Phạm Thị Hoài's Blog, page 24

January 26, 2014

Niềm tin

Nguyễn Minh Thành


Đọc bài: “Hy vọng những đốm lửa nhỏ, cần mẫn” của tiến sĩ Giáp Văn Dương, tôi thấy hứng thú viết bài này, với ý muốn nương theo và bàn sâu hơn vào đề tài niềm tin mà tiến sĩ nói đến. Hi vọng cùng nhau góp phần giúp khơi dậy một chút niềm tin trong chúng ta hôm nay.


Thực tế đúng là xã hội Việt Nam đang mất niềm tin trầm trọng.


Vậy: Niềm tin là gì?


Thực ra hầu như ai cũng biết niềm tin là gì, nhưng động tác đặt ra câu hỏi làm cho ta có thêm không gian cho một vấn đề, mà cuộc sống vốn vội vã của chúng ta đều thiếu chỗ cho hầu hết mọi điều.


“Niềm tin” là từ mà loài người chúng ta dùng cho nhau, nhưng nếu quan sát các vật vô tri trong qui luật vật lí, các vật có thể ở bên nhau khá lâu, hay có khả năng gắn kết với nhau đều phải đạt một số điều kiện tương đồng nào đó, thì đó cũng là niềm tin của chúng. Ví dụ các viên gạch đều có những mặt phẳng là điều kiện để dễ bề xây nên bức tường, hay hai cái móc đều cong quặp tương ứng, để móc vào nhau cho việc lôi kéo hay níu giữ. Một cái cây đứng vững chãi trên mặt đất, là vì bộ rễ mềm mại của nó vươn sâu vào lòng đất, cùng lòng đất có thể mềm đủ, để cho phép nó chui sâu, và rễ cây ôm lòng đất hay lòng đất ôm rễ cây cũng là một dạng tin cậy vậy.


Niềm tin không xảy ra khi có một sự đe doạ bị xâm hại nào đó từ phía đối tác.


Niềm tin biểu hiện ra bề ngoài là sự cam kết, nhưng hun đúc ở bên trong không nhìn thấy là sự thật. Vì thế, đơn giản là: ở đâu có sự thật, ở đó có niềm tin và ngược lại. Hay cũng có thể nói: sự thành thật là năng lượng cho niềm tin.


Lão Tử nói trong Đạo đức kinh về lòng tin cậy như sau:


Kẻ nào biết quí thân vì thiên hạ, Nên giao phó thiên hạ cho họ.


 Kẻ nào biết thương thân vì thiên hạ, Nên gửi gắm thiên hạ cho họ.


(Quí dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả kí thiên hạ. Ái dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả thác thiên hạ.)


Đây là trích từ bản dịch của Thu Giang Nguyễn Duy Cần mà tôi tìm được trên internet. Thật tiếc là tôi không tìm thấy bản dịch tiếng Việt nào nói lên được vẻ đẹp cao siêu và kì diệu của câu này cũng như hầu hết pho kinh, thế nên ít người hiểu và cảm thụ được. Bây giờ pho Đạo đức kinh cũng kể như pho kinh chết.


Chữ “vi” ở đây nghĩa rất rộng, không chỉ nghĩa là , mà còn là: ở trong. Nghĩa là: Ai biết quí, cùng tôn trọng thân mình và biết mình trong vòng tay trời đất và vì trời đất (chữ “Thiên hạ” cũng thường bị hiểu hạn hẹp là quốc gia, đất nước, mà thực ra phải là: trời đất) thì trời đất mới có thể chui vào trong nó. Ai biết yêu thương thân mình trong trời đất, vì trời đất, thì người đó mới có thể thả mình tan biến, hay hoà tan trong trời đất, vũ trụ.


Sự quí trọng và yêu thương mới là yếu tố cần thiết để con người đạt đến thông minh, hiểu biết, và cũng là sự thành thật. Nhưng Lão Tử nói quí và yêu bản thân mình, điều này nghe có vẻ ích kỉ tiêu cực, song không phải thế.


Vì: quí yêu bản thân trong Trời Đất. Chính đây là điểm khó hiểu của lời kinh. Nếu một người ý thức được mình ở trong trời đất (mặc dù ai cũng đều ở trong trời đất mà nhiều người không hề biết!), liền xảy ra một niềm tin cậy lớn, tin cậy nơi sự sống. Nó thấy mình bắt rễ sâu trong nguồn mạch sự sống và có bản lãnh cùng vinh dự vươn cao đến tận cùng của sự tồn tại. Lúc ấy nó trở nên siêu việt trong tình yêu, không chỉ đơn thuần tình yêu vợ chồng, bạn bè, người thân, bố mẹ, con cái… Lúc này người ấy mới biết tình yêu thực sự, chỉ có tình yêu thực sự này mới là phép màu, làm người ấy đủ can đảm tan biến vào vũ trụ cũng như là chủ cả vũ trụ. Đó là mục đích tận cùng của loài người.


Ai biết quí yêu bản thân mình, người đó mới biết quí yêu tha nhân hay ngoại cảnh. Còn người  chưa biết yêu quí được chính mình mà nói yêu người khác, chắc chắn không thể được, và đó cũng chính là bộ mặt đạo đức giả hay chủ nghĩa giáo điều, mà ngày nay chúng ta thấy nhan nhản trên mặt đất, cho dù họ mang danh tôn giáo hay dân chủ hay nhân dân hay cộng sản…


Lão Tử dùng hai vế đối, trên là , dưới là thác để nói lên sự đón nhận và phó thác. Đón nhận và phó thác chính là nguyên lí của niềm tin. Và niềm tin trong câu  kinh trên của Lão Tử là niềm tin lớn nhất trong toàn bộ mọi niềm tin. Đó là: con người có thể ôm lấy cả vũ trụ và con người cũng hoàn toàn ở trong tay vũ trụ mà không còn có thể đi đâu khác được nữa. Hay đơn giản hơn là: Vũ trụ giao mình cho nó và nó giao mình cho vũ trụ. Đó là một bảo đảm mà không có sự bảo đảm nào lớn hơn được.


Và đến đây ta thấy điều kiện cho lòng tin là sự bảo đảm. Ít nhiều thì ở các nước tiến bộ, người ta đã hiểu và thực hiện điều này, chứ không chộp giật và phản trắc như trong xã hội Việt Nam hôm nay. Ít nhiều ở các nước ấy người ta đã nghĩ ra mô hình các quỹ tín thác (trust) hay các hãng bảo hiểm hay nhà băng… Cho dù các mô hình đó chỉ là mô phỏng na ná thô sơ theo qui luật về sự tin cậy thường hằng trong vũ trụ. Nhưng dầu vậy cũng thật đáng khen.


Tới đây chúng ta tạm có công thức: muốn có lòng tin cần có bảo đảm, mà muốn có bảo đảm cần có thành thật.


Thành thật là khởi sự và nền móng cho công trình sự sống mà con người thật vinh dự biết bao tham dự.


Để có lòng thành thật là chỗ khó nhất trên quá trình tiến hoá của nhân loại. Và Việt Nam hiện nay đang ở chính giữa của điểm kẹt này. Nơi nào không thông, ùn tắc nhiều quá thì sự cộng hưởng đau khổ sẽ tạo nên thù nghịch và chiến tranh.  Muốn cho thông thì phương thuốc là: mỗi người phải hướng vào trong chính mình.


Đã luôn không thiếu những tâm hồn nhiệt huyết muốn thay đổi thế giới bằng các phong trào rầm rộ có sức lôi cuốn đông đảo, Song trên thế giới đến ngày nay dường như sự xấu càng gia tăng và bất hạnh của loài người là không kể xiết. Bởi vì đó là những phong trào chỉ lo bên ngoài. Chúng ta hoàn toàn có thể thay đổi thế giới bề ngoài theo cách nào đó, nhưng giải pháp cho sự đau khổ của con người chỉ có thể bắt đầu từ bên trong.


Và tôi đồng ý với tiến sĩ Giáp Văn Dương khi ông nói: “Nếu không thay đổi được đời, thì thay đổi ta trước vậy. Khi những ngọn đuốc lớn đã không thể cháy thì chỉ còn hy vọng vào những đốm lửa nhỏ, kiên nhẫn và cần mẫn”.


Vâng, theo tôi, không thể thay đổi người khác nếu mình không hơn người ta. Nhưng tôi không thích dùng từ thay đổi vì rất dễ bị hiểu lầm và lạm dụng, mà tôi thích dùng từ ảnh hưởng.


Và chỉ khi hướng nội, thì người ta mới thực sự tiến hoá. Tiến hoá là: càng ngày mình càng lớn hơn, trưởng thành hơn về tâm thức. Khi ấy sự ảnh hưởng với người  khác là tự nhiên chứ không cần nỗ lực.


Cách thực tập để quay về bên trong thì rất đơn giản mà lại rất khó. Đơn giản là vì chỉ cần bắt đầu từ thật thà. Khó là vì nếu tôi bắt đầu thật thà mà người khác thì không, khiến tôi bị thiệt. Ta hãy bỏ qua phần đơn giản mà xem xét phần khó. Tuy khó đấy nhưng không phải là không có cách. Đó là hãy chậm rãi và thực tập thật thà từng cái nhỏ. Nếu có bị thiệt thì cũng thiệt nhỏ thôi. Đương nhiên là cần chút kiên nhẫn vì ta hay muốn mau chóng. Sự đau khổ vì mất niềm tin mà dối trá gây nên cho chúng ta đến như ngày nay cũng là vì dối trá rất kiên nhẫn. Chúng từng tí, từng tí len lỏi vào tâm hồn vốn trong trắng của nhân loại cả muôn ngàn năm rồi. Vậy để cho công bằng thì ta cũng phải kiên nhẫn ít ra như thế, thậm chí tốt hơn nếu có thể kiên nhẫn hơn. Rồi khi bén lửa, chúng bừng cháy và ta sẽ hân hoan.


Để cho cảm thấy đỡ khó, tôi nói đến cái lợi của sự thật thà mà chính tôi trải qua. Trước đây tôi đã từng dối trá và rất dối trá. Lòng tôi vì thế cũng rối tung lên và tôi đau khổ. Cái dối trá lần trước nhỏ thì cái lần sau phải to hơn và suy nghĩ phải chạy nhanh hơn và đương nhiên là mệt mỏi hơn. Khi mệt mỏi thì làm sao làm việc hiệu quả tốt được, nên mọi chuyện trở nên xấu xí. Cho tới khi tôi không thể chịu nổi và phải thoát ra. Tôi đã đầu hàng và quay lại tập thật thà. Quả thật, nay một chút, mai một tí, mỗi lần thật thà là mỗi lần nhẹ hơn, sung sướng hơn. Mỗi lần thành thật nho nhỏ, là mỗi lần một niềm tin nhỏ nhỏ thắp lên.


Tôi hiểu kinh nghiệm kiểu như thế này ít nhiều ai cũng trải qua.


Và tôi cũng hiểu còn rất nhiều người biết thế nhưng nghĩ: mình, thấy sống như hiện tại vẫn còn được nên cứ từ từ rồi hãy thay đổi.


Tôi cũng từng chứng kiến những người đã qua đời mà chưa kịp thay đổi.


Còn hiện nay tôi cũng chứng kiến nhiều bạn bè tôi, nhiều người thân trong gia đình tôi sống trong dối trá, mà tôi chưa đủ mạnh để ảnh hưởng họ chuyển sang thành thật.


Kì lạ lắm, khi ta đang trong tình trạng dối trá, giống như con gà con sắp nở trong vỏ trứng. Khi ấy ai bảo ta rằng ngay bên ngoài vỏ, cách 0,1 mm thôi là cả một sự lớn rộng bao la, ta không tin, làm sao tin nổi trong vỏ trứng kín mít thế này! Ấy thế mà khi gà mẹ mổ cho một cái vỡ vỏ trứng, thế là một thế giới hoàn toàn trái ngược với không gian trong vỏ trứng ùa vào. Gà con dù bé nhỏ, nhưng nó cũng đủ mạnh để đạp thoát ra ngoài vỏ trứng.


Sự thật ở bên ngoài vỏ trứng, vậy làm sao chúng ta có thể bị thiệt thòi khi từ bỏ dối trá. Sự từ bỏ dối trá đáng giá cho ta cả đất trời. Hãy đón nhận sự bảo đảm ấy.


Muốn có sự thành thật với người khác, thì ta phải thành thật với chính mình trước. Điều này hầu như ai cũng nghe nhiều và “biết rồi khổ lắm nói mãi”, song quả thực để bắt tay thực hiện thì không dễ.


Ta thường trải qua một giai đoạn ngần ngại và hoài nghi. Có một sự đổ vỡ lớn mà ta lơ mơ cảm thấy khiến ta ngần ngại. Có một cảm giác mất mát mơ hồ khiến ta băn khoăn: liệu khi chuyển sang thành thật, tôi sẽ được bù lại gì trước những mất mát? Thực ra chúng ta chưa hề cho mình cơ hội xem xét những thứ đổ vỡ mất mát đó là những gì. Thực sự chúng chỉ là rác và đồ giả lộn xộn chồng đống trong tâm hồn chúng ta. Cũng từ đống rác đó mà buồn bực sinh ra, phiền não sinh ra, thù hận sinh ra…


Chỉ cần chúng ta hãy đặt câu hỏi: Có ai hạnh phúc vì dối trá không? Và chúng ta xem xét câu trả lời một cách nghiêm túc trên mọi khía cạnh. Câu trả lời đúng nhất là rất ngắn gọn một từ: “Không”. Chừng nào mà ta còn chưa cảm nhận và thấu hiểu điều đơn giản: dối là ảo, là bất hạnh; thật là thật, là hạnh phúc, thì dù có làm gì ta cũng chỉ là đang giãy giụa chứ chưa ngả mình trong vòng tay sự sống.


Thành thật ư? Đầu tiên là tôi cảm thấy không thích khi coi mình là người giả dối. Tôi thậm chí sẽ rất ghét nếu ai đó coi tôi là giả dối. Và như thế một hàng rào do cái tôi giả dối sẽ dựng nên, hàng rào đó được xây đắp bởi kĩ thuật của chính sự dối trá càng lúc càng tinh vi. Khiến cho không biết bao nhiêu người không biết chính mình là người giả dối. Không những chỉ cá nhân, mà còn cả những tập thể cũng không hề biết họ đang bảo vệ và vun bồi cho sự giả dối tinh vi đang choán ngợp, ngự trị trong cộng đồng và xã hội.


Sự giả dối tinh vi thường nguỵ trang khéo léo trong các nhãn hiệu của tôn giáo hay đạo đức hay tình yêu.


Lấy ví dụ: Tình yêu nước chính là một thứ tình yêu giả, thế mà nó gây ra biết bao đau khổ cho nhân loại từ xưa đến giờ. Trong tự nhiên không hề có cái gọi là lòng yêu nước. Đó hoàn toàn là sản phẩm nhân tạo. Chúng chỉ tồn tại trong sự mê muội của tâm trí loài người chứ không liên quan gì đến tình yêu của sự sống tự nhiên. Và đến ngày nay trái đất chịu bao vết hằn ngang dọc vì biên giới quốc gia. Con người bị thít chặt trong mớ dây hận thù, tham lam, sợ hãi và chia rẽ.


Hay một ví dụ khác: Cô gái chửa hoang hoàn toàn đẹp và đạo đức trước thiên nhiên và trời đất. Nhưng cô ấy sẽ bị biết bao đau khổ trước mặt người đời!


Thêm một ví dụ khác nữa: Chỉ có một Thượng đế duy nhất (nếu có), thế mà bao nhiêu tôn giáo mặc dù công nhận như thế, song lại tranh giành nhau độc chiếm, thậm chí đổ không biết bao nhiêu là máu xương!


Tôi chỉ nêu ra ba ví dụ trong biết bao trường hợp không đếm xuể mệnh danh là đạo đức mà con người phải gánh vác được trao cho bởi chính con người. Kẻ tạo ra chúng là sự dối trá và cách mà chúng được tạo thành cùng được nuôi dưỡng là do chiều hướng sống ra bên ngoài. Ta hãy cẩn trọng phân biệt thế nào là đạo đức tự nhiên và thế nào là đạo đức nhân tạo.


Quay vào bên trong hay ngoảnh đầu là bờ là lời năn nỉ của sự thật và cũng chỉ có cách đó là duy nhất cứu rỗi.


Người ta nói mất niềm tin là mất tất cả, tôi thì cho là chưa mất tất cả. Chúng ta luôn luôn còn sự khởi đầu mới ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào.


Và đó cũng là một đảm bảo nữa của sự sống, đó là: chúng ta luôn có thể bắt đầu từ ngay bây giờ và ở đây. Đó chính là nhiệm màu.


Đà Lạt tháng Một năm 2014


© 2014 Nguyễn Minh Thành & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 26, 2014 03:57

January 18, 2014

Các tập san như Nature, Cell và Science đang phá hoại khoa học ra sao

Randy Schekman


Phạm Vũ Lửa Hạ dịch


Những động cơ khuyến khích của các tập san hàng đầu làm méo mó khoa học, cũng như các khoản tiền thưởng hậu hĩnh làm méo mó ngành ngân hàng.


Tôi là một nhà khoa học. Thế giới của tôi là một thế giới chuyên môn đạt được nhiều thành tựu vĩ đại cho nhân loại. Nhưng thế giới này bị suy đồi vì các động cơ khuyến khích không thích hợp. Các cơ cấu phổ biến hiện nay để tạo danh tiếng cá nhân và tiến thân thường trọng thưởng những công trình nghiên cứu hào nhoáng nhất, chứ không phải nghiên cứu có giá trị nhất. Những người trong giới chúng tôi chạy theo các động cơ khuyến khích này thực ra chỉ hành xử rất duy lý – bản thân tôi từng chạy theo chúng – nhưng chúng tôi không phải lúc nào cũng phục vụ tốt nhất cho các lợi ích của nghề nghiệp chúng tôi, nói gì đến các lợi ích của nhân loại và xã hội.


Chúng ta đều thấy rõ các động cơ khuyến khích méo mó đã ảnh hưởng thế nào đến ngành tài chính và ngân hàng. Các động cơ khuyến khích dọn ra trước mắt những đồng nghiệp của tôi không phải là những khoản tiền thưởng hậu hĩnh, mà là các phần thưởng chuyên môn nhờ được đăng bài trong các tập san [khoa học] uy tín – chủ yếu là Nature (Tự nhiên), Cell (Tế bào) và Science (Khoa học).


Những tập san xa xỉ này được xem là khuôn vàng thước ngọc về chất lượng, chỉ đăng những bài nghiên cứu xuất sắc nhất. Vì các ban xét duyệt kinh phí tài trợ nghiên cứu và bổ nhiệm [nhân sự hàn lâm] thường xem nơi đăng bài là đại diện cho chất lượng của khoa học, nếu có bài đăng ở các tập san này, ta thường cầm chắc được tài trợ nghiên cứu và được bổ nhiệm chức danh giáo sư. Nhưng tiếng tăm của các tập san lớn chỉ được bảo đảm một phần. Tuy có đăng nhiều bài xuất sắc, các tập san này không chỉ đăng những bài xuất sắc. Mà họ cũng không phải những tập san duy nhất đăng công trình nghiên cứu xuất sắc.


Các tập san này tích cực chăm chút cho thương hiệu của mình, theo những cách tạo điều kiện tăng số lượng đăng ký mua tập san hơn là khuyến khích những nghiên cứu quan trọng nhất. Giống như các nhà thiết kế thời trang tạo ra những túi xách hay bộ vét loại số lượng hạn chế, họ biết rằng tình trạng khan hiếm sẽ kích cầu, vì thế họ hạn chế một cách giả tạo số bài nghiên cứu mà họ nhận đăng. Các thương hiệu độc quyền này sau đó được tiếp thị bằng một thủ thuật gọi là “hệ số ảnh hưởng” (impact factor) – loại điểm số dành cho mỗi tập san, đo số lần các bài đăng trong tập san đó được các nghiên cứu về sau trích dẫn. Trên lý thuyết, những bài có giá trị hơn thường được trích dẫn nhiều hơn, vì vậy các tập san có giá trị hơn có điểm số cao hơn. Tuy nhiên, đây là một số đo còn rất nhiều khiếm khuyết, theo đuổi cái mà tự thân nó đã trở thành một cứu cánh – và đang phá hoại khoa học giống như văn hóa tiền thưởng đang phá hoại ngành ngân hàng.


Việc một bài nghiên cứu được đánh giá bằng hệ số ảnh hưởng của tập san đăng bài đó là chuyện phổ biến và được nhiều tập san khuyến khích. Nhưng vì hệ số của một tập san là điểm số trung bình, nó chẳng thể hiện gì về chất lượng của bất kỳ một bài nghiên cứu riêng lẻ nào. Hơn nữa, việc trích dẫn đôi khi, chứ không phải luôn luôn, có liên quan đến chất lượng. Một bài có thể được trích dẫn nhiều vì đó công trình khoa học có giá trị – hoặc vì nó có tính hấp dẫn, có vẻ khiêu khích, hoặc sai. Ban chủ biên các tập san xa xỉ hiểu rõ điều này, nên họ chấp nhận những bài sẽ gây xôn xao vì chúng nghiên cứu những chủ đề hấp dẫn hoặc đưa ra những nhận định thách thức. Điều này ảnh hưởng đến loại hình khoa học mà giới khoa học theo đuổi. Nó tạo ra những bong bóng trong các lĩnh vực thời thượng, trong đó các nhà nghiên cứu có thể đưa ra những nhận định táo bạo mà các tập san này muốn, trong khi lại ngăn cản những hoạt động nghiên cứu quan trọng khác, chẳng hạn như nghiên cứu lặp lại (replication studies).


Trong những trường hợp cực đoan, sức hấp dẫn của tập san xa xỉ có thể khuyến khích thủ đoạn đi tắt, và góp phần dẫn đến số lượng ngày càng nhiều các bài bị hủy bỏ vì sai sót hay gian lận. Riêng tập san Science gần đây đã hủy bỏ một số bài đình đám báo cáo về phôi người sinh sản vô tính, các liên hệ giữa việc xả rác và bạo lực, và hồ sơ di truyền của những người sống đến trăm tuổi. Có lẽ tệ hơn là tập san này chưa hủy bỏ những nhận định cho rằng một vi khuẩn có thể dùng a-sen trong DNA của nó thay vì phốt-pho dù giới khoa học chỉ trích nặng nề.


Có một cách tốt hơn, thông qua loại hình mới là các tập san nguồn mở mà bất cứ ai cũng được đọc miễn phí, và không cần phải khuyến dụ đăng ký mua tập san với giá cao. Ra đời trên mạng, các tập san này chấp nhận tất cả những bài đáp ứng các chuẩn mực chất lượng, mà không có hạn mức giả tạo nào cả. Nhiều tập san có chủ biên là các nhà khoa học đang hoạt động khoa học; họ có thể thẩm định giá trị của các bài nghiên cứu mà không cần quan tâm đến số lần trích dẫn. Theo kinh nghiệm của tôi trong vai trò chủ biên eLife, một tập san nguồn mở nhận kinh phí tài trợ của Wellcome Trust, Viện Y khoa Howard Hughes và Hội Max Planck, các tập san này tuần nào cũng đăng công trình nghiên cứu khoa học đẳng cấp thế giới.


Các nhà tài trợ và các trường đại học vẫn còn có vai trò. Họ phải yêu cầu các ủy ban chịu trách nhiệm ra quyết định về tài trợ nghiên cứu và bổ nhiệm chức danh không được đánh giá các bài nghiên cứu dựa vào nơi đăng bài. Chất lượng của công trình khoa học đó, chứ không phải thương hiệu của tập san, mới là điều quan trọng. Điều quan trọng nhất là giới khoa học chúng ta cần phải có hành động. Giống như nhiều nhà nghiên cứu thành công, tôi đã đăng bài ở những tập san có thương hiệu lớn, trong đó có những bài đã giúp tôi được trao Giải Nobel Y khoa mà tôi sẽ được vinh dự đón nhận vào ngày mai [10/12/2013]. Nhưng không còn như vậy nữa. Hiện nay tôi quyết tâm cho phòng thí nghiệm của mình tránh các tập san xa xỉ và tôi khuyến khích những người khác làm tương tự.


Cũng như Wall Street cần phá bỏ tầm ảnh hưởng của văn hóa tiền thưởng vốn khuyến khích việc chấp nhận rủi ro, một hành vi duy lý đối với cá nhân nhưng có tính phá hoại hệ thống tài chính, khoa học phải phá bỏ sự chuyên chế của các tập san xa xỉ. Kết quả sẽ là hoạt động nghiên cứu có giá trị hơn để phục vụ khoa học và xã hội tốt hơn.


___


Ảnh: Tập san Science gần đây đã hủy bỏ một bài đình đám báo cáo về các liên hệ giữa việc xả rác và bạo lực. (Ảnh: Alamy/Janine Wiedel)


Nguồn: Randy Schekman, “How journals like Nature, Cell and Science are damaging science“, The Guardian, 9/12/2013


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Vũ Lửa Hạ & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 18, 2014 15:02

January 17, 2014

Tư bản hàn lâm

Wolfgang Kemp


Phạm Thị Hoài dịch


Trong sự bế tắc của ngành giáo dục Việt Nam hiện tại, người Việt đương nhiên đặt kì vọng vào những mô hình giáo dục đào tạo ở các nước phát triển, đặc biệt ở Mỹ. Hơn 16.000 sinh viên Việt Nam đang du học tại Mỹ. Bài viết sau đây của một học giả Đức, đăng trên tờ Süddeutsche Zeitung, cung cấp một góc nhìn cảnh báo về nền đại học ở đất nước có nhiều trường đại học được coi là tốt nhất thế giới này. Độc giả quan tâm có thể tham khảo thêm bài viết của nhà báo Mỹ Thomas Frank đăng trên The Baffler số mới nhất về cùng chủ đề.


Người dịch


________


Đó là hệ thống đại học ở Mỹ (higher education). Trong khi tiểu bang cuối cùng ở Đức vừa bỏ hẳn chế độ thu học phí đại học[1] thì tiền học ở Mỹ lại tăng vô kể. Mức học phí ở Mỹ không căn cứ vào phí tổn và dịch vụ được cung ứng. Không, các trường đại học ngự trên đống tài sản cao nhất cũng đòi những mức học phí cao nhất, vì đó “là chiến lợi phẩm, là biểu tượng”, như ông cựu hiệu trưởng Đại học George Washington đã thẳng thừng tuyên bố vài năm trước. Học phí ở trường này thời ông đương chức là 50.000 dollar. Thêm vào đó là 10.000 dollar tiền ăn ở trong kí túc xá sinh viên. Tất nhiên một người trẻ tuổi còn có những nhu cầu khác. Bỏ rẻ vào đó 5000 dollar nữa, thế là thành 65.000 dollar một năm, theo tỉ giá hiện nay tức là khoảng 47.000 euro. Nhìn vào con số đó thì biểu dương tính phúc lợi xã hội của đại học ở Đức bao nhiêu cũng chưa đủ – dù là giữ hay bỏ chế độ học phí 500 euro một học kì.


Trong số mới nhất (số 23) của tạp chí The Baffler, Thomas Frank đã cất lên một khúc “chiến ca hàn lâm” (Academy Fight Song) thật sôi sục. Chiến ca (fight songs) là những ca khúc cổ xúy các đội thể thao của các trường đại học ở Mỹ. Khúc ca ra trận của Thomas Frank vừa phẫn nộ, vừa có cả tuyệt vọng và tự phê bình. Ông viết: “Chúng ta là thế hệ những kẻ trố mắt đứng nhìn một nhúm kí sinh trùng và tỉ phú phá nát nền đại học để vụ lợi”. Sự phê phán triệt để của ông tập trung vào những điểm sau: cuộc chạy đua của mức học phí, sự thống soái của bộ máy quản trị, những công cụ thống trị mới của chủ nghĩa tân tự do (neoliberalism), hệ thống đại học trong vòng tay của “giới độc quyền, các tập đoàn và những đám mãnh thú thả giàn khác”. Những đám mãnh thú mà Frank đề cập liên quan đến vòng xoáy phi lí của giá bán các giáo trình bắt buộc; toàn bộ ngành luyện trắc nghiệm để chuẩn bị cho các thí sinh được nhận vào trường (test prep); hệ thống quản lí tuyển sinh (enrollment management), tức một hệ thống kinh doanh tư nhân phụ trách việc điều phối tuyển sinh. Thêm vào đó là hoạt động kinh doanh của các trường đại học trong các lĩnh vực bất động sản, thể thao và bằng sáng chế. Sản phẩm của cạnh tranh thả giàn là cái được mệnh danh “university inc.”, hay công ti cổ phần đại học. Trước hết, đó là cuộc cạnh tranh giữa các đại học có vốn tài trợ phải bảo tồn lợi nhuận và các trường đại học doanh lợi (for-profit). Mới đây Thượng viện Hoa Kì đã thực hiện một công trình nghiên cứu về ngành kinh doanh đang nở rộ này. Sau đây là một con số rút ra từ công trình dày 800 trang đó: Tại các trường đại học doanh lợi, trung bình chỉ 17,4 % doanh thu được dành cho giảng dạy, tất cả phần còn lại là lợi nhuận, quảng cáo và quản lí. Những trường này không hề có nghiên cứu. Hiệu trưởng các trường đại học truyền thống có nằm mơ cũng không thấy cái tỉ lệ ấy, nhưng họ đang hăng hái tiến theo hướng đó. Đến nay, 75 % số tiết học là do các giáo sư trợ giảng (adjunct professor), tương ứng với giảng viên hợp đồng ở Đức, đảm nhiệm. Ở Mỹ đã xuất hiện khái niệm “giáo sư giẻ rách”. Giải quyết xong vấn đề khó chịu là ai sẽ phải đứng lớp thì ban quản trị nhà trường sẽ rảnh tay lo việc chính: việc chiêu mộ các giáo sư ngôi sao. Từ lâu câu nói tếu sau đây đã được truyền tụng trong các trường đại học: Hỏi: Thượng đế và một giáo sư ngôi sao khác nhau ở điểm nào? Đáp: Thượng đế ở khắp nơi, tức ở đây cũng có. Giáo sư ngôi sao cũng ở khắp nơi, nhưng ở đây thì không bao giờ. Giờ đây cái nghề ngoại trú, hiện diện bao la này còn có một danh xưng riêng: trong hệ thống vươn ra toàn cầu của Đại học New York (NYU) nó được gọi là “giáo sư toàn cầu” (global professor). Slavoj Žižek chẳng hạn, bây giờ là “giáo sư tiếng Đức uy tín toàn cầu” (global distinguished professor of German) của NYU (mà chắc tự ông ta cũng thấy khoái) và cũng ở đó Ernst Fehr là “giáo sư kinh tế uy tín toàn cầu” (global distinguished professor of economics). Những ngôi sao đó cũng là chiến lợi phẩm như các mức học phí cực khủng. Giới lãnh đạo bộ máy quản lí rất yêu các ngôi sao, vì khi trả cho các ngôi sao một mức lương mà ta cứ tạm tính là 400.000 dollar (cộng các khoản phụ cấp, trong khi mức trung bình ở đại học Mỹ là 98.000 dollar) thì giới lãnh đạo khỏi phải lo mức lương khủng của chính họ quá lẻ loi. Hiện nay huấn luyện viên các đội thể thao ở đại học không còn dẫn đầu bảng lương nữa – trừ khu vực miền Trung Tây Hoa Kỳ, ở đó thì quả thật ngoài thể thao còn có gì đáng kể nữa? Lương cao nhất bây giờ thuộc về các hiệu trưởng, chủ nhiệm khoa, chánh văn phòng, họ sẵn sàng nhận “thù lao” ở mức một triệu dollar. Ngoài ra lại còn các khoản tiền thưởng, vì trong các doanh nghiệp kinh tế cũng có tiền thưởng kia mà – và trong chế độ tư bản hàn lâm thì không có gì đáng phấn đấu hơn cái gọi là hoạt động doanh nghiệp (entrepreneurial). Cái từ vựng khủng khiếp của những “tuyên ngôn về sứ mệnh kinh doanh” và “dự thảo chiến lược”: nào là “tác nhân thay đổi” (change agent), nào là “năng động chiến lược” (strategic dynamism), nào là tăng trưởng (growth)…, đều từ đó mà ra. Nghe khá quen tai – ở Đức bây giờ danh hiệu thần chú “Exzellenz” (Đại học Ưu tú) cũng ngày càng thông dụng.


Bộ máy hành chính quản trị đã củng cố địa vị thống soái của nó trong các đại học Mỹ từ rất nhiều năm nay. Số lượng nhân viên hành chính đã vượt xa số lượng giáo sư từ lâu. Công trình nghiên cứu mang tên The Fall of the Faculty của Benjamin Ginsberg (2011) đã chỉ ra quá trình từng bước tước đoạt quyền lãnh đạo và quản trị của các giáo sư ở đại học: Từ 1975 đến nay, số lượng nhân viên cao cấp trong bộ máy quản trị tăng đến 85 %, số lượng nhân viên cấp dưới tăng 240 %, trong khi các khoa giảng dạy chỉ tăng 50 %[2].


Mới đây, khi thỉnh giảng tại Đại học New York (học phí 60.000 dollar một năm), tôi chứng kiến một vụ xung đột quyền lợi kéo theo nhiều hậu quả. Châm ngòi là sự đối đầu kinh điển giữa một bên là quyền quyết định và mong muốn thay đổi của chủ sở hữu và một bên là thái độ khoanh vùng của người sử dụng. Tôi sống trong một tòa nhà đồ sộ về chiều ngang, một quần thể dài vô tận, với 13 tầng, một kiến trúc như của Le Corbusier, nhưng vẫn không đủ hiện đại, vì đằng sau dãy nhà này là một công viên với sân chơi cho trẻ em, bể bơi và cây xanh, rồi lại đến một dãy khác, và cả hai chụm lại thành một không gian văn hóa của một thế giới đô thị khép kín khá khác thường ở Manhattan. Quần thể đó được gọi là “Washington Square Village”, và có lẽ cũng nên nhắc đến là toàn bộ khu vực này từng thuộc về một quỹ phúc lợi mang một cái tên đẹp: Snug Harbor, Bến Nương thân. Ông John Sexton, hiệu trưởng NYU, vốn đã được thỏa lòng hăng say xây cất bằng việc thành lập hai chi nhánh của NYU ở Abu Dhabi và Thượng Hải [3] – tất nhiên là bằng tiền của bên xin nhận quyền kinh doanh đại học này – và bằng cách đó dựng nên cái Đại học Mạng Toàn cầu (Global Network University) đầu tiên, với những “giáo sư toàn cầu” nêu trên – nhưng xem ra vẫn chưa đủ: ông ta trình ra thêm một dự án xây dựng quy mô 3,5 tỉ dollar ở khu vực Bến Nương thân, số tiền mà ở nơi khác đủ để xây và trang bị toàn bộ một trường đại học mới. NYU vốn đã là chủ bất động sản lớn nhất ở phía Nam Manhattan. Bây giờ khoảng không gian đẹp đẽ giữa hai dãy nhà nói trên sẽ bị hai tòa nhà cao tầng cuốn vào nhau kì quặc đè lên, trung tâm thể thao sẽ bị giải tỏa mặt bằng và một loạt nhà cao tầng khác sẽ mọc lên. Bao nhiêu nền văn hóa đã tiêu vong, chỉ vì ham xây dựng quá mức. Trong trường hợp này thì chỉ có ông hiệu trưởng bị đi tiêu. Giảng viên và sinh viên đã quá chán tình trạng bị cai trị từ trên xuống ròng rã nhiều năm trời và liên tục phải đối mặt với những chiến lược tăng trưởng mới. Đa số các phân khoa đã biểu quyết bất tín nhiệm. Kết quả: nhiệm kì của ông hiệu trưởng sẽ kết thúc vào năm 2016. Từ nay đến lúc đó, ông ta hưởng một mức lương là 1,5 triệu dollar một năm, cộng thêm 2 triệu do thâm niên công tác. Sau đó, tiền lương hưu ít ỏi của ông ta sẽ là 800.000 dollar cộng thêm khoản tín dụng cho ngôi nhà nghỉ ở đảo Fire Island. Chuyện đó có giấu cũng không được nữa: Trường đã cấp 72 triệu dollar tín dụng để các chủ nhiệm khoa, cán bộ quản trị cấp cao và các giáo sư ngôi sao mua nhà, nhà trong thành phố và cả nhà nghỉ, thậm chí là cả một trang trại. Hội đồng Quản trị không hề thấy thông lệ này có gì đáng trách. Đúng thế: đó là tiêu chuẩn sống đương nhiên của giới này. Vì thế, trước vụ phản kháng của giảng viên và sinh viên năm 2013, cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi Ban Quản trị tỏ ra mềm nhũn nhưng không hủy bỏ thông lệ cấp tín dụng xây dựng nói trên. Một hệ quả khác: Một thỏa thuận tạm hoãn xây dựng 9 năm với khu Snug Harbour. Ở phía sau, các tòa nhà cao tầng sẽ tới tấp mọc lên.


Ở Đức, tuy nhiều thứ còn rất chừng mực nhưng sự phát triển đáng kinh ngạc ở Mỹ nên được coi là cảnh báo nghiêm trọng. Trong thời gian gần đây, các trường đại học lớn ở Đức đã thuê hơn 1000 giảng viên hợp đồng một học kì, với mức thù lao tồi tệ. Đồng thời, chế độ minh tinh cũng bắt đầu phát triển, các trường đại học tư đã và đang được thành lập, ngôn ngữ quản trị hoành hành, bộ máy hành chính càng ngày càng phình to – ở Đại học LMU tại München cán cân đã ngang bằng: 700 giáo sư và nhân viên hành chính cũng chừng ấy. Ngày nay, tất cả những gì được mệnh danh đại học: cử nhân (bachelor), thạc sĩ (master), tín chỉ (credit points), công nhận chứng chỉ, đánh giá, cam kết mục tiêu.., được thử nghiệm đầu tiên ở Anh hai mươi năm trước. Năm 2010, người Anh lại tiến thêm một bước lớn về phía chủ nghĩa tư bản hàn lâm: Họ điều chỉnh ngân sách của các trường đại học bằng nguồn thu học phí. Nhà nước chỉ còn tài trợ một số trường hợp cá biệt và những bộ môn “định hướng tương lai”. Báo cáo về kết quả bước đầu đã có. Mới đây trong tạp chí London Review of Books, ông Stefan Collini, giáo sư Anh ngữ và Lịch sử Tư tưởng tại Cambridge, bản thân là một ngôi sao, đã có bài về sự biến chất của các trường đại học từ những thiết chế giáo dục công ích thành những doanh nghiệp kinh tế toàn cầu. Nhan đề cho bài viết về kết quả thê thảm này là: “Sold out”. Đã bán sạch.


___________


GS Wolfgang Kemp là nhà nghiên cứu Lịch sử Nghệ thuật, từng thỉnh giảng tại nhiều trường đại học Hoa Kì. Hiện ông là giáo sư tại Đại học Leuphana, Lüneburg.


Nguồn: “Akademischer Kapitalismus”, Süddeutsche Zeitung 4/1/2014 (bản in, không có bản online)


Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra




[1] Trước 1970, học phí đại học ở CHLB Đức (Tây Đức cũ) đồng đều là 150 DM, sau đó bỏ hẳn. Năm 2005, 7 tiểu bang thuộc Tây Đức cũ khôi phục chế độ học phí 500 Euro / học kì. Năm học 2012/2013, chỉ còn 2 tiểu bang và năm học 2013/14 chỉ còn một tiểu bang giữ chế độ đó. Năm học 2014/2015, tiểu bang cuối cùng sẽ bỏ chế độ học phí đại học. (Các chú thích trong bài đều của người dịch.)




[2] So sánh với Đức: trong vòng 10 năm gần đây (2002-2012), số người làm việc tại các đại học ở Đức tăng 28%, hiện tổng cộng là 639.700 người, trong đó nhân viên hành chính, dịch vụ chỉ tăng 6%, còn nhân viên khoa học, nghệ thuật tăng gấp đôi.




[3] Một bài viết trên New York Times (“Liberal Education in Authoritarian Places“) được Vietnamnet dịch đăng dưới nhan đề “Trường Mỹ xuất khẩu danh tiếng, liệu còn tự do học thuật?“. Bài viết rất khơi mở này dường như quá xa xỉ với công chúng Việt Nam. Nếu đại học NYU cũng thiết lập một chi nhánh tại Việt Nam – như ở Abu Dhabi và Thượng Hải – thì người Việt chắc chắn không đặt câu hỏi về việc cái thường được ca ngợi là tự do học thuật của các đại học Mỹ có thể bị nướng vào công cuộc kinh doanh toàn cầu của phương Tây, nếu cần thì với cả các quốc gia chuyên chế. Tư bản không có hệ tư tưởng.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 17, 2014 14:19

January 15, 2014

Nhân ngày mất của Rosa Luxemburg (1871 – 1919): Tự do luôn luôn là tự do của người khác chính kiến

Phạm Hải Hồ


Trên bia mộ cũng như trong cuộc đời tôi không có những sáo ngữ huênh hoang. Trên bia mộ tôi chỉ được để hai vần “chuy chuyˮ. Đó là tiếng chim sơn tước đầu đen tôi bắt chước hay đến nỗi nó đến ngay khi nghe tôi gọi. Bạn thử nghĩ xem, mấy ngày nay trong tiếng chuy chuy bình thường lóe lên như ánh kim ấy có một âm rung nho nhỏ, một giọng ngực tí ti. Bạn biết điều ấy có nghĩa gì không? Đó là những chuyển động nhẹ đầu tiên của mùa xuân sắp tới. Bất chấp tuyết giá và nỗi cô đơn, chúng tôi − chim sơn tước đầu đen và tôi – vẫn tin tưởng ở mùa xuân sắp tới. Và nếu vì thiếu kiên nhẫn tôi không còn chứng kiến nó nữa thì bạn đừng quên trên bia mộ tôi không để gì khác hơn hai vần “chuy chuyˮ thôi nhé. [i]


Berlin một tối mùa đông…


Nằm đối diện vườn Bách thú, khách sạn Vườn Địa đàng sang trọng là nơi sư đoàn Xạ thủ – Kỵ binh – Cận vệ chiếm đóng và đặt tổng hành dinh hồi sáng này. Người ta chưa qua cơn sốt về việc Karl Liebknecht, chủ tịch Đảng Cộng sản Đức mới thành lập vừa bị áp giải đến thì chẳng bao lâu, một toán dân phòng mang súng trường 98 rầm rập bước vào, kèm theo một phụ nữ xấp xỉ năm mươi và một người đàn ông trẻ hơn chị vài tuổi. Chị phụ nữ có thân hình nhỏ thó và bước chân hơi khập khiễng. Đôi mắt thâm quầng, gương mặt mệt mỏi biểu lộ lòng khoan dung pha lẫn tính cương quyết không nhân nhượng.


Những sĩ quan và khách trọ có mặt ở tiền sảnh nhìn chị trân trối, rồi một sự sôi nổi bồn chồn lan rộng trong giây lát. Đâu đây có tiếng mắng chửi hằn học:


“Mụ Rosa vấy máu!”


“Đồ phản quốc!”


Toán dân phòng giải hai người lên lầu một. Họ ra lệnh cho người đàn ông đứng yên ở một góc hành lang rồi đẩy chị phụ nữ vào một căn phòng khá rộng, nơi một sĩ quan sói đầu với cặp mắt lạnh lùng và đôi môi mỏng mím chặt đang đứng chờ chị. Đó chính là Waldemar Papst, tư lệnh sư đoàn Xạ thủ – Kỵ binh – Cận vệ. Sau khi Đức thua trận, Cách mạng tháng Mười Một bùng nổ, rồi hoàng đế Wilhelm Đệ nhị thoái vị, Pabst đã biến đổi sư đoàn “tình nguyện” ấy thành một đạo quân trang bị vũ khí nặng với bộ máy tuyên truyền – tình báo riêng biệt. Nó đóng vai trò nòng cốt trong việc đè bẹp lực lượng nổi dậy do Karl Liebknecht và Rosa Luxemburg lãnh đạo.


Pabst hỏi:


“Bà có phải là Rosa Luxemburg không?”


“Ông hãy tự quyết định lấy.”


“Căn cứ vào hình chụp thì bà đúng là Rosa Luxemburg.”


Chị phụ nữ cười nhạt:


“Ông cứ cho là thế!”


Thấy không khai thác được gì thêm, Pabst ra lệnh đưa chị sang phòng làm việc của ông ta ở bên cạnh. Một chiếc mũ quân đội Phổ chĩa mũi nhọn hoắt lên trần nhà. Trước đó vài phút, cũng từ căn phòng này, sáu sĩ quan đã dẫn Liebknecht ra khỏi toà nhà. Chị phụ nữ không ai khác hơn là Rosa Luxemburg ngồi vá mấy chỗ rách ở gấu váy rồi lấy cuốn Faust của Goethe ra đọc, tuồng như không để ý đến sự hiện diện của Pabst khi ông ta bước vào phòng. Pabst bực tức trở lại căn phòng rộng, đi đi lại lại. Chợt có tiếng gõ cửa. Các sĩ quan áp giải Liebknecht trở về, báo cáo đã giết anh và giao thi hài cho trạm cấp cứu ở cách đó vài trăm mét. Pabst gật gù tỏ vẻ hài lòng. Rồi không chút do dự, ông ta ra lệnh giải Rosa đi. Trước cửa khách sạn, gã thợ săn mà một sĩ quan thuê giết hai lãnh tụ cách mạng chực sẵn, lấy trớn giáng mạnh bá súng vào đầu chị. Rosa bất tỉnh ngã sóng soài trên mặt đất, để rơi cái xách tay và một chiếc giày. Gã thợ săn lại đập chị lần nữa. Lúc ấy, toán người áp giải mới can thiệp, kéo lê người chị đẩy vào băng sau chiếc xe đậu gần đó. Cũng như lần chở Karl Liebknecht đi, một gã mặc quần áo thủy thủ cố rượt theo xe, nhảy lên bàn đạp đấm vào mặt người hắn tuồng như căm ghét. Xe chạy được vài chục mét, một tiếng súng vang lên. Người ta khiêng xác Rosa ném xuống dòng kinh Landwehr lạnh giá.


Bấy giờ gần 12 giờ đêm 15 tháng Giêng năm 1919.[ii]


Cuộc đời ấy ra sao? Người ấy từng trải những gì? Đã sống vì mục đích nào? [iii]


Rosa Luxemburg chào đời ngày 5-3-1871 (hoặc 1870) tại Zamość, một phố nhỏ thuộc vùng lãnh thổ Ba Lan chịu ách đô hộ nặng nề của Nga. Chị là con út trong một gia đình Do Thái trí thức có năm con. Chị sớm tiếp nhận từ nơi cha mẹ mình tinh thần yêu chuộng tự do cũng như lòng hâm mộ văn học nghệ thuật. Từ 1880 đến 1887 chị học tại một trường trung cấp ở Warszawa và tốt nghiệp với bằng xuất sắc.


Ngay từ lúc còn đi học, Rosa đã có những hoạt động yêu nước, bất chấp sự đàn áp đẫm máu phong trào cách mạng Ba Lan dưới chế độ Nga hoàng. Ra trường chẳng bao lâu, chị tham gia gầy dựng lại một đảng marxist đã bị chính quyền Nga phá vỡ và tổ chức nhiều cuộc đình công. Chị bị mật vụ Nga phát hiện nên phải rời Warszawa đi ẩn trốn nơi khác. Đầu năm 1889, khi vừa thoát khỏi một cơn bệnh ngặt nghèo, chị bí mật vượt biên sang Thụy Sĩ với ý định theo học đại học.


Học kỳ mùa đông 1889 – 1890, Rosa đăng ký học các môn khoa học tự nhiên ở trường Đại học Zürich khi ấy là một trong vài trường cao đẳng trên thế giới tiếp nhận nữ sinh viên. Về sau, Rosa chuyển sang học chính trị và kinh tế quốc dân. Cuối thế kỷ 19, Zürich là nơi có nhiều người tị nạn chính trị, nhất là từ Đức, Nga và Ba Lan. Trong thời gian ở Thụy Sĩ, chị có quan hệ tình cảm sâu đậm nhưng khá phức tạp với Leo Jogisches[iv], một nhà cách mạng Lithuania cũng buộc phải lưu vong như chị. Rosa vừa học tập, vừa viết bài mang tính xã luận cho tờ Sự nghiệp Công nhân ra đời năm 1893 và trở thành cơ quan ngôn luận của Đảng Dân chủ Xã hội Vương quốc Ba Lan (DCXH Ba Lan) do Leo, Rosa và một số đồng chí Ba Lan khác thành lập trong cùng năm ấy. Giữa đảng này và Đảng Xã hội Chủ nghĩa Ba Lan (PPS) xuất hiện trước đó một năm có mâu thuẫn chủ yếu về mục tiêu: Trong khi Đảng PPS đấu tranh cho độc lập dân tộc, Đảng DCXH Ba Lan chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản Nga và Ba Lan nhằm lật đổ chế độ Nga hoàng, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn đế quốc Nga, tức là bao gồm cả các nước thuộc địa. Một tuần sau đó, Đại hội Quốc tế Xã hội Chủ nghĩa (Quốc tế XHCN) họp tại Zürich với hơn 400 đại biểu từ 20 nước và nhiều nhân vật có tiếng tăm, uy tín lớn trong phong trào công nhân quốc tế như Friedrich Engels, August Bebel[v], Wilhelm Liebknecht[vi], Karl Kautsky[vii], Clara Zetkin[viii], Victor Adler[ix], Georgi Plekhanov[x], Eleanor Marx-Eveling[xi], v.v.. Người phụ nữ mới 22 tuổi ấy đã can đảm bước lên diễn đàn, đề nghị Đại hội cho hai đại biểu của đảng mình được quyền tham dự, bên cạnh các đại biểu của Đảng PPS. Lúc ấy, chưa ai biết đến Đảng DCXH Ba Lan nên đề nghị của Rosa không được chấp thuận. Năm 1897, Rosa hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ với đề tài “Phát triển công nghiệp của Ba Lanˮ nghiên cứu về quá trình công nghiệp hóa của một vùng trước kia chủ yếu sản xuất nông nghiệp trong quan hệ hữu cơ với “mẫu quốcˮ. Đó cũng là cơ sở lý luận của chị để chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.


Với ý muốn hoạt động ở địa bàn rộng hơn, năm 1898 Rosa rời Thụy Sĩ sang Đức, gia nhập Đảng Dân chủ Xã hội Đức (DCXH Đức) là đảng lớn mạnh nhất châu Âu thời bấy giờ. Tuy là “lính mớiˮ, chị bắt tay ngay vào cuộc đấu tranh chống khuynh hướng xét lại đang ngóc đầu lên trong đảng. Tại Đại hội Quốc tế XHCN năm 1900, chị vạch rõ sự cần thiết của một phong trào quốc tế chống chủ nghĩa đế quốc, chế độ quân phiệt và chính sách thuộc địa.


Trong mười năm 1904 – 1914, Rosa làm việc cho Văn phòng Xã hội Chủ nghĩa Quốc tế. Trở về quê hương tham gia vào cuộc Cách mạng 1905/1906 chống chế độ Nga hoàng, chị bị bắt giam từ tháng 3 cho đến tháng 6-1906 mới được trả tự do. Rút kinh nghiệm từ cuộc cách mạng ấy, chị nhận định rằng tổng đình công là một vũ khí lợi hại của phong trào công nhân, quan trọng hơn việc đấu tranh nghị viện do lãnh đạo Đảng DCXH Đức chủ trương. Qua đó, chị được xem là người cầm đầu “cánh tảˮ trong đảng.


Tại Đại hội Quốc tế XHCN năm 1907, Rosa được giao nhiệm vụ cùng với Vladimir Lenin và Julius Martov[xii] soạn thảo đề cương chống chiến tranh của phong trào công nhân quốc tế. Từ 1907 đến 1914, chị là giáo viên trường đảng ở Berlin. Với tác phẩm chínhTích lũy tư bản (1913), Rosa giải thích chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế, đồng thời phê phán Karl Marx đã sai lầm trong lý thuyết về sự tích lũy tư bản của ông.[xiii] Ba tuần sau khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ, chị lần lượt bị giam giữ trong nhiều nhà tù của Đế chế Đức cho đến khi chiến tranh chấm dứt, chỉ được tự do hai lần trong suốt thời gian đó, mỗi lần kéo dài vài tháng. Năm 1914, chị cho ra đời quyển sách nhỏ nổi tiếng với bút danh Junius phân tích nguyên nhân cuộc chiến tranh thế giới mà lãnh đạo Đảng DCXH Đức và nhóm đại biểu của đảng trong Quốc hội Đức ủng hộ. Mùa Đông 1915, chị cùng Karl Liebknecht và một số đảng viên dân chủ xã hội khác họp thành nhóm Quốc tế, tiền thân của Liên đoàn Spartakus, tổ chức sau này hợp nhất với nhiều nhóm thiên tả nhỏ hơn thành Đảng Cộng sản Đức. Cách mạng tháng Hai, rồi Cách mạng tháng Mười Nga diễn ra, chị viết nhiều bài báo ủng hộ, đồng thời phê phán Lenin và Đảng Bolshevik đã duy trì quá lâu chính sách khủng bố, độc tài mà họ buộc phải thi hành trong “thời kỳ khó khăn ghê gớmˮ ban đầu. Mùa Thu 1918, Rosa tổng hợp những quan điểm của mình về Cách mạng tháng Mười Nga cũng như về một chủ nghĩa xã hội dân chủ và đầy tính nhân văn trong một bản thảo giao cho luật sư của mình là Paul Levi giữ, với ý định biên soạn một quyển sách hoàn hảo hơn trong tương lai, điều chị không thể thực hiện được. (Ba năm sau khi chị mất, Levi mới xuất bản bản thảo ấy dưới dạng sách, lấy tựa đề Cách mạng Nga.[xiv])


Sau cuộc nổi dậy của thủy thủ ở Kiel, cuộc Cách mạng tháng Mười Một lan rộng khắp nước Đức, Ủy ban Công nhân và Quân nhân được thành lập ở nhiều thành phố. Vừa mới được tự do, Rosa đã lao mình ngay vào công việc, mặc dù sức khỏe của chị sút kém rất nhiều từ khi còn ở trong tù. Chị phát hành chung với Karl Liebknecht tờ Cờ Đỏ và viết bài tuyên truyền kích động quần chúng tiếp tục làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, không dừng lại ở việc lật đổ chế độ quân chủ. Đường lối ấy của chị cũng như của Liên đoàn Spartakus không được sự ủng hộ của đa số người dân muốn trở lại đời sống bình thường sau cuộc chiến tranh tàn khốc. Cuộc “nổi dậy Spartakusˮ do Karl Liebknecht lãnh đạo được Rosa hết sức ủng hộ mặc dù chị đã thấy trước là nó sẽ thất bại. Hàng trăm chiến sĩ và thường dân bị sát hại bởi lực lượng phản cách mạng đông đảo, thiện chiến và vũ trang đến tận răng. Hai lãnh đạo cách mạng thì bị truy lùng gắt gao rồi bị giết một cách dã man.


Tự do luôn luôn là tự do của người khác chính kiến


Rosa Luxemburg mất cách đây 95 năm. Nhưng chị vẫn còn sống mãi với những người yêu chân lý, công bằng, tự do. Quan điểm “Tự do luôn luôn là tự do của người khác chính kiếnˮ của chị đã trở thành phương châm của phong trào đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền ở CHDC Đức cũ. Còn các chế độ toàn trị mang màu sắc leninist, stalinist, maoist v.v. thì lợi dụng cái chết của chị và Karl Liebknecht để tuyên truyền chống chủ nghĩa tư bản và các “thế lực thù địchˮ khác, bào chữa cho sự tham quyền cố vị của họ. Họ kết hợp hai nhà cách mạng Đức phê phán chế độ bolshevik với người đứng đầu chế độ này là Lenin thành một cấu trúc kỳ quặc là LLL (Lenin-Liebknecht-Luxemburg). Thật sự mục tiêu của Rosa là chủ nghĩa xã hội. Nhưng đó phải là một chủ nghĩa xã hội được quần chúng xây dựng nên với đầy đủ ý thức và trách nhiệm, chứ không phải do một đảng hay một phe nhóm độc tài chỉ định. Đó có thể là một “Mùa Xuân Prahaˮ như nhân dân Tiệp Khắc từng mong muốn nhưng bị đập tan bởi quân đội khối Hiệp ước Warszawa năm 1968. Hay các chế độ xã hội chủ nghĩa do một số nhà lãnh đạo dân cử ở châu Mỹ La-tinh thực hiện cuối thập kỷ 60, đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước mà giới quân phiệt đã kết thúc bằng bạo lực, ít nhiều với sự hỗ trợ của Mỹ. Việc các mầm mống xã hội chủ nghĩa dân chủ bị giẫm nát bởi những tên khổng lồ không đội trời chung với nhau là một bi kịch của lịch sử loài người. Có lẽ còn lớn hơn thế nữa, là bi kịch những chế độ gọi là xã hội chủ nghĩa lại độc đoán hơn cả chế độ quân chủ chuyên chế và lộng hành hơn cả tư bản độc quyền.


Trong cuộc đời sôi động, tương đối ngắn ngủi của mình, chị đã biên soạn nhiều sách và viết nhiều bài báo về kinh tế – chính trị – xã hội. Các văn bản đó cho thấy chị là một người marxist có lý luận sắc bén và lối tư duy độc lập, sáng tạo, “chưa bao giờ tôn sùng chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa marxistˮ.  Nhiều ý nghĩ của Rosa được diễn đạt rõ ràng và chính xác đến nỗi một số tác giả cho là “giống như những lời tiên triˮ, nhưng thật ra chúng chỉ phản ánh những quy luật khách quan. Chúng ta hãy thử xem vài trích đoạn từ bản thảo của chị về Cách mạng Nga và liên tưởng đến đời sống chính trị của đất nước hiện nay, gần một thế kỉ sau đó:


“Có một thực tế hiển nhiên không thể phủ nhận là nếu thiếu tự do báo chí rộng rãi, thiếu các hoạt động hội họp và lập hội không hạn chế thì khó có thể hình dung được quyền làm chủ của nhân dân.ˮ


“Cùng với sự đè nén đời sống chính trị trong cả nước, hoạt động ở các xô-viết ngày càng suy yếu hơn. Thiếu bầu cử phổ thông, thiếu tự do báo chí và hội họp rộng rãi, tự do đấu tranh tư tưởng, thì cuộc sống trong bất kỳ thể chế công nào cũng sẽ tắt lịm và trở thành giả tạo, trong đó chế độ quan liêu là yếu tố động duy nhất. Đời sống xã hội lịm dần đi, vài chục lãnh đạo đảng với năng lực vô hạn và lý tưởng cao xa nắm quyền chỉ đạo và cai trị, trong số đó chỉ một chục cái đầu xuất chúng mới thực sự lãnh đạo, còn tầng lớp công nhân ưu tú thì thỉnh thoảng được huy động đến những cuộc họp để vỗ tay tán thưởng diễn văn của lãnh đạo, nhất trí thông qua nghị quyết do họ đề ra; kỳ thực đó là chế độ bè phái – cũng chuyên chính đấy, có điều không phải là chuyên chính của giai cấp vô sản mà của một vài chính khách, tức là chuyên chính trong ý nghĩa tư sản, ý nghĩa thống trị của phái Jacobin[xv]


“Tự do dành riêng cho những người ủng hộ chính phủ hay những đảng viên của một chính đảng – cho dù họ có đông tới đâu đi nữa – cũng không phải là tự do. Tự do luôn luôn là tự do của người khác chính kiến. Không phải bởi lòng yêu ‘công bằng’ mù quáng mà vì mọi điều hay lẽ phải, mọi đặc tính bổ ích và tẩy sạch của tự do chính trị đều gắn liền với thực thể ấy và sẽ mất tác dụng nếu ‘tự do’ trở thành đặc quyền đặc lợi.ˮ


“Nhất thiết phải có sự kiểm tra của công chúng. Nếu không, kinh nghiệm chỉ được trao đổi trong vòng khép kín của giới cán bộ của nhà nước mới. Tham nhũng – tha hóa là điều không thể tránh khỏi. […] Thực tiễn xã hội chủ nghĩa đòi hỏi cả một sự khuấy động tinh thần trong quần chúng vốn bị thoái hoá qua hàng thế kỉ thống trị của giai cấp tư sản. Bản năng xã hội thay vì thói ích kỷ; sáng kiến quần chúng thay vì tính trì trệ; lý tưởng giúp ta vượt qua mọi gian khổ v. v. và v. v. Điều ấy, không ai hiểu rõ hơn, diễn tả mạnh mẽ hơn, nhắc đi nhắc lại bền bỉ hơn Lenin. Tuy nhiên, ông lại sử dụng những phương tiện hết sức sai lầm. Sắc lệnh, quyền lực độc đoán của các đốc công nhà máy, hình phạt khắc nghiệt, chế độ khủng bố, tất cả đều là những liều thuốc giảm đau tạm thời. Con đường duy nhất dẫn tới sự hồi sinh là sự rèn luyện của chính bản thân đời sống công chúng, tự do rộng rãi không hạn chế, dư luận quần chúng. Còn chế độ khủng bố chỉ làm suy đồi đạo đức.ˮ


Là một nhà tư tưởng marxist, Rosa có nhận thức và hành động phù hợp với các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Chị đòi hỏi tự do tư tưởng cho người khác chính kiến không phải vì “lòng yêu công bằng mù quángˮ mà vì những tác dụng vô cùng hữu ích của nó. Bởi vì nếu trấn áp đối lập, thậm chí không cho phép đối lập tồn tại thì làm sao có sự “thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lậpˮ vốn là nguồn gốc và động lực của phát triển? Nếu cấm nhân dân biểu tình, lập hội, diễn đạt tự do, tư hữu ruộng đất v.v. và tuyển chọn nhân sự theo chủ nghĩa lý lịch, dành ưu tiên cho những kẻ cơ hội thì làm thế nào có được một mặt bằng dân trí cao với một đội ngũ lãnh đạo tài đức, có năng lực quản lý đất nước hiệu quả?


Hơn thế nữa, Rosa chủ trương quần chúng phải tự rèn luyện và nâng cao ý thức của mình qua những cuộc đình công đại chúng, những buổi học tập chính trị, những hoạt động văn hóa – xã hội v.v.. Theo cách nói hiện nay, đó là những đặc tính của một xã hội dân sự năng động, lành mạnh. Đối với chị, đảng lãnh đạo có nghĩa là tạo điều kiện phát triển tốt nhất cho nhân dân, giáo dục quần chúng thật sâu sắc về chính trị, đưa ra những đề xuất để họ xem xét, quyết định và sẵn sàng chấp nhận nếu bị từ chối, chứ không phải dùng mọi cách để buộc họ phải đi theo con đường do đảng chọn.


Điều sau cùng cần nói ở đây là Rosa luôn luôn trung thành với quan điểm của mình cho đến chết, đó là: chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với tự do dân chủ và tính nhân văn. Mặc dù sau khi ra khỏi nhà tù và dấn thân vào cuộc Cách mạng Đức, chị có phần cực đoan hơn trước, nhưng ý kiến khá phổ biến cho rằng chị đã thay đổi theo đường lối và phương pháp cách mạng của Lenin bắt nguồn từ một huyền thoại.[xvi] Huyền thoại ấy đã bị bác bỏ bởi Paul Levi[xvii], người luật sư đồng hành với Rosa từ 1914 và kế thừa tư tưởng chính trị của chị, cũng như bởi những nghiên cứu gần đây[xviii]. Chính Rosa đã nhận định trong tờ Cờ Đỏ do chị phụ trách:


“Bản chất của chủ nghĩa xã hội nằm ở chỗ đông đảo quần chúng lao động chấm dứt tình trạng bị thống trị, hơn thế nữa, còn sống trọn vẹn đời sống kinh tế và chính trị, thay đổi nó với quyền tự quyết trong tự do và có ý thức.ˮ [xix]


“Chỉ có hành động cách mạng bất chấp mọi sự và lòng nhân đạo rộng lượng nhất mới thật là sinh khí của chủ nghĩa xã hội. Một chế độ phải bị lật đổ nhưng mỗi giọt nước mắt dù có thể lau khô là một lời buộc tội và kẻ nào vì vội vã công việc hệ trọng mà vô ý giẫm nát một con trùn thì cũng đã phạm tội ác.ˮ [xx]


© 2014 Phạm Hải Hồ & pro&contra




[i] Trích thư gửi Mathilde Jacobs. Những câu văn viết chữ nghiêng trong bài này là của Rosa Luxemburg được tác giả dịch từ nguyên bản tiếng Đức.




[ii] Viết theo tài liệu lịch sử, nhất là nghiên cứu của Klaus Gietinger: Eine Leiche im Landwehrkanal. Die Ermordung Rosa Luxemburgs [Một tử thi trong kênh Landwehr. Vụ sát hại Rosa Luxemburg]. Verlag 1900, Berlin 1995.




[iii] Trong thư ngày 24-6-1898 của Rosa Luxemburg gửi Leo Jogisches, đoạn nói về cái chết.




[iv] Leo Jogisches (1867-1919): nhà marxist hoạt động ở Lithuania, Ba Lan và Đức; là người yêu của Rosa Luxemburg trong một thời gian dài và có hoạt động cách mạng gắn bó với Rosa cho đến khi chị qua đời (xem chi tiết trong bài); bị ám sát ở Berlin năm 1919 trong khi tìm cách vạch trần tội ác giết Rosa và Karl Liebknecht.




[v] August Bebel (1840-1913): nhà văn, chính trị gia marxist, cùng với Wilhel Liebknecht thành lập Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Đức sau này hợp nhất với một đảng khác thành Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD).




[vi] Wilhelm Liebknecht (1826-1900): chính trị gia Đức đã kết hợp thuyết marxist với hoạt động thực tiễn hợp pháp; dưới sự lãnh đạo của ông, Đảng SPD trở thành đảng lớn nhất nước Đức; ông là cha của Karl Liebnecht.




[vii] Karl Kautsky (1854-1938): nhà báo và lý thuyết gia marxist Đức. Sau khi Friedrich Engels mất (1895) cho tới đầu Thế chiến thứ nhất, Kautsky là người truyền bá chủ nghĩa marxist có ảnh hưởng nhất. Năm 1917, ông rời Đảng SPD, gia nhập Đảng Dân chủ Xã hội Độc lập (USPD), một chính đảng chống chiến tranh và chủ nghĩa xét lại. Cuối cuộc chiến, ông chỉ trích cuộc cách mạng bolshevik, tham gia luận chiến với Lenin và Trotsky về nhà nước Xô-viết.




[viii] Clara Zetkin (1857-1933): nhà marxist, đấu tranh cho nữ quyền, tổ chức ngày Quốc tế Phụ nữ đầu tiên vào năm 1911; bạn thân của Rosa Luxemburg và cũng như chị đổi từ Đảng SPD sang Liên đoàn Spartakus rồi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đức; từ 1920 đến 1933 là đại biểu của đảng này trong Quốc hội Đức.




[ix] Victor Adler (1852-1918): nhà báo, lãnh tụ phong trào công nhân Áo; năm 1888, thành lập Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội (Áo) và trở thành chủ tịch thứ nhất của đảng này; ủng hộ chính sách chiến tranh của chính quyền Áo trong Thế chiến thứ nhất.




[x] Georgi Plekhanov (1856-1918): nhà cách mạng Nga và lý thyết gia marxist; năm 1880, do chính sách đàn áp của chế độ Nga hoàng, ông buộc phải đi tị nạn ở Thụy Sĩ, nơi ông tiếp tục đấu tranh nhằm lật đổ chế độ ấy; sau Cách mạng tháng Hai Nga 1917, ông trở về quê hương; đối lập với Lenin và chính quyền Xô-viết nhưng vẫn được Đảng Cộng sản Liên Xô xem là cha đẻ của chủ nghĩa marxist Nga sau khi ông mất.




[xi] Eleanor Marx-Eveling (1855-1898): nhà hoạt động xã hội chủ nghĩa, con gái út của Karl Marx, năm 16 tuổi trở thành thư ký riêng của cha bà; được Karl Marx (trước khi mất năm 1883) giao cho trách nhiệm xuất bản các bản thảo chưa hoàn tất và bản tiếng Anh quyển Tư bản của ông.




[xii] Cả hai đều thuộc Đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Nga nhưng là đối thủ với nhau, Lenin (1870-1924) đứng đầu phái bolshevik (phái đa số), còn Martow (1873-1923) là một lãnh đạo nổi tiếng của phái menshevik (phái thiểu số).




[xiii] Michael Krätke: “Das verdrängte ökonomische Erbe”. In: Jörn Schütrumpf (Hrsg.): Rosa Luxemburg oder: Der Preis der Freiheit. 2., erg. u. überarb. Aufl. Berlin 2010.




[xiv] Rosa Luxemburg (1918): The Russian Revolution. Translated by Bertram Wolfe. marxists.org 1999.




[xv] Chế độ cai trị của phái Jacobin trong Thời kỳ Khủng bố (kéo dài từ tháng 9-1793 đến tháng 7-1794) sau Cách mạng Pháp, sát hại khoảng 41.600 “kẻ thù của cách mạng”, kể cả “cha đẻ của hóa học hiện đạiˮ Antoine Lavoisier. Chế độ này chấm dứt sau khi các lãnh tụ như Robespierre, Saint-Just bị giết.




[xvi] Nó được hai đồng chí gần gũi của Rosa là Clara Zetkin (Um Rosa Luxemburgs Stellung zur russischen Revolution. Verlag der Kommunistischen Internationale, 1922.) và Adolf Warski (Rosa Luxemburgs Stellung zu den taktischen Problemen der Revolution. Bibliothek der Kommunistischen Internationale, 1922.) tung ra trong năm 1922 sau khi Levi công bố Cách mạng Nga, có lẽ do tác động của Lenin và áp lực của Quốc tế Cộng sản mà Đảng Cộng sản Liên Xô chiếm ưu thế tuyệt đối.




[xvii] Xem: : “Der Name der Rose. Der Streit um Luxemburgs Fragment “Zur russischen Revolutionˮ und eine Klarstellung von Paul Levi”. Neues Deuschland 12.01.2013




[xviii] Ottokar Luban: Problemstellungen und Tendenzen in wissenschaftlichen deutschen Rosa-Luxemburg-Publikationen nach 1990. – Verbesserte und erweiterte Fassung (22. Februar 2004). : Bài đã dẫn.




[xix] Rosa Luxemburg: “Was will der Spartakusbund?” Die Rote Fahne (Berlin), Nr. 29, 14. Dezember 1918.




[xx] Rosa Luxemburg: “Der Anfang”. Die Rote Fahne, 18. November 1918.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 15, 2014 07:39

January 13, 2014

Anh em nhà họ Dương

Phạm Thị Hoài


Câu chuyện của anh em nhà họ Dương có vài tình tiết khiến tôi phải liên tưởng đến bộ tiểu thuyết cuối cùng của Dos, Anh em nhà Karamazov.


Nhân vật người cha, Fyodor Karamazov, hoàn toàn có thể được thay thế bằng một biểu tượng khác trong bối cảnh Việt Nam đương đại, một uy quyền thối nát nhưng vẫn thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Sa đọa, bỉ ổi, tự đắc và to mồm, cái uy quyền trưởng thượng đó đồng thời là nguồn phát sinh và nguồn xung đột với những đứa con của chính nó. Dmitri giết cha hay Dương Chí Dũng sát hại cái uy quyền đó – bằng cách chôn vùi uy tín của nó, thiết lập một tình trạng “không có vua” – trong tâm tưởng hay trong thực tế không phải vì khao khát kết liễu cái Ác mà vì sự cạnh tranh của cùng những động cơ đê tiện. Tiền, tình, tham vọng và dục vọng, mưu mô, tị hiềm, lường gạt, quyền lực và bạo lực, sự ngông cuồng của bản năng, sự hiếu thắng của một lí trí đã cực kì cùn mòn và sự lải nhải của luân lí trộn cứng vào nhau trong tấn bi kịch ở nước Nga cuối thế kỉ 19 và trong câu chuyện hình sự ở nước Việt đầu thế kỉ 21.


Dmitri hát. Dương Chí Dũng ngâm thơ. Cả hai đều vướng vào đàn bà, dù chúng ta không biết nàng Grushenka Hà Nội có ma lực nào khiến đàn ông mất ví, mất trí và mất mạng. Còn có một tình tiết tương đồng khác, nhất định không phải là ngẫu nhiên: người em, Ivan, cũng lập kế giúp anh chạy trốn án lưu đày Siberia như Dương Tự Trọng giúp anh tẩu thoát án tử hình đang đợi. Và lạ chưa, điểm đến trong kế hoạch thoát thân của cả hai đều là nước Mỹ. Nhưng trong khi Dmitri hình dung cụ thể phải lao động cật lực, phải học ngữ pháp, phải nói tiếng Anh thật chuẩn trong vòng ba năm rồi sẽ thay hình đổi dạng, thậm chí nếu cần thì chọc mù một mắt, để trở về sống trong lòng nước Nga yêu dấu, thì Dương Chí Dũng không hề nghĩ đến chuyện phải rửa chén chạy bàn ở vùng đất hứa: ông chọn nước Mỹ vì kết quả bấm quẻ. Như để bù cho sự thiếu vắng của tôn giáo, chiều kích quan trọng nhất của tấn bi kịch Nga, mê tín xuất hiện trong câu chuyện Việt dưới hình hài một anh hề không biết công chúng ôm bụng cười vì điều gì.


Sự khác nhau còn nằm sâu hơn.


Người anh, Dmitri, vò xé trong đau khổ vì tin rằng mình có tội, đã sẵn sàng chuộc tội bằng bản án lưu đày. Dương Chí Dũng thì không, ông hoàn toàn bất ngờ khi nghe tin mình sẽ bị bắt và khẳng định mình vô tội cho đến tận bây giờ. Người em, Ivan, nhàu nát trong tự truy vấn về tội lỗi của bản thân nên bỏ tiền ra giúp anh chạy trốn, như để chuộc cái tội mà pháp luật không truy tố của mình. Dương Tự Trọng thì không, ông hành động vì tình nghĩa ruột thịt như dư luận được biết và thậm chí có phần cảm phục. Ở anh em nhà Karamazov, một uy quyền xứng đáng bị kết liễu đã bị sát hại và tất cả đều sám hối, dù người đọc đã biết rõ thủ phạm. Tất cả đều tham gia tội ác. Ở anh em nhà họ Dương, một uy quyền xứng đáng bị kết liễu đã bị tổn thương và tất cả đều đổ tội hoặc cho hoàn cảnh – cái đang được gọi một cách mịt mù là thể chế -, hoặc cho kẻ khác, và dư luận thì nóng lòng chờ điểm danh kẻ thủ phạm tiếp theo. Tất cả đều có thể rũ tội cho phần mình.


Anh em nhà Karamazov cuốn người theo dõi số phận họ vào vòng xoay nghẹt thở của những luận đề nặng trĩu về giới hạn của đạo đức và trách nhiệm, về tội ác và sự trừng phạt, về tội lỗi thực tế và tội lỗi siêu hình, và trùm lên tất cả là câu hỏi về sự hiện hữu của Thượng đế và ý nghĩa của kiếp người. Anh em nhà họ Dương cuốn người theo dõi số phận họ vào vòng xoáy đứng tim của những tiết mục trinh thám giật gân và những pha mùi mẫn. Với biết bao là nợ tình: tình cách mạng, tình đồng chí, tình huynh đệ, tình chiến hữu, tình nghệ sĩ, tình giang hồ hảo hớn, đó là chưa kể tình ngoại tình. Gỡ mỗi cái nợ ấy là hết ít nhất một thế hệ.


Tấn bi kịch Nga chỉ mượn cốt truyện hình sự. Câu chuyện Việt tự kiềm chế trong khuôn khổ một vụ án hình sự đơn thuần. Nó không cần đến người em thứ ba, Alexey, nhân vật thánh thiện, để rọi ánh sáng vào mạch chuyện. Truyền thông Việt Nam, lắc lư ngoạn mục bằng một chân chính thống, một chân lá cải và chiếc đuôi tự do liên tục bị cắt và liên tục tìm cách mọc lại, đảm nhiệm vai dẫn chuyện. Cũng không cần đến Smerdyakov, người em vô thừa nhận, kẻ cùng quẫn tăm tối, dùng tốt cho việc thừa hành những tội ác trong tâm tưởng người khác. Những Smerdyakov trong xã hội Việt Nam nhiều và đương nhiên đến mức chúng ta không nhìn ra nữa.


Một tác giả tôi không còn nhớ tên đã nhận xét rằng trong nước Nga của anh em nhà Karamazov, cứ vài ba phút người ta lại đấm ngực khóc rống lên và quỳ xuống hôn chân Chúa xin tha tội, để ngay sau đó với vodka trong máu và lời cầu nguyện trên môi cho nhau một nhát rìu vào sọ. Trong nước Việt của anh em nhà họ Dương, với một quốc giáo vô thần và một Đấng Toàn năng là Đảng Cộng sản, người ta cũng hành xử không khác. “Nguyên lí Karamazov”, được đặt vào miệng kẻ vô thần Smerdyakov, phát biểu rằng mọi thứ đều được phép, rằng cái Ác là chính danh, nếu Thượng đế không tồn tại, hay nói cách khác: Thượng đế phải tồn tại để cái Thiện lên ngôi. Song sự hiện hữu không thể phủ nhận của Đấng Toàn năng ở Việt Nam đã phủ nhận nguyên lí đó. Lật ngược lại nguyên lí Karamazov, câu chuyện của anh em nhà họ Dương trong hiện thực Việt Nam hôm nay hoàn toàn có cơ hội vươn lên tầm hư cấu của nhà văn Nga vĩ đại hơn 130 năm trước.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 13, 2014 15:06

January 4, 2014

Xã luận đầu năm

Phạm Thị Hoài


Những thông điệp đầu năm của các nguyên thủ quốc gia hay người đứng đầu chính phủ trên toàn thế giới đều có chung một điểm: chúng chẳng ăn nhằm gì đến thực tế chính sách trị quốc mà các nhà cầm quyền này hoạch định. Chúng đơn giản là một nghi thức của văn hóa chính trị. Song cái văn hóa ấy ở mỗi nơi một khác.


Ở Đức, thông điệp đầu năm của Thủ tướng là hình thức diễn văn trang trọng nhất ở bậc cao nhất, bậc thượng đỉnh quốc gia. Hiển nhiên diễn giả phải tuân thủ yêu cầu nội dung bắt buộc của thể loại này là nhìn lại năm cũ, hướng đến năm mới, trong không quá mười phút – khả năng người nghe ngủ gật, chuyển kênh khác, chạy ra bếp khui bia hay tắt tivi ở phút thứ mười một là rất cao. Song những thứ đó thực ra khá vô nghĩa: chẳng ai muốn dành tai này cho những điều đã biết đến chán ngấy hoặc nghe chuyện cổ tích về 365 ngày vừa trôi qua và dành nốt tai kia cho một phác họa viễn tưởng về 365 ngày còn chưa đến. Diễn văn quốc gia đầu năm tự bản thân nó không có cả giá trị thông tin lẫn giá trị giải trí, trừ trường hợp diễn giả quá vụng về. Nhưng nó có thể có một giá trị văn hóa, nếu diễn giả biết sử dụng một ngôn ngữ phù hợp với hoàn cảnh, phù hợp với đối tượng và phù hợp với phong cách của bản thân mình; biết pha trộn đúng tỉ lệ giữa nghị luận, hùng biện, suy tư, tâm tình và hài hước; biết để lại ấn tượng bằng ít nhất một khái niệm hay tốt hơn cả là một câu bập ngay vào tâm khảm người nghe; biết mở ra và khép lại với một sợi chỉ đỏ xuyên suốt; biết cấu trúc hợp lí, dẫn dắt khéo léo, thiết kế cao trào và kết thúc với dư âm… Đó là chưa kể diễn văn ấy phải được trình bày tự nhiên, trôi chảy, giầu cảm xúc, đúng nhịp điệu và chân thực. Đó là chưa kể đầu tóc, quần áo, ngôn ngữ cơ thể và chất giọng. Tóm lại, diễn văn đầu năm là một thách thức văn hóa chứ không phải thách thức chính trị cho các chính khách ở phương Tây. Đã vô nghĩa thì ít nhất hãy vô nghĩa cho có thẩm mĩ.


Phần lớn các diễn văn đầu năm của những Thủ tướng Đức mà tôi từng nghe đều có thể bị đánh trượt hay chỉ đạt điểm trung bình về tổng thể hay về một phương diện. Hiếm có một kiệt tác nào trong số đó đáng đưa vào bảo tàng văn hóa Đức đương đại. Điều ít thấy nhất ở đó là sự nồng nhiệt, diện mạo cá nhân và sự hài hước, những yếu tố lôi cuốn dễ gặp hơn ở cách chính khách Hoa Kỳ vốn thuần thục hơn với nghệ thuật chinh phục đám đông và cũng phụ thuộc vào đó hơn. Song dù hay dở thế nào, tất cả đều đạt điểm chuẩn ở một phương diện: đúng đối tượng – người dân. Những diễn văn phát vào đêm giao thừa từ tám năm nay và sắp thêm bốn năm nữa của bà Merkel không có gì sâu xa xuất sắc, dù có năm bà mở đầu bằng tác phẩm hài kinh điển Dinner for One và kết thúc bằng triết gia Hi Lạp Democritos. Năm nay cũng không thú vị hơn. Không chứa đựng những tín hiệu giữa hai hàng chữ để các chuyên gia phân tích phải dò mìn phỏng đoán nước Đức sẽ đi về đâu – ở một số nước Nam Âu, người ta thậm chí đang lo nước Đức lại lăm le nuốt chửng các láng giềng, lần này không bằng xe tăng mà bằng xe hơi Audi, BMW, Mercedes và Volkswagen. Không một lời về chính sách đường lối, về quyết tâm tới lui, về vai trò sứ mệnh ầm ĩ của chính phủ. Trong vỏn vẹn 6 phút đồng hồ, bằng những lời trang trọng nhưng giản dị và khá thân tình – bà Thủ tướng thổ lộ dự định năm tới là sẽ dành nhiều thời gian đi hít thở không khí trong lành ngoài trời hơn -, trực tiếp nhắm đến địa chỉ là người dân, bà chủ yếu dành lời khen ngợi những thành tích và nỗ lực cụ thể của người dân – chứ không phải của chính phủ Đức – trong năm qua và kêu gọi họ tiếp tục đồng lòng dấn bước trong năm tới, rồi cuối cùng tất nhiên kết thúc bằng lời chúc sức khỏe, viên mãn và phước lành của Chúa – chứ không phải của Đảng Dân chủ Thiên chúa mà bà thống lĩnh – cho mọi gia đình.


Các thông điệp đầu năm của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng dựa trên một văn hóa chính trị hoàn toàn khác. Mỗi năm là một bài đăng báo dài dằng dặc chứ không phải một diễn văn trước ống kính. Chúng ta hãy thưởng thức một đoạn trong thông điệp đầu năm nay (2014):


Thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn, phát triển sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; chú trọng công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp sử dụng nhiều lao động để thúc đẩy tập trung ruộng đất, chuyển dịch cơ cấu lao động và kinh tế nông thôn. Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả đào tạo nghề. Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Thực hiện hiệu quả chương trình giảm nghèo bền vững. Quan tâm bảo vệ môi trường; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống, tập quán tốt đẹp của làng quê Việt Nam.


Khẩn trương sơ kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn để đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại nền nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.”


hay một đoạn của thông điệp đầu năm ngoái (2013):


Cùng với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong năm 2012 phải tiếp tục quán triệt quan điểm chỉ đạo trong kết luận số 02 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 11 của Chính phủ, tăng cường ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát và duy trì tăng trưởng hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội. Đây là những nhiệm vụ rất nặng nề và khó khăn, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới đang diễn biến phức tạp, thậm chí có nguy cơ rơi vào vòng suy thoái mới, đòi hỏi phải có sự nỗ lực vượt bậc của các ngành, các cấp. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò mở đường, tạo cơ chế, chính sách và chỉ đạo thực hiện nhưng kết quả phải được phản ánh trên từng cơ sở sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, doanh nghiệp phải là chủ thể, có vai trò quyết định.”


hoặc một đoạn của thông điệp đầu năm kia (2012):


Điều chỉnh cơ cấu và nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhà nước tập trung đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu nhất, đồng thời đẩy mạnh huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Khuyến khích đầu tư vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch. Hạn chế đầu tư vào các ngành khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng lượng; không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi trường.”


và một đoạn của thông điệp đầu năm kìa (2011):


Tái cấu trúc các ngành sản xuất và dịch vụ, trọng tâm là phát triển công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, phải xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với công nghệ cao nhằm tăng giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất; gắn kết chặt chẽ giữa áp dụng khoa học công nghệ với tổ chức sản xuất; giữa sản xuất, chế biến với phân phối trong một chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu trong chuỗi giá trị đó; giữa phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới.”


Đó đơn giản là những bài xã luận với văn phong muôn thuở của khẩu hiệu, nghị quyết và báo cáo, dùng tốt cho bất kì một thời điểm nào trong năm, dùng tốt cho bất kì năm nào, dùng tốt cho bất kì dịp nào: Ngôn ngữ chính trị là thứ duy nhất ở đất nước này có phẩm chất ổn định. Không có bóng dáng nào của người dân trong đó. Không ai có thể cam đoan là được thấy Thủ tướng đang nói với mình. Đối tượng gửi gắm của cái gọi là “thông điệp đầu năm” đó cũng phi diện mạo như tác giả của nó. Tôi không rõ người ta có thể dò thấy quả mìn nào chờ nổ trong những văn bản mà chỉ cần đọc một câu đã tiêu hết dự trữ hứng thú trong ngày ấy. Ông Thủ tướng, hay nói đúng hơn là những người soạn xã luận đứng tên ông, chỉ lặp lại, với mỗi năm một chút xê dịch, tất cả những gì mà Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã công bố trong Dự thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 từ nhiều năm trước. Rất có thể nhóm ghostwriter của ông Thủ tướng cũng chính là nhóm soạn Dự thảo đó.


Chất lượng sống có thể bị nhìn lệch qua lăng kính của chỉ số tăng trưởng kinh tế, nhưng bao giờ cũng được phản ảnh trung thực qua những điều tưởng chừng rất nhỏ. Mỗi đầu năm một bài xã luận tra tấn của người đứng đầu chính phủ như nghi thức bất biến của văn hóa chính trị Việt Nam, theo tôi, không phải là chất lượng sống đáng ước ao.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 04, 2014 03:38

December 22, 2013

Liếm

Khuất Đẩu


Gã sở hữu một cái lưỡi dài, thật dài. Có thể là dài đến cả tấc, xuống tận cằm. Mà cũng có thể là dài đến cả thước, xuống tận gối.


Bình thường, gã cũng như mọi người, nghĩa là không ai thè lưỡi ra liếm được cái mũi của chính mình. Nó nhỏ xíu, cụt ngủn. Cùng lắm là chỉ đủ liếm mép cho đỡ thèm khi nghĩ tới một món ăn ngon, hay đuổi một con ruồi mất dạy nào đó dám đậu trên môi.


Chỉ vậy thôi, người ta múa mỏ khoe môi, chứ không ai khoe lưỡi.


Nhưng khi hữu sự, nghĩa là nghe đâu đó có mùi rượu thịt, gã liền xách theo cái lưỡi của mình như một tráng sĩ mang theo cây kiếm sắc xuống núi.


Đến nơi, gã thò thụt đứng chờ.


Khi những bát đĩa tú hụ cạn dần, chỉ còn chút mỡ thừa canh cặn, là lúc gã tung cái lưỡi của mình ra như một bác chài tung lưới. Cái lưỡi dài và đỏ loang loáng lăn trên đĩa, nhoay nháy xoay trong bát, chỉ trong chớp mắt là sạch sành sanh. Sạch đến nỗi những người có phận sự rửa bát, dù có đưa lên mũi ngửi, khịt khịt mãi cũng không tìm thấy đâu mùi dầu mỡ!


Bầy chó chậm chân hơn, cất tiếng tru nghe như “thua thua” đầy hậm hực.


Nhờ cái tài liếm nhanh, liếm gọn, liếm tận tụy, liếm không công, gã được nuôi ăn để rửa bát ở một nhà hàng. Ngoài việc liếm trước khi rửa (cho đỡ tốn nước), những lúc rổi rãi gã thử liếm những cái bàn. Cũng như bát đĩa, cái lưỡi của gã chỉ một đường liếm là cái bàn sạch bóng không còn một hạt bụi nào.


Chủ rất thích.


Một hôm, nhà hàng thết đãi một vị thượng thượng khách. Người ta bày ra một chiếc ghế chạm trổ sơn son thếp vàng như một cái ngai. Cái lưỡi của gã được dịp múa may và chiếc ghế xưa cũ bỗng trở nên mới cáu.


Sau bữa tiệc, chủ nhà hàng đem gã ra khoe với khách. Để thử tài, khách thò chân ra và gã cũng thò lưỡi ra. Đôi giày đen được cái lưỡi như một con rắn trườn qua, trườn tới đâu bóng lộn tới đó như mới đánh xi.


Khách nói: hắn có tài đấy. Tài như thế mà để liếm giày cũng uổng. Thôi hãy về với ta.


Từ đó, thừa lệnh chủ, cái lưỡi của gã dài và xòe ra như chiếc chổi chà, làm cái công việc gọi là quét sạch, (chứ liếm không xuể) những thứ được gọi là rác rưởi, nọc độc tàn dư, những thứ diễn tiến hòa bình hay không hòa bình… Cái lưỡi của gã chẳng mấy chốc trở thành siêu quần bạt chúng, dài đến nỗi thọc sâu vào tận các trang mạng, cắm những tấm biển sinh tử phù như Mỹ cắm cờ trên mặt giăng.


Vậy nên, những kẻ lừng khừng hay sắp lừng khừng, trở cờ hay sắp trở cờ chớ có nghe xúi dại mà chui ra khỏi cái hang gọi là Đảng. Gã sẽ liếm như con kỳ nhông liếm mối, lần này là liếm tận óc!


Chớ có mà đùa dai! Nhớ đấy!


21/12/2013


© 2013 Khuất Đẩu & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 22, 2013 15:00

December 20, 2013

Chính trị… hôi của

Nguyễn Hoàng Văn


Từ một tai nạn giao thông, đề tài “hôi của” vụt biến thành một câu chuyện thời sự, chuyện này nhắc lại chuyện kia, kéo dài, và, cuối cùng, là những tiếng thở dài ngao ngán về sự xuống cấp của đạo đức, sự biến mất của lòng tử tế, như câu hỏi nhức nhối trên một tờ báo: Phải chăng, “lòng tốt đã bị đánh cắp”. [1]


Ngày 4 tháng 12 một xe vận tải bị lật tại Biên Hoà, hàng ngàn thùng bia đổ ra và, sau đó, là cảnh nhốn nháo của đoàn quân hôi của. Ào ào, rần rần, không chỉ “hôi” bằng tay bằng túi, họ “hôi” cả bằng xe ba gác, “hôi” một cách thoải mái, hả hê: “hôi “ ngay trước mặt người tài xế đang khóc lóc van xin, “hôi” ngay trước mặt đứa con gái chớm lớn đang hổ thẹn thay cho người lẽ ra phải đáng yêu và khả kính của mình. Vân vân, rất nhiều hình ảnh tương tự và, không chỉ đê tiện với người sống, đoàn quân hôi của nhan nhản từ Nam ra Bắc còn giở trò vô lại với cả người chết. Ngày 18 tháng 9, phát hiện thi thể một người đàn ông dưới một gầm cầu ở Lào Cai, nhiều dân cư địa phương đã đến đây khấn vái thả tiền và, sau đó, cũng là cảnh hôi của nhốn nháo dưới gầm cầu, “hôi” cả những đồng tiền cúng cho người chết [2]. Những cảnh tượng như thế đã dồn dập tiếp nối nhau khiến có người thảng thốt bật lên câu hỏi, sau cái vụ cướp bia trước mặt người tài xế: Thực ra, đây là “hôi của” hay “cướp của”?


Như thế thì phải xem lại sự khác nhau giữa “hôi” và “cướp của”. Ngoài ý nghĩa “mót nhặt những gì còn sót lại” như là cách mưu sinh tội nghiệp của những người cùng đường thì “hôi của”, ở phần nghĩa xấu hơn, trong đa số từ điển tiếng Việt xưa cũ, đều được diễn đạt như là “lợi dụng sự lộn xộn” để “nhúng tay” vào nhằm “kiếm chác và chia phần”. Nhưng đến Từ điển tiếng Việt tường giải, liên tưởng của Nguyên Văn Đạm, xuất bản lần đầu vào năm 1993, thì “hôi của” đã trở thành “cướp của”: “thừa cơ cướp của trong một lúc lộn xộn.” [3]


Từ “thừa cơ kiếm chác” như một kiểu trộm cắp thiếu bản lĩnh đến “thừa cơ cướp của” là cả một chặng đường. Nếu “thừa cơ kiếm chác” là trò ruột của hạng lưu manh vặt thì cái gì đã đẩy đám đá cá lăn dưa ấy tiến gần đến mức độ táo tợn của giới đạo tặc chuyên ăn cướp như thế?


Nếu hạng đá cá lăn dưa chỉ dám xâm phạm quyền sở hữu người khác trong cảnh nhá nhem sáng tối của một tình thế lộn xộn thì kẻ cướp lại công khai xâm phạm dựa vào sức mạnh, sức mạnh “cứng” hoặc sức mạnh “mềm”. Cứng, sức mạnh đó có thể là nắm đấm hay họng súng trên tay một tên võ biền đơn độc, một đám lục lâm ô hợp hay một đội quân kỷ luật, của một băng mafia, một đảng v.v… Và mềm, nó có thể là uy lực giang hồ của một đàn anh tỉnh lẻ, một bố già cái thế hay “lịch sử vẻ vang” dày đặc thành tích trấn áp của một tổ chức, một đảng; thứ “uy lực – lịch sử” tự mình kiến tạo hay chỉ đơn giản là thừa kế, như một hình thức “tập ấm”, hoặc lập lờ nấp bóng, như là khỉ mượn hơi hùm.


Chăm chăm ăn cướp nhưng thiếu bản lĩnh, thiếu sự tự tin về “uy lực” hay “lịch sử” mà mình đang nắm hay chỉ đang kế thừa thì phải tạo ra những tình trạng lộn xộn, rối ren và thế, cũng có nghĩa là… chính trị. Chính trị là nghệ thuật của quyền lực. Nhưng chính trị còn là nghệ thuật gây ra sự lộn xộn bởi, chính những tình huống rối ren diễn ra theo kịch bản sẽ cho phép tay chơi vận dụng quyền lực một cách tốt nhất và dồn ép con mồi vào những tình thế lúng túng, bị động nhất. Như vậy thì lời đáp cho cái cái câu hỏi nhức nhối về sự “đánh cắp” lòng tốt nói trên không chỉ đơn giản là “bần cùng sinh đạo tặc” mà là cái lịch sử đau đớn của chúng ta. Cái lịch sử ở đó những biến động bi thiết nhất lại là những “kịch bản rối ren” hoành tráng nhất, thăng trầm theo nhu cầu cộng sinh giữa hạng đạo tặc thiếu bản lĩnh và đám đá cá lăn dưa sống bám vào sự rối ren lộn xộn.


Không muốn nhai lại chính mình nhưng tôi thấy khó mà tìm được điểm tựa nào đắt hơn để làm bật lại cái lịch sử đau đớn ấy bằng những chuyện đã nêu trong bài viết cách đây chín năm trên talawas về cái mẫu số chung giữa miếng ăn người lính chân đất ở chiến trường Việt Bắc năm 1950, ở chiến trường Tây Nguyên năm 1965 và những chiếc Mercedes bóng lộn của những quan chức bệ vệ của hệ thống toàn trị năm 2005. [4]


Đó là miếng thức ăn Mỹ trong miệng bộ đội giữa trận đụng độ Ia-Ðrăng khiến Chủ nhiệm Chính trị Mặt trận Ðặng Vũ Hiệp phải ra lệnh kiểm điểm. [5] Đó là những bánh kẹo Pháp mà bộ đội nhóp nhép trong miệng sau Chiến dịch Biên giới khiến Chính ủy Trung đoàn Trần Độ bị Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Trần Đăng Ninh, trong vai trò “Trưởng ban thu dọn chiến lợi phẩm”, yêu cầu Quân ủy Trung ương kỷ luật.


Nhưng tôi phải nói ngay rằng tôi không hề có ý miệt thị đó là hành động “hôi của” bởi, sau những trận đánh kéo dài, kiệt sức và đói lả người, người lính nào cũng có quyền tự tưởng thưởng cho mình bằng những chiến lợi phẩm thu được. Công bằng mà nói thì, trên phương diện chiến thuật, Chủ nhiệm Chính trị Đặng Vũ Hiệp đã có lý khi ra lệnh kiểm điểm bộ đội của mình bởi, ngay giữa một trận đánh, họ không thể để miếng ăn làm hao hụt xung lực của trận đánh. Nhưng khi bảo vệ cho lính mình cái quyền nhâm nhi chiến lợi phẩm sau trận đánh, Chính uỷ Trần Độ đã hoàn toàn chính đáng khi cãi lại cấp trên, như đã kể lại trong Hồi ký của ông:


“Hôm tôi đi qua Ðông Khê vừa giải phóng, thấy một nhóm chiến sỹ đang ngồi nhai bánh, ăn kẹo. Cán bộ thu dọn chiến trường đến quát tháo đòi kỷ luật, bắt anh em đưa nộp hết bất cứ thứ gì đã thu nhặt được với cái lẽ: chiến lợi phẩm lớn nhỏ đều là tài sản quốc gia, là chiến quả đổi bằng xương máu. Với máu thanh niên vốn sôi nổi, tôi rất ghét cái thói lên lớp dạy đời, nên đứng lên cãi lại. Tôi cũng nói ngang ngược không kém: Các anh có biết chiến thắng này do ai không? Và ai đổ xương máu ở chiến trường này. Có phải là những người lính không? Trước khi đi vào trận đánh họ vui vẻ ăn bưởi rừng, ổi ma thay cơm, măng rừng thay thịt cá. Bây giờ chiến thắng rồi, có tí chút chất tươi vui vẻ với nhau. Các anh phải lên lớp làm gì nặng nề thế! Thôi các anh đi đi. Ðây là đơn vị chúng tôi. Chúng tôi chịu trách nhiệm ở đây không cho ai lấy.” [6]


Miếng ăn “chiến lợi phẩm”, như thế, đã bị giật ngay từ trong miệng của người lính. Nó bị giật ngay trên trận địa mà họ đã đổ máu và bị giật bằng “quyền lực mềm” của hệ thống toàn trị, thứ quyền hách dịch “lên lớp” và quyền phán định đâu là “tài sản quốc gia”. Mà không chỉ có chiến lợi phẩm tại Đông Khê, một mặt trận đơn lẻ trong “chiến dịch lịch sử” mang tên “Biên giới” để nối liền chiến khu Việt Bắc với lãnh thổ Trung Quốc như một “hậu phương lớn”. Và không phải bậc chỉ huy nào cũng gắn bó chan hoà vói lính như chính ủy Trần Độ. Những “tài sản” thu dọn trong một cái cảnh lộn xộn sau “chiến dịch lịch sử” ấy đi đâu, về đâu, đã mang lại lợi ích chung nào cho “quốc gia”? Câu trả lời, ắt hẳn, chắng khác gì mấy lời đáp đã có về “tài sản quốc gia” lớn hơn rất nhiều là 16 tấn vàng dự trữ của chính quyền Việt Nam Cộng hoà sau đó 25 năm, trong cảnh rối ren lộn xộn sau “Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử”.


Sau một “chiến thắng lịch sử” là một vụ “hôi của lịch sử”. Thu dọn chiến lợi phẩm là quyền tự nhiên của kẻ thắng trận nhưng “tài sản quốc gia” là “tài sản quốc gia” và vấn đề ở đây là cung cách kiếm chác của những thành phần đặc quyền như một trò “hôi của” có tích có tuồng giữa những xáo trộn lịch sử.


Trong chiều hướng đó thì lịch sử của hệ thống toàn trị cũng chính là lịch sử của những vụ “hôi của” mang tầm… lịch sử. Những diễn biến mệnh danh “bước ngoặc lịch sử”, “thắng lợi vĩ đại” hay “thành công tốt đẹp”, hết thảy, đều là “thắng lợi” của những mưu toan gây lộn xộn mang tầm cỡ quốc gia” để mở ra những chiến dịch hôi mang tầm cỡ quốc gia. “Thắng lợi” của cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn theo khẩu hiệu “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ” vào thập niên 50 cũng là “thắng lợi” của sự cộng hưởng ở đó những thành phần đặc quyền đã xúi giục đám “cốt cán” đá cá lăn dưa, trong những cuộc đấu tố đầy tính đá cá lăn dưa và sự “thực phần” cũng không kém phần đá cá lăn dưa, ở đó quyền “hôi của” của được ban cấp một cách tương ứng theo nhiệt tình đóng góp công việc “đào gốc trốc rễ” những kẻ thù giai cấp. “Thắng” lợi của cuộc đấu tranh giai cấp mệnh danh “cải tạo công thương” ở thành thị vào thập niên 50 ở miền Bắc và thập niên 70-80 ở miền Nam cũng là “thắng lợi” những kẻ hôi của đầy quyền lực. Những “thành công” lớn kéo theo những chiến dịch hôi của lớn và những “thành công” nhỏ nhỏ vừa vừa của các chính sách kinh tế – xã hội như các đợt đổi tiền, chiến dịch san bằng sở hữu “Z-30” hay hợp doanh thương nghiệp v.v… chính là tiền đề của các vụ hôi của nhỏ nhỏ, vừa vừa. [7]


Cứ cho đó là những “sai lầm ấu trĩ” của “một thời bao cấp”, thế nhưng không chỉ có cái thời đã qua quýt thú nhận là “sai lầm” cho xong chuyện ấy. “Thành công tốt đẹp” của Hội nghị Thượng đỉnh Á – Âu (ASEM) 2005 tại Hà Nội là một dấu mốc cho thời kỳ “mở cửa – tiến ra biển lớn” nhưng cũng là “thành công tốt đẹp” của tầng lớp đặc quyền khi “hôi” được những 80 chiếc Mercedes miễn thuế. [8] “Thành công” của muôn vàn “dự án quy hoạch” nhân danh phát triển cũng là “thành công” của đám hôi của bằng chính sách, “hôi” từ những cánh rừng- thuỷ điện mênh mông đến những”bờ xôi ruộng mật” đã nuôi sống không biết mấy thế hệ nông dân.


Và khi “thành công” như vậy, nó đã “thành công” như một đạo tặc thiếu bản lĩnh, phải nép mình vào bóng tối để kiếm ăn. Bản lĩnh” của đạo tặc không chỉ thể hiện ở cái gan giết người hay cướp của mà còn là “khí phách đạo tặc”, cái tinh thần dám chơi dám chịu, dám thẳng thắn thừa nhận mình là kẻ cướp hay kẻ sát nhân. Còn những thành phần đặc quyền đặc lợi của hệ thống toàn trị thì hôi của bằng cái quyền “nhân danh”, và để thoải mái “nhân danh”, họ phải làm mọi cách để duy trì tình trạng rối ren và nhập nhằng về quyền sở hữu. [9]


Chính trị của hôi của, như đã nói, là chính trị của sự rối ren. Để bảo vệ độc quyền làm ông chủ của tình trạng rối ren, hệ thống toàn trị phải duy trì tình trạng bưng bít và nhập nhằng.


Bưng bít và nhập nhằng là bản chất cố hữu của chế độ toàn trị. Hệ thống toàn trị Đức Quốc xã đã bưng bít chân dung thật của Hitler, kẻ đã một thời chiếm ngự trái tim và khối óc người Đức bằng cách sách động sự thù hận với người Do Thái nhưng, mỉa may thay, lại có máu Do Thái trong người. Hệ thống toàn trị tại Việt Nam thì bưng bít từ ngày khai sinh thật đến ngày khai tử thật của Hồ Chí Minh, khoan nói những chuyện thâm cung hệ trọng khác. Bằng những tiểu sử nhập nhằng, hệ thống toàn trị đã tạo ra những hào quang thánh nhân cho những nhà độc tài phàm tục. Bằng những khái niệm nhập nhằng về dân chủ, như “dân chủ tập trung”, nó cướp đoạt gần hết quyền làm… dân của chính người dân. Và bằng sự nhập nhằng của khái niệm “sở hữu tập trung” đối với đất đai, nó thoải mái hôi của theo cung cách mà nhà từ điển học Nguyên Văn Đạm đã tổng kết trong bộ từ điển nói trên: “thừa cơ cướp của trong một lúc lộn xộn.”


“Thừa cơ cướp của” là hành động của hạng vô lại và, như những kẻ vô lại hoàn toàn không có chút tự trọng, hệ thống toàn trị cũng không chừa cả người chết.


Lần đầu tiên tôi cảm thấy xấu hổ, chung cho người Việt, là lần chứng kiến cảnh mặc cả giữa một người Việt và một viên chức lãnh sự Mỹ, trong một trại tỵ nạn ở Hồng Công. Với tấm thẻ bài của lính Mỹ mang theo trong hành trình vượt biển, người Việt nằng nặc đòi hỏi chính phủ Mỹ phải bảo đảm cho anh ta, và cả gia đình của anh ta còn ở tại Việt Nam, một tấm visa Mỹ hay, ít ra, là cái giá tính bằng đô la: phải bảo đảm điều đó thì mới cung cấp thông tin về bộ hài cốt mà gia đình đang giữ tại Việt Nam. Viên chức Mỹ thì lặp đi lặp lại rằng vấn đề là nhân đạo, nhân đạo và nhân đạo: việc thưởng tiền là tùy thuộc vào thân nhân người lính, chính phủ Mỹ tuyệt đối không chấp nhận việc mua bán hài cốt người chết.


Không ai chịu ai, và cuối cùng, chủ nghĩa nhân đạo đã đầu hàng, viên chức Mỹ ra về trắng tay, để lại tôi và những nhân chứng khác đăng đắng một cảm giác bẽ bàng, hổ thẹn. Nhưng xét cho cùng thì kẻ mặc cả ấy cũng không đáng trách nhiều lắm: ra đi, mang theo cái tấm thẻ mà gia đình đã rót vào đó bao nhiêu tiền bạc, gởi gắm vào đó như là vật bảo chứng cho cả một kỳ vọng đổi đời, làm sao anh ta có thể tự ý quyết định? Như thế thì vấn đề ở đây là “xác tín” của cả gia đình anh ta, không chỉ về cái giá mà một bộ hài cốt lính Mỹ có thể mang lại mà, quan trọng hơn, là “lẽ tự nhiên” trong việc đầu tư để kiếm lợi từ một bộ xương như thế.


Đó là thứ “xác tín” hình thành trong một chế độ mà việc mặc cả trên xương người chết đã trở thành một chủ trương chính trị, một chiến lược ngoại giao. Đầu tiên, chỉ một thời gian ngắn sau “Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử”, là mưu toan làm tiền trên hài cốt Mỹ với cái giá lịch sử là 3.2 tỷ Mỹ kim. Người Mỹ muốn tính sổ với 58.000 binh sinh tử trận và mất tích ư? Thì phải bình thường hoá quan hệ. Họ muốn bình thường hoá quan hệ ư? Thì phải bồi thường chiến tranh. Cũng như cuộc mặc cả mà tôi chứng kiến, một bên là chủ nghĩa nhân đạo”, một bên là chủ nghĩa “tiền trao cháo múc”, hai bên nhùng nhằng, chẳng ai hiểu ai và chấp nhận lý lẽ của ai. Chỉ có mặc cả và mặc cả, mặc cả cho đến lúc chưng hửng vì bỏ lỡ cơ hội để rồi phải chấp nhận giảm giá, giảm dần và giảm dần, mãi cho đến năm 1994, lúc được xoá lệnh cấm vận. [10]


Không chỉ thiếu tự trọng, nó còn man rợ nữa. Không nói đếu tiêu chí hiện đại thể hiện ở Geneva Convention 1949, nó thậm chí còn man rợ cả với tiêu chí của văn minh cổ đại đi trước mình đến mấy chục thế kỷ. Homer, cách đây trên 3.000 năm, khi diễn tả lại cuộc chiến thành Troy trong Illiad, đã cho thấy thần Zeus “kinh động” như thế nào trước cảnh những tử thi bị kên kên rỉa xác và “lời nguyền” mà những kẻ man rợ sau cái trò này phải nhận lãnh như thế nào. Và Homer đã cho thấy, rốt cuộc, sau 12 ngày hành hạ tử thi của Hector, Achilles đã thực sự ân hận như thế nào, không chỉ ân hận đến mức trả lại thi hài của Hector mà còn độ đồng ý thời hạn hưu chiến đến 12 ngày để thành Troy có thể tống táng binh sĩ của mình một cách tử tế trước trận tử chiến cuối cùng. Nếu Illiad là một truyền thuyết xa xưa nhuốm màu thần thoại thì gần hơn, và xác thực hơn, là những sử liệu rành rành về mệnh lệnh của Abu Bakr vào thế kỷ thứ 7, giáo lĩnh đầu tiên của đạo Hồi, khi nghiêm ngặt yêu cầu binh sĩ mình phải đối xử tử tế, không được xúc phạm đến thi thể đối phương.


Hơn hẳn bất cứ vận động nào khác, chiến tranh là một cuộc vận động với xác suất cao nhất về những yếu tố bất ngờ và bất toàn nên sự phát sinh của những hành động man rợ mang tính cá nhân trong tình thế nóng bỏng của chiến trường ở phía này hay phía kia là điều khó mà tránh khỏi. Cái đáng nói ở đây là thời bình, một chính sách của thời bình, mà là một chính sách kéo dài. Khi cái trò kinh doanh hài cốt thiếu tự trọng ấy được nâng lên như một chính sách quốc gia thì vấn đề không chỉ đơn thuần là hai bên, đơn thuần là Washington và Hà Nội, là những nhà ngoại giao thay mặt và những nhà quyết định chính sách đứng sau. Theo những cuộc đàm phán kéo dài thì, càng ngày, những thân nhân chờ đợi sẽ càng đau đớn khi chồng hay con em chưa thể yên nghỉ một cách tử tế. Và càng ngày, theo những cuộc mặc cả giá xương cốt kéo dài, công dân của các nhà cầm quyền tự xưng “đỉnh cao trí tuệ” sẽ càng quen dần và tin dần vào “lẽ tự nhiên” hay sự “chính đáng” của cái trò hôi của từ xương người chết hay kinh doanh trên nỗi đau đớn của thân nhân người chết.


Lòng tốt đã bị “đánh cắp” từ những chính sách như thế. Ít hay nhiều, con người chúng ta ai cũng có chút “máu tham” trong người nhưng vấn đề là cái máu tham tiềm ẩn ấy đã bị đè nén hay triệt tiêu bởi những chuẩn mực đạo đức hình thành từ một nền tảng giáo dục phân minh, từ những thí dụ sống phân minh và đầy cảm hứng để bất cứ ai cũng khát khao học hỏi và noi gương. Nhưng những thành trì của sự tử tế trong lòng của từng người Việt đã bị tấn công liên miên, tấn công một cách lớp lang bài bản, tấn công một cách không thương tiếc. Đầu tiên là các chiến dịch chỉnh huấn, giảm tô rồi cải cách ruộng đất vào thập niên 50 với chú trương kích động mâu thuẫn, xúi giục hận thù và khêu gợi sự tham sân si. Để yên thân và để tiến thân, đồng đội hay đồng chí phải tố cáo và vu cáo đồng đội hay đồng chí. Và cũng để yên thân hay để được “thực phần” từ gia sản của những kẻ bị đấu tố, như một cách hôi của, những nông dân lại phải học cách tố cáo và vu cáo láng giềng.


Xây dựng quyền lực một cách thiếu phân minh như thế, hệ thống toàn trị chỉ có thể tồn tại dựa trên một nền tảng của những giá trị nhập nhằng.


Nhập nhằng giữa “chế độ” và “đất nước”, nó đặt mối đe doạ của với chế độ lên trên mối đe doạ của đất nước, xem kẻ thù của đất nước là “bạn hữu nghị” trong khi đối xử với những công dân yêu nước như là kẻ thù. Nhập nhằng giữa khái niệm tư hữu và công hữu đối với đất đai, nó đặt quyền “sống còn và quyền mưu cầu hạnh phúc” của người dân lên trên quyền hôi của của thành phần đặc lợi, và để bảo vệ cái đặc quyền “hôi của” ấy, nó lại nhập nhằng giữa “quần chúng nhân dân” với đám côn đồ đá cá lăn dưa. Và, vậy là, như có thể thấy giữa những gì đang diễn ra ngày ngày, bất cứ chiến dịch cướp đất, chiến dịch dàn áp nông dân đòi đất hay đấu tố và đàn áp người bất đồng nào cũng có bóng dáng của đám côn đồ đá cá lăn dưa nhân danh “quần chúng”.


Đằng sau những chiến dịch lịch sử là những vụ hôi của lịch sử. Đằng sau những nhà cầm quyền già-đá-cá-lăn-dưa non-đạo-tặc là những “quần chúng” cực kỳ đá cá lăn dưa. Khi chính quyền chỉ là một giống ký sinh trùng bám vào tình trạng mập mờ để “Ăn của dân không từ thứ gì”, nó cũng không từ chối bất cứ phương tiện gì để bảo về cái quyền ăn bám đó, từ cứt cho đến mắm tôm. [11]


Từ chủ trương ngoại giao hài cốt đến biện pháp đàn áp mắm tôm chỉ là một khoảng cách rất ngắn. Và là một khoảng cách rất ngắn so với cái cảnh nhặt tiền phúng điếu dưới gầm cầu ở Lào Cai hay hôi bia tại Biên Hoà. Khi những nhà toàn trị cho rằng những hài cốt lính Mỹ đang nằm ở trong tầm tay, không dại gì vuột mất khoản lợi thì đám hôi của ở Lào Cai hay Biên Hoà cũng thế, đồng tiền hay thùng bia đang ở trong tầm tay, không ngu gì để vuột.


Lịch sử hết thăng thì lại trầm nhưng, luôn luôn, con người, như một tập thể cộng đồng, phải luôn luôn đứng vững với những phẩm cách cần có. Con người phải giữ vững bởi, ngày nào họ còn đứng vững, đất nước sẽ tiếp tục đứng vững và chính vì thế mà lịch sử của chúng ta trở nên đau đớn. Nó đau đớn vì, theo sự trượt dốc của đạo đức và sự biến mất của lòng tử tế như có thể thấy qua những thí dụ tràn lan trên mặt báo, người Việt ngày càng ác với nhau hơn, đê tiện với nhau hơn và nhưng ngờ nghệch và hèn hạ với kẻ thù truyền kiếp của mình hơn. Lịch sử hết trầm thì lại thăng và, sau cùng, lịch sử sẽ dành một chỗ đứng như thế nào cho cái hệ thống cầm quyền đã liên tiếp hạ thấp nhân phẩm và ngu muội hoá dân tộc mình như thế?


Tôi chợt nghĩ tới những bô cứt và những lọ mắm tôm thối đã ném vào những người bất đồng chính kiến, những nhà dân chủ, những nhà tranh đấu nhân quyền… [12]


18.12.2013


Tham khảo:


[1] Lê Thanh Phong, “Từ chuyện lòng tốt bị đánh cắp theo xe bia Tiger bị nạn”, Lao Động, 5.12.2013.


[2] “Hàng loạt vụ hôi của trắng trợn giữa ban ngày”, Vietnamnet 6.12.2013


[3] Nguyễn Văn Đạm. (1993), Từ điển tiếng Việt tường giải, liên tưởng, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội.


[4] Nguyễn Hoàng Văn, “Thịt hộp và Mercedes”, talawas 27.12.2004


[5] ÐặngVũ Hiệp (2002), Ký ức Tây Nguyên, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, tr. 82.


“Khuyết điểm thứ ba, công tác giáo dục và tổ chức cho bộ đội ý thức thu hồi chiến lợi phẩm, nhất là vũ khí trang bị chưa đầy đủ. Chưa tận dụng lấy vũ khí địch để diệt địch, còn nặng về lấy thức ăn. Có đồng chí đang đánh nhau vẫn ngồi ăn. Lại có anh em diệt địch xong, lấy thuốc lá vừa hút vừa xông lên đánh tiếp”.


[6] Hồi ký Trần Ðộ


[7] Có rất nhiều tài liệu về các vụ “hôi của” này, từ 16 tấn vàng vào năm 1975 đến các chiến dịch cải tạo công thương sau đó. Tài liệu mang tính “tổng kết” nhất là cuốn Bên thắng cuộc II: Quyền bính, của Huy Đức.


[8] Vì đưa việc này lên diễn đàn thảo luận của VnExpess và thu hút ý nhiều kiến phản đối vào cuối năm 2004, Tổng Biên tập Trương Ðình Anh đã bị cách chức. Có tin cho biết nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải muốn đóng cửa tờ báo ngay nhưng các viên chức văn hóa can thiệp, cho rằng mỗi tháng VnExpress có hàng chục triệu người đọc nên quyết định đóng cửa này ngay trước hội nghị ASEM là một điều không hay, chỉ nên dừng lại ở mức độ khiển trách.


[9] Tháng 1 năm 2013, 72 nhân vật nổi tiếng đã gởi “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992”, trong đó đề nghị “ áp dụng quyền sở hữu cá nhân về đất đai” nhưng “Hiến pháp” đã được thông qua với khái niệm sở hữu toàn dân trong vấn đề đất đai.


[10] Xem Hồi ký Trần Quang Cơ, Chương 1: “Việt Nam trong thập niên của thế kỷ 20”


 [11] Lê Kiên, Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan:”Ăn của dân không từ một cái gì


[12] Nguyễn Duy Vinh, “Cách dùng mắm tôm trong văn hóa đàn áp ở Việt Nam”, “Bùi Hằng bị ném mắm tôm, rác rưởi vào nhà” và “Ai là nhân dân của cộng sản?


© 2013 Nguyễn Hoàng Văn & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 20, 2013 15:00

December 19, 2013

Những lưu ý về dân chủ hóa từ Samuel P. Huntington (3)

Phạm Hồng Sơn biên soạn


Kì 1 – Những vấn đề cơ sở


Kì 2: Năm b ng d n cho các nhà dân ch hóa


Xem toàn bài trong b ản PDF


C. Một số lưu ý quan trọng khác


Sau đây là một số điểm khác, trong The third wave – democratization in the late twentieth century của Huntington, có thể hữu ích cho những người quan tâm tới vấn đề dân chủ hóa. Thứ tự được xếp theo trình tự xuất hiện của chúng trong tác phẩm, không ngụ ý mức độ quan trọng.


1. Một đặc tính riêng biệt của chế độ độc tài toàn trị so với độc tài truyền thống là độc tài toàn trị nỗ lực định hình lại xã hội và cố uốn nắn bản thể con người theo ý họ. [i]


2. Các chế độ độc tài thường được thay thế bằng một chế độ độc tài khác. Các tác nhân làm chấm dứt một chế độ độc tài có thể khác xa các tác nhần cần cho dân chủ. [ii]


3. Khởi tạo dân chủ đòi hỏi giới tinh hoa (trí thức và chính trị) phải đạt được “đồng thuận thủ tục” (procedural consensus). Nói cách khác, giới tinh hoa phải tin và cùng nhau hành động vì dân chủ. [iii]


4. Bên cạnh các yếu tố khác, lãnh đạo chính trị và kỹ năng chính trị là những thứ tối cần cho dân chủ hóa. [iv]


5. Đôi khi thành công của dân chủ hóa lần này chỉ là hệ quả của những cố gắng dân chủ hóa đã thất bại trước đó. [v]


6. Có nhiều quốc gia gần như chưa từng trải nghiệm dân chủ đã chuyển đổi thành công sang dân chủ. [vi]


7. Các chế độ độc tài độc đảng xuất thân từ các phong trào dân tộc thường có cơ sở chính trị vững chắc hơn các loại độc tài tương tự. [vii]


8. Sự sống còn của một chế độ độc tài thường là biểu hiện của sự vận hành một cấu trúc xã hội hơn là sự vận hành của một chính thể. [viii]


9. “Không được tham gia chính trị thì không đóng thuế” là một yêu sách chính trị. Còn “Không đóng thuế thì không được tham dự chính quyền” là một hiện thực chính trị. [ix]


10. Một mô hình kinh tế thuận lợi cho dân chủ hóa là: tăng trưởng kinh tế cao xen với tình trạng suy thoái hoặc khủng hoảng ngắn. [x]


11. Các điều kiện kinh tế, xã hội, ngoại giao dù quan trọng đến mấy nhưng hoàn toàn vô nghĩa nếu không có những con người dám mạo hiểm làm dân chủ. [xi]


12. Chế độ độc tài độc đảng có hai nhóm khó khăn lớn cho dân chủ hóa: khung thiết chế ràng buộc hệ thống quyền lực nhà nước với các cơ quan của đảng; hệ thống tư tưởng (ý thức hệ) làm nhập nhằng giữa đảng với tổ quốc. [xii]


13. Dân chủ hóa một chế độc tài độc đảng cũng có nghĩa việc kiểm soát chính quyền của đảng đó bị thách thức và bản thân đảng đó biến chuyển thành một đảng chấp nhận cạnh tranh hơn. [xiii]


14. Độc tài cá nhân ít có xu hướng rời bỏ quyền lực hơn độc tài quân sự. [xiv]


15. Sinh viên là lực lượng đối lập phổ quát đối với mọi chế độ. Nhưng sinh viên sẽ bất lực khi thiếu ủng hộ mạnh mẽ. [xv]


16. Nguy cơ chia rẽ giữa các lãnh đạo, các nhóm phía đối lập luôn cao hơn và khó xử lý hơn nhiều so với cả nội bộ của một chính quyền độc tài đang rệu rã. [xvi]


17. Sự tự tin, huênh hoang của các lãnh đạo độc tài thường là kết quả từ một hệ thống phản hồi yếu kém, thiếu trung thực. [xvii]


18. Dân chủ cần bầu cử, cần tinh thần hợp tác, đàm phán, thỏa hiệp nhưng việc đối lập đồng ý tham dự các hoạt động của chính quyền độc tài có thể chỉ có tác dụng mang thêm tính chính đáng cho kẻ độc tài và làm hoang mang công luận. [xviii]


19. Chính quyền được sinh ra bằng ôn hòa, thỏa hiệp sẽ vận hành bằng đối thoại, chia sẻ trách nhiệm. Chính quyền được sinh ra từ bạo lực sẽ vận hành bằng dùi cui, nắm đấm. [xix]


20. Dân chủ hóa cần một nhận thức phân biệt quan trọng: không nên nhầm giữa năng lực yếu kém của lãnh đạo (hoặc đảng cầm quyền) với hệ thống chính trị dân chủ. [xx]


21. Một dấu hiệu của dân chủ non trẻ đã bén rễ chắc: qua hai vòng bầu cử liên tiếp, lãnh đạo đương nhiệm đồng ý chuyển giao quyền lực cho người thắng phiếu thuộc phía đối lập.[xxi]


22. Tinh thần trợ giúp, cổ xướng dân chủ từ Hoa Kỳ có thể sẽ tiếp tục hoặc không. [xxii]


23. Khủng bố, khủng hoảng xã hội và các chương trình cải cách kinh tế-xã hội quá lớn, quá nhanh là những thứ không có lợi cho những nền dân chủ non trẻ. [xxiii]


24. Các chế độ dân chủ ở Đông Á có thể bị suy yếu nếu Trung Cộng vẫn duy trì chính thể độc tài, vẫn tăng trưởng kinh tế và mở rộng ảnh hưởng trong khu vực. [xxiv]


25. Bên cạnh nhiều dạng độc tài đã xuất hiện, tương lai có thể sẽ có thêm một dạng chính thể độc tài với các lãnh đạo kỹ trị điện tử – dựa trên khả năng thao túng thông tin và vận dụng các phương tiện truyền thông tinh xảo. [xxv]


26. Phép thử cho tư tưởng dân chủ của chính trị gia là những thể hiện của người đó lúc tại vị chứ không phải khi đã về hưu. [xxvi]


27. Một dấu hiệu sớm sủa của dân chủ là việc chính quyền không hoặc ít cản trở, gây hấn sự tham gia một cuộc bầu cử công khai và công bằng từ các đảng đối lập. [xxvii]


28. Một khó khăn cho dân chủ hóa ở Trung Cộng là những nhà phê bình theo thiên hướng dân chủ thuộc dòng chính vẫn gắn bó với các thành tố cơ bản của Khổng giáo (thích hài hòa, đoàn kết hơn khác biệt, cạnh tranh; thích danh vị, chính thống hơn tự do cá nhân, ly khai…). [xxviii]


29. Nếu thừa nhận nền văn hóa Hồi giáo và Khổng giáo không tương thích với dân chủ thì cũng cần phải nhận thấy trong Hồi giáo và Khổng giáo vẫn có thể có những đặc tính thuận lợi cho, hoặc ít nhất không chống lại, dân chủ. Và văn hóa luôn luôn biến động, năng động. [xxix]


30. Lịch sử không bao giờ tiến theo đường thẳng nhưng nó chỉ tiến lên được nhờ những cú đẩy từ những con người hiểu biết và quyết đoán. [xxx]


Lời kết của người biên soạn


Qua những gì vừa trình bày, quí độc giả có thể đã nhận thấy hai điều:


1. Có một số từ có tính thuật ngữ, như hóa thế, tính chính đáng hồi cố, nhà dân chủ hóa…, dù đã lĩnh hội được nhiều góp ý tận tình, có thể chưa phải là cách chuyển ngữ tối ưu. Nhưng người biên soạn hy vọng mọi độc giả vẫn hiểu giống nhau về nghĩa của chúng khi độc giả đọc kỹ những nội dung đi sau các từ đó. Và cũng hy vọng trong tương lai những cách chuyển ngữ đó sẽ được những thức giả quan tâm bổ khuyết.


2. Lập trường chính trị của Huntington thuộc trường phái realpolitik (tạm dịch: chính trị thực dụng) có nguồn gốc từ Niccolò Machiavelli (1469-1527). “Thực dụng”, nhất là đối với người phương Đông, không phải là một từ đáng xiển dương tuyệt đối về đạo đức. Bản thân Huntington cũng nhận ra điều đó, nhưng ông hy vọng độc giả hiểu cho: “thực dụng” của ông là nhiệt tâm vì dân chủ. Ngoài ra, Huntington cũng nhận thức rất rõ về những thiếu sót có thể hoặc đương nhiên trong công trình nghiên cứu của ông. [xxxi] Đó cũng là những điều mà người biên soạn muốn chia sẻ thêm với độc giả Việt Nam hôm nay – những người đang phải sống dưới một chế độ thuộc loại vài chính thể độc tài độc đảng toàn trị còn sót lại từ thế kỷ trước-thế kỷ XX.


© Phạm Hồng Sơn & pro&contra






[i] Trang 12.




[ii] Trang 35.




[iii] Trang 36.




[iv] Trang 39.




[v] Trang 42-44




[vi] Trang 44.




[vii] Trang 47,48.




[viii] Trang 64.




[ix] Trang 65.




[x] Trang 72.




[xi] Trang 107, 108.




[xii] Trang 117-120.




[xiii] Trang 120.




[xiv] Trang 120, 142, 143.




[xv] Trang 144.




[xvi] Trang 157.




[xvii] Trang 144, 181, 182.




[xviii] Trang 186-190.




[xix] Trang 207.




[xx] Trang 260-262.




[xxi] Trang 266, 267.




[xxii] Trang 285.




[xxiii] Trang 290-291.




[xxiv] Trang 293.




[xxv] Trang 294.




[xxvi] Trang 297.




[xxvii] Trang 305.




[xxviii] Trang 300-303.




[xxix] Trang 300-311.




[xxx] Trang 316.




[xxxi] Trang xv.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 19, 2013 15:00

December 17, 2013

Những lưu ý về dân chủ hóa từ Samuel P. Huntington (2)

Phạm Hồng Sơn biên soạn


Kì 1 – Những vấn đề cơ sở


B. Năm bộ hướng dẫn cho các nhà dân chủ hóa


I. Bộ số 1: dành cho các nhà cải cách dân chủ hóa nằm trong chính quyền độc tài ở dạng thức Chuyển hóa [i]


1. Xây dựng và giữ vững cơ sở chính trị (political base). Nhanh nhất có thể đưa ngay các nhân vật ủng hộ dân chủ hóa vào các vị trí chủ chốt trong chính phủ, đảng và quân đội.


2. Duy trì tính chính đáng hồi cố. Thực hiện các thay đổi thông qua các thủ tục đã có của chính thể độc tài và trấn an các nhân vật cứng đầu bằng những nhượng bộ tượng trưng, tuân thủ chiến thuật “hai bước tiến một bước lùi”.


3. Từng bước gia tăng sự ủng hộ cho bản thân sao cho giảm dần sự phụ thuộc vào bộ phận cầm quyền chống cải cách và mở rộng cơ sở ủng hộ theo hướng các nhóm đối lập ủng hộ dân chủ.


4. Luôn sẵn tinh thần đối phó với các hành động cực đoan của nhóm cứng đầu hòng chặn đứng thay đổi (ví dụ: âm mưu lật quyền,…). Kể cả việc có thể phải dùng thủ thuật khích nhóm cứng đầu hành động như thế rồi ra tay dẹp bỏ (cách ly, làm mất uy tín các nhân vật cực đoan chống cải cách.)


5. Nắm và kiểm soát vững vàng mọi cơ hội, ý tưởng then chốt trong tiến trình dân chủ hóa. Chỉ hành động trên thế chủ động, áp đảo. Không bao giờ được áp dụng cải tiến dân chủ chỉ để thỏa mãn áp lực từ các nhóm đối lập cực đoan.


6. Không nuôi kỳ vọng quá lớn cho dư luận. Phải thể hiện làm sao để công luận thấy được tầm quan trọng nằm ở việc tiến trình cải cách phải được tiếp tục hơn là vẽ ra cho họ những thành quả dân chủ mỹ mãn xa vời.


7. Khích lệ các nhóm đối lập có trách nhiệm, ôn hòa – những nhóm được xã hội (kể cả quân đội) có thiện cảm chấp nhận như một giải pháp thay thế trong tương lai.


8. Phải tạo dựng được một cảm giác chung rằng dân chủ hóa là tiến trình tự nhiên và tất yếu trong quá trình phát triển, kể cả khi vẫn còn một số bộ phận không mong muốn.


II. Bộ số 2: Dành cho các nhà dân chủ hóa ở phía đối lập trong dạng thức Thay thế-lật đổ [ii]


1. Tập trung chú ý vào tính bất chính đáng hoặc tính chính đáng bất minh của chính thể độc tài – điểm yếu nhất của chính thể. Tấn công vào các vấn đề gây bất bình rộng lớn như tham nhũng, sự tàn bạo. Nhưng, nếu hiệu năng của chính quyền còn tốt (đặc biệt là về kinh tế) thì những tấn công đó sẽ không hiệu quả. Song, một khi hiệu năng của nó bị suy thì việc làm nổi lên tính bất chính đáng sẽ là đòn bẩy quan trọng duy nhất trong việc phế truất nó.


2. Giống như các lãnh đạo dân chủ, các lãnh đạo độc tài cũng có những hiềm khích, bất hòa với bộ phận đã từng ủng hộ họ. Phải khuyến khích những nhóm bất mãn như thế ủng hộ dân chủ như một giải pháp thay thế cho chính thể hiện tại. Phải hết sức nỗ lực thu nạp các doanh nhân cao cấp, giới trung lưu, các nhân vật ảnh hưởng về tôn giáo, các lãnh đạo chính trị, kể cả những nhân vật đã tham gia tạo dựng và duy trì chính thể độc tài. Hình ảnh của phía đối lập càng có sắc thái “đáng tôn trọng” và có “trách nhiệm” thì khả năng thu nhận thêm được sự ủng hộ càng lớn.


3. Vận động, gây thiện cảm, cải hóa, chuẩn bị tinh thần dân chủ cho giới tướng lĩnh. Vì như đã phân tích, chế độ sụp đổ hay không phụ thuộc vào thái độ của quân đội (ủng hộ hay phản đối hay trung lập), vì vậy sự ủng hộ của quân đội rất quan trọng khi khủng hoảng xảy ra. Nhưng điều quí vị cần nhất là quân đội không muốn bảo vệ chế độ nữa.


4. Phải thực hành và truyền bá tinh thần bất bạo động. Đó là một trong những nguyên tắc quan trọng để có thể thu phục lực lượng an ninh: binh lính, cảnh sát không bao giờ có thiện cảm với những người ném chai xăng, gạch đá vào họ.


5. Tận dụng mọi cơ hội để thể hiện sự đối lập với chính thể, kể cả tham gia vào những cuộc bầu cử do chính quyền tổ chức.


6. Xây dựng các liên hệ với giới báo chí quốc tế, các tổ chức nhân quyền quốc tế, các hiệp hội liên quốc gia như các tổ chức tôn giáo. Đặc biệt, cần huy động sự ủng hộ từ Hoa Kỳ. Các dân biểu liên bang Hoa Kỳ luôn tìm các phong trào, sự kiện có tính đạo đức để gia tăng hình ảnh cho bản thân họ và kình địch với giới hành pháp. Cần giới thiệu và cung cấp cho họ các tài liệu, hình ảnh về phong trào và các hoạt động của quí vị.


7. Tăng cường tình đoàn kết giữa các nhóm đối lập. Hãy nỗ lực tạo ra những tổ chức, cơ chế điều phối chung để gia tăng sự hợp tác giữa các nhóm. Đây là một vấn đề nan giải. Hãy lưu ý: các lãnh đạo độc tài thường là các tay lão luyện trong việc gây chia rẽ cho đối lập. Một phép thử tài năng lãnh đạo dân chủ của quí vị là khả năng vượt qua được các khó khăn đó và đảm bảo được sự đoàn kết cho các nhóm đối lập. Hãy nhớ lời Gabriel Almond: “Lãnh đạo vĩ đại là người tạo được liên minh rộng lớn.”


8. Phải chuẩn bị để lấp được thật nhanh khoảng trống quyền lực do sự sụp đổ của chế độ độc tài tạo ra. Bằng cách: đưa ngay lên nhà lãnh đạo có thiên hướng dân chủ, có tài biểu đạt, và được quần chúng thiện cảm; nhanh chóng tổ chức bầu cử để tạo tính chính đáng cho chính quyền mới; và xúc tiến xây dựng ngay tính chính đáng trên trường quốc tế bằng các quan hệ, tương tác với các tổ chức liên quốc gia, Hoa Kỳ, EU và giáo hội Công giáo. Cần chú ý: trong số các đối tác đồng minh của quí vị cũng có những thành phần muốn dựng lên một chính thể độc tài mới; quí vị cần âm thầm chuẩn bị, tổ chức những người ủng hộ dân chủ để đối phó thành công với ý tưởng phản dân chủ đó.


(Myron Weiner cũng đưa ra những lời khuyên tương tự trong trường hợp này: 1. Phải huy động được sự phản kháng chính thể độc tài ở mức độ rộng lớn và bất bạo động. 2. Tìm kiếm ủng hộ từ bộ phận trung dung và, nếu cần, cả từ cánh hữu thủ cựu. 3. Kìm chế bộ phận tả, không để họ áp đảo, kiểm soát phong trào. 4. Vận động giới quân nhân. 5. Tạo được thiện cảm từ giới truyền thông phương Tây và Hoa Kỳ. – Emperical Democratic Theory and the Transition from Authoritarianism to Democracy, PS 20, 1987, trang 866.)


III. Bộ số 3


Bộ 3a: dành cho các nhà dân chủ hóa nằm trong chính quyền độc tài ở dạng thức Hóa thế  [iii]


1. Tuân thủ bộ hướng dẫn số 1 (dành cho chuyển hóa). Trước tiên phải cách ly và làm suy yếu các phần tử cứng đầu (1a), rồi củng cố sự vững chắc của quí vị trong chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị.


2. Như bộ hướng dẫn số 1 đã chỉ, quí vị cũng phải chủ động nắm vững và kiểm soát được mọi cơ hội, biến động trong tiến trình và cần nhượng bộ chủ động, gây bất ngờ cho cả phía đối lập và nhóm cứng đầu nhưng không bao giờ được nhượng bộ vì bị đối lập ép buộc công khai.


3. Phải đảm bảo có được sự bảo trợ từ các tướng lĩnh hàng đầu hoặc từ các lãnh đạo an ninh cao cấp cho việc tiến hành đối thoại, đàm phàn.


4. Hãy làm tất cả những gì có thể để gia tăng vị thế, thẩm quyền và củng cố tính chất ôn hòa của đối tác quan trọng phía đối lập đang thực hiện đàm phán với quí vị.


5. Xây dựng các kênh tiếp xúc tin cậy, kín đáo “sau sân khấu” với các lãnh đạo đối lập để bàn về các vấn đề quan trọng bậc nhất.


6. Nếu đàm phán thành công, quí vị gần như đã ở bên phía đối lập. Quan tâm hàng đầu lúc này là phải tạo được các đảm bảo, an toàn cho các quyền của bên đối lập và các nhóm có liên đới với chính quyền độc tài (ví dụ, quân đội). Tất cả mọi thứ khác đều nên giải quyết trên tinh thần đàm phán.


Bộ 3b: dành cho các nhà dân chủ hóa ở phía đối lập trong dạng thức Hóa thế  [iv]


1. Sẵn sàng tinh thần để huy động lực lượng ủng hộ khi các cuộc biểu tình có khả năng làm suy yếu nhóm cứng đầu (1a) trong chính quyền độc tài. Nhưng nếu liều lượng tuần hành, biểu tình quá nhiều lại có nguy cơ gia tăng sức mạnh cho nhóm cứng đầu, làm yếu vị thế của nhóm chủ xướng đàm phán trong chính quyền và làm giới trung lưu lo ngại về bất ổn, rối loạn.


2. Hãy ôn hòa, tiết chế. Cần ứng xử như những chính khách.


3. Sẵn sàng tinh thần để đối thoại và, khi cần, nhượng bộ trên mọi vấn đề, trừ việc tổ chức bầu cử tự do và công bằng. [v]


4. Quí vị cần thừa nhận một thực tế là xác suất chiến thắng của quí vị vẫn cao trong các cuộc bầu cử ban đầu do chính quyền tổ chức và việc quí vị không tham gia sẽ gây thêm nhiều phức tạp cho việc điều hành của quí vị sau này.


Bộ 3c: dành cho các nhà dân chủ hóa ở cả hai phía, đối lập và chính quyền độc tài, trong dạng thức Hóa thế  [vi]


1. Điều kiện chính trị thuận lợi cho việc đàm phán để chuyển đổi thể chế không bao giờ kéo dài hay chờ đợi. Hãy nắm ngay lấy cơ hội có thể và nhanh chóng cùng giải quyết những vấn đề hệ trọng.


2. Phải ý thức được tương lai chính trị của quí vị và của cả đối tác của quí vị phụ thuộc hoàn toàn vào việc có đạt được thỏa thuận về sự chuyển đổi sang dân chủ không.


3. Phải làm tắt được các yêu sách (trong nội bộ của quí vị) có nguy cơ trì hoãn đàm phán hoặc đe dọa tới lợi ích chính yếu của đối tác đàm phán.


4. Phải tin tưởng thỏa thuận mà quí vị đạt được là giải pháp khả dĩ duy nhất; những nhóm cứng đầu (1a) và cực đoan (2a) có thể lên án, phản đối nhưng họ không có khả năng đưa ra được giải pháp khác có sự ủng hộ rộng rãi.


5. Mỗi khi băn khoăn, không chắc chắn, hãy thỏa hiệp.


IV. Bộ số 4: dành cho việc xử lý các tội ác của chính thể độc tài [vii]


1. Nếu chuyển đổi ở dạng thức chuyển hóa hoặc hóa thế, quí vị đừng cố truy tố các quan chức độc tài vì những xâm hại nhân quyền trước đây của họ. Tổn phí chính trị của những hành động như thế sẽ lớn hơn bất cứ giá trị gì đạt được.


2. Nếu là thay thế-lật đổ và nếu quí vị cảm thấy việc truy tố là cần thiết về chính trị và đúng đắn về đạo đức, thì hãy truy tố nhanh gọn các lãnh đạo cao nhất của chính thể độc tài (tốt nhất là trong năm đầu tiên của chế độ mới). Và quí vị phải cho mọi người hiểu rõ: cấp trung và thấp của chế độ cũ sẽ không bị truy tố.


3. Hãy tạo dựng một cơ chế để có thể tổng hợp, phân tích, đánh giá một cách thấu đáo và bình tĩnh các tội ác đã xảy ra trong thời độc tài.


4. Quí vị phải nhận thức được rằng cả hai giải pháp “truy tố và trừng phạt” hay “tha thứ rồi quên đi” đều có những khiếm khuyết nghiêm trọng và giải pháp ít mất lòng nhất có thể là: đừng truy tố, đừng trừng phạt, đừng tha thứ và trên hết, đừng quên lãng.


V. Bộ số 5: dành cho việc kiểm soát quân đội và xây dựng quân đội chuyên nghiệp [viii]


1. Phải nhanh chóng đưa ra ngoài hoặc cho về hưu tất cả các sỹ quan có nguy cơ thay lòng, kể cả các nhân vật từng ủng hộ mạnh nhất cho độc tài lẫn các nhân vật có tư tưởng cải cách có thể đã từng giúp quí vị. Nhóm thứ hai này thường chóng chán dân chủ và thích can dự vào chính trị.


2. Trừng phạt nặng tay các tướng lĩnh dám âm mưu lật đổ chế độ mới, “sát nhất nhân vạn nhân cụ” [ix].


3. Hệ thống chỉ huy và trách nhiệm trong quân đội phải được củng cố và làm cho thật rõ ràng. Loại bỏ mọi điểm mập mờ, bất thường và khẳng định rõ tổng chỉ huy quân đội thuộc về nghạch dân sự – người đứng đầu chính quyền.


4. Cắt giảm mạnh số lượng quân ngũ. Một quân đội đã từng vận hành chính quyền thường có qui mô quá lớn và có quá nhiều sỹ quan.


5. Nếu giới sỹ quan còn tại ngũ cảm thấy thiếu thốn, khó khăn, hãy dùng ngân sách tiết kiệm được từ cắt giảm quân ngũ để tăng lương, thêm trợ cấp, cải thiện cuộc sống cho họ. Các phí tổn đó sẽ được bồi hoàn hậu hĩnh bằng những thành công khác.


6. Hãy hướng lực lượng quân đội vào các nhiệm vụ quốc phòng. Một lý do rất hợp lý là cần phải giải quyết xung đột với ngoại bang. Thiếu vắng mối đe dọa từ nước ngoài dễ làm cho quân đội của quí vị mất đi sứ mạng chính đáng cao cả và khiến họ lãng tâm nhiều hơn sang lĩnh vực chính trị. Cần phải cân bằng cho được giữa các lợi ích từ việc không có mối đe dọa từ bên ngoài với các thiệt hại từ bất ổn nội tại.


7. Đồng thời với việc định hướng cho quân đội vào các mục tiêu quân sự, phải cắt giảm mạnh lực lượng quân đội đóng tại hoặc gần thủ đô. Điều chuyển số đó về vùng biên hoặc tới những nơi xa xôi, vắng người.


8. Cấp cho quân đội đồ để chơi. Mua cho họ xe tăng, máy bay, xe bọc thép, súng pháo đời mới, hấp dẫn và các thiết bị điện tử cao cấp (tàu chiến không quan trọng lắm, còn hải quân thì không làm đảo chính được). Các quân nhân sẽ sung sướng và bận bịu (phải nghiên cứu, phải học cách dùng…) với những thứ đó. Khi quí vị biết chơi tốt những lá bài kiểu như thế và tạo được ấn tượng tốt đẹp ở Washington, quí vị sẽ có thể chuyển được nhiều chi phí sang cho những người đóng thuế ở Mỹ. Ngoài ra, quí vị còn nhận được thêm một điều lợi: cảnh báo giới quân nhân phải xử sự cho đúng nếu muốn tiếp tục có những đồ chơi như thế, vì các nhà lập pháp Mỹ không mấy thiện cảm với việc quân đội can dự vào chính trị.


9. Binh lính, giống như mọi người, đều thích được thích. Hãy tận dụng mọi cơ hội để gắn bó hình ảnh của quí vị với các quân nhân. Dự các sự kiện, các buổi lễ của quân đội; trao tặng huy chương cho họ; ca ngợi binh sỹ như biểu tượng cho những giá trị cao cả nhất; và nếu phù hợp với hiến pháp, hãy xuất hiện trong một bộ đồ lính.


10. Tổ chức và duy trì một tổ chức chính trị có khả năng huy động lực lượng ủng hộ tràn ra đường phố của thủ đô bất kỳ lúc nào có hành động đảo chính.


(The Economist, ra ngày 29/08/1987, cũng đưa ra một số tư vấn cho các lãnh đạo của chế độ dân chủ mới trong việc xử sự với quân đội: 1. Hãy tha thứ những lỗi lầm cũ hoặc ít nhất không cố trừng phạt,… 2. Phải tự tin và khéo léo,… 3. Hành xử đại lượng,… 4. Làm cho họ bận bịu,… 5. Giúp, dạy họ tôn trọng dân chủ,… 6. Kéo họ về phía bạn – nhưng đừng hứa hẹn nhiều hơn khả năng có thể của bạn,… 7. Nếu tất cả những điều trên không hiệu quả, giải tán quân đội.)


(Còn 1 kì)



© Phạm Hồng Sơn & pro&contra


 




[i] Trang 141-142.




[ii] Trang 149-151.




[iii] Trang 162.




[iv] Trang 162.




[v] Bản thân Huntington cũng cảnh báo khiếm khuyết của điểm (bầu cử) này. Một học giả khác trẻ hơn của Hoa Kỳ, Fareed Zakaria, đã phê phán điểm này rất kỹ trong bài luận The Rise of Illiberal Democracy (1997) (bản tiếng Việt: Sự trỗi dậy của các nền dân chủ phi tự do)  hoặc trong sách The Future of Freedom (2003).




[vi] Trang 162-163.




[vii] Trang 231.




[viii] Trang 251-252.




[ix] Nguyên văn: Ruthlessly punish the leaders of attempted coups against your new government, pour décourager les autres.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 17, 2013 15:00

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.