Phạm Thị Hoài's Blog, page 17

June 19, 2014

Việt Nam: Cơ hội cuối cùng hay những bước đột phá cần thiết

Lê Xuân Khoa


Ngay sau khi Trung Quốc gây ra sự cố giàn khoan Hải Dương Thạch Du (HD-981) tại vùng biển chủ quyền của Việt Nam, giới phân tích chính trị quốc tế đã cho thấy đây không nhất thiết là một hành động chiếm đoạt về kinh tế mà chủ yếu là một nước cờ chính trị của Bắc Kinh nhằm tạo tiền lệ cho những bước lấn chiếm khác trong kế hoạch kiểm soát toàn thể Biển Đông Nam Á. Đây vừa là một bước thăm dò vừa là một ngón đòn phủ đầu trước khi Hoa Kỳ có thể thật sự xoay trục sang Châu Á và tái khẳng định vai trò cường quốc Thái Bình Dương. Bước chiến thuật này đã đem lại cho Trung Quốc một thắng lợi ban đầu nhưng qua những phản ứng của Việt Nam và những nước liên quan thì hành động này là một tính toán khá mạo hiểm trong chiến lược “Giấc mơ Trung Quốc ”, một mục tiêu quốc gia được Chủ tịch Tập Cận Bình chính thức tuyên bố trước Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc ngày 17.3. 2013 và định nghiã là “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa.” Mạo hiểm hay không, lãnh đạo mới của Trung Quốc cũng quyết tâm hành động vì cho rằng thời cơ đã đến.


Đã có nhiều tác giả Việt Nam và ngoại quốc viết về những mục tiêu trước mắt và lâu dài của Trung Quốc qua vụ giàn khoan HD-981, phản bác những luận điệu của lãnh đạo Bắc Kinh đòi hỏi chủ quyền trên 80 % Biển Đông Nam Á theo bản đồ đường chín đoạn do họ tự vẽ ra, bất chấp luật lệ quốc tế và Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982. Vì vậy, bài này sẽ không tham gia vào những đóng góp quan trọng của các học giả về cơ sở lịch sử và pháp lý của Việt Nam mà chỉ chú trọng vào một số biện pháp cụ thể cần làm ngay để triệt tiêu mưu đồ của Trung Quốc đang từng bước thực hiện mục tiêu sử dụng Việt Nam làm bàn đạp tiến xuống các quốc gia khác trong khu vực.


Tên khổng lồ tỉnh giấc


Lịch sử chính trị thường nhắc đến câu chuyện Hoàng đế Napoléon Bonaparte sau khi đọc bản dịch cuốn Tôn Tử Binh pháp do một linh mục Pháp sống ở bên Tàu đời nhà Thanh thực hiện, đã phát biểu một nhận xét thú vị: “Hãy để cho tên khổng lồ này ngủ yên, vì khi tỉnh giấc nó sẽ làm rung chuyển thế giới.” Thật ra thì từ thời xa xưa cho đến hết thời Mao Trạch Đông, Trung Quốc chỉ tự rung chuyển mình bằng những cuộc nội chiến (như thời Đông Chu liệt quốc) hay bị rung chuyển khi ngoại nhân (như Mông Cổ hay Mãn Thanh) chiếm đóng và cai trị, bị tám nước Tây phương (Bát quốc liên quân) trừng phạt đầu thế kỷ 20 và gần đây nhất là bị quân đội Nhật hoàng xâm lăng và hành hạ trong thời Đệ nhị Thế chiến. Công bằng mà nói thì Trung Quốc cũng có làm rung chuyển một số quốc gia láng giềng nhỏ bé như Cao Ly (Triều Tiên) và Việt Nam qua những cuộc chiến tranh xâm lược nhưng rốt cuộc đều bị đánh bại và phải chạy về nước. (Đáng chú ý là vị anh hùng Cao Ly đại thắng quân Nguyên lại là một “thuyền nhân” người Việt: Lý Long Tường, thái tử nhà Lý, chạy sang Cao Ly tị nạn sau khi Trần Thủ Độ diệt nhà Lý để xây dựng nhà Trần. Lý Long Tường đánh thắng quân Nguyên hai lần, được vua Cao Ly phong làm Hoa Sơn Tướng quân.)


Chỉ đến khi Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền năm 1978 Trung Quốc mới thực sự bắt đầu một thời kỳ cải cách và phát triển theo hướng ”chủ nghiã xã hội mang màu sắc Trung Quốc”. Đặng thi hành chủ nghĩa thực dụng về kinh tế, mở cửa làm ăn với các nước Tây phương với câu nói nổi tiếng: “Mèo đen hay mèo trắng không thành vấn đề miễn là nó bắt được chuột.” Nhưng quan trọng nhất trong mưu lược đối ngoại của Đặng Tiểu Bình là âm thầm xây dựng một nước Trung Hoa hùng mạnh bằng chính sách “thao quang dưỡng hối” (giấu cái sáng, nuôi cái tối) tức là giấu diếm nội lực, giả vờ yếu kém để chờ ngày vùng dậy làm bá chủ thiên hạ.


Chính sách ẩn mình chờ thời của Đặng Tiểu Bình nay đã đến hồi kết thúc. Chỉ trong ba thập kỷ, Trung Quốc từ một nước nghèo đói đã vươn lên thành một siêu cường kinh tế, vượt Nhật Bản để chiếm địa vị thứ nhì sau nước Mỹ, và cũng đang là chủ nợ lớn nhất của Mỹ với số tiền cho mượn trên 1300 tỉ đô-la. Thời Hồ Cẩm Đào làm Tổng Bí thư, Trung Quốc đã giàu nhất thế giới vì nhờ lao động rẻ nên đã trở thành công xưởng của tư bản quốc tế sản xuất hầu hết hàng tiêu thụ khắp các nước. Không giấu được sức mạnh tiền bạc nhưng Hồ Cẩm Đào vẫn tiếp tục lừa thế giới với khẩu hiệu khiêm tốn là “trỗi dậy hoà bình”. Từ 2012, khi Tập Cận Bình kế vị Hồ Cẩm Đào thì “Trỗi dậy hoà bình” được đổi thành “Giấc mơ Trung Quốc”, thể hiện rõ hơn chủ nghĩa dân tộc của một lãnh đạo nhiều quyền lực nhất, cùng một lúc nắm ba chức vụ Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quân ủy Trung ương. Lời tiên đoán của Napoleon nay được nghiệm đúng: tên “khổng lồ” đã tỉnh giấc và sẽ thật sự làm rung chuyển thế giới. Nhưng rung chuyển đến mức nào và sẽ bị rung chuyển ngược ra sao lại là chuyện khác.


Đặc điểm chung của các lãnh đạo cộng sản độc tài là “nói một đàng làm một nẻo” và kiên quyết phủ nhận những sự thật hiển nhiên. Tập Cận Bình còn hơn cả những người tiền nhiệm ở chỗ không giấu diếm thái độ tự tôn và ngang ngược về mặt đối ngoại dù vẫn luôn luôn dối trá. Đối với Tập, thế kỷ 21 phải là thế kỷ của Trung Quốc vĩ đại, và thời điểm 2014 rất thuận lợi để cho Tập khẳng định quyết tâm thực hiện “Giấc mơ Trung Quốc” khởi sự từ Việt Nam, đối tượng quan trọng nhất nhưng lại dễ dàng nhất. Tập Cận Bình không thể bỏ lỡ cơ hội này dù mới đây Tập đã trơ tráo quả quyết rằng “Trung quốc không có cái gien xâm lược.”


Tại sao Việt Nam?


Một người Việt Nam bình thường nào (và tất cả những học sinh miền Nam trước 1975) cũng biết rõ là từ các triều đại phong kiến hơn hai nghìn năm trước đến thời đại cộng sản ngày nay, các lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn tìm cách xâm chiếm đất nước và đồng hoá dân tộc Việt. Tất cả những quan hệ hoà bình, hữu nghị giữa hai nước đều chỉ là giả tạm và có lợi hơn cho Trung Quốc, tất cả mọi sự viện trợ to lớn của cộng sản Tàu cho cộng sản Việt trong cuộc chiến chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà đều là những điều kiện thuận lợi cho việc đẩy Việt Nam vào vòng lệ thuộc Trung Quốc sau chiến tranh. Ngoài ra, vì Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất, cộng sản Tàu còn có lợi ích đặc biệt là “đánh Mỹ cho đến người Việt cuối cùng”.


Trở lại với câu hỏi “Tại sao cộng sản Trung Quốc (CSTQ) lại chọn cộng sản Việt Nam (CSVN) là nạn nhân đầu tiên trong mưu toan làm chủ Biển Đông Nam Á, kiểm soát các nước ASEAN và đẩy Mỹ ra khỏi khu vực Châu Á-Thái Bình Dương?”, tôi thấy có chín lý do dưới góc nhìn của Bắc Kinh:


1. Việt Nam có vị trí chiến lược then chốt, gần nhất và thuận tiện nhất để Trung Quốc có thể sử dụng vào mục tiêu khẳng định quyền làm chủ Biển Đông Nam Á, khai thác tài nguyên biển và kiểm soát toàn thể các nước trong khu vực.


2. Từ sau bản mật ước Thành Đô năm 1990, Việt Nam đã gần như lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị. Việt Nam lại đang bị suy thoái về kinh tế và không có một đồng minh nào về chính trị và quân sự.


3. Cộng sản Việt Nam không thể rời bỏ chỗ dựa an toàn là Trung Quốc vì cần phải duy trì sự tồn tại của Đảng và chế độ với những đặc quyền đặc lợi quá lớn đã nắm giữ từ lâu trong khi phạm những tội ác quá nặng đối với nhân dân và đất nước.


4. Việt Nam khó khẳng định chủ quyền ở Hoàng Sa vì mắc kẹt với bức công hàm của TT Phạm Văn Đồng gửi TT Chu Ân Lai ngày 14/09/1958. Trên 50 năm qua, nhà nước Việt Nam né tránh vấn đề này nên có rất ít công trình nghiên cứu về pháp lý và lịch sử làm cơ sở tranh cãi so với số lượng nhiều gấp hàng chục lần của Trung Quốc.


5. Các nước ASEAN không đoàn kết và mỗi nước đều có nhiều lợi ích kinh tế riêng qua những quan hệ hợp tác song phương với Trung Quốc.


6. Hoa Kỳ đang phải đối phó với nhiều khó khăn ở trong nước và nhiều nơi trên thế giới nên chưa thể thật sự xoay trục sang Châu Á như mong muốn. Trung Quốc cần nắm lấy cơ hội trước khi Hoa Kỳ có thể cùng với Nhật xây dựng liên minh chiến lược với ASEAN.


7. Trung Quốc cũng có nhiều khó khăn nội bộ nhưng qua hành động thị oai với Việt Nam và xác định quyền khai thác tài nguyên trên biển Đông Nam Á, lãnh đạo Bắc Kinh có thể khích động chủ nghĩa dân tộc và gỉảm bớt sự bất mãn và chống đối của nhân dân.


8. Hoa Kỳ và Nhật Bản đang có những nỗ lực lôi cuốn Việt Nam ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc giữa lúc tinh thần yêu nước và khát vọng dân chủ của nhân dân Việt Nam đang lên cao, khuyến khích khuynh hướng thoát Trung trong các đảng viên CSVN và hậu thuẫn mạnh mẽ cho khuynh hướng cải cách trong nội bộ lãnh đạo.


9. Nguy hiểm nhất là triển vọng thắng thế của khối yêu nước và cải cách chính trị ở Việt Nam, trong và ngoài Đảng. Nếu Việt Nam thoát Trung và trở thành một nước dân chủ, chế độ độc tài cộng sản ở Trung Quốc sẽ lung lay và chắc chắn phải sụp đổ trong một tương lai không xa.


Chín lý do trên đây khiến lãnh đạo Bắc Kinh phải ra tay sớm, bất chấp luật lệ quốc tế, Công ước LHQ về Luật Biển, và bộ Quy tắc về Ứng xử giữa các bên ở Biển Đông Nam Á (gọi tắt là COC) mà Trung Quốc đã hứa sẽ ký kết với các nước ASEAN tiếp theo bản Tuyên bố về Ứng xử (DOC) đã được các bên ký từ năm 2002.


Riêng đối với Việt Nam, Trung Quốc đã thẳng tay xé bỏ hai bản thoả thuận do lãnh đạo hai bên ký kết năm 2011 và 2013, cam kết giải quyết hoà bình các vấn đề khó khăn giữa hai nước. Tệ hơn nữa, Bắc Kinh đã ba lần bác bỏ lời yêu cầu khẩn cấp của Hà Nội về một cuộc gặp gỡ tại Bắc Kinh để giải quyết hoà bình vụ giàn khoan HD-981. Châm ngôn “16 chữ” và “4 tốt” thể hiện tình đồng chí bền chặt giữa hai đảng anh em được ca tụng hơn 20 năm bỗng nhiên bị quăng vào thùng rác. Hành động trở mặt tàn nhẫn và bất ngờ của Trung Quốc đối với Việt Nam chỉ có thể giải thích được bằng nguy cơ được nêu lên ở hai điểm số 8 và 9 trên đây.


Phản ứng phức tạp của Việt Nam


Nếu lãnh đạo Việt Nam đã phải bàng hoàng vì sự trở mặt trắng trợn của Bắc Kinh thì lãnh đạo Trung Quốc cũng bị bất ngờ trước khí thế yêu nước bùng dậy mãnh liệt từ phiá nhân dân Việt Nam, một dân tộc tưởng như đã bị chế độ cộng sản thuần hoá thành những con người khiếp nhược chỉ biết tuân lệnh vì đã được dạy dỗ rằng “chuyện gì cũng đã có Đảng và Nhà nước lo.”


Thật đáng tiếc là thế hệ lãnh đạo mới của Trung Quốc cậy mình quá giàu và quá mạnh nên không chịu tìm hiểu lịch sử và văn hoá Việt Nam để biết rằng truyền thống chống Trung Quốc xâm lược vốn nằm sẵn trong từng mạch máu, từng thớ thịt của dòng giống Việt từ ngày lập quốc. Bởi vậy, ngay trong hàng ngũ đảng viên CSVN, trừ một số đã nhiễm độc nặng vì địa vị và quyền lợi, những đảng viên yêu nước vẫn kiên quyết đấu tranh cho độc lập và chủ quyển của quê cha đất tổ. Họ cũng sáng suốt nhận ra những sai lầm tai hại của chủ nghĩa cộng sản nên đã dấn thân vào tiến trình chuyển hoá chế độ từ độc tài độc đảng sang dân chủ đa nguyên đa đảng. Nhưng dưới sự cai trị khắc nghiệt của chế độ toàn trị, trí thức và nhân dân không thể bày tỏ lòng yêu nước hay thái độ bất mãn đối với những hành động sai trái của chính quyền. Mọi hoạt động phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền hay đối xử tàn nhẫn với ngư dân Việt Nam đều bị nhà nước ngăn cấm và những người dám lên tiếng đều bị trù dập, bắt giữ và kết án nặng nề.


Nhưng sự chiụ đựng nào cũng có giới hạn và nhà cầm quyền cũng không thể che giấu mãi tội ác của Trung Quốc và thái độ hèn kém của mình. Rốt cuộc ngày phải đến đã đến. Ngày 1 tháng 5, 2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan khổng lồ HD-981 cùng hơn 80 tàu vũ trang và máy bay hộ tống vào khu vực Hoàng Sa, hạ đặt giàn khoan này ngay trên Thềm lục địa và trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam. Các tàu hộ tống giàn khoan đã tấn công các tàu công vụ và dân sự của Việt Nam gây hư hại nhiều tàu và một số người bị thương vong.


Hành động phi pháp và thái độ hống hách của cường quyền Bắc Kinh không chỉ làm bùng dậy lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam mà còn làm cho đám lãnh đạo thân Bắc Kinh phải lo sợ và đành lòng để cho nhân dân biểu tình chống Trung Quốc. Mặc dù cuộc biểu tình đầu tiên được phép ngày 11.5 đã diễn ra tốt đẹp vì nhân dân chỉ biểu dương lòng yêu nước chống quân xâm lược chứ không chống chính quyền, phe thân Trung Quốc đã tìm cách ngăn chặn cuộc biểu tình trong tuần kế tiếp mà họ biết chắc là số người xuống đường tham gia sẽ tăng lên gấp bội. Nhiều nguồn tin cho hay họ đã mướn côn đồ sách động công nhân biểu tình bạo động ở một số cơ xưởng do người ngoại quốc đầu tư, gây thiệt hại vật chất và thương tích cho một số người bị coi là dân Trung Quốc. Mượn cớ có bạo động, chính quyền đã có lý do chính đáng để ra lệnh cấm biểu tình dù ban tổ chức đã thông báo chủ trương bất bạo động. Điều này cho thấy nội bộ lãnh đạo Việt Nam vẫn còn chia rẽ nhưng phe cấp tiến đã bắt đầu tạo được hậu thuẫn của nhân dân yêu nước và khao khát dân chủ.


Tuy nhiên, tình hình mấy tuần qua đã trở nên phức tạp qua những phát biểu và cách hành xử lúng túng và mâu thuẫn của một số nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Việt Nam trước hành động xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc và những động thái phòng ngừa từ phía Mỹ và Nhật. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì không nói năng gì, chỉ một mực muốn sang Bắc Kinh cầu cứu Tập Cận Bình nhưng đã bị từ chối. Đại tướng Phùng Quang Thanh thì tại Hội nghị Shangri-La ngày 1 tháng Sáu đã có những lời phát biểu quá nhũn nhặn so với lời lẽ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mạnh mẽ kết án Trung Quốc tại hội nghị cao cấp ASEAN ngày 12 tháng 5, và trong cuộc gặp Tổng thống Philippines tại Manila một tuần sau đó. Gần đây nhất là quyết định (của Bộ Chính trị ?) trì hoãn chuyến đi Washington của Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh do lời mời của Ngoại trưởng John Kerry.


Chuyến đi thăm dò lãnh đạo Hà Nội của Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc Dương Khiết Trì ngày 18/6 lại cho thấy có ba sự kiện đáng chú ý:


1. Dù chưa có thông báo chính thức của Bộ Ngoại giao, các nguồn tin trong nước và ngoại quốc đều cho hay là cuộc đối thoại Dương Khiết Trì-Phạm Bình Minh bị bế tắc vì lập trường hai bên không thay đổi. Các thông tín viên của Reuters nhận xét không có treo cờ hai quốc gia bên ngoài toà nhà họp như thông lệ mỗi khi có khách quan trọng đến thăm và cũng không có tấm hình nào cho thấy hai bên với vẻ mặt tươi cười. Trang tin mang tên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng còn đăng một tấm hình cho thấy khi bắt tay nhau, Phạm Bình Minh nhìn thẳng vào mặt người đối diện trong khi Dương Khiết Trì thì nhìn xuống. Người viết blog nhận xét ông Minh có ánh mắt “rực lửa”.


2. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố hành động của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam, vi phạm những thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC); đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực; gây bất bình và làm tổn thương tình cảm của nhân dân Việt Nam, tác động tiêu cực đến quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước; yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam; cùng đàm phán giải quyết các tranh chấp bất đồng giữa hai nước bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế và nhận thức chung giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước… Việt Nam kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền của mình bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế.


3. Một sự kiện khác rất bất ngờ là quan điểm yêu nước vững chắc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong cuộc tiếp kiến Dương Khiết Trì. Bản tin VNTTX ngày 18/6 dẫn lời của ông Trọng: “Tổng Bí thư nhấn mạnh tính nghiêm trọng và tác động rất tiêu cực của việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) tại vùng biển của Việt Nam từ đầu tháng Năm đến nay đối với nhân dân Việt Nam, cục diện quan hệ Việt-Trung và tình hình khu vực. Tổng Bí thư khẳng định lập trường về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và trên Biển Đông là không thay đổi và không thể thay đổi; đề nghị khẩn trương trao đổi để có các giải pháp sớm ổn định tình hình… trên cơ sở các thỏa thuận giữa lãnh đạo cấp cao hai nước và luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về Luật biển 1982.”


Dù sao, thái độ lúng túng và mâu thuẫn của lãnh đạo Việt Nam vẫn tồn tại, cho thấy phe bảo thủ thân Trung Quốc, dù đã bị Bắc Kinh không thèm đếm xỉa tới nữa, vẫn không dám nghĩ đến việc thoát Trung vì ngoài Trung Quốc ra, họ không có một chỗ dựa nào khác. Có lẽ họ không còn chiếm đa số trong Bộ Chính trị nhưng họ đang tranh thủ lôi cuốn những người “do dự” mà phe yêu nước cấp tiến cũng đang cố gắng thuyết phục. Dù khinh miệt đám tay chân ở Hà Nội, lãnh đạo Bắc Kinh không bỏ qua cơ hội làm suy yếu phe cấp tiến đang gia tăng hợp tác với Mỹ. Chắc chắn đàng sau những cuộc vận động thành phần còn do dự đều có bóng dáng của Đại sứ Trung Quốc Hồng Tiểu Dũng và các thuộc viên. Mặc dù mục tiêu cuối cùng của các phe đang chống đối nhau trong Đảng CSVN là chiếm được ưu thế trong Đại hội 12 sẽ diễn ra năm 2016, Đảng và Nhà nước vẫn phải có những quyết định liên quan đến chính sách đối nội và đối ngoại từ nay cho đến ngày Đại hội. Liệu có thay đổi gì không? Chúng ta có thể ngờ rằng tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” và “nói một đàng, làm một nẻo” sẽ tiếp tục được duy trì như một đồng thuận không chính thức trong nội bộ lãnh đạo. Trong khi đó, bọn bá quyền Bắc Kinh vẫn tiếp tục vừa đánh lừa dư luận vừa lấn tới, từng bước một, nhưng mau hơn trước.


Liệu sự thống nhất bất ngờ giữa hai ông Tổng Bí thư và Thủ tướng về lập trường đối với Trung Quốc qua vụ giàn khoan HD-981 có làm cho những lãnh đạo thân Tàu trong Bộ Chính trị cũng sẽ bớt cản đường trên con đường thoát Trung?


Tổng lực dân tộc và những hành động đột phá


Những nhận định ở phần đầu bài này đã cho thấy năm 2014 là thời điểm thuận lợi nhất cho Trung Quốc tiến hành kế hoạch thống lĩnh Biển Đông Nam Á và trục xuất Hoa Kỳ khỏi khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Trong hai mươi năm qua, CSVN đã bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội thoát Trung và cải cách chính trị để đất nước có thể phát triển không thua kém Đại Hàn, Đài Loan hay Singapore. Trước sự trở mặt thình lình của Bắc Kinh, Đảng và Nhà nước Việt Nam không kịp chuẩn bị cho việc bảo vệ chủ quyền trên biển để từ đó sẽ mất luôn khả năng bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền của đất nước. Trước tình thế gần như tuyệt vọng đó, Việt Nam chỉ có hi vọng được cứu thoát nếu có một tổng lực dân tộc do sự kết hợp của cả ba thành phần : chính quyền, nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Nhưng tổng lực dân tộc này chỉ có thể thành tựu nếu mỗi thành phần đều có những hành động đột phá hướng về hai mục tiêu chung: bảo vệ tổ quốc và thực thi dân chủ.


1. Chính quyền


Đây là thành phần chủ yếu vì đang nắm quyền quyết định vận mệnh dân tộc về mặt đối ngoại, nhưng cũng là thành phần suy nhược, nội bộ chia rẽ và không được nhân dân tin cậy. Ai cũng đã thấy rõ là lãnh đạo Đảng và Nhà nước đang chia làm hai: một phe do Nguyễn Phú Trọng cầm đầu hoàn toàn dựa vào Trung Quốc (thân Tàu) để bảo vệ chế độ độc tài và quyền lợi nhóm, và một phe do Nguyễn Tấn Dũng lãnh đạo chủ trương phải thoát Trung và chuyển hoá thể chế từ độc tài sang dân chủ (thân Mỹ). Trước nguy cơ mất nước, dù có nghi ngờ cả hai phe “vì họ đều là cộng sản”, nhân dân trong nước và cộng đồng hải ngoại vẫn không có lựa chọn nào khác hơn là chống phe thân Tàu và ủng hộ phe thân Mỹ. Nhưng để có thể được toàn dân hậu thuẫn và tạo thành tổng lực dân tộc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lần này phải thật sự chứng tỏ lời nói đi đôi với việc làm. Những lời chỉ trích Trung Quốc cũa ông Dũng từ hơn một năm nay đã trở nên mạnh mẽ đến mức độ dứt khoát và những phát biểu của ông trong thông điệp đầu năm 2014 gửi nhân dân trong nước đã bộc lộ rõ rệt ý muốn “đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân”, nhưng có thể ông đã không thi hành được ý muốn vì lực cản của đám bảo thủ thân Tàu còn quá mạnh. Tuy nhiên, nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chọn thái độ dứt khoát và ở trong một tình thế không thể lùi được nữa thì ông phải có ngay một số hành động đột phá, chẳng hạn:


a. Thành lập ngay một Hội đồng Tư vấn về quan hệ Việt-Trung gồm các trí thức và chuyên gia độc lập trong và ngoài nước. Hội đồng này sẽ làm việc với những Ban Đặc nhiệm (Task Force) về lịch sử, pháp lý, và quan hệ quốc tế của chính phủ để đề xuất những chính sách và biện pháp đối phó với những luận điệu xuyên tạc, thủ đoạn hãm hại và hành động uy hiếp của Trung Quốc. Các thành viên trong hội đồng tư vấn và ban đặc nhiệm sẽ thường xuyên tham khảo với các học giả và chiến lược gia quốc tế có thiện cảm với Việt Nam và chống chính sách bành trướng của Trung Quốc (như Carl Thayer, Jonathan London, Ernest Bower, David Brown). Một hồ sơ tội ác và thủ đoạn nham hiểm của Trung Quốc đối với Việt Nam cần được thiết lập để sẵn sàng có bằng chứng tố cáo trước dư luận quốc tế.


b. Gửi một văn thư kêu gọi lãnh đạo các cấp trung ương và địa phương thức tỉnh trước thái độ tráo trở ngạo mạn của Bắc Kinh, xé bỏ các hiệp ước hoà bình hữu nghị giữa hai nước và quyết tâm biến Việt Nam thành một nước chư hầu. Văn thư cũng kêu gọi toàn thể các đảng viên đang hoạt động hay đã hồi hưu, đặc biệt trong quân đội và công an, hãy thực thi truyền thống oai hùng bảo vệ tổ quốc và nhân dân chống quân xâm lược, và sau hết kêu gọi toàn dân đoàn kết để hợp thành sức mạnh dân tộc cứu nguy đất nước. Thế giới văn minh ở thế kỷ 21 sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam vì không một quốc gia nào chịu sự lãnh đạo của một nước cộng sản độc tài như Trung Quốc. Đây có thể là một bản “hịch” lịch sử.


c. Thực hiện tiến trình dân chủ hoá bằng việc ban hành các quyền tự do cơ bản của con người như tự do báo chí, tự do lập hội, tự do tôn giáo…, thả hết những tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm bị bắt giữ vì bất đồng chính kiến, đền bù công bằng cho những dân oan bị cưỡng chế đất đai, những công nhân bị bóc lột và đối xử tàn tệ. Về mặt thể chế thì bãi bỏ ngay điều 4 Hiến pháp và thành lập hội đồng lập hiến để soạn thảo một bản Hiến pháp mới trên cơ sở tam quyền phân lập, một quốc hội thực sự do dân bầu và một cơ chế chính trị đa nguyên đa đảng.


Những bước đột phá này nếu được thi hành chắc chắn sẽ được toàn dân nhiệt liệt hoan nghênh, mọi thế lực phản động bán nước và quan thày Bắc Kinh sẽ phải chùn bước, và thế giới dân chủ, văn minh sẽ mở rộng vòng tay đón nhận và giúp đỡ Việt Nam phát triển. Chỉ trong một vài thập kỷ, Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia giàu mạnh trong khu vực.


2. Nhân dân trong nước 


Thành phần này tuy không có thực quyền và đã bị áp chế lâu ngày đã bỗng nhỉên bừng tỉnh vì hành động ức hiếp quá đáng của Trung Quốc, đồng thời cũng vì sức chịu đựng chế độ độc tài tham nhũng đã lên đến mức căng thẳng nhất. Trong thời gian chưa đầy một năm, sau những kiến nghị và thư ngỏ đầy thiện chí của nhân sĩ trí thức bị chính quyền vứt bỏ, các nhóm công dân đã liên tiếp theo nhau ra đời không cần xin phép – nay đã lên tới gần ba chục tổ chức – tất cả đều tranh đấu bất bạo động cho nhân quyền và dân chủ. Một xã hội dân sự đã thật sự thành hình mặc dù vẫn thường xuyên bị hạn chế, đe doạ và một số đã bị bắt giữ. Bất chấp lực lượng an ninh, những hoạt động của xã hội dân sự vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thức: diễn đàn điện tử, báo mạng, toạ đàm và hội thảo có chủ đề, thư yêu cầu chính phủ kiện Trung Quốc, thư kêu gọi toàn thể các đảng viên đứng chung với nhân dân, trực tiếp vận động và hội họp với các tổ chức quốc tế và các cơ quan đại diện chính phủ nước ngoài ở Việt Nam, thậm chí đã có thể trực tiếp vận động với Quốc hội và Bộ Ngoại giao ở Hoa Kỳ, Lỉên minh Châu Âu và Hôi đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, kể cả đích thân tham gia những cuộc hội thảo của người Việt ở nước ngoài hoặc trao đổi qua màn hình trực tuyến, v.v.


Dù sao, những tổ chức công dân tự phát ở Việt Nam còn quá mới và quá nhỏ. Thực tế là không có một sự thay đổi chính quyền hay thể chế nào có thể diễn ra mà không do sự tranh đấu của một tổ chức quần chúng lớn mạnh như Công đoàn Đoàn kết (Solidarnosc) ở Ba Lan hay một đảng chính trị đối lập có uy tín như Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) ở Myanmar. Việt Nam vì bị cộng sản kìm kẹp quá lâu đã không có được những tổ chức công dân hay đảng phái đối lập và những lãnh tụ nổi bật như Lech Walesa hay Aun Sang Suu Kyi. Vì vậy cần phải có sự xuất hiện của ít nhất một tổ chức đủ lớn và đủ khả năng lãnh đạo quần chúng tranh đấu cho lợi ích của quốc gia. Ba tháng trước đây, tác giả Nguyễn Vũ Bình có một bài viết rất đáng chú ý về sự lớn mạnh của Phong trào Dân chủ trong mấy năm qua nhưng vẫn chỉ là “dấu hiệu cho một sự chuyển đổi cơ bản và toàn diện.”


Trong khi chờ đợi và trước nhu cầu cấp bách của tình thế, các tổ chức công dân riêng rẽ hiện nay cần phải kết hợp với nhau thành một liên minh bình đẳng để phối trí các hoạt động có mục tiêu chung và hỗ trợ lẫn nhau. Như tôi đã đề nghị sơ khởi trong bài “Khúc ngoặt lịch sử” (boxitvn, ngày 14/5/2014): “Các nhóm trong Liên minh này đều độc lập và bình đẳng, hợp tác với nhau trên cơ sở mẫu số chung, đại đồng tiểu dị. Đại diện các nhóm sẽ bầu ra một Hội đồng Điều hành của Liên minh theo lề lối dân chủ, căn cứ trên những điều kiện thích hợp, như hiểu biết, kinh nghiệm, khả năng tổ chức, giao thiệp, v.v. Cũng cần có một bản nội quy ấn định rõ sứ mệnh và cấu trúc của Liên minh, vai trò và trách nhiệm của các nhóm thành viên, nhất là thể thức làm việc cho có hiệu quả và ngăn ngừa được sự lạm dụng quyền lực của một cá nhân hay phe nhóm nào… Như vậy dân tộc mới có đủ sức mạnh bảo vệ độc lập và chủ quyền đất nước đồng thời hậu thuẫn cho sự chuyển đổi thể chế từ độc tài toàn trị sang dân chủ đa nguyên đa đảng một cách trật tự, ôn hoà.” Đây chỉ là sự gợi ý để cho các nhà lãnh đạo xã hội dân sự ở trong nước xem xét và tìm cách thực hiện thích hợp.


Ngày 5 tháng 6 vừa qua, đã có 16 tổ chức xã hội dân sự và tôn giáo lần đầu tiên ngồi lại với nhau tại chùa Liên Trì ở Saigon để thảo luận về sự phát triển XHDS, đòi hỏi chính quyền thực thi những quyền tự do căn bản, và nhấn mạnh vào quyền thành lập công đoàn độc lập. Bốn ngày sau, Liên đoàn Lao động Việt Tự do, gọi tắt là Lao Động Việt (LĐV) ra tuyên cáo xác nhận tham gia cộng đồng xã hội dân sự ở Việt Nam để bảo vệ những quyền lợi chính đáng của người lao động. Đó là những bước đầu tích cực tiến đến sự ra đời của một loại hình chính thức liên kết các tổ chức dân sự, có lãnh đạo và sinh hoạt dân chủ. Điều đáng lo ngại là giữa các tổ chức vẫn có thể có những trở ngại cho sự phối trí và hợp tác, và điều đó, nếu tồn tại, sẽ là một đại bất hạnh cho dân tộc. Mong rằng các nhà lãnh đạo xã hội dân sự ở trong nước có đủ sự sáng suốt, tinh thần trách nhiệm và ý chí vượt qua mọi trở lực để tạo được sức mạnh toàn dân, điều kiện cần thiết để gìn giữ đất nước, thực hiện tiến trình dân chủ và phát triển.


Vai trò của trí thức đặc biệt quan trọng trong việc đối thoại với chính quyền, vận động các đại sứ quán và cơ quan quốc tế (gồm cả giới truyền thông) có đại diện ở Việt Nam, giúp thành lập Liên minh các tổ chức XHDS và giúp thảo kế hoạch và chương trình hoạt động của liên minh nhằm  đẩy mạnh những cải cách về chính trị, kinh tế, giáo dục và xã hội. Trí thức cấp tiến trong hay ngoài Đảng cũng sẽ rất đắc lực trong việc cung cấp thông tin, vận động trí thức và nhân dân Trung Quốc nhận ra chính sách sai lầm và tham vọng lỗi thời của các lãnh đạo Đảng CS đe dọa hoà bình và ổn định trong khu vực, nhất là phá hoại tình thân thiết tự lâu đời giữa hai dân tộc.


Nỗ lực đoàn kết, hợp tác trong tinh thần dân chủ để phục vụ lợi ích chung, bảo đảm lâu dài nền độc lập, toàn vẹn chủ quyền và phát triển bền vững cho đất nước, đó là bước đột phá cần thiết của trí thức và nhân dân trong nước, tự giải thoát ra khỏi mọi áp bức của chế độ cộng sản độc tài, mọi thành kiến nghi kỵ, và giành lại đầy đủ quyền công dân của một nước văn minh, dân chủ.


3. Cộng đồng người Việt hải ngoại 


Kiều dân hay công dân ngoại quốc gốc Việt đều được kể là thành phần của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nói gọn là người Việt hải ngoại. Dù ở xa quê hương hay sinh trưởng ở nước ngoài, hầu hết đều vẫn gắn bó tình cảm với nguồn gốc của mình ở những mức độ khác nhau. Tổng số người Việt hải ngoại tính đến nay khoảng trên 4  triệu người, riêng ở Hoa Kỳ có khoảng 2 triệu. Bài này không đi vào chi tiết về lịch sử và đời sống của người Việt hải ngoại mà chỉ tập trung vào vai trò cần thiết và thích hợp của cộng đồng này, đặc biệt là ở Mỹ, đối với tình hình chính trị ở Việt Nam và các quan hệ Việt-Mỹ-Trung.


Nói chung, quan điểm chính trị của Việt kiều ở Nga và các nước Đông Âu trước đây đối với Việt Nam khác xa nếu không muốn nói là đối nghịch với khối người Việt tị nạn ở những nước không cộng sản từ 1975 cho đến khi chế độ cộng sản ở các nước Đông Âu theo nhau sụp đổ trong năm 1989. Kể từ đó, quan điểm của những Việt kiều ở những nước cựu cộng sản đã bắt đầu thay đổi và cùng với các cơ hội giao lưu gia tăng từ đó đến nay, những suy nghĩ về tình hình đất nước và nhu cầu dân chủ hoá chế độ đã gần như đồng nhất trong đại khối người Việt hải ngoại.


Từ năm 2010, tôi đã nêu vấn đề hiểm hoạ Trung Quốc và đề cập vai trò của người Việt hải ngoại trong hai bài viết, “Người Việt hải ngoại làm được gì trước hiểm hoạ Trung Quốc” (talawas, 01/03/2010) và “Trước hiểm họa Trung Quốc: Kế hoạch hành động của người Việt hải ngoại” (talawas, 02/07/2010). Như vậy đây là lần thứ ba tôi trở lại vấn đề này nhưng có những nhận định phù hợp với những biến chuyển mới của tình hình, đặc biệt khai triển thêm hai phần về vai trò và những bước đột phá cần thiết của chính quyền cũng như của xã hội dân sự. Vì kế hoạch hành động của người Việt ở nước ngoài đã được trình bày khá đầy đủ trong bài viết ngày 02/07/2010 nên ở đây tôi chỉ nhấn mạnh những điểm chính, nhất là vai trò hỗ trợ của cộng đồng hải ngoại, một quan điểm đã được nhắc đến trong bài viết ngày 01/03/2010 nêu trên và xác nhận rõ hơn trong bài “Thư gửi bạn bè trong nước…” (boxitvn, 05/03/2013) rằng “việc thay đổi tình hình chính trị ở Việt Nam là việc làm của người trong nước, còn người ở bên ngoài chỉ có thể đóng vai trò hỗ trợ.”


Những điểm chính được tóm tắt (với đôi chút cập nhật) là:


* Trước hiểm họa Trung Quốc và tình thế cấp bách hiện thời, cần ủng hộ những lãnh đạo thật lòng bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam. Nếu ngày nay, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không những chỉ khẳng định quyết tâm ấy mà còn chủ trương dân chủ hoá chế độ thì người Việt hải ngoại càng cần phải hợp tác với các tổ chức xã hội dân sự trong nước hậu thuẫn cho ông Dũng đánh bại phe thân Tàu độc tài toàn trị. Một khi đã thoát Trung và thể chế dân chủ đã có cơ sở thì những tội lỗi và sai lầm cuả chế độ cộng sản sẽ được xử lý một cách công bằng, nhân đạo.


* Trí thức và chuyên gia hải ngoại sẽ cùng với các trí thức chuyên gia yêu nước và cấp tiến ở trong nước đóng góp vào việc giúp chính quyền giải quyết các vấn đề khó khăn về đối nội và đối ngoại, thiết lập các dự án cải cách để có thể ổn định được tình hình chính trị, kinh tế và xã hội, giúp đất nước mau chóng trở thành một quốc gia dân chủ và phát triển. Trong nhiều năm qua, trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo, sinh viên và các giới trong và ngoài nước đã có nhiều cơ hội giao lưu, hợp tác, tạo thành một nguồn nhân lực và tài nguyên quan trọng với tiềm năng rất phong phú, sẵn sàng được huy động và sử dụng khi có cơ hội và điều kiện thuận lợi. Các tổ chức phi chính phủ từ bên ngoài với những chương trình y tế, giáo dục và nhân đạo cũng đã tạo được nhiều hạt giống cho sự nảy sinh và phát triển xã hội dân sự.


* Cộng đồng người Việt hải ngoại có nhiều điều kiện hơn người trong nước trong việc tiếp cận các cơ quan chính quyền, quốc hội, các đại sứ quán và tổ chức quốc tế để vận động cho các chính sách có lợi cho Việt Nam trong việc đối phó với Trung Quốc và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, xã hội theo chiều hướng dân chủ. Các học giả người Việt ở nước ngoài cũng có nhiều dịp tham gia hội họp và hợp tác với các viện nghiên cứu về Việt Nam, các tổ chức tranh đấu cho quyền con người, các hiệp hội công dân gốc Châu Á-Thái Bình Dương để cùng vận động cho các chương trình, các giải pháp đem lại hoà bình, hợp tác, và phát triển cho các nước trong khu vực.


Việc phân định vai trò của chính phủ, nhân dân và cộng đồng hải ngoại như trên không nhất thiết chỉ thuộc về mỗi thành phần vì trên thực tế có nhiều việc nếu làm chung thì sẽ có hiệu quả hơn. Vấn đề chính là chính phủ – ở đây là chính phủ Nguyễn Tấn Dũng – có đủ quyết tâm thoát ra khỏi quỹ đạo Trung Quốc và thực thi dân chủ hay không. Tôi biết có nhiều nhân sĩ, trí thức ở trong nước trước đây chống ông nay sẵn sàng giúp ông thay đổi tình thế vì sự tồn vong của đất nước. Đây là một nhiệm vụ lịch sử với muôn vàn khó khăn trước mắt. Trong bài “Việt Nam sẽ ra sao sau bài diễn văn Shangri-La” (boxitvn, 19/06/2013), tôi kết luận bằng một lời cầu nguyện: “Cầu Trời khấn Phật cho ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành một Gorbachev Việt Nam”. Nhưng như ngạn ngữ Tây phương đã nói “Hãy tự giúp mình trước thì Trời sẽ giúp ta”, nếu ông Dũng tự giúp ông làm nhiệm vụ lịch sử thì ngoài sự phù hộ của Trời, ông còn có hậu thuẫn của hơn 90 triệu người Việt Nam ở trong và ngoài nước, cộng với sự hỗ trợ tận tình của bạn bè quốc tế. Nếu chẳng may vì lý do nào đó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thất bại, hay quay lưng lại với nhân dân, thì tình huống đó sẽ được Trời và nhân dân xử lý.


Carpe diem! Hãy nắm lấy thời cơ đang có trong tầm tay. Vì đó cũng là cơ hội cuối cùng.


California, 19 tháng Sáu 2014


__________


Tác giả Lê Xuân Khoa nguyên là Chủ tịchTrung tâm Tác vụ Đông Nam Á (SEARAC) và Giáo sư thỉnh giảng Đại học Johns Hopkins, USA.


© 2014 Lê Xuân Khoa & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 19, 2014 12:08

Năm nhận định về quan hệ Việt-Trung (2)

Từ Linh


Xem kì 1 và toàn bài trong bản PDF


IV. CHỈ CÒN LẠI DÂN?


Trong khi Mỹ đang tạm “nghỉ giữa hiệp”, Putin lồng lộn ở trên kia, Tập làm mưa làm gió phía dưới này, Đảng “ta” thì nhóm lãnh đạo hầu hết vẫn ở cung cấm như những nàng hầu, xinh nhưng ngu, chỉ biết ngoan ngoãn chờ Tàu chỉ bảo, thì câu hỏi đặt ra là đất nước này đang nằm trong tay ai? Còn ai lo cho đất nước này?


Câu trả lời thật rõ: Chỉ còn dân. Và dân là tất cả những ai còn nghĩ mình là dân nước Việt, những người tự do, không sợ hãi, không bị giặc ngoại xâm trói tay bịt miệng, biết đau xót vì đất nước thiêng liêng bị xâm phạm, và sẵn sàng chết chứ không chịu làm nô lệ.


Hai tiền lệ


Thực ra, tình trạng nhà cầm quyền nhu nhược trước ngoại xâm, lo giữ ghế hơn lo giữ nước, lo chống dân hơn chống giặc đã có tiền lệ.


Chẳng cần tìm đâu xa, có hai tiền lệ đã từng diễn ra ở Trung Quốc, cách đây trên dưới 100 năm. Đó là Cách mạng Tân Hợi 1911, khi dân chúng đứng dậy lật đổ nhà Thanh vừa trì trệ bảo thủ vừa để ngoại bang lấn lướt đến ô nhục. Và đó là phong trào Ngũ Tứ Vận động năm 1919, khi quần chúng đứng dậy chống Hiệp ước Versailles nhục nhã ép chính quyền cắt đất cho ngoại bang.


Cả hai biến cố đều có điểm chung, đó là: đứng trước nguy cơ mất nước, mất đất, thay vì chuyển đổi quyết liệt để cùng dân đối đầu hiệu quả với giặc thì chính quyền lại nhu nhược, sẵn sàng chịu nhục và đàn áp dân để giữ quyền lực. Và trong cả hai tình thế, quần chúng đều không ngồi im. Họ đứng dậy. Họ lật đổ nhà Thanh (1911), hoặc khiến chính quyền Dân Quốc hủy bỏ Hiệp ước ô nhục (1919).


Tiền lệ thứ nhất: Cách mạng Tân Hợi 1911


Xin tóm tắt đôi nét về Cách mạng Tân Hợi như sau:[i]


Sau thất bại nhục nhã trong Chiến tranh Nha phiến (1840-1842; 1857-1860), và Chiến tranh Thanh-Nhật (1894-1895), nhiều sĩ phu muốn theo gương Nhật Bản cải cách triệt để kinh tế và chính trị. Nổi bật là Khang Hữu Vy và Lương Khải Siêu. Họ phò vua Quang Tự duy tân, nhưng bị Từ Hy Thái hậu thủ cựu trấn áp. Sau Chính biến Mậu Tuất (1898), Từ Hy giết hại nhóm duy tân, Khang, Lương phải trốn sang Nhật. Nhưng càng đàn áp thì cách mạng càng phát triển. Đến khi liên quân tám nước kéo vào Bắc Kinh (1900) Thanh triều phải ký một hiệp ước nhượng bộ nhục nhã thì dân chúng phẫn uất, đòi thay đổi thể chế, phế bỏ nhà Thanh.


Lúc bấy giờ có Tôn Trung Sơn, một bác sĩ, theo Thiên Chúa giáo, có thời học ở Hawaii, chủ trương cách mạng. Ông tin rằng phải lật đổ nhà Thanh mới cứu được Trung Quốc. Năm 1898 ông lập Trung hưng Hội ở Mỹ, hình thành chủ nghĩa Tam dân: dân tộc (chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc…), dân quyền (tước quyền Thanh triều trao lại cho dân, dân có quyền tuyển cử, bãi nhiệm quan chức, quyền làm luật và phúc quyết…), dân sinh (chăm sóc bốn phúc lợi cho dân là ăn, mặc, ở, đi, nông dân có ruộng đất…). Sau Hiệp ước Bắc Kinh 1900, dân chán ghét Thanh triều, gia nhập hội càng đông. Lý tưởng của Tôn được đông đảo Hoa kiều hải ngoại ủng hộ và góp tiền giúp đỡ. Năm 1905, hai đảng khác gia nhập, Tôn đổi tên hội thành Đồng minh Hội, tiền thân của Quốc dân Đảng.


Từ 1905 đến 1911, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở các tỉnh thành như: 1905: Giang Tây, Hồ Nam; 1907: Khâm Châu, Liêm Châu, Thượng Tư (nay thuộc tỉnh Quảng Tây); 1908: Vân Nam, Quảng Đông; tháng 4/1911: Một cuộc khởi nghĩa lớn xảy ra. 500 cảm tử quân tấn công vào dinh Tổng đốc Quảng Châu, vì chuẩn bị chưa kỹ, khởi nghĩa không thành, 72 liệt sĩ hy sinh, được chôn ở Hoàng Hoa Cương (Phạm Hồng Thái sau này cũng được chôn ở đây).


Xin được trích đoạn sau đây viết về Cách mạng Tân Hợi để bạn đọc tiện theo dõi. Đoạn này liên quan đến một vụ việc đáng chú ý, tình trạng không khác ngày nay ở Việt Nam bao nhiêu:


“Cũng trong thời gian này, việc Thanh đình trao quyền kinh doanh đường sắt Việt-Hán và Xuyên Hán cho Mỹ đã gây thêm một làn sóng căm phẫn trong nhân dân Trung Quốc. Khắp nơi nổi lên phong trào đòi tẩy chay hàng Mỹ, đòi chính phủ xóa bỏ điều ước đã ký với Mỹ. Thấy người dân chống đối quá, Mỹ đồng ý xóa điều ước với điều kiện Thanh đình phải bồi thường 6.750.000 đô-la. Vừa sợ đế quốc, vừa sợ nhân dân, Thanh đình sai Tổng đốc Lưỡng Hồ là Trương Chi Động vay tiền của Anh để bồi thường cho Mỹ.


Đến ngày 9/5/1911, Thanh đình ra sắc lệnh Quốc hữu hóa đường sắt nhưng thực chất là trao quyền kinh doanh cho bốn nước là Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Lập tức, lần lượt ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Châu,Tứ Xuyên… nhân dân nổi lên chống đối vì họ cho rằng Thanh đình đã bán rẻ quyền lợi dân tộc. Thanh đình bèn ra lệnh trấn áp phong trào quyết liệt, cấm báo chí đưa tin, cấm bãi thị, bãi khóa, diễn thuyết và cho giải tán các hội đồng bảo vệ đường sắt… Tuy nhiên, bất chấp lệnh trên, bất chấp cả những lời lẽ can ngăn của phái lập hiến, phong trào chống đối vẫn lên cao, nhất là ở Tứ Xuyên.


Ngày 7/9/1911, Tổng đốc Tứ Xuyên là Triệu Nhĩ Phong phái người đến mời các thủ lĩnh trong hội bảo vệ đường sắt đến dinh thương lượng, nhưng sau đó cho lính bắt tất cả. Thấy điều bạo ngược, hàng vạn người dân Thành Đô (tỉnh lỵ của tỉnh Tứ Xuyên) kéo đến dinh Tổng đốc đòi thả người, nhưng bị Triệu Nhữ Phong ra lệnh nổ súng làm chết 32 người và làm bị thương nhiều người khác. Căm phẫn tột độ, phong trào bãi khóa, bãi thị lan rộng ra toàn tỉnh Tứ Xuyên, về sau phát triển mạnh thành cuộc khởi nghĩa Thành Đô, buộc Thanh đình phải đem quân từ Hồ Bắc về trấn áp.”[ii]


Đến ngày song thập (10/10/1911) cách mạng nổ ra và thành công ở Vũ Xương, gọi là Cách mạng Tân Hợi. Xin trích đoạn mô tả sau đây của học giả Nguyễn Hiến Lê:


“Dân quân được quân đội tân thức giúp sức, chiếm Vũ Xương. Lần lượt các tỉnh Hồ Nam, An Huy, Quí Châu, Giang Tô, Chiết Giang, Quảng Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông tuyên bố độc lập, hường ứng với dân quân. Đảng bèn tổ chức liên quân hai tỉnh Giang-Chiết để đánh Nam Kinh. Các tỉnh độc lập đều phái đại biểu đến Vũ Xương hội nghị để lập một chính hủ lâm thời tại Nam Kinh. Tôn Văn được bầu làm Lâm thời Đại Tổng thống…”[iii]


Tiền lệ thứ hai: Ngũ Tứ Vận động 1919


Để biết tóm lược về nguyên nhân xảy ra, phản ứng của quần chúng, phản ứng của chính quyền và kết quả của Phong trào Ngũ tứ 1919,  xin trích đoạn dưới đây để bạn đọc tham khảo. Nhiều điều gợi đến tình hình Việt Nam bây giờ.


“Sau khi Đệ nhất Thế chiến kết thúc, các nước thắng trận đã ký kết bản Hiệp ước Versailles, trong đó có điều khoản chuyển giao chủ quyền tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) từ tay Đức sang cho Nhật Bản.


Các tầng lớp nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là học sinh sinh viên đã đứng lên đấu tranh chống lại quyết định này. Phong trào lan rộng, chuyển mũi nhọn đấu tranh từ chống lại Hiệp ước Versailles sang chống lại chính phủ Trung Hoa Dân quốc lúc bấy giờ.


Ngày 4 tháng 5 năm 1919, hơn 3000 học sinh sinh viên của 13 trường đại học Bắc Kinh đã tập hợp trước quảng trường Thiên An Môn, tiến hành biểu tình thị uy trên các đường phố Bắc Kinh để chống lại Hiệp ước Versailles, với các khẩu hiệu như:



Ngoại tranh quốc quyền, nội trừng quốc tặc (ngoài: giành lại chủ quyền đất nước, trong: trừng trị bọn bán nước);
Trung Quốc là của người Trung Quốc;
Phế bỏ Hiệp ước 21 điều (quy định quyền lợi của các nước phương Tây tại Trung Quốc);
Thề chết giành lại Thanh Đảo.

Yêu sách của những người biểu tình là đòi xử tội ba nhân vật thân Nhật trong chính phủ Trung Hoa Dân quốc lúc bấy giờ:



Tào Nhữ Lâm (曹汝霖): Tổng trưởng Giao thông, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao cá»§a chính phá»§ Viên Thế Khải, người trá»±c tiếp ký kết “Hiệp ước 21 điều”;
Lục Tông Dư (陆宗舆): Tổng giám đốc Ngân hàng, nguyên công sứ Trung Quốc tại Nhật Bản, người đã ký vay nợ Nhật Bản;
Chương Tông Tường (章宗祥).

Bản Tuyên ngôn của học sinh sinh viên đã nêu lên mục đích của phong trào:



Đất đai Trung Quốc có thể bị chinh phục chứ không thể bị cắt cho. Nhân dân Trung Quốc có thể bị giết chứ không thể cúi đầu. Nước đã mất rồi! Đồng bào hãy vùng lên!

Hưởng ứng lời kêu gọi cá»§a học sinh sinh viên Bắc Kinh, học sinh sinh viên các thành phố khác như Thiên Tân, Thượng Hải, Nam Kinh, VÅ© Hán, Tế Nam, Trường Sa, Trùng Khánh, Quảng Châu… đều tổ chức mít tinh và biểu tình thị uy với quy mô lớn. Chính phá»§ Trung Hoa Dân quốc đã phái quân đội, cảnh sát đến đàn áp, ra lệnh cách chức hiệu trưởng trường Đại học Bắc Kinh Sái Nguyên Bồi, đuổi học và bắt giữ hÆ¡n 1000 học sinh sinh viên.


Đến ngày 19 tháng 5 năm 1919, học sinh sinh viên bắt đầu tổng bãi khoá. Ngày 3 tháng 6 năm 1919, công nhân, thương nhân, học sinh sinh viên cùng đông đảo các tầng lớp nhân dân Thượng Hải đã tiến hành tổng bãi công, bãi thị, bãi khoá để ủng hộ phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên Bắc Kinh. Quân đội, cảnh sát ra sức đàn áp nhưng cuối cùng cũng bất lực trước làn sóng xuống đường của các tầng lớp nhân dân.


Phong trào NgÅ© Tứ đã lan rộng khắp 22 tỉnh và 150 thành phố ở Trung Quốc, trong đó nổi lên mạnh nhất ở Thiên Tân, Nam Kinh, Hàng Châu, VÅ© Hán… lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia như học sinh, sinh viên, công nhân, thương nhân, thị dân, trí thức…


Cuối cùng, chính phủ Trung Hoa Dân quốc buộc phải trả tự do cho tất cả những người bị bắt, cách chức Tào Nhữ Lâm, Lục Tông Dư, Chương Tông Tường, sau đó ra lệnh cho đoàn đại biểu Trung Quốc tại Pháp cự tuyệt ký vào Hiệp ước Versailles. Phong trào Ngũ Tứ coi như kết thúc thắng lợi.”[iv]


Có thể suy ra điều gì từ hai tiền lệ Cách mạng Tân Hợi và phong trào Ngũ Tứ? Có lẽ suy luận sau đây không quá xa:


Nếu những câu hỏi nhức nhối trên kia không phải là giả thuyết, mà là sá»± thá»±c, là thá»±c tại đau đớn cá»§a Việt Nam trong giai đoạn này – đất nước bị ngoại xâm, người dân bị làm nhục, nhà cầm quyền nhu nhược, có kẻ làm tay sai, chống dân hÆ¡n chống giặc – thì đây chính là lúc người dân không còn cách nào khác mà buộc phải đứng dậy. Và đây sẽ là cuộc đấu tranh: Ngoài chống giặc ngoại xâm, trong chống bọn bán nước, giành lại cho dân quyền lá»±c chính đáng cá»§a mình.


Điều này dẫn đến câu hỏi thứ năm.


5. HỌ ĐANG ĐẨY DÂN VÀO THẾ BẤT TUÂN DÂN SỰ?


Một tháng sau khi giàn khoan 981 xâm phạm, dù cả nước sôi sục việc chống Tàu, tuy cũng có ông nghị lên tiếng cảnh tỉnh đừng tin “mười sáu bốn”, nhưng vào ngày 30/5, báo chí Việt Nam đưa tin có đến 85% đại biểu Quốc hội bỏ phiếu thông qua “Nghị quyết về Chương trình Xây dựng Luật và Pháp lệnh năm 2015”, theo đó, Luật Biểu tình sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến vào kỳ họp thứ 9, và sẽ thông qua tại kỳ họp thứ 10, cuối năm 2015.


Tức là lại hứa hẹn lần nữa, sau khi đã lỡ hẹn bao nhiều lần trong bao nhiêu năm.


85% Quốc hội là ai?


Thực lòng là khi nghe Quốc hội bình thản làm công việc quen thuộc là “thông qua một cái gì đó về một cái gì đó cho một cái gì đó về một việc gì đó sẽ được đưa ra thảo luận gì đó trong… tương lai” ngay lúc đất nước lâm cảnh dầu sôi lửa bỏng, thì người dân không thể nào không “bại não” vì lùng bùng lỗ nhĩ.


Tóm lại, Quốc hội nói sẽ thông qua Luật Biểu tình vào cuối năm 2015 đúng không ạ? Quý hóa quá! Cứ cho là như vậy, nhưng ai đảm bảo việc này sẽ không bị hoãn lần nữa vào cuối năm 2015, nếu Quốc hội tiếp tục ngoan ngoãn nhìn lên để nghe trên phán xuống, thay vì nhìn xuống để nghe dân thấp cổ bé miệng từ dưới nói lên?


Sao lạ vậy, Quốc hội do dân bầu cơ mà?


Đúng là có “bầu”, nhưng trong những ngày này, thay vì “thoát Trung” thì 85% Quốc hội lại “thoát y”, hiện nguyên hình là tay chân hèn mọn của Đảng. Còn chuyện “Đảng cử dân bầu”, ai cũng biết đó chỉ là trò hề nhảm nhí, dân sợ nên Đảng buộc bầu là phải bầu, làm gì có bầu thực chất.


Phải chăng việc Quốc hội hoãn Luật Biểu tình đến cuối năm 2015 có nghĩa là trong năm 2014 và từ nay đến đó, dù Tàu xâm lược có lấn tới, có húc chìm tàu thuyền, có giết hại dân mình, thì Đảng, Chính phủ, Quốc hội vẫn sẽ không cho dân hành xử quyền hiến định là được xuống đường phản đối?


Xin lỗi, vậy thì xin hỏi: 85% Quốc hội là của ai? 85% Quốc hội đang chống Tàu xâm lược để giữ dân, giữ nước, hay 85% Quốc hội đang chống dân, giữ Đảng, ôm chân Tàu?


Ngược ngạo thay, trong khi lòng dân chất chứa bao nhiêu bức xúc muốn nói, muốn gào thét cho hả giận, cho kẻ xâm lược biết ý chí và quyết tâm của dân, thì nhà cầm quyền của đất nước đang bị xâm phạm trắng trợn lại dồn dân vào chân tường, không cho dân biểu thị tình cảm!


Không thể biện minh được, mà phải nói là họ đang tiếp tay cho giặc để dẹp yên dân chúng, khiến giặc càng hống hách và tha hồ hô hoán với thế giới rằng: Đó! dân Việt chúng nó có ai phản đối đâu mà thế giới cứ nhảy dựng lên như thế!?


Mahatma Gandhi từng nói nếu đứng trước một điều trái với lương tâm, và sau khi mọi kiến nghị đều chỉ như đàn gẩy tai trâu, thì người dân chỉ còn cách một là chống lại bằng bạo lực, hai là bất tuân dân sự và chấp nhận mọi khổ đau do bất tuân mang lại.


Có phải Đảng, Chính quyền và Quốc hội do Đảng giựt dây, cùng với cỗ máy truyền thông công cụ của Đảng, đang đẩy người dân vào thế bất tuân dân sự?


Dân không còn con đường nào khác


Làm gì bây giờ?


Làm gì ư? Thì im lặng! Như các ông Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và biết bao nhiêu ông bà khác vẫn đang im lặng, dù các ông bà phải là những người lên tiếng đầu tiên!


Làm gì ư? Thì cứ chờ Đảng quang vinh chỉ đâu đánh đó! Ngặt một nỗi Đảng bật đèn rẽ phải nhưng lại quẹo trái, nói rẽ về phương Tây nhưng lại bẻ vô-lăng lái thẳng về phương Bắc. Nếu để Đảng lo thì rõ ràng sẽ có ngày con cháu dân Việt chúng ta phải mặc đồng phục của quân đội Tàu để đánh nhau với anh em gốc Việt cầm súng trong quân đội đồng minh gồm Mỹ, Úc, Ấn, Nhật, Hàn, Anh, Pháp, Đức… trong Thế Chiến thứ ba!


Một chọn lựa nghiêm túc hơn là người dân đứng dậy giành lại quyền quyết định cho dân, một quyền lực tối hậu đã bị tước đoạt từ ngày Đảng lên cầm quyền. Hành vi đó được gọi là “bất tuân dân sự”, nói đầy đủ là: dân hành xử quyền dân sự, tự phát tiến hành những hành động phù hợp với lương tâm, bất chấp bị đàn áp.


Hãy tưởng tượng, khi bị đẩy vào thế bất tuân dân sự, những điều này có thể sẽ xảy ra:


Tối hậu thư


Quần chúng, thông qua các tổ chức dân sự, sẽ đưa ra tối hậu thư gửi nhà cầm quyền và công luận thế giới, ra hạn cho nhà cầm quyền trả lời trước nhân dân những điều dân cần biết về thực trạng đất nước, và làm những việc cần làm như thả hết những người chống Tàu bị cầm tù. Ví dụ, nhà cầm quyền sẽ có hạn chót để trả lời là ngày 15/7/2014, nếu không trả lời, bất tuân dân sự sẽ bắt đầu ngày 20/7/2014.


Ngưng việc 2 giờ


Trước ngày đó, để nhà cầm quyền biết được ý chí người dân, cứ mỗi buổi trưa, hàng triệu người trong tất cả các công ty, từ nhân viên văn phòng đến công nhân sản xuất, tại tất cả các tỉnh thành, từ 12g trưa đến 2g chiều đều đồng loạt ngưng việc. Điều này dễ thực hiện vì 12g là giờ ăn trưa, để biểu thị tình cảm, mọi người sẽ nhất quyết không quay lại làm việc trước 2g chiều. Và quan trọng là hãy ghi lại hình ảnh hiện tượng này cho cả thế giới biết.


Nếu hết hạn chót mà chính quyền vẫn không có động thái gì đáng kể để thỏa mãn bức xúc của dân thì toàn xã hội sẽ tiến hành những biện pháp bất tuân dân sự đồng bộ.


Việc ngưng làm việc 2 giờ mỗi ngày sẽ biến thành tổng bãi công, bãi thị, bãi trường rộng khắp và kéo dài. Những cuộc biểu tình xuống đường rầm rộ sẽ diễn ra.


100.000 người biểu tình


Cuộc biểu tình ngày 11/5 đã có khoảng 6000 người xuống đường trên cả nước, từ Saigon đến Hà Nội, đó là con số dễ dàng có. Nhưng con số này có thể lên đến 30.000, 50.000, 100.000, hoặc hơn nữa. Vì sao?


Chỉ riêng tại Saigon, Hà Nội cũng gần tương tự, và chỉ riêng các giáo xứ thuộc Giáo phận Công giáo Saigon hiện đã có khoảng 300.000 giáo dân. Hội đồng Giám mục Việt Nam đầu tháng 5/2014 đã có thư gửi giáo dân cả nước kêu gọi mọi người tích cực tham gia các hoạt động biểu thị lòng yêu nước trước họa ngoại xâm. Hãy tưởng tượng vào một ngày cùng hẹn, những cuộc biểu tình nhỏ 300 người sẽ nổ ra, tại ngay từng giáo xứ, hoặc một điểm tập trung gần giáo xứ. Theo hẹn, 100 đoàn biểu tình 300 người này, tổng cộng là 30.000 người, sẽ xuất phát từ 100 giáo xứ, sẽ đi theo 100 con đường dẫn dần về trung tâm Saigon, hay trung tâm Hà Nội, đến trước Nhà thờ Đức bà, hoặc Nhà Thờ Lớn Hà Nội, để cùng cả nước gióng lên tiếng chuông đánh thức lòng yêu nước trước hiểm họa ngoại xâm. Tất cả các giáo phận Công giáo cả nước cũng có thể làm tương tự, cùng ngày.


Các vị hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ cũng có thể làm tương tự như các giáo sĩ và giáo dân Hongkong, như Đức Hồng y Trần Nhật Quân, 82 tuổi, cùng một số tín hữu đi bộ trong 48 tiếng, mỗi ngày đi 20 km trong 12 tiếng, qua 18 quận để kêu gọi dân chúng tham gia trưng cầu dân ý tự phát vì dân chủ.[v]


Chỉ riêng tại Saigon, số lượng sinh viên các trường đại học cũng khoảng 300.000. Sinh viên của hàng chục trường đại học có thể cùng nhau xuống đường tương tự.


Số lượng công nhân tại Saigon và những khu phụ cận lên đến cả triệu. Họ cũng có thể cùng nhau xuống đường tương tự. Chuyện côn đồ quấy phá nếu không được ngầm cho phép thì dứt khoát không thể xảy ra. Lực lượng an ninh có đủ phương tiện để dễ dàng khống chế và kiểm soát côn đồ.


Đó là chưa kể những lực lượng khác từ các giáo hội Phật giáo,  Cao Đài, Hòa Hảo, từ phía các doanh nghiệp, trí thức, văn nghệ sĩ, và quần chúng nói chung.


Bỏ phiếu tại chỗ và “Chiếm đóng Ba Đình”


Cũng tương tự như người đấu tranh dân chủ tại Hongkong sẽ làm, khi diễn ra cuộc biểu tình hàng trăm ngàn người, người biểu tình có thể thực hiện việc bỏ phiếu tại chỗ trong một cuộc trưng cầu dân ý nóng, để người dân biểu thị tình cảm và ước muốn cụ thể của mình.


Sinh viên, giới đấu tranh Hongkong còn có kế hoạch “Occupy Central” (chiếm đóng khu trung tâm), “Central” là địa danh của khu trung tâm Hongkong, nếu ở Việt Nam, phong trào này sẽ có tên tương tự như “Occupy Quận Nhất”, “Occupy Ba Đình”, hoặc rộng hơn, “Occupy Saigon”, “Occupy Huế”, “Occupy Hà Nội”… với hàng chục ngàn người biểu tình tại chỗ kéo dài ngày này qua ngày khác, chặn mọi đường đi vào khu biểu tình.


Ý tưởng vui: cú, quạ và giàn khoan


Một ý tưởng vui, cũng có thể khả thi, xin nêu ra ở đây. Ý tưởng này xuất phát từ những thuyền nhân, những người đã từng vượt biển, bỏ cộng sản, tìm tự do. Họ lênh đênh giữa biển cả tuần lễ, và họ gặp những chú chim, không biết từ đâu đến, cứ đậu trên thuyền của họ. Có xua đuổi chúng cũng không đi đâu được. Biến mênh mông quá, chúng không đủ sức bay tìm bờ xa, chỉ duy nhất có chiếc thuyền đang trôi trên biển là chỗ đậu.


Ý tưởng như sau: Sẽ có 100.000 con quạ đen, hay chim cú, được ai đó mang ra, thả bay vần vũ trên giàn khoan 981 và đoàn tàu thuyền hộ tống. Bầy chim đen kịt không đậu chỗ nào được trên biển, nên cứ chỗ nào to, nhiều hang hốc là chúng đua nhau đậu vào, vừa đậu vừa… ị. Và như thế, khác với những bọn sâu mọt tay sai “ngựa Hồ” lúc nào cũng “hí gió Bắc”, những con “chim Việt” sẽ vừa “đậu cành Nam”, vừa (xin lỗi) “ỉa vào giàn khoan”.


Nếu chim bay về đảo Tri Tôn cách đó 25 hải lý, thì cứ cho chúng 2 giờ đáp xuống và thức ăn, thức uống no nê, rồi khua chuông gõ trống xua chúng bay trở về giàn khoan và đoàn tàu trăm chiếc kia. [vi] Lưu ý: không nên dùng biện pháp này vào thời kỳ cúm gia cầm, vì dân ta chỉ muốn đuổi giàn khoan và tàu bè hộ tống, không muốn giết người.


Khốn khổ nước tôi


Xin kết bài này bằng bài thơ đau đớn “Khốn khổ nước tôi”, phỏng dịch từ bài thơ “Pity the Nation”[vii] của nhà thơ Liban Kahlil Gibran:


Khốn khổ nước tôi

Mê tín thì vô hạn

Tôn giáo thì nông cạn


Khốn khổ nước tôi

Mặc áo mình không dệt

Ăn gạo mình không trồng

Uống rượu mình không làm


Khốn khổ nước tôi

Ca ngợi côn đồ là anh hùng

Gọi kẻ xâm lăng là bạn vàng


Khốn khổ nước tôi

Trong mơ thì ghét cay ghét đắng

Tỉnh dậy lại đầu hàng


Khốn khổ nước tôi

Chỉ dám nói năng khi đưa tang

Chỉ dám khoe khoang di sản hoang tàn

Chỉ dám phản kháng khi đầu sắp lìa khỏi cổ


Khốn khổ nước tôi

Chính khách xảo quyệt như chó sói

Triết gia tung hứng chữ làm xiếc

Nghệ thuật bắt chước chắp và vá


Khốn khổ nước tôi

Kèn loa tưng bừng rước kẻ cai trị mới

Rồi tống cổ chúng bằng la hét phản đối

Rồi lại tưng bừng kèn loa đón kẻ cai trị khác


Khốn khổ nước tôi

Vĩ nhân càng nhiều tuổi càng lú

Thánh nhân chờ mãi chưa ra đời


Khốn khổ nước tôi

Cứ chia năm xẻ bảy chơi

Phe nào cũng xưng mình là nước


© 2014 Từ Linh & pro&contra



 




[i] Tổng hợp từ Wikipedia Tiếng Việt, từ mục “Cách mạng Tân Hợi”, và Chương “Cách mạng Tân Hợi” trong cuốn Lịch sử thế giới của Nguyễn Hiến Lê & Thiên Giang, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1995.




[ii] Trích từ Wikipedia Tiếng Việt, từ mục “Cách mạng Tân Hợi”.




[iii] Chương “Cách mạng Tân Hợi” trong cuốn Lịch sử thế giới của Nguyễn Hiến Lê & Thiên Giang, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1995, trang 158.




[iv] Xem Wikipedia Tiếng Việt, từ mục “Phong trào Ngũ tứ”, nội dung trích từ sách tham khảo: Lịch sử Trung Quốc, của Nguyễn Gia Phu – Nguyễn Huy Quý, NXB Giáo dục, 2001, và Những mẩu chuyện lịch sử thế giới, tập 2, của Đặng Đức An, NXB Giáo dục, 2000.




[v] Xem “Hồng Kông: Phong trào dân chủ vận động trưng cầu dân ý” của phóng viên Tú Anh, đăng trên trang  RFI Tiếng Việt, ngày 10/6/14.




[vi] Thực ra, đây là cách mà Tàu đã áp dụng thời Cách mạng Văn hóa. Thời đó, để tránh cảnh chướng mắt là chim ị bẩn làm ô uế tượng lãnh tụ hay dinh thự cộng sản nghiêm trang, Tàu cộng đã ra lệnh cho dân Bắc Kinh và mọi vùng lân cận phải khua chiêng, gõ trống, gõ thùng liên tục trong nhiều giờ, nhiều ngày, để đuổi hàng triệu con chim bay đi. Bầy chim hoảng hốt vì tiếng động, chúng bay mãi nhưng không thể đáp vì đâu đâu cũng gõ thùng xua đuổi. Cuối cùng, chúng kiệt sức đứt hơi lao xuống đất mà chết. Hậu quả là sâu mọt nổi lên, phá hoại mùa màng. Chuyện này được kể trong một phim phóng sự của phương Tây về Cách mạng Văn hóa, được phát trên truyền hình ở một số nước phương Tây khoảng 20 năm trước mà rất tiếc người viết đã quên tên.




[vii] “Pity the Nation”, một bài thơ nổi tiếng của Kahlil Gibran, có thể dễ dàng tìm thấy trên mạng. Dịch giả Nguyễn Ước có một bản dịch khác, với tên “Chín khốn khổ”, dựa trên bản tiếng Anh của Anthony R. Ferris trong cuốn Spiritual Sayings of Kahlil Gibran in tại Mỹ năm 1962. Dịch giả Nguyễn Ước  dịch cuốn này và cuốn The Madman của Gibran, đăng chung trong một tập có tên là Mây trên đỉnh núi & Kẻ mộng du. Tập này nằm trong bộ sách 25 cuốn của Gibran do Nguyễn Ước dịch, Cty Sách Thời Đại và NXB Văn Học phát hành tại TPHCM năm 2012.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 19, 2014 03:19

June 18, 2014

Năm nhận định về quan hệ Việt-Trung (1)

Từ Linh


Giữa những ngày giàn khoan 981 nghênh ngang thách thức chủ quyền Việt Nam và gây không ít hoang mang, bài này xin được góp một số ý nghĩ về bốn bên liên quan: Mỹ, Tàu, Đảng và dân. Có ý sẽ làm người lạc quan phật lòng, có ý sẽ làm người bi quan bất đồng, có ý có thể chủ quan, nhưng xin chép cả vào đây, như góp một cái nhìn tham khảo. Bài chia làm năm phần, tương ứng với năm câu hỏi-đáp, xin tóm gọn như sau:



Mỹ có đối đầu Tàu vì Việt Nam không? Không! Người hùng giờ thấm mệt, thích chăm việc nhà và việc gần hơn lo việc thiên hạ quá xa.
Tàu có đánh Việt Nam không? Đánh làm gì khi Tàu gần như đã có những gì họ muốn: một chế độ ngoan như tay sai, một lãnh thổ họ tha hồ tung hoành và đang từng bước trở thành thuộc quốc.
Đảng có cứu nước không? Làm gì có, vì có quá nhiều dấu hiệu cho thấy Đảng đang hành xử như tay sai mẫn cán của Tàu, lo giữ ghế hơn lo giữ nước.
Chỉ còn lại dân? Đúng! Khi dân là những người tự do, không sợ hãi, không bị ngoại bang bịt miệng trói tay.
Họ đang đẩy dân vào thế bất tuân dân sự? Vâng! Và đây sẽ là cuộc đấu tranh: ngoài chống giặc ngoại xâm, trong chống bọn bán nước, giành lại cho dân quyền lực chính đáng của mình.

 


I. MỸ CÓ ĐỐI ĐẦU TÀU VÌ VIỆT NAM KHÔNG?


Nhiều người muốn Mỹ vào cuộc ở Biển Đông, như ông cảnh sát trưởng toàn cầu duy nhất có thể rút súng chặn đứng giang hồ Tàu tràn xuống biển làm cướp. Nhưng, mấy năm nay, giới quan sát thế giới than rằng Mỹ đang là siêu cường thấm mệt.


“Globocop” đâu rồi?


Đồng minh của Mỹ đang lo. Trong khi Nga ngênh ngang thò tay tóm lãnh thổ nước bạn, Tàu nghênh ngang giở thói côn đồ ăn hiếp hàng xóm, Syria ngang nhiên giết hại dân mình, thì câu hỏi được đặt ra là: “Globocop”, cảnh sát toàn cầu, đâu rồi? Bài “The decline of deterrence” (Bước lùi của chính sách ngăn chặn), đăng trên The Economist ngày 3/5/14 đã mở đầu như thế. Bài báo còn nêu những điểm sau, xin tóm vài ý liên quan:


- Mỹ có sẵn sàng lâm chiến với Tàu không? Ai cũng biết Tàu muốn làm số một, cũng như Mỹ chẳng muốn làm số hai. Tuy vậy, nhiều nước Châu Á hoài nghi việc Mỹ muốn gây chiến với Tàu. Tiền lệ là năm 2012, Mỹ đã im lặng khi Tàu chiếm bãi cạn Scarborough của Philippines, rồi năm 2013 lại im lặng khi Tàu đe dọa máy bay Mỹ bay qua không phận đảo Senkaku của Nhật. Chẳng lạ gì, khi đồng minh của Mỹ từ Âu sang Á đang mua thêm vũ khí tự vệ. Nhật Bản cũng không còn đặt hết lòng tin vào chiếc ô dù an ninh thủng nhiều lỗ của Mỹ.


- Mỹ sẽ vẫn phản ứng mạnh, nhưng chỉ khi dân Mỹ sôi sục, chỉ trong trường hợp các đồng minh NATO bị đe dọa nghiêm trọng, hay Israel bị đánh lớn, hay khi những quốc gia Mỹ đóng nhiều quân như Nam Hàn, Nhật Bản bị xâm hại, còn ngoài những điểm nóng đó, đội ngũ của Obama được cho là sẽ “sẵn lòng mặc kệ, một sự sẵn lòng đến rợn người” (a creeping willingess to let things go). Obama còn được cho là thường “rất năng nổ tìm đủ mọi đường, nhưng cuối cùng lại thấy đứng im là hay nhất.”


- Một vụ va chạm xảy ra quanh đảo Senkaku chẳng hạn sẽ khiến Mỹ có một số phản ứng nào đó, như gửi máy bay do thám và tàu chiến đến nơi. Nhưng, theo nhận định của một chuyên gia giàu kinh nghiệm, công chúng Mỹ “sẽ chẳng hứng thú gì với việc tham chiến chỉ vì mấy bãi đá”.


- Dù cam kết chính thức này kia với các nước, nhưng dường như Obama đang nhìn thế giới như một khu rừng hoang đầy thú dữ quấy phá, gây ra những khủng hoảng liên tục mà Mỹ không xử lý được.


Chẳng lạ gì khi bài báo ví von: sói đang xơi tái cừu nhưng anh chăn cừu lại chẳng thấy đến cứu!


Thực vậy, ngay cả trước khi Tàu cắm giàn khoan xâm phạm biển Việt Nam, các nước trên thế giới đã thấy quá nhiều dấu hiệu về việc siêu cường Mỹ đang đánh mất ý chí chiến đấu: Các nước Châu Á, khi thấy Nga nuốt chửng Crimea nhưng Mỹ gần như mặc kệ, đã không thể quên rằng vào năm 1994, để từ bỏ vũ khí hạt nhân Ukraine đã được Nga, Mỹ và Anh đảm bảo hẳn hòi rằng biên giới của họ sẽ không bị xâm phạm. Các nước Baltic cũng không thể quên việc chính quyền độc tài Assad tại Syria ngang nhiên vượt qua “lằn ranh đỏ” (là dùng vũ khí hóa học giết dân) nhưng Mỹ đã không phản ứng mạnh như từng tuyên bố, trong khi số người chết trong cuộc chiến hiện nay dưới chế độ Assad đã lên tới 150.000. Các đại gia dầu hỏa Ả Rập và đại sứ Trung Quốc cũng không thể không chú ý đến hiện tượng nhiều thượng nghị sĩ Mỹ đang chủ hòa. Tất cả khiến bạn của Mỹ âu lo, lo rằng đến khi hữu sự, người hùng không xuất hiện.[1]


Nhạt nhẽo ở West Point


Diễn văn tại West Point của Obama vừa qua cũng được dư luận quốc tế cho là nhạt nhẽo, thiếu lửa, rất khác với ấn tượng “Mỹ không ngồi im để Trung Quốc lộng hành” mà nhiều đài Việt ngữ từ RFA, RFI, đến BBC và báo đài trong nước tạo ra khi trích đoạn và diễn dịch bài diễn văn.


Trong diễn văn, Obama nhắc đến khủng bố 17 lần, nhưng không nhắc gì đến Crimea, chỉ nhắc đến Trung Quốc 2 lần lướt qua, cũng không nói gì đến việc chuyển trục về Châu Á (khiến không ít các nước trong vùng lo ngại, và họ đã nhắc lại điều này trong Hội nghị G7 gần đây).


Không những không nhắc, Obama còn than thở không đúng chỗ rằng Mỹ không thể làm gì đáng kể cho an ninh Biển Đông, dù các tướng lĩnh khuyến cáo, vì Thượng viện Mỹ chưa thông qua được Quy ước Luật biển.[2]


Siêu cường thích làm vườn?


Trong luận văn rất đáng chú ý “Superpower don’t get to retire” (siêu cường không được về vườn), (đăng trên The New Republic, 26/5/14), sử gia Robert Kagan còn cảnh báo rằng Mỹ đang muốn “trở về trạng thái bình thường”, không muốn “làm người hùng” cứu thế giới nữa, dù sức vẫn còn. Xin tóm tắt vài ý như sau:


- Mỹ muốn “làm người thường” vì nhiều lý do, trong số có thể kể: Thế hệ trẻ đông đảo ở Mỹ xem Thế Chiến II như đã xa, Chiến tranh Lạnh cũng lạ. Thế hệ lớn hơn thì mệt mỏi với vai trò của Mỹ như thần Atlas “bị đày” cứ phải vác đá leo ngược núi. Chủ nghĩa cộng sản, kẻ thù lớn nhất của Mỹ thời Chiến tranh Lạnh, xem như đã thất bại. Cuộc chiến Iraq và Afghanistan, được cả thế hệ trẻ lẫn già biết đến, lại quá tốn kém, trong khi Mỹ vừa trải qua khủng hoảng 2008… Tất cả những điều đó khiến Mỹ đang đi theo chiều “hướng nội”. Cuộc thăm dò Pew mùa thu năm ngoái cho thấy có tới trên 50% dân Mỹ, tỉ lệ cao nhất trong 50 năm qua, muốn Mỹ quay về “lo việc nhà” thay vì lăng xăng ngoài ngõ, và dân Mỹ cũng muốn “các nước khác phải biết tự lo việc của họ cách tốt nhất có thể.”


- Đây không là lần đầu Mỹ hướng nội. Điều tương tự từng diễn ra vào thập niên 20, 30 thế kỷ trước. Năm 1939, khi Đức Quốc xã chiếm Ba Lan phía Đông, rồi năm 1940 chiếm Paris phía Tây và ném bom London thì Mỹ vẫn chưa động tĩnh gì. Có ý kiến trong chính giới Mỹ còn cho rằng Mỹ vẫn có thể buôn bán như thường với Châu Âu thuộc Đức Phát-xít, y như từng buôn bán với Anh và Pháp, vì “hàng vừa ý” là được, không cần “bạn vừa ý”! Mãi cho đến khi quân phiệt Nhật tấn công căn cứ Mỹ tại Trân Châu Cảng năm 1941 thì Mỹ mới bừng tỉnh tuyên chiến với Đức và Nhật, vì lợi ích ruột thịt của mình.


- Kagan cũng nói tới một thực tế lạnh lùng khác, đó là loài người và các quốc gia hiện nay nhìn chung không văn minh hay ôn hòa hơn thời man rợ. Nếu có ‘ngoan’, có chơi đúng luật, có không dám trở thành côn đồ thì chỉ vì có một ông cảnh sát đầy uy lực sẵn sàng thổi còi và trừng phạt nếu họ vi phạm.


- Và thực ra thì thế giới này mới chỉ biết đến tự do, dân chủ, pháp trị, nhân quyền trong khoảng 200 năm qua, còn hàng ngàn năm trước vẫn là cuộc chiến đấu liên tục của ánh sáng chống lại tối ám độc tài, toàn trị, của sự thật chống lại dối trá và nắm đấm. Dù sự thật luôn thắng, nhưng dối trá không chết hẳn mà sẽ nổi dậy và cần phải được khống chế, bằng sức mạnh. Tổng thống Roosevelt của Mỹ từng nói “Hòa bình phải được giữ gìn bằng sức mạnh, không còn cách nào khác.” Vâng, “sức mạnh” chứ không bằng luật lệ, đối thoại hay tình hữu nghị.


Thực ra, khi Mỹ đứng ra cáng đáng an ninh toàn cầu, nhiều nước chỉ “ăn theo”. Châu Âu được khuyến cáo là cần phải gánh bớt gánh nặng cho Mỹ vì an ninh của chính Châu Âu! Nhật có vẻ cũng đang theo chiều hướng này, trở thành một thế lực chủ động hơn trong khu vực (dù điều này làm không ít chính phủ e ngại khi nhớ đến đội quân Nhật mạnh đến đáng sợ thời Thế Chiến II.)


Côn đồ như ruồi


Những điều kể trên có nghĩa gì? Phải chăng nó có nghĩa là khi ông cảnh sát uy quyền bỗng thích về hưu non, thích làm vườn sau nhà hơn lo việc thiên hạ, thì côn đồ lập tức nổi lên, như ruồi?


Syria sẽ tiếp tục lộng hành giết dân. Rồi với sự hỗ trợ của Syria, quân khủng bố Hồi giáo nổi lên đánh chiếm các thành phố ở Iraq như đang diễn ra trong những ngày vừa qua. Putin sẽ còn thêm nhiều trò mới với các lân bang. Và ở Biển Đông, trong thời gian tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục lộng hành. Không chỉ 981, mà sẽ còn giàn khoan 982, 983 rồi nhiều thứ khác như phi trường và căn cứ quân sự ở Gạc Ma sẽ lại được cắm phập vào biển Việt Nam và biển các nước khác. Sao lại không, thế giới có làm gì đáng kể đâu mà côn đồ phải sợ!? Và đó là điều hết sức đáng sợ! (Trừ khi các nước khu vực, Nhật, Hàn, Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, Miến, Ấn, Úc… liên kết lại, thành một khối chống Trung Quốc, và Mỹ bừng tỉnh, hỗ trợ tích cực để tiếp tục duy trì trật tự thế giới.)


Điều này dẫn đến câu hỏi kế tiếp: Trong tình hình đó, liệu Tàu có cướp thời cơ đánh Việt Nam không?


II. TÀU CÓ ĐÁNH VIỆT NAM KHÔNG?


Để trả lời câu này, xin nhắc lại điều được gọi là “Bài học Việt Nam”.


Không ngẫu nhiên khi cựu Tổng thống Mỹ Richard Nixon đặt tên cuốn sách, xuất bản năm 1987, nói về kinh nghiệm Mỹ tham chiến ở Việt Nam là No More Vietnams (Không thêm một Việt Nam nào nữa). Cũng không phải tình cờ mà cố vấn đối ngoại cao cấp nhất của Liên Xô năm 1986, ông Anatoli Chernyaev, đã phải nhắc nhở Tổng Bí thư Mikhail Gorbachev rằng vụ Liên Xô chiếm đóng Afghanistan, (kéo dài từ 1979 đến 1989), chính là một “Bài học Việt Nam khác.”[3]


Bài học Việt Nam


Là người đi sau Đặng Tiểu Bình, người xua quân đánh Việt Nam năm 1979, đi sau Gorbachev và Nixon, chắc hẳn Tập Cận Bình không thể không biết nỗi cay đắng của Mỹ khi rút khỏi Việt Nam năm 1975, sau khi tốn hao xương máu của trên dưới 50.000 binh sĩ và bao nhiêu tiền của, hoặc sự ê chề của Liên Xô khi rút khỏi Afghanistan sau 10 năm chiếm đóng, cũng mất trên dưới 50.000 quân, với bao nhiêu tiền của cùng cả triệu lượt quân tham gia đã trở thành những cựu chiến binh vất vưởng thời hậu chiến với chấn thương tâm lý.


Không chỉ mất uy tín trước các nước lớn nhỏ trên thế giới, cuộc rút quân của Mỹ khỏi Việt Nam năm 1975 và của Liên Xô khỏi Afghanistan năm 1989 còn đánh dấu sự suy nhược ý chí và năng lực cường quốc, mở màn cho một thời kỳ suy thoái địa chính trị. Với Mỹ, đó là cuộc nổi dậy của hàng loạt những chế độ thân cộng sản ở Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh. Với Liên Xô thì chủ trương không đưa quân vào nước khác sau Afghanistan đã lập tức mở đường cho cuộc vùng lên của các nước Đông Âu, dẫn đến sự sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Đông Âu bắt đầu từ 1989, và cuối cùng ở chính Liên Xô năm 1991.


Rất có thể nếu chiếm đóng Việt Nam, Tàu sẽ gặp một kịch bản tương tự.


Hãy thử tưởng tượng:


Dù ban đầu chần chừ không muốn động binh nhưng vì chế độ bù nhìn có nguy cơ sụp đổ, Tập Cận Bình có thể bị cuốn vào thế phải xua quân chiếm đóng Việt Nam. Từ đó cuộc chiến tiêu hao dai dẳng diễn ra, du kích quân Việt Nam lúc ẩn lúc hiện khiến quân Tàu xâm lược không biết đâu mà lần, chiếm được hết nhưng không giữ được gì, thắng trận đánh nhưng lại thua cuộc chiến, trong khi số thương vong cứ thế tăng dần, từ 5.000, 15.000, lên 30.000, 50.000. Nuốt không trôi, nhả không xuôi, Bắc Kinh cứ thể phải đổ hàng chục, hàng trăm tỉ nhân dân tệ vào cuộc chiếm đóng như đổ vào túi không đáy… Xuất huyết cạn kiệt, uy tín xuống thấp, nội bộ nhiễu loạn, quyền lực cá nhân Tập bị thách thức, mặt trận trong nước trở nên quan trọng hơn, cuối cùng Bắc Kinh buộc phải quyết định rút quân, trong ô nhục, (dù sẽ vẫn tuyên bố chiến thắng hoặc ra đi trong danh dự, như Mỹ đã làm khi rút khỏi Việt Nam, như Liên Xô đã làm khi rút khỏi Afghanistan). Nhưng đó không phải là kết thúc, mà là lúc khủng hoảng lớn bắt đầu. Ngay khi thấy Tàu thất bại ê chề tại Việt Nam thì lập tức các dân tộc đang bị Tàu thống trị như Tây Tạng, Nội Mông, Duy Ngô Nhĩ, Hồi Ngột… bèn đồng loạt nổi dậy mạnh mẽ, vượt qua sức phản ứng của Bắc Kinh (y như như dân Đông Âu đã nổi dậy, và Moscow không còn đủ sức hay ý chí để đưa quân trấn áp.) Và thế là đế quốc Trung Quốc cộng sản sụp đổ, Tây Tạng cùng các nước bị lệ thuộc khác giành được độc lập. Ngay sau đó, Trung Quốc lại trở về một tình trạng khủng hoảng hậu Việt Nam, hậu Tây Tạng, mộng bá quyền tan hoang, mèo trắng mèo đen bị những “chú tí” sát nách cắn chảy máu đỏ, phải cong đuôi vừa chạy vừa gào. Rồi từ từ, lại một “Putin Tàu” xuất hiện, và con quay cứ thế xoay…


Diễn biến hòa bình


DÄ© nhiên, “Bài học Việt Nam” cá»§a Nixon và Gorbachev – cÅ©ng như cá»§a các thế lá»±c từng xâm chiến Việt Nam như Pháp hoặc các nhà Tống, Nguyên, Minh, Thanh… hoặc các thế lá»±c từng xâm chiến Afghanistan như Anh và các Nga hoàng trước đó – đã được Tập Cận Bình và tập đoàn nghiên cứu kỹ. Có lẽ vì vậy mà Tàu cộng sẽ chẳng dại gì xua quân xâm chiếm Việt Nam để phải lâm vào cảnh “xuất huyết trường kỳ” như Mỹ và Liên Xô cÅ©, để cuối cùng mất cả chì lẫn chài, mất cả uy tín lẫn ảnh hưởng, mất cả ghế và có thể làm sụp đổ cả chế độ tại mẫu quốc.


Nhưng, có lẽ cũng vì vậy mà Tàu đã dùng một con đường khác để thôn tính Việt Nam, một tuyệt chiêu hơn hẳn kẻ đi trước.


Phải gọi tuyệt chiêu đó là gì cho đúng?


Đó là không đánh Việt Nam bằng sức mạnh cứng từ ngoài đánh vào, mà bằng sức mạnh mềm từ trong ruột đánh ra. Là từng bước biến Việt Nam thành thuộc địa, thuộc quốc, thành khu tự trị, thành tỉnh lỵ… mà không cần phải bắn phát súng nào, mà có được cả một chính quyền tay sai ngoan ngoãn, nói gì nghe nấy, bất chiến tự nhiên thành.


Tên gọi chính thức của nó đích thị là “diễn biến hòa bình”, và “thế lực thù địch” trần trụi hiện nguyên hình là Trung Cộng. Lâu nay Đảng tìm cách bẻ ngược kim la bàn về phương Tây, nhưng thực ra kim la bàn chỉ kẻ thù luôn hướng về phương Bắc!


Điều vừa rồi dẫn đến câu hỏi thứ ba. Hãy thử xem Đảng đã và đang làm gì, có thực sự chống giặc, hay giặc đang đứng sau lưng Đảng, và cả hai đang đối đầu dân Việt?


III. ĐẢNG CÓ CỨU NƯỚC KHÔNG?


Cứ nhìn cách Ban Tuyên giáo của Đảng chỉ đạo “mặt trận” dư luận nội địa trên báo đài trong những ngày qua thì thấy sự thật không phải là điều đang được tôn trọng, và họ đang cho hạ nhiệt vấn đề Tàu xâm lược:


Ngày 2/5, khi Cục Hải sự Trung Quốc công bố giàn khoan 981 bắt đầu khoan từ ngày 1/5, thì liên tục một tuần sau đó báo đài Việt Nam đồng loạt đưa tin phản đối khí thế, làm dậy sóng dư luận.


Đến ngày 10/5 báo Tuổi Trẻ tại TPHCM còn in và tặng kèm độc giả cả một poster khổ lớn đòi Trung Quốc rút ngay giàn khoan để nguời dân mang xuống đường biểu tình vào chủ nhật 11/5.


Nhưng ngay sau vụ bạo động 12/5 và 13/5 thì ba ngày liên tiếp sau đó trên trang nhất báo Tuổi Trẻ chỉ thấy những gương mặt cười, người dân vui cười khi hồ hởi quyên góp cho biển đảo, nhưng nhìn qua, nhất là khi những cặp mắt Tàu cộng không biết tiếng Việt nhìn qua, thì sẽ rất dễ có ấn tượng là đất nước Việt Nam đang rộn rã một niềm vui lớn!


Những ngày sau đó vẫn còn tin về biển đảo nhưng hạ nhiệt dần, rồi những ngày tuần đầu và giữa tháng 6/2014, tin về ngoại xâm lui vào trang trong, nhường gần hết trang nhất cho những tin hiền lành như mùa thi, sức khỏe, bảng chỉ dẫn lưu thông…


Thá»±c ra, những tờ báo đông người đọc như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Tiền Phong, Lao Động, Pháp Luật, Người Lao Động, Phụ Nữ… , vẫn là một “nhà hát” sáng đèn liên tục và có lượng khán giả khá lớn, xem “hát” xong, khán giả vẫn oang oang trong đầu những gì được nghe, và về kể lại cho người khác. Đó vẫn là những hàn thá»­ biểu để phần nào đo được nước cờ trái-phải, đóng-mở, bóp-nhả cá»§a Đảng, và điều quần chúng đang bị mớm để tin.


Phân vai và hai tay


Đang diễn ra điều gì vậy? Sự thật là gì vậy? Sao có quá nhiều dấu hiệu trái chiều, từ những vị cao nhất trở xuống? Thay vì được quyền biết mọi sự thật thì dân không biết ngay cả ai là bạn, ai là thù!


Phải chăng, ở “trển”, các vị đã được phân vai? Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải cứng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phải im, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phải lảm nhảm chuyện nhỏ ở chỗ nhỏ, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh phải mềm như bún Tàu, còn những người khác như Nguyễn Chí Vịnh thì lúc cứng lúc mềm như quan hoạn?


Kìa, cứ nhìn cách Đảng đưa Phùng đến Shangri-la ca ngợi quan hệ “vẫn phát triển tốt đẹp” giữa ta và Tàu là thấy Tàu với “ta” là một. Phùng đại tướng chẳng khác gì một ông bác sĩ lâu ngày không đụng đến ống nghe, nhưng cứ ong ỏng bảo rằng bệnh nhân vẫn khỏe, dù bệnh nhân vừa bị đâm một nhát ngay mạng sườn, máu chảy không cầm được, hoặc cứ kiên quyết khẳng định rằng quan hệ vẫn trong sáng dù cô em vừa bị thằng đểu cáng hiếp dâm.


Hay là Phùng nói đúng, cô em không bị hiếp dâm mà tự dâng hiến? Chắc là vậy thật, họ đã dâng đất nước này cho giặc từ mật nghị Thành Đô?


Hay là họ đang bắt chước chính sách “hai tay” của Tập Cận Bình[4], tay búa tay tiền, nửa Mao nửa Mít (Mao Trạch Đông & Adam Smith): tay trái cứng vừa đè bẹp giới bất đồng chính kiến, vừa thổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, vừa bành trướng bá quyền, trong khi tay phải mềm cố tỏ ra thân thiện, chống tham nhũng, mở kinh tế thị trường, đem Khổng Tử ra trang trí?


Qua mặt dân


Vì sao Ban Tuyên giáo mở trói cho báo đài và nghệ sĩ nói về Tàu xâm lược, nói về hòa bình, Trường Sa, Hoàng Sa nhưng lại đồng loạt vừa rút tin bài về thảm sát Thiên An Môn, vừa bai bải chối làm gì có rút?


Thủ tướng tuyên bố không đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông và sẵn sàng để kiện Tàu, nhưng sao Bộ Chính trị vẫn trì hoãn kiện?


Đó là chưa kể những gì đã diễn ra trong những năm qua: Bộ Chính trị im khi Tàu chiếm Hoàng Sa năm 1974, im từ đó đế nay về cuộc chiến 1979, im khi Tàu chiếm Gạc Ma 1988, cho Tàu trúng thầu hầu hết dự án trọng điểm, mở cửa cho dân Tàu vào làm ăn trái phép, lập mật khu bất khả xâm phạm, mướn rừng đầu nguồn, mướn nhiều chục năm đất và vùng biển chiến lược, khai thác boxit Tây Nguyên dù lỗ lớn vẫn lì lợm làm, rồi chính quyền lại không mệt mỏi đàn áp người biểu tình chống Tàu, đánh đập, ngược đãi, kết án, bỏ tù ngày càng nhiều năm bao nhiêu người yêu nước…


Sự thật là gì vậy? Điều gì đang diễn ra trong quan hệ Việt-Tàu? Sao không lên tiếng trình bày cho dân rõ mọi chuyện? Chỉ cần nhìn cái cách họ khinh dân trong những ngày này là thấy họ không do dân bầu ra, không màng tới phản ứng của dân, và chỉ xem dân như một đám dân thuộc địa hạng tồi, cần cai trị, chứ không cần lắng nghe hay đối thoại.


Ông Đỗ Mười, ông Lê Khả Phiêu, cùng tất cả các ông các bà có tên tuổi và có trách nhiệm khác, sao không nói gì vậy? Các ông các bà đứng về phía nào, phía dân hay phía giặc?


Im lặng nhiều lúc là vàng. Nhưng khi 16 chữ vàng đã thối thì im lặng là đồng lõa!


Câu hỏi tối hậu


Sự im lặng của các vị làm người dân không thể không đặt ra các câu hỏi tối hậu như sau:


Có phải chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay chỉ là chính quyền tay sai, đang ngồi cai trị dân dưới sự hỗ trợ và chỉ đạo của Bắc Kinh?


Có phải vì là bù nhìn tay sai nên khi giàn khoan 981 xuất hiện họ làm động tác giả lớn tiếng chống đối ầm ào, rồi lại bày trò đốt phá nhà máy khu công nghiệp để lấy cớ trấn áp người dân biểu tình?


Có phải Đảng đang diễn một vở kịch dối trá và ô nhục với Bắc Kinh, một vở “Kinh Kịch” ai nấy tô vẽ mặt mình rõ dầy không cho thấy mặt thật, rồi cứ thế ra bộ, ấm ứ, ầm ừ, đánh trận giả?


Phải chăng một chính quyền tay sai cho ngoại bang, một lực lượng chiếm đóng nhận lệnh thẳng từ kẻ xâm lược, một chính quyền thực dân tuân lời mẫu quốc cũng chỉ có thể làm những điều tương tự như Đảng và chính phủ đang làm, không thể hơn?


Và một câu hỏi đau đớn nữa rất nhiều người muốn đặt ra, đó là:


Có phải Việt Nam đang hoặc đã trở thành thuộc địa, thuộc quốc của Tàu từ hội nghị bí mật Thành Đô 1990, từ khi bình thường hóa quan hệ Việt-Tàu năm 1991, và từ biết bao nhiêu cam kết, thỏa thuận, hiệp ước trong những năm sau đó?


“Đám cưới” Thành Đô


Đọc lại những thông tin ít ỏi về mật nghị Thành Đô vẫn có thể rút ra một vài điều trớ trêu và đau đớn:


Vào đúng dịp kỷ niệm 45 năm ngày tuyên bố độc lập, 2/9/1945- 2/9/1990 thì bộ sậu Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và cố vấn Phạm Văn Đồng lại chuẩn bị khăn gói qua họp kín với Giang Trạch Dân, Lý Bằng tại khách sạn Kim Ngưu ở Thành Đô, Tứ Xuyên, vào ngày 3-4/9/1990.


Ngoài mấy điểm về giải pháp Campuchia, những thỏa thuận về bình thường hóa quan hệ Việt-Tàu không được tiết lộ ra ngoài. Chỉ biết rằng sau khi ký kết “Kỷ yếu hội đàm”, Giang Trạch Dân đã mượn một câu thơ của Giang Vĩnh đời Thanh (có bản nói là của Lỗ Tấn) để tặng Nguyễn Văn Linh. Thơ như sau:


Độ tận kiếp ba huynh đệ tại

Tương kiến nhất tiếu mân ân cừu


Nghĩa là:


Qua hết sóng gió anh em vẫn còn

Gặp nhau cười một cái là quên ân oán


Để tỏ lòng trung, Nguyễn Văn Linh đáp lại bằng bốn câu thơ:


Huynh đệ chi giao số đại truyền

Oán hận khoảnh khắc hóa vân yên

Tái tương phùng thời tiếu nhan khai

Thiên tải tình nghị hựu trùng kiến


Nghĩa là:


Anh em chơi với nhau đã mấy thế hệ

Trong khoảnh khắc oán hận biến thành mây khói

Gặp lại nhau cười rạng rỡ

Tình nghĩa ngàn năm xây dựng lại  [5]


Và thế là cuộc mật nghị Thành Đô có đủ hương vị của một “đám cưới” trăng mật, có đủ cả câu đối và lời hứa “em muốn sống bên anh trọn đời”. “Chú rể” Giang Trạch Dân quen thói giang hồ thì mượn thơ của người khác qua loa như tán gái cho xong chuyện, còn “cô dâu” Nguyễn Văn Linh thì rút ruột thề thốt, nào là “mấy thế hệ”, nào là “tình nghĩa ngàn năm”.


Ly dị chăng?


Thực ra thì có hứa trăm năm hay ngàn năm đi nữa thì khi hôn nhân bất thành, tên chồng vũ phu, bạo hành, đàn áp, khinh bỉ, cướp của, làm nhục, xem vợ như nô lệ… thì vợ luôn có quyền hủy hôn ước, ly dị, đưa chồng ra tòa vì tội bạo hành gia đình, đòi lại tự do và công bằng. Đó là cách ứng xử bình đẳng của người văn minh và có nhân phẩm, hoàn toàn khác với lập luận “gia đình lục đục là chuyện thường” theo nếp nghĩ phong kiến “chồng chúa vợ tôi”, chồng muốn làm gì thì làm vì chồng luôn đúng, vợ phải cắn răng chịu đựng vì vợ luôn sai, theo kiểu lý sự cùn, vô tâm, vô tình, vô tích sự và cực kỳ lạc hậu của Phùng đại tướng.


Nhưng, đòi lại sự tôn trọng tối thiểu giữa hai người bình đẳng trong một quan hệ bình đẳng là điều Đảng đã không làm! Vì sao thế?


Sáu sao


Nhân tiện xin được hỏi luôn, vì sao khi lãnh đạo Tàu qua Việt Nam thì thiếu nhi Việt Nam đã được giao cho phất những lá cờ Tàu sáu sao (năm nhỏ chầu quanh một lớn), thay vì cờ Tàu vốn chỉ có năm sao (bốn nhỏ chầu quanh một lớn)?


Có lẽ chỉ có thể lý giải rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang hành xử như tay sai mẫn cán của Tàu, họ đang bán nước để giữ ghế, và Việt Nam đã được xem như một thuộc quốc của Tàu. Ý nghĩa gốc cờ năm sao của Tàu như sau: Sao to là Đảng ở giữa, bốn sao nhỏ là bốn giai cấp: công, nông, tiểu tư sản thành thị, và tư sản dân tộc. Còn trong đối ngoại thì cờ sáu sao như Việt Nam đã dùng có lẽ chỉ có thể hiểu theo nghĩa: Tàu là sao to Hán tộc ở giữa, năm sao nhỏ chầu quanh là năm dân tộc lệ thuộc: Tạng, Mông, Hồi, Ngô, Việt (hay Thanh, Mông, Hồi, Tạng, Việt)!


Thật không? Thế thì mất nước rồi sao? Phải làm gì bây giờ?


Điều này dẫn đến câu hỏi thứ tư.


(Còn 1 kì)


Hình: Cartoon của Sacrava


© 2014 Từ Linh & pro&contra




[1] The Economist, “What would America fight for?” (Mỹ chiến đấu vì điều gì?), số ra ngày 3/5/14




[2] Xem Thomas Wright, “Four Disappointments in Obama’s West Point Speech” (Bốn thất vọng trong diễn văn tại West Point của Obama), Brookings, 28/5/2014




[3] Victor Sebestyen, Revolution 1989, The Fall of the Soviet Empire (Cách mạng 1989, Đế quốc Xô-viết sụp đổ), Pantheons Books, New York 2009, Chương “Gorbachev’s Vietnam” (bài học Việt Nam của Gorbachev), trang 200




[4] Xem bài “Mao and Forever” của Peter Martin và David Cohen, đăng trên Foreign Affairs ngày 3/6/14. Đã có bản tiếng Việt của dịch giả Huỳnh Phan đăng trên trang Ba Sàm.




[5] Xem “Tài liệu của Trung Quốc về cuộc gặp bí mật Thành Đô, 3-4/9/1990”, bản dịch của Lý Nguyên. Nguồn: Hà Bắc tân văn võng, talawas 30/10/2007.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 18, 2014 07:48

June 9, 2014

Đầu tư Trung Quốc ở Myanmar: Dự án đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc-Myanmar có thể trở thành một quân cờ

Ying Hongwei


Phạm Hải Hồ dịch và chú thích


Bài báo sau đây do nhà báo tá»± do Ying Hongwei viết trên quan điểm lợi ích cá»§a Trung Quốc về một dá»± án năng lượng trong chương trình hợp tác giữa nước này với Myanmar, một dá»± án rất quan trọng đối với an ninh năng lượng cá»§a Trung Quốc. Nó được quảng bá là ít tốn kém và an toàn hÆ¡n việc vận chuyển dầu thô bằng đường thá»§y qua eo biển Malacca. CÅ©ng như một số nhà nghiên cứu Trung Quốc, Ying Howei phê phán dá»± án đường ống dẫn dầu khí từ vịnh Bengal xuyên qua đất nước Chùa Vàng đến tận thành phố Côn Minh, không những về mặt kinh tế – tài chính, an toàn dá»± án, mà còn về trách nhiệm doanh nghiệp đối với văn hóa, xã hội và môi trường cá»§a nước sở tại.


Trở về quá khứ, khi Myanmar còn sống dưới chế độ quân phiệt thẳng tay đàn áp đối lập, bị quốc tế lên án và phương Tây cấm vận kinh tế thì hầu như chỉ có quốc gia láng giềng phương Bắc làm hậu thuẫn cho nước ấy, bất chấp dư luận thế giới và xem thường mọi giá trị nhân văn. Điều đó chỉ có thể giải thích phần nào bằng sá»± đói năng lượng cá»§a một nước phát triển quá nóng với 1,3 tỉ dân, phải bằng mọi cách thu hút tài nguyên dồi dào cá»§a Myanmar và nhiều nước Á- Phi khác. Nhưng một lý do không kém phần quan trọng là chính sách bành trướng cá»§a Bắc Kinh núp dưới danh nghÄ©a “trỗi dậy hòa bình”. Theo “logic” cá»§a chính sách này, một phần Siberia, bang Arunachal Pradesh cá»§a Ấn Độ, Biển Hoa Đông, phần lớn Biển Đông Nam Á [1] đều thuộc chá»§ quyền Trung Quốc, còn những nước như Myanmar, Lào, Campuchia, Việt Nam v.v. thì nằm trong vùng ảnh hưởng cá»§a nó. HÆ¡n nữa, vị trí địa lý cá»§a Myanmar rất lý tưởng để tiếp cận vịnh Bengal và Ấn Độ Dương. Vì các lý do ấy nên khi Myanmar khởi sá»± quá trình dân chá»§ hóa và phương Tây lần lượt tháo gỡ lệnh cấm vận, Trung Quốc vẫn tiếp tục đầu tư mạnh mẽ, mặc dù chi phí tăng lên rất nhiều so với dá»± tính, người dân Myanmar phản kháng ngày càng gay gắt hÆ¡n trước những vấn đề xã hội – môi trường do các dá»± án cá»§a họ gây ra và Tổng thống Thein Sein đã cho dừng việc xây dá»±ng đập Myitsone khổng lồ vì “nó trái với ý chí cá»§a nhân dân”.


Phạm Hải Hồ


___________


[image error]Ngày 28 tháng Bảy 2013, ở miền Tây Bắc Vịnh Bengal[2], các ngọn đuốc dầu khí trên những giàn khoan khổng lồ ngoài khÆ¡i Myanmar gây một ấn tượng dị kỳ. Khi ấy, đại diện bốn quốc gia Trung Quốc, Myanmar, Hàn Quốc và Ấn Độ cùng mở van đưa khí đốt từ Vịnh Bengal vào các đường ống dẫn cá»§a dá»± án dầu khí Trung Quốc – Myanmar ở trạm phân phối đầu tiên − trạm Kyaukpyu. Vài giờ sau đó, Phó Tổng thống Myanmar U Nyan Tun Aung cùng đại sứ Trung Quốc tại Myanmar Yang Houlan mở van điều chỉnh ở trung tâm điều chỉnh hệ thống đường ống Mandalay, và họ đốt khí flare[3] ở trạm đo lường Namkham. “Ý tưởng về đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar” vốn được hỗ trợ mạnh mẽ cuối cùng đã thành hiện thá»±c.


[Chú thích của nhà xuất bản: Theo kế hoạch, tiếp theo việc khởi động đường ống dẫn khí vào tháng Bảy 2013, đường ống dẫn dầu thô song song với nó sẽ được khởi động. Việc này hoãn lại đến đầu năm 2014 nhưng chắc không được hoàn thành đúng thời hạn vì những vấn đề môi trường và sự chống đối của công chúng Trung Quốc.]


Trong lúc ấy, một tổ chức phi chính phủ Myanmar công bố một báo cáo về quyền sử dụng, sở hữu đất đai, nó cho thấy hơn 18 thành phố lớn nhỏ sẽ bị ảnh hưởng bởi dự án đường ống dẫn dầu khí đi qua các bang Rakhine, vùng Magway, vùng Mandalay và bang Shan[4], với điểm cuối là thành phố Muse [ở sát biên giới Myanmar - Trung Quốc][5] đối diện thành phố Ruili thuộc tỉnh Vân Nam.


Không những các đường ống dẫn được xây dựng dưới điều kiện địa lý và xã hội khó khăn, mà cũng không rõ chúng sẽ hoạt động suôn sẻ trong tình trạng phức tạp hiện nay ở Myanmar hay không.


Việc lắp đặt đường ống dẫn đối mặt với nhiều trở ngại


Theo tuyên bố chính thức cá»§a Trung Quốc, việc nhập năng lượng qua các đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar rất quan trọng, chỉ sau việc nhập khẩu dầu thô bằng đường thá»§y, đường ống dẫn dầu Trung Quốc – Kazakhstan, đường ống dẫn khí Trung Á và đường ống dẫn dầu thô Trung – Nga. Sau khi lập xong kế hoạch, đối tác Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng cá»§a hệ thống đường ống dẫn [Trung Quốc - Myanmar] và hy vọng nó sớm được hoàn thành. Tuy nhiên, sá»± việc không đơn giản như họ nghÄ©, quá trình xây dá»±ng đã gặp nhiều trở ngại.


Trước hết, dự án không mang lại lợi ích cho người dân. Lại phải xây dựng các đường ống dẫn trong những vùng rất khó khăn, không có hạ tầng cơ sở. Các đường ống phải vượt biển, băng qua đồi núi, cao nguyên Shan và nhiều con sông lớn. […]


Với công nghệ tân tiến và tinh thần làm việc cật lá»±c, trong ba năm qua, công nhân Trung Quốc đã vượt qua nhiều khó khăn không thể tưởng tượng và tạo ra một công trình kỳ diệu. Ngày 13 tháng Hai 2012, họ đã hoàn thành công việc xây dá»±ng ở khu du lịch Phật giáo với ngọn núi Popa trong vùng Mandalay. Đây là di sản tôn giáo quốc gia thuộc những Khu Bảo tồn Cảnh quan Quốc gia (National Scenic Area) được bảo vệ nghiêm ngặt nhất về mặt môi trường và du lịch văn hóa – tâm linh.


Tuy nhiên, các cộng đồng địa phương không xem đó là một tin tốt. Ngày 1 tháng Ba 2012, hÆ¡n 100 người Myanmar biểu tình phản đối trước tòa đại sứ Trung Quốc ở Thái Lan và yêu cầu Tổng thống Thein Sein dừng dá»± án xây dá»±ng đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar. Lãnh đạo tổ chức Myanmar với tên gọi “Phong trào Khí Shwe” (Shwe Gas Movement) nói: “Dá»± án này không chia sẻ lợi ích và quyền lợi với nhân dân địa phương, những người vừa mới mất tài sản và phương tiện sinh sống. Trong khi đó, nó lại thiếu minh bạch, trách nhiệm giải trình và trách nhiệm cá»§a doanh nghiệp [đối với xã hội và môi trường]. Hoạt động cá»§a chúng tôi không chỉ nhằm vào Trung Quốc, mà tất cả các công ty tham gia và các nhân vật có liên quan tới dá»± án.” Chiến dịch được tổ chức đồng thời trước các đại sứ Myanmar, Ấn Độ, Hàn Quốc và Trung Quốc tại Thái Lan.


Hơn nữa, sự thay đổi chính trị ở Myanmar đã tạo ra những lực lượng mới trong dân chúng ngăn cản dự án đường ống dẫn dầu khí. Tháng Ba 2011, chính quyền quân sự Myanmar đã chuyển đổi thành một chính quyền dân sự, Tổng thống mới U Thein Sein có nhiều sáng kiến, đặc biệt về tự do ngôn luận trên các phương tiện truyền thông đại chúng và quyền xuống đường phản đối. Dưới “sức ép của công luận”, Tổng thống U Thein Sein không những dừng đập Myitsone do Trung Quốc đầu tư xây dựng mà còn yêu cầu đánh giá lại việc đầu tư của Trung Quốc vào dự án khai thác đồng Letpadaung.


Chắc hẳn các biện pháp ấy đã tạo sức ép với việc xây dá»±ng đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar. Trước đây, ba dá»± án nói trên được xem là “ba dá»± án đầu tư trọng điểm cá»§a Trung Quốc tại Myanmar” dùng để thá»­ đánh giá sá»± thay đổi trong quan hệ giữa chính quyền mới cá»§a Myanmar với Trung Quốc.


Trung Quốc nhượng bộ


Chính quyền và các công ty Trung Quốc đã kịp thời nhận thấy tình hình mới và có những biện pháp ứng phó tức thời. Trên bình diện chính phủ, quan chức cấp cao liên tục viếng thăm Myanmar nhằm điều phối việc đầu tư và mời các nhà chính trị chủ chốt của nước này sang thăm Trung Quốc. Cũng như vậy, các công ty cố gắng tạo ra những dự án nhân đạo và cải thiện hình ảnh Trung Quốc trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Myanmar.


Theo thỏa thuận trước đây, dự kiến đường ống dẫn khí đã hoàn thành mỗi năm sẽ chuyển 12 tỉ mét khối khí [sang Trung Quốc]. Sản lượng hàng năm của đường ống dẫn dầu dự kiến sẽ là 22 triệu tấn.


Dù mặc cả, chính phủ Myanmar cũng không thể có được điều kiện tốt hơn nữa: họ sẽ nhận đến 2 triệu tấn dầu thô và 20 % tổng số lượng khí tự nhiên sản xuất hàng năm. Các điều kiện này tốt hơn nhiều so với thỏa thuận trước kia: 13 triệu đô la Mỹ cho chi phí quá cảnh. Ngày 28 tháng Bảy, khi tham dự lễ khai mạc nói trên, Phó Tổng thống Myanmar U Nyan Tun tuyên bố dự án đường ống dẫn là một thắng lợi chung của cả bốn quốc gia liên quan, nó “sẽ cải thiện nền kinh tế, quá trình công nghiệp hóa và điện khí hóa của Myanmar, nó quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của Myanmar.”


Dầu khí rất quan trọng đối với công cuộc phát triển kinh tế cá»§a Myanmar. Kể từ năm 2000, Myanmar là nước xuất khẩu khí tá»± nhiên nhiều nhất ở châu Á – Thái Bình Dương. Nhà máy lọc dầu thô dá»± kiến thành lập cÅ©ng sẽ góp phần tạo ra sản phẩm xuất khẩu. Chính phá»§ hy vọng các đường ống dẫn dầu khí sẽ thúc đẩy sá»± tăng trưởng cá»§a Myanmar trong 20 năm tới và giúp nước này khắc phục tình trạng nghèo nàn lạc hậu.


Lý lẽ giả tạo của Trung Quốc cho việc đầu tư ở Myanmar


Mặc dù thế, tầm quan trọng cá»§a đường dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar là điều có thể tranh cãi. Đại diện cá»§a Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc (China National Petroleum Corporation, CNPC) tuyên bố dá»± án ấy có tầm quan trọng chiến lược: “Sau khi hoàn thành đường ống dẫn, dầu thô nhập từ Trung Đông và khí tá»± nhiên từ Myanmar sẽ không còn qua eo biển Malacca nữa. Điều này có tầm quan trọng chiến lược đối với việc đa dạng hóa và an ninh năng lượng cá»§a Trung Quốc.”


Cho đến nay, eo biển Malacca đặc biệt quan trọng đối với việc cung ứng dầu thô cho Trung Quốc. Sự đói khát năng lượng khiến Trung Quốc rất lệ thuộc vào dầu thô từ Trung Đông. Chừng 80 % lượng dầu thô mà Trung Quốc nhập khẩu từ Trung Đông đi qua eo biển Malacca.


Do đó, vài học giả nhấn mạnh rằng Trung Quốc cần gấp rút tạo cho mình những nguồn dự trữ dầu riêng vì nếu eo biển Malacca bị kiểm soát bởi những nước khác, Trung Quốc sẽ mất khả năng vận chuyển dầu.


Nhằm giải quyết “tình trạng tiến thoái lưỡng nan ở Malacca”, một số nhóm tư duy chiến lược (think tank) Trung Quốc nảy ra ý tưởng thay thế eo biển Malacca. Đào một đường hầm xuyên qua eo đất Kra ở miền Nam Thái Lan hay hợp tác với Malaysia để xây dựng một đường ống dẫn qua Ấn Độ, đó chỉ là hai trong nhiều sáng kiến. Nhưng đa số các dự án đều rất khó thực hiện vì những lý do địa lý, địa chất, địa chính trị hay tài chính.


Dự án đường ống dẫn xuyên qua Myanmar được chấp thuận ở một thời điểm mà chính quyền quân sự của nước này rất bị cô lập trong cộng đồng quốc tế.


Sau khi hoàn thành, đường ống dẫn sẽ thu ngắn đường vận chuyển dầu thô của Trung Quốc từ Trung Đông và châu Phi đến 1200 kilomet. Nó sẽ giảm chi phí vận chuyển so với đường qua eo biển Malacca và sẽ đạt được 10 % khả năng đảm bảo an ninh năng lượng (energy capability).


Tuy nhiên, tình trạng gọi là “tiến thoái lưỡng nan ở Malacca” dưới cái nhìn của vài học giả thật ra là một lý lẽ giả tạo. Trước hết, không ai dám công khai ngăn chặn tàu Trung Quốc, trừ phi họ muốn chiến tranh với Trung Quốc. Trong trường hợp này, quân đội hùng mạnh của Trung Quốc có thể tấn công một cách hợp lý để bảo vệ lợi ích quốc gia. Hơn nữa, nếu thực sự muốn ngăn chặn tàu Trung Quốc, thì họ cũng có thể làm việc ấy ở Ấn Độ Dương và vịnh Aden, tại sao phải đợi đến eo biển Malacca?


Ở Trung Quốc, những nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách phê phán các đường ống dẫn dầu khí chủ yếu vì phí tổn xây dựng cao và những rủi ro chính trị tiềm ẩn. Ông Zha Daojiong[6], chuyên gia an ninh năng lượng thuộc Đại học Bắc Kinh phát biểu trong một cuộc phỏng vấn của Financial Times: “Trên lý thuyết, nếu lực lượng thù địch nào muốn quấy rối việc vận chuyển bằng tàu chở dầu của anh, tại sao họ phải chăm chăm nhìn vào Malacca? Có lẽ chỉ vì dự án ở Myanmar gây tranh cãi và bị chỉ trích nên nhà chức trách Trung Quốc mới nhấn mạnh yếu tố chiến lược ấy.”


HÆ¡n nữa, dường như dá»± án đường ống dẫn Trung Quốc – Myanmar gây nhiều vấn đề hÆ¡n “tình trạng bế tắc ở Malacca”.


Đến nay, xung đột quân sự trong nội địa Myanmar đã kéo dài hơn hai năm.[7] Trên 50 kilomet đường ống dẫn nằm trong vùng có chiến tranh, tình trạng an ninh ở Myanmar còn xấu hơn ở eo biển Malacca. Thậm chí chúng ta có thể tưởng tượng nông dân Myanmar sống dọc theo đường ống dẫn có thể dùng cuốc đập vỡ nó một cách dễ dàng. Vì đường ống dẫn nằm trong lãnh thổ Myanmar, Trung Quốc không thể và không có phương tiện để kiểm soát hành vi của họ.


Đánh giá phức tạp của Myanmar về tình trạng thực sự


Trung Quốc không phải là khách hàng duy nhất cá»§a Myanmar. Nhất là trong năm 1998, Myanmar trở thành nước xuất khẩu khí tá»± nhiên và từ năm 2000 đã xuất khẩu nhiều khí tá»± nhiên nhất vùng châu Á – Thái Bình Dương.


Thứ nhì, cũng nên lưu ý là các đường ống dẫn không chỉ được đầu tư bởi Trung Quốc. Chúng còn được vận hành bởi “Công ty đường ống dẫn Đông Nam Á”, một công ty cổ phần đầu tư liên kết sáu công ty từ Trung Quốc, Myanmar, Ấn Độ và Hàn Quốc. Tuy nhiên, các công ty Trung Quốc nắm giữ hơn 50 % cổ phần. Nhưng cũng không nên đánh giá thấp phần lợi nhuận mà chính phủ Myanmar thu được.


Thứ ba, các cộng đồng Myanmar phải chịu tác động nhưng lại không hưởng lợi ích từ dự án. Một mặt, ngoài lãi cổ phần hàng năm ra, chính phủ Myanmar còn thu được nhiều tiền thuế, tiền thuê đất, chi phí quá cảnh, từ quỹ đào tạo kỹ thuật và nhiều nguồn khác. Vì dự án sử dụng một phần lớn nhân viên địa phương ở Myanmar để vận hành các đường ống dẫn nên cũng sẽ tập huấn một số lớn kỹ thuật viên trong ngành công nghiệp năng lượng.


Tuy nhiên, không dễ gì các mối lợi nhuận và lợi ích ấy được phân phối trực tiếp cho người dân thường, nhất là những cộng đồng ở dọc theo đường ống dẫn đã mất tài sản và bị thiệt hại bởi dự án. Họ than phiền chỉ nhận được ít tiền đền bù, trong khi sinh kế và môi trường của họ bị hủy hoại. Thật ra, Công ty đường ống dẫn Đông Nam Á đã cung cấp hơn 20 triệu đô la Mỹ cho việc bảo đảm an toàn sinh kế, số tiền này được dùng để xây dựng 43 trường học, 2 trường mầm non, 3 bệnh viện, 21 trung tâm y tế, một hồ chứa nước ở đảo Ma Day và đường dây dẫn điện ở bang Rakhine. Nhưng vì công ty không có khả năng thực hiện các dự án ấy ở cộng đồng, họ chỉ cung cấp tiền cho chính phủ Myanmar thực hiện; vì vậy nên việc làm của họ không được nhiều người dân địa phương ghi nhận.


Hậu quả là tình trạng bất ổn và những cuộc biểu tình phản đối của dân địa phương làm chậm tiến trình của dự án và khiến số tiền đầu tư ban đầu 2,54 tỉ tăng lên tới hơn 5 tỉ đô la Mỹ.


Trách nhiệm không được phân chia một cách hợp lý. Công ty tham gia dự án đã giao mọi trách nhiệm thu mua đất, tái định cư và đền bù cho nhà chức trách Myanmar. Nhưng chính quyền địa phương không dùng trọn số tiền đóng góp cho việc đền bù và phúc lợi xã hội. Dân làng ở những vùng bị ảnh hưởng cho phóng viên biết là họ không nhận được khoản đền bù nào cả. Sau khi báo chí đưa tin ấy, chính quyền địa phương mới dần dần trả tiền đền bù.


Các đường ống dẫn làm tăng thêm xung đột


Một điều đáng lo ngại hơn, là xung đột vũ trang ở Myanmar. Trong hai năm qua, xung đột vũ trang giữa quân chính phủ và Quân đội Độc lập Kachin (Kachin Independence Army, KIA) ở miền Bắc Myanmar đã leo thang. Các tác động phụ của chiến tranh ngày càng tăng thêm, như số nạn nhân thương vong, người tị nạn, người bị cưỡng bức di cư, tình trạng suy thoái kinh tế, việc cắt điện v.v. Ngày 23 tháng Mười 2011, lấy danh nghĩa bảo đảm an toàn cho việc xây dựng đường ống dẫn dầu khí, quân đội chính phủ đã tấn công vào lãnh địa của KIA ở bang Shan.


Việc xây dá»±ng đường ống dẫn làm xung đột giữa quân đội Myanmar và KIA trở nên gay gắt, nhưng cuộc xung đột cÅ©ng gây nguy hiểm cho đường ống dẫn vì nó đi ngang qua vùng này hÆ¡n 50 kilomet. Nếu cuộc tranh cãi về đường ống dẫn Trung Quốc – Myanmar vẫn tiếp diễn, nhân dân Myanmar sẽ không chấp nhận và á»§ng hộ hoàn toàn dá»± án ấy, và chắc hẳn trong tương lai nó sẽ gặp nhiều khó khăn.


Phía Trung Quốc cũng phản đối


Cách đây không lâu, ở Trung Quốc cÅ©ng xảy ra những vụ phản đối. Giữa lúc tiến hành dá»± án đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar, dá»± án lọc dầu công suất 10 triệu tấn / năm cá»§a Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc ở Côn Minh và những dá»± án phụ cá»§a dá»± án đường ống dẫn, người dân Côn Minh đã xuống đường phản đối.[8] Vài nhà nghiên cứu đã lưu ý: “Bất kể ở Myanmar hay Trung Quốc, các công ty Trung Quốc quen thương lượng với cấp lãnh đạo cao nhất, phớt lờ những thách thức mà xã hội dân sá»± và cộng đồng gặp phải. Nếu dá»± án không hoạt động theo kế hoạch, CNPC sẽ đối mặt với gánh nặng nợ nần và những thiệt hại kinh tế to lớn.”


Triển vọng


Các dá»± án đường ống dẫn có thể trở thành quân cờ Myanmar dùng để kiềm chế phát triển cá»§a Trung Quốc. Tuy nhiên, sau khi quyền hành từ nhóm quân phiệt chuyển sang chính quyền dân sá»±, xung đột lớn nhất ở Myanmar là xung đột chá»§ng tộc. Trước sá»± mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa chính phá»§ và các nhóm sắc tộc, cộng với các mối bất hòa và mâu thuẫn về văn hóa – tín ngưỡng, sá»± khẳng định bền bỉ cá»§a Trung Quốc về “không can thiệp và công việc nội bộ” sẽ gặp phải nhiều thá»­ thách.


Tóm lại, các đường ống dẫn dầu khí Trung Quốc – Myanmar là một dá»± án gây nhiều tranh cãi vì viễn cảnh cá»§a Trung Quốc và sá»± hiện thá»±c hóa cá»§a nó. HÆ¡n nữa, tương lai cá»§a các dá»± án không chắc chắn bởi tình trạng xung đột quân sá»±.


__________


Chú thích [của nhà xuất bản]


Trên đây là bản rút gọn từ bài báo “The prospects of the Sino-Myanmar oil and gas pipeline” của Ying Hongwei, đăng trên Phoenix Weekly No 25, Vol 482, tháng chín 2013, trang 44-46.


Ying Hongwei là nhà báo tự do sống ở Trung Quốc.


Ảnh: Đường ống dẫn Myanmar – Trung Quốc là một trong 4 hệ thống đường ống dẫn năng lượng vào Trung Quốc. Ngoài ra, nước này còn nhập dầu thô từ Trung Đông và châu Phi bằng đường thá»§y qua eo biển Malacca và Biển Đông Nam Á. Ảnh chỉ dùng để minh họa, không có trong bài báo.


Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh: Ying Hongwei, Chinese investments in Myanmar. The Sino-Myanmar oil and gas pipeline project could become a chess piece, Stiftung Asienhaus Hintergrundinformationen 13.03.2014.


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Hải Hồ & pro&contra




[1] “Biển Đông Nam Á” (tên gọi quốc tế: South China Sea) là vùng biển nằm giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia và Singapore. Đường “chín đoạn” hay “lưỡi bò” vô căn cứ mà các thế lực bành trướng Trung Quốc cho là ranh giới lãnh hải của mình chiếm đến 80-90 % biển Đông Nam Á. Từ “Biển Đông” thường được người Việt dùng để chỉ vùng biển nằm phía Đông Việt Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhưng chưa xác định ranh giới rõ ràng.




[2] Tác giả đã lầm khi viết “in the southwest of the Bay of Bengal, Myanmar” (ở miền Tây Nam Vịnh Bengal, Myanmar).




[3] Khí nằm lẫn trong dầu mỏ mà khi khai thác người ta thường đốt để loại bỏ nó.




[4]Cộng hòa Liên bang Myanmar gồm 7 bang (state), 7 vùng (region), 1 địa hạt liên bang (union territory), 7 khu tự trị (self-administered zone) và 1 vùng tự trị (self-administered division).




[5] Đúng hơn, điểm cuối là thành phố Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, nơi Trung Quốc xây dựng một nhà máy lọc dầu.




[6] Giáo sư kinh tế chính trị quốc tế, trình bày quan điểm của mình về dự án đường ống dẫn Myanmar-Trung Quốc trong bài: Zha Daojiong, Oil Pipeline from Myanmar to China: Competing Perspectives, RSIS Commentaries 74/2009.




[7] Chính quyền và 14 trong 16 nhóm quân nổi dậy đã ký thỏa thuận hòa giải. Tuy nhiên, đến nay xung đột vÅ© trang giữa quân chính phá»§ và “Quân đội Độc lập Kachin” vẫn còn tiếp diễn. Xem: Tú Anh, “Chiến sá»± và lòng nghi kỵ đe dọa nỗ lá»±c hòa bình tại Miến Điện”, rfi 07/05/2014.




[8] Thật ra, người dân Côn Minh đã biểu tình phản đối khi hay tin nhà máy lọc dầu sẽ được xây dá»±ng tại thành phố cá»§a họ. Xem: William Ide, “Chinese Environmental Protesters Demand Transparency”, VOA May 17, 2013.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 09, 2014 08:05

June 7, 2014

ASEAN và Việt Nam thời biển động

Trần Hoàng


Trong liên quan với vụ việc Giàn khoan HD-981 thời gian vừa qua, Việt Nam lại một lần nữa gặp phải một thất bại ngoại giao đáng kể. Mặc dù chính phủ Việt Nam tuyên truyền qua báo chí trong nước là những tuyên bố mạnh mẽ của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị cấp cao ASEAN tại Myanmar ngày 11.5.2014, lên án việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào sâu lãnh hải Việt Nam, kêu gọi các nước ASEAN lên tiếng phản đối Trung Quốc và đề nghị đưa các nội dung liên quan tới tranh chấp trong Biển Đông vào tuyên bố chung của hiệp hội, đã gặp được đồng thuận và ủng hộ của các nhà lãnh đạo của tổ chức khu vực này, nhưng sự thực mà ai cũng biết là trong tuyên bố chủ tịch, các nước ASEAN chỉ  “biểu thị các quan ngại đặc biệt trước các diễn biến trong Biển Đông” và “kêu gọi các bên… thực hành tự kiềm chế, không dùng tới đe dọa hay sử dụng vũ lực, và giải quyết tranh chấp bằng các phương tiện hòa bình theo các nguyên tắc phổ cập của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước về Luật Biển năm 1982.”, hoàn toàn không đả động một lời tới Trung Quốc. Các Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN tuy sau đó có đưa ra một tuyên bố riêng về Biển Đông, nhưng lời lẽ thì không khác gì mấy lời lẽ của tuyên bố chủ tịch trên.


Thất bại này là thời điểm để Việt Nam cân nhắc lại một cách có tính phê bình quan hệ của mình với ASEAN; mà trước hết là xem xét lại những sai lầm, thiếu sót và sao nhãng của bản thân để thu được những bài học bổ ích và xác định hướng đi cho thời gian tới.


Những căng thẳng trong Biển Đông tầm cỡ như vụ việc Giàn khoan HD-981 từ trước tới nay có nhiều và phản ứng chung của các nước ASEAN từ trước tới nay vẫn vậy, vẫn là chung chung, không có tuyên bố rõ ràng, dứt khoát gì đặc biệt. Nhiều nước ASEAN vẫn luôn nêu cao quan điểm không can thiệp vào công việc nội bộ, từ chối không đưa các vấn đề song phương vào các chính sách, tuyên bố chung.


Điển hình gần đây nhất là vụ đụng độ trực tiếp giữa Philippines và Trung Quốc tại bãi cạn Scarborough kéo dài từ tháng 4 tới khoảng tháng 7 năm 2012 với kết quả là Trung Quốc chiếm kiểm soát thực sự bãi cạn này và những vùng biển xung quanh và tiếp theo là việc Philippines đệ đơn kiện Trung Quốc lên Tòa án Quốc tế về Luật Biển (international Tribunal for the Law of the Sea). ASEAN thực chất đã hoàn toàn im lặng trong thời gian vụ việc xảy ra. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 20 tại Phnom Penh 2-3.4.2012 và sau đó tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN vào ngày 29.5.2012, các quốc gia thành viên đã không đưa ra bất kỳ một tuyên bố hay thông cáo nào ủng hộ nước thành viên của họ là Philippines. Tiếp sau đó, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 45 họp vào các ngày 9-13.7.2012, khi Philippines đòi hỏi tuyên bố chung phải phản ánh các cuộc tranh luận quanh vấn đề tranh chấp giữa nước này và Trung Quốc tại bãi cạn Scarborough, Việt Nam muốn tuyên bố chung nói đến các vùng đặc quyền kinh tế EEZ thì do mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN, nhất là quan điểm chống đối của nước giữ ghế chủ tịch Campuchia, hội nghị này kết thúc mà không đưa ra được kỳ một thông cáo chung nào, một sự việc lần đầu tiên xảy ra trong lịch sử 45 năm của tổ chức này.


Đó là thái độ phản ứng của ASEAN nói chung. Còn thái độ phản ứng chính thức của Việt Nam là như thế nào? Rất đáng tiếc là cũng không có gì đặc biệt, lời lẽ của  Việt Nam có thể nói là hết sức chung chung và không thể ngoại giao hơn, “Việt Nam hết sức quan ngại tới vụ việc Scarborough và kêu gọi các bên tham gia cần thực hành kiềm chế và giải quyết các xung đột một cách hòa bình dựa trên nền tảng của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông, nhằm gìn giữ hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn biển tại Biển Đông và khu vực.” (Xem Scarborough Shoal dispute of ‘concern’ trên Việt Nam News ngày 26.4.2012)


Tuyên bố chính thức của các nước ASEAN khác trước vụ việc này cũng chẳng có gì hơn, nếu không nói là còn xấu hơn. Thí dụ như Malaysia, tuy lúc đầu có tuyên bố “ủng hộ kêu gọi của Philippines cho một giải pháp hòa bình” (nhấn mạnh được bổ sung) trong tranh chấp Scarborough với Trung Quốc theo luật pháp quốc tế (xem Malaysia too wants peace in Panatag Shoal trên Inquirer), thì chỉ một thời gian ngắn sau đó, trước việc Trung Quốc tăng cường tuần tra hải giám Biển Đông, nước này đã cho các nước ASEAN biết rằng họ có thể làm việc riêng với Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp trong Biển Đông, không cần để ý tới yêu sách (chủ quyền) của các nước khác. “Chỉ vì các anh có kẻ thù không có nghĩa là kẻ thù của các anh cũng là kẻ thù của tôi.” (Xem Malaysia Splits With Asean Claimants on China Sea Threat trên Bloomberg ngày 29.8.2013.)


Chỉ cần xem xét vụ việc trên cũng thấy Việt Nam không nên và không thể mong đợi ủng hộ gì hơn từ phía ASEAN. Hơn nữa, hoàn toàn không có gì là quá đáng khi nói Việt Nam cũng không có tư cách gì để đòi hỏi một sự ủng hộ cao hơn. Mặt khác, có thể thấy ASEAN càng ngày càng hiện hình rõ là một tổ chức khu vực không có gì là hùng mạnh, có thế lực đáng kể, cả về mặt kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao, nếu không muốn nói là lỏng lẻo và yếu kém.


Vài nét sơ lược về hội nhập của Việt Nam vào ASEAN


Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào tháng 7 năm 1995, nhưng việc “đi lại” giữa hai bên đã bắt đầu từ những năm cuối thập kỷ 70 thế kỷ trước, sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975.


Trong cuốn Hồi ức và Suy nghĩ của Trần Quang Cơ, nguyên thứ trưởng ngoại giao Việt Nam, người ta có thể đọc thấy: “Nể sợ sức mạnh quân sự và ý chí kiên cường của Việt Nam, mặt khác lo ngại mối đe dọa từ nước Trung Hoa khổng lồ tăng lên một khi Mỹ rút khỏi Đông Nam Á, đồng thời lại có yêu cầu phát triển kinh tế, các nước ASEAN sốt sắng bình thường hóa cải thiện quan hệ với Việt Nam.” Nhưng “… (Việt Nam) làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này…”


Các tài liệu phân tích nước ngoài về thời kỳ này nói chung là thống nhất với nhận xét của ông Trần Quang Cơ. Tuy có khác biệt nhất định trong quan điểm, xu hướng nói chung của năm nước sáng lập ASEAN, đặc biệt là Malaysia, là quan tâm tới việc lôi kéo Việt Nam vào tham gia ASEAN. Vào tháng 2 năm 1973, tức là chỉ vài tuần sau khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27.1.1973, sau một hội nghị đặc biệt của ASEAN, các Bộ trưởng Ngoại giao các nước thành viên đã ra tuyên bố chung thể hiện rõ mong muốn mở rộng hiệp hội. Trong các Hội nghị Thượng đỉnh của ASEAN  các năm 1976 và 1977, các nước thành viên đều biểu thị sẵn sàng phát triển quan hệ có thành quả và hợp tác hai bên cùng có lợi với các nước khác trong khu vực, nhắm định trước hết là tới Việt Nam. Động cơ ASEAN muốn lôi kéo Việt Nam về phía mình trước hết gồm có động cơ an ninh, sau là động cơ kinh tế.


Cần nhắc lại ở đây là một trong những lý do chủ yếu dẫn đến sự ra đời của ASEAN là lo ngại trước sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á. Hai thế lực cộng sản chính ở Đông Á và Đông Nam Á lúc đó là Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên Việt Nam không phải là đối tượng để họ lo ngại chính, nỗi lo sợ lớn nhất là Trung Quốc. Điều này không chỉ xuất phát từ sức mạnh nổi trội của Trung Quốc mà còn vì những chính sách hung hãn của nước này. Tất cả năm nước sáng lập ASEAN đều phải đối đầu với thực trạng Bắc Kinh tìm cách điều động các nhóm cộng sản, trong đó có nhiều nhóm của Hoa kiều, đột nhập vào lãnh thổ, sau đó thâm nhập vào đời sống chính trị, xã hội các nước này. Quan hệ của các nước ASEAN, đặc biệt là Indonesia và Philippines, với Trung Quốc vì thế xấu đi một cách nghiêm trọng từ những năm cuối thập kỷ 1960.


Sau khi Mỹ rút quân khỏi Nam Việt Nam, tuy có những e dè nhất định trước quốc gia có định hướng cộng sản Việt Nam, các nước ASEAN có tính toán rằng nếu Việt Nam trở thành thành viên ASEAN, nghiễm nhiên nguy cơ đe dọa của nước cộng sản này sẽ không còn nữa; hơn thế nữa, Việt Nam sẽ trở thành rào cản vững chắc phía Bắc trước tiềm năng bành trướng của Trung Quốc (một sứ mệnh Việt Nam đã đảm nhiệm trong nhiều thế kỷ). Vì Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo ở Bán đảo Đông Dương nên việc nước này hội nhập vào ASEAN sẽ làm cho vai trò, thế lực của tổ chức này sẽ được cải thiện đáng kể. Ngoài ra, ASEAN còn có quan tâm lớn tới thị trường Việt Nam và các cơ hội đầu tư vào nước này.


Việt Nam đã từ chối không tham gia ASEAN. Sau khi không bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Việt Nam định hướng vào Liên bang Xô-viết. Thời kỳ từ năm 1978 tới năm 1989 thực chất là thời kỳ các nước ASEAN hiệp lực, có hợp tác với Trung Quốc ở mức nhất định, đối phó với Việt Nam sau Chiến tranh Biên giới Tây Nam, với việc Việt Nam đem quân vào Campuchia tháng 12.1978. Từ thời điểm này trở đi và sau thất bại ngoại giao, Việt Nam dần dần rơi vào thế cô lập, chỉ có quan hệ đáng kể  với Liên bang Xô-viết, và tình trạng này kéo dài mãi tới đầu thập kỷ 1990. Sau khi Liên bang Xô-viết tan rã, Việt Nam rơi vào thế hoàn toàn cô lập, khủng hoảng kinh tế trầm trọng và tìm cách bằng mọi giá thoát ra khỏi tình thế bi đát này. Năm 1992, Việt Nam biểu thị sự quan tâm gia nhập ASEAN và sau các đợt đàm phán, trở thành thành viên chính thức của tổ chức khu vực Đông Nam Á này vào tháng Bảy năm 1995. Tuy nhiên, tuyên bố chính thức về ý định gia nhập ASEAN của Việt Nam chỉ được đưa ra sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, để tránh nước này phật ý.


Vì các lý do tương tự như những lý do trong các năm 1970 đã nêu ở phần trên, các nước ASEAN đồng tình và chào đón ý tưởng hội nhập của Việt Nam. Thực chất là ASEAN và Việt Nam đều cần đến nhau để tăng đối trọng trong quan hệ của họ với “người khổng lổ” Trung Quốc. Việt Nam không gặp phải cản trở gì lớn trong quá trình thương thuyết hội nhập. Tuy nhiên, nước này hình như lại quá hài lòng với vai trò thành viên trong ASEAN, không có nhiều nỗ lực tìm kiếm, xây dựng các mối liên kết chặt chẽ, ở mức độ sâu sắc, với các quốc gia khác trên thế giới.


Một tổ chức khu vực nhiều phần yếu kém


Trong so sánh tương đối với các chức khu vực khác trên thế giới, ASEAN được cho là một tổ chức lỏng lẻo và có phần yếu kém. Trong bài viết có tiêu đề “Thất bại của ASEAN” (The Failure of ASEAN) đăng trên The Chicago Journal of Foreign Policy ngày 21.1.2014, tác giả Tommie Thompson có những đánh giá hết sức xác đáng:


“… khác với các tổ chức khu vực khác như Liên minh châu Âu hay Liên đoàn Ả-rập, ASEAN thiếu một khung cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Một phần, đó là do quá khứ lịch sử khác biệt của các dân tộc Đông Nam Á. Khác với châu Âu hay Trung Cận Đông, các nước Đông Nam Á có lịch sử phát triển dân tộc, cơ cấu nhà nước, bản sắc văn hóa khác nhau; các yếu tố dẫn đến việc thành lập của ASEAN là một quá khứ thuộc địa chung và vị trí gần gũi, chứ không phải là thống nhất văn hóa hay các mối quan tâm lợi ích chung rõ ràng (xin cân nhắc các mối quan tâm lợi ích khác biệt của các nước Đông Nam Á với các hình thức nhà nước khác nhau, từ dân chủ tới độc tài quân sự triệt để).


Hiện nay, các giá trị của nhóm ASEAN, được gọi là ‘Con đường ASEAN’, nhấn mạnh vào chủ nghĩa tự nguyện và tự quyết – ban đầu, thậm chí một tuyên bố công khai không đồng tình với một hay nhiều thành viên khác cũng không được cho phép đưa ra. Mặc dù điều này có thể bảo vệ các nước Đông Nam Á trước một kiểm soát kiểu gia trưởng từ phía một tổ chức siêu dân tộc, điểm mà họ lo ngại do quá khứ lịch sử thuộc địa, nó khiến tổ chức này trở nên vô tác dụng trong việc giải quyết các vấn đề khu vực có ý nghĩa quan trọng. Mục đích chính của điều này, ít nhất là về mặt thực tế, là bảo vệ chủ quyền dân tộc. Một thí dụ: trong những năm 1970, nhằm theo đuổi hội nhập kinh tế, với tuyên bố Vùng Hòa bình, Tự do và Trung lập ZOPFAN, ASEAN tập trung vào việc cắt giảm ảnh hưởng của phương Tây. Hơn nữa, cơ cấu tổ chức của ASEAN về cơ bản khác với cơ cấu tổ chức của các tổ chức khu vực khác ở chỗ là nó hoạt động như một diễn đàn không chính thức hơn là một trường đàm phán. Cách thức này dựa vào các đồng thuận yếu lỏng, thậm chí còn kém mạnh mẽ so với các thỏa thuận không ràng buộc của Liên Hiệp Quốc được tăng cường hiệu lực bởi ‘các chuẩn mực quốc tế’, làm cho cộng tác chung trở thành bất khả thi. Nhiều nước, tuy vậy, ý thức được vấn đề này và theo đuổi các cuộc cải tổ, nhưng quan tâm lợi ích đối kháng từ các nước khác như Indonesia – một nước luôn đề cao ý tưởng không can thiệp – ngăn cản những thay đổi như vậy.


Các vấn đề khu vực hiện nay làm hiện rõ sự cộng tác lỏng lẻo trong nội bộ ASEAN. Một thí dụ: những nước liên quan tới tranh chấp lãnh thổ trong Biển Đông đã quyết định không dùng ASEAN để giải quyết các vấn đề ngoại giao thay cho đàm phán riêng; ban đầu các nước ASEAN có yêu sách (chủ quyền) cho rằng ASEAN phải cho ra một đối trọng với yêu sách (chủ quyền) của Trung Quốc, nhưng sau đó họ ý thức được rằng các nước thành viên không liên quan tới tranh chấp này khó có thể ủng hộ ý tưởng này – điềunày thể hiện thất bại của ASEAN trong việc tăng cường thống nhất khu vực. Một vấn đề khác, cấp bách hơn, là khói mù (haze). Từ những năm 1990, toàn bộ Đông Nam Á phải đương đầu với nạn khói mù tràn khắp, chủ yếu là do kỹ thuật canh nông đốt nương làm rẫy của Indonesia. Thiếu một khung tổ chức mạnh hơn, Indonesia sẽ không có động cơ chấm dứt kỹ thuật triệt phá này, yếu tố này sẽ tạo ra các yếu tố ngoại thị kinh tế và y tế, sức khỏe trong vùng.


Cần phải làm gì đây? Một loạt các cải cách là cần thiết, nhưng những cải cách quan trọng nhất gồm có một phương cách để các nước thành viên phải chịu trách nhiệm cho hành động của họ và một điều khoản ép buộc tuân thủ mạnh hơn – họ (các nước thành viên ASEAN) phải coi nhẹ bớt đi nguyên tắc không can thiệp của mình, cả về mặt triết lý lẫn thực tiễn. Điều này có thể thực hiện được, thí dụ như bằng cách sử dụng các phương tiện trừng phạt kinh tế truyền thống, cho từ chối tuân thủ hay cho phép các nước thành viên được công khai phê phán các nước thành viên khác.” (Hết trích dẫn)


Ngay giới phân tích trong các nước ASEAN cũng có đánh giá ASEAN là yếu kém. Thí dụ như Phó giáo sư  Eduard C Tadem tại khoa Ngiên cứu châu Á trường đại học Philippines Diliman nhấn mạnh: “Với danh nghĩa là một cộng đồng, ASEAN hiện là một thất bại, khi ý niệm chủ quyền dân tộc đang tiếp tục làm xói mòn hội nhập, trong lúc bản sắc riêng của hiệp hội vẫn đang chưa tinh kết.” (Xem bài viết Asian as a group is a failure, academic insists trên The Nation Multimedia ngày 24.8.2013).


Về mặt hội nhập kinh tế, năm 2003 ASEAN đã đưa ra một kế hoạch đầy hoài bão xây dựng cái gọi là Cộng đồng Kinh tế ASEAN tới năm 2015. Tuy nhiên, theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á ADB thì có khả năng rất cao là mục tiêu này sẽ không đạt được đúng hạn, và các nước thành viên hiệp hội này sẽ còn có nhiều việc phải làm sau năm 2015. (Xem cuốn The ASEAN Economic Community: A Work in Progress do ADB xuất bản tháng 12 năm 2013.)


Nói thêm ở đây là có một nguyên nhân quan trọng nữa dẫn đến tình trạng yếu kém, “mỗi người một ngả” trong ASEAN: đó là tổ chức này thiếu một hay một hai quốc gia hùng mạnh, thực sự nổi trội, có khả năng cộng tác chặt chẽ với nhau, đóng vai trò lực liên kết và đầu kéo cho cả nhóm. Ngay cả Liên minh châu Âu, một tổ chức khu vực được cho là có cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn nhiều như đã nói tới ở trên, nhưng do cũng dùng nguyên tắc đồng thuận hoàn toàn trong việc đưa ra quyết định cho nhiều vấn đề quan trọng, nên đã nhiều lần rơi vào tình thế “điêu đứng”, bế tắc (thí dụ như trong vấn đề khủng hoảng nợ nần của Hy Lạp), và khó có thể ra khỏi nếu không có ý chí quyết tâm, động thái quả quyết của các nước đầu tầu là Đức, Pháp và sau này có thêm Ba Lan. ASEAN chưa có được điều này.


Thiếu sót trong đa dạng hóa các mối liên kết chặt chẽ, có chiều sâu


Như đã có nhắc tới ở trên, sau khi tạm thoát khỏi tình trạng hoàn toàn cô lập vào đầu thập kỷ 1990, gia nhập ASEAN vào tháng Bảy năm 1995, có thể thấy Việt Nam hoặc là không có nhiều nỗ lực, hoặc là không thành công trong việc tìm cách xây dựng, mở rộng và đa dạng hóa các mối quan hệ đặc biệt, sâu sắc hơn với các quốc gia trên thế giới. Tuy Việt Nam ngay sau đó đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ và có tăng cường đáng kể quan hệ với Liên minh châu Âu, nhưng các quan hệ này là hạn chế và phần lớn chỉ trong lĩnh vực kinh tế và chút ít trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, hoàn toàn không có gì là đặc biệt. Quan hệ với Nhật Bản và Hàn Quốc tuy có lên cấp nhưng cũng chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế và đầu tư. Những năm gần đây, Việt Nam đẩy mạnh quan hệ với Liên bang Nga, đồng minh trước đó của mình, hai nước có ý định thiết lập quan hệ cộng tác chiến lược, nhưng bề sâu hiện thời của quan hệ này không đủ để giúp Việt Nam tăng thêm sức lực, thấy tự tin hơn, củng cố được chỗ đứng của mình trong khu vực và trên trường quốc tế.


Có thể là Việt Nam đã thấy quá hài lòng khi có được tư cách thành viên trong ASEAN và quan hệ rộng khắp mọi mặt với ban đầu là 5, sau là 9 nước còn lại của hiệp hội này. Và có thể đã quá trông mong vào ASEAN, hy vọng quá trình hội nhập sẽ được tiến triển theo chiều sâu với tốc độ nhanh. Điều này đáng tiếc không xảy ra. Vì thế, về bản chất, quan hệ hiện nay của Việt Nam với các nước thành viên ASEAN là những quan hệ tiêu chuẩn trong khuôn khổ lỏng lẻo, thiếu đoàn kết của tổ chức này. Tức là ngay cả trong các nước thành viên ASEAN gần gũi nhất, Việt Nam không có được những quan hệ, liên kết thực sự chặt chẽ, sâu đậm – chứ chưa nói tới quan hệ chiến lược hay liên minh – để có thể có chỗ dựa, hay ít hơn là giúp đỡ, hoặc ít nhất là ủng hộ mạnh mẽ.


Nhìn rộng ra nữa khỏi khu vực ASEAN thì thấy càng “trống trải” với Việt Nam. Vì thế, Việt Nam thực sự vẫn cô độc, tình thế này càng hiển hiện rõ khi “có sự”, khi chúng ta phải đối đầu với các vấn đề nan giải, những thách thức vượt quá sức lực hạn chế và tầm vóc quốc gia bé nhỏ của mình. Các vụ việc liên tiếp trên Biển Đông, mới đây nhất là vụ giàn khoan HD-981, cũng như còn nhiều vụ việc chắc chắn sẽ xảy ra ở khu vực này chỉ làm cho thực trạng này thêm hiện hình rõ hơn và thêm bi đát.


Hướng đi bắt buộc


Không thể bác bỏ được ảnh hưởng to lớn của ASEAN cho sự phát triển của Việt Nam trong những năm trước đây. Điều này chắc chắn sẽ còn đúng trong nhiều năm tới.


Việc ASEAN không thỏa mãn được các đòi hỏi và mong đợi của Việt Nam không có nghĩa là Việt Nam nên thờ ơ với tổ chức này. Các mặt hạn chế, yếu kém hiện nay của Hiệp hội các nước Đông Nam Á là kết quả của các thiếu sót của tất cả các nước thành viên tham gia. Vì thế, Việt Nam phải cùng các nước thành viên trong khu vực Đông Nam Á gắng sức đẩy mạnh các công cuộc cải cách và nâng cấp tổ chức khu vực này của mình. Không còn cách chọn lựa khác, các nước ASEAN, trong đó có và trước hết là Việt Nam, phải từng bước tăng cường hợp tác một cách trung thực, chân thành, thẳng thắn hơn, đoàn kết hơn, biết đặt lợi ích chung  lớn hơn của cộng đồng lên trên các lợi ích, các quan tâm dân tộc nhiều hơn.


Mặt khác, Việt Nam phải đánh giá lại quan hệ có “bề sâu” quá mức của mình với Trung Quốc. Đồng thời chọn lựa, thiết lập và xây dựng các quan hệ thực sự có bề sâu với một số quốc gia khác, có thể là trong khu vực hoặc ngoài khu vực, có thể trước hết là với các quốc gia có chung các mối quan tâm hàng đầu. Quan hệ như vậy đòi hỏi ở mức độ cao hơn thái độ thực sự chân thành, trung thực, rõ ràng, nhất quán, dám mạnh dạn đương đầu với các mối đe dọa, nguy hiểm. Liên kết có bề sâu, nếu cần, sẽ đặt nền móng cho quan hệ chiến lược hay liên kết liên minh, cả trong an ninh và quốc phòng, quân sự. Đã đánh mất nhiều cơ hội, Việt Nam hiện nay không có nhiều thời gian cho việc này.


Không thể nói là giới lãnh đạo Việt Nam đã không ý thức được sự cần thiết phải có các quan hệ, liên kết sâu sắc. Chắc chắn là họ biết rõ, nhưng đã gặp quá nhiều khó khăn và cản trở để thực hiện các bước đi có kết quả. Các lý do chính có thể kể đến là quan hệ quá “đặc biệt” với Trung Quốc và chế độ chính trị cũng quá “đặc biệt” nốt của Việt Nam hiện nay, khiến giới lãnh đạo các nước, dù có quan tâm thực sự, cũng bị “bó tay bó chân”, không có được sự ủy thác, ủng hộ cần thiết của người dân nước họ. Không còn khả vọng nào khác trong tình thế cấp bách hiện thời, hai tảng đá chặn đường này đòi hỏi một cách giải quyết dứt khoát và táo bạo.


Thời gian vừa qua (lại một lần nữa) rộ lên ý kiến cho rằng Việt Nam phải nắm lấy vai trò lãnh đạo ASEAN, dẫn dắt tổ chức này đối đầu, chống lại áp lực hung hãn mọi mặt từ Trung Quốc, rằng ý tưởng như thế đã được Mỹ ủng hộ từ hậu trường. Đây là một ý tưởng huyễn hoặc, đầy ảo tưởng.


Xét theo khía cạnh năng lực, Việt Nam không có đủ điều kiện để lãnh đạo ASEAN, cả về kinh tế lẫn quân sự, xã hội. Sau hơn hai thập kỷ có tốc độ tăng trưởng đáng kể, chúng ta mới chật vật ra khỏi nhóm các quốc gia có thu nhập thấp, vào được nhóm thu nhập trung bình thấp, ngay sau đó tốc độ tăng trưởng giảm sút đáng kể. Tính theo sức mua tương đương PPP (cách tính cho Việt Nam có các con số đẹp hơn) thì thu nhập đầu người của Việt Nam đang ở sát mức trung bình cho cả nhóm ASEAN, xếp thứ 4 từ dưới lên, hơn được ba nước Myanmar, Campuchia, Lào; xếp theo tổng giá trị sản phẩm kinh tế quốc dân GDP thì Việt Nam đứng 5, cũng từ dưới lên, hơn được ba nước trên và Brunei . Xét theo chỉ số phát triển con người HDI thì Việt Nam cũng chỉ ở mức trung bình của ASEAN. (Xem Members states of the Association of Southeast Asian Nations và List of ASEAN countries by GDP (nominal) trên Wikipedia). Như vậy, về khía cạnh sức mạnh và trình độ phát triển kinh tế, xã hội rõ là Việt Nam không có đủ năng lực lãnh đạo và chắc cũng chẳng có nước nào chịu chấp nhận vai trò lãnh đạo của Việt Nam. Xét theo khía cạnh quân sự thì Việt Nam có thể được coi là có quân đội khá mạnh, nhưng cũng chẳng có gì quá nổi trội. Chúng ta hiện nay không có đủ năng lực dù là chỉ để “giữ nhà”.


Xét theo khía cạnh uy tín, yếu tố tiếp theo mà người lãnh đạo phải có, thì thấy ý tưởng dẫn đầu ASEAN đối đầu với Trung Quốc còn không hợp lý hơn. Uy tín của Việt Nam có thể nói là ở dưới đáy trong những năm vấn đề Campuchia kéo dài; từ những năm 1990, nó chỉ được cải thiện chút ít, nhưng không đảm bảo được cho Việt Nam có tiếng nói đáng kể dù chỉ trong khu vực. Thử nhìn thái độ của Campuchia hay Thái Lan là thấy được. Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc diễn biến ra sao, Việt Nam “đi đêm” với Trung Quốc thế nào, các nước ASEAN đều biết rõ, vậy họ có chấp nhận để Việt Nam lãnh đạo đối chọi với Trung Quốc không? Một nước không dám, dù chỉ là lên tiếng ủng hộ một nước khác trong cùng hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn như chính mình có đủ tư cách lãnh đạo không?


Cứ giả sử được cho cơ hội để lãnh đạo ASEAN thì không biết Việt Nam sẽ thu được những ích lợi gì trong tương lai, nhưng trước mắt, với 10 thành viên đang mỗi người một ngả, ai cũng khăng khăng bám chặt lợi ích của riêng mình, có thể giẫm đạp lên lợi ích của nước khác, lại luôn giơ cao tấm bảng không can thiệp vào công việc nội bộ thì đây là một công việc còn khó hơn là “dời non lấp bể”, ngoài sức tưởng tượng của một quốc gia thành viên. Nó trước tiên sẽ rút cạn kiệt mọi nguồn lực, sức lực, trí tuệ của Việt Nam. Nếu có ai tặng cho vai trò lãnh đạo ASEAN, Việt Nam cũng không nên ôm vào. Đó là “món quà của người Danaans”, đem lại nhiều tai họa và phiền muộn hơn là giá trị thực sự.


Việt Nam hoàn toàn chưa có sức mạnh “cứng” cũng như sức mạnh “mềm” cần thiết. Phải chờ ít nhất  10-20 năm nữa Việt Nam mới có thể nghĩ đến ý tưởng này.


Cái Việt Nam cần lúc này không phải là lãnh đạo ai đó mà là bình lặng, dồn mọi tâm trí, sức lực vào công cuộc cải tổ, xây dựng đất nước, chăm lo đến đời sống, quyền lợi của người dân. “Hữu xạ tự nhiên hương”, một khi Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, có tiềm lực kinh tế, quân sự dồi dào, người dân được đảm bảo chắc chắn các nhu cầu, quyền lợi cơ bản thì tự khắc Việt Nam sẽ có được vị thế xứng đáng.


© 2014 Trần Hoàng & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 07, 2014 07:05

ASEAN và Việt Nam thời biển động

Trần Hoàng


Trong liên quan với vụ việc Giàn khoan HD-981 thời gian vừa qua, Việt Nam lại một lần nữa gặp phải một thất bại ngoại giao đáng kể. Mặc dù chính phủ Việt Nam tuyên truyền qua báo chí trong nước là những tuyên bố mạnh mẽ của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị cấp cao ASEAN tại Myanmar ngày 11.5.2014, lên án việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào sâu lãnh hải Việt Nam, kêu gọi các nước ASEAN lên tiếng phản đối Trung Quốc và đề nghị đưa các nội dung liên quan tới tranh chấp trong Biển Đông vào tuyên bố chung của hiệp hội, đã gặp được đồng thuận và ủng hộ của các nhà lãnh đạo của tổ chức khu vực này, nhưng sự thực mà ai cũng biết là trong tuyên bố chủ tịch, các nước ASEAN chỉ  “biểu thị các quan ngại đặc biệt trước các diễn biến trong Biển Đông” và “kêu gọi các bên… thực hành tự kiềm chế, không dùng tới đe dọa hay sử dụng vũ lực, và giải quyết tranh chấp bằng các phương tiện hòa bình theo các nguyên tắc phổ cập của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước về Luật Biển năm 1982.”, hoàn toàn không đả động một lời tới Trung Quốc. Các Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN tuy sau đó có đưa ra một tuyên bố riêng về Biển Đông, nhưng lời lẽ thì không khác gì mấy lời lẽ của tuyên bố chủ tịch trên.


Thất bại này là thời điểm để Việt Nam cân nhắc lại một cách có tính phê bình quan hệ của mình với ASEAN; mà trước hết là xem xét lại những sai lầm, thiếu sót và sao nhãng của bản thân để thu được những bài học bổ ích và xác định hướng đi cho thời gian tới.


Những căng thẳng trong Biển Đông tầm cỡ như vụ việc Giàn khoan HD-981 từ trước tới nay có nhiều và phản ứng chung của các nước ASEAN từ trước tới nay vẫn vậy, vẫn là chung chung, không có tuyên bố rõ ràng, dứt khoát gì đặc biệt. Nhiều nước ASEAN vẫn luôn nêu cao quan điểm không can thiệp vào công việc nội bộ, từ chối không đưa các vấn đề song phương vào các chính sách, tuyên bố chung.


Điển hình gần đây nhất là vụ đụng độ trực tiếp giữa Philippines và Trung Quốc tại bãi cạn Scarborough kéo dài từ tháng 4 tới khoảng tháng 7 năm 2012 với kết quả là Trung Quốc chiếm kiểm soát thực sự bãi cạn này và những vùng biển xung quanh và tiếp theo là việc Philippines đệ đơn kiện Trung Quốc lên Tòa án Quốc tế về Luật Biển (international Tribunal for the Law of the Sea). ASEAN thực chất đã hoàn toàn im lặng trong thời gian vụ việc xảy ra. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 20 tại Phnom Penh 2-3.4.2012 và sau đó tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN vào ngày 29.5.2012, các quốc gia thành viên đã không đưa ra bất kỳ một tuyên bố hay thông cáo nào ủng hộ nước thành viên của họ là Philippines. Tiếp sau đó, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 45 họp vào các ngày 9-13.7.2012, khi Philippines đòi hỏi tuyên bố chung phải phản ánh các cuộc tranh luận quanh vấn đề tranh chấp giữa nước này và Trung Quốc tại bãi cạn Scarborough, Việt Nam muốn tuyên bố chung nói đến các vùng đặc quyền kinh tế EEZ thì do mâu thuẫn trong nội bộ ASEAN, nhất là quan điểm chống đối của nước giữ ghế chủ tịch Campuchia, hội nghị này kết thúc mà không đưa ra được kỳ một thông cáo chung nào, một sự việc lần đầu tiên xảy ra trong lịch sử 45 năm của tổ chức này.


Đó là thái độ phản ứng của ASEAN nói chung. Còn thái độ phản ứng chính thức của Việt Nam là như thế nào? Rất đáng tiếc là cũng không có gì đặc biệt, lời lẽ của  Việt Nam có thể nói là hết sức chung chung và không thể ngoại giao hơn, “Việt Nam hết sức quan ngại tới vụ việc Scarborough và kêu gọi các bên tham gia cần thực hành kiềm chế và giải quyết các xung đột một cách hòa bình dựa trên nền tảng của luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về ứng xử các bên ở Biển Đông, nhằm gìn giữ hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn biển tại Biển Đông và khu vực.” (Xem Scarborough Shoal dispute of ‘concern’ trên Việt Nam News ngày 26.4.2012)


Tuyên bố chính thức của các nước ASEAN khác trước vụ việc này cũng chẳng có gì hơn, nếu không nói là còn xấu hơn. Thí dụ như Malaysia, tuy lúc đầu có tuyên bố “ủng hộ kêu gọi của Philippines cho một giải pháp hòa bình” (nhấn mạnh được bổ sung) trong tranh chấp Scarborough với Trung Quốc theo luật pháp quốc tế (xem Malaysia too wants peace in Panatag Shoal trên Inquirer), thì chỉ một thời gian ngắn sau đó, trước việc Trung Quốc tăng cường tuần tra hải giám Biển Đông, nước này đã cho các nước ASEAN biết rằng họ có thể làm việc riêng với Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp trong Biển Đông, không cần để ý tới yêu sách (chủ quyền) của các nước khác. “Chỉ vì các anh có kẻ thù không có nghĩa là kẻ thù của các anh cũng là kẻ thù của tôi.” (Xem Malaysia Splits With Asean Claimants on China Sea Threat trên Bloomberg ngày 29.8.2013.)


Chỉ cần xem xét vụ việc trên cũng thấy Việt Nam không nên và không thể mong đợi ủng hộ gì hơn từ phía ASEAN. Hơn nữa, hoàn toàn không có gì là quá đáng khi nói Việt Nam cũng không có tư cách gì để đòi hỏi một sự ủng hộ cao hơn. Mặt khác, có thể thấy ASEAN càng ngày càng hiện hình rõ là một tổ chức khu vực không có gì là hùng mạnh, có thế lực đáng kể, cả về mặt kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao, nếu không muốn nói là lỏng lẻo và yếu kém.


Vài nét sơ lược về hội nhập của Việt Nam vào ASEAN


Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào tháng 7 năm 1995, nhưng việc “đi lại” giữa hai bên đã bắt đầu từ những năm cuối thập kỷ 70 thế kỷ trước, sau khi thống nhất đất nước vào năm 1975.


Trong cuốn Hồi ức và Suy nghĩ của Trần Quang Cơ, nguyên thứ trưởng ngoại giao Việt Nam, người ta có thể đọc thấy: “Nể sợ sức mạnh quân sự và ý chí kiên cường của Việt Nam, mặt khác lo ngại mối đe dọa từ nước Trung Hoa khổng lồ tăng lên một khi Mỹ rút khỏi Đông Nam Á, đồng thời lại có yêu cầu phát triển kinh tế, các nước ASEAN sốt sắng bình thường hóa cải thiện quan hệ với Việt Nam.” Nhưng “… (Việt Nam) làm cao trước việc ASEAN ngỏ ý muốn Việt Nam tham gia tổ chức khu vực này…”


Các tài liệu phân tích nước ngoài về thời kỳ này nói chung là thống nhất với nhận xét của ông Trần Quang Cơ. Tuy có khác biệt nhất định trong quan điểm, xu hướng nói chung của năm nước sáng lập ASEAN, đặc biệt là Malaysia, là quan tâm tới việc lôi kéo Việt Nam vào tham gia ASEAN. Vào tháng 2 năm 1973, tức là chỉ vài tuần sau khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27.1.1973, sau một hội nghị đặc biệt của ASEAN, các Bộ trưởng Ngoại giao các nước thành viên đã ra tuyên bố chung thể hiện rõ mong muốn mở rộng hiệp hội. Trong các Hội nghị Thượng đỉnh của ASEAN  các năm 1976 và 1977, các nước thành viên đều biểu thị sẵn sàng phát triển quan hệ có thành quả và hợp tác hai bên cùng có lợi với các nước khác trong khu vực, nhắm định trước hết là tới Việt Nam. Động cơ ASEAN muốn lôi kéo Việt Nam về phía mình trước hết gồm có động cơ an ninh, sau là động cơ kinh tế.


Cần nhắc lại ở đây là một trong những lý do chủ yếu dẫn đến sự ra đời của ASEAN là lo ngại trước sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á. Hai thế lực cộng sản chính ở Đông Á và Đông Nam Á lúc đó là Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên Việt Nam không phải là đối tượng để họ lo ngại chính, nỗi lo sợ lớn nhất là Trung Quốc. Điều này không chỉ xuất phát từ sức mạnh nổi trội của Trung Quốc mà còn vì những chính sách hung hãn của nước này. Tất cả năm nước sáng lập ASEAN đều phải đối đầu với thực trạng Bắc Kinh tìm cách điều động các nhóm cộng sản, trong đó có nhiều nhóm của Hoa kiều, đột nhập vào lãnh thổ, sau đó thâm nhập vào đời sống chính trị, xã hội các nước này. Quan hệ của các nước ASEAN, đặc biệt là Indonesia và Philippines, với Trung Quốc vì thế xấu đi một cách nghiêm trọng từ những năm cuối thập kỷ 1960.


Sau khi Mỹ rút quân khỏi Nam Việt Nam, tuy có những e dè nhất định trước quốc gia có định hướng cộng sản Việt Nam, các nước ASEAN có tính toán rằng nếu Việt Nam trở thành thành viên ASEAN, nghiễm nhiên nguy cơ đe dọa của nước cộng sản này sẽ không còn nữa; hơn thế nữa, Việt Nam sẽ trở thành rào cản vững chắc phía Bắc trước tiềm năng bành trướng của Trung Quốc (một sứ mệnh Việt Nam đã đảm nhiệm trong nhiều thế kỷ). Vì Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo ở Bán đảo Đông Dương nên việc nước này hội nhập vào ASEAN sẽ làm cho vai trò, thế lực của tổ chức này sẽ được cải thiện đáng kể. Ngoài ra, ASEAN còn có quan tâm lớn tới thị trường Việt Nam và các cơ hội đầu tư vào nước này.


Việt Nam đã từ chối không tham gia ASEAN. Sau khi không bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Việt Nam định hướng vào Liên bang Xô-viết. Thời kỳ từ năm 1978 tới năm 1989 thực chất là thời kỳ các nước ASEAN hiệp lực, có hợp tác với Trung Quốc ở mức nhất định, đối phó với Việt Nam sau Chiến tranh Biên giới Tây Nam, với việc Việt Nam đem quân vào Campuchia tháng 12.1978. Từ thời điểm này trở đi và sau thất bại ngoại giao, Việt Nam dần dần rơi vào thế cô lập, chỉ có quan hệ đáng kể  với Liên bang Xô-viết, và tình trạng này kéo dài mãi tới đầu thập kỷ 1990. Sau khi Liên bang Xô-viết tan rã, Việt Nam rơi vào thế hoàn toàn cô lập, khủng hoảng kinh tế trầm trọng và tìm cách bằng mọi giá thoát ra khỏi tình thế bi đát này. Năm 1992, Việt Nam biểu thị sự quan tâm gia nhập ASEAN và sau các đợt đàm phán, trở thành thành viên chính thức của tổ chức khu vực Đông Nam Á này vào tháng Bảy năm 1995. Tuy nhiên, tuyên bố chính thức về ý định gia nhập ASEAN của Việt Nam chỉ được đưa ra sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, để tránh nước này phật ý.


Vì các lý do tương tự như những lý do trong các năm 1970 đã nêu ở phần trên, các nước ASEAN đồng tình và chào đón ý tưởng hội nhập của Việt Nam. Thực chất là ASEAN và Việt Nam đều cần đến nhau để tăng đối trọng trong quan hệ của họ với “người khổng lổ” Trung Quốc. Việt Nam không gặp phải cản trở gì lớn trong quá trình thương thuyết hội nhập. Tuy nhiên, nước này hình như lại quá hài lòng với vai trò thành viên trong ASEAN, không có nhiều nỗ lực tìm kiếm, xây dựng các mối liên kết chặt chẽ, ở mức độ sâu sắc, với các quốc gia khác trên thế giới.


Một tổ chức khu vực nhiều phần yếu kém


Trong so sánh tương đối với các chức khu vực khác trên thế giới, ASEAN được cho là một tổ chức lỏng lẻo và có phần yếu kém. Trong bài viết có tiêu đề “Thất bại của ASEAN” (The Failure of ASEAN) đăng trên The Chicago Journal of Foreign Policy ngày 21.1.2014, tác giả Tommie Thompson có những đánh giá hết sức xác đáng:


“… khác với các tổ chức khu vực khác như Liên minh châu Âu hay Liên đoàn Ả-rập, ASEAN thiếu một khung cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Một phần, đó là do quá khứ lịch sử khác biệt của các dân tộc Đông Nam Á. Khác với châu Âu hay Trung Cận Đông, các nước Đông Nam Á có lịch sử phát triển dân tộc, cơ cấu nhà nước, bản sắc văn hóa khác nhau; các yếu tố dẫn đến việc thành lập của ASEAN là một quá khứ thuộc địa chung và vị trí gần gũi, chứ không phải là thống nhất văn hóa hay các mối quan tâm lợi ích chung rõ ràng (xin cân nhắc các mối quan tâm lợi ích khác biệt của các nước Đông Nam Á với các hình thức nhà nước khác nhau, từ dân chủ tới độc tài quân sự triệt để).


Hiện nay, các giá trị của nhóm ASEAN, được gọi là ‘Con đường ASEAN’, nhấn mạnh vào chủ nghĩa tự nguyện và tự quyết – ban đầu, thậm chí một tuyên bố công khai không đồng tình với một hay nhiều thành viên khác cũng không được cho phép đưa ra. Mặc dù điều này có thể bảo vệ các nước Đông Nam Á trước một kiểm soát kiểu gia trưởng từ phía một tổ chức siêu dân tộc, điểm mà họ lo ngại do quá khứ lịch sử thuộc địa, nó khiến tổ chức này trở nên vô tác dụng trong việc giải quyết các vấn đề khu vực có ý nghĩa quan trọng. Mục đích chính của điều này, ít nhất là về mặt thực tế, là bảo vệ chủ quyền dân tộc. Một thí dụ: trong những năm 1970, nhằm theo đuổi hội nhập kinh tế, với tuyên bố Vùng Hòa bình, Tự do và Trung lập ZOPFAN, ASEAN tập trung vào việc cắt giảm ảnh hưởng của phương Tây. Hơn nữa, cơ cấu tổ chức của ASEAN về cơ bản khác với cơ cấu tổ chức của các tổ chức khu vực khác ở chỗ là nó hoạt động như một diễn đàn không chính thức hơn là một trường đàm phán. Cách thức này dựa vào các đồng thuận yếu lỏng, thậm chí còn kém mạnh mẽ so với các thỏa thuận không ràng buộc của Liên Hiệp Quốc được tăng cường hiệu lực bởi ‘các chuẩn mực quốc tế’, làm cho cộng tác chung trở thành bất khả thi. Nhiều nước, tuy vậy, ý thức được vấn đề này và theo đuổi các cuộc cải tổ, nhưng quan tâm lợi ích đối kháng từ các nước khác như Indonesia – một nước luôn đề cao ý tưởng không can thiệp – ngăn cản những thay đổi như vậy.


Các vấn đề khu vực hiện nay làm hiện rõ sự cộng tác lỏng lẻo trong nội bộ ASEAN. Một thí dụ: những nước liên quan tới tranh chấp lãnh thổ trong Biển Đông đã quyết định không dùng ASEAN để giải quyết các vấn đề ngoại giao thay cho đàm phán riêng; ban đầu các nước ASEAN có yêu sách (chủ quyền) cho rằng ASEAN phải cho ra một đối trọng với yêu sách (chủ quyền) của Trung Quốc, nhưng sau đó họ ý thức được rằng các nước thành viên không liên quan tới tranh chấp này khó có thể ủng hộ ý tưởng này – điềunày thể hiện thất bại của ASEAN trong việc tăng cường thống nhất khu vực. Một vấn đề khác, cấp bách hơn, là khói mù (haze). Từ những năm 1990, toàn bộ Đông Nam Á phải đương đầu với nạn khói mù tràn khắp, chủ yếu là do kỹ thuật canh nông đốt nương làm rẫy của Indonesia. Thiếu một khung tổ chức mạnh hơn, Indonesia sẽ không có động cơ chấm dứt kỹ thuật triệt phá này, yếu tố này sẽ tạo ra các yếu tố ngoại thị kinh tế và y tế, sức khỏe trong vùng.


Cần phải làm gì đây? Một loạt các cải cách là cần thiết, nhưng những cải cách quan trọng nhất gồm có một phương cách để các nước thành viên phải chịu trách nhiệm cho hành động của họ và một điều khoản ép buộc tuân thủ mạnh hơn – họ (các nước thành viên ASEAN) phải coi nhẹ bớt đi nguyên tắc không can thiệp của mình, cả về mặt triết lý lẫn thực tiễn. Điều này có thể thực hiện được, thí dụ như bằng cách sử dụng các phương tiện trừng phạt kinh tế truyền thống, cho từ chối tuân thủ hay cho phép các nước thành viên được công khai phê phán các nước thành viên khác.” (Hết trích dẫn)


Ngay giới phân tích trong các nước ASEAN cũng có đánh giá ASEAN là yếu kém. Thí dụ như Phó giáo sư  Eduard C Tadem tại khoa Ngiên cứu châu Á trường đại học Philippines Diliman nhấn mạnh: “Với danh nghĩa là một cộng đồng, ASEAN hiện là một thất bại, khi ý niệm chủ quyền dân tộc đang tiếp tục làm xói mòn hội nhập, trong lúc bản sắc riêng của hiệp hội vẫn đang chưa tinh kết.” (Xem bài viết Asian as a group is a failure, academic insists trên The Nation Multimedia ngày 24.8.2013).


Về mặt hội nhập kinh tế, năm 2003 ASEAN đã đưa ra một kế hoạch đầy hoài bão xây dựng cái gọi là Cộng đồng Kinh tế ASEAN tới năm 2015. Tuy nhiên, theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á ADB thì có khả năng rất cao là mục tiêu này sẽ không đạt được đúng hạn, và các nước thành viên hiệp hội này sẽ còn có nhiều việc phải làm sau năm 2015. (Xem cuốn The ASEAN Economic Community: A Work in Progress do ADB xuất bản tháng 12 năm 2013.)


Nói thêm ở đây là có một nguyên nhân quan trọng nữa dẫn đến tình trạng yếu kém, “mỗi người một ngả” trong ASEAN: đó là tổ chức này thiếu một hay một hai quốc gia hùng mạnh, thực sự nổi trội, có khả năng cộng tác chặt chẽ với nhau, đóng vai trò lực liên kết và đầu kéo cho cả nhóm. Ngay cả Liên minh châu Âu, một tổ chức khu vực được cho là có cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn nhiều như đã nói tới ở trên, nhưng do cũng dùng nguyên tắc đồng thuận hoàn toàn trong việc đưa ra quyết định cho nhiều vấn đề quan trọng, nên đã nhiều lần rơi vào tình thế “điêu đứng”, bế tắc (thí dụ như trong vấn đề khủng hoảng nợ nần của Hy Lạp), và khó có thể ra khỏi nếu không có ý chí quyết tâm, động thái quả quyết của các nước đầu tầu là Đức, Pháp và sau này có thêm Ba Lan. ASEAN chưa có được điều này.


Thiếu sót trong đa dạng hóa các mối liên kết chặt chẽ, có chiều sâu


Như đã có nhắc tới ở trên, sau khi tạm thoát khỏi tình trạng hoàn toàn cô lập vào đầu thập kỷ 1990, gia nhập ASEAN vào tháng Bảy năm 1995, có thể thấy Việt Nam hoặc là không có nhiều nỗ lực, hoặc là không thành công trong việc tìm cách xây dựng, mở rộng và đa dạng hóa các mối quan hệ đặc biệt, sâu sắc hơn với các quốc gia trên thế giới. Tuy Việt Nam ngay sau đó đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ và có tăng cường đáng kể quan hệ với Liên minh châu Âu, nhưng các quan hệ này là hạn chế và phần lớn chỉ trong lĩnh vực kinh tế và chút ít trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, hoàn toàn không có gì là đặc biệt. Quan hệ với Nhật Bản và Hàn Quốc tuy có lên cấp nhưng cũng chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế và đầu tư. Những năm gần đây, Việt Nam đẩy mạnh quan hệ với Liên bang Nga, đồng minh trước đó của mình, hai nước có ý định thiết lập quan hệ cộng tác chiến lược, nhưng bề sâu hiện thời của quan hệ này không đủ để giúp Việt Nam tăng thêm sức lực, thấy tự tin hơn, củng cố được chỗ đứng của mình trong khu vực và trên trường quốc tế.


Có thể là Việt Nam đã thấy quá hài lòng khi có được tư cách thành viên trong ASEAN và quan hệ rộng khắp mọi mặt với ban đầu là 5, sau là 9 nước còn lại của hiệp hội này. Và có thể đã quá trông mong vào ASEAN, hy vọng quá trình hội nhập sẽ được tiến triển theo chiều sâu với tốc độ nhanh. Điều này đáng tiếc không xảy ra. Vì thế, về bản chất, quan hệ hiện nay của Việt Nam với các nước thành viên ASEAN là những quan hệ tiêu chuẩn trong khuôn khổ lỏng lẻo, thiếu đoàn kết của tổ chức này. Tức là ngay cả trong các nước thành viên ASEAN gần gũi nhất, Việt Nam không có được những quan hệ, liên kết thực sự chặt chẽ, sâu đậm – chứ chưa nói tới quan hệ chiến lược hay liên minh – để có thể có chỗ dựa, hay ít hơn là giúp đỡ, hoặc ít nhất là ủng hộ mạnh mẽ.


Nhìn rộng ra nữa khỏi khu vực ASEAN thì thấy càng “trống trải” với Việt Nam. Vì thế, Việt Nam thực sự vẫn cô độc, tình thế này càng hiển hiện rõ khi “có sự”, khi chúng ta phải đối đầu với các vấn đề nan giải, những thách thức vượt quá sức lực hạn chế và tầm vóc quốc gia bé nhỏ của mình. Các vụ việc liên tiếp trên Biển Đông, mới đây nhất là vụ giàn khoan HD-981, cũng như còn nhiều vụ việc chắc chắn sẽ xảy ra ở khu vực này chỉ làm cho thực trạng này thêm hiện hình rõ hơn và thêm bi đát.


Hướng đi bắt buộc


Không thể bác bỏ được ảnh hưởng to lớn của ASEAN cho sự phát triển của Việt Nam trong những năm trước đây. Điều này chắc chắn sẽ còn đúng trong nhiều năm tới.


Việc ASEAN không thỏa mãn được các đòi hỏi và mong đợi của Việt Nam không có nghĩa là Việt Nam nên thờ ơ với tổ chức này. Các mặt hạn chế, yếu kém hiện nay của Hiệp hội các nước Đông Nam Á là kết quả của các thiếu sót của tất cả các nước thành viên tham gia. Vì thế, Việt Nam phải cùng các nước thành viên trong khu vực Đông Nam Á gắng sức đẩy mạnh các công cuộc cải cách và nâng cấp tổ chức khu vực này của mình. Không còn cách chọn lựa khác, các nước ASEAN, trong đó có và trước hết là Việt Nam, phải từng bước tăng cường hợp tác một cách trung thực, chân thành, thẳng thắn hơn, đoàn kết hơn, biết đặt lợi ích chung  lớn hơn của cộng đồng lên trên các lợi ích, các quan tâm dân tộc nhiều hơn.


Mặt khác, Việt Nam phải đánh giá lại quan hệ có “bề sâu” quá mức của mình với Trung Quốc. Đồng thời chọn lựa, thiết lập và xây dựng các quan hệ thực sự có bề sâu với một số quốc gia khác, có thể là trong khu vực hoặc ngoài khu vực, có thể trước hết là với các quốc gia có chung các mối quan tâm hàng đầu. Quan hệ như vậy đòi hỏi ở mức độ cao hơn thái độ thực sự chân thành, trung thực, rõ ràng, nhất quán, dám mạnh dạn đương đầu với các mối đe dọa, nguy hiểm. Liên kết có bề sâu, nếu cần, sẽ đặt nền móng cho quan hệ chiến lược hay liên kết liên minh, cả trong an ninh và quốc phòng, quân sự. Đã đánh mất nhiều cơ hội, Việt Nam hiện nay không có nhiều thời gian cho việc này.


Không thể nói là giới lãnh đạo Việt Nam đã không ý thức được sự cần thiết phải có các quan hệ, liên kết sâu sắc. Chắc chắn là họ biết rõ, nhưng đã gặp quá nhiều khó khăn và cản trở để thực hiện các bước đi có kết quả. Các lý do chính có thể kể đến là quan hệ quá “đặc biệt” với Trung Quốc và chế độ chính trị cũng quá “đặc biệt” nốt của Việt Nam hiện nay, khiến giới lãnh đạo các nước, dù có quan tâm thực sự, cũng bị “bó tay bó chân”, không có được sự ủy thác, ủng hộ cần thiết của người dân nước họ. Không còn khả vọng nào khác trong tình thế cấp bách hiện thời, hai tảng đá chặn đường này đòi hỏi một cách giải quyết dứt khoát và táo bạo.


Thời gian vừa qua (lại một lần nữa) rộ lên ý kiến cho rằng Việt Nam phải nắm lấy vai trò lãnh đạo ASEAN, dẫn dắt tổ chức này đối đầu, chống lại áp lực hung hãn mọi mặt từ Trung Quốc, rằng ý tưởng như thế đã được Mỹ ủng hộ từ hậu trường. Đây là một ý tưởng huyễn hoặc, đầy ảo tưởng.


Xét theo khía cạnh năng lực, Việt Nam không có đủ điều kiện để lãnh đạo ASEAN, cả về kinh tế lẫn quân sự, xã hội. Sau hơn hai thập kỷ có tốc độ tăng trưởng đáng kể, chúng ta mới chật vật ra khỏi nhóm các quốc gia có thu nhập thấp, vào được nhóm thu nhập trung bình thấp, ngay sau đó tốc độ tăng trưởng giảm sút đáng kể. Tính theo sức mua tương đương PPP (cách tính cho Việt Nam có các con số đẹp hơn) thì thu nhập đầu người của Việt Nam đang ở sát mức trung bình cho cả nhóm ASEAN, xếp thứ 4 từ dưới lên, hơn được ba nước Myanmar, Campuchia, Lào; xếp theo tổng giá trị sản phẩm kinh tế quốc dân GDP thì Việt Nam đứng 5, cũng từ dưới lên, hơn được ba nước trên và Brunei . Xét theo chỉ số phát triển con người HDI thì Việt Nam cũng chỉ ở mức trung bình của ASEAN. (Xem Members states of the Association of Southeast Asian NationsList of ASEAN countries by GDP (nominal) trên Wikipedia). Như vậy, về khía cạnh sức mạnh và trình độ phát triển kinh tế, xã hội rõ là Việt Nam không có đủ năng lực lãnh đạo và chắc cũng chẳng có nước nào chịu chấp nhận vai trò lãnh đạo của Việt Nam. Xét theo khía cạnh quân sự thì Việt Nam có thể được coi là có quân đội khá mạnh, nhưng cũng chẳng có gì quá nổi trội. Chúng ta hiện nay không có đủ năng lực dù là chỉ để “giữ nhà”.


Xét theo khía cạnh uy tín, yếu tố tiếp theo mà người lãnh đạo phải có, thì thấy ý tưởng dẫn đầu ASEAN đối đầu với Trung Quốc còn không hợp lý hơn. Uy tín của Việt Nam có thể nói là ở dưới đáy trong những năm vấn đề Campuchia kéo dài; từ những năm 1990, nó chỉ được cải thiện chút ít, nhưng không đảm bảo được cho Việt Nam có tiếng nói đáng kể dù chỉ trong khu vực. Thử nhìn thái độ của Campuchia hay Thái Lan là thấy được. Quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc diễn biến ra sao, Việt Nam “đi đêm” với Trung Quốc thế nào, các nước ASEAN đều biết rõ, vậy họ có chấp nhận để Việt Nam lãnh đạo đối chọi với Trung Quốc không? Một nước không dám, dù chỉ là lên tiếng ủng hộ một nước khác trong cùng hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn như chính mình có đủ tư cách lãnh đạo không?


Cứ giả sử được cho cơ hội để lãnh đạo ASEAN thì không biết Việt Nam sẽ thu được những ích lợi gì trong tương lai, nhưng trước mắt, với 10 thành viên đang mỗi người một ngả, ai cũng khăng khăng bám chặt lợi ích của riêng mình, có thể giẫm đạp lên lợi ích của nước khác, lại luôn giơ cao tấm bảng không can thiệp vào công việc nội bộ thì đây là một công việc còn khó hơn là “dời non lấp bể”, ngoài sức tưởng tượng của một quốc gia thành viên. Nó trước tiên sẽ rút cạn kiệt mọi nguồn lực, sức lực, trí tuệ của Việt Nam. Nếu có ai tặng cho vai trò lãnh đạo ASEAN, Việt Nam cũng không nên ôm vào. Đó là “món quà của người Danaans”, đem lại nhiều tai họa và phiền muộn hơn là giá trị thực sự.


Việt Nam hoàn toàn chưa có sức mạnh “cứng” cũng như sức mạnh “mềm” cần thiết. Phải chờ ít nhất  10-20 năm nữa Việt Nam mới có thể nghĩ đến ý tưởng này.


Cái Việt Nam cần lúc này không phải là lãnh đạo ai đó mà là bình lặng, dồn mọi tâm trí, sức lực vào công cuộc cải tổ, xây dựng đất nước, chăm lo đến đời sống, quyền lợi của người dân. “Hữu xạ tự nhiên hương”, một khi Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, có tiềm lực kinh tế, quân sự dồi dào, người dân được đảm bảo chắc chắn các nhu cầu, quyền lợi cơ bản thì tự khắc Việt Nam sẽ có được vị thế xứng đáng.


© 2014 Trần Hoàng & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 07, 2014 07:05

June 5, 2014

Thiên An Môn shopping hòa bình giải trí

Phạm Thị Hoài


Hàng loạt bài về vụ Thiên An Môn trên báo chí chính thống đã biến mất, dù là hoàn toàn không kiểm duyệt tin tức trong nước về sự kiện này:


VnExpress: Sự kiện Thiên An Môn sau 25 năm nhìn lại: Không tìm thấy đường dẫn này


Người Lao Động:  25 năm bi kịch đẫm máu Thiên An Môn: Nội dung không được tìm thấy


Người Lao Động: Người đàn ông chặn xe tăng trên Thiên An Môn: Nội dung không được tìm thấy


Công an TP HCM: Trung Quốc: 25 năm “sá»± biến Thiên An Môn”: Tin này không tồn tại


Báo Mới: Thiên An Môn: Những hình ảnh của 25 năm trước: The page you requested was removed.


Tin nóng: Người hùng chặn xe tăng trước Quảng trường Thiên An Môn: Rất tiếc, trang bạn yêu cầu hiện không tồn tại hoặc không hoạt động.


Thanh Niên: Chùm ảnh diễn biến sự kiện thảm sát đẫm máu Thiên An Môn: Đơn giản là biến mất


Info.net: Thiên An Môn – Những hình ảnh cá»§a 25 năm trước: 404 – File or directory not found.


BizLive: [Chùm ảnh] Thảm sát đẫm máu Thiên An Môn: 404 Không tìm thấy nội dung này


Bên cạnh một Ban Tuyên giáo chính quy hoạt động công khai và tuyệt đối không kiểm duyệt cái gì hết chắc chắn còn có một hay nhiều Ban Tuyên giáo hay một cái gì đại loại như thế ở chế độ du kích, hoạt động bí mật. Chuyện Việt Nam là như vậy, cái gì cÅ©ng ít nhất hai mặt, hai mang, hai đáy, hai lớp, hai chân, hai hàng. Cho nên môt mặt thì Thiên An Môn không hô cÅ©ng biến như thế, mặt khác đến hôm nay nó lại vẫn đàng hoàng đẫm máu chẳng hạn trên Dân trí, tuy chỉ là tờ báo điện tá»­ cá»§a Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam, một tổ chức văn hóa xã hội mờ nhạt thuộc tập đoàn hình thức mang tên Mặt trận Tổ quốc, song có lượng độc giả thuộc loại lớn nhất trong nước. Nhưng đáng ngạc nhiên hÆ¡n là phóng sá»± ảnh “về chiến dịch đàn áp người biểu tình ở Thiên An Môn ngày 4/6/1989″ trên Truyền hình Kiểm sát, chuyên trang cá»§a Tạp chí Kiểm sát thuộc hệ thống các Viện Kiểm sát Nhân dân, một cÆ¡ quan đầy quyền lá»±c chính thống cá»§a nhà nước Việt Nam. Còn việc các trang dường như mạo danh lãnh đạo Đảng và Nhà nước hứng hết tất cả các bài vừa bị rút xuống thì không có gì phải bàn. Từ lâu những công ti ma này đã đảm nhiệm tất cả những công việc “sân sau” và “kế hoạch 3″ cá»§a bộ máy tuyên truyền chính thống, đặc biệt là những dirty jobs mà bộ máy ấy không muốn chính thức nhúng tay. Món “dân phòng” nhiễu nhương trong tuyên giáo ấy hẳn là đặc sản chỉ có ở Việt Nam thời ná»­a độc tài ná»­a vô chính phá»§ và bối rối toàn tập này.


Những sá»± luồn lách, quay quắt, đưa lên rút xuống, thò ra thụt vào, lúc kín lúc hở, úp úp mở mở, những chiến thuật lúc du kích Việt Nam, lúc Tam quốc Tàu ấy có thể là thú vị với những người không có việc gì đáng làm hÆ¡n là vỗ đùi thưởng thức chúng. Tôi chỉ thấy chúng vừa tốn thần kinh vừa nhàm. Lần sau muốn đưa tin về Thiên An Môn, báo chí Việt Nam có thể học từ chính người Trung Quốc. The Tank Man vẫn có thể tràn ngập Weibo, nhưng không chặn xe tăng mà chặn… vịt. Chú vịt vàng khổng lồ Rubber Duck cá»§a nghệ sÄ© Hà Lan Florentijn Hofman đem niềm vui và hòa bình đi khắp thế gian.


Nếu không thì dùng Tank Man của nghệ sĩ Tây Ban Nha Fernando Sánchez Castillo. Tay cầm cặp, tay xách túi mua hàng, chàng đứng trong một shopping mall, rất thích hợp cho những trang như  Phụ nữ Today, Phụ nữ Online, Eva, Web Trẻ thơ, nhất là khi kèm theo bộ váy mới nhất của Hà Hồ, bộ túi mới nhất của Ngọc Trinh. Hòa bình, shopping và giải trí. Khỏi phải nhức đầu kiểm duyệt hay không kiểm duyệt.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 05, 2014 16:38

Thiên An Môn shopping hòa bình giải trí

Phạm Thị Hoài


Hàng loạt bài về vụ Thiên An Môn trên báo chí chính thống đã biến mất, dù là hoàn toàn không kiểm duyệt tin tức trong nước về sự kiện này:


VnExpress: Sự kiện Thiên An Môn sau 25 năm nhìn lại: Không tìm thấy đường dẫn này


Người Lao Động:  25 năm bi kịch đẫm máu Thiên An Môn: Nội dung không được tìm thấy


Người Lao Động: Người đàn ông chặn xe tăng trên Thiên An Môn: Nội dung không được tìm thấy


Công an TP HCM: Trung Quốc: 25 năm “sự biến Thiên An Môn”: Tin này không tồn tại


Báo Mới: Thiên An Môn: Những hình ảnh của 25 năm trước: The page you requested was removed.


Tin nóng: Người hùng chặn xe tăng trước Quảng trường Thiên An Môn: Rất tiếc, trang bạn yêu cầu hiện không tồn tại hoặc không hoạt động.


Thanh Niên: Chùm ảnh diễn biến sự kiện thảm sát đẫm máu Thiên An Môn: Đơn giản là biến mất


Info.net: Thiên An Môn – Những hình ảnh của 25 năm trước: 404 – File or directory not found.


BizLive: [Chùm ảnh] Thảm sát đẫm máu Thiên An Môn: 404 Không tìm thấy nội dung này


Bên cạnh một Ban Tuyên giáo chính quy hoạt động công khai và tuyệt đối không kiểm duyệt cái gì hết chắc chắn còn có một hay nhiều Ban Tuyên giáo hay một cái gì đại loại như thế ở chế độ du kích, hoạt động bí mật. Chuyện Việt Nam là như vậy, cái gì cũng ít nhất hai mặt, hai mang, hai đáy, hai lớp, hai chân, hai hàng. Cho nên môt mặt thì Thiên An Môn không hô cũng biến như thế, mặt khác đến hôm nay nó lại vẫn đàng hoàng đẫm máu chẳng hạn trên Dân trí, tuy chỉ là tờ báo điện tử của Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam, một tổ chức văn hóa xã hội mờ nhạt thuộc tập đoàn hình thức mang tên Mặt trận Tổ quốc, song có lượng độc giả thuộc loại lớn nhất trong nước. Nhưng đáng ngạc nhiên hơn là phóng sự ảnh “về chiến dịch đàn áp người biểu tình ở Thiên An Môn ngày 4/6/1989″ trên Truyền hình Kiểm sát, chuyên trang của Tạp chí Kiểm sát thuộc hệ thống các Viện Kiểm sát Nhân dân, một cơ quan đầy quyền lực chính thống của nhà nước Việt Nam. Còn việc các trang dường như mạo danh lãnh đạo Đảng và Nhà nước hứng hết tất cả các bài vừa bị rút xuống thì không có gì phải bàn. Từ lâu những công ti ma này đã đảm nhiệm tất cả những công việc “sân sau” và “kế hoạch 3″ của bộ máy tuyên truyền chính thống, đặc biệt là những dirty jobs mà bộ máy ấy không muốn chính thức nhúng tay. Món “dân phòng” nhiễu nhương trong tuyên giáo ấy hẳn là đặc sản chỉ có ở Việt Nam thời nửa độc tài nửa vô chính phủ và bối rối toàn tập này.


Những sự luồn lách, quay quắt, đưa lên rút xuống, thò ra thụt vào, lúc kín lúc hở, úp úp mở mở, những chiến thuật lúc du kích Việt Nam, lúc Tam quốc Tàu ấy có thể là thú vị với những người không có việc gì đáng làm hơn là vỗ đùi thưởng thức chúng. Tôi chỉ thấy chúng vừa tốn thần kinh vừa nhàm. Lần sau muốn đưa tin về Thiên An Môn, báo chí Việt Nam có thể học từ chính người Trung Quốc. The Tank Man vẫn có thể tràn ngập Weibo, nhưng không chặn xe tăng mà chặn… vịt. Chú vịt vàng khổng lồ Rubber Duck của nghệ sĩ Hà Lan Florentijn Hofman đem niềm vui và hòa bình đi khắp thế gian.


Nếu không thì dùng Tank Man của nghệ sĩ Tây Ban Nha Fernando Sánchez Castillo. Tay cầm cặp, tay xách túi mua hàng, chàng đứng trong một shopping mall, rất thích hợp cho những trang như  Phụ nữ Today, Phụ nữ Online, Eva, Web Trẻ thơ, nhất là khi kèm theo bộ váy mới nhất của Hà Hồ, bộ túi mới nhất của Ngọc Trinh. Hòa bình, shopping và giải trí. Khỏi phải nhức đầu kiểm duyệt hay không kiểm duyệt.


© 2014 pro&contra

 •  1 comment  •  flag
Share on Twitter
Published on June 05, 2014 16:38

Rảnh háng

Nguyễn Viện


(8 truyện cực ngắn)


1.


Từng bước, tôi lết chân tới chỗ mà tôi biết là không thể khác được.


2.


Hắn leo lên lầu 7 rồi nhảy xuống bãi cỏ xanh bên dưới.


3.


Dưới gốc mận, cô gái khóc vì quả mận đang chín tới của mình vừa bị cắn một miếng bởi thằng hàng xóm.


4.


Người sau nối chân người trước bước xuống vũng bùn và biến mất, cho đến khi mặt đất trống trải.


5.


Đức Chúa Trời phán: “Đừng tự tử trong đồn công an”.


6.


Tôi đứng trước con rồng và tự hỏi, “Địt mẹ mày” có phải là một câu thơ phí phạm dành cho bọn chó đẻ không?


7.


“Đứng thẳng lưng lên”, tôi nghe ai đó hét. Im lặng. Một ai đó lại hét: “Đứng thẳng lưng lên”. Vẫn im lặng. Lại có tiếng hét: “Đứng thẳng lưng lên”. Tôi nhìn chung quanh chỉ thấy những con lợn đang xục mõm vào máng.


8.


Tôi mắc đái và tôi đứng lên bước vào toilet. Thật sướng khi nước trong người thoát ra. Tôi cũng nhìn thấy nhiều người đang đái như tôi. Và tôi tin rằng họ cũng đang sướng cho dù đái lén lút dưới chân một bức tường. Nhưng tôi biết ít nhất một người nhất định nín đái, bởi vì hắn không muốn nhấc đít khỏi chiếc ghế dù chỉ năm mươi giây. Có thể bạn không biết chúng là ai, nhưng tôi đoan chắc bạn sẽ nhận ra khi nhìn cái mặt nín đái của chúng.


31.5.2014


© 2014 Nguyễn Viện & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 05, 2014 00:15

Rảnh háng

Nguyễn Viện


(8 truyện cực ngắn)


1.


Từng bước, tôi lết chân tới chỗ mà tôi biết là không thể khác được.


2.


Hắn leo lên lầu 7 rồi nhảy xuống bãi cỏ xanh bên dưới.


3.


Dưới gốc mận, cô gái khóc vì quả mận đang chín tới của mình vừa bị cắn một miếng bởi thằng hàng xóm.


4.


Người sau nối chân người trước bước xuống vũng bùn và biến mất, cho đến khi mặt đất trống trải.


5.


Đức Chúa Trời phán: “Đừng tự tử trong đồn công an”.


6.


Tôi đứng trước con rồng và tự hỏi, “Địt mẹ mày” có phải là một câu thơ phí phạm dành cho bọn chó đẻ không?


7.


“Đứng thẳng lưng lên”, tôi nghe ai đó hét. Im lặng. Một ai đó lại hét: “Đứng thẳng lưng lên”. Vẫn im lặng. Lại có tiếng hét: “Đứng thẳng lưng lên”. Tôi nhìn chung quanh chỉ thấy những con lợn đang xục mõm vào máng.


8.


Tôi mắc đái và tôi đứng lên bước vào toilet. Thật sướng khi nước trong người thoát ra. Tôi cũng nhìn thấy nhiều người đang đái như tôi. Và tôi tin rằng họ cũng đang sướng cho dù đái lén lút dưới chân một bức tường. Nhưng tôi biết ít nhất một người nhất định nín đái, bởi vì hắn không muốn nhấc đít khỏi chiếc ghế dù chỉ năm mươi giây. Có thể bạn không biết chúng là ai, nhưng tôi đoan chắc bạn sẽ nhận ra khi nhìn cái mặt nín đái của chúng.


31.5.2014


© 2014 Nguyễn Viện & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 05, 2014 00:15

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.