫu có “dội” trang thơ đến đâu đi nữa thì Tổ quốc cũng cần phải đi lên, phải đẹp hơn mỗi ngày và có thế hệ nào mà không mong mỏi rằng con cháu sẽ đi xa hơn mình? Thế nhưng Tổ quốc đã vươn đến cái đỉnh cao mà quá khứ không thể so sánh, tương lai không thể vượt qua, vĩnh viễn, muôn vạn năm sau, Tổ quốc không thể nào “đẹp” và “đáng sống” hơn. Khi thế hệ đi trước có thể kiêu ngạo đến mức hẹp hòi và ích kỷ trong quan niệm về cái “đẹp” của Tổ quốc như thế thì, ắt hẳn, phải có một sự lệch lạc nào đó trong nhận thức của họ về cái “đẹp” ấy.


Nói một cách khác là sự lệch lạc trong mỹ học về Tổ quốc.  Mỹ học là triết học về cái đẹp. Nếu cái đẹp bao giờ cũng tùy thuộc vào phối cảnh của đối tượng và sự tương tác giữa con mắt thưởng ngoạn với đối tượng thì cái đẹp của Tổ quốc cũng vậy. Nó tùy thuộc vào phối cảnh của đất nước. Và nó tùy thuộc vào sự tương tác từ những con mắt nhìn vào. Nghĩa là tuỳ thuộc vào “nhận thức” về Tổ quốc.


Nhận thức về Tổ quốc hình thành trong đầu chúng ta từ những bài học địa lý và lịch sử đầu tiên. Những bài địa lý dạy chúng ta hình hài thân xác Tổ quốc trên ý nghĩa không gian và những bài sử cho chúng ta nhìn ra “linh hồn” của Tổ quốc trên khía cạnh thời gian. Chúng ta học để ý thức được nhiệm vụ của mình cho một Tổ quốc ngày càng đẹp hơn, cao cả hơn. Nhưng chúng ta còn học để hiểu rằng cái đẹp và sự cao cả của Tổ quốc phải đặt trong ý nghĩa tương liên giữa thời gian với không gian. Tổ quốc hôm nay phải hơn ngày hôm qua và sẽ không là gì so với ngày mai, tất nhiên. Nhưng trên nghĩa cạnh tranh / sinh tồn, Tổ quốc còn phải đẹp và cao cả hơn trên ý nghĩa không gian, phải “hơn” theo một tốc độ để không bị tụt hậu so với thế giới và láng giềng, nghĩa là phải “hơn” trong cái nhìn đồng đại. Khu biệt hoá không gian chỉ để “đẹp hơn” trên khía cạnh thời gian là một sự lệch lạc. Nhìn ra cái “đẹp” ở thân xác và linh hồn rướm máu của Tổ quốc trong chiến tranh chia cắt cũng là một sự lệch lạc. Sự lệch lạc nối tiếp lệch lạc này, ắt hẳn, phát sinh từ những bài học địa lý và lịch sử lệch lạc.


Nhưng đó không chỉ đơn thuần là những bài học cụ thể trong một cuốn sách giáo khoa cụ thể, như cuốn sách địa lý mà Trung Quốc vừa mới trưng ra như một bằng chứng trong tập hồ sơ trình lên Liên Hiệp Quốc. [7] Những bài học cụ thể đã quan trọng. Nhưng quan trọng hơn là “cách học”, như một “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” hệ thống giáo huấn, thứ “bài học” cao nhất, mang tính “chỉ đạo nhất” như bài học “địa lý quốc gia” mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nêu ra trước cơ cấu quyền lực cao nhất của chế độ, chẳng hạn. Cái bài học đã được ông ta diễn đạt thành vè như là lời giáo đầu cho bài diễn văn “phát triển nông – công nghiệp” tại Hội nghị Trung ương Đảng ngày 16 tháng Tư năm 1962:


Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt,

Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu.

Nhân dân dũng cảm và cần kiệm,

Các nước anh em giúp đỡ nhiều


Thì “rừng”, “biển” và “nhân dân” nhưng còn “các nước anh em”, cái thế giới xã hội chủ nghĩa mà “anh em” gần nhất thì hoá thù chỉ trong vòng chưa đầy hai thập niên sau đó, còn phần còn lại thì chỉ có thể sống sót chỉ thêm một thập niên sau đó? Trong khi sẵn sàng “đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, sẵn sàng hy sinh nguyên một thế hệ “hay hơn nữa” để đạt đến những mục tiêu chính trị, lãnh tụ ấy lại không thể nhìn xa hơn thời của mình chỉ một thế hệ. Nhưng vấn đề ở đây không phải là cái viễn kiến ấu trĩ của ông ta. Vấn đề là cái mỹ học lệch lạc về Tổ quốc của ông ta.


Để tồn tại và phát triển thì đất nước, và mọi dự phóng cho đất nước, phải được đặt trong phối cảnh trần trụi và khắc nghiệt của nó với những thách thức mà đất nuớc đã, đang và sẽ phải đối phó. Nhưng như một kẻ viễn mơ, ông ta đã tô vẽ Tổ quốc bằng cách thoát ly, kéo Tổ quốc tách ra khỏi ràng buộc lịch sử – địa lý ngàn đời để đẩy đến với thế giới “anh em” tồn tại chỉ có mấy đời. Ông ta nhắm mắt vin vào chỗ dựa chính trị của ông ta, của những “đội tuyển chính trị” nối gót ông ta, một kiểu… ký sinh chính trị. Đến lượt, cái hệ thống ký sinh trùng chính trị này lại là chỗ dựa cho những người có thể sảng khoái “dội” tiếng cười giữa những tan nát thương đau, bất kể thế nào, họ phải “dội tiếng cười” để Tổ quốc của riêng họ phải trở nên đẹp nhất.


Thì cũng gọi là Tổ quốc, nhưng đó là một thứ Tổ quốc không còn là… Tổ quốc nữa, thứ Tổ quốc phản trắc và lừa mị. Tổ quốc chúng ta hình thành trên mảnh đất khắc nghiệt về địa lý thiên nhiên và trắc trở về địa lý – chính trị, phải luôn luôn đối phó với một láng giềng mạnh gấp mấy lần, thể hiện qua mối xung đột truyền thống đã lưu dấu lịch sử với 1000 năm đô hộ và vô số những cuộc chiến nối tiếp nhau trong hơn 1000 năm sau đó. Tổ quốc của họ thì phải ký sinh vào Tổ quốc của những tên thực dân đã từng giày xéo đất nước chúng ta trong 1000 năm đô hộ, đã liên miên xâm lăng, liên miên gây chiến với chúng ta trong suốt hơn 1000 năm nối tiếp. Bây giờ, cả khi “láng giềng ý thức hệ” ấy đã hiện nguyên hình là một “láng giềng địa lý” thô bạo, đang xắn tay nối dài cái bề dày xâm lược đó, họ vẫn cố bám víu, ký sinh.


Hậu quả nhãn tiền từ mối quan hệ ký sinh chính trị này là trận đấu đầy… phản trắc về chủ quyền. Đội tuyển chính trị ấy biết thi đấu như thế nào đây khi đối thủ của họ lại là chỗ dựa “anh em” cuối cùng của họ? Những tuyển thủ trong đội bóng ấy phải phòng thủ, phải tấn công và phải phối hợp với nhau như thế nào đây khi đối phương trên sân chính là ông trùm cá độ đang bảo kê cho sự tồn tại họ, bảo kê cho hôm nay và cho ngày mai của họ, cái ngày mai đã hình tượng hoá một cách thô tục như là cái “sổ hưu đang có” hay “sẽ có” mà họ thầm thì hô hào như một đám ăn vụng là phải quyết tâm giữ gìn cho bằng được? [9]


Và như thế, trong khi muốn nổ tung cái đầu của mình ra truớc những lệch lạc về đội hình và đấu pháp của trận đấu, chúng ta lại bặm môi nuốt nước mắt và kìm nén tiếng gào trước những trận càn quét hung hãn của đối phương trên vùng cấm địa. Chúng ta muốn bật khóc trước hình ảnh tả tơi rách nát của khung lưới thành nhà. Chúng ta nhói lòng, muốn gào lên thật to trước những thương tích bầm dập mà những thủ thành chịu đựng. Những tuyển thủ được chế độ trả lương cao nhất đã đào ngũ, đã dạt ra biên hay lăng xăng làm trò hề trên khán đài và vùng đất trước khung thành đã bị bỏ ngỏ. Chỉ còn lại những những cảnh sát biển, những nhân viên kiểm ngư và những ngư dân. Những nhân viên cảnh sát và kiểm ngư còn lâu mới hưởng được bổng lộc cao ngất của chế độ. Và nhất là những ngư dân hiền lành, chất phác. Sau một thời dài bị bỏ quên trong thân phận đứa con bị bỏ chợ, họ lại được khuyến dụ ra nơi đầu sóng ngọn gió để góp phần bảo vệ chủ quyền, chỉ để tiếp tục gánh chịu tình cảnh của đứa con bỏ chợ: bị đối phương vờn như vờn bóng, muốn hủy hoại tài sản thì huỷ hoại, muốn hành hung thì hành hung, muốn bắt cóc thì cứ việc còng tay.


Chưa lúc nào Tổ quốc chúng ta yếu hèn như lúc này và Chế Lan Viên, tác giả bài thơ xem như một thành tựu và như một tuyên ngôn của thứ mỹ học khác về Tổ quốc ấy, đang ở đâu? Đang tiêu dao ở miền cực lạc nào đó hay đã đến gặp “cụ Mác, cụ Lê” như là lãnh tụ chính trị có tầm nhìn không quá 20 năm nhưng tên tuổi vẫn sánh ngang hàng với tổ phụ đã lưu tên cả mấy ngàn năm?


Hỡi những người Việt Nam vẫn còn xem vua Hùng là tổ phụ, vẫn muốn mình và con cháu mình có thể sống với tư thế ngẩng đầu, hãy đốt thứ “tuyên ngôn” về “Tổ quốc” trên như một thứ vàng mã để khấn lên cái sự thật mà bất cứ ai cũng thấy được; hãy đốt và khấn như một nghi thức trừ tà, nghi thức đầu tiên của nỗ lực thanh tẩy những nguyên nhân của sự yếu hèn để hướng một Tổ quốc toàn vẹn, đẹp hơn, và cao cả hơn:


Tổ quốc có bao giờ nhục thế này chăng?


10.7.2014


Chú thích và tài liệu tham khảo


[1] Những lãnh tụ như Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang chưa hề chính thức tuyên bố về Biển Đông, chỉ tuyên bố vớ vẩn quanh các cuộc tiếp xúc với cử tri.


[2] Trưởng ban Nội chính Trung ương Đảng Nguyễn Bá Thanh khẳng định với cử tri Đà Nẵng; “Nhất định chúng ta sẽ lấy lại tất cả những gì đã mất và sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xấu nhất có thể xảy ra.


[3] Phạm Văn Rạng (1934 – 2008): Thủ môn, đã được Liên đoàn Bóng đá Á châu (AFC) bình chọn là “Đệ nhất thủ môn Á châu”. Từ năm 1952 đến 1964 ông là thủ môn chính của đội tuyển VNCH và đã tham dự các đại hội thể thao SEAP Games 1959, 1963, 1965; các giải Á Vận hội 1958 và 1962, Cúp Merdeka từ năm 1958 đến năm 1962. Góp phần đem về cho đội tuyển VNCH một huy chương vàng, hai huy chương đồng SEAP và hai giải tư Á châu. Năm 1964 Phạm Văn Rạng giải nghệ, chuyển ngạch sang làm công chức ngành quan thuế. Nhưng năm 1966 AFC thành lập đội tuyển Á châu và HLV trưởng Lý Huệ Đường (Hồng Công) bỏ công thuyết phục Phạm Văn Rạng làm thủ môn, dù ông đã giải nghệ hai năm. Sau 1975 ông sống khá chật vật và qua đời năm 2008 trong cảnh cô đơn và nghèo túng.


Đỗ Thới Vinh (1940 – 1990?], từng đứng vào đội hình đội tuyển Á châu cùng với Phạm Văn Rạng. Rất được khán giả Malaysia hâm mộ nhờ phong cách thi đấu mã thượng. Ông là cầu thủ có 13 năm liên tục là tiền vệ của đội tuyển VNCH với 118 trận đấu quốc tế, 11 lần tham dự giải Merdeka (1957 – 1969), 6 lần dự giải Ðông Nam Á Vận hội (SEAP Games), 6 lần có mặt ở giải King’s Cup của Thái Lan, 2 lần dự Á Vận hội. Sau năm 1975 cuộc sống của Ðỗ Thới Vinh trở nên bần hàn và ông qua đời vào đầu thập niên 90 nhưng không rõ năm nào. Từ năm 2002 người hâm mộ cũ vẫn vẫn đều đặn tổ chức các “trận đấu tưởng niệm Đỗ Thời Vinh” nhân ngày giỗ ông.


[4] Các nhân vật trẻ con như “Bồn Lừa” với tài lừa banh và “Chương Còm” với tài “bắt gôn”, xuất hiện trong nhiều tác phẩm như Dzũng Đa Kao, Thuở mơ làm Quang Trung, Gấu Rừng , liên quan đến câu chuyện kể trên là Bồn Lừa, tác phẩm mang tên nhân vật chính. Bồn Lừa có khi được tác giả gọi là “Vinh em”, còn “Chương Còm” được gọi là “Rạng em”, ý muốn nói đó là những thế hệ tiếp nối, hậu duệ của hai bậc đàn anh.


[5] “Raúl Albiol has dismissed suggestions that already-eliminated Spain’s match against Australia in Curitiba on Monday does not matter, saying that they must win their final game to avoid finishing bottom of their group. “It’s the World Cup, not a friendly in Vietnam,” he said. Both Albiol and Manchester City’s David Silva also confirmed that they plan to continue with the national team after the tournament.” (The Guardian, 22.6.2014)


[6] Nguyễn Hoàng Văn, “Thực dân, nô lệ, ăn mày”, talawas 10/6/2010, in lại trong Nguyễn Hoàng Văn (2014), , Người Việt, California


[7] “China uses Vietnamese textbook to back claim in South China Sea dispute”, CNN 11/6/2914


[8] Bài nói chuyện tại Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khoá III) ngày 16.4.1962, đăng báo Nhân dân ngày 20-6-1962. Tập hợp lại trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, trang. 543)


[9] Bài nói chuyện của Đại tá-PGS-TS-NGƯT Trần Đăng Thanh, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng giảng về Biển Đông cho các các lãnh đạo Đảng ủy khối, lãnh đạo Đảng, Tuyên giáo, Công tác chính trị, Quản lý sinh viên, Đoàn, Hội thanh niên các trường Đại học-Cao đẳng Hà Nội, trong có ba điều chú ý: Mỹ là kẻ thù muốn lợi dụng “ta”, Trung Quốc từng đánh “ta” nhưng có ơn với “ta”, bảo vệ CHXN là bảo vệ sổ hưu đang có hay sẽ có của từng người trong “chúng ta”.


© 2014 Nguyễn Hoàng Văn & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 10, 2014 02:34

World Cup, sự bất lực từ vị trí bên lề và một mỹ học khác về Tổ quốc

Nguyễn Hoàng Văn


Không phải là người cuồng nhiệt với bóng đá nên tôi vẫn thường theo dõi World Cup một cách tuỳ hứng, cầm chừng, hoàn toàn không dính vào mấy trò cá cược, cho đến World Cup năm nay. Chú ý hơn, tôi còn hồi hộp như một tay cá cược hạng nặng đã vung hết vốn liếng và ngày mai vào đường bay bất định của trái bóng, thế nhưng ấn tượng sâu đậm nhất, day dứt như một ám ảnh, đã không đến từ hướng bóng bất ngờ, những bàn thắng bàn thua nghẹt thở bất ngờ. Cái làm tôi chú ý là hình ảnh thẫn thờ hay chờ chực nổ tung của những nhà huấn luyện, trái tim và linh hồn của trận đấu nhưng bó tay, bất lực bên lề một trận đấu.


Tôi săm soi để ý dẫu họ chỉ thấp thoáng mờ nhạt bên lề, hiu hắt chìm khuất dưới một núi những cổ động viên rực rỡ, ồn ào. Tôi để ý từng phản ứng, cử động. Tôi săm soi từng vẻ mặt, nét mày. Banh lên, họ đờ người nín thở, mồm há hốc, mắt căng ra, chờ đợi. Sân nhà bị đối phương tràn ngập, cái ghế ngồi hoá thành lò lửa, họ nhấp nhổm, không yên. Đội hình loạng choạng, họ giận dữ gào thét, vung tay ra dấu chỉnh đốn thế trận. Một cú sút cháy lưới đối phương, khí sắc căng cứng trên mặt họ bùng ra, vỡ oà, tay vung lên đấm vào không khí. Đường bóng căng như dây đàn bay vọt sà ngang trong gang tấc, họ hụt hẫng tiếc nuối, tay chùng xuống, vô hồn. Khoảnh khắc cuối, một sai lầm không đáng của hàng phòng ngự khiến công khó trong 90 phút trôi sông đổ biển, họ bùng dậy phẫn nộ hay họ rũ xuống đớn đau.


Là trái tim đội bóng, họ nắm bắt sở trường của từng cầu thủ để tạo nên nhịp đập chung cho toàn đội. Bóng đá là trò chơi tập thể, ở đó nhiệm vụ của họ là tạo nên sức mạnh chung như là bệ phóng để từng tài nghệ thăng hoa và khai thác từng tài nghệ cá nhân như là chất xúc tác cho sức mạnh chung toàn đội. Bóng đá là một dự án chung mà nhiệm vụ của họ là kết nối các cầu thủ lại thành một khối để bất cứ thao tác nào với trái bóng cũng phải mang tính cộng đồng, nghĩa là phải nằm trong khả năng phán đoán của đồng đội. Bóng đá là một trận chiến mà bất cứ một lơ là cá nhân nào cũng có thể dẫn đến cái giá chung tập thể, bởi các cầu thủ của họ không những phải chu toàn nhiệm vụ tại vị trí phân định mà còn phải bảo đảm mối liên lạc giữa các tuyến để có thể làm chủ nhịp điệu của thế trận, có thể lèo lái cuộc chơi theo ý đồ chiến thuật của mình.


Chỉ hiểu lõm bõm mấy lý thuyết sơ đẳng về nghề nghiệp của họ, tôi có thể hiểu tại sao tôi chú ý đến họ. Bởi như họ, tôi và bạn, những người Việt bình thường với mối ưu tư thường tình về đất nước của mình, ai cũng ý thức rất rõ về thế trận nhưng đành chịu, bó tay, bất lực đứng ở vị trí bên lề. Tại sao trận đấu lại có thể diễn ra như thế này? Tại sao đội hình lại rời rạc, loạng choạng, thiếu ăn ý như vậy? Tại sao cứ tiếp tục cái đấu pháp lỗi thời, không những vô hiệu lực mà còn phản tác dụng kia? Tại sao có thể buông xuôi, để mặc những máu, mồ hôi và nước mắt trôi sông đổ biển trong phút chốc? Tại sao, tại sao và tại sao. Hàng loạt câu hỏi nhức nhối nối tiếp nhau, như thác, gầm gừ trong đầu chúng ta, như sấm và, vô hình trung, chúng ta bỗng hoá thành của những nhà huấn luyện đang muốn nổ tung cái đầu của mình ra với ý tưởng xốc lại đội hình, chỉnh đốn lại thế trận, ấn định lại đấu pháp nhưng đành, đau đớn và phẫn nộ, bó tay bất lực đứng nhìn từ vị trí bên lề.


Nhưng đó không đơn thuần là chuyện hư bột hư đường với “vinh dự quốc gia”, của một đội tuyển bóng đá quốc gia. Vinh dự ấy chỉ có hiệu lực bốn năm trong khi chúng ta thì đau với mối nguy đang đe doạ sức sinh tồn của dân tộc có hiệu lực ngàn vạn năm. Cái trận đấu quốc tế về chủ quyền quốc gia, đang nằm trong tay một “đội tuyển chính trị quốc gia”.


Danh chính ngôn thuận thì, như một chính quyền đã được Liên Hiệp Quốc công nhận, cái “đội tuyển chính trị” trong trận đấu này chính là đội hình “Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (CHXHCNVN) và, như những cổ động viên đã phó thác toàn bộ vốn liếng và ngày mai, chúng ta đang đau đớn chứng kiến lối đá lạ lùng của một đội bóng lạ lùng.


Đó là một trận đấu mà đội trưởng hoàn toàn mất tích, hậu vệ không dám cản banh, trung vệ đòi làm trọng tài biên trong khi tiền đạo thì, mãi đến nay, chỉ có mỗi một thao tác duy nhất là… sút vào lưới nhà. Sự lạ lùng không chỉ giới hạn trên sân. Nó lan ra cả bốn phía khán đài khi cổ động viên nửa được van lơn, nửa bị đe nẹt, viện cớ những holligan cò mồi, là phải câm họng, không được công khai cổ động đội nhà. Trên hết là mục tiêu, chiến thuật. Thay vì tạo ra nhịp điệu thế trận của mình để hoá giải đấu pháp của đối phương, đội tuyển này lại ra sân như muốn phục vụ cho ý đồ chiến thuật của đối phương.


Bất cứ trận đấu hay dự án nào cũng cần phải một vị trí đầu đàn. Nếu, trên thực tế, vai trò đội trưởng phải thuộc về Tổng Bí thư thì, trên danh nghĩa, đó lại là vị trí của Chủ tịch nước. Thế nhưng “trên thực tế” hay “trên danh nghĩa”, Tổng Bí thư hay Chủ tịch, đội trưởng nào cũng không dám ra sân. Cả hai đều vắng mặt, như hai tên đào ngũ. [1]


Đội trưởng tự nhận thẻ đỏ từ đầu và những cầu thủ khác thì ra sân với tấm thẻ đỏ lơ lửng trên đầu, một thứ vòng kim cô hay một thứ lưỡi gươm Democles. Chủ tịch Quốc hội, trên lý thuyết, là nhân vật có vai trò tập hợp sức dân, thể hiện ý nguyện và lòng dân nên, do đó, có thể xếp vào hàng hậu vệ. Thế nhưng đây lại là một hậu vệ nhát banh. Thỉnh thoảng y quay mặt sang hai phía khán đài hếch mũi nhăn mặt như muốn pha trò nhưng nhiệm vụ thực sự của mình thì thoái thác và lảng tránh. Hoàn toàn không dám cản banh, chỉ một “nghị quyết” về Biển Đông thôi, y cũng són dái.


Quan trọng không kém là Thủ tướng. Có trách nhiệm điều phối chính quyền, điều phối các hoạt động phân phối và quản trị tài nguyên, nhân vật này cần đứng vào vị trí trung vệ, cầu nối giữa tuyến dưới và tuyến trên, cái vai trò cực kỳ quan trọng khi vừa kiến tạo những đợt tấn công vừa đóng vai trò tiếp ứng cho hàng phòng ngự. Thế nhưng va cũng chẳng đảm nhiệm được tý ty phần trăm nhiệm vụ trên phần đất phân định mà chỉ thấy lăng xăng ở dọc đường biên. Thỉnh thoảng va tạt sang nước này nước kia để, hoặc phát biểu dăm câu, hoặc hăm he sẽ có hành động pháp lý dăm câu. Tất cả chỉ có vậy. Chỉ hăm thôi, và chỉ hăm khi đã dạt ra biên. Va tuyệt đối không dám thực hiện cú sút phạt đáng ra được hưởng từ những lỗi mà mình đã phất cờ từ vị trí trọng tài biên.


Vai trò xông pha trận mạc ắt phải thuộc về Đại tướng – Bộ trưởng Quốc phòng. Và để tương xứng với hậu vệ sợ banh và trung vệ sợ tuột dây giày, ông tiền đạo – Đại tướng này lại lúng ta lúng túng với ngọn cờ trắng trong tay như có thể thấy ở bài diễn văn “giải quyết song phương” trong Diễn đàn An ninh Á châu Shangri-la tại Singapore. Không chỉ đẩy cổ động viên Nhật – Mỹ vào tình thế việt vị, há miệng mắc quai, tiền đạo ấy đã biến cú đá phạt lẽ ra phải hướng vào lưới địch thành cú sút ngược bắn vào khung thành nhà!


Không dám tổ chức các đợt tấn công đã đành, đội tuyển chính trị ấy còn e dè khép nép như thể sợ rằng trọng tài sẽ cho mình hưởng quả phạt đền. Đội tuyển chính trị CHXHCNVN đã ra sân như sợ rằng mình sẽ… thắng. Thiên về phòng ngự hay tấn công, đội bóng nào cũng nhập cuộc với giấc mơ chiến thắng hay thực tế hơn theo cán cân thực lực là giảm đến mức tối thiểu số bàn thua. Không đấu pháp, không huấn luyện viên và không đội trưởng nhưng, với bóng dáng lộ liễu của một trùm cá độ không thèm ra mặt, đội bóng này ra sân như muốn… tối đa số hoá số bàn thua.


Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt

Mỗi con sông đều muốn hoá Bạch Đằng

(“Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?” – Chế Lan Viên)


Nếu những đứa trẻ còn biết mơ ngựa sắt thì những nhà lãnh đạo quốc gia này lại bằng lòng với… ngựa gỗ, thứ ngựa đồ chơi sản xuất trong những công xưởng rẻ tiền Trung Quốc, chỉ có thể lắc tới lắc lui cái nhịp điệu chán phèo đã lên dây cót sẵn của nhà sản xuất Trung Quốc; hết lắc về sự cân bằng giữa “chủ quyền” với “tình hữu nghị” thì lắc đến sự cân bằng giữa “hoà bình ổn định” và nguy cơ “phức tạp hoá vấn đề”. Nếu chú bé Làng Gióng trong truyền thuyết vươn mình hoá thành người khổng lồ phóng lên lưng ngựa sắt đi giữ nước thì hôm nay chúng ta chứng kiến những nhà chính trị trong tuổi trưởng thành hoá thân thành trẻ con giữ nước. Sợ, không dám làm “Thánh” trên sân đấu, họ lẩn vào bốn phía khán đài để làm những ông thánh ăn vụng với từng nhóm nhỏ khán giả / cử tri. Họ “sẽ” bảo vệ chủ quyền thế này. Họ “sẽ” lấy lại những gì đã mất thế kia. [2] Họ nói thánh nói tướng bằng thì tương lai trong khi ngôn ngữ cho hiện tại thì mập mờ và gian trá, ngầm đe nẹt và ra mặt van lơn, rằng hãy “yên tâm / tin tưởng”, rằng phải “tự chế / đừng để bị lôi kéo / kích động”, rằng “không nhất thiết” phải công khai hò hét các khẩu hiệu đòi hỏi chủ quyền. Ngựa sắt của Thánh Gióng, với họ, chỉ còn lại là ngựa gỗ và con sông Bạch Đằng “tự cổ huyết do hồng”, cơ hồ, chỉ còn là một con kênh Nhiêu Lộc đen ngòm.


Chế Lan Viên viết mấy câu thơ “mơ ngựa sắt” ấy vào thập niên 60, cái thời mà hào quang của Pelé rực rỡ trên đấu trường quốc tế và danh tiếng của Đỗ Thới Vinh cùng Phạm Văn Rạng tỏa sáng trên sân cỏ Á châu. [3] Từ những hào quang ấy nhà văn Duyên Anh đã thổi bùng ước mơ World Cup và “vinh dự Việt Nam” vào tâm hồn của thế hệ trẻ em thời ấy, qua những câu chuyện dành riêng cho trẻ em. [4]


Duyên Anh chỉ viết truyện riêng cho trẻ em thôi chứ chưa đạt tới tầm cỡ của một nhà văn vừa viết cho trẻ em, vừa viết cả cho những ai “đã từng là trẻ em”. Dẫu vậy tôi vẫn muốn sống lại những khát vọng hồn nhiên của cái thời… chưa từng là người lớn, cái khát vọng mà, nói theo Chế Lan Viên là “mơ ngựa sắt”, và nói theo Duyên Anh là “Mơ thành người Quang Trung”.


Trong giấc mơ đó Đội tuyển Việt Nam Cộng hoà, với những cầu thủ trụ cột như “Bồn lừa” và “Chương còm”, diễn tả như những đứa em từng hâm mộ “anh Vinh / anh Rạng”, đã chiến thắng vô địch thế giới Brazil ngay trên sân Brazil. Và trong giấc mơ đó những tuyển thủ Việt Nam không chỉ khiến một danh thủ lẫy lừng như Pelé và đất nước Brazil phải tâm phục khẩu phục mà còn khiến người Pháp phải tự cảm thấy xấu hổ, cúi đầu xin lỗi người Việt về 80 năm đô hộ.


Đó không chỉ là vinh quang sân cỏ và hành động ngoại giao tưởng tượng kia chỉ là một cái cớ bởi sâu thẳm trong đó là ước mơ đau đáu về một nước Việt Nam mạnh mẽ ngẩng đầu, không ai dám khinh nhờn, không bị ai ức hiếp, một ước mơ không phải là xa vời lắm nếu chúng ta nhìn vào những nước Á châu như Nhật hay Nam Hàn ngày nay. Con hơn cha là nhà có phúc, nếu những Đỗ Thới Vinh và Phạm Văn Rạng có thể đạt đến trình độ thượng thặng của nền bóng đá Á châu ở thập niên 60 thì những thế hệ tiếp nối cũng có thể đi xa hơn đàn anh mình và, tệ ra, cũng có thể tiến tới World Cup như Nhật hay Nam Hàn chứ? Và nếu, năm 2008 nguyên Thủ tướng Úc Kevin Rudd từng đứng ra xin lỗi những thế hệ thổ dân bị đánh cắp, năm 1998 nguyên Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã đứng ra xin lỗi Phi châu về về tệ buôn bán nô lệ da đen, thì viễn ảnh về việc người Pháp đứng ra xin lỗi về hành động thực dân của cha ông họ ngày trước cũng là điều mà chúng ta có thể kỳ vọng chứ?


Và bây giờ cũng tại Brazil, cũng ngay trong mùa World Cup, cái tên Việt Nam lại được nêu lên, nhưng như một vết nhục: “It’s the World Cup, not a friendly in Vietnam”. [5] Đó là World Cup chứ không phải một trận giao hữu tại Việt Nam, có người Việt bình thường nào mà không cảm thấy đau khi Raúl Albiol, một tuyển thủ Tây Ban Nha, trong cuộc phỏng vấn của tờ The Guardian trước trận đấu chỉ mang ý nghĩa thủ tục với đội tuyển Úc để rồi lên đường về nước, đã lôi tên đất nước mình ra như là hạng vứt đi của nền bóng đá thế giới, cái nơi thua chẳng sao mà thắng cũng chả vinh dự gì? Nếu trên sân bóng đá, đội tuyển Việt Nam đã đồng hoá cái tên đất nước như là trình độ đáy hạng của thế giới thì, trên bản đồ bang giao quốc tế, qua cuộc tranh chấp chủ quyền mà chúng ta đang chứng kiến, “đội tuyển chính trị” Việt Nam đã biến cái tên Việt Nam thành một mục tiêu của sự… thương hại.


Sự thương hại bao giờ cũng chỉ ban phát cho hạng người không thể ngóc đầu và, cơ hồ, trên muôn mặt đời sống, chúng ta chỉ đối mặt với những tình huống phải cúi đầu. Chưa bao giờ phẩm giá Việt Nam bị hạ thấp như hôm nay. Chúng ta tủi nhục cúi đầu khi người Nhật và người Thái dựng những biển cấm bằng tiếng Việt. Chúng ta nhục nhã chứng kiến cảnh “đội tuyển chính trị quốc gia” líu ríu cúi đầu, cúi đầu khi sinh mạng và tài sản của người dân bị trắng trợn xúc phạm, cúi đầu cả khi chủ quyền quốc gia bị ngang nhiên xâm phạm. Và lời xin lỗi về 80 năm thực dân sẽ là một giấc mơ rất xa vời khi mà, không cần đợi những thế lực thực dân đến bắt người Việt làm nô lệ lần nữa, chính cái đội tuyển chính trị kia đã hiện nguyên hình là một thế lực thực dân.[6]


Cái gì đã đẩy đất nước chúng ta đến mức tận cùng của sự nhu nhược, sa đoạ và hèn yếu này?


Tôi nghĩ đến những bài thơ trên của Chế Lan Viên, “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”:


Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

– Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,

Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn,

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…

Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả

Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn…


Bài thơ được viết vào năm 1965, là thời của chiến tranh chia cắt và Tổ quốc có thể nào “đẹp” trong cái hình hài quằn quại đau đớn vì cắt xẻ và xung đột ấy? Nhưng với nhà thơ thì Tổ quốc không chỉ rất “đẹp”, mà là “đẹp nhất” bởi, từ góc nhìn lịch sử:


Có phải cha ông đến sớm chăng và cháu con thì lại muộn?

Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút giây bây giờ

Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng,

Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ…


và bởi, từ góc nhìn riêng:


Ôi! Trường Sơn vĩ đại của ta ơi!

Ta tựa vào ngươi, kéo pháo lên đồi,

Ta tựa vào Đảng ta, lên tiếng hát,

Dưới chân ta, đến đầu hàng Đờ-cát,

Rồng năm móng vua quan thành bụi đất,

Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!


Tiếng cười dẫu có “dội” trang thơ đến đâu đi nữa thì Tổ quốc cũng cần phải đi lên, phải đẹp hơn mỗi ngày và có thế hệ nào mà không mong mỏi rằng con cháu sẽ đi xa hơn mình? Thế nhưng Tổ quốc đã vươn đến cái đỉnh cao mà quá khứ không thể so sánh, tương lai không thể vượt qua, vĩnh viễn, muôn vạn năm sau, Tổ quốc không thể nào “đẹp” và “đáng sống” hơn. Khi thế hệ đi trước có thể kiêu ngạo đến mức hẹp hòi và ích kỷ trong quan niệm về cái “đẹp” của Tổ quốc như thế thì, ắt hẳn, phải có một sự lệch lạc nào đó trong nhận thức của họ về cái “đẹp” ấy.


Nói một cách khác là sự lệch lạc trong mỹ học về Tổ quốc.  Mỹ học là triết học về cái đẹp. Nếu cái đẹp bao giờ cũng tùy thuộc vào phối cảnh của đối tượng và sự tương tác giữa con mắt thưởng ngoạn với đối tượng thì cái đẹp của Tổ quốc cũng vậy. Nó tùy thuộc vào phối cảnh của đất nước. Và nó tùy thuộc vào sự tương tác từ những con mắt nhìn vào. Nghĩa là tuỳ thuộc vào “nhận thức” về Tổ quốc.


Nhận thức về Tổ quốc hình thành trong đầu chúng ta từ những bài học địa lý và lịch sử đầu tiên. Những bài địa lý dạy chúng ta hình hài thân xác Tổ quốc trên ý nghĩa không gian và những bài sử cho chúng ta nhìn ra “linh hồn” của Tổ quốc trên khía cạnh thời gian. Chúng ta học để ý thức được nhiệm vụ của mình cho một Tổ quốc ngày càng đẹp hơn, cao cả hơn. Nhưng chúng ta còn học để hiểu rằng cái đẹp và sự cao cả của Tổ quốc phải đặt trong ý nghĩa tương liên giữa thời gian với không gian. Tổ quốc hôm nay phải hơn ngày hôm qua và sẽ không là gì so với ngày mai, tất nhiên. Nhưng trên nghĩa cạnh tranh / sinh tồn, Tổ quốc còn phải đẹp và cao cả hơn trên ý nghĩa không gian, phải “hơn” theo một tốc độ để không bị tụt hậu so với thế giới và láng giềng, nghĩa là phải “hơn” trong cái nhìn đồng đại. Khu biệt hoá không gian chỉ để “đẹp hơn” trên khía cạnh thời gian là một sự lệch lạc. Nhìn ra cái “đẹp” ở thân xác và linh hồn rướm máu của Tổ quốc trong chiến tranh chia cắt cũng là một sự lệch lạc. Sự lệch lạc nối tiếp lệch lạc này, ắt hẳn, phát sinh từ những bài học địa lý và lịch sử lệch lạc.


Nhưng đó không chỉ đơn thuần là những bài học cụ thể trong một cuốn sách giáo khoa cụ thể, như cuốn sách địa lý mà Trung Quốc vừa mới trưng ra như một bằng chứng trong tập hồ sơ trình lên Liên Hiệp Quốc. [7] Những bài học cụ thể đã quan trọng. Nhưng quan trọng hơn là “cách học”, như một “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” hệ thống giáo huấn, thứ “bài học” cao nhất, mang tính “chỉ đạo nhất” như bài học “địa lý quốc gia” mà lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nêu ra trước cơ cấu quyền lực cao nhất của chế độ, chẳng hạn. Cái bài học đã được ông ta diễn đạt thành vè như là lời giáo đầu cho bài diễn văn “phát triển nông – công nghiệp” tại Hội nghị Trung ương Đảng ngày 16 tháng Tư năm 1962:


Nước ta ở về xứ nóng, khí hậu tốt,

Rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu.

Nhân dân dũng cảm và cần kiệm,

Các nước anh em giúp đỡ nhiều


Thì “rừng”, “biển” và “nhân dân” nhưng còn “các nước anh em”, cái thế giới xã hội chủ nghĩa mà “anh em” gần nhất thì hoá thù chỉ trong vòng chưa đầy hai thập niên sau đó, còn phần còn lại thì chỉ có thể sống sót chỉ thêm một thập niên sau đó? Trong khi sẵn sàng “đốt cháy cả dãy Trường Sơn”, sẵn sàng hy sinh nguyên một thế hệ “hay hơn nữa” để đạt đến những mục tiêu chính trị, lãnh tụ ấy lại không thể nhìn xa hơn thời của mình chỉ một thế hệ. Nhưng vấn đề ở đây không phải là cái viễn kiến ấu trĩ của ông ta. Vấn đề là cái mỹ học lệch lạc về Tổ quốc của ông ta.


Để tồn tại và phát triển thì đất nước, và mọi dá»± phóng cho đất nước, phải được đặt trong phối cảnh trần trụi và khắc nghiệt cá»§a nó với những thách thức mà đất nuớc đã, đang và sẽ phải đối phó. Nhưng như một kẻ viễn mÆ¡, ông ta đã tô vẽ Tổ quốc bằng cách thoát ly, kéo Tổ quốc tách ra khỏi ràng buộc lịch sá»­ – địa lý ngàn đời để đẩy đến với thế giới “anh em” tồn tại chỉ có mấy đời. Ông ta nhắm mắt vin vào chỗ dá»±a chính trị cá»§a ông ta, cá»§a những “đội tuyển chính trị” nối gót ông ta, một kiểu… ký sinh chính trị. Đến lượt, cái hệ thống ký sinh trùng chính trị này lại là chỗ dá»±a cho những người có thể sảng khoái “dội” tiếng cười giữa những tan nát thương đau, bất kể thế nào, họ phải “dội tiếng cười” để Tổ quốc cá»§a riêng họ phải trở nên đẹp nhất.


Thì cũng gọi là Tổ quốc, nhưng đó là một thứ Tổ quốc không còn là… Tổ quốc nữa, thứ Tổ quốc phản trắc và lừa mị. Tổ quốc chúng ta hình thành trên mảnh đất khắc nghiệt về địa lý thiên nhiên và trắc trở về địa lý – chính trị, phải luôn luôn đối phó với một láng giềng mạnh gấp mấy lần, thể hiện qua mối xung đột truyền thống đã lưu dấu lịch sử với 1000 năm đô hộ và vô số những cuộc chiến nối tiếp nhau trong hơn 1000 năm sau đó. Tổ quốc của họ thì phải ký sinh vào Tổ quốc của những tên thực dân đã từng giày xéo đất nước chúng ta trong 1000 năm đô hộ, đã liên miên xâm lăng, liên miên gây chiến với chúng ta trong suốt hơn 1000 năm nối tiếp. Bây giờ, cả khi “láng giềng ý thức hệ” ấy đã hiện nguyên hình là một “láng giềng địa lý” thô bạo, đang xắn tay nối dài cái bề dày xâm lược đó, họ vẫn cố bám víu, ký sinh.


Hậu quả nhãn tiền từ mối quan hệ ký sinh chính trị này là trận đấu đầy… phản trắc về chủ quyền. Đội tuyển chính trị ấy biết thi đấu như thế nào đây khi đối thủ của họ lại là chỗ dựa “anh em” cuối cùng của họ? Những tuyển thủ trong đội bóng ấy phải phòng thủ, phải tấn công và phải phối hợp với nhau như thế nào đây khi đối phương trên sân chính là ông trùm cá độ đang bảo kê cho sự tồn tại họ, bảo kê cho hôm nay và cho ngày mai của họ, cái ngày mai đã hình tượng hoá một cách thô tục như là cái “sổ hưu đang có” hay “sẽ có” mà họ thầm thì hô hào như một đám ăn vụng là phải quyết tâm giữ gìn cho bằng được? [9]


Và như thế, trong khi muốn nổ tung cái đầu của mình ra truớc những lệch lạc về đội hình và đấu pháp của trận đấu, chúng ta lại bặm môi nuốt nước mắt và kìm nén tiếng gào trước những trận càn quét hung hãn của đối phương trên vùng cấm địa. Chúng ta muốn bật khóc trước hình ảnh tả tơi rách nát của khung lưới thành nhà. Chúng ta nhói lòng, muốn gào lên thật to trước những thương tích bầm dập mà những thủ thành chịu đựng. Những tuyển thủ được chế độ trả lương cao nhất đã đào ngũ, đã dạt ra biên hay lăng xăng làm trò hề trên khán đài và vùng đất trước khung thành đã bị bỏ ngỏ. Chỉ còn lại những những cảnh sát biển, những nhân viên kiểm ngư và những ngư dân. Những nhân viên cảnh sát và kiểm ngư còn lâu mới hưởng được bổng lộc cao ngất của chế độ. Và nhất là những ngư dân hiền lành, chất phác. Sau một thời dài bị bỏ quên trong thân phận đứa con bị bỏ chợ, họ lại được khuyến dụ ra nơi đầu sóng ngọn gió để góp phần bảo vệ chủ quyền, chỉ để tiếp tục gánh chịu tình cảnh của đứa con bỏ chợ: bị đối phương vờn như vờn bóng, muốn hủy hoại tài sản thì huỷ hoại, muốn hành hung thì hành hung, muốn bắt cóc thì cứ việc còng tay.


Chưa lúc nào Tổ quốc chúng ta yếu hèn như lúc này và Chế Lan Viên, tác giả bài thơ xem như một thành tựu và như một tuyên ngôn của thứ mỹ học khác về Tổ quốc ấy, đang ở đâu? Đang tiêu dao ở miền cực lạc nào đó hay đã đến gặp “cụ Mác, cụ Lê” như là lãnh tụ chính trị có tầm nhìn không quá 20 năm nhưng tên tuổi vẫn sánh ngang hàng với tổ phụ đã lưu tên cả mấy ngàn năm?


Hỡi những người Việt Nam vẫn còn xem vua Hùng là tổ phụ, vẫn muốn mình và con cháu mình có thể sống với tư thế ngẩng đầu, hãy đốt thứ “tuyên ngôn” về “Tổ quốc” trên như một thứ vàng mã để khấn lên cái sự thật mà bất cứ ai cũng thấy được; hãy đốt và khấn như một nghi thức trừ tà, nghi thức đầu tiên của nỗ lực thanh tẩy những nguyên nhân của sự yếu hèn để hướng một Tổ quốc toàn vẹn, đẹp hơn, và cao cả hơn:


Tổ quốc có bao giờ nhục thế này chăng?


10.7.2014


Chú thích và tài liệu tham khảo


[1] Những lãnh tụ như Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang chưa hề chính thức tuyên bố về Biển Đông, chỉ tuyên bố vớ vẩn quanh các cuộc tiếp xúc với cử tri.


[2] Trưởng ban Nội chính Trung ương Đảng Nguyễn Bá Thanh khẳng định với cử tri Đà Nẵng; “Nhất định chúng ta sẽ lấy lại tất cả những gì đã mất và sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xấu nhất có thể xảy ra.


[3] Phạm Văn Rạng (1934 – 2008): Thủ môn, đã được Liên đoàn Bóng đá Á châu (AFC) bình chọn là “Đệ nhất thủ môn Á châu”. Từ năm 1952 đến 1964 ông là thủ môn chính của đội tuyển VNCH và đã tham dự các đại hội thể thao SEAP Games 1959, 1963, 1965; các giải Á Vận hội 1958 và 1962, Cúp Merdeka từ năm 1958 đến năm 1962. Góp phần đem về cho đội tuyển VNCH một huy chương vàng, hai huy chương đồng SEAP và hai giải tư Á châu. Năm 1964 Phạm Văn Rạng giải nghệ, chuyển ngạch sang làm công chức ngành quan thuế. Nhưng năm 1966 AFC thành lập đội tuyển Á châu và HLV trưởng Lý Huệ Đường (Hồng Công) bỏ công thuyết phục Phạm Văn Rạng làm thủ môn, dù ông đã giải nghệ hai năm. Sau 1975 ông sống khá chật vật và qua đời năm 2008 trong cảnh cô đơn và nghèo túng.


Đỗ Thới Vinh (1940 – 1990?], từng đứng vào đội hình đội tuyển Á châu cùng với Phạm Văn Rạng. Rất được khán giả Malaysia hâm mộ nhờ phong cách thi đấu mã thượng. Ông là cầu thá»§ có 13 năm liên tục là tiền vệ cá»§a đội tuyển VNCH với 118 trận đấu quốc tế, 11 lần tham dá»± giải Merdeka (1957 – 1969), 6 lần dá»± giải Ðông Nam Á Vận hội (SEAP Games), 6 lần có mặt ở giải King’s Cup cá»§a Thái Lan, 2 lần dá»± Á Vận hội. Sau năm 1975 cuộc sống cá»§a Ðỗ Thới Vinh trở nên bần hàn và ông qua đời vào đầu thập niên 90 nhưng không rõ năm nào. Từ năm 2002 người hâm mộ cÅ© vẫn vẫn đều đặn tổ chức các “trận đấu tưởng niệm Đỗ Thời Vinh” nhân ngày giỗ ông.


[4] Các nhân vật trẻ con như “Bồn Lừa” với tài lừa banh và “Chương Còm” với tài “bắt gôn”, xuất hiện trong nhiều tác phẩm như Dzũng Đa Kao, Thuở mơ làm Quang Trung, Gấu Rừng , liên quan đến câu chuyện kể trên là Bồn Lừa, tác phẩm mang tên nhân vật chính. Bồn Lừa có khi được tác giả gọi là “Vinh em”, còn “Chương Còm” được gọi là “Rạng em”, ý muốn nói đó là những thế hệ tiếp nối, hậu duệ của hai bậc đàn anh.


[5] “Raúl Albiol has dismissed suggestions that already-eliminated Spain’s match against Australia in Curitiba on Monday does not matter, saying that they must win their final game to avoid finishing bottom of their group. “It’s the World Cup, not a friendly in Vietnam,” he said. Both Albiol and Manchester City’s David Silva also confirmed that they plan to continue with the national team after the tournament.” (The Guardian, 22.6.2014)


[6] Nguyễn Hoàng Văn, “Thực dân, nô lệ, ăn mày”, talawas 10/6/2010, in lại trong Nguyễn Hoàng Văn (2014), , Người Việt, California


[7] “China uses Vietnamese textbook to back claim in South China Sea dispute”, CNN 11/6/2914


[8] Bài nói chuyện tại Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (khoá III) ngày 16.4.1962, đăng báo Nhân dân ngày 20-6-1962. Tập hợp lại trong Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, trang. 543)


[9] Bài nói chuyện của Đại tá-PGS-TS-NGƯT Trần Đăng Thanh, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng giảng về Biển Đông cho các các lãnh đạo Đảng ủy khối, lãnh đạo Đảng, Tuyên giáo, Công tác chính trị, Quản lý sinh viên, Đoàn, Hội thanh niên các trường Đại học-Cao đẳng Hà Nội, trong có ba điều chú ý: Mỹ là kẻ thù muốn lợi dụng “ta”, Trung Quốc từng đánh “ta” nhưng có ơn với “ta”, bảo vệ CHXN là bảo vệ sổ hưu đang có hay sẽ có của từng người trong “chúng ta”.


© 2014 Nguyễn Hoàng Văn & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 10, 2014 02:34

July 3, 2014

Những hứa hẹn Viễn Đông: Tại sao Washington phải tập trung vào châu Á

Kurt M. Campbell và Ely Ratner


Trần Ngọc Cư dịch


Hoa Kỳ đang bước vào giai đoạn đầu của một đề án quốc gia quan trọng: tái định hướng chính sách đối ngoại của mình để dồn thêm quan tâm và nguồn lực vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Việc trình bày lại một cách có hệ thống các ưu tiên của Mỹ đang diễn ra trong một giai đoạn mà Mỹ khẩn thiết đánh giá lại các vấn đề chiến lược, sau hơn một thập kỷ lún sâu vào khu vực Nam Á và Trung Đông. Việc này đặt cơ sở trên quan niệm cho rằng lịch sử của thế kỷ 21 phần lớn sẽ được viết tại châu Á-Thái Bình Dương, một khu vực sẵn sàng đón chào sự lãnh đạo của Mỹ và sẽ tưởng thưởng cho sự tham gia của Mỹ bằng một lợi nhuận tích cực trên các đầu tư chính trị, kinh tế, và quân sự.


Do đó, chính quyền Obama đang huy động toàn diện một loạt các nỗ lực ngoại giao, kinh tế, và an ninh mệnh danh là “xoay trục” hay “tái quân bình”, hướng về châu Á. Chính sách này xây dựng trên nền móng của hơn một thế kỷ Hoa Kỳ dính líu vào khu vực này, kể cả những biện pháp quan trọng mà các chính quyền Clinton và George W. Bush đã thực hiện; như Tổng thống Barack Obama đã nhận xét đúng đắn: trên thực tế cũng như trong các tuyên bố, Hoa Kỳ đã là một “cường quốc Thái Bình Dương.” Nhưng chiến lược tái quân bình lực lượng mới thật sự nâng địa vị của châu Á lên một tầm có ý nghĩa trong chính sách đối ngoại Mỹ.


Những nghi vấn về mục tiêu và phạm vi ảnh hưởng của đường lối mới này đã xuất hiện ngay sau khi Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton đưa ra những điều mà tới nay vẫn còn là tuyên bố rõ ràng nhất về chiến lược này, và bà là người đầu tiên đã dùng từ “xoay trục” trong một bài viết đăng trên tạp chí Foreign Policy năm 2011. Gần ba năm sau, chính quyền Obama vẫn còn đối diện với cái thách đố dai dẳng trong việc giải thích khái niệm này và trong việc thể hiện hứa hẹn của nó. Nhưng bất chấp những tra hỏi gắt gao và những vấp váp ngắn hạn mà chính sách này gặp phải, ít ai hoài nghi về một chuyển biến lớn đang diễn ra. Và dù Washington có muốn hay không, châu Á chắc chắn sẽ thu hút quan tâm và nguồn lực từ Hoa Kỳ, do sự phồn thịnh và ảnh hưởng của khu vực ngày một gia tăng – và do những thách thức to lớn mà khu vực này đang đặt ra. Do đó, vấn đề cần nêu ra ở đây không phải là liệu Hoa Kỳ sẽ quan tâm hơn về châu Á hay không, mà là liệu Hoa Kỳ có đủ sức làm việc này với quyết tâm, nguồn lực, và trí tuệ cần thiết hay không.


ĐI ĐÔNG RỒI XUÔI NAM


Khu vực châu Á-Thái Bình Dương có một sức thu hút không thể cưỡng lại nổi. Khu vực này là quê hương của hơn một nửa dân số thế giới và có một nước dân chủ đông dân nhất thế giới (Ấn Độ), nền kinh tế thứ nhì và nền kinh tế thứ ba (Trung Quốc và Nhật Bản), quốc gia có đa số Hồi giáo đông đảo nhất (Indonesia), và bảy trong mười quân đội lớn nhất. Ngân hàng Phát triển châu Á tiên đoán rằng trước thời điểm giữa thế kỷ này, khu vực này sẽ cho ra một nửa sản lượng kinh tế thế giới và gồm có bốn trong mười nền kinh tế lớn nhất của thế giới (Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và Nhật Bản).


Nhưng chính con đường tiến hóa của châu Á, chứ không chỉ mức phát triển chóng mặt của nó, mới làm cho khu vực này trở nên quan trọng đến thế. Theo Freedom House, trong 5 năm qua, châu Á-Thái Bình Dương là khu vực duy nhất trên thế giới đạt tiến độ đều đặn trong việc cải thiện các quyền chính trị và quyền tự do dân sự. Và bất chấp các nghi vấn về khả năng duy trì độ bền vững của mức tăng trưởng kinh tế nhanh chóng tại những thị trường mới nổi [emerging markets], các quốc gia châu Á vẫn tiêu biểu cho một số cơ hội hứa hẹn nhất trong một nền kinh tế toàn cầu sẽ đình đốn và bất ổn nếu thiếu những thị trường này. Đồng thời, châu Á đang phấn đấu trước những nguyên nhân gây bất ổn kinh niên, do các hành động khiêu khích cao độ của Bắc Hàn, do việc gia tăng ngân sách quốc phòng diễn ra khắp khu vực, do các tranh chấp biển đảo gây nhiều lo ngại, khuấy động các quan hệ quốc tế ở biển Hoa Đông và biển Hoa Nam [Biển Đông], và do các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như thiên tai, nạn buôn người, và buôn bán ma túy.


Hoa Kỳ có một lợi ích không thể chối cãi trên con đường mà châu Á sẽ đi trong những năm sắp tới. Thị trường này là điểm đến có ưu tiên cao nhất đối với hàng xuất khẩu Mỹ, vượt quá châu Âu hơn 50 phần trăm, theo Phòng Thống kê Hoa Kỳ. Cả vốn trực tiếp đầu tư của Hoa Kỳ tại châu Á lẫn vốn trực tiếp đầu tư của châu Á tại Hoa Kỳ đã tăng gần gấp đôi trong thập kỷ qua, với Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, và Nam Hàn là bốn trong mười nước có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhất tại Hoa Kỳ, theo Phòng Phân tích Kinh tế Hoa Kỳ. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn có năm đồng minh với hiệp ước phòng thủ trong khu vực (Australia, Nhật Bản, Philippines, Nam Hàn, và Thái Lan), cũng như các đối tác quan trọng về mặt chiến lược như Brunei, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Singapore, và Đài Loan, cùng với các quan hệ đang triển khai với Myanmar (còn được gọi Miến Điện). Các căn cứ quan trọng của Hoa Kỳ tại Nhật Bản và Nam Hàn giữ vai trò chủ yếu cho khả năng phóng chiếu quyền lực của Washington tại châu Á và các khu vực lân cận.


Các liên minh quân sự của Hoa Kỳ đã tăng cường an ninh khu vực này qua nhiều thập kỷ, và một trong những mục đích chính của việc xoay trục chiến lược [the pivot] là làm sâu sắc thêm các mối quan hệ đó. Trong những năm gần đây, Washington đã khuyến khích các quốc gia đối tác của mình tại châu Á tìm cách ngăn ngừa xung đột giữa những cường quốc chính, duy trì sự thông thương trên các hải lộ, chống lại chủ nghĩa cực đoan, và đối phó các đe dọa an ninh phi truyền thống. Nhật Bản và Nam Hàn đã đủ tự tin để nhận lãnh những vai trò ngày càng nổi bật trong các hoạt động quân sự hỗn hợp với Hoa Kỳ, và các lực lượng Mỹ đang làm việc với Australia để phát triển các khả năng chiến đấu thủy lục [amphibious capabilities] của mình và với Philippines để tăng cường lực lượng hải giám của nước này. Kết quả sau cùng là những liên minh hùng mạnh hơn và một khu vực an ninh hơn.


Việc này không hề gợi ý về một nỗ lực bao vây ngăn chặn hay làm suy yếu Trung Quốc. Trái lại, phát triển một quan hệ vững vàng hơn và hiệu quả hơn với Bắc Kinh là một mục tiêu chính của chiến lược tái quân bình lực lượng. Không tìm cách bao vây ngăn ngặn Trung Quốc, trong nhiều năm qua Hoa Kỳ đã tìm cách xây dựng một mối quan hệ song phương chín chắn hơn thông qua các cuộc họp thường xuyên ở các cấp cao nhất chưa hề có trước đây về nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến các bộ ngành song hành của hai nước. Thậm chí các quan hệ giữa hai quân đội [military-to-military relations] đã trở lại bình thường, lắm lúc đòi hỏi Lầu Năm Góc phải ráng sức đáp ứng các mức độ sinh hoạt do Bắc Kinh đề xuất.


MỘT CHIẾN LƯỢC XOAY TRỤC HƯỚNG VỀ – VÀ NGAY TRONG – CHÂU Á


Chiến lược tái quân bình lực lượng còn đòi hỏi Hoa Kỳ phải tham gia tích cực vào các định chế đa phương của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Dưới chính quyền Obama, Hoa Kỳ đã trở thành thành viên của Thượng đỉnh Đông Á, cuộc họp chính thức hàng năm của nguyên thủ các quốc gia trong khu vực; ký kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác tại Đông Nam Á, điều này cho thấy cam kết của Mỹ đối với ASEAN sẽ được tăng cường; và cử một đại sứ thường trực tại trụ sở ASEAN ở Jakarta. Mặc dù những định chế trùng lấp lên nhau này có thể gây ra nhiều bức xúc, do tiến độ chậm chạp và các đòi hỏi về đồng thuận của chúng, nhưng chúng có thể thúc đẩy hợp tác khu vực và giúp xây dựng một hệ thống luật lệ và cơ chế để đối phó những thách thức phức tạp xuyên quốc gia. Vào tháng Sáu 2013, chẳng hạn, ASEAN đã đăng cai tổ chức cuộc diễn tập trợ giúp nhân đạo và cứu trợ thiên tai lần đầu tiên, có hơn 3.000 nhân viên từ 18 quốc gia tham dự.


Đồng thời, Mỹ đang đáp lại một thực tế mới mẻ là, khu vực châu Á-Thái Bình Dương càng ngày càng trở thành đầu máy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Chính quyền Obama đã đẩy mạnh các lợi ích kinh tế của Mỹ bằng cách thực thi Hiệp ước Tự do Mậu dịch Mỹ-Hàn năm 2012 và đang thúc đẩy mạnh mẽ để hoàn tất các cuộc đàm phán về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương [TTP], một hiệp ước thương mại tự do giữa 12 nước. Một số nước tham dự các cuộc đàm phán TPP hiện là những thị trường sinh động tại Đông Nam Á, như Malaysia và Singapore, vốn phản ánh tầm quan trọng địa chiến lược đang gia tăng của tiểu khu vực [subregion] này. Thật vậy, chiến lược xoay trục chiến lược của Mỹ hướng về châu Á đã được phụ họa bởi một hành động xoay trục diễn ra bên trong châu Á. Washington đang quân bình sự quan tâm truyền thống dành cho các nước Đông Bắc Á bằng sự quan tâm mới mẻ dành cho các nước Đông Nam Á, như Indonesia, Philippines, và Việt Nam, tìm cách gia tăng thương mại và đầu tư hai chiều với một số nền kinh tế sinh động nhất thế giới. Năm 2010, Washington và Jakarta đã thiết lập một “quan hệ đối tác toàn diện” để củng cố thêm sự hợp tác xuyên qua một loạt vấn đề rộng lớn, gồm y tế, khoa học, công nghệ, và doanh nghiệp.


Một tham vọng tương tự nhằm sắp xếp lại các ưu tiên của Mỹ trong khu vực này giúp giải thích những thay đổi mà Lầu Năm Góc đã thực hiện đối với thế đứng quân sự của mình tại khu vực này. Mặc dù các căn cứ quân sự Mỹ vẫn còn giữ vai trò trung tâm trong khả năng phóng chiếu quyền lực và tham chiến của Washington, nhưng càng ngày chúng càng trở nên dễ bị tấn công làm tê liệt bằng tên lửa, và chúng cũng nằm tương đối xa các vùng có tiềm năng thiên tai và khủng hoảng tại biển Hoa Nam [Biển Đông] và Ấn Độ Dương. Đồng thời, với sự kiện các nước Đông Nam Á đang bày tỏ mong muốn nhận được các chương trình huấn luyện quân sự và trợ giúp chống thiên tai của Mỹ, Hoa Kỳ đã đa dạng hóa sự hiện diện quân sự của mình trong khu vực, bằng cách đồn trú hàng trăm lính thủy đánh bộ Mỹ tại Darwin, Australia, và triển khai hai Tàu Tác chiến Gần bờ [Littoral Combat Ships] tại Singapore.


Những thay đổi này trong thế đứng quân sự của Mỹ đã bị chỉ trích hoặc là khiêu khích hoặc là vô bổ. Cả hai cáo buộc đều không chính xác. Những nỗ lực này không cho thấy Mỹ có hành vi hiếu chiến; chúng đóng góp chủ yếu cho những hoạt động trong thời bình, như phản ứng trước các thiên tai, chứ không đóng góp gì cho những khả năng tham chiến của Mỹ. Và con số có vẻ khiêm nhượng về lính thủy đánh bộ và chiến hạm được triển khai đã che giấu những ích lợi đáng kể mà họ cống hiến cho quân đội của các quốc gia đối tác với Mỹ, vốn là những nước hưởng các cơ hội vô song trong việc diễn tập và huấn luyện chung với các lực lượng Mỹ.


Trong việc xoay trục hướng về châu Á, chính quyền Obama không những tìm cách đẩy mạnh các lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ mà lại còn tìm cách làm sâu sắc thêm các quan hệ văn hóa và quan hệ giữa nhân dân với nhân dân. Chính quyền này còn hi vọng rằng chiến lược xoay trục sẽ giúp Mỹ dễ dàng hậu thuẫn nhân quyền và dân chủ trong khu vực. Đường lối mới này đã đóng góp cho những tiến bộ chính trị tại Myanmar, nơi mà chính phủ đã đi được những bước ngoạn mục, như thả tù chính trị, thực thi các cải tổ kinh tế dù chậm trễ, thúc đẩy nhân quyền và nới rộng tự do báo chí. Mặc dù cần có những biện pháp tiến bộ hơn nữa, đặc biệt trong việc bảo vệ các dân tộc thiểu số, nhưng Myanmar đã nêu một tấm gương sáng ngời của một nước từng kinh qua một thời khép kín, độc tài tàn bạo và đang triển khai những bước chuyển hóa qua chế độ dân chủ. Và ngay từ buổi đầu Hoa Kỳ đã là một đối tác thiết yếu trong nỗ lực cải tổ này.


CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TRÒ CHƠI BÊN THẮNG BÊN THUA


Những người phản đối việc xoay trục chiến lược đã đưa ra ba lý do phản bác. Thứ nhất, một số người lo ngại rằng việc xoay trục chiến lược sẽ làm Trung Quốc giận dữ một cách không cần thiết.  Lý giải này đã không đếm xỉa đến sự kiện là việc tăng cường đối thoại với Bắc Kinh vốn là một đặc điểm trung tâm và không thể chối cãi của chính sách tái quân bình lực lượng [the rebalancing]. Trong những ví dụ điển hình của đường lối mới này, phải kể đến Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ-Trung [U.S.-China Strategic and Economic Dialogue] hàng năm, đây là một loạt hội nghị toàn diện được bộ trưởng ngoại giao và bộ trưởng tài chánh Mỹ và các quan chức đồng nhiệm Trung Quốc ngồi ghế chủ tọa, và Đối thoại An ninh Chiến lược [the Strategic Security dialogue], qua đó hai nước đã tổ chức các cuộc thảo luận cấp cao chưa từng có trước đây về các vấn đề nhạy cảm như an ninh trên biển và an ninh mạng. Các căng thẳng có thể tăng thêm do sự hiện diện quân sự Mỹ đang gia tăng tại châu Á và do việc Washington mạnh dạn bắt tay với các nước láng giềng của Trung Quốc. Nhưng các quan hệ song phương đang phát triển trong một cung cách khiến bất cứ bất đồng nào do việc xoay trục chiến lược gây ra đều có thể giải quyết trong một bối cảnh rộng lớn hơn của một mối quan hệ Mỹ-Trung ổn định và có tinh thần hợp tác hơn trước.


Phê phán thứ hai đến từ những người tranh luận rằng Washington sẽ thiếu khôn ngoan hay thiếu thực tế khi chuyển trọng tâm chiến lược từ Trung Đông sang châu Á trong khi đang có các xung đột tại Afghanistan và Syria, bất ổn chính trị tại Ai Cập và Iraq, và cuộc đối đầu trường kỳ giữa Iran và các cường quốc phương Tây. Nhưng chỉ trích này chủ yếu là một sự dè bỉu [caricature] đối với chiến lược tái quân bình lực lượng. Theo quan điểm này, Trung Đông và Nam Á đã làm suy yếu quyền lực và uy tín của Mỹ và vì thế việc xoay trục chiến lược thực ra chỉ là một mưu toan tháo chạy bằng cách hướng về những bờ biển hoà bình và dễ sinh lợi hơn của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đúng là, chính quyền Obama đã cố gắng giảm bớt sự hiện diện của Mỹ tại Trung Đông. Nhưng mặc dù các nguồn lực có giới hạn, chính sách đối ngoại không phải là một trò chơi bên thắng bên thua [a zero-sum game]. Và vì thế, luận điệu chỉ trích cho rằng việc Mỹ chuyển trọng tâm sang châu Á trong một cách nào đó chỉ là một thú nhận về thất bại chiến lược tại Trung Đông đã bỏ qua một thực tế rất quan trọng là: trong thập kỷ qua, chính các nước châu Á, mà hiện nay Washington muốn chú trọng hơn, đã lặng lẽ đóng góp phần mình vào việc duy trì hòa bình và ổn định khắp Trung Đông và Nam Á và chính các nước này cũng rất muốn Mỹ duy trì ảnh hưởng tại các khu vực này.


Trước đây không lâu, hầu hết các quốc gia châu Á chỉ biết quan tâm đến việc phát triển trong nước và coi các vấn đề nước ngoài như là trách nhiệm của một ai khác. Một trong những thành công quan trọng nhất của chính sách châu Á của Tổng thống George W. Bush là khuyến khích các cường quốc đang trỗi dậy của khu vực này đóng góp nhiều hơn cho các nơi khác trên thế giới. Để hưởng ứng một phần nào, trong những năm cầm quyền của Bush, lần đầu tiên, nhiều chính phủ Đông Á đã phát triển một tầm nhìn “ra ngoài khu vực” và tham gia tích cực hơn trong các lãnh vực ngoại giao, phát triển, và an ninh tại Trung Đông và Nam Á. Nhật Bản đã trở thành nước hậu thuẫn dẫn đầu trong nỗ lực phát triển xã hội dân sự tại Afghanistan, tài trợ các trường học và các cơ quan dân sự trong chính phủ và huấn luyện người Afghanistan trong các lãnh vực như pháp lý hình sự, giáo dục, y tế, và nông nghiệp. Trong thời kỳ tiếp theo sau Mùa Xuân Á Rập, Nam Hàn bắt đầu yểm trợ các chương trình phát triển khắp Trung Đông. Indonesia, Malaysia, và Thái Lan đã giúp đỡ vật chất cho các chương trình huấn luyện bác sĩ, cảnh sát, và giáo viên tại Afghanistan và Iraq, trong khi Australia và New Zealand gửi lực lượng đặc biệt đến chiến đấu tại Afghanistan. Thậm chí cả Trung Quốc cũng tích cực hơn trong chính sách ngoại giao ở hậu trường nhằm hạn chế các tham vọng hạt nhân của Iran, đối phó nạn cướp biển, và ảnh hưởng lên tương lai của Afghanistan.


Hẳn nhiên, sự động viên của Washington chỉ là một yếu tố ở đằng sau việc các nước châu Á dính líu ngày càng sâu sắc tại Trung Đông; một yếu tố không thể chối cãi khác là sự thèm khát dầu khí từ Vịnh Ba Tư của các nước này ngày càng gia tăng. Châu Á tiêu thụ khoảng 30 triệu thùng dầu một ngày, nhiều hơn gấp đôi lượng dầu mà EU tiêu thụ. Các chính phủ châu Á biết rằng một cuộc rút lui vội vàng của Mỹ ra khỏi Trung Đông sẽ mang lại nhiều rủi ro không thể chấp nhận đối với an ninh năng lượng và tăng trưởng kinh tế của nước họ. Do đó, họ đã đầu tư vốn liếng chính trị và tài chính đáng kể vào Trung Đông và trong vài trường hợp đã gửi các lực lượng quân sự đến đây trên một thập kỷ qua để bổ sung, chứ không thay thế, vai trò của Mỹ trong việc làm ổn định khu vực. Nói giản dị là, các đối tác châu Á của Mỹ hậu thuẫn việc xoay trục chiến lược nhưng sẽ không hân hoan chào đón viễn cảnh Mỹ rút khỏi Trung Đông – và điều quan trọng là, hình như họ không hề thấy một chút mâu thuẫn nào giữa hai lập trường này.


Luận cứ thứ ba chống lại việc chuyển trục chiến lược liên quan đến tính bền vững của đường lối này trong một thời điểm mà Mỹ phải cắt giảm ngân sách: trong khi chi tiêu quốc phòng giảm sút, những người hoài nghi tự hỏi làm sao Mỹ có thể đầu tư nguồn lực cần thiết để trấn an các đồng minh châu Á của mình và can ngăn các nước thù địch tiềm năng, đặc biệt trong khi quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc tiếp tục gia tăng. Câu trả lời là, chính sách tái quân bình lực lượng hướng về châu Á sẽ không đòi hỏi một ngân sách mới cực kỳ tốn kém; nói đúng ra, Lầu Năm Góc chỉ cần linh động hơn và tìm cách chi tiêu hiệu quả hơn. Chẳng hạn, trong khi giảm bớt kích cỡ tổng thể của quân đội, Mỹ cần phải duy trì sự hiện diện quân sự tại châu Á và phải đầu tư vào các khả năng hải quân và không quân thích hợp hơn đối với môi trường an ninh của khu vực này. Vì chi tiêu quốc phòng của Mỹ không thể gia tăng đáng kể trong một tương lai gần, Washington cần phải làm nhiều hơn để cải thiện khả năng của các quân đội châu Á, bằng cách tiến hành thêm các trao đổi giáo dục và nghiệp vụ, cải tiến các cuộc diễn tập quân sự đa phương, chuyển giao các thiết bị mà quân lực Mỹ không cần đến nữa, và tham gia tích cực hơn vào việc thảo kế hoạch chung.


VIỆC QUÂN BÌNH GIỮA CÁC QUAN TÂM


Mặc dù các luận cứ thông thường nhất để chống lại chính sách tái quân bình lực lượng không thể đứng vững nếu đem ra khảo sát kỹ lưỡng, nhưng chính sách này đang gặp nhiều thử thách to lớn. Có lẽ thử thách lớn nhất là thiếu vốn nhân sự [human capital]. Sau hơn một thập kỷ chiến tranh và chống nổi dậy, Mỹ đã phát triển và thăng thưởng nguyên cả một thế hệ binh sĩ, các nhà ngoại giao, và chuyên viên tình báo am tường về xung đột chủng tộc tại Iraq, về những bất đồng giữa các bộ tộc tại Afghanistan, về các chiến lược tái thiết hậu chiến, và về các chiến thuật của Lực lượng Đặc biệt Mỹ và máy bay con ong [máy bay oanh kích không người lái]. Nhưng Washington chưa có một nỗ lực tương tự nào nhằm phát triển một đội ngũ chuyên viên châu Á vững vàng trong các ban ngành chính phủ — một con số đáng kinh ngạc gồm các quan chức cao cấp trong chính phủ chỉ mới đi thăm châu Á lần đầu sau khi họ nắm giữ các chức vụ quan trọng ở một giai đoạn họ gần thôi việc. Đây đúng là chỗ yếu kém của ngành ngoại giao Mỹ, vì ngay cả một công chức thành đạt nhất cũng thấy khó khăn khi lèo lái công việc qua các vấn đề phức tạp của châu Á nếu chưa có kinh nghiệm trước tại khu vực này. Chính sách xoay trục chiến lược hướng về châu Á vì thế sẽ ảnh hưởng đến ngân sách của các cơ quan dân sự trong chính phủ, không chỉ riêng cơ quan dân sự của Lầu Năm Góc, khi Mỹ đầu tư nhiều hơn vào các nỗ lực để đảm bảo rằng các nhà ngoại giao, các nhân viên cứu trợ, các nhà thương thuyết mậu dịch, và các chuyên gia tình báo Mỹ có đầy đủ các kỹ năng ngôn ngữ và kinh nghiệm tại châu Á, mà họ sẽ cần đến để thực hiện tốt công tác của mình.


Chính sách xoay trục hướng về châu Á cũng sẽ vật lộn với một loạt khủng hoảng thường xuyên mà các khu vực khác — đặc biệt là Trung Đông — chắc chắn sẽ tiếp tục cung cấp. Đồng thời, sức ép đòi hỏi phải “trở về với công việc nội bộ” dường như chắc chắn sẽ gia tăng. Tiếp theo sau mỗi cuộc chiến mà Mỹ tham gia trong thời hiện đại, từ Thế chiến I đến Chiến tranh vùng Vịnh 1990-1991, công chúng Mỹ gây áp lực lên các nhà chính trị và quan chức chính phủ buộc họ phải tái tập trung vào các vấn đề trong nước. 13 năm chiến tranh vừa qua một lần nữa lại đánh thức bản năng cô lập này, vốn đã được nuôi dưỡng bởi một cuộc phục hồi kinh tế chậm chạp sau khủng hoảng tài chính, khiến nhiều người thất vọng. Mặc dù khuynh hướng quốc tế chủ nghĩa và xu thế đòi hỏi một quốc phòng mạnh vẫn còn tồn tại trong chính trường Mỹ, nhưng có những dấu hiệu tế nhị (và không tế nhị) tại Quốc Hội cho thấy rằng có lẽ Mỹ đang bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó việc Mỹ dấn thân vào những cam kết ở nước ngoài – ngay cả tại những vùng trọng yếu đối với sức mạnh kinh tế Mỹ, như châu Á – cũng khó được chấp nhận hơn trước. Những hạn chế chính trị này sẽ làm cho một dự án vốn đã khó khăn trở thành khó khăn hơn: trước các vấn đề châu Á, danh mục những việc Mỹ cần thực hiện tại đây còn dài, không những cho những năm còn lại của chính quyền Obama mà cả cho chính quyền tiếp theo.


NHỮNG ĐỐI TÁC TRONG CHÍNH SÁCH XOAY TRỤC CHIẾN LƯỢC


Tại châu Á, kinh tế và an ninh khu vực là hai vấn đề kết hợp không thể tách rời nhau, do đó Mỹ không thể duy trì vai trò lãnh đạo của mình chỉ bằng sức mạnh quân sự mà thôi. Đó là lý do tại sao việc ký kết thành công Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) — sẽ đòi hỏi những cuộc đàm phán căng thẳng ở nước ngoài và tại Quốc Hội Mỹ — là một ưu tiên hàng đầu. Hiệp định này sẽ nhanh chóng mang lại lợi ích cho kinh tế Mỹ và sẽ khai sinh một hệ thống thương mại lâu dài tại châu Á, một hệ thống không bị chế độ bảo hộ mậu dịch làm trì trệ. Để Hoa Kỳ có thêm sức mạnh đòn bẩy trong các cuộc thương thuyết, Quốc Hội Mỹ phải nhanh chóng phục hồi quyền thúc đẩy thương mại [TPA] bằng đường lối nhanh nhất. Dưới hệ thống này, sau khi thương thuyết xong TPP và các hiệp ước tự do mậu dịch khác, Nhà Trắng có thể đệ trình chúng trước Quốc Hội để lấy phiếu “thuận hay không thuận” [up-or-down votes], theo đó Quốc Hội không thể sửa đổi [amend] hay tranh luận câu giờ nhằm vô hiệu hóa chúng [filibuster]. Chính quyền Obama còn phải tận dụng sự phát triển nhanh chóng của ngành năng lượng Mỹ và tăng tốc việc xuất khẩu khí thiên nhiên ở thể lỏng [liquified natural gas] sang châu Á để cải thiện an ninh năng lượng của các nước đồng minh và đối tác tại đây và để gửi một tín hiệu mạnh mẽ về sự cam kết của Mỹ đối với sự phát triển của khu vực này.


Sự hợp tác luôn luôn được củng cố giữa Washington và Bắc Kinh đã mang lại nhiều kết quả khi hai nước ngày càng phối hợp đường lối của mình đối với Iran và Bắc Hàn đồng thời quản lý các khủng hoảng tiềm năng tại biển Hoa Nam [Biển Đông]. Nhưng Mỹ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi lèo lái các mối quan hệ với một Trung Quốc đang trỗi dậy mà hiện nay vừa là một “đối tác chiến lược” [a strategic partner], như Tổng thống Bill Clinton mô tả năm 1998, vừa là một “đối thủ chiến lược” [a strategic competitor], như về sau Bush đã gọi.


Những âm mưu của Trung Quốc nhằm thay đổi nguyên trạng lãnh thổ [the territorial status quo] tại biển Hoa Đông và biển Hoa Nam [Biển Đông] – chẳng hạn, bằng cách thiết lập một “khu nhận diện phòng không” tại biển Hoa Đông trùm lên các đảo do Nhật Bản quản lý hành chánh – đang đặt ra một thách thức trước mắt. Mỹ sẽ phải làm rõ với Trung Quốc rằng hành vi xét lại này là không phù hợp với các quan hệ ổn định Mỹ-Trung, lại càng không phù hợp “với loại quan hệ đại cường” mới nhất mà Chủ tịch Tập Cận Bình đã đề xuất với Obama. Gần đây Washington đã đi một bước đúng hướng khi các quan chức cao cấp trong chính quyền công khai chất vấn tính hợp pháp trong những tuyên bố chủ quyền có tính cách bành trướng của Trung Quốc và đưa ra cảnh báo chống lại việc thành lập một khu nhận diện phòng không tại biển Hoa Nam [Biển Đông].


Bên bờ kia của biển Hoa Đông, Thủ tướng Shinzo Abe đang tìm cách lèo lái Nhật Bản ra khỏi nhiều thập niên trì trệ kinh tế và gieo vào đầu óc người dân một ý thức mới mẻ về niềm tự hào và thanh thế của Nhật Bản. Washington sẽ phải tiếp tục thúc đẩy Tokyo hành động tự chế và tránh gây tổn thương, đặc biệt liên quan đến các tranh cãi về quá khứ đế quốc của Nhật Bản. Gần đây, Abe đã đến thăm Đền Yasukuni, nơi thờ một số tử sĩ bị kết án về các tội phạm chiến tranh mà họ đã gây ra trong Thế chiến II. Cuộc thăm viếng này có thể đã giúp ông về mặt chính trị trước một số khối cử tri trong nước, nhưng gây ra những tổn thất lớn trên trường quốc tế: nó nêu lên những nghi vấn tại Washington, làm xấu thêm các quan hệ giữa Nhật Bản và Nam Hàn, đồng thời khiến Trung Quốc trở nên kiên quyết hơn trong thái độ không muốn giao hảo trực tiếp với Nhật Bản chừng nào mà Abe còn cầm quyền.


Giữa bối cảnh ngoại giao căng thẳng này, Mỹ sẽ làm việc với Lực lượng Tự vệ Nhật Bản [tương đương Bộ Quốc phòng] với mục đích là Nhật Bản sẽ đóng một vai trò an ninh tích cực hơn trong khu vực và trên thế giới. Trong nỗ lực này có cả việc chống lại tuyên truyền của Trung Quốc khi họ lên án việc Nhật Bản giải thích lại hiến pháp và hiện đại hóa quân đội là phản động và quân phiệt, mặc dù trên thực tế, đây là những biện pháp hoàn toàn hợp lý – đáng lẽ phải thực hiện từ lâu. Mỹ cũng phải tiếp tục dồn một số vốn chính trị đáng kể cho việc cải thiện quan hệ giữa Nhật Bản và Nam Hàn; vì một quan hệ hữu nghị bền vững hơn giữa hai nước này sẽ có lợi cho việc đương đầu với mối đe dọa to lớn và đang gia tăng do Bắc Hàn đặt ra.


Những thách thức tại Đông Nam Á là hoàn toàn khác hẳn với những thách thức tại Đông Bắc Á, nhưng chúng không kém phần quan trọng đối với các lợi ích quốc gia của Mỹ. Một số nước Đông Nam Á, kể cả Campuchia, Malaysia, Myanmar, và Thái Lan, đang trải qua các mức độ xáo trộn chính trị khác nhau có khả năng thay đổi chính sách đối ngoại của từng nước. Khi khủng hoảng xảy ra, Washington phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản về dân chủ và nhân quyền nhưng không làm điều này một cách giáo điều hoặc bằng những cung cách có thể làm suy giảm lợi thế và ảnh hưởng của Mỹ. Thay vì đánh cược vào những phe phái có khả năng nắm quyền lực, đường lối hay nhất của Mỹ sẽ là tập trung vào các vấn đề mà người dân bản xứ cho là quan trọng nhất tại khu vực này bất luận ai là kẻ cầm quyền, những vấn đề như giáo dục, xóa đói giảm nghèo, và đối phó thiên tai.


Ngoài việc gia tăng sự tham dự của Mỹ vào các diễn đàn đa phương tại châu Á, Washington phải hậu thuẫn sự phát triển của một trật tự khu vực dựa vào luật lệ bằng cách đặt toàn bộ trọng lượng của mình đằng sau các nỗ lực sử dụng luật pháp và trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp chủ quyền tại biển Hoa Nam [Biển Đông]. Philippines đã đưa yêu sách chủ quyền của mình trong tranh chấp với Trung Quốc ra trước Tòa án Quốc tế về Luật Biển. Mặc dù Mỹ (tạm thời) không đưa ra các phán đoán về giá trị của các yêu sách chủ quyền riêng biệt, nhưng Washington cũng phải đóng góp cho việc xây dựng một đồng thuận quốc tế bằng cách kêu gọi mọi quốc gia công khai hậu thuẫn cơ chế này, vì tòa án về luật biển là một phép thử để xem khu vực này có sẵn sàng quản lý các tranh chấp của mình thông qua các phương tiện pháp lý và hòa bình hay không.


Hoa Kỳ không thể một mình tái quân bình lực lượng hướng về châu Á. Điều thiết yếu là phải kéo theo các nước châu Âu, tức những nước có thể đóng góp đáng kể trong các lãnh vực như luật pháp quốc tế và xây dựng các định chế. Nếu phương hướng chung của các mối quan hệ song phương cho phép, Washington còn phải thăm dò các cơ hội để tìm sự hợp tác tích cực hơn nữa với Ấn Độ và Nga về các vấn đề Đông Á.  Và hẳn nhiên, còn có một yếu tố cần thiết khác là các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, phải chứng tỏ vai trò lãnh đạo và sáng kiến của mình để bổ túc cho những nỗ lực của Mỹ. Trọng điểm của chính sách xoay trục hướng về châu Á là duy trì một khu vực cởi mở, hòa bình, và thịnh vượng, trong đó các chính phủ phải dựa vào các luật lệ, qui phạm, và định chế để giải quyết các bất đồng, chứ không sử dụng sức ép và vũ lực. Xoay trục chiến lược là một sáng kiến của Mỹ, nhưng sự thành công nhiên hậu của nó sẽ không hoàn toàn tùy thuộc vào Washington.


KURT M. CAMPBELL là Chủ tịch và Tổng Giám đốc của Asia Group. Từ 2009 đến 2013, ông là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách các Vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương. ELY RATNER là Nhà Nghiên cứu Thâm niên và là Phó Giám đốc của Chương trình An ninh châu Á-Thái Bình Dương tại Trung tâm vì một Nền An ninh Mới của Mỹ [the Center for a New American Security].


Ảnh: Thay đổi tầm nhìn: Một công nhân đang lau cửa kính của một cao ốc trong khu thương mại trung tâm của Thủ đô Bắc Kinh, 4 tháng Tư 2007 (ảnh của Reinhard Krause/Courtesy Reuters)


Nguồn: Foreign Affairs, May/June 2014


Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư &pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 03, 2014 07:11

Những hứa hẹn Viễn Đông: Tại sao Washington phải tập trung vào châu Á

Kurt M. Campbell và Ely Ratner


Trần Ngọc Cư dịch


[image error]Hoa Kỳ đang bước vào giai đoạn đầu của một đề án quốc gia quan trọng: tái định hướng chính sách đối ngoại của mình để dồn thêm quan tâm và nguồn lực vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Việc trình bày lại một cách có hệ thống các ưu tiên của Mỹ đang diễn ra trong một giai đoạn mà Mỹ khẩn thiết đánh giá lại các vấn đề chiến lược, sau hơn một thập kỷ lún sâu vào khu vực Nam Á và Trung Đông. Việc này đặt cơ sở trên quan niệm cho rằng lịch sử của thế kỷ 21 phần lớn sẽ được viết tại châu Á-Thái Bình Dương, một khu vực sẵn sàng đón chào sự lãnh đạo của Mỹ và sẽ tưởng thưởng cho sự tham gia của Mỹ bằng một lợi nhuận tích cực trên các đầu tư chính trị, kinh tế, và quân sự.


Do đó, chính quyền Obama đang huy động toàn diện một loạt các nỗ lực ngoại giao, kinh tế, và an ninh mệnh danh là “xoay trục” hay “tái quân bình”, hướng về châu Á. Chính sách này xây dựng trên nền móng của hơn một thế kỷ Hoa Kỳ dính líu vào khu vực này, kể cả những biện pháp quan trọng mà các chính quyền Clinton và George W. Bush đã thực hiện; như Tổng thống Barack Obama đã nhận xét đúng đắn: trên thực tế cũng như trong các tuyên bố, Hoa Kỳ đã là một “cường quốc Thái Bình Dương.” Nhưng chiến lược tái quân bình lực lượng mới thật sự nâng địa vị của châu Á lên một tầm có ý nghĩa trong chính sách đối ngoại Mỹ.


Những nghi vấn về mục tiêu và phạm vi ảnh hưởng của đường lối mới này đã xuất hiện ngay sau khi Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton đưa ra những điều mà tới nay vẫn còn là tuyên bố rõ ràng nhất về chiến lược này, và bà là người đầu tiên đã dùng từ “xoay trục” trong một bài viết đăng trên tạp chí Foreign Policy năm 2011. Gần ba năm sau, chính quyền Obama vẫn còn đối diện với cái thách đố dai dẳng trong việc giải thích khái niệm này và trong việc thể hiện hứa hẹn của nó. Nhưng bất chấp những tra hỏi gắt gao và những vấp váp ngắn hạn mà chính sách này gặp phải, ít ai hoài nghi về một chuyển biến lớn đang diễn ra. Và dù Washington có muốn hay không, châu Á chắc chắn sẽ thu hút quan tâm và nguồn lực từ Hoa Kỳ, do sự phồn thịnh và ảnh hưởng của khu vực ngày một gia tăng – và do những thách thức to lớn mà khu vực này đang đặt ra. Do đó, vấn đề cần nêu ra ở đây không phải là liệu Hoa Kỳ sẽ quan tâm hơn về châu Á hay không, mà là liệu Hoa Kỳ có đủ sức làm việc này với quyết tâm, nguồn lực, và trí tuệ cần thiết hay không.


ĐI ĐÔNG RỒI XUÔI NAM


Khu vực châu Á-Thái Bình Dương có một sức thu hút không thể cưỡng lại nổi. Khu vực này là quê hương của hơn một nửa dân số thế giới và có một nước dân chủ đông dân nhất thế giới (Ấn Độ), nền kinh tế thứ nhì và nền kinh tế thứ ba (Trung Quốc và Nhật Bản), quốc gia có đa số Hồi giáo đông đảo nhất (Indonesia), và bảy trong mười quân đội lớn nhất. Ngân hàng Phát triển châu Á tiên đoán rằng trước thời điểm giữa thế kỷ này, khu vực này sẽ cho ra một nửa sản lượng kinh tế thế giới và gồm có bốn trong mười nền kinh tế lớn nhất của thế giới (Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và Nhật Bản).


Nhưng chính con đường tiến hóa của châu Á, chứ không chỉ mức phát triển chóng mặt của nó, mới làm cho khu vực này trở nên quan trọng đến thế. Theo Freedom House, trong 5 năm qua, châu Á-Thái Bình Dương là khu vực duy nhất trên thế giới đạt tiến độ đều đặn trong việc cải thiện các quyền chính trị và quyền tự do dân sự. Và bất chấp các nghi vấn về khả năng duy trì độ bền vững của mức tăng trưởng kinh tế nhanh chóng tại những thị trường mới nổi [emerging markets], các quốc gia châu Á vẫn tiêu biểu cho một số cơ hội hứa hẹn nhất trong một nền kinh tế toàn cầu sẽ đình đốn và bất ổn nếu thiếu những thị trường này. Đồng thời, châu Á đang phấn đấu trước những nguyên nhân gây bất ổn kinh niên, do các hành động khiêu khích cao độ của Bắc Hàn, do việc gia tăng ngân sách quốc phòng diễn ra khắp khu vực, do các tranh chấp biển đảo gây nhiều lo ngại, khuấy động các quan hệ quốc tế ở biển Hoa Đông và biển Hoa Nam [Biển Đông], và do các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như thiên tai, nạn buôn người, và buôn bán ma túy.


Hoa Kỳ có một lợi ích không thể chối cãi trên con đường mà châu Á sẽ đi trong những năm sắp tới. Thị trường này là điểm đến có ưu tiên cao nhất đối với hàng xuất khẩu Mỹ, vượt quá châu Âu hơn 50 phần trăm, theo Phòng Thống kê Hoa Kỳ. Cả vốn trực tiếp đầu tư của Hoa Kỳ tại châu Á lẫn vốn trực tiếp đầu tư của châu Á tại Hoa Kỳ đã tăng gần gấp đôi trong thập kỷ qua, với Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, và Nam Hàn là bốn trong mười nước có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhất tại Hoa Kỳ, theo Phòng Phân tích Kinh tế Hoa Kỳ. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn có năm đồng minh với hiệp ước phòng thủ trong khu vực (Australia, Nhật Bản, Philippines, Nam Hàn, và Thái Lan), cũng như các đối tác quan trọng về mặt chiến lược như Brunei, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Singapore, và Đài Loan, cùng với các quan hệ đang triển khai với Myanmar (còn được gọi Miến Điện). Các căn cứ quan trọng của Hoa Kỳ tại Nhật Bản và Nam Hàn giữ vai trò chủ yếu cho khả năng phóng chiếu quyền lực của Washington tại châu Á và các khu vực lân cận.


Các liên minh quân sự của Hoa Kỳ đã tăng cường an ninh khu vực này qua nhiều thập kỷ, và một trong những mục đích chính của việc xoay trục chiến lược [the pivot] là làm sâu sắc thêm các mối quan hệ đó. Trong những năm gần đây, Washington đã khuyến khích các quốc gia đối tác của mình tại châu Á tìm cách ngăn ngừa xung đột giữa những cường quốc chính, duy trì sự thông thương trên các hải lộ, chống lại chủ nghĩa cực đoan, và đối phó các đe dọa an ninh phi truyền thống. Nhật Bản và Nam Hàn đã đủ tự tin để nhận lãnh những vai trò ngày càng nổi bật trong các hoạt động quân sự hỗn hợp với Hoa Kỳ, và các lực lượng Mỹ đang làm việc với Australia để phát triển các khả năng chiến đấu thủy lục [amphibious capabilities] của mình và với Philippines để tăng cường lực lượng hải giám của nước này. Kết quả sau cùng là những liên minh hùng mạnh hơn và một khu vực an ninh hơn.


Việc này không hề gợi ý về một nỗ lực bao vây ngăn chặn hay làm suy yếu Trung Quốc. Trái lại, phát triển một quan hệ vững vàng hơn và hiệu quả hơn với Bắc Kinh là một mục tiêu chính của chiến lược tái quân bình lực lượng. Không tìm cách bao vây ngăn ngặn Trung Quốc, trong nhiều năm qua Hoa Kỳ đã tìm cách xây dựng một mối quan hệ song phương chín chắn hơn thông qua các cuộc họp thường xuyên ở các cấp cao nhất chưa hề có trước đây về nhiều vấn đề khác nhau liên quan đến các bộ ngành song hành của hai nước. Thậm chí các quan hệ giữa hai quân đội [military-to-military relations] đã trở lại bình thường, lắm lúc đòi hỏi Lầu Năm Góc phải ráng sức đáp ứng các mức độ sinh hoạt do Bắc Kinh đề xuất.


MỘT CHIẾN LƯỢC XOAY TRỤC HƯỚNG VỀ – VÀ NGAY TRONG – CHÂU Á


Chiến lược tái quân bình lực lượng còn đòi hỏi Hoa Kỳ phải tham gia tích cực vào các định chế đa phương của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Dưới chính quyền Obama, Hoa Kỳ đã trở thành thành viên của Thượng đỉnh Đông Á, cuộc họp chính thức hàng năm của nguyên thủ các quốc gia trong khu vực; ký kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác tại Đông Nam Á, điều này cho thấy cam kết của Mỹ đối với ASEAN sẽ được tăng cường; và cử một đại sứ thường trực tại trụ sở ASEAN ở Jakarta. Mặc dù những định chế trùng lấp lên nhau này có thể gây ra nhiều bức xúc, do tiến độ chậm chạp và các đòi hỏi về đồng thuận của chúng, nhưng chúng có thể thúc đẩy hợp tác khu vực và giúp xây dựng một hệ thống luật lệ và cơ chế để đối phó những thách thức phức tạp xuyên quốc gia. Vào tháng Sáu 2013, chẳng hạn, ASEAN đã đăng cai tổ chức cuộc diễn tập trợ giúp nhân đạo và cứu trợ thiên tai lần đầu tiên, có hơn 3.000 nhân viên từ 18 quốc gia tham dự.


Đồng thời, Mỹ đang đáp lại một thực tế mới mẻ là, khu vực châu Á-Thái Bình Dương càng ngày càng trở thành đầu máy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Chính quyền Obama đã đẩy mạnh các lợi ích kinh tế của Mỹ bằng cách thực thi Hiệp ước Tự do Mậu dịch Mỹ-Hàn năm 2012 và đang thúc đẩy mạnh mẽ để hoàn tất các cuộc đàm phán về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương [TTP], một hiệp ước thương mại tự do giữa 12 nước. Một số nước tham dự các cuộc đàm phán TPP hiện là những thị trường sinh động tại Đông Nam Á, như Malaysia và Singapore, vốn phản ánh tầm quan trọng địa chiến lược đang gia tăng của tiểu khu vực [subregion] này. Thật vậy, chiến lược xoay trục chiến lược của Mỹ hướng về châu Á đã được phụ họa bởi một hành động xoay trục diễn ra bên trong châu Á. Washington đang quân bình sự quan tâm truyền thống dành cho các nước Đông Bắc Á bằng sự quan tâm mới mẻ dành cho các nước Đông Nam Á, như Indonesia, Philippines, và Việt Nam, tìm cách gia tăng thương mại và đầu tư hai chiều với một số nền kinh tế sinh động nhất thế giới. Năm 2010, Washington và Jakarta đã thiết lập một “quan hệ đối tác toàn diện” để củng cố thêm sự hợp tác xuyên qua một loạt vấn đề rộng lớn, gồm y tế, khoa học, công nghệ, và doanh nghiệp.


Một tham vọng tương tự nhằm sắp xếp lại các ưu tiên của Mỹ trong khu vực này giúp giải thích những thay đổi mà Lầu Năm Góc đã thực hiện đối với thế đứng quân sự của mình tại khu vực này. Mặc dù các căn cứ quân sự Mỹ vẫn còn giữ vai trò trung tâm trong khả năng phóng chiếu quyền lực và tham chiến của Washington, nhưng càng ngày chúng càng trở nên dễ bị tấn công làm tê liệt bằng tên lửa, và chúng cũng nằm tương đối xa các vùng có tiềm năng thiên tai và khủng hoảng tại biển Hoa Nam [Biển Đông] và Ấn Độ Dương. Đồng thời, với sự kiện các nước Đông Nam Á đang bày tỏ mong muốn nhận được các chương trình huấn luyện quân sự và trợ giúp chống thiên tai của Mỹ, Hoa Kỳ đã đa dạng hóa sự hiện diện quân sự của mình trong khu vực, bằng cách đồn trú hàng trăm lính thủy đánh bộ Mỹ tại Darwin, Australia, và triển khai hai Tàu Tác chiến Gần bờ [Littoral Combat Ships] tại Singapore.


Những thay đổi này trong thế đứng quân sự của Mỹ đã bị chỉ trích hoặc là khiêu khích hoặc là vô bổ. Cả hai cáo buộc đều không chính xác. Những nỗ lực này không cho thấy Mỹ có hành vi hiếu chiến; chúng đóng góp chủ yếu cho những hoạt động trong thời bình, như phản ứng trước các thiên tai, chứ không đóng góp gì cho những khả năng tham chiến của Mỹ. Và con số có vẻ khiêm nhượng về lính thủy đánh bộ và chiến hạm được triển khai đã che giấu những ích lợi đáng kể mà họ cống hiến cho quân đội của các quốc gia đối tác với Mỹ, vốn là những nước hưởng các cơ hội vô song trong việc diễn tập và huấn luyện chung với các lực lượng Mỹ.


Trong việc xoay trục hướng về châu Á, chính quyền Obama không những tìm cách đẩy mạnh các lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ mà lại còn tìm cách làm sâu sắc thêm các quan hệ văn hóa và quan hệ giữa nhân dân với nhân dân. Chính quyền này còn hi vọng rằng chiến lược xoay trục sẽ giúp Mỹ dễ dàng hậu thuẫn nhân quyền và dân chủ trong khu vực. Đường lối mới này đã đóng góp cho những tiến bộ chính trị tại Myanmar, nơi mà chính phủ đã đi được những bước ngoạn mục, như thả tù chính trị, thực thi các cải tổ kinh tế dù chậm trễ, thúc đẩy nhân quyền và nới rộng tự do báo chí. Mặc dù cần có những biện pháp tiến bộ hơn nữa, đặc biệt trong việc bảo vệ các dân tộc thiểu số, nhưng Myanmar đã nêu một tấm gương sáng ngời của một nước từng kinh qua một thời khép kín, độc tài tàn bạo và đang triển khai những bước chuyển hóa qua chế độ dân chủ. Và ngay từ buổi đầu Hoa Kỳ đã là một đối tác thiết yếu trong nỗ lực cải tổ này.


CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI KHÔNG PHẢI LÀ MỘT TRÒ CHƠI BÊN THẮNG BÊN THUA


Những người phản đối việc xoay trục chiến lược đã đưa ra ba lý do phản bác. Thứ nhất, một số người lo ngại rằng việc xoay trục chiến lược sẽ làm Trung Quốc giận dữ một cách không cần thiết.  Lý giải này đã không đếm xỉa đến sự kiện là việc tăng cường đối thoại với Bắc Kinh vốn là một đặc điểm trung tâm và không thể chối cãi của chính sách tái quân bình lực lượng [the rebalancing]. Trong những ví dụ điển hình của đường lối mới này, phải kể đến Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ-Trung [U.S.-China Strategic and Economic Dialogue] hàng năm, đây là một loạt hội nghị toàn diện được bộ trưởng ngoại giao và bộ trưởng tài chánh Mỹ và các quan chức đồng nhiệm Trung Quốc ngồi ghế chủ tọa, và Đối thoại An ninh Chiến lược [the Strategic Security dialogue], qua đó hai nước đã tổ chức các cuộc thảo luận cấp cao chưa từng có trước đây về các vấn đề nhạy cảm như an ninh trên biển và an ninh mạng. Các căng thẳng có thể tăng thêm do sự hiện diện quân sự Mỹ đang gia tăng tại châu Á và do việc Washington mạnh dạn bắt tay với các nước láng giềng của Trung Quốc. Nhưng các quan hệ song phương đang phát triển trong một cung cách khiến bất cứ bất đồng nào do việc xoay trục chiến lược gây ra đều có thể giải quyết trong một bối cảnh rộng lớn hơn của một mối quan hệ Mỹ-Trung ổn định và có tinh thần hợp tác hơn trước.


Phê phán thứ hai đến từ những người tranh luận rằng Washington sẽ thiếu khôn ngoan hay thiếu thực tế khi chuyển trọng tâm chiến lược từ Trung Đông sang châu Á trong khi đang có các xung đột tại Afghanistan và Syria, bất ổn chính trị tại Ai Cập và Iraq, và cuộc đối đầu trường kỳ giữa Iran và các cường quốc phương Tây. Nhưng chỉ trích này chủ yếu là một sự dè bỉu [caricature] đối với chiến lược tái quân bình lực lượng. Theo quan điểm này, Trung Đông và Nam Á đã làm suy yếu quyền lực và uy tín của Mỹ và vì thế việc xoay trục chiến lược thực ra chỉ là một mưu toan tháo chạy bằng cách hướng về những bờ biển hoà bình và dễ sinh lợi hơn của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đúng là, chính quyền Obama đã cố gắng giảm bớt sự hiện diện của Mỹ tại Trung Đông. Nhưng mặc dù các nguồn lực có giới hạn, chính sách đối ngoại không phải là một trò chơi bên thắng bên thua [a zero-sum game]. Và vì thế, luận điệu chỉ trích cho rằng việc Mỹ chuyển trọng tâm sang châu Á trong một cách nào đó chỉ là một thú nhận về thất bại chiến lược tại Trung Đông đã bỏ qua một thực tế rất quan trọng là: trong thập kỷ qua, chính các nước châu Á, mà hiện nay Washington muốn chú trọng hơn, đã lặng lẽ đóng góp phần mình vào việc duy trì hòa bình và ổn định khắp Trung Đông và Nam Á và chính các nước này cũng rất muốn Mỹ duy trì ảnh hưởng tại các khu vực này.


Trước đây không lâu, hầu hết các quốc gia châu Á chỉ biết quan tâm đến việc phát triển trong nước và coi các vấn đề nước ngoài như là trách nhiệm của một ai khác. Một trong những thành công quan trọng nhất của chính sách châu Á của Tổng thống George W. Bush là khuyến khích các cường quốc đang trỗi dậy của khu vực này đóng góp nhiều hơn cho các nơi khác trên thế giới. Để hưởng ứng một phần nào, trong những năm cầm quyền của Bush, lần đầu tiên, nhiều chính phủ Đông Á đã phát triển một tầm nhìn “ra ngoài khu vực” và tham gia tích cực hơn trong các lãnh vực ngoại giao, phát triển, và an ninh tại Trung Đông và Nam Á. Nhật Bản đã trở thành nước hậu thuẫn dẫn đầu trong nỗ lực phát triển xã hội dân sự tại Afghanistan, tài trợ các trường học và các cơ quan dân sự trong chính phủ và huấn luyện người Afghanistan trong các lãnh vực như pháp lý hình sự, giáo dục, y tế, và nông nghiệp. Trong thời kỳ tiếp theo sau Mùa Xuân Á Rập, Nam Hàn bắt đầu yểm trợ các chương trình phát triển khắp Trung Đông. Indonesia, Malaysia, và Thái Lan đã giúp đỡ vật chất cho các chương trình huấn luyện bác sĩ, cảnh sát, và giáo viên tại Afghanistan và Iraq, trong khi Australia và New Zealand gửi lực lượng đặc biệt đến chiến đấu tại Afghanistan. Thậm chí cả Trung Quốc cũng tích cực hơn trong chính sách ngoại giao ở hậu trường nhằm hạn chế các tham vọng hạt nhân của Iran, đối phó nạn cướp biển, và ảnh hưởng lên tương lai của Afghanistan.


Hẳn nhiên, sự động viên của Washington chỉ là một yếu tố ở đằng sau việc các nước châu Á dính líu ngày càng sâu sắc tại Trung Đông; một yếu tố không thể chối cãi khác là sự thèm khát dầu khí từ Vịnh Ba Tư của các nước này ngày càng gia tăng. Châu Á tiêu thụ khoảng 30 triệu thùng dầu một ngày, nhiều hơn gấp đôi lượng dầu mà EU tiêu thụ. Các chính phủ châu Á biết rằng một cuộc rút lui vội vàng của Mỹ ra khỏi Trung Đông sẽ mang lại nhiều rủi ro không thể chấp nhận đối với an ninh năng lượng và tăng trưởng kinh tế của nước họ. Do đó, họ đã đầu tư vốn liếng chính trị và tài chính đáng kể vào Trung Đông và trong vài trường hợp đã gửi các lực lượng quân sự đến đây trên một thập kỷ qua để bổ sung, chứ không thay thế, vai trò của Mỹ trong việc làm ổn định khu vực. Nói giản dị là, các đối tác châu Á của Mỹ hậu thuẫn việc xoay trục chiến lược nhưng sẽ không hân hoan chào đón viễn cảnh Mỹ rút khỏi Trung Đông – và điều quan trọng là, hình như họ không hề thấy một chút mâu thuẫn nào giữa hai lập trường này.


Luận cứ thứ ba chống lại việc chuyển trục chiến lược liên quan đến tính bền vững của đường lối này trong một thời điểm mà Mỹ phải cắt giảm ngân sách: trong khi chi tiêu quốc phòng giảm sút, những người hoài nghi tự hỏi làm sao Mỹ có thể đầu tư nguồn lực cần thiết để trấn an các đồng minh châu Á của mình và can ngăn các nước thù địch tiềm năng, đặc biệt trong khi quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc tiếp tục gia tăng. Câu trả lời là, chính sách tái quân bình lực lượng hướng về châu Á sẽ không đòi hỏi một ngân sách mới cực kỳ tốn kém; nói đúng ra, Lầu Năm Góc chỉ cần linh động hơn và tìm cách chi tiêu hiệu quả hơn. Chẳng hạn, trong khi giảm bớt kích cỡ tổng thể của quân đội, Mỹ cần phải duy trì sự hiện diện quân sự tại châu Á và phải đầu tư vào các khả năng hải quân và không quân thích hợp hơn đối với môi trường an ninh của khu vực này. Vì chi tiêu quốc phòng của Mỹ không thể gia tăng đáng kể trong một tương lai gần, Washington cần phải làm nhiều hơn để cải thiện khả năng của các quân đội châu Á, bằng cách tiến hành thêm các trao đổi giáo dục và nghiệp vụ, cải tiến các cuộc diễn tập quân sự đa phương, chuyển giao các thiết bị mà quân lực Mỹ không cần đến nữa, và tham gia tích cực hơn vào việc thảo kế hoạch chung.


VIỆC QUÂN BÌNH GIỮA CÁC QUAN TÂM


Mặc dù các luận cứ thông thường nhất để chống lại chính sách tái quân bình lá»±c lượng không thể đứng vững nếu đem ra khảo sát kỹ lưỡng, nhưng chính sách này đang gặp nhiều thá»­ thách to lớn. Có lẽ thá»­ thách lớn nhất là thiếu vốn nhân sá»± [human capital]. Sau hÆ¡n một thập ká»· chiến tranh và chống nổi dậy, Mỹ đã phát triển và thăng thưởng nguyên cả một thế hệ binh sÄ©, các nhà ngoại giao, và chuyên viên tình báo am tường về xung đột chá»§ng tộc tại Iraq, về những bất đồng giữa các bộ tộc tại Afghanistan, về các chiến lược tái thiết hậu chiến, và về các chiến thuật cá»§a Lá»±c lượng Đặc biệt Mỹ và máy bay con ong [máy bay oanh kích không người lái]. Nhưng Washington chưa có một nỗ lá»±c tương tá»± nào nhằm phát triển một đội ngÅ© chuyên viên châu Á vững vàng trong các ban ngành chính phá»§ — một con số đáng kinh ngạc gồm các quan chức cao cấp trong chính phá»§ chỉ mới đi thăm châu Á lần đầu sau khi họ nắm giữ các chức vụ quan trọng ở một giai đoạn họ gần thôi việc. Đây đúng là chỗ yếu kém cá»§a ngành ngoại giao Mỹ, vì ngay cả một công chức thành đạt nhất cÅ©ng thấy khó khăn khi lèo lái công việc qua các vấn đề phức tạp cá»§a châu Á nếu chưa có kinh nghiệm trước tại khu vá»±c này. Chính sách xoay trục chiến lược hướng về châu Á vì thế sẽ ảnh hưởng đến ngân sách cá»§a các cÆ¡ quan dân sá»± trong chính phá»§, không chỉ riêng cÆ¡ quan dân sá»± cá»§a Lầu Năm Góc, khi Mỹ đầu tư nhiều hÆ¡n vào các nỗ lá»±c để đảm bảo rằng các nhà ngoại giao, các nhân viên cứu trợ, các nhà thương thuyết mậu dịch, và các chuyên gia tình báo Mỹ có đầy đủ các kỹ năng ngôn ngữ và kinh nghiệm tại châu Á, mà họ sẽ cần đến để thá»±c hiện tốt công tác cá»§a mình.


Chính sách xoay trục hướng về châu Á cÅ©ng sẽ vật lộn với một loạt khá»§ng hoảng thường xuyên mà các khu vá»±c khác — đặc biệt là Trung Đông — chắc chắn sẽ tiếp tục cung cấp. Đồng thời, sức ép đòi hỏi phải “trở về với công việc nội bộ” dường như chắc chắn sẽ gia tăng. Tiếp theo sau mỗi cuộc chiến mà Mỹ tham gia trong thời hiện đại, từ Thế chiến I đến Chiến tranh vùng Vịnh 1990-1991, công chúng Mỹ gây áp lá»±c lên các nhà chính trị và quan chức chính phá»§ buộc họ phải tái tập trung vào các vấn đề trong nước. 13 năm chiến tranh vừa qua một lần nữa lại đánh thức bản năng cô lập này, vốn đã được nuôi dưỡng bởi một cuộc phục hồi kinh tế chậm chạp sau khá»§ng hoảng tài chính, khiến nhiều người thất vọng. Mặc dù khuynh hướng quốc tế chá»§ nghÄ©a và xu thế đòi hỏi một quốc phòng mạnh vẫn còn tồn tại trong chính trường Mỹ, nhưng có những dấu hiệu tế nhị (và không tế nhị) tại Quốc Hội cho thấy rằng có lẽ Mỹ đang bước vào một ká»· nguyên mới, trong đó việc Mỹ dấn thân vào những cam kết ở nước ngoài – ngay cả tại những vùng trọng yếu đối với sức mạnh kinh tế Mỹ, như châu Á – cÅ©ng khó được chấp nhận hÆ¡n trước. Những hạn chế chính trị này sẽ làm cho một dá»± án vốn đã khó khăn trở thành khó khăn hÆ¡n: trước các vấn đề châu Á, danh mục những việc Mỹ cần thá»±c hiện tại đây còn dài, không những cho những năm còn lại cá»§a chính quyền Obama mà cả cho chính quyền tiếp theo.


NHỮNG ĐỐI TÁC TRONG CHÍNH SÁCH XOAY TRỤC CHIẾN LƯỢC


Tại châu Á, kinh tế và an ninh khu vá»±c là hai vấn đề kết hợp không thể tách rời nhau, do đó Mỹ không thể duy trì vai trò lãnh đạo cá»§a mình chỉ bằng sức mạnh quân sá»± mà thôi. Đó là lý do tại sao việc ký kết thành công Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) — sẽ đòi hỏi những cuộc đàm phán căng thẳng ở nước ngoài và tại Quốc Hội Mỹ — là một ưu tiên hàng đầu. Hiệp định này sẽ nhanh chóng mang lại lợi ích cho kinh tế Mỹ và sẽ khai sinh một hệ thống thương mại lâu dài tại châu Á, một hệ thống không bị chế độ bảo hộ mậu dịch làm trì trệ. Để Hoa Kỳ có thêm sức mạnh đòn bẩy trong các cuộc thương thuyết, Quốc Hội Mỹ phải nhanh chóng phục hồi quyền thúc đẩy thương mại [TPA] bằng đường lối nhanh nhất. Dưới hệ thống này, sau khi thương thuyết xong TPP và các hiệp ước tá»± do mậu dịch khác, Nhà Trắng có thể đệ trình chúng trước Quốc Hội để lấy phiếu “thuận hay không thuận” [up-or-down votes], theo đó Quốc Hội không thể sá»­a đổi [amend] hay tranh luận câu giờ nhằm vô hiệu hóa chúng [filibuster]. Chính quyền Obama còn phải tận dụng sá»± phát triển nhanh chóng cá»§a ngành năng lượng Mỹ và tăng tốc việc xuất khẩu khí thiên nhiên ở thể lỏng [liquified natural gas] sang châu Á để cải thiện an ninh năng lượng cá»§a các nước đồng minh và đối tác tại đây và để gá»­i một tín hiệu mạnh mẽ về sá»± cam kết cá»§a Mỹ đối với sá»± phát triển cá»§a khu vá»±c này.


Sự hợp tác luôn luôn được củng cố giữa Washington và Bắc Kinh đã mang lại nhiều kết quả khi hai nước ngày càng phối hợp đường lối của mình đối với Iran và Bắc Hàn đồng thời quản lý các khủng hoảng tiềm năng tại biển Hoa Nam [Biển Đông]. Nhưng Mỹ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi lèo lái các mối quan hệ với một Trung Quốc đang trỗi dậy mà hiện nay vừa là một “đối tác chiến lược” [a strategic partner], như Tổng thống Bill Clinton mô tả năm 1998, vừa là một “đối thủ chiến lược” [a strategic competitor], như về sau Bush đã gọi.


Những âm mưu cá»§a Trung Quốc nhằm thay đổi nguyên trạng lãnh thổ [the territorial status quo] tại biển Hoa Đông và biển Hoa Nam [Biển Đông] – chẳng hạn, bằng cách thiết lập một “khu nhận diện phòng không” tại biển Hoa Đông trùm lên các đảo do Nhật Bản quản lý hành chánh – đang đặt ra một thách thức trước mắt. Mỹ sẽ phải làm rõ với Trung Quốc rằng hành vi xét lại này là không phù hợp với các quan hệ ổn định Mỹ-Trung, lại càng không phù hợp “với loại quan hệ đại cường” mới nhất mà Chá»§ tịch Tập Cận Bình đã đề xuất với Obama. Gần đây Washington đã đi một bước đúng hướng khi các quan chức cao cấp trong chính quyền công khai chất vấn tính hợp pháp trong những tuyên bố chá»§ quyền có tính cách bành trướng cá»§a Trung Quốc và đưa ra cảnh báo chống lại việc thành lập một khu nhận diện phòng không tại biển Hoa Nam [Biển Đông].


Bên bờ kia của biển Hoa Đông, Thủ tướng Shinzo Abe đang tìm cách lèo lái Nhật Bản ra khỏi nhiều thập niên trì trệ kinh tế và gieo vào đầu óc người dân một ý thức mới mẻ về niềm tự hào và thanh thế của Nhật Bản. Washington sẽ phải tiếp tục thúc đẩy Tokyo hành động tự chế và tránh gây tổn thương, đặc biệt liên quan đến các tranh cãi về quá khứ đế quốc của Nhật Bản. Gần đây, Abe đã đến thăm Đền Yasukuni, nơi thờ một số tử sĩ bị kết án về các tội phạm chiến tranh mà họ đã gây ra trong Thế chiến II. Cuộc thăm viếng này có thể đã giúp ông về mặt chính trị trước một số khối cử tri trong nước, nhưng gây ra những tổn thất lớn trên trường quốc tế: nó nêu lên những nghi vấn tại Washington, làm xấu thêm các quan hệ giữa Nhật Bản và Nam Hàn, đồng thời khiến Trung Quốc trở nên kiên quyết hơn trong thái độ không muốn giao hảo trực tiếp với Nhật Bản chừng nào mà Abe còn cầm quyền.


Giữa bối cảnh ngoại giao căng thẳng này, Mỹ sẽ làm việc với Lực lượng Tự vệ Nhật Bản [tương đương Bộ Quốc phòng] với mục đích là Nhật Bản sẽ đóng một vai trò an ninh tích cực hơn trong khu vực và trên thế giới. Trong nỗ lực này có cả việc chống lại tuyên truyền của Trung Quốc khi họ lên án việc Nhật Bản giải thích lại hiến pháp và hiện đại hóa quân đội là phản động và quân phiệt, mặc dù trên thực tế, đây là những biện pháp hoàn toàn hợp lý – đáng lẽ phải thực hiện từ lâu. Mỹ cũng phải tiếp tục dồn một số vốn chính trị đáng kể cho việc cải thiện quan hệ giữa Nhật Bản và Nam Hàn; vì một quan hệ hữu nghị bền vững hơn giữa hai nước này sẽ có lợi cho việc đương đầu với mối đe dọa to lớn và đang gia tăng do Bắc Hàn đặt ra.


Những thách thức tại Đông Nam Á là hoàn toàn khác hẳn với những thách thức tại Đông Bắc Á, nhưng chúng không kém phần quan trọng đối với các lợi ích quốc gia của Mỹ. Một số nước Đông Nam Á, kể cả Campuchia, Malaysia, Myanmar, và Thái Lan, đang trải qua các mức độ xáo trộn chính trị khác nhau có khả năng thay đổi chính sách đối ngoại của từng nước. Khi khủng hoảng xảy ra, Washington phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản về dân chủ và nhân quyền nhưng không làm điều này một cách giáo điều hoặc bằng những cung cách có thể làm suy giảm lợi thế và ảnh hưởng của Mỹ. Thay vì đánh cược vào những phe phái có khả năng nắm quyền lực, đường lối hay nhất của Mỹ sẽ là tập trung vào các vấn đề mà người dân bản xứ cho là quan trọng nhất tại khu vực này bất luận ai là kẻ cầm quyền, những vấn đề như giáo dục, xóa đói giảm nghèo, và đối phó thiên tai.


Ngoài việc gia tăng sự tham dự của Mỹ vào các diễn đàn đa phương tại châu Á, Washington phải hậu thuẫn sự phát triển của một trật tự khu vực dựa vào luật lệ bằng cách đặt toàn bộ trọng lượng của mình đằng sau các nỗ lực sử dụng luật pháp và trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp chủ quyền tại biển Hoa Nam [Biển Đông]. Philippines đã đưa yêu sách chủ quyền của mình trong tranh chấp với Trung Quốc ra trước Tòa án Quốc tế về Luật Biển. Mặc dù Mỹ (tạm thời) không đưa ra các phán đoán về giá trị của các yêu sách chủ quyền riêng biệt, nhưng Washington cũng phải đóng góp cho việc xây dựng một đồng thuận quốc tế bằng cách kêu gọi mọi quốc gia công khai hậu thuẫn cơ chế này, vì tòa án về luật biển là một phép thử để xem khu vực này có sẵn sàng quản lý các tranh chấp của mình thông qua các phương tiện pháp lý và hòa bình hay không.


Hoa Kỳ không thể một mình tái quân bình lực lượng hướng về châu Á. Điều thiết yếu là phải kéo theo các nước châu Âu, tức những nước có thể đóng góp đáng kể trong các lãnh vực như luật pháp quốc tế và xây dựng các định chế. Nếu phương hướng chung của các mối quan hệ song phương cho phép, Washington còn phải thăm dò các cơ hội để tìm sự hợp tác tích cực hơn nữa với Ấn Độ và Nga về các vấn đề Đông Á.  Và hẳn nhiên, còn có một yếu tố cần thiết khác là các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, phải chứng tỏ vai trò lãnh đạo và sáng kiến của mình để bổ túc cho những nỗ lực của Mỹ. Trọng điểm của chính sách xoay trục hướng về châu Á là duy trì một khu vực cởi mở, hòa bình, và thịnh vượng, trong đó các chính phủ phải dựa vào các luật lệ, qui phạm, và định chế để giải quyết các bất đồng, chứ không sử dụng sức ép và vũ lực. Xoay trục chiến lược là một sáng kiến của Mỹ, nhưng sự thành công nhiên hậu của nó sẽ không hoàn toàn tùy thuộc vào Washington.


KURT M. CAMPBELL là Chủ tịch và Tổng Giám đốc của Asia Group. Từ 2009 đến 2013, ông là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách các Vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương. ELY RATNER là Nhà Nghiên cứu Thâm niên và là Phó Giám đốc của Chương trình An ninh châu Á-Thái Bình Dương tại Trung tâm vì một Nền An ninh Mới của Mỹ [the Center for a New American Security].


Ảnh: Thay đổi tầm nhìn: Một công nhân đang lau cửa kính của một cao ốc trong khu thương mại trung tâm của Thủ đô Bắc Kinh, 4 tháng Tư 2007 (ảnh của Reinhard Krause/Courtesy Reuters)


Nguồn: Foreign Affairs, May/June 2014


Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư &pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 03, 2014 07:11

June 23, 2014

Về tự kiểm duyệt

Ngải Vị Vị


Hoài Phi dịch


Kiểm duyệt ở Trung Quốc bị áp đặt 24 giờ một ngày, và hoạt động trên mọi kênh giao tiếp. Ảnh hưởng của kiểm duyệt có mặt trong mọi hình thức thể hiện cá nhân liên quan đến công chúng, dù là dưới hình thức xuất bản, trình diễn nghệ thuật, hay một trang web. Trong hơn 60 năm qua, các chính sách về kiểm duyệt thâm nhập khắp xã hội trên toàn quốc.


Trong vòng một tháng, người ta đã loại tên tôi khỏi hai cuộc triển lãm ở Trung Quốc. Gần đây nhất, Trung tâm Nghệ thuật Đương đại Ullens (Ullens Center for Contemporary Art – UCCA) ở Bắc Kinh đã trưng bày ba tác phẩm của tôi trong một cuộc triển lãm tưởng niệm một người bạn cũ và đồng nghiệp, nhưng họ sợ không dám đả động đến tên tôi, cũng như không dám đả động đến mối quan hệ giữa tôi và cái trung tâm mà bạn tôi và tôi đã cùng xây dựng – viện nghệ thuật đương đại Trung Quốc đầu tiên.


Khi những sự cố này được xem xét như một phần trong một bức tranh lớn hơn, ta có thể thấy rõ sự nghiêm trọng của vấn đề. Việc kiểm duyệt ngặt nghèo về thông tin và thể hiện này không chỉ ảnh hưởng tới riêng tôi, mà còn tới cả cộng đồng nghệ sĩ và toàn xã hội. Vì nhiều lý do khác nhau, các cơ quan tự kiểm duyệt để có thể tồn tại, một số thậm chí còn gặt hái lợi ích.


Trong cuộc trò chuyện, giám đốc trung tâm UCCA là Philip Tinari có đề cập đến “những mối đe dọa” từ trên xuống đã dẫn đến việc họ bỏ tên tôi ra khỏi triển lãm. Ở Trung Quốc, chính sách của Đảng có thể không ảnh hưởng tới cá nhân bạn, nhưng lại ảnh hưởng thông qua tổ chức, chủ nhà, họ hàng và đồng nghiệp của bạn. Thậm chí ngay cả khi bạn hoạt động độc lập thì quyền lực vẫn tác động đến những người xung quanh bạn.


Đe dọa là công cụ hữu hiệu nhất của những kẻ nắm quyền lực nhằm tước đoạt ý thức độc lập của người dân. Không những họ có thể thành công trong việc xóa bỏ tư tưởng khỏi khu vực công và thanh trừng những người dám thể hiện tư tưởng và thái độ đó, mà họ còn có thể tẩy não những ai chỉ muốn hoạt động như một bộ phận của xã hội. Để có thể giành được an ninh cá nhân và tài chính, người ta phải uốn mình theo các tiêu chuẩn hành xử mà không đặt ra bất kỳ câu hỏi nào hay cố gắng phân biệt giữa đúng và sai. Kiểm duyệt là một hệ thống tạo ra quyền lực tuyệt đối và làm tê liệt xã hội, tước đi sự dũng cảm của con người trong việc đưa ra những đánh giá hoặc chịu trách nhiệm xã hội.


Kiểm duyệt và tự kiểm duyệt cùng hoạt động trong xã hội này để bảo đảm rằng suy nghĩ và sáng tạo độc lập không thể tồn tại được mà không cúi đầu trước nhà cầm quyền. Nhiều khi, tự kiểm duyệt và cái được gọi là mối đe dọa liên quan đến nó, chỉ dựa vào ký ức hay cảm giác mơ hồ về sự nguy hiểm, và chưa chắc là do sự chỉ đạo trực tiếp từ quan chức cao cấp. Thành ngữ tiếng Trung sát kê hách hầu tóm tắt súc tích: giết gà dọa khỉ. Trừng phạt một cá nhân để làm ví dụ cho những người khác lại khuyến khích chính sách đe dọa, một chính sách có thể âm vọng suốt đời và thậm chí qua vài thế hệ.


Không giống phần lớn những nơi khác trên thế giới, internet ở Trung Quốc dựa vào mạng cục bộ (local area networks), nhưng thậm chí dòng chảy thông tin hạn chế như vậy cũng đủ khiến nhà cầm quyền cảm thấy vô cùng bất an. Không những việc kiểm duyệt trên mạng đi ngược lại bản chất cơ bản của Internet, nó cũng đã dẫn tới việc bắt giữ và kết án nhiều người trong cuộc đàn áp tự do ngôn luận. Kết quả là việc tự kiểm duyệt ngày càng gia tăng, trong khi đòi hỏi về tự do cũng phát triển với tốc độ nhanh không kém. Đây là những thách thức song hành mà ta phải đối mặt trong thế giới vật chất ta đang sống hôm nay.


__________


Ý tưởng nghệ thuật gần đây nhất của Ngải Vị Vị, “Leg Gun” (Vũ khí chân), đang gây sốt trên mạng. Xem Instagram và bài trên Washington Post.


Nguồn: Ai Wei Wei, “On Self-Censorship“, Huffington Post 19/6/2014


Bản tiếng Việt © 2014 Hoài Phi &pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 23, 2014 04:20

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.