Phạm Thị Hoài's Blog, page 21
April 6, 2014
Bí ẩn tâm hồn Nga (Bài 2) – Sự tiến hóa của Con người Xô-viết
Phạm Nguyên Trường dịch
Bài liên quan: Bài 1: Dmitry Babich – Các chuyên gia phá hoại
Những sự kiện của thế kỉ XX có ảnh hưởng rất lớn tới tâm hồn Nga.
Con người Xô-viết được coi là một giống người đặc biệt – cần cù lao động và không quan tâm tới sự giàu có về mặt vật chất – nhưng mặc dù Liên Xô đã sụp đổ, giống người đặc biệt này vẫn còn sống.
Ý niệm về tâm hồn bí ẩn của Nga đã lưu truyền ít nhất là từ giữa thế kỷ XIX. Cả các nhà văn nước ngoài lẫn các nhà văn Nga, các nhà triết học và các nhà tư tưởng, từ Marquis de Custine và Fyodor Dostoevsky đến Nikolai Berdyaev và Alexander Solzhenitsyn đều bày tỏ quan điểm riêng của họ về đặc điểm dân tộc của người Nga. Nói chung, người ta coi đặc điểm Nga là một cái gì đó trái ngược hoàn toàn với bản sắc duy lý, có tính chất tư bản chủ nghĩa của phương Tây, tâm hồn Nga là hiện thân của những đặc điểm như lòng vị tha, cởi mở, tâm linh, hào phóng, tận tâm, sẵn sàng hy sinh cá nhân cho cộng đồng, quyết tâm tìm kiếm chân lý phổ quát và thờ ơ trước sự giàu sang.
Thế kỷ XX đã buộc tâm hồn Nga phải chịu nhiều thay đổi. Bộ máy tư tưởng của Liên Xô bỏ nhiều nỗ lực vào cuộc thí nghiệm khổng lồ trong ngành nhân học xã hội, được gọi là “con người mới Xô-viết” hay “Homo Sovieticus”, với tâm hồn và bản chất được cho là sẽ trở nên thậm chí còn tốt đẹp hơn nữa. Vào giữa những năm 1970, cuốn Người Nga, một tác phẩm nổi tiếng của nhà báo Mỹ Hedrick Smith, đã mô tả sinh động những người dân Nga đang sống ở Liên Xô – họ được trình bày như những người hào phóng, bí ẩn, tình cảm, và về cơ bản là không duy lý và bốc đồng, bất chấp những áp lực liên tục về ý thức hệ “người xây dựng xã hội cộng sản” mà họ phải mang trên vai.
Bên cạnh những giá trị truyền thống được gán cho tâm hồn Nga, giống người đặc biệt này còn được cho là cần cù lao động, có tinh thần tập thể, và yêu nước. Nó có thể sống với những đồ đạc đơn giản nhất và từ bỏ các tiện nghi; tiện nghi bị coi là một trong những biểu hiện tiêu cực của xã hội tư sản. Khái niệm “Con người Xô-viết mới” đã biến mất cùng với thời đại của nó, nhưng một số quan niệm về nó vẫn bám chặt trong tâm trí người Nga hiện thời. “Năm 2004, một phần tư dân số tự gọi mình là người Liên Xô. Bây giờ con số này không vượt quá 12%-13%. Nhưng ngay cả khi người ta không còn tự dán nhãn ‘Liên Xô’ nữa thì cũng không có nghĩa là não trạng Xô-viết đã không còn tồn tại”, Boris Dubin, một nhà xã hội học hàng đầu và là chủ nhiệm công trình nghiên cứu xã hội và chính trị ở Trung tâm Phân tích độc lập Levada Center cho biết. Hiện tượng tâm hồn Nga sống dai hơn đế chế đã lụi tàn vào năm 1991 và bắt đầu một đời sống mới trong thời đại mới.
Một công trình nghiên cứu tâm lý học nhan đề “Khảo sát tính cách và cá tính người Nga” là một dự án nghiên cứu quốc tế do trường Đại học Tartu ở Estonia khởi xướng, phối hợp với khoảng 40 trường đại học Nga. Các kết quả của cuộc thăm dò được tiến hành trong 34 khu vực ở Nga cho thấy 76% những người được hỏi hoàn toàn tin rằng người Nga có một tính cách dân tộc độc nhất, không thể so sánh với bất kỳ dân tộc nào khác. Hình ảnh nước Nga và cư dân của nó là độc nhất vô nhị vẫn được tích cực truyền bá sang phương Tây, nhất là vào những giai đoạn không có cách giải thích nào khác cho những nghịch lý và sắc thái của đời sống và nền chính trị của Nga.
Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhấn mạnh là các công trình nghiên cứu thường được tiến hành ở những bình diện khác nhau. Xã hội học chủ yếu xử lí các giá trị và thực tiễn văn hóa, tức là những thứ thay đổi nhanh hơn nhiều, trong khi nhà tâm lý học tập trung vào các “siêu giá trị” và đặc điểm cá nhân, tức là những thứ thay đổi rất chậm. Trong trường hợp sau (nghiên cứu tâm lí – ND), sự khác biệt chủ yếu được nhận ra khi so sánh các thế hệ. “Khi nói về các đặc điểm cá tính của dân tộc Nga từ quan điểm tâm lý học, chúng ta cần phân chia giữa các thế hệ khác nhau. Không thể khái quát chung, vì những đặc điểm này thay đổi rất nhiều”, Olga Makhovskaya, nhà tâm lý học và nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Tâm lý học trực thuộc Viện Khoa học Nga cho biết.
Tất cả các chuyên gia đều đồng ý rằng 20 năm qua đã ảnh hưởng đến môi trường văn hóa và lối sống của người Nga chẳng kém gì 70 năm của chủ nghĩa xã hội trước đó. Những biến đổi của thời đại hậu cộng sản đã tác động sâu sắc đến tâm hồn Nga, vì vậy khi nghiên cứu thế hệ người Nga hiện nay, các nhà khoa học tìm thấy những giá trị và đặc điểm trái ngược với những điều mà họ chờ đợi.
Cá nhân trong tập thể
Trong bất kì xã hội nào, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể cũng đều là hai cực đối nghịch của cùng một bảng phân bố, có ý nghĩa đặc biệt vì vai trò quan trọng của nó trong diễn ngôn xã hội và chính trị. Chủ nghĩa tập thể có nguồn gốc từ các sinh hoạt cộng đồng của người Nga cổ và trong các giá trị đạo đức Chính thống giáo (thí dụ như “tinh thần cộng đồng”), trái ngược với chủ nghĩa cá nhân của người theo đạo Tin lành. Trong thời Xô-viết, chủ nghĩa tập thể có các hình thức được thể chế hóa, ví dụ như nông trang tập thể hay căn hộ tập thể.
Một công trình nghiên cứu dài hơi mang tên “Con người Xô-viết” do Trung tâm Levada tiến hành từ năm 1989 đến 2009, chia làm năm “đợt” khảo sát khác nhau và những công trình nghiên cứu gọi là “theo chiều dọc” dư luận, đã xem xét những xu hướng chính trong sự phát triển xã hội của xã hội Nga và thế hệ người Nga hiện nay. “Chủ nghĩa tập thể của người Nga thường được dán nhãn là tính cách rất đặc biệt của người Nga và chiều kích của xã hội Nga. Nhưng các công trình nghiên cứu của chúng tôi lại phát hiện ra rằng nước Nga hiện đại là một xã hội cực kì phân tán, mức độ mất niềm tin là rất cao: ba phần tư người Nga không tin nhau và nói rằng họ chỉ có thể dựa vào gia đình hoặc người thân. Chỉ có quan hệ cá nhân hoặc gia đình là quan trọng mà thôi”, ông Dubin cho biết. “Xã hội của chúng ta bị chia thành các nhóm rất nhỏ, liên kết bằng những mối quan hệ cá nhân hoặc gia đình rất có tính truyền thống. Xã hội của chúng ta không có những hình thức liên kết hiện đại được thể chế hóa nhằm kết hợp mọi người như trong các xã hội khác. Người Nga chỉ gắn bó với nhau trong sự tự thể hiện tập thể được diễn tả bằng một từ trừu tượng là chúng ta.”
Những công trình nghiên cứu so sánh về nước Nga hiện đại và các nước châu Âu khác do Alexander Demidov (thành viên của GfK RUS, một tổ chức nghiên cứu thị trường toàn cầu) thực hiện cũng chứng tỏ một thực tế là nước Nga đương đại là một trong những xã hội phân tán nhất ở châu Âu, rõ ràng là thiếu vắng một “siêu ý tưởng” hoặc “siêu giá trị” có khả năng đoàn kết hoặc động viên xã hội.
Đơn giản đến mức huyền bí
Khi nói về mình, người Nga thường tuyên bố rằng họ là người cởi mở, thân thiện và đơn giản, khác với người Đức lạnh lùng, tính toán, người Uzbek khôn lỏi, người Anh kín đáo hay người Do Thái thông minh. Nhưng trong phạm trù “cởi mở” này thì các nhà nghiên cứu thấy sự khác biệt giữa huyền thoại này và thực tế là rõ ràng nhất. Một người Nga trung bình thường được mọi người tin là cởi mở hơn công dân nhiều nước khác. Nhưng trong quá trình nghiên cứu do Đại học Tartu tiến hành, hơn 3.700 người ở các vùng khác nhau của Nga đã được yêu cầu điền vào một bảng câu hỏi và tiến hành xếp hạng cá tính của người Nga theo bảng khảo sát tính cách dân tộc gồm 30 mục (30-item National Character Survey), được thiết kế đặc biệt cho công trình nghiên cứu này. Cuối cùng, mức độ “cởi mở” trung bình của người Nga được đánh giá dưới mức trung bình xuyên-văn hóa trong số 49 quốc gia.
Một đặc điểm nữa, thường được coi là điển hình Nga là đầu óc đơn giản, trái ngược với các tính cách cá nhân phức tạp của các quốc gia khác. “Khó mà nói người Nga là đơn giản”, Makhovskaya nói. “Đầu óc đơn giản được các nhà tâm lý học giải thích khác nhau, đấy là cơ chế che giấu thái độ hung hăng. Lúc nào cũng có thể nói rằng ‘chúng tôi là những người đơn giản và đã bị lừa.’ Người Nga là những người khó lường và bất hợp lý chứ không phải là có đầu óc đơn giản, và họ có thể lừa được nhiều người. Sự đơn giản này là một phần của huyền thoại quốc gia.” Phần lớn các câu trả lời mà các nhà xã hội học thu được trong quá trình thăm dò ý kiến nhấn mạnh sự đơn giản và cởi mở trong tính cách Nga. “Đó khó có thể là những đặc điểm tâm lý của người Nga hay là tư duy của họ, nhưng là một hình thức (modus) quan hệ với nhà nước và quyền lực cực kì đặc trưng của Nga. Nó rất thuận tiện cho các nhà chức trách trong quá trình làm việc với các thành viên xã hội khi tuân theo lối mòn này. Về khía cạnh đó, hiện nay cũng không khác gì thế kỷ XIX hay thời Xô-viết. Đấy là vấn đề của bộ máy tuyên truyền quốc gia nhằm diễn dịch những đặc điểm mà người ta cho là mình có và phụ thuộc vào thành niềm tự hào dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi đang chứng kiến cách thức mà điều này phát triển thành huyền thoại về ‘con đường đặc biệt của Nga”, Dubin cho biết.
Hầu bao rộng
Sự hào phóng của tính cách Nga thường xuất hiện như một bất ngờ đối với người ngoại quốc. Cụm từ “tâm hồn phóng khoáng” đã trở thành cửa miệng, nhưng xác định ý nghĩa của nó không phải việc dễ. Ở mức độ bình thường nhất, hào phóng, trái ngược với tham lam, vẫn còn là một phần bản chất của người Nga. Người Nga vẫn thích có những cử chỉ đẹp và làm bạn bè ngạc nhiên với những món quà hào phóng. Chia tiền thanh toán tại cuộc họp mặt giữa bạn bè hoặc kiểm tra hóa đơn tại nhà hàng bị coi là nhỏ nhen. Cái gọi là “những người Nga mới”, tức những người đổ xô đến các khu nghỉ dưỡng ở châu Âu trong thập kỷ qua, đã trở nên nổi tiếng vì họ để lại những khoản tiền tip khá lớn.
Nhưng tính cách Nga được tạo thành từ cả hai: lạnh lùng và ấm áp. Khái niệm về tình đoàn kết chỉ được áp dụng với những người gần gũi và thân yêu, nhưng khó có thể nói đấy là hiện tượng xã hội. Sự thờ ơ xã hội, đặc trưng cho nước Nga hiện đại, không phải là vấn đề hào phóng, mà là hậu quả của sự bất tín đối với toàn bộ các thiết chế chính phủ và thậm chí với các thiết chế phi chính phủ. Ngay cả khi muốn giúp đỡ một ai đó, một người Nga trung bình thường quyên góp cho giáo xứ ở gần nhất hoặc cho ngay người họ hàng tương đối nghèo khó. Thái độ của người Nga đối với tổ chức từ thiện không tương thích với thái độ ở các nước giàu có nhất – các thảm họa động đất gần đây ở Haiti và phản ứng của người Nga để thể hiện rõ ràng tình trạng này.
Một làn sóng từ bi dâng lên khắp thế giới và người dân thuộc các dân tộc khác nhau quyên góp cho những tổ chức từ thiện khác nhau. Trong một chương trình từ thiện do đài truyền hình ZDF và báo Bild tổ chức, người Đức đã quyên được 20 triệu € (24,6 triệu USD). Người Thụy Điển chuyển 5 triệu € (6,1 triệu USD) viện trợ ngay trong những ngày đầu tiên sau khi xảy ra thảm họa. Không cần phải nói rằng Hoa Kỳ, nơi mà 90% dân số tham gia các tổ chức từ thiện, đứng đầu danh sách các nhà tài trợ. Ở cấp độ nhà nước, Nga cũng cấp khoảng 13 triệu € (16 triệu USD) thông qua Liên Hợp Quốc và đã gửi một bệnh viện di động và một nhóm các bác sĩ, nhưng khó có thể nói đây là kết quả của “tình thương vĩnh cửu của người Nga”, như Dostoevsky từng nói. Hầu hết người dân Nga tỏ ra thờ ơ trước các sáng kiến của Hội Chữ thập đỏ Nga. Cuối tháng Một có tin nói rằng người Nga không có bất kì đóng góp cá nhân nào cho Haiti.
Tài sản tinh thần mới
Có lẽ tâm hồn Nga vẫn đang tìm kiếm chân lý và những giá trị vĩnh hằng, nhưng ngày nay điều đó đang chuyển thành chiến thắng của một nền văn hóa tiêu thụ ở những mức độ khác nhau – từ siêu giàu đến tầng lớp trung lưu cấp dưới. Câu nói nổi tiếng của Rene Descartes “Tôi tư duy, vậy là tôi tồn tại”, ngày hôm nay ở Nga có dễ dàng nhại thành “Tôi tiêu thụ, vậy là tôi tồn tại”, để thể hiện cái gọi là “tiêu thụ phô trương”.
Trở lại năm 2004, theo tổ chức Nghiên cứu Thị trường R-TGI thì hơn 57% người Nga nói rằng họ có đủ tiền không chỉ để chăm lo cho các nhu cầu thường nhật mà còn mua sắm cho vui. Người tiêu dùng khao khát đổ xô đến các trung tâm mua sắm và chuỗi cửa hàng với tốc độ tương đương với tốc độ mà những người xây dựng có thể xây dựng chúng. Từ năm 2000 đến năm 2007, nhu cầu tiêu dùng ở Nga đã tăng 20 đến 30% một năm. Mặc cho khủng hoảng kinh tế, trong hai năm vừa qua (2007-2008 – ND) 28% các gia đình đã vay để tiêu dùng, theo kết quả một cuộc thăm dò do Trung tâm Levada tiến hành năm 2009.
Nhưng các nhà tâm lý học nhìn hiện tượng sáng chói này từ một góc độ bất bình thường và chỉ ra mùi vị Nga của lễ hội tiêu dùng này: “Thậm chí các nhà phân tâm học phương Tây cũng khẳng định rằng đau khổ là một trong những qui tắc tâm lý của lối sống của người Nga, từ thời Dostoevsky và cả trước đó nữa. Nó nằm rất sâu, tận đáy tâm hồn họ. Do đó, ngay cả nền văn hóa tiêu dùng, tức là nền văn hóa đang tìm cách đưa vào thiên hướng sống và niềm vui, đôi khi trông vẫn như một chú hề buồn”, Makhovskaya nhận định. Trung tâm Levada còn thực hiện một cuộc khảo sát đặc biệt trong những người Nga giàu có ở đô thị, đại diện cho giai cấp trung lưu lớp trên. “Có tới 60 đến 70% số người được hỏi tin rằng ở Nga, họ có thể mất tất cả mọi thứ vì những lý do khác nhau, và không coi địa vị của họ là ổn định. Họ không chắc chắn rằng con cái họ sẽ có thể kế thừa tài sản của họ. Đây là lý do chính để người ta tiêu tất cả mọi thứ ngay hôm nay và nhận bất cứ thứ gì mà số tiền hiện có có thể mua”, Dubin cho biết.
Rèn đúc giới trẻ
Đối với những người quyết liệt ủng hộ chủ nghĩa tư bản, công việc và sự nghiệp vẫn là điểm tham chiếu chính trong cuộc đời. Đối với đa số người Nga ở độ tuổi 18 đến 25, mục tiêu chính là thực hiện khát vọng có một cuộc sống thịnh vượng và noi theo các khuôn mẫu thành công xã hội đã được mọi người công nhận. Điều này thường được gọi là “cuộc khủng hoảng bản sắc” chứ không phải là trở lại truyền thống dân tộc hay các khuôn mẫu cổ xưa. “Giới trẻ là những người thực dụng (pragmatic) nhưng đồng thời lại tỏ ra khá lo lắng và dễ ngả theo người khác (conformism). Họ sống bằng những nhu cầu hàng ngày chứ không phải bằng những ý tưởng hay niềm tin lớn. Họ đánh giá giáo dục chủ yếu là theo số tiền lãi mà nó có thể mang về. Họ là những người rất cá nhân chủ nghĩa và điều này xác định lối sống của họ. Đó là một loại ý thức ngắn hạn và tính cách khá nông cạn. Trước đây cái này được gọi là người tầm thường”, Mahovskaya nhận định.
Đa số thanh niên, thành phần năng động nhất của xã hội, hiểu quyền tự do mới giành được không phải như cơ hội để xây dựng một xã hội dân sự, mà chủ yếu như cơ hội có cuộc sống an toàn và tiêu thụ nhiều nhất có thể. “Cho đến thời gian gần đây, đa số thanh niên Nga là những người rất dễ ngả theo người khác (conformist), họ không có văn hóa phản kháng (counterculture), tức là văn hóa có thể chống cự lại chủ nghĩa tiêu thụ. Tất cả mọi người, trong đó có thanh niên, đang tranh đấu để có thể tiếp cận thị trường hàng hóa tiêu dùng. Nhưng thời gian thật gần đây, chúng ta đã thấy có sự thay đổi dần dần,” Karin Kleman, một nhà xã hội học người Pháp, từng nghiên cứu nền văn hóa của giới trẻ Nga cho biết.
Cho đến nay ở Nga chẳng có mấy không gian cho phong trào chống toàn cầu hóa, cho các nhóm tiêu dùng đề cao đạo đức hay các nhóm thanh niên thân thiện với môi trường – những hiện tượng phổ biến trong giới trẻ ở phương Tây. Các nhà xã hội học cũng lưu ý một đặc điểm khác của thế hệ trẻ Nga, những người chưa từng sống ở Liên Xô. Khác với những bộ phận dân cư khác, thanh niên Nga cởi mở với việc liên kết xã hội, họ là những người có tư tưởng quốc tế hơn – nhưng chỉ trong trường hợp tình hình ổn định. Nếu có chuyện bất thường, cơ chế bù đắp (compensatory mechanism), tức cái cơ chế biện minh cho “con đường đặc thù của Nga” sẽ vận hành ngay cả đối với thanh niên. “Tuy hấp thu chủ yếu văn hóa và sản phẩm phương Tây, nhưng khi cần lựa chọn, thanh niên sẽ áp dụng tiêu chuẩn và khuôn mẫu của đa số. Trong một tình huống rất đơn giản, khi một đội bóng Nga thắng hay thua trong một cuộc thi đấu thể thao, thanh niên lập tức trở thành những người bất dung hoặc thậm chí bài ngoại như tất cả những người khác. Đa số chia sẻ quan điểm về tính cách đặc biệt của nước Nga và người Nga, và đa số có thái độ thù địch đối với thế giới bên ngoài”, Dubin cho biết.
Nhưng thay đổi đang diễn ra, dù có chậm. Trong 3-4 năm qua, cuối cùng, các nhà xã hội học cũng đã bắt đầu nói về một văn hóa độc lập của giới trẻ ở Nga. “Điều đó phát triển chủ yếu, nhưng không phải là tuyệt đối, trên Internet mà năm 2008 có đến một phần ba dân số sử dụng, đó là nơi mà nền văn hóa đang vươn lên này có những hình thức phong phú”, Alexei Levinson, người đứng đầu Phòng Nghiên cứu Xã hội tại Trung tâm Levada nhận định.
Nguồn: Elena Rubinova, “Evolution of the Homo Sovieticus“, Russia Profile 07/08/2010
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra
April 2, 2014
Tứ tuyệt
Khuất Đẩu
Bác tôi có bốn người con, đều là gái. Nói theo kiểu miền Bắc là vịt giời, nói theo xứ này là ngao. Toàn là những tiếng dè biểu, chê bai.
Chờ mãi mà chẳng có một thằng cu, nên bác trai cảm thấy cái chức trưởng họ của mình nó lỏng chỏng cứ như một tổng thống được chỉ định chứ không phải do dân bầu lên. Còn bác gái, cứ mỗi lần nghe bà mụ bảo “Ơ lại là con gái” là thở dài; lần sau dài hơn lần trước, và lần sau cùng thì khóc. Chẳng phải bác lo chồng cưới vợ bé để kiếm con trai (có cho cũng không dám), mà vì như bác nói, làm đàn bà khổ lắm, vui vẻ gì mà sinh ra cả lũ!
Tuy vậy, nhìn bốn cô con gái xinh xinh hai bác cũng yên ủi ít nhiều. Bác trai vốn là người sinh ra chỉ biết làm thơ chứ không làm gì khác, đã rất lạc quan, tự hào. Bác nói, “Nhà có con gái như có ngọc, sáng hẳn ra. Mình được đến những bốn viên, sang quá chớ bộ!”
Bác gái thì nguýt: “Ở đó mà sang, ông không nghe người ta nói, đó là bom nổ chậm à? Một trái đã mất ăn mất ngủ, đến những bốn trái thì biết làm sao đây?”
“Vớ vẩn!”, bác tôi cãi lại, “bà có biết làm thơ không đấy, mỗi đứa là một câu thơ, bốn đứa làm thành một bài thơ tứ tuyệt. Ôi chao, Lý Bạch, Đỗ Phủ cũng phải thua tôi nữa kìa.”
“Hay nhỉ”, bác gái cười, “vậy ông thử đọc bài thơ đó nghe xem nào.”
Ông trợn mắt ngạc nhiên: “Thơ nào nữa. Bốn đứa là bốn câu thơ, tròn trịa, xinh xắn. Sống động như thế, nhìn chưa đã con mắt hay sao mà còn đòi đọc cho nghe nữa?”
Rồi mỉm cười ý nhị, bác hạ thấp giọng như chỉ đủ cho bà nghe: “Mà bài thơ tuyệt tác đó, chính bà là tác giả. Bà chẳng biết vần điệu gì ráo, nhưng đã sáng tạo ra chúng trong những phút xuất thần, đúng là thiên tài!”
Mặc dù được bác trai bốc lên đến tận giời, nhưng bác gái tôi chỉ cười. Một lúc, bác nói như thể kéo bác trai xuống mặt đất. “Tôi thì tôi lo lắm. Thời buổi này, kiếm được một thằng rể đã là khó. Mà đến những bốn đứa thì biết kiếm đâu cho ra. Bọn con trai, nếu không suốt ngày say xỉn thì bài bạc hút xách. Những đứa coi được được lại vô công rồi nghề, cứ ngồi chảy thây ra ở các quán cà phê! Ông hãy liều liệu mà ăn với ở. Con gái nhờ đức cha kia đấy.”
“Bà khỏi phải lo”, bác tôi cao giọng, “ăn ở như tôi đấy à? Đến mười đứa còn chưa hết đức, nói gì bốn đứa. Này nhé, tôi không tham nhũng thụt két, không bóp hầu bóp họng ai, không nịnh trên nạt dưới… Tôi chỉ là nhà thơ, một nhà thơ chân chính không thèm vào hội nhà văn, thì đứa nào bẻ cong ngòi bút tôi được.”
“Thì đấy”, bác gái đãi giọng ra, “điều tôi lo là ông thừa cái đức của các cụ xưa mà thiếu cái đức của bọn trẻ ngày nay.”
“Đức của bọn trẻ ngày nay là đức thế nào?”
“Là tiền!”
“Ơ!” Bác tôi kêu lên như từ trên trời rơi xuống, “Là tiền à? Đức mà lại là tiền à? Thế cái bọn bán rừng bán biển, cướp đất cướp ruộng của dân, bọn vun quén tài sản rồi chuồn ra nước ngoài với cả đống đô la, là đức đó à?»
“Cũng gần như vậy.”
“Đó là cái đức cống, thối hoắc!” Bác tôi phẫn nộ.
“Nhưng đời này thì nó thơm lắm. Không thối như ông tưởng đâu. Này tôi hỏi ông, khi ông đi ra đường với chiếc áo xệch xạc, chiếc mũ bèo nhèo, đôi giày vẹt gót, thì đúng là nhà thơ đó, nhưng có ai chào nhà thơ không? Hay là người ta chỉ chào ông giám đốc này, ông chủ doanh nghiệp nọ, ngay cả một chú công an đứng đường, cũng được thưa gửi kính cẩn. Nói đâu xa, anh em trong họ nhà này, dù ông là trưởng họ nhưng có ai coi ông ra gì. Ông còn thua cả thằng Bang, làm chủ hàng trăm con vịt đẻ, là cháu ông nữa đấy!”
Bác gái tôi nói tới đó thì nghèn nghẹn, rơm rớm nước mắt. Một lúc, bác thở ra: ”Tôi nghĩ mà thương cho tụi nó. Bốn chị em mà có mỗi chiếc xe cà tàng, thì ai mà thèm vào. Tụi nó nói, mỗi đứa một chiếc tay ga, còn chưa chắc nữa là. Làm cha làm mẹ mà để con cơ cực như thế, tôi xấu hổ quá!” Và, bà khóc thành tiếng.
Bác trai cứ trợn trừng ngó lên trần nhà, miệng lẩm nhẩm hai tiếng “đức” và “tiền” như người bị ma nhập; rồi bất ngờ nắm lấy vai bác gái, nói như reo: ”Tiền cả đống kia đấy! Hơ hơ!”
Bác gái mệt mỏi đứng dậy định đi, nhưng bác trai giữ lại.
“Nhiều tiền thật mà. Bốn đứa con gái là bốn cục vàng, hà hà. Này nhé, con Phong mà ai cũng kêu là cây sào, thử hỏi ở cái xứ dân lùn này có ai chân dài bằng nó không. Nó mà đi thi hoa hậu thì đoạt vương miện là cái chắc. Còn con Hoa suốt ngày hát hò, cứ ghi tên mà thi Idol hay Giọng hát Việt. Con Tuyết dù còn đi học nhưng cái làn da trời cho đúng như tên nó, thì thi người đẹp sinh viên. Con Nguyệt lém lỉnh giỏi ngoại ngữ, làm phóng viên cho Việt tấn xã, đi nước ngoài như đi chợ, miễn là đừng có chỉa hàng. Bốn đứa là bốn cái máy in tiền. Bà là mẹ, rồi sẽ được đăng hình lên báo, còn tôi, khi được phỏng vấn, chúng nó thỏ thẻ: dạ bố em là nhà thơ ạ, nghe còn oách hơn cả giám đốc ngân hàng đấy chứ! Ơ kìa, nhưng bà sao thế, bà ngất đấy à? Này cháu, giúp bác đưa bác gái vào giường, bà ấy vui quá, ngất đi đấy.”
Đúng là bác gái tôi đang ngất, nhưng chẳng phải vì vui. Sau này bác nói: “Chán bác giai mày quá! Toàn những chuyện không đâu. Cầu trời cho tụi nó không đứa nào vớ phải một thằng chồng như bác mày!”
Cũng vì không thể tin được một ông chồng cứ mãi nghĩ chuyện đâu đâu, nên bác gái dẹp bốn cái máy in tiền qua một bên. Bác bảo: “Ai thì mơ chứ bác không mơ. Hay ho gì cái trò thi hoa hậu với thần tượng. Cứ phơi tồng tộc ra trước bàn dân thiên hạ như phơi bánh tráng ấy, thì là con gì chứ đâu phải con gái!”
Cái nỗi lo ế chồng cứ mãi ám ảnh bác gái tôi, như một người chèo đò lo thuyền chìm khi phải chở nặng. Mỗi khi nhìn cái Phong, đã hơn ba mươi tuổi đầu mà chẳng thấy tăm hơi động tĩnh gì cả, bác cứ thở dài thườn thượt. Nhưng bác trai, lúc nào cũng lạc quan tin tưởng: “Sao mà ế được. Chẳng qua là, nó phải chịu cái dớp của một câu thơ hay, thế thôi. Mà thơ hay cũng như ngọc trong đá. Phải mất một thời gian đẽo gọt người ta mới tìm ra được ngọc. Bốn đứa là một bài thơ toàn bích. Thì bốn thằng rể cũng phải vậy. Bà làm thơ xướng thì tôi làm thơ họa. Nhất định tôi sẽ làm. Tôi sẽ tìm ra đủ bốn đứa để họa lại. Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt thì họa lại phải là Cầm, Kỳ, Thi, Họa. Tôi ví dụ là vậy, chứ không phải đốt đuốc đi tìm bốn cái thằng có tên như thế. Nhỡ cầm mà không biết đàn thì sao. Nhỡ kỳ mà không biết đánh cờ cũng hỏng. Nhỡ thi mà nói một câu chẳng nên lời thì thi cái nỗi gì. Còn họa mà vụng về làm gì cũng không nên thì chỉ có nước là tai họa. Những câu thơ tôi chọn phải thật giàu hình tượng, nhiều ý tưởng ; nói rõ hơn là phải đẹp giai này, chỉ số IQ thông minh phải cao đến tận nóc!”
“Thôi, thôi, bác gái kêu lên như hét, một mình ông là thơ, tôi đã đủ mệt quá rồi. Thêm bốn đứa con gái ông cũng gọi là thơ. Giờ thêm bốn thằng rể, ông lại gọi là thơ nữa, có mà tôi chết sớm.”
“Bà không việc gì phải chết sớm đâu. Hãy cứ sống mà xem tôi chọn rể. Đẻ như bà thì tôi không làm được, nhưng người khác đẻ để tôi chọn, thì là nhất.”
Thế là bác tôi, với bổn phận nặng nề làm cha, cộng với nguồn thi hứng dạt dào, đã lùng sục trong đám con cháu bạn bè quen biết, đưa về một “lũ bốn tên” như bác gái tôi mỉa mai. “Một lũ người không ra người, ngợm không ra ngợm, nhưng ăn thì như ngạ quỷ, bao nhiêu cơm, phở, bún, bánh đều sạch nhẵn. Rể như thế thì chỉ có nước bán nhà!”
Nhưng bác tôi cãi lại: ”Có như thế chúng mới là đàn ông. Chúng ăn như hổ, uống như rồng, bà không thấy là đối quá chỉnh với thực như miêu của các con mình à? Còn cái bề ngoài, bà phải nhớ chiếc áo không làm nên thầy tu, đừng tưởng chúng khùng, chúng là những nhà thơ đương đại, có điều chưa kịp nổi danh đấy thôi.”
Bác gái tôi lại buông một câu quen thuộc: “Chán bác giai mày quá!” Còn các câu thơ trong bài tứ tuyệt, khi thấy các “câu thơ” nửa như tân hình thức nửa như hậu hiện đại mà ông đem về, thì đồng loạt kêu lên: “Thôi, bố gả chúng con cho Đại Hàn hay Trung Quốc đi. May ra bố mẹ còn được vài trăm đô!”
Cuộc chiến về thơ cứ nhùng nhằng như thế thì đùng một cái, bác tôi lăn ra chết! Không phải chết trong một đêm trăng huyền hoặc như Lý Bạch, mà là chết trong một đêm ba mươi tối đen như mực. Bác chết ngoài hiên, bác gái nói đi giải ngã đấy thôi, trong khi các thi hữu thì bảo bác đi tìm vần thơ. Dù sao thì bác cũng đã chết rồi. Cái nỗi buồn mất cha, mất chồng không đủ che lấp cái nỗi nhẹ người, tôi không dám nói nỗi vui, khi trong nhà bớt đi một bóng người mà ai cũng cho là lẩn thẩn.
Di cảo của bác để lại là những tập vở học trò đề bên ngoài là thi phẩm, nhưng lật bên trong chẳng có bài thơ nào, ngay cả một câu cũng không! Nhớ lúc sống bác bảo, tác phẩm chưa hoàn thành là tác phẩm hay nhất, đạt nhất. Tiếc rằng, bác không sống đủ lâu để hoàn thành, cho dù khi ấy nó không còn là hạng nhất nữa. Cái hay, cái đạt ấy bác đã đột ngột đem theo xuống mồ.
Như thế, cả một đời làm thơ, bác chỉ còn để lại duy nhất một bài thơ tứ tuyệt. Tiếc rằng, (cũng lại tiếc) bài thơ còn sống lâu hơn bác đó, không phải bác làm một mình mà đồng tác giả cùng với bác gái.
Bốn câu thơ ấy, sau khi mãn tang cha cũng lần lượt đi lấy chồng. Người chèo đò chở khẳm là bác gái tôi cũng cặp được bến. Bác đã có thể thở phào nhẹ nhõm.
Có điều bốn chàng rể chưa chắc đã làm nên một bài thơ họa đắc ý như bác trai tôi mong muốn. Nếu còn sống, thế nào bác cũng chê là sai niêm luật, lạc vần lạc điệu, chỉ được cái đối nhau chan chát.
Cô chị cả tên Phong, cao một thước tám thì lấy một anh chàng mà chiều cao khiêm nhường của anh ta, chỉ vừa đúng cái chân dài của cô. Ngày cưới, cô dâu mặc váy trắng trông như nàng Bạch Tuyết, còn chú rể tuy vậy mà rất tự tin, tự cho mình là một trong bảy chú lùn.
Cô hai Hoa, thì lấy một anh mặt mụn nhiều như cám. Cô không đủ tự tin để chụp hình bên anh, nhưng cô rất thích khi thấy anh chường mặt ra quảng cáo đủ kiểu trên truyền hình. Anh sẽ đem về cho cô ngoài những tấm ngân phiếu còn có cả đống kem dưỡng da, thuốc tẩy trắng.
Cô ba Tuyết, không thể tìm đâu ra cách đối nào hoàn chỉnh hơn, khi sánh duyên với một cầu thủ bóng đá người Ghana. Cô tự hào mà bảo rằng, anh ấy là đêm, cô là ngày, có như thế cuộc sống lứa đôi mới không buồn chán.
Cô út Nguyệt, có lẽ là xấu số nhất, lấy một ông chồng già những mong được cưng chiều, nhưng chưa hết tuần giăng mật thì chồng bị đột quỵ, chữa chạy lắm cũng chỉ lập bà lập bập tiếng được tiếng mất.
Các thi hữu của bác tôi khi dự lễ cưới, đều khề khà phẩm bình những câu thơ “đực” không hợp vì chúng mới quá, lạ quá, ráp với các câu thơ “cái” nghe trúc trắc làm sao! Nhưng các cụ cũng gật gù mà khen rằng, bày ra được một cuộc trình diễn nghệ thuật có một không hai như thế này: nào có cao có thấp, có trắng có đen, có xấu có đẹp, có già có trẻ, thì chỉ có mỗi một nghệ sĩ bậc thầy duy nhất, là số phận mới tạo dựng được mà thôi.
Bác gái tôi, suýt chết ngộp vì thơ, nên chẳng ưa gì bốn câu thơ mới. Chỉ có một điều làm bác nguôi ngoai, ấy là cả bốn đều nhiều đức, tức là nhiều tiền.
Thôi, nói nhiều thêm tội cho cái linh hồn thanh cao của bác giai tôi!
01/4/2014
© 2014 Khuất Đẩu & pro&contra
March 29, 2014
Trật tự thế giới mới
The Economist
Phan Trinh dịch
Trật tự thế giới hậu Xô-viết hẳn là không hoàn hảo, nhưng thứ trật tự Vladimir Putin đang muốn áp đặt rõ là tệ hơn nhiều.
Tuần rồi, Vladimir Putin bảo Quốc hội Nga rằng: “Trong tâm tư người dân, Krym mãi là một phần không thể tách rời Nga.” Và thế là Putin đã sáp nhập bán đảo Krym vào Nga với tốc độ và cách làm hiệu quả đến chóng mặt, với sự hậu thuẫn của đa số áp đảo qua trưng cầu dân ý. Putin gọi đó là thắng lợi của trật tự, của chính danh, và là một đòn đau đánh vào bàn tay thập thò can thiệp từ phương Tây.
Nhưng, coi vậy mà không phải vậy, Putin không đại diện cho trật tự mà đại diện cho bất ổn và đấu đá. Việc đầu tiên Putin làm để đặt nền móng cho trật tự mới là vẽ lại đường biên giới dựa trên những lý lẽ tuỳ tiện, những lý lẽ rất dễ bị lợi dụng để thổi bùng ngọn lửa tranh chấp lãnh thổ tại hàng chục nơi khác trên thế giới. Thêm nữa, dù hầu hết người Krym muốn theo Nga, cuộc trưng cầu dân ý vừa rồi cũng chỉ là một trò hề. Hành xử của Nga gần đây thường được dư luận gán cho một cách phiến diện rằng đó là khởi đầu cho một cuộc chiến tranh lạnh mới giữa Nga và Mỹ. Thực ra, hành xử đó đặt ra một đe doạ rộng lớn hơn, và là đe doạ cho bất cứ quốc gia nào ở bất cứ đâu, vì Putin vừa ngang nhiên lái xe tăng, cán bừa rồi ngồi chồm hổm trên trật tự thế giới hiện có.
Đất mẹ xiết vào lòng
Chính sách đối ngoại thường đi theo chu kỳ. Chế độ Xô-viết sụp đổ mở đường cho một thập niên thống trị vô đối của Mỹ và sự khẳng định rình rang những giá trị Mỹ. Nhưng thế giới “duy ngã độc tôn” này, được thổi phồng lên bằng sự ngạo mạn vô lối của George Bush, đã phải hụt hơi ngạt thở trong khói bụi từ cuộc chiến Iraq. Từ đó, Barack Obama đã tìm cách đưa ra một đường lối đa phương hơn, có người có ta hơn, xây dựng trên niềm tin rằng Mỹ có thể đứng chung chiến tuyến với các nước khác để đương đầu với những vấn nạn chung và để cùng nhau cô lập kẻ ác. Đường lối này thất bại thảm hại tại Syria, nhưng vẫn có dấu hiệu cho thấy hiệu quả khi áp dụng tại Iran. Tuy ảnh hưởng đã giảm nhưng phải nói rằng chính uy thế của Mỹ đã giúp cho đường hàng hải thế giới vẫn còn thông thoáng, các biên giới còn được tôn trọng và luật pháp quốc tế hầu hết được tuân thủ. Xét ở mức độ đó thì trật tự hậu Xô-viết rõ là có ý nghĩa của nó.
Nhưng Putin đang phá huỷ trật tự này. Ông cố khoác cho việc sáp nhập Krym chiếc áo luật pháp quốc tế, chẳng hạn như lập luận rằng việc loại bỏ chính quyền ở Kiev vừa qua khiến ông không còn bị trói buộc bởi thoả ước đảm bảo sự vẹn toàn lãnh thổ Ukraine, một thoả ước Nga đã ký năm 1994 khi Ukraine từ bỏ vũ khí hạt nhân. Nhưng luật pháp quốc tế chỉ có nghĩa khi chính quyền đến sau thực thi những quyền hạn và trách nhiệm được chính quyền trước trao lại. Chưa hết, Putin còn viện dẫn nguyên lý rằng phải bảo vệ “đồng bào” mình – tức tất cả những ai ông tự tiện gọi là người Nga – bất chấp họ đang ở đâu. Chưa hết, chứng cớ một đường miệng lưỡi một nẻo, Putin còn chối bay chối biến rằng binh lính mang quân phục không phù hiệu nắm quyền kiểm soát tại Krym không phải là lính Nga. Sự kết hợp quái gở của hai vế, một bảo vệ và một dối trá, quả là thứ công thức phù thủy dễ dùng để can thiệp vào bất cứ quốc gia nào có sắc dân thiểu số cư ngụ, không cứ là người Nga.
Khi rêu rao những chuyện ngụy tạo trắng trợn về bọn phát xít ở Ukraine đe doạ Krym, Putin đã xem thường nguyên tắc rằng: sự can thiệp ở nước ngoài chỉ nên dùng như biện pháp cuối cùng trong trường hợp có đại họa. Putin biện minh bằng cách viện dẫn vụ NATO đánh bom Kosovo năm 1999 như tiền lệ. Nhưng cần biết rằng vụ NATO can thiệp vào Kosovo chỉ diễn ra sau khi có bạo động dữ dội và Liên Hiệp Quốc đã phải bó tay sau bao nhiêu nỗ lực bất thành – và bất thành cũng vì Nga cản trở. Ngay cả trong trường hợp này, Kosovo cũng không như Krym bị sáp nhập lập tức, Kosovo chín năm sau đó mới ly khai.
Trật tự mới kiểu Putin, tóm lại, được xây dựng trên chính sách thôn tính phục thù, sự trắng trợn xem thường sự thật, và việc bẻ cong luật pháp cho vừa vặn với những gì kẻ nắm quyền lực mong muốn. Trật tự kiểu đó có cũng như không.
Buồn thay, quá ít người hiểu điều này. Rất nhiều quốc gia bực bội với vị thế kẻ cả của Mỹ và với Châu Âu thích lên lớp dạy đời. Nhưng rồi họ sẽ thấy trật tự mới kiểu Putin còn tệ hại hơn nhiều. Các quốc gia nhỏ chỉ có thể phát triển tốt trong hệ thống luật lệ công khai minh bạch dù chưa hoàn hảo. Nếu giờ đây nguyên lý mạnh được yếu thua lên ngôi thì họ sẽ có rất nhiều điều phải sợ, nhất là khi phải đối phó với một cường quốc khu vực hay gây hấn bắt nạt. Trong khi đó, các quốc gia lớn hơn, đặc biệt là các cường quốc đang lên trong thế giới mới, tuy có ít nguy cơ bị bắt nạt, nhưng không phải vì thế mà một thế giới vô chính phủ trong đó không ai tin ai sẽ không có tác động xấu với họ. Vì nếu ý nghĩa của các thỏa ước quốc tế bị chà đạp, thì Ấn Độ chẳng hạn sẽ rất dễ bị cuốn vào cuộc xung đột vũ trang với Trung Quốc vì vùng đất tranh chấp Arunachal Pradesh hoặc Ladakh. Cũng vậy, nếu việc đơn phương ly khai được chấp nhận dễ dàng, thì Thổ Nhĩ Kỳ chẳng hạn sẽ rất khó thuyết phục sắc dân Kurds trong nước mình rằng tương lai của họ sẽ tốt hơn khi họ chung tay xây dựng hòa bình. Tương tự, Ai Cập và Ả Rập Saudi cũng muốn tham vọng khu vực của Iran bị kiềm chế, chứ không phải được thổi bùng lên nhờ nguyên lý cho rằng người ngoài có thể can thiệp để cứu giúp sắc dân thiểu số Hồi giáo Shia sống khắp vùng Trung Đông.
Ngay Trung Quốc cũng cần nghĩ lại. Về mặt chiến thuật, có thể nói Krym đã đưa Trung Quốc vào tình thế khó ăn khó nói. Vì một tiền lệ về ly khai sẽ là lời nguyền rủa đen đủi, trong khi Trung Quốc hiện có Tây Tạng đang muốn ly khai; ngược lại, nguyên lý thống nhất đất nước lại là bất khả xâm phạm, trong khi Trung Quốc hiện có Đài Loan chưa thể thống nhất. Tuy vậy, về mặt chiến lược, quyền lợi của Trung Quốc rất rõ ràng. Nhiều thập niên qua, Trung Quốc tìm cách trỗi dậy trong hòa bình và lặng lẽ, tránh né một cuộc xung đột như nước Đức hung hăng đã kích hoạt chống lại nước Anh vào thế kỷ 19 để cuối cùng kết thúc trong chiến tranh. Nhưng, hoà bình trong thế giới của Putin lại là điều khó thành, vì bất cứ thứ gì cũng có thể trở thành cái cớ để động thủ, và bất cứ sự gây hấn tưởng tượng nào cũng có thể dẫn đến một màn phản công.
Hành động trước hay trả giá sau
Đối với Obama, đây là giờ phút quyết định: Obama phải thực sự lãnh đạo, thay vì chỉ hợp tác. Nhưng Krym không chỉ là việc của Mỹ, mà còn là của cả thế giới. Với những tai họa nhãn tiền, phản ứng của các nước đến nay nói chung đều yếu và manh mún. Trung Quốc và Ấn Độ hầu như chỉ đứng bên lề. Phương Tây thì áp đặt cấm vận visa và phong tỏa tài sản của một số phần tử Nga. Nhưng những phần tử bị nhắm tới thì lại coi đó là huy hiệu của danh dự.
Ít nhất, việc trừng phạt cũng cần bắt đầu cứng rắn hơn, vượt ngoài dự kiến hơn. Phong tỏa tài sản có thể tác động mạnh, vì như vụ cấm vận Iran trước đây cho thấy, giới tài chánh quốc tế rất sợ dính líu tới guồng máy luật lệ của Mỹ. Cũng vậy, các quan tham của Putin sẽ la lối ầm lên nếu nước Anh không cho London nhận đồng tiền có liên hệ với chế độ tại Nga. Pháp nên hoãn việc bán vũ khí cho Nga; và trong trường hợp phía đông Ukraine là nạn nhân kế tiếp của Nga, thì nước Đức nên sẵn sàng cấm vận xăng dầu và khí đốt Nga. Cần lên kế hoạch ngay bây giờ để giảm mức lệ thuộc của Châu Âu vào nguồn cung cấp năng lượng từ Nga và để NATO mạnh hơn.
Trong ngắn hạn, Ukraine cần nhiều tiền để cứu vãn kinh tế khỏi sụp đổ, và cần nhiều cải cách dài hạn với giúp đỡ của IMF, cùng những tư vấn từ nước ngoài mà Ukraine có thể chấp nhận được. Để đi bước đầu tiên theo hướng này, Mỹ cần lập tức thanh toán các khoản nợ cho IMF, khoản thanh toán đã bị Quốc hội ngăn chặn nhiều tháng nay.
Tuy nhiên, dù cho phương Tây có sẵn sàng dùng những biện pháp cứng rắn chống Putin chăng nữa thì những cường quốc đang trỗi dậy vẫn có thể không mấy hứng thú trong việc lên án Putin. Nhưng, thay vì im hơi lặng tiếng trước vụ sáp nhập phi pháp Krym, những cường quốc đang trỗi dậy kia rất nên suy nghĩ xem họ đang muốn sống trong một trật tự thế giới như thế nào. Họ muốn một trật tự trong đó hầu hết các quốc gia tôn trọng những thỏa ước quốc tế và biên giới đã vạch? Hay là họ thích một trật tự trong đó cam kết bị bẻ cong, biên giới bị xâm phạm và thỏa ước cứ thích là xé?
Nguồn: “The new world order”, The Economist, số ra ngày 22/3/2014
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
March 28, 2014
Bí ẩn tâm hồn Nga (Bài 1)
Phạm Nguyên Trường dịch
Trên tờ báo mạng viết bằng tiếng Anh Russia Profile cách đây 4 năm xuất hiện một bản báo cáo đặc biệt về quan niệm hiện đại về “Tâm hồn Nga”. Trong 15 bài báo, các tác giả là người Nga và người nước ngoài đã phân tích, từ nhận thức đương đại, quan điểm đã tồn tại gần 150 năm của những người cầm bút viết về nước Nga. Những phân tích này có thể giúp chúng ta hiểu sâu hơn các diễn biến đang diễn ra trong sự kiện được gọi là “Khủng hoảng Krym” và tình thế đầy nguy cơ leo thang trong quan hệ giữa Nga và các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ, với Ukraine là sân khấu chính trị. Người dịch sẽ lần lượt giới thiệu bản báo cáo này.
Người dịch
_________
Các chuyên gia phá hoại
Các cuộc cách mạng đã bộc lộ tính cách châu Á trong tâm hồn Nga.
Các nhà cách mạng Nga là những người tài năng, những người được thúc đẩy bởi tình cảm bài phương Tây suốt nhiều thế kỉ và không có khả năng thành công trong xã hội ổn định.
Tính chất của cách mạng Nga được ghi nhận và nổi tiếng khắp thế giới vì một số người trong những nhân vật nổi tiếng nhất của lịch sử nước Nga, ít nhất là ở một số giai đoạn của cuộc đời họ, là những nhà cách mạng. Vladimir Lenin[1] và Joseph Stalin[2] là những nhà cách mạng chuyên nghiệp, đã chọn sự nghiệp của người làm loạn chuyên nghiệp ngay từ những năm đầu đời. Alexander Herzen[3], Pyotr Kropotkin[4] và Mikhail Bakunin[5], khác với Lenin và Stalin, chưa bao giờ nắm được quyền lực chính trị, nhưng tính cách cá nhân đầy ấn tượng của họ, cũng như phạm vi và sự dũng cảm của tư duy chính trị và triết học của họ, đã làm cho các nhà tư tưởng phương Tây phải ngạc nhiên. Từ Albert Camus[6] đến Tom Stoppard[7], những kịch tác gia Tây Âu đã biến các nhà cách mạng Nga thành các nhân vật trung tâm trong các vở kịch của họ, đều tập trung vào hai đặc điểm chính của các nhà cách mạng Nga – theo đuổi các kế hoạch phần lớn là không tưởng và sử dụng một cách bừa bãi những phương tiện có tính đạo đức và (thường xuyên hơn) là các phương tiện phi đạo đức để thực hiện những kế hoạch không tưởng mà họ ấp ủ. Cách hành xử như thế của các nhà cách mạng, hình thành ở Nga vào giữa thế kỷ XIX, hóa ra là khá vững chắc và có tính phổ quát. Hiện nay cách hành xử như thế vẫn còn tiếp tục không chỉ ở Nga mà còn ở các nơi khác trên thế giới, từ Trung Quốc tới Venezuela.
Hủy diệt là mục đích tự thân
Hai nhân vật khác, không nổi tiếng bằng Lenin hay Stalin, và nhiều người – do những tai tiếng mà họ tự chuốc vào cho mình – sẽ muốn coi họ là những tên tội phạm bình thường chứ không phải là những người hoạt động chính trị. Nhưng, nhà cách mạng triệt để Sergei Nechayev[8] sống vào thế kỉ XIX và Shamil Basayev[9], một người li khai Chechnya vừa mới qua đời lại tự coi mình là những nhà cách mạng, cách mạng hơn cả Lenin và Stalin. Họ đã rất kiên định trong việc theo đuổi sự hủy diệt đến mức mà đối với họ, ngay cả những người tiến hành cuộc Cách mạng Nga năm 1917 cũng chỉ là những kẻ “lệch lạc” yếu đuối mà thôi.
Nechayev và Basayev tạo điều kiện cho chúng ta nghiên cứu hiện tượng cách mạng Nga vì cả hai đều là những nhà cách mạng “tinh khiết”, họ dành cả cuộc đời cho niềm đam mê này và không bao giờ thỏa mãn với số mức độ hủy diệt mà họ đã đạt được. Nechayev là thủ phạm của một trong những vụ ám sát chính trị tàn bạo nhất thế kỉ XIX ở Nga, và chỉ vì tình cờ mà ông ta không thực hiện được thêm những tội ác tương tự. Có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được số nạn nhân của những cuộc tấn công khủng bố của Basayev, vì ông ta nhận trách nhiệm về những vụ bắt cóc con tin đẫm máu nhất trong lịch sử – chiếm bệnh viện ở Budyonnovsk năm 1995, chiếm nhà hát trên phố Dubrovka ở Moskva năm 2002, và chiếm trường học ở Beslan năm 2004.
Bài Âu
Việc Basayev là người dân tộc Chechnya và tuyên bố là người Hồi giáo dù sao cũng không làm suy yếu vị thế của ông ta như là một nhà cách mạng Nga, đấy không chỉ vì Basayev đã rời Chechnya khi mới tuổi 17 và sống nhiều năm ở Moskva và các thành phố khác của Nga. Và không chỉ vì ông ta tự coi mình là một nhà cách mạng kể từ hành động khủng bố đầu tiên vào năm 1991 – cướp một chiếc máy bay để phản đối những nỗ lực của chính phủ Nga nhằm chấm dứt tình trạng bất ổn tại Chechnya. Ông ta cũng giải thích tội ác khủng khiếp nhất của mình – cuộc tấn công khủng bố vào Dagestan năm 1999 – là muốn “phát động” cuộc cách mạng Hồi giáo ở Nga. Việc những người thiểu số tôn giáo và các sắc tộc thiểu số thường là đội tiên phong của cách mạng Nga, ít nhất là từ giữa thế kỉ XVII, đã đẩy Basayev vào hàng ngũ những người cách mạng Nga.
Yemelyan Pugachev[10], lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa lớn nhất của nông dân Nga chống lại Nữ hoàng Catherina II – cho đến khi bị hành hình năm 1775 – đã dựa vào người Hồi giáo và người Công giáo chống cải cách[11]. Điều thú vị cần ghi nhận là những người không có cảm tình với Nữ hoàng Catherina II ở Tây Âu đã đặt hy vọng lớn vào thành công của Pugachev, mặc dù kẻ mạo danh này, tức là kẻ tuyên bố là “chồng” Catherina đã lập kế hoạch sau khi chiếm được chính quyền ở St Petersburg thì sẽ quay sang chống lại những kẻ “đồi bại” theo Tin lành và Công giáo ở phương Tây.
Sự trớ trêu của câu chuyện này sẽ còn lặp lại nhiều lần trong tương lai. Các nhà cách mạng Nga, từ những người lưu vong bất đồng chính kiến như Nechayev và Lenin đến “người báo thù cho dân tộc, đầy lãng mạn” như Basayev, thường được phương Tây thông cảm, thậm chí là hỗ trợ trực tiếp nữa, nhưng khi giành được chính quyền chắc chắn là họ sẽ có những quan điểm bài phương Tây. Ngay sau khi trở thành “Thủ tướng” của nước Chechnya độc lập vào năm 1996, Basayev đã bắt đầu có những phát biểu bài phương Tây cay độc và làm ngơ trước những vụ bắt cóc các nhà báo phương Tây. Đấy cũng thường là những nhà báo mà ông nuông chiều và bảo vệ khi còn là phát ngôn viên của Chechnya trong cuộc chiến tranh từ năm 1994 đến năm 1996 và khuyến khích họ viết những câu chuyện gây hoang mang về hành vi của quân đội Nga.
Và đây chỉ là một trong nhiều ví dụ như thế. Sau khi lên nắm chính quyền ở Nga vào năm 1917, Lenin đã bắt đầu cung cấp tài chính và vũ khí cho các tổ chức lật đổ ở chính nước Đức, đất nước đã giúp ông trở về Petrograd vào tháng Tư năm 1917 và đã coi ông như một công cụ hữu ích trong việc lật đổ chế độ Sa hoàng. Stalin, từng là đại biểu tại Hội nghị London của phái Bolshevist vào năm 1905, và đã được hưởng chế độ miễn thị thực đang có hiệu lực trên toàn châu Âu lúc đó, trong đó có cả Nga, sau khi nắm quyền liền tách Nga ra khỏi phương Tây bằng một bức màn sắt mà ngay cả một người ủng hộ chủ nghĩa biệt lập thời Trung cổ là Ivan Khủng khiếp[12] cũng không thể tưởng tượng nổi.
Tính chất bài phương Tây của các chế độ được lập nên sau cách mạng đã chứng tỏ rằng bản chất bài phương Tây của các cuộc cách mạng Nga là một hiện tượng xã hội. Mặc cho những diễn ngôn hoa mĩ ban đầu có vẻ “tiến bộ” của họ (những diễn ngôn hoa mĩ này thường dùng để chống lại các chế độ chuyên chế ở Nga, nhưng lại giành được cảm tình của phương Tây), các cuộc cách mạng ở Nga có xu hướng trở thành phản động vì chúng đẩy đất nước thụt lùi và tách nó với phần còn lại của châu Âu. Nhiều nhà sử học tin – mà có cơ sở – rằng các cuộc cách mạng cho thấy thành tố châu Á trong tâm hồn Nga.
Cách mạng tháng Hai năm 1917 và sự sụp đổ của chế độ Xô-viết năm 1991 không phải là một cuộc cách mạng theo nghĩa cổ điển của Nga, vì đấy là những “cuộc cách mạng từ bên trên” – đấy là những âm mưu giành được thắng lợi ngay trong các nhóm cầm quyền, họ đã lợi dụng sự phản đối của đám dân chúng bị bần cùng hóa nhằm gỡ bỏ sự kiểm soát của chế độ cũ đang đè lên vai những người đại diện trẻ hơn của giới tinh hoa của chính chế độ. Trong những cuộc cách mạng “thực sự” (“cách mạng từ bên dưới”, nơi mà quần chúng có vai trò tích cực) mô hình đầy bất hạnh như thế liên tục xuất hiện. Ngay sau khi các chế độ chuyên chế đáng ghét buông lỏng quyền lực, các thành phần cấp tiến nhất và thường có thái độ bài phương Tây liền tìm cách thoát khỏi những người có tư tưởng tự do “mềm yếu” trong nội bộ phong trào, rồi thiết lập chế độ khủng bố, đầu tiên là trong đảng của họ và – nếu thành công – thì trong cả nước.
Những tham vọng không có tương lai
Sergei Nechayev (sinh năm 1847, mất năm 1882) là một ví dụ điển hình về cách hành xử của các nhà cách mạng Nga vừa được nói tới bên trên, và đây là một phần của lý do vì sao nhà văn nổi tiếng người Nga Fyodor Dostoevsky, vốn cũng là một nhà cách mạng, đã dùng Nechayev làm nguyên mẫu cho một trong những nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Lũ người quỷ ám có tính chất phản cách mạng của ông. Sinh ra trong một gia đình có thu nhập khiêm tốn, mẹ là một người nông dân chất phác, Nechayev là một thanh niên tài năng và đầy tham vọng, nhưng trật tự chính trị hiện hành chỉ dành cho tham vọng của ông một ít cơ hội mà thôi. Ở tuổi 21-22, sau khi chuyển sang những tư tưởng mang tính cách mạng triệt để nhất, ông ta đã cho thấy một tài năng tổ chức và lãnh đạo tuyệt vời. Việc ở tuổi 31, ông ta đã có thể truyền những quan điểm cách mạng của mình cho cả những cai ngục của nhà tù tối mật ở St Petersburg, nơi ông ta bị buộc phải sống mười năm trong cuộc đời ngắn ngủi của mình vì tội giết người, chứng tỏ khả năng thuyết phục phi thường của ông ta. Kế hoạch vượt ngục của Nechayev với sự giúp đỡ của những cai ngục đã được ông “cải hóa” thất bại chỉ vì một trong những kẻ đã “cải hóa” báo cáo với cấp trên.
Các nhà sử học cũng đồng ý rằng Lenin cũng có khả năng thuyết phục phi thường. Tương tự như Nechayev – trong những cuộc trò chuyện riêng tư sau này, Lenin thường có những nhận xét tích cực về Nechayev – Lenin đã quyết định sống cuộc đời của một nhà cách mạng chuyên nghiệp ngay từ khi mới 20 tuổi. Vì sao ở Nga những người tài năng như vậy thường trở thành các nhà cách mạng?
Câu trả lời thật đơn giản: không có cơ hội phát triển sự nghiệp và không thể có một đời sống thịnh vượng trong cấu trúc xã hội đã ổn định. “Những người như Nechayev, một giáo viên trong trường Công giáo với một nền học vấn không đầy đủ, một trợ lí luật sư tỉnh lẻ như Vladimir Ulyanov (tên thật của Lenin) hoặc một người viết văn tầm thường như Viktor Chernov (nhà lãnh đạo tương lai của Đảng Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa Nga) – ở nước Nga Sa hoàng, những người này có thể hi vọng có một sự nghiệp nghiêm túc hay không?”- Felix Lourie, người viết tiểu sử Nechayev và cũng là một nhà sử học chuyên về lịch sử cách mạng Nga sống ở St Petersburg, đặt câu hỏi như thế ngay trên trang đầu tác phẩm của mình. Lourie đưa ra câu trả lời tiêu cực. “Họ nhồi nhét vào đầu óc mình rằng phải làm một cuộc cách mạng của riêng mình thì họ mới có thể bước lên những đỉnh cao của quyền lực, và họ không chấp nhận bất cứ thứ gì kém hơn. Tư tưởng đơn giản này nuôi dưỡng khát vọng một cuộc cách mạng nhanh chóng, làm bùng lên trong họ sự nôn nóng và thái độ bất dung.”
Cho đến năm 20 tuổi, Nechayev chỉ là một kẻ mới nổi trung bình (Nechayev sinh ở Ivanovo, một tỉnh nằm ở trung tâm nước Nga). Ở tuổi thanh niên, ông ta đã đến Moskva và St Petersburg để thi vào đại học. Thi trượt, ông phải làm giáo viên thần học tại một trường Công giáo và kiếm thêm bằng những buổi dạy ở nhà. Bài giảng tại các trường đại học mà ông ta tham gia trên cơ sở tự nguyện không làm ông ta thỏa mãn, vì nền giáo dục đại học chỉ cho phép người ta vượt qua hai nấc đầu tiên trong 14 nấc thuộc hệ thống thang bậc hành chính cấp cao mà Peter Đại đế thiết lập và mãi cho đến cách mạng năm 1917 vẫn không hề thay đổi. Vì vậy, thay vì trở thành một nhà khoa học, Nechayev nuôi lòng thù hận mạnh mẽ đối với lũ trí thức “vô dụng”, lòng thù hận mà Lenin, trẻ hơn Nechayev 23 tuổi, sẽ thừa kế một phần. Trong một lá thư, Lenin tuyên bố rằng giới trí thức Nga “là cặn bã của dân tộc”, và điều đó cho thấy chiều sâu thực sự của sự khinh bỉ kiến thức của ông ta, tức là khinh bỉ cái kiến thức không thể được sử dụng vào thực tế cách mạng hay tệ hơn, có thể dùng để chống lại cách mạng.
Giết là sự ràng buộc
Năm 1868 Nechayev tham gia vào một cuộc bạo loạn của sinh viên và làm quen với Pyotr Tkachyov[13], một trong những nhà lãnh đạo của phong trào cách mạng gọi là “Narodniki” (“Người Chiến sĩ của Nhân dân”), tức là phong trào ủng hộ cuộc cách mạng do nông dân lãnh đạo và không ghê tay khi thực hiện những hành động khủng bố chống lại các quan chức của chế độ Sa hoàng. Năm 1869, Nechayev đã sống vài tháng ở London và Geneva, tại đây ông đã gặp những nhân vật huyền thoại thuộc giới lưu vong chính trị Nga – đấy là Mikhail Bakunin, một người “vô chính phủ” và Alexander Herzen, một nhà “dân chủ tự do”. Trong nhiều năm, nếu không nói là nhiều thế kỷ, địa chỉ của giới kiều dân cấp tiến Nga vẫn là Anh, Thụy Sĩ và Pháp.
Nhưng, Nechayev còn đi xa hơn những gì mà những người lưu vong cấp tiến nhất có thể hình dung. Trên thực tế, Nechayev đã đưa ý tưởng của họ đến kết luận hợp với logic của chúng, đấy là khi ông ta nói rằng cách mạng biện minh cho tất cả mọi thứ, trong đó có những vụ giết người, cả kẻ áp bức lẫn người bị áp bức. Ông ta tóm tắt quan điểm của mình trong cuốn Sách giáo lý của một nhà cách mạng, một bản tuyên bố cương lĩnh được xuất bản có vài cuốn tại Nhà xuất bản Geneva (Geneva Publishing House), do một người lưu vong Ba Lan tên là Ludwig Czernecki làm chủ, và bằng cách đó đã tạo ra một liên minh tội lỗi giữa những kẻ chống chính phủ cực đoan người Nga và người Ba Lan. Liên minh này tồn tại suốt mấy thập kỷ, và đã tự thể hiện mình, ví dụ như trong vụ ám sát một ông vua có tư tưởng tự do là Sa hoàng Alexander II, do hai kẻ khủng bố, một người Nga và một người Ba Lan, thực hiện.
“Nhà cách mạng là người chắc chắn sẽ bị diệt vong,” Nechayev tuyên bố như thế. “Anh ta cắt đứt mọi liên hệ với trật tự dân sự và với môi trường có giáo dục, với luật pháp, với sự tử tế, với những điều kiện và đạo đức được mọi người chấp nhận. Nhà cách mạng là kẻ thù tàn nhẫn của thế giới này, và nếu nhà cách mạng tiếp tục sống trong thế giới này thì chỉ vì muốn hủy diệt nó một cách chắc chắn hơn … Nhà cách mạng chỉ biết một khoa học – khoa học của sự hủy diệt… Nhà cách mạng khinh thường dư luận. Anh ta coi khinh và căm thù đạo đức của xã hội hiện thời. Đối với anh ta, chỉ có những thứ có ích cho chiến thắng cuối cùng của cuộc cách mạng mới là đạo đức mà thôi.”
Nechayev không sống để thực hiện trọn vẹn các nguyên tắc của “giáo lý” của mình. Năm 1869, sau khi trở về từ Thụy Sĩ, lần đầu tiên ông ta không thực hiện được “đạo đức cách mạng” của mình. Nhằm gắn kết các thành viên của nhóm sinh viên cách mạng của mình bằng máu, ông ta đã tổ chức cho cả nhóm giết một trong các thành viên của nhóm là Ivan Ivanov. Tội lỗi của anh sinh viên này là không chịu dán truyền đơn chống chính phủ trong quán cà phê sinh viên. Mục đích là khiêu khích cảnh sát, để cảnh sát ra tay đối với sinh viên, mà theo kế hoạch của Nechayev thì sẽ làm cho số sinh viên bất mãn gia tăng và bằng cách đó sẽ làm cho chế độ Sa hoàng cáo chung sớm hơn. Ivanov đã từ chối, điều này dẫn Nechayev đến ý định loại bỏ anh ta bằng biện pháp bẩn thỉu nhất, đấy nói chung là đặc điểm của Nechayev và các nhà cách mạng khác của Nga trong tương lai. Đầu tiên, Nechayev vu khống Ivanov, ông ta nói với các thành viên của nhóm rằng Ivanov đã lập kế hoạch báo cáo cho cảnh sát biết. Sau đó ông thuyết phục mọi người rằng cách duy nhất để tránh bị bắt là cả nhóm cùng giết “tên phản bội”. Ivanov đã bị Nechayev và bốn sinh viên khác giết một cách tàn bạo vào tháng 11 năm 1869 trong khu vực vắng vẻ tại công viên của Viện Hàn lâm Nông nghiệp Moskva. Nechayev làm cho tất cả những những người có mặt trở thành đồng phạm của vụ giết người, nhưng chính ông ta đã bắn phát súng cuối cùng vào đầu Ivanov.
Những kẻ giết người đã giấu xác một cách cẩu thả và vụ giết người được được cảnh sát Moskva giải quyết một cách nhanh chóng. Các thành viên của nhóm bị bắt giữ, nhưng Nechayev đã tìm cách trốn được sang Thụy Sĩ, chính phủ Thụy Sĩ từ chối dẫn độ, vì cho rằng ở Nga ông ta sẽ không được xét xử một cách công bằng. Nhưng, năm 1872, cảnh sát mật của Nga tổ chức bắt giữ Nechayev ở Zürich. Kiều dân Nga và một số người khác – mà gọi theo lối bây giờ là những nhà hoạt động nhân quyền – tổ chức các vụ phản đối. Phải vượt qua những khó khăn rất lớn và sau khi đẩy lui được những nỗ lực nhằm giải thoát cho ông ta, các nhà tình báo Nga mới đưa được Nechayev về đến Moskva và sau đó là đưa ra tòa. Ông ta bị kết án 20 năm lao động khổ sai. Nhưng ông ta chỉ bị ngồi tù có mười năm. Sau vụ vượt ngục thất bại, dẫn đến việc bắt giữ 34 cai ngục và vụ ám sát Sa hoàng Alexander II do những “Narodniki” thực hiện vào năm 1881, Nechayev bị canh phòng còn chặt chẽ hơn trước đây. “Tất cả các khoản dự trữ trong cơ thể ông đã cạn kiệt”, Lourie viết như thế. Năm 1882 Nechayev chết vì bệnh hoại huyết.
Càng xấu thì càng tốt
Trong khi có sự khác nhau về hình thức, các nhà cách mạng Nga lại thống nhất với nhau bằng công thức “càng xấu thì càng tốt.” Không những không chiến đấu chống lại những hiện tượng bất công mà họ thường tìm cách níu giữ chúng, nhằm làm cho trật tự xã hội “phản động” nhanh chóng sụp đổ. Nechayev cố tình gửi những bức thư phản đối Nga hoàng cho một số người theo phái tự do, mặc dù ông ta biết rằng cảnh sát sẽ đọc những lá thư này và sẽ gây ra rắc rối cho người nhận và bằng cách đó làm cho số người ủng hộ cách mạng tăng lên. Basayev cũng tìm cách khiêu kích quân đội Nga để họ phản ứng lại hành động của ông ta, làm cho người dân Chechnya bị đau khổ nhiều hơn và trở thành kẻ thù không đội trời chung với nhà nước Nga – và trở thành những người ủng hộ trung thành hơn với mình.
Cuộc tấn công của Basayev vào Dagestan, tháng 8 năm 1999, dường như không có ý nghĩa gì, đấy là nếu nhìn từ quan điểm lợi ích dân tộc của Chechnya. Trước đó không lâu, tức là vào năm 1996, quân ly khai Chechnya mới chiến đấu nhằm giành độc lập trên thực tế từ tay nước Nga. Tại sao lại khiêu khích Nga để họ lao vào cuộc tấn công mới, còn tồi tệ hơn so với cuộc tấn công mà Chechnya đã phải đương đầu trong những năm 1994-1996? Ngoài ra, Dagestan là đất nước của những người đồng đạo Hồi giáo, họ sẽ là những người đầu tiên bị đau khổ vì cuộc tấn công của quân Chechnya. Từ quan điểm của một người có lí trí bình thường thì cuộc tấn công này hoàn toàn không có ý nghĩa gì. Nhưng từ một quan điểm cách mạng thì có. Vòng xoáy mới của bạo lực sẽ làm cho nhiều người Chechnya và Dagestan trở thành cực đoan, tạo điều kiện cho Basayev gia tăng số “binh sĩ” tham gia vào những vụ khủng bố tàn độc ở Dubrovka và Beslan. Thời gian hòa bình ở Chechnya cho thấy sự bất tài toàn diện của Basayev trên cương vị “Thủ tướng” của Chechnya, một cương vị mà ông ta chính thức nắm giữ dưới thời “Tổng thống” Aslan Maskhadov. Cả Basayev lẫn Maskhadov đều chứng tỏ rằng họ là những nhà cách mạng tốt nhưng quản lý kinh tế thì kém hơn hẳn – một mẫu người mà Lourie là người đầu tiên phát hiện: “Các nhà cách mạng Nga ghét những cuộc cải cách bộ máy nhà nước và nền kinh tế một cách chậm rãi và bình tĩnh, bởi vì quá trình này không dành cho họ chỗ đứng trong hệ thống hành chính của nhà nước Nga”, Lourie viết trong cuốn tiểu sử Nechayev xuất bản năm 2004 như thế. “Lo sợ trước bản hiến pháp đã được chuẩn bị, các nhà lãnh đạo của phong trào ‘Ý Dân’ vội vã ám sát một ông vua có tư tưởng tự do là Sa hoàng Alexander II. Bản hiến pháp do Sa hoàng ban hành chắc chắn sẽ hạ nhiệt các hoạt động cách mạng. Hệt như vậy, Lenin vội vã làm cuộc đảo chính ở Cung điện Mùa Đông năm 1917, trước khi Hội nghị của Quốc hội Lập hiến khai mạc có mấy tuần. Sự cải thiện điều kiện sống của nhân dân làm cho các nhà cách mạng sợ hãi vì nó có thể biến họ thành những người thất nghiệp.”
Khuôn mẫu ứng xử như thế lí giải hành động của nhiều nhà cách mạng thời hiện đại của Nga, từ Basayev đến nhà văn Eduard Limonov[14]. Khiêu khích nhà nước để nhà nước đáp trả bằng bạo lực và nếu cần thì khiêu khích nữa – đó là chiến thuật mà ít khi họ thất bại. Nó cũng luôn luôn mang đến cho họ những người ủng hộ mới trong số các nhà báo cao quý của phương Tây. Nhưng điều mà nhà cách mạng Nga không bao giờ đạt được – đấy là làm người dân hạnh phúc. Hạnh phúc là hiện tượng không tương thích với cách mạng Nga; đối với các nhà cách mạng Nga, hạnh phúc cũng là một thứ tình cảm tư sản.
___________
Dmitry Babich là nhà báo, đã làm việc cho các tờ Komsomolskaya Pravda, Moscow News, cho truyền hình, Đài tiếng nói Nga và trang Russia Profile.
Nguồn: Dmitry Babich – “The Engineers of Destruction“, Russia Profile 07/7/2010
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra
[1] Vladimir Lenin (1870-1924), là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô Viết, được coi là một trong mười nhà độc tài khét tiếng nhất thế kỉ XX. (Các chú thích trong bài đều của người dịch.)
[2] Joseph Stalin (1878-1953) là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1953 đến khi chết, từ năm 1941 là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Joseph Stalin được coi là một trong mười nhà độc tài khét tiếng nhất của thế kỉ XX.
[3] Alexander Herzen (1812-1870), nhà báo, nhà văn và nhà triết học nổi tiếng người Nga.
[4] Pyotr Kropotkin (1842-1921), nhà sử học, nhà địa chất học, nhà phê bình văn học và nhà cách mạng Nga, một lí thuyết gia nổi bật về chủ nghĩa vô chính phủ.
[5] Mikhail Bakunin (1814-1876), một nhà tư tưởng và cách mạng Nga, theo đường lối Đại Slav, một người vô chính phủ, một trong những tư tưởng gia của phong trào Narodniki, đối thủ tư tưởng của Karl Marx.
[6] Albert Camus (1913-1960), nhà văn, triết gia nổi tiếng người Pháp. Cùng với Jean-Paul Sartre, Albert Camus là đại diện tiêu biểu nhất của chủ nghĩa hiện sinh, được Giải Nobel Văn học năm 1957.
[7] Sir Tom Stoppard (1937 – ), kịch tác gia người Anh gốc Czech.
[8] Sergei Nechayev (1847-1982), nhà cách mạng Nga thế kỉ XIX, một trong những dại diện đầu tiên của chủ nghĩa khủng bố của cách mạng Nga.
[9] Shamil Basayev (1965-2006), thành viên tích cực của lực lượng khủng bố đòi tách Chechnya ra khỏi Liên bang Nga.
[10] Yemelyan Pugachev(1742 – 1775), một người kazak vùng sông Đông, lãnh đạo cuộc chiến tranh nông dân ở Nga từ năm 1773 đến 1775.
[11] Cuộc cải cách Công giáo trong giai đoạn 1650-1661
[12] Ivan Khủng khiếp (1530-1584), Sa hoàng toàn Nga đầu tiên, từ năm 1547 (còn được dịch là Ivan Bạo chúa)
[13] Pyotr Tkachyov (1844-1886), nhà phê bình văn học và nhà báo. Tư tưởng gia của phong trào Narodniki.
[14] Eduard Limonov (1943), một trong những nhà văn Nga hiện đại gây nhiều tranh cãi nhất, từng lưu vong ở phương Tây đồng thời kịch liệt bài Mỹ và chống chủ nghĩa tư bản; từng tham gia những hoạt động chính trị cánh tả cực đoan rồi chuyển sang cánh hữu cực đoan; sáng lập Đảng Bolshevist Quốc gia Nga và tuyên truyền tư tưởng Đại Nga; gần đây nhất bị phạt tù 15 ngày khi tham gia biểu tình chống Putin năm 2010. Tác phẩm nổi tiếng nhất: It’s Me, Eddie (1976).
March 27, 2014
Hiệu trưởng có vai trò gì?
Phùng Hi
Hiệu trưởng trường trung học phổ thông công lập bị bịnh hoặc bị đình chỉ, đóng cửa phòng làm việc ba tháng. Mọi hoạt động của trường vẫn cứ chạy đều trong khuôn khổ, có phần tốt hơn. Trò vẫn đi học, thầy cô vẫn đến lớp và tới tháng nhận lương. Chuyện này không lạ ở ViệtNamnên người ta ngạc nhiên đặt câu hỏi: Vậy hiệu trưởng có vai trò gì?
Vô hiệu vai trò của hiệu trưởng
Qui trình bổ nhiệm hiệu trưởng lâu nay là phải từ một hiệu phó đi lên. Hiệu phó trước đó là giáo viên chỉn chu, chắc chắn không giỏi chuyên môn, là đảng viên và học qua những lớp quản lý mà hồi giờ chưa nghe ai thi rớt.
Hằng năm, nhà trường lên khuôn công việc theo kế hoạch của Sở, Bộ hướng dẫn chi tiết. Tiền lương trả giáo viên, hiệu trưởng khỏi lo. Trang thiết bị dạy học, xây dựng phòng ốc do Sở Giáo dục bao thầu. Mỗi trường có từ hai đến ba hiệu phó, rồi chủ tịch công đoàn, bí thư đoàn trường, các tổ trưởng bộ môn, tất cả đều đóng vai trò giúp việc hiệu trưởng, lo mọi hoạt động dạy, học và những vấn đề liên quan. Hơn hết, mỗi giáo viên đều tự chịu trách nhiệm cao, bởi công việc giảng dạy đối mặt với hơn 40 học sinh của lớp học. Học sinh luôn biết cách nhận xét, đánh giá thầy cô giáo rất sát sườn. Như vậy, vô hình trung vai trò của hiệu trưởng đã bị vô hiệu hóa.
Nếu trường học may mắn đặt nơi cư dân có truyền thống hiếu học, học sinh đỗ đạt cao, không ai nghĩ do công hiệu trưởng. Trường học bê bết lẹt đẹt ở tốp sau, hiệu trưởng cũng chẳng sứt mẻ “uy tín”, mọi sự đều có chỗ đổ thừa trơn tru, quá lắm thì chuyển đi làm hiệu trưởng một trường khác. Vai trò hiệu trưởng bỗng như núm vú của đàn ông, chẳng có tác dụng gì nhưng phải có để làm cảnh.
Thế nhưng nhiều hiệu trưởng không đủ bản lĩnh chấp nhận sự nhạt nhẽo nêu trên, tìm cách ăn rê với nhóm quyền lực của Sở, lên gân uy quyền, tác oai tác quái ra đủ thứ qui định, dẫn đến thiếu công bằng, bất hòa, kiện cáo. Vài giáo viên khiếp sợ hay nịnh hót gọi hiệu trưởng là “ông thầy” nghe rất đồng bóng, phiêu hốt. Ông thầy nói thế nọ, ông thầy bảo làm thế kia, không dám kêu tên sợ phạm húy. Khi hiệu trưởng chuyển đi, chính những giáo viên này nói: “Chả chỉ giỏi tán gái và tham nhũng vặt”.
Hiệu trưởng như cây kiểng
Nếu hỏi giáo viên: Chuyên môn ban đầu của hiệu trưởng trường anh là gì? Nhiều giáo viên sẽ ngớ ra, không biết. Đại loại câu trả lời có thể là:
“Từ khi tôi về trường, ông ấy đã là hiệu trưởng.”
“Tôi dạy học hơn mười lăm năm nay, hiệu trưởng vẫn là ông ấy.”
“Lão đến trường tôi làm hiệu trưởng khi đã là hiệu trưởng một trường khác.”
“Chỉ biết ổng dạy vài tiết môn giáo dục công dân để hưởng tiền phần trăm đứng lớp. Chẳng hiểu sao nhiều hiệu trưởng rất khoái dạy môn học này.”
“Ông thầy (tức hiệu trưởng) hay làm thơ, chịu chơi, nghệ sĩ tính. Có thể chuyên môn ông thầy là văn.”
Lương giáo viên có nhà nước trả. Giáo viên coi hiệu trưởng như là cần một người để tiếp khách, khoản đãi cấp trên, đi họp, báo cáo tổng kết, chỉ đạo xét thi đua v.v… toàn những việc chẳng tác động gì đến học tập, rèn luyện của học sinh. Lắm hiệu trưởng chỉ như một cây kiểng.
Vì đặc thù công việc nêu trên, một hiệu trưởng coi như chấp nhận được nếu thỏa mãn: không nói hớ hênh, không à ơ câu giờ trong buổi họp, không quên quyền lợi của giáo viên. Không ai đòi hỏi hiệu trưởng phải có tài năng nọ kia như làm thơ giỏi, đánh bida hay, uống bia tài, hát karaoke hết mình… Vậy mà nhiều hiệu trưởng tự hào: “Các món ăn chơi, mấy thầy ở trường tôi không ai qua mặt được tôi.”
Làm hiệu trưởng riết rồi quen, quen rồi dẫn tới nói dài, nói dai, nói dại. Công việc trở thành lối mòn, hiệu trưởng đâm chủ quan, hời hợt, ỷ lại. Hoạt động của hiệu trưởng được “chuyên nghiệp hóa” một cách không cần thiết.
Nghe tin hiệu trưởng nơi này nơi kia dính đúng hai tội, tham nhũng hoặc quan hệ bất chính, người ta ồ lên khoái trá.
________________
Tác giả Nguyễn Phi Hùng làm việc tại Trung tâm KTTH-HN huyện Phú Hòa, tỉnh Phú Yên.
© 2014 Phùng Hi &pro&contra
March 25, 2014
Từ vụ tước bằng của Thạc sỹ Đỗ Thị Thoan
Lê Tuấn Huy
Qua ảnh chụp một phần văn bản được cho là công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương, được biết một hội đồng thẩm định đã thu hồi Luận văn Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa và “không công nhận học hàm (sic!) thạc sỹ của chị Đỗ Thị Thoan”. Dù độ xác thực của văn bản chưa được kiểm chứng, thông tin này được củng cố qua việc trang Bauxite Việt Nam cung cấp danh sách thành viên hai hội đồng liên quan đến luận văn được đề cập.
Căn cứ để Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội lập Hội đồng thẩm định, là Luật Giáo dục (2005) và Điều lệ trường Đại học (2010) – hai văn bản không quy định cụ thể cho việc đào tạo sau đại học. Trong khi đó, Quy chế Đào tạo Trình độ Thạc sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 10/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, quy định rõ tiến trình đào tạo cho học vị này, thì bị lờ đi. Ngay cả Luật Giáo dục Đại học (2012), sát sườn hơn một luật mà phạm vi là cả hệ thống giáo dục quốc dân, cũng không được nhắc đến. Có thể lý giải điều này như thế nào?
Việc không liên hệ đến Quy chế Đào tạo Trình độ Thạc sĩ thì dễ hiểu, bởi nó không cho phép viện dẫn để thực hiện cái gọi là “thẩm định”.
Còn không căn cứ vào Luật Giáo dục Đại học, dù nó cũng chỉ là những quy định chung, là bởi Điều 73 quy định rằng: “Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật”. Nếu chiếu theo đó, sẽ buộc phải “phục hoạt” và tuân thủ Quy chế Đào tạo Trình độ Thạc sĩ, do đấy chính là “quy định chi tiết” để thực hiện luật này của “cơ quan có thẩm quyền” trực tiếp.
Căn cứ vào Luật Giáo dục, bởi Điều 120 của nó viết rằng: “Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này”. Năm 2009, ra đời Luật Sửa đổi, Bổ sung một số Điều của Luật Giáo dục, và điều cuối cùng được sửa dừng lại ở Điều 110c. Như vậy, dùng cái luật không sát sườn này, người ta có thể vô hiệu hóa một cách “hợp pháp” những văn bản có hiệu lực của “cơ quan có thẩm quyền”. Và lấy Điều lệ trường Đại học đi kèm, ngoài việc tăng thêm số lượng văn bản căn cứ, cũng cho thấy ẩn ý cố tình vận dụng Điều 120, bởi nó được ban hành từ Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng.
Bên cạnh việc “vận dụng” luật pháp như thế, đáng lưu ý từ , tất cả chủ thể liên quan trực tiếp và không thể nào bỏ qua của Luận văn, từ người viết và người hướng dẫn, đến người phản biện và hội đồng chấm, đều tuyệt nhiên bị cách ly khỏi “quy trình” thẩm định.
Nếu sự việc quả như vậy, tự nó, đã ghi dấu một cột mốc đen tối và tạo một tiền đề u ám.
Để thấy nó hắc ám như thế nào, cần nhắc lại mặt thủ tục. Trước khi được ban hành trên phạm vi cả nước, quy trình đào tạo sau đại học đã được các trường xây dựng và vận hành, mà quy chế hiện hành chỉ là phản ánh và chính thức hóa những gì đã diễn ra. Theo đó, hội đồng chấm luận văn có quyền hạn cao nhất đối với luận văn được phân công chấm và đối với kết quả của nó. Do đặc thù của khoa học (đặc biệt là khoa học xã hội) và theo thông lệ quốc tế, một khi luận văn đã có kết quả, vấn đề tái thẩm không được đặt ra nếu không có lý do thuần túy khoa học, là đạo văn.
Nghiên cứu của Đỗ Thị Thoan không bị đặt vấn đề từ tiêu chí đó. Mà, theo luồng dư luận dọn đường, và đọc hai văn bản làm căn cứ pháp lý – vốn không có chỗ cho quy trình lẫn khái niệm “thẩm định” sau đại học – có thể thấy rằng, có lẽ cơ sở cho hành động ấy là ở Điều 20 và Điều 39 của văn bản đầu, cùng Điều 6.9 của văn bản sau.
Điều 20 viết: “(…) Cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục để xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước (…)”. Điều 39 là: “(…) Mục tiêu của giáo dục đại học là đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân (…)”
Điều 6.9 thì: “Không để bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào lợi dụng danh nghĩa và cơ sở vật chất của nhà trường để tiến hành các hoạt động trái với các quy định của pháp luật và của Điều lệ này”.
Những điều chung chung như thế, trên thực tế, có thể dùng để suy diễn, quy chụp ở mức cao nhất đối với bất kỳ quan điểm độc lập hay phản biện nhỏ nhất nào.
Việc một trường đại học mà lại vận dụng luật pháp “tùy nghi”, bất chấp chuẩn mực hữu lý tối thiểu, đã thể hiện sự tan rã khoa học trong lòng sự tan rã xã hội, khi mà giới hữu trách khoa học cũng áp đặt luật rừng cho đồng môn: lấy sức mạnh làm chân lý, dùng công cụ kinh tế và hành chính để khóa miệng, bịt mắt, trói tay.
Việc thẩm định không minh bạch đối với Luận văn của Đỗ Thị Thoan thực chất là phiên tòa kín về chính trị, tuyên án tử đối với sinh mệnh khoa học của một người có tư duy độc lập. Phiên tòa ấy còn được nâng cấp hơn cả những phiên tòa tôn giáo thời Trung cổ, xử các nhà khoa học, mà ít ra còn để người bị xử hiện diện và cất tiếng.
Từ nay, bất cứ lúc nào, bất cứ chủ thể, công trình, trạng thái và hành vi khoa học nào cũng có thể bị “hồi tố” hay tước bỏ tức thời bằng những căn cứ ngoài khoa học, có phạm vi điều chỉnh mênh mông, bất tận, cả từ động cơ “công bộc” lẫn ý đồ tư riêng.
Bất chấp tính pháp lý và hợp lý của quy chế đào tạo, thử hỏi, có còn cần hay không một quy trình chặt chẽ (và tốn kém) từ việc trình đề cương, hướng dẫn, phản biện, đến hình thành hội đồng chấm, thu nhập nhận xét độc lập ngoài hội đồng, rồi họp hội đồng chấm luận văn?
Với một hội đồng có quyền hồi thẩm, vượt trên và có quyền phủ nhận kết quả của hội đồng chấm, có cả quyền cách ly hội đồng chấm và người viết luận văn, chẳng khác là mấy với hình thức phúc tra của giáo dục phổ thông, vậy để tiện cho cả người học, nhà trường và nhà nước, sao không tổ chức một kỳ thi tốt nghiệp cao học, với đáp án có sẵn, giảng viên chuyên ngành nào cũng có thể chấm, và cũng dễ dàng phúc khảo khi cần?
Cần nói thêm, tùy theo loại hình, các trường đại học có hội đồng quản trị, hội đồng nhà trường, hội đồng khoa học, hội đồng tư vấn… Đó là loại hội đồng thường xuyên và định kỳ. Các hội đồng chấm luận văn và luận án là loại hội đồng bán thường xuyên và đơn kỳ. Hội đồng như vừa thực hiện với Luận văn của Đỗ Thị Thoan là loại hội đồng đặc biệt và đơn kỳ (hoặc đa kỳ, nếu muốn). Hai loại trước tồn tại theo thông lệ và có quy định pháp lý. Loại sau cùng, không có tiền lệ và không có quy định pháp lý, dù theo thông lệ, nó có thể tồn tại, nhưng duy nhất chỉ với lý do khoa học chứ không vì lý do chính trị.
Dẫu biết rằng khó mà có kết quả ngược lại khi nó đã được áp đặt bằng sức mạnh của cả hệ thống, những người có tư duy độc lập và công tâm – bao gồm cả ThS. Đỗ Thị Thoan, PGS, TS. Nguyễn Thị Bình, các vị thuộc Hội đồng chấm luận văn, các GS thâm niên và từng có cương vị tại Đại học Sư phạm Hà Nội – vẫn phải cất tiếng đấu tranh về khoa học và về mặt pháp lý – hành chính, vẫn phải tiến hành chất vấn hay kiến nghị chính thức, với văn phong và nội dung thích hợp.
Còn những người chủ trương và ủng hộ việc bất chấp tất cả để thủ tiêu cho được Luận văn của Đỗ Thị Thoan, tất nhiên, xem việc làm đó là hợp lý và hợp pháp, bởi đối với họ, cái tiên quyết để nhìn một vấn đề khoa học là tính chính trị, và là cái chính trị dưới nhãn quan “đặc thù” của họ chứ không phải dưới cái nhìn phổ quát. Nên, hãy để họ nhắc đi nhắc lại một chiều rằng không có gì tách khỏi chính trị, chính trị là thống soái, vốn là cái lập luận đã đẩy khoa học xã hội và nhân văn của các nước xã hội chủ nghĩa trước kia thành một thứ văn vẻ minh họa, góp phần lớn vào việc ru ngủ toàn bộ hệ thống, và ngủ sâu đến độ hôn mê, rồi chìm vào cái chết mà quên cả cú giãy có thể hồi tỉnh.
22-24/03/2014
© 2014 Lê Tuấn Huy & pro&contra
March 24, 2014
Lý giải quyết định của Putin: Từ sự suy yếu của phương Tây đến dự án Liên minh Á-Âu của Putin
Vi Tông Hữu
Trần Ngọc Cư dịch
Khắp thế giới, người ta sững sờ trước quyết định chớp nhoáng của Vladimir Putin, sáp nhập Krym theo nguyện vọng của cuộc trưng cầu dân ý tại đây, đòi Krym li khai khỏi Ukraine và gia nhập Liên bang Nga, điều mà Kiev và phương Tây coi là hành động phi pháp. Quyết định này cũng kéo theo sự chỉ trích khắp thế giới và sự lên án gay gắt của phương Tây và Ukraine, đồng thời làm phát sinh một đợt trừng phạt kinh tế thứ hai từ Hoa Kỳ và liền sau đó từ châu Âu. Quan hệ giữa Nga và phương Tây đang ở mức lạnh nhạt nhất từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt.
Vậy, tại sao Putin đã dám liều đánh mất phúc lợi kinh tế và không gian chính trị của Nga để nuốt chửng Krym, đồng thời đẩy Ukraine ra khỏi ảnh hưởng của mình, và gây bất bình cho toàn thế giới phương Tây? Phải chăng Putin “đang ở trong một thế giới khác” như Thủ tướng Đức Angela Merkel đã phán đoán về ông? Theo tôi nghĩ, chí ít có hai cân nhắc nằm sau quyết định của Putin.
Cân nhắc thứ nhất theo chủ nghĩa thực tế, địa chính trị [realist, geo-political]. Trong thế giới quan của Putin, kể từ khi Liên Xô cũ sụp đổ, nước Nga đã mất một phần tư diện tích lãnh thổ, một nửa dân số, và hơn một nửa GDP. Trong những lãnh thổ “đã mất” có những nước ở vị trí chiến lược quan trọng hay có quân đội tiên tiến, như Ukraine và các quốc gia Baltic. Với đà bành trướng về phía đông của khối NATO và việc hội nhập các quốc gia chư hầu của khối Xô-viết cũ, các cộng hòa Đông Âu, và các quốc gia Baltic vào châu Âu, vùng trái độn truyền thống giữa Nga và phương Tây ngày càng thu hẹp lại và không gian điều động chiến lược của Nga mỗi năm mỗi trở nên nhỏ bé hơn. Vào thời điểm Nga còn thèm khát được hội nhập vào phương Tây, có lẽ điều này không đặc biệt đáng lo ngại hay hổ mặt đối với Moskva. Nhưng kể từ khi các lãnh đạo Nga cách đây khá lâu quả quyết rằng gia nhập vào phương Tây vừa không đặc biệt có lợi cho thế đứng chính trị của Nga vừa không đặc biệt hấp dẫn về quyền lợi kinh tế, Nga bắt đầu coi việc bành trướng của phương Tây bất chấp các lợi ích chiến lược của Nga là có ác ý và đầy đe dọa.
Ukraine giữ một vị trí độc đáo trong cân nhắc địa chiến lược của Nga. Một, đây là lãnh thổ trọng yếu cho việc chuyển giao lượng dầu lửa xuất khẩu của Nga sang châu Âu. Mỗi năm hơn một phần ba số dầu Nga chở sang châu Âu đi qua ống dẫn trên lãnh thổ Ukraine. Hai, Krym cho phép Hạm đội Biển Đen Nga tiếp cận với Biển Đen. Nếu chính phủ Kiev thân phương Tây quyết định chấm dứt hợp đồng cho thuê căn cứ hải quân Nga tại Krym, Nga sẽ mất cửa ngỏ chiến lược đi vào Biển Đen và Địa Trung Hải. Ba, Ukraine được coi là thành viên trọng yếu nhất cho dự án Liên hiệp Á-Âu của Nga, một kế hoạch kinh tế và chiến lược nhằm kết nối chặt chẽ Nga, Belarus, Ukraine, và Trung Á lại với nhau. Nếu tất cả việc này đi đúng kế hoạch, Liên minh Á-Âu sẽ giúp các cộng hòa Xô-viết cũ và các nước độc lập hiện nay hội nhập với Nga về kinh tế, chính trị, và ngoại giao, và còn tiến tới việc phục hồi cái quang vinh của đế quốc Xô-viết vào thời cao điểm của nó. “Cuộc đảo chánh” tại Kiev và định hướng chính trị của chính phủ mới chắc chắn đe dọa tất cả dự án này, nếu Nga vẫn giữ thái độ dửng dưng và thụ động.
Cân nhắc thứ hai tự bản chất nghiêng về tâm lý nhiều hơn. Ngay sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, chạy theo phương Tây là ưu tiên hàng đầu của chính sách đối ngoại Nga. Nhưng Moskva đã thất vọng khi thấy rằng phương Tây vẫn còn ấp ủ những dè dặt to lớn và hoài nghi đáng kể đối với Nga. Nhiều năm bỏ ra để ve vãn phương Tây gần như không mang lại điều mà Nga thèm muốn nhất: một tư cách thành viên bình đẳng với các nước phương Tây và sự thịnh vượng kinh tế. Mặc dù đã được vào nhóm đặc biệt G8, nhưng Nga chưa bao giờ được hưởng một tư thế đầy đủ và có tiếng nói như bảy thành viên khác, luôn luôn thấy mình là một “kẻ khác” mà thôi. Trên lãnh vực kinh tế, cuộc trị liệu bằng cú sốc [shock remedy] do phương Tây đề nghị và Boris Yeltsin nghiêm chỉnh thi hành đã không mang lại lợi ích kinh tế mong đợi. Thay vào đó, nó đẩy kinh tế Nga đến chỗ rơi tự do, khiến người dân trung bình Nga càng khốn khổ hơn trước. Cuộc thử nghiệm hướng về phương Tây của Nga đã chấm dứt trong nhục nhã và tai họa.
Chính Putin đã cứu nước Nga khỏi tình trạng khốn cùng đó. Ông đã tái điều chỉnh cả chính sách đối nội lẫn đối ngoại của Nga, và tách nước này khỏi phương Tây; đồng thời, thay vào đó, Putin luôn tìm kiếm những cơ hội để làm sống lại những nét vàng son của thời Xô-viết đã qua. Khi kinh tế Nga được cải thiện, cũng là lúc phương Tây nhận ra cái thế thượng phong của mình đã qua đi. Cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 đánh mạnh vào Mỹ và châu Âu, làm các nước này thấy mình lệ thuộc nhiều hơn vào các cường quốc mới nổi, trong đó có Nga. Chính Anh, Pháp, và cả Đức hiện đang bận tâm kêu gọi các đại gia dầu lửa Nga mua thêm nhiều hàng hoá và đầu tư thêm vào kinh tế của mình. Cán cân quyền lực giữa Nga và phương Tây đã thay đổi. Cuộc chiến tranh nhỏ bé tại Georgia vào mùa Hè năm 2008 chỉ tăng cường xu thế này và phản ứng chiếu lệ từ phương Tây đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với Nga: đó là, châu Âu đang thối nát và Hoa Kỳ đã trở nên quá yếu để mà lãnh đạo. Tiếp đến là Mùa Xuân Ả Rập và cuộc khủng hoảng tại Syria. Trong trường hợp đầu, Mỹ “đã lãnh đạo từ sau”, và trong trường hợp sau chính Nga đã quyết định hướng đi của cuộc nội chiến Syria.
Nhân dân Nga, và đặc biệt là Putin đã học được một bài học đắt giá từ cuộc tình lãng mạn hậu-Chiến tranh Lạnh với phương Tây: Bất chấp những rêu rao về dân chủ và tự do, sự thật vẫn là kẻ mạnh ra lệnh cho kẻ yếu.
Với châu Âu rữa nát và Hoa Kỳ suy yếu, một nước Nga trỗi dậy và đầy tự tin chắc chắn sẽ không để cho một nước cộng hoà Xô-viết cũ có tầm quan trọng địa chiến lược rơi hoàn toàn vào phe phương Tây. Bằng cách sáp nhập Krym vào Nga, Putin không chỉ đảm bảo căn cứ hải quân và cửa ngõ chiến lược của Nga vào Biển Đen, ông còn gửi một thông điệp mạnh mẽ đến Ukraine và phương Tây: Coi thường các quan tâm chiến lược chính đáng của Nga là một hành vi liều lĩnh.
_________
Vi Tông Hữu (Wei Zongyou) là Giáo sư và Phó Khoa của Viện Nghiên cứu các Vấn đề Ngoại giao và Quốc tế, Đại học Nghiên cứu Quốc tế Thượng Hải, Trung Quốc. Quan tâm nghiên cứu của ông tập trung vào Quan hệ Mỹ-Trung, chính sách đối ngoại Mỹ, can thiệp nhân đạo và trách nhiệm bảo hộ.
Nguồn: The Diplomat, 23/3/2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
March 23, 2014
Nga sẽ chẳng bao giờ giống chúng ta
Anne Applebaum
Phạm Vũ Lửa Hạ dịch
Chúng ta mất 20 năm gắng biến Nga thành một nước phương Tây. Vô ích.
Từng có những giây phút mặn nồng: Bill Clinton và Boris Yeltsin ôm nhau thắm thiết; George W. Bush nhìn vào mắt Vladimir Putin và “hiểu được tâm hồn của ông”; Hillary Clinton nhấn “nút tái khởi động”.[i] Cũng từng có những lúc đắng cay. Thế nhưng ở phương Tây luôn có một luận thuyết phổ biến về Nga trong hơn hai mươi năm độc lập của đất nước này.
Dù công khai hay ngấm ngầm, từ năm 1991 giới lãnh đạo phương Tây hành xử với giả định rằng Nga là một nước phương Tây còn khiếm khuyết. Có lẽ trong thời Xô Viết, nước này đã trở nên khác hẳn, thậm chí bị biến dạng. Nhưng chẳng chóng thì chầy, đất nước của Tolstoy và Dostoevsky, quê hương của ba-lê cổ điển, sẽ trở về với cái mà Mikhail Gorbachev, lãnh tụ Liên Xô cuối cùng, đã gọi một cách cảm động là “ngôi nhà Châu Âu chung của chúng ta”.
Trong những năm 1990, nhiều người nghĩ rằng để Nga về với ngôi nhà đó chỉ cần có các chính sách mới: Với những cải cách kinh tế đúng đắn, chẳng chóng thì chầy Nga sẽ giống chúng ta. Có người lại nghĩ rằng nếu Nga tham gia Hội đồng Châu Âu, và nếu chúng ta biến G-7 thành G-8, chẳng chóng thì chầy Nga sẽ hấp thu các giá trị phương Tây. Các đặc quyền như vậy thậm chí chưa bao giờ được dành cho Trung Quốc, một cường quốc kinh tế và chính trị lớn hơn nhiều. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta chưa bao giờ tin rằng Trung Quốc sẽ là “phương Tây”. Nhưng trong thâm tâm chúng ta đã tin rằng một ngày nào đó nước Nga sẽ cùng hội cùng thuyền với chúng ta.
Lại cũng có người nghĩ rằng để nước Nga tiến lên cần có một kiểu ngôn ngữ phương Tây nhất định, một cuộc đối thoại tốt hơn. Khi mối quan hệ đó xấu đi, Tổng thống Bush trách Tổng thống Clinton. Tổng thống Obama trách Tổng thống Bush. Và tất cả chúng ta trách cứ lẫn nhau. Hồi năm 1999, Tạp chí New York Times đăng bài chính lên trang bìa với nhan đề “Ai đã đánh mất Nga?” (“Who Lost Russia?”) Được bàn luận nhiều lúc đó, bài báo này cho rằng chúng ta đã đánh mất Nga “vì chúng ta theo đuổi những nghị trình sai bét đối với nước Nga” và đã tư vấn kinh tế sai lầm. Tuần trước, Jack Matlock, cựu đại sứ Mỹ ở Nga, gợi nhớ lại ý của Putin và cho rằng Mỹ chịu trách nhiệm về cuộc khủng hoảng hiện nay vì đã “xem Nga là kẻ thua cuộc”.
Những lập luận này chỉ là suy bụng ta ra bụng người: Chính trị Nga chưa bao giờ “liên can đến chúng ta”. Thực tình mà nói chúng ta chẳng có ảnh hưởng gì đến chính trị nội bộ Nga kể từ năm 1991, ngay cả khi chúng ta hiểu họ. Những thay đổi quan trọng nhất – sự chuyển giao ồ ạt dầu và khí từ nhà nước sang giới chính trị quả đầu (oligarchs), sự trở lại nắm quyền của những người được KGB nhào nặn, sự loại bỏ tự do báo chí và đối lập chính trị – đã diễn ra bất chấp lời khuyên của chúng ta. Các quyết định quân sự quan trọng nhất – các cuộc xâm lược Chechnya và Georgia – đều bị chúng ta phản đối. Tuy nhiều người dường như nghĩ khác, mục đích chính của cuộc xâm lược Crimea cũng không phải là để khiêu khích phương Tây. Như một bình luận viên Nga sắc sảo đã nhận xét, những câu quan trọng nhất trong bài phát biểu sáp nhập [Crimea] của Putin trong tuần này nhìn chung không được chú ý đến: ông nhắc đến “lực lượng phá hoại ngầm từ bên trong” và “những kẻ phản bội” Nga được phương Tây tài trợ mà nay sẽ bị dập tắt. Putin xâm lược Crimea vì Putin cần một cuộc chiến. Trong thời buổi tăng trưởng chậm hơn, và với một tầng lớp trung lưu ngang ngạnh, có thể ông cần thêm vài cuộc chiến nữa. Lần này quả thực không phải liên can đến chúng ta.
Nhưng vì Crimea quá gần với Châu Âu, và vì ngôn ngữ sắc tộc-dân tộc chủ nghĩa mới của Putin gợi lại quá nhiều ký ức về quá khứ đẫm máu của Châu Âu, cuộc xâm lược Crimea có thể có một ảnh hưởng lớn hơn đối với phương Tây hơn cả ý đồ của ông. Tại thủ đô của nhiều nước Châu Âu, các sự kiện ở Crimea đã thật sự gây bàng hoàng. Lần đầu tiên, nhiều người bắt đầu nhận ra rằng luận thuyết này đã sai lầm: Nga không phải là một cường quốc phương Tây còn khiếm khuyết. Nga là một cường quốc chống phương Tây với một tầm nhìn khác, u ám hơn về chính trị toàn cầu. Các danh sách cấm vận công bố ở Châu Âu tuần này ngắn đến buồn cười, nhưng chính sự xuất hiện các danh sách này phản ánh cuộc bể dâu này. Hai mươi năm qua, chẳng ai nghĩ đến chuyện “chế ngự” Nga. Nay thì người ta sẽ nghĩ về chuyện đó.
Dù gì đi nữa, ngay cả danh sách cấm vận mới và dài hơn của Mỹ cũng chỉ là một tín hiệu. Hiện nay, những thay đổi quan trọng hơn nhiều là các thay đổi chiến lược sâu sắc hơn nên xuất phát từ những hiểu biết mới của chúng ta về Nga. Chúng ta cần suy nghĩ lại NATO, cần chuyển các lực lượng NATO từ Đức sang các biên giới phía đông của liên minh này. Chúng ta cần xem xét lại sự hiện diện của tiền Nga trong các thị trường tài chính quốc tế, do quá nhiều tiền “tư nhân” của Nga thực ra do nhà nước kiểm soát. Chúng ta cần xem lại các luật lệ của chúng ta về rửa tiền và các hình thức tránh thuế, do Nga dùng tham nhũng như một công cụ của chính sách đối ngoại. Trên hết thảy, chúng ta cần xem xét chiến lược năng lượng của phương Tây, do các tài sản dầu khí của Nga cũng được dùng để thao túng chính trị và giới chính khách Châu Âu, và tìm cách giảm sự phụ thuộc của chúng ta.
Tất cả những điều này sẽ mất thời gian, và đối với một số người, như vậy có thể đã quá trễ. Tuần trước ở Kiev, Ukraine, tôi gặp những thanh niên Ukraine nói với vẻ hào hứng đến đau lòng về triển vọng một ngày nào đó họ có thể sống trong một đất nước hoàn toàn khác. Tôi không nỡ lòng nói với họ là tôi không biết liệu họ có bao giờ được như vậy hay không.
Nguồn: Anne Applebaum, Russia Will Never Be Like Us, Slate, 20/3/2014
__________
Anne Applebaum là nhà báo viết chuyên mục cho Washington Post và Slate. Bà tốt nghiệp cử nhân tại Đại học Yale (Mỹ) và thạc sĩ quan hệ quốc tế tại Trường Kinh tế London (Anh), thông thạo tiếng Anh, Pháp, Ba Lan và Nga. Bà chuyên về lịch sử chủ nghĩa cộng sản và việc phát triển xã hội dân sự ở Trung và Đông Âu, và đã viết nhiều sách về các chủ đề này, trong đó có “Gulag: A History” (Lịch sử nhà tù Gulag) giành được Giải Pulizer năm 2004. Chồng bà, Radosław Sikorski, là Ngoại trưởng Ba Lan.
Đọc thêm: “Đằng sau bức màn sắt“, bài giới thiệu tác phẩm Bức màn sắt: Cuộc thâu tóm Đông Âu (Iron Curtain: The Crushing of Eastern Europe, nhà xuất bản Doubleday) của Anne Applebaum
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra
[i] Nguyên văn: pressing the “reset button”. Chi tiết này nhắc tới chuyện năm 2009 ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tặng ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov nút bấm tái khởi động, bày tỏ ý muốn của Mỹ muốn tái khởi động mối quan hệ Mỹ-Nga. (N.D.)
March 21, 2014
Thái tử Nguyễn Thanh Nghị
Thuận Văn
Đã có khá nhiều phản ứng nặng thiên kiến quanh việc Nguyễn Thanh Nghị được “ẵm” lên bệ phóng quyền lực và đã đến lúc chúng ta cần tỏ ra công bằng, thử đưa ra một biện giải khách quan và khoa học, khả dĩ nói lên tinh thần “công năng chủ nghĩa” trong chuyện o bế chính trị mệnh danh “quy họach” hay “cơ cấu” này. [1]
Tính chất công năng này, trùng hợp thay, cũng ngụ ý “quy hoạch” và “cơ cấu” về mặt ngôn từ nhưng với một nghĩa lý khác hơn. Nghĩa lý ấy sẽ tìm hiểu sau bởi, để đầu đũa ngọn ngành, chúng ta cần bắt đầu từ nhân vật mà, danh chính ngôn thuận, kẻ o hay người được bế ấy không thể không thề thốt học hỏi thật lòng, học đến tận cuối cuộc đời. Đó là cố lãnh tụ Hồ Chí Minh, người mà họ phải một điều hai điều “cha già dân tộc”.
Cố lãnh tụ ấy, sinh thời, khá là sắt son trong việc học tập “cha già”… nước Mỹ, cố Tổng thống George Washington. Khỏi phải đào sâu trong Hồ Chí Minh tuyển tập dày cộm, chỉ liếc sơ qua đã thấy ông học vị tổng thống đầu tiên nước Mỹ như thế nào rồi, từ việc hệ trọng quốc gia đến việc hệ trọng đời người. Ông học trong Tuyên ngôn độc lập. [2] Rồi ông học việc gia phả, tông đường. [2] Tiểu sử chính thống cho biết ông không vợ không con nên không người kế thừa quyền lực. Mà theo những tiểu sử phi chính thống loại “phản động” nhất thì, ít ra, ông cũng có một đứa con trai vô thừa nhận. [3] Đằng nào cũng vậy, ông giống hệt Washington ở khoản không người kế tục quyền hành.
Nếu không học Washington thì, như là nhà chính trị đầy viễn kiến, có thể nhìn trước thời đại theo một số lời ca tụng, rất có thể ông đã tiên nghiệm được điều mà Stephen Kinzer đã viết vào năm 2011, giữa những diễn biến nóng bóng của Mùa Xuân Ả Rập: các nhà độc tài không nên có con trai. Trong bài “Dictators’ Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed” (Con cái những nhà độc tài, từ Ai Cập đến Libya, đều tận số), đăng trên trang mạng The Daily Beast ngày 2 tháng Chín năm 2011, Kinzer khuyên các nhà độc tài rằng họ không nên có con trai, nếu lỡ có ra thì hãy siết cổ trừ hậu họa [4]. Kinzer viết, xin lược dịch:
“Con cái của những bạo chúa thường góp phần gia tốc tiến trình sụp đổ của cha mình. Chỉ cần hỏi Mubarak. Tổng thống Hosni Mubarak ở Ai Cập mất sạch quyền lực trong ô nhục phần nào là do ông ta không lưu ý đến một bài học ẩn khuất trong lịch sử, đó là các nhà độc tài không nên có con trai. Nhưng phần lớn đám độc tài này lại có. Điều đó lại góp phần thúc đẩy việc đánh mất quyền lực của họ hay sự sụp đổ đất nước của họ.
Người Ai Cập có thể nén lòng cam chịu thêm một thời gian nữa nếu như ông Mubarak già nua không huỵch toẹt tuyên bố rằng ông muốn trao quyền lại cho con trai mình, Gamal Mubarak. Trong toàn bộ những hành vi kiêu ngạo của ông Mubarak thì không có gì sỉ nhục người dân Ai Cập bằng cách cho rằng trong 80 triệu dân chỉ có Gamal Mubarak mới xứng đáng làm nhà lãnh đạo đất nước. Chỉ đơn giản vì ông ta muốn nên Gamal sẽ lên cầm quyền, chả cần đến lá phiếu của người dân.
Chưa đầy một tuần sau các vụ phản đối ở Ai Cập, Tổng thống Ali Abdullah Saleh ở Yemen phải ra mặt thề thốt là, có ra đi, ông ta sẽ không đưa con trai mình, Ahmed, lên làm tổng thống. Cùng lúc, Quốc vương Abdullah ở Jordan, mới vừa kế vị cha mình, đã ra tay giải tán chính phủ trong nỗ lực củng cố chế độ. Xem ra hiện tại triều đại Abdullah này có vẻ vững chãi cũng giống như ở Saudi Arabia, thế nhưng càng ngày quan niệm cho rằng con trai có quyền thừa kế quyền hành hầu như tuyệt đối của cha mình, càng mất dần sự ủng hộ.
Một số ít con cái các nhà độc tài vẫn tiếp tục giữ được quyền lực kế thừa từ cha ông, như Bashar al-Assad ở Syria và Kim Jong Il ở Bắc Hàn. Nhưng đa số chế độ khác thì thất bại thê thảm. Đặc biệt là Phi châu với rất nhiều thí dụ. Con trai của Idi Amin, Daniel Arap Moi, và Jomo Kenyatta không thể giữ quyền lực mà cha họ cố trao lại. Gần nước Mỹ hơn, Jean-Claude ‘Baby Doc’ Duvalier, nhậm chức Tổng thống Haiti sau khi cha qua đời nhưng không thể nào giữ được; các nỗ lực giành lại chính quyền của ông ta trong thời gian qua đã bị ngăn cản rất nhiều vì trí nhớ người dân không chỉ in hằn sự tham nhũng và tàn bạo dưới thời ông ta mà cả của thời của cha ông ta nữa. […]
Các nhà độc tài phải làm gì để thoát khỏi lời nguyền này? Có ba chọn lựa. Một là ‘sợi dây lụa’ từng được các giáo vương của Ðế quốc Ottoman ưa chuộng. Họ cho giết con trai của mình – siết cổ bằng sợi dây lụa để tránh đổ máu vì máu hoàng tộc quá thiêng liêng – để trừ hậu hoạ. Trông thì tàn bạo thật nhưng giới ủng hộ truyền thống này cho rằng số người chết vì nó quá nhỏ so với số người thiệt mạng trong các cuộc chiến giành ngôi ở Âu châu.
[…] Giải pháp thứ hai là không có con. Ðó là con đường của George Washington – một số sử gia cho rằng việc mắc bệnh đậu mùa lúc thiếu thời khiến ông tuyệt tự – và điều này có thể có một ảnh hưởng lớn lao với lịch sử Mỹ. Tư tưởng quân chủ vẫn rất mạnh trong thời Washington và ông nhận được sự sùng bái của công chúng đến nỗi nếu có con trai, có thể sẽ có nhiều áp lực để đưa người con lên làm tổng thống. Ðiều đó có thể đã đưa nước Mỹ đi theo một hướng hoàn toàn khác.
Khi thắc mắc là tại sao Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc gia thịnh vượng nhất trong thế giới Hồi giáo tại Trung Ðông, chúng ta không nên bỏ qua sự thể là lãnh tụ khai quốc, ông Kemal Ataturk, cũng không có con. Cũng giống như Washington, ông được cả nước ngưỡng mộ và có thể dễ dàng cho con trai mình kế nghiệp. Thay vào đó, cũng như Washington, ông ta nhẹ nhàng rút lui khỏi quyền lực để dân chủ rộ nở trên đất nước mình.
Còn có giải pháp thứ ba: đẻ con gái thay vì con trai. Lịch sử cho thấy rằng con gái của các nhà độc tài có khuynh hướng trở thành những nhà lãnh đạo giỏi, nhiều khả năng. Trong số này, ta có thể kể bà Megawati Sukaroputri ở Indonesia, bà Benazir Bhutto ở Pakistan, bà Sheikh Hasina ở Bangladesh, và bà Indira Gandhi ở Ấn Ðộ. Có vẻ như họ thừa hưởng được khả năng lãnh đạo và vận dụng quyền lực của cha mình, và dẫu không vượt qua thói tham nhũng, họ có khuynh hướng cởi mở hơn, dễ dàng chấp nhận thoả hiệp hơn và không bị lôi kéo vào những trò chơi đầy kích thích tố như đua xe, ma túy và tra tấn.
Ðáng tiếc cho Mubarak là đã quá trễ để dùng đến ‘sợi dây lụa’ và ông ta cũng không có con gái”.
Tính đến lúc đó, tháng Chín năm 2011, thì đã quá trễ cho Mulbarak nhưng nếu tính đến bây giờ, tháng Ba năm 2014, có trễ chút nào đối với cha con nói trên, và với bộ máy quyền lực của họ hay không?
Không đoái hoài đến lời khuyên của Kinzer đã đành, nhưng khi mà phong trào “Học tập Bác” đã ầm ĩ từ bao nhiêu năm nay, lẽ nào họ không mảy may biết rằng người khai sinh ra chế độ mình đã thực sự ngộ được điều ấy, y như là người khai sinh nước Mỹ? Như là những học trò “xuất sắc” của Bác, ắt họ phải biết. Biết Bác mà không chịu học Bác thì, ắt hẳn, họ đã tìm ra bài học khác hay hơn; thứ bài học như là bảo bối, một “anti-dote” có thể xoá sạch “lời nguyền con trai”, bảo đảm rằng con trai của những nhà chuyên chế cũng có thể nối ngôi và góp phần bảo vệ quyền lực của nhà mình.
Trên khía cạnh này chúng ta hãy có thể nhìn ra “công năng” của Nguyễn Thanh Nghị qua lời khuyên mà Matt Ford đã đưa ra trong những ngày sôi động tại Ukraine vào trung tuần tháng Hai. [5] Trong bài “A Dictator’s Guide to Urban Design – Ukraine’s Independence Square and the revolutionary dimensions of public spaces.” (“Hướng dẫn của những nhà độc tài về thiết kế đô thị – Quảng trường Độc lập của Ukraine và những chiều hướng cách mạng của những không gian công cộng”, đăng trên tờ The Alantic 21.2. 2014, tác giả này nhận định:
“Ukraine có kích thước tương đương với tiểu bang Texas của Mỹ nhưng trong suốt ba tháng qua phong trào phản kháng ngày càng lan rộng của nó, phần lớn, dồn ứ vào không gian của 10 khối phố.
Tên của phong trào, Euromaidan, là một từ mới hình thành từ tiền tố euro, thể hiện thái độ nhích lại gần hơn với EU và tách xa nước Nga của phe đối lập, với từ maidan trong tiếng Ukraine (gốc từ tiếng Ba Tư và Ả Rập), có nghĩa là quảng trường. Và thuật ngữ này không chỉ biểu lộ vị trí của các cuộc biểu tình ở Quảng trường Độc lập của thành phố Kiev. Ukraine thuộc về châu Âu về mặt địa lý nhưng những người biểu tình còn coi Âu châu như một tư tưởng, hàm ý một ‘nền dân chủ thực sự, với một lực lượng cảnh sát đáng tin và thực tâm tôn trọng nhân quyền’.
Cái tên ấy nói lên một hiện tượng ngày càng phổ biến: quảng trường công cộng đóng vai tâm chấn cho sự bày tỏ dân chủ và tinh thần phản kháng, và việc thiếu một nơi như vậy – hoặc các hành động có chủ đích về một không gian như vậy – là cách thức để những nhà chuyên chế dập tắt các nhóm bất đồng chính kiến thông qua việc thiết kế đô thị.
Không phải trung tâm của tất cả các cuộc cách mạng đều ngự tại quảng trường, nhưng những cuộc cách mạng mới đây đã diễn ra như thế, kể cả các cựu cộng hoà Xô viết. Cuộc Cách mạng Hoa hồng Gruzia lật đổ Tổng thống Eduard Shevardnadze năm 2003 đã xuất phát từ Quảng trường Tự do ở Tbilisi. Năm 2005 những người phản kháng Kyrgyzstan đã chiếm lấy Quảng trường Ala-Too từ tay cảnh sát rồi mau chóng tiến vào dinh tổng thống gần đó, lật đổ Tổng thống lâu năm Askar Akayev. Cuộc Cách mạng Cam của Ukraine năm 2004 cũng diễn ra tại Quảng trường Độc lập, ngay tại nơi mà người biểu tình hiện tại đang đụng độ một cách đẫm máu với lực lượng chính phủ, gây áp lực đòi Tổng thống Viktor Yanukovych phải tổ chức bầu cử sớm và trở lại với hiến pháp 2004.
Tính biểu tượng của quảng trường đã nảy nở thêm tiềm năng mới trong Mùa Xuân Ả Rập. Viết trong những ngày ngây ngất của cách mạng Ai Cập, một thời gian ngắn sau sự sụp đổ của Hosni Mubarak năm 2011, một tiểu luận gia đã hùng hồn giải thích việc Quảng trường Tahrir thể hiện sự đàn áp rộng lớn hơn đối với xã hội dân sự Ai Cập như thế nào. Quảng trường này được xây dựng lần đầu tiên vào thế kỷ 19, dựa trên một thiết kế kiểu ‘Paris bên bờ sông Nile’ cho Cairo, sau đổi tên thành Quảng trường Tahrir (Giải phóng) khi nó trở thành tiêu điểm cho các cuộc cách mạng Ai Cập vào năm 1919 và 1952:
‘Trên thực tế, trong những tuần qua, Tahrir đã thực sự trở thành một quảng trường. Trước kia nó chỉ là một vòng xoay giao thông rộng lớn và bận rộn – và lại nữa – hạn chế của nó là hệ quả của việc thiết kế chính trị, từ chính sách không chỉ ngăn ngừa mà còn cấm ngặt việc tụ tập đông người. Theo luật khẩn cẩp – ban hành từ khi Mubarak nhậm chức vào năm 1981 và vẫn chưa được xoá bỏ – thì việc tụ tập chỉ một vài người lớn tại nơi công cộng cũng có thể dẫn đến việc bắt bớ. Như hết thảy những chính quyền chuyên chế, chính quyền Mubarak hiểu được sức mạnh của một quảng trường thực sự, nơi mà các công dân có thể gặp nhau, dạo chơi, tản bộ, tụ họp, phản đối, trình diễn và chia sẻ ý tưởng, và hiểu rằng một midan thực sự – quảng trường kiểu Ả Rập – chính là bản tuyên ngôn vật thể của nền dân chủ.
Ở Tahrir điều này ngụ ý việc dựng hàng rào và phân chia thành những bãi cỏ và lối đi dễ quản lý. Hãy nêu ra một thí dụ nổi bật: cho đến thập niên 60 thì phần lớn quảng trường nằm ở trước mặt Bảo tàng Ai Cập là một bãi cỏ rộng với những lối đi đan chéo và một đài phun nước lớn. Tại đây các gia đình và sinh viên có thể tụ tập cả ngày và, với những đôi tình nhân, nó còn là điểm hẹn hò nổi tiếng giữa trái tim thành phố. Nhưng từ thập nhiên 70 chính quyền đã dựng hàng rào quây kín mà không chịu giải thích rõ số phận của điểm hẹn ưa thích này. Người Cairo suy đoán rằng khu này bị quây lại để xây dựng tuyến xe điện ngầm Cairo Metro hay những dự án hạ tầng cơ sở khác. Đâu đó trong thập niên trước một tấm bảng xuất hiện, thông báo việc xây dựng một bãi đậu xe ngầm nhiều tầng bên dưới. Trong những cuộc phản đối tại Quảng trường Tahrir Square, những người biểu tình đã giỡ hàng rào ra rồi sử dụng làm tấm khiên bảo vệ, ngăn cản các vụ tấn công của đám lưu manh ủng hộ Mubarak — và việc tháo giỡ này cho thấy chẳng có một công trình xây dựng nào như hứa hẹn. Quả là một di sản đô thị của Mubarak.’
Bề mặt của Cairo đã biến Quảng trường Tahrir trở thành một địa điểm lý tưởng để tung ra một cuộc cách mạng. Toạ lạc tại trung tâm thành phố lớn nhất của Ai Cập, Tahrir nằm sát quốc hội, tổng hành dinh đảng chính trị của Mubarak, dinh tổng thống, nhiều toà đại sứ nước ngoài, và các khách sạn đầy phóng viên quốc tế để có thể truyền phát hình ảnh của các cuộc biểu tình đến với khán giả khắp thế giới. Sau khi Mubarak bị hạ bệ, các quảng trường rộng rãi ở các thủ đô Ả Rập khác cũng đã trở thành các đấu trường cách mạng tương tự. […]
Trong nhiều đường hướng thì người Pháp đã đi đầu trong việc áp dụng việc thiết kế đô thị với mục tiêu chính trị. Vào những năm đầu thế kỷ 19 thì về căn bản Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ, ngộp thở với sự chật chội và thiếu thốn hạ tầng. Tiến trình cải tạo đô thị của Baron Haussmann dưới triều Napoleon Đệ Tam vào các thập niên 1850 và 1860 đã mang lại cho Kinh thành Ánh Sáng một hệ thống cống rãnh hiện đại, các công viên ngoại ô xinh đẹp và một hệ thống trạm xe lửa. Ông ta cũng chộp lấy cơ hội này để triệt phá các khu ổ chuột ô hợp, tống khứ những cư dân cùng khổ về vùng ngoại ô và thay thế những ngả hẻm chật hẹp bằng những đại lộ thoáng đãng. Trong trường hợp xảy ra nổi dậy, như đã diễn ra trong những năm 1789, 1830, và 1848, nhà cầm quyền Pháp hy vọng rằng những con đường rộng hơn sẽ vừa làm khó những nhà cách mạng Paris trong nỗ lực thiết lập hàng rào chướng ngại, vừa tạo thuận lợi để các đội hình binh lính Pháp tiến vào đàn áp.
Kiểu tính toán đó vẫn tiếp tục cho đến tận hôm nay. Năm 2005, nhóm quân phiệt cầm quyền Miến Điện dời trụ sở chính quyền từ Yangon, một thành phố rực rỡ sắc màu của 5 triệu người, tới Naypyidaw nằm sâu trong nội địa với mục đích an ninh. Biệt lập với các khu dân cư khác, dân số Naypyidaw – chủ yếu là các giới chức chính quyền và quân sự – chỉ dành thời gian tối thiểu ở thành phố hoang vắng kỳ lạ này. Các giới chức Miến tuyên bố gần một triệu người sống ở đây, dù con số thực sự có thể thấp hơn thế, rất nhiều.
Hai năm sau đó, năm 2007, khi cuộc Cách mạng màu Vàng Nghệ nổ ra thì các cuộc biểu tình lớn làm rung chuyển các thành phố Miến Điện khác không bao giờ diễn ra ở Naypyidaw, và những tên quân phiệt vẫn tiếp tục nắm quyền lực sau một cuộc đàn áp nhanh chóng nhưng tàn bạo. Thậm chí cả khi dân số thành phố đã đủ lớn cho các cuộc biểu tình thì chúng sẽ diễn ra ở đâu? Những đại lộ rộng rãi phân ranh giới các khu dân cư dành riêng cho quan chức, không có quảng trường công cộng hoặc một nơi chống để làm trung tâm tụ tập cho những người dân cứng cổ hay hiền lành. Thậm chí dinh tổng thống còn được bao quanh bằng một hào sâu và một ký giả đã mô tả thành phố này như là một ‘nền độc tài trên phương diện bản đồ học’.
Trong khi đó thì Tổng thống Nursultan Nazarbayev của Kazakhstan lại dời ghế ngồi quyền lực của mình về Astana, sâu trong thảo nguyên Kazakh, thành phố tràn ngập những đường nét kiến trúc vị lai khiến khách viếng thăm hoa cả mắt. Tổng thống Nga Vladimir Putin thì tìm cảm hứng trong quá khứ: từ năm 2008 ông ta đã khôi phục truyền thống duyệt binh hoành tráng của thời Xô viết ở Hồng trường của Moskva nhằm biểu dương sức mạnh. Vẫn chưa rõ ý ư? Chính quyền Arab Saudi sử dụng Quảng trường Deera ở Riyadh để tiến hành các các vụ chặt đầu, công khai và chính thức.
Những nơi khác thì tinh vi hơn. Ở Bình Nhưỡng, thủ đô hà khắc của nhà nước toàn trị cuối cùng trên thế giới, sự tuân phục răm rắp đã lộ ra theo từng khối bê tông kềnh càng thô vụng. Chỉ những công dân trung thành nhất của Bắc Hàn mới được phép cư ngụ trong những chung cư giống hệt nhau của thành phố, đặc điểm chung của phong cách thiết kế đô thị Stalinist. Thành phố lớn nhất của Bắc Hàn định hình với ‘những tượng đài lớn của một thứ thẩm mỹ đầy khả nghi rải khắp thành phố, nối với nhau bằng những đại lộ kiểu Haussman rộng một cách vô nghĩa lý và những quảng trường khổng lồ nhưng trống rỗng, không một bóng người. Không gian công cộng chỉ tồn tại để tôn sùng nhà nước và cá nhân những lãnh tụ họ Kim.
Nếu sự trương phì quá mức của không gian công cộng có thể là điều xấu thì Quảng trường Thiên An Môn của Trung Quốc là vi phạm tệ hại nhất. Như một nghịch lý, quảng trường lớn thứ tư trên thế giới này có thể xem như là ‘sự đối lập với không gian công cộng’ như Tim Waterman và Ed Wall đã viết trong cuốn sách của họ về kiến trúc cảnh quan. ‘Quy mô toàn trị’ của Thiên An Môn đã khiến ‘các cá nhân trở nên nhỏ bé và buộc họ cảm thấy phục tùng quyền lực nhà nước. Đó là không gian phù hợp nhất cho việc duyệt binh với súng đạn chứ không phải để công chúng thưc sự tham gia vào đời sống thường nhật của đô thị.’ Cuộc đàn áp bằng xe tăng đối với các nhà dân chủ tại quảng trường này vào năm 1989 là một lời nhắc nhở rõ ràng rằng những cuộc biểu tình quy mô lớn có thể thất bại như thế nào.
Không phải nhà độc tài nào cũng thành thạo việc thiết kế đô thị. Việc tái thiết kế đại quy mô thủ đô Bucharest của lãnh tụ độc tài Nicolae Ceauşescu ở Rumani trong những năm 1980 đã xoá sạch một phần năm diện tích thành phố lịch sử này để dựng nên một mớ hổ lốn những cấu kiện bê tông, bao gồm cái trụ sở quốc hội lớn nhất thế giới chiếm ngự cả đường chân trời của Bucharest. Không một yếu tố nào trong đó ngăn cản được đám đông vĩ đại phản kháng ông ta sau bài phát biểu tại Quảng trường Cách mạng vào tháng 12 năm 1989. Vài ngày sau đó, Ceauşescu bị tóm cổ, bị kết án, và bị xử bắn. […]”
“Quy hoạch” hay “cơ cấu” để con cái tiếp tục làm vua có thể khiến cho công chúng nổi giận và vấn đề, như Ford đã nêu, không phải là đầu hàng mà là “quy họach” và “cơ cấu” lại không gian đô thị như thế nào để có thể dập tắt cơn giận ấy, tránh khỏi vết xe đổ của Mubarak và Ceauşescu?
Có lẽ, những nhân vật chịu trách nhiệm cao nhất cho tuổi thọ của chế độ toàn trị tại Hà Nội đã tính đến điều này khi ẵm cậu trưởng nam của ngài Thủ tướng đặt vào những cái ghế ngồi quyền lực. Có thể lắm. Tính được cả việc khiêu vũ để ngăn cản một nhúm người hoài cổ, muốn đặt vòng hoa trong ngày kỷ niệm chiến tranh thì, với chuyện hệ trọng như mạng số của chế độ mình, có gì mà họ không thể tính tới? Mà cũng không cần phải tính nhiều lắm, chỉ cần liếc sơ qua cái toát yếu lý lịch, có thể thấy rằng cậu quý tử ấy hội đủ điều kiện để giúp cha cậu, hay chế độ của cha con cậu, không giẫm lên vêt xe đổ nói trên.
Thì cậu ta tốt nghiệp kiến trúc tại Việt Nam. Thì, cậu ta tốt nghiệp tiến sĩ civil engineering tại Mỹ. Ngành đó, ngày xưa, một nửa nước Việt Nam gọi là “công chánh”, và như một chuyên viên công chánh, cậu ta cũng là đồng nghiệp bề trên của những ông những trùm khủng bố cỡ lớn như Osama bin Laden hay Yasser Arafat, vốn là hai kỹ sư công chánh. Đến chết thì bin Laden vẫn còn là một tên khủng bố còn Arafat thì, trước khi gác chất nổ lúc gần cuối cuộc đời, từng là mối ám ảnh khủng bố của thế giới trong thập niên 70 và 80. Như là những chuyên viên công chánh, họ có hiểu biết chuyên môn cần thiết để xác định đâu là nơi phải đặt bom và phải đặt bom như thế nào thì mới đạt tới hiệu suất khủng bố cao nhất.
Tiến sĩ công chánh Nguyễn Thanh Nghị được bế vào những bệ phóng quyền lực, có lẽ, cũng được bế với chủ tâm “hiệu suất khủng bố cao nhất” ấy.
Không phải ngẫu nhiên mà “Mùa Xuân Ả Rập” lại… “diễn biến” thành “Mùa Xuân Nguyễn Thanh Nghị” tại cái nơi mà nhà cầm quyền đang ngay ngáy “chống diễn biến”. Không khí cách mạng ở bên kia càng hực nóng bao nhiêu, đường hoạn lộ của Nguyễn Thanh Nghị ở bên này càng thênh thang bấy nhiêu. Hãy nhớ lại những ngày ê chề của cậu ta trong cuộc đua vào Thành ủy TPHCM trong Đại hội 9 của Đảng bộ này vào thượng tuần tháng Mười năm 2010. Đường đường là trưởng nam của một ủy viên Bộ Chính trị vai vế, cậu ta bị lọai khỏi cuộc chơi một cách nhục nhã khi chỉ nhận được có 17 phiếu trong tổng số 400 phiếu bầu. Đó là chặng đua đầu, là cửa ải bắt buộc trước cuộc chạy đua vào Trung ương theo nguyên tắc “dân chủ tập trung” và, với cậu, tình thế xem ra đã hết đường.
Nói theo các nhà tướng số thì cái mà cậu ta cần lúc này là một “quý nhân giúp đỡ” và ai cũng dễ dàng chụp mũ rằng “quý nhân” ấy phải là người cha quyền lực của cậu mà không chịu để ý đến “Mùa Xuân Ả Rập”. Giữa cuộc đấu đá quyết liệt chốn thâm cung ấy ông cha vai vế cũng chẳng xoay xở được gì nhiều nếu không có cuộc Cách mạng Hoa Lài. Sự không may của cha con những gia đình nhà độc tài Ả Rập lại là cái may của cha con cậu: cha cậu khó mà ẵm cậu vào ngai vàng nếu cách mạng không bùng phát tại vùng đất xa cách ấy.
Chỉ vài tuần sau thất bại ê chề “17 phiếu” ấy thì cách mạng nổ ra. Ngày 18 tháng Mười Hai năm 2010, cuộc nổi dậy tại Tunisia bùng nổ thành cuộc cách mạng và từ đây làn sóng dân chủ lan tràn sang các nước làng giềng, Algeria, Jordan, Ai Cập và Yemen. Chỉ trong vòng mấy tháng đã có mấy chính phủ bị lật hay ít ra hay rung rinh, xuống nước; đã có hàng lọat lãnh tụ từng được xem là bất khả xâm phạm phải lưu vong, bị tước hết quyền hành hay kết liễu sinh mạng một cách thê thảm. Sự dồn dập của không khí cách mạng khiến các chế độ độc tài khác lo sợ và báo động. Bắc Kinh lo sợ và báo động. Hà Nội, cũng lo sợ, báo động và, từng bước từng bước, họ nghĩ lại, họ ẵm cậu ta lên những nấc thang quyền lực cao hơn.
Đầu tiên, tháng Giêng năm 2011, chỉ vài tuần sau khi cách mạng nổ ra tại Tusina, Đại hội toàn Đảng ở Hà Nội đã ẵm Nguyễn Thanh Nghị bế thằng vào Trung ương như một ủy viên dự khuyết, bất chấp nguyên tắc “dân chủ tập trung”. Không khí cách mạng từ những quảng trường Ả Rập càng nóng lên, cậu ta càng được chú ý, càng được “cơ cấu” và “quy hoạch” cao hơn, đúng với… công năng “quy hoạch” và “cơ cấu” của một chuyên gia công chánh. Tháng Mười Một năm 2011, từ một chân Ủy viên Trung ương “đậu vớt”, hoàn toàn không có kinh nghiệm công quyền, cậu ta được bế vào nội các như một Thứ trưởng chuyên trách việc “chỉnh trang đô thị”. [7]
Điều làm họ nghĩ lại, ắt hẳn, phải là mẫu số chung giữa những “không gian cách mạng” tại các xứ sở như Ai Cập và “công năng” của một chuyên gia có khả năng khủng bố bằng… bê tông.
Thật vậy. Khi bin Laden hay Arafat dùng chất nổ phá tung những khối bê tông, họ đã đánh vào tâm lý của đối thủ, buộc đối thủ phải triền miên sống trong cảnh nhấp nhỏm, bất an. Nhưng khi những nhà cầm quyền Miến Điện, Bắc Hàn, Kazakhstan, Trung Quốc v.v. cho đổ những mẻ bê tông trong các dự án “cơ cấu” hay “quy họach” thủ đô, họ cũng tiến hành cái công việc khủng bố ấy không hơn không kém. Như những nhà cầm quyền nhấp nhổm bất an, họ tìm mọi cách để áp chế sức công phá từ trái tim con người, để đè nén những không gian ở đó con nguời có thể tập hợp lại với nhau, có thể truyền cảm hứng và nuôi dưỡng khát vọng cho nhau. Những đám đông như thế cần sống cho nhau và cho đất nước của mình, nhưng cái mà thể chế bạo quyền đòi hỏi là đám đông kia phải sống cho họ, vì họ, vì riêng cái thể chế của họ.
Chắc hẳn bộ máy cai trị đang nhấp nhổm bất an tại Hà Nội đã ý thức được rằng họ không thể mãi mãi bảo vệ “nhà nước pháp quyền” của mình bằng cách đơn thuần trông cậy những trò du kích đá cá lăn dưa. Họ không thể mãi mãi trông cậy vào những bô cứt hay lọ mắm tôm thối ném vào đám đông hay những cái “condom đã qua sử dụng” ném vào khách sạn. Họ không thể vĩnh viễn trông cậy vào đám đông nhếch nhác, “tùng tam tụ ngũ” mấy ông già hom hem mệnh danh “cựu binh” hay “thương binh”, mồm sặc sụa mùi rượu, lưỡi dẻo quánh những tiếng chửi thề. Và họ cũng không thể vĩnh viễn dựa vào đám “vũ viên” trâng tráo, vừa nhón gót trên những trang sử thương đau nhất, vừa láo ngoáy mông trước mặt một trong những vị vua công lao nhất.
Quá khứ Maoist và kiểu cách mạng “nông thôn bao vây thành thị” đã lùi xa. Mạch sống mới đang bùng nổ tại thành thị với sự trưởng thành của giai tầng trung lưu và khát vọng cháy bỏng về một xã hội dân sự. Mà, với Facebook, với các hình thức cà phê dân chủ, ở quán cóc vỉa hè hay quán ảo Internet, không gian đô thị Việt Nam đang nhân lên đa chiều, rộng hơn mà đậm đặc hơn, sâu hơn mà cao hơn, tiềm tàng sức bật cho một cuộc cách mạng đô thị. Và đó là điều đã khiến những nhà toàn trị tại Hà Nội nhấp nhổm bất an và họ, nói theo ngôn ngữ của chính họ, nhận ra nhu cầu phải “nâng” cái chiến thuật cũ nát của mình lên “một tầm cao mới”. Từ tính chất phi quy ước và tủn mủn xưa cũ, họ phải hướng tới một tầm cỡ “quy ước “ hơn. Họ phải “quy hoạch” và “cơ cấu” lại đô thị để tạo ra những kiến trúc đô thị mang tính “phản cách mạng” hay “phản giải phóng”, không giẫm lại vết xe ở Bucharest hay tại Cairo, có thể bảo đảm rằng Mubarak vẫn có thể tiếp tục cầm quyền cho dù nhân dân Ai Cập đùng đùng nổi giận trước việc “quy họach” hay “cơ cấu” Gamal Mubarak làm người kế vị.
Từ đầu chúng ta đã nhắc đến “công năng chủ nghĩa”. Và chúng ta đang nhắc đến “kiến trúc đô thị” nên, do đó, không thể không nhắc đến Le Corbusier, một trong những nhà kiến trúc vĩ đại nhất của thế kỷ 20, cha đẻ của trường phái Functionalism với phát biểu nổi tiếng “Nhà là một cái máy để ở”. Nếu nhà là một thứ máy để ở thì đô thị, với các nhà toàn trị, và có thể thấy qua những gì đã trình bày ở trên, sẽ là một thứ “máy” để đàn áp và khủng bố. Nếu “cỗ máy đàn áp – khủng bố” của chế độ toàn trị đã chằng chịt với những bộ máy đoàn thể, tuyên truyền, công an, mật vụ nhà tù hay cái condom và bô cứt v.v. thì nay sẽ có thêm những mẻ bê tông, với ông thứ trưởng bê tông đang được ẵm vào một bệ phóng chính trị khác để từ đó còn lên cao hơn nữa.
Đó chính là tính chất “công năng chủ nghĩa” trong việc ẵm bế chính trị bất kể nguyên lý dân chủ tập trung.
Trong bài viết trên Kinzer đã tiếc thay cho Mubarak là “đã quá trễ để dùng đến ‘sợi dây lụa’ và ông ta cũng không có con gái”. Nhưng trai hay gái, đó là số phận, là trời cho chứ không phải là chọn lựa và, hôm nay là thế kỷ 21, không một người dân nước nào thể chấp nhận một lãnh tụ siết cổ con mình. Có tiếc, Mubarak chỉ nên tiếc là đã không cho con trai học nghề khủng bố bằng bê tông như cậu trưởng nam của ông Thủ tướng nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
[7]
Nhưng tiếc cái học của con chỉ là chuyện nhỏ và đáng ra thì Mubarak phải tiếc cho cái học của mình. Tiếc đã không khiêm tốn. Tiếc chỉ nhắm mắt tin tưởng vào ưu thế chính trị phù du trước mắt mà không chịu nhìn trước nhìn sau, không chịu nhìn cùng khắp thế giới và nhìn sâu trong lịch sử để học, để mang lại những cái hậu hay hơn, riêng cho mình và chung cho đất nước, cho nhân dân của mình.
Cái đó, chúng ta gọi là “vô hậu”. Mà, trong lối chửi nhau của người Việt, đặc biệt là với người Huế vốn khét tiếng chửi có tích tuồng và bài bản thì “vô hậu” là tiếng chửi cay nghiệt nhất, độc ác nhất.
Và đau đớn nhất….
19.3.2014
___________
Chú thích
[1] Nguyễn Thanh Nghị được cử làm phó Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang. Đây là một phần trong quyết định của Bộ Chính trị và Ban Bí thư: “luân chuyển cán bộ về địa phương” để “chuẩn bị một bước về nhân sự lãnh đạo cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị ở Trung ương nhiệm kỳ tới”.
[2] Tác giả chính của ban Tuyên ngôn độc lập Mỹ là Thomas Jefferson nhưng người chính thức tuyên bố là George Washington, tại New York City ngày 9.7.1776.
[3] Bùi Tín, “Hồ Chí Minh và đứa con rơi Nguyễn Tất Trung”, RFA, 2007
[4] Stephen Kinzer. “Dictators’ Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed”, The Daily Beast, 2011
[5] Trên thực tế thì các giáo vương chỉ giết anh em mình – đặc biệt là anh em cùng cha khác mẹ – để bảo vệ ngai vàng. “Tập tục” sơi dây lụa này chỉ bắt đầu khi Murad III (1546 –1595) lên ngôi vào năm 1574, về sau về sau biện pháp dây lụa này được thay thế bằng giải pháp giam cầm trong cấm cung.
[6] Matt Ford, “A Dictator’s Guide to Urban Design – Ukraine’s Independence Square, and the revolutionary dimensions of public spaces”, The Atlantic, 21-2-2014
[8] Gamal Mubarak học quản trị hành chánh, lấy bằng MBA và làm việc trong lĩnh vực ngân hàng trước khi tham chính.
© 2014 Thuận Văn & pro&contra
March 20, 2014
Vì sao ông tòa này đau bụng mà ông tòa kia không đau bụng?
Nam Đan
Sáng ngày 18 tháng 3 năm 2014, hàng ngàn đồng bào người dân tộc H’Mong kéo đến tòa án huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang để đòi trả tự do cho ông Thào Quán Mua, bị xét xử theo điều 258 của Bộ Luật Hình sự với nội dung: Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
4 người H’Mong đã bị bắt theo điều luật này. Họ đã làm đơn kiến nghị tập thể đề nghị không đập phá nhà giữ đồ tang lễ của người H’Mong.
Ngày 14 tháng 3, tòa án huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang đã xử ông Hoàng Văn Sang 18 tháng tù. Theo lịch ngày 20 tháng 3 sẽ xét xử ông Lý Văn Dinh và Dương Văn Tu.
Trong buổi sáng 18 tháng 3 đó, phiên tòa xử ông Thào Quán Mua đã bị hoãn. Dự kiến lịch xét xử mới sẽ là ngày 27/03/2014.
Tôi nghĩ, phiên tòa bị hoãn trước áp lực của hàng ngàn người là điều không mấy bất ngờ, nhưng nó bị hoãn với lý do thật kỳ dị, thậm chí rất buồn cười: vị thẩm phán của phiên tòa bị “đau bụng bất ngờ”.
Tôi xem trên các trang mạng và facebook thấy có những lời bình đáng chú ý về sự kiện này như sau:
- FB Phạm Thành: Người H’Mong là một sắc dân thiểu số ở Tây Bắc Việt Nam. Họ từ trước tới nay có một hủ tục về mai táng. Ngươì chết trong gia đình không được chôn cất ngay mà phải chờ bà con dòng họ về đủ mặt. Những ngày chờ đợi bà con đủ mặt ấy thường là không ngắn ngủi, xác chết vẫn phải bón cơm cho ăn từng bữa và mọi ngươì ăn uống ngay trong căn nhà để xác. Hủ tục người chết phải được mổ heo mổ bò… rất tốn kém. Thời gian gần đây có một số người đem tín lý Tin lành / Thiên chúa giáo đến với cộng đồng dân tộc H’Mong, loại dần những hủ tục. Phía nhà cầm quyền vốn rất sợ các giáo phái Tin lành nên đàn áp rất dữ dội. Đây là cuộc biểu tình của hàng ngàn đồng bào H’Mong, kéo đến một tòa án để phản đối việc bắt giam (và đem ra xét xử) một người đồng đạo của họ, ông Thào Quán Mua.
- Đừng ảo tưởng muốn “bắt nạt” ai cũng được đâu. Ở đâu cũng thế thôi, chiếc lò xo càng bị nén thì lực bật sẽ càng mạnh!
- Thật xúc động trước tinh thần đoàn kết của đồng bào H’Mong 4 tỉnh phía bắc. Đoàn kết! Chúng ta là sức mạnh.
- 27 tháng 3 không khéo thẩm phán lại cảm cúm.
- Người H’Mong sống ngay thật và giản dị, nhưng quan trọng nhất: họ hành động.
***
Ngày hôm sau, 19/3/2014, tòa án Hà Nội tại số 42 Hai Bà Trưng mở phiên sơ thẩm xét xử ông Phạm Viết Đào với cùng tội danh như đã buộc với ông Thào Quán Mua: vi phạm điều 258. Phiên tòa này được cho là phiên tòa xét xử công khai.
Ông Phạm Viết Đào là người thứ ba trong 3 blogger bị bắt giữ trong năm 2013. Hai người kia đã bị xử là blogger Đinh Nhật Uy bị án 15 tháng tù treo, và blogger Trương Duy Nhất bị án 2 năm tù ở.
Ông Phạm Viết Đào, 62 tuổi, từng là nhân viên của Bộ Văn hóa, đảng viên Đảng CSVN, hội viên Hội Nhà văn VN, là dịch giả có uy tín. Ông có người em trai hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam – Trung Quốc vào năm 1979. Trên blog của ông có nhiều bài viết về cuộc chiến này.
Theo những tin trên mạng thì trước cổng tòa án bị chặn, căng dây, có biển cấm, và lực lượng an ninh được huy động đông đảo. Có nhận xét rằng có vẻ yên ắng so với các phiên tòa xét xử những nhân vật bất đồng chính kiến khác.
Phiên xử kéo dài 2 giờ đồng hồ, ông Phạm Viết Đào bị tuyên án 15 tháng tù.
Trên mạng có rất nhiều thông tin và sự quan tâm về số phận của ông Phạm Viết Đào trước khi phiên tòa xảy ra. Người ta bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ và quan tâm bằng nhiều hình thức: viết bài trên blog, trên facebook, và đặc biệt là làm thơ tặng, thơ vịnh.
Những bài thơ trong dịp như thế này thường na ná giống nhau: 1/ thống thiết, chứa chan, đồng cảm, chia sẻ tình cảnh với người bị hoạn nạn; 2/ hài hước một cách cay đắng với sự bất công của xã hội, của nhân tình thế thái; 3/ không quên cám cảnh cho tình cảnh của chính mình – của thi sĩ, tác giả.
***
Hai phiên tòa diễn ra trong hai ngày kề nhau, cùng một tội danh như nhau, nhưng chúng có những diễn biến khác nhau: một phiên bị hoãn lại, một phiên kết thúc nhanh chóng, gọn gàng.
Vì sao ông thẩm phán trong phiên xử ông Thào Quán Mua bị đau bụng bất ngờ?
Vì sao hệ tiêu hóa và cơ quan bài tiết của ông thẩm phán trong phiên xử ông Phạm Viết Đào lại vẫn hoạt động rất tốt, hay ít ra không có vấn đề gì trong khi ông ấy ngồi xử án?
Nghĩ mãi, rồi tôi tự trả lời như sau:
Cơn đau bụng bất ngờ của ông thẩm phán đó có liên quan với sự kiện hàng ngàn người H’Mong vây quanh tòa án, chắc chắn là vậy!
Còn ông kia không đau bụng hẳn là do tình cờ đọc những bài thơ được tặng cho bị cáo trong phiên xử của mình, đọc xong thì rất an tâm.
Người H’Mong không mần thơ, không lên mạng rị mọ vần vè như những thi văn nhân lắm chữ dưới xuôi.
Thay vì vậy, họ đồng lòng rủ nhau đến đòi công lý cho anh em bằng chính đôi chân của mình.
________
Chú thích hình
Ảnh 1: Đoàn người H’Mong này đến đòi công lý cho anh em họ.
Ảnh 2: Những biểu ngữ được viết tay trên giấy chứ không in ra như các cuộc biểu tình lâu nay của người Kinh. Có lẽ những người H’Mong này không biết sử dụng máy vi tính, hay thậm chí không có ý niệm gì về việc thế giới đã thay đổi như thế nào ở lãnh vực công nghệ thông tin.
20/03/2014
© 2014 Nam Đan & pro&contra
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers

