Phạm Thị Hoài's Blog, page 23
February 27, 2014
Đấu tranh vì lương tâm: Phương pháp của Gandhi (4)
Joan V. Bondurant
Phan Trinh dịch
2.
ĐẤU TRANH CỦA NÔNG DÂN BARDOLI CHỐNG LẠI CHÍNH QUYỀN BOMBAY [i]
Ngày tháng, thời gian kéo dài, địa điểm:
1. Chính thức bắt đầu ngày 12/2/1928, kết thúc ngày 4/8/1928
2. Phong trào liên tục trong 6 tháng.
3. Đấu tranh diễn ra tại xã Bardoli trong Huyện Suraat, Bombay.
Mục tiêu:
(1) Mục tiêu cấp bách và duy nhất của cuộc đấu tranh: Thuyết phục chính quyền thực hiện cuộc điều tra khách quan về vụ tăng thuế đất tại Bardoli.
(2) Nguyên nhân bất mãn: thông qua guồng máy tùy tiện và độc đoán tại Sở Thuế, chính quyền Bombay trong năm 1927 đã tăng thuế đất tại Bardoli lên mức 22%, và khi áp dụng thực tế có trường hợp tăng đến 60%. (Trong khi đó, tòa án dân sự lại mất quyền xét xử các sai phạm về định mức thuế bởi một Đạo luật Lập pháp đặc biệt.)
(3) Phản biện của nông dân Bardoli:
(a) Mức tăng thuế là không công bằng
(b) Mức tăng thuế được đưa ra tùy tiện, không dựa trên một điều tra hoàn chỉnh và phù hợp nào.
(c) Báo cáo của nhân viên Sở thuế không chính xác.
(d) Việc tăng thuế không có lý do chính đáng.
(4) Ý nghĩa rộng của phong trào: Mặc dù chiến dịch chỉ giới hạn vào một mục tiêu ở địa phương, nhưng Gandhi giải thích rằng tình trạng tương tự cũng xảy ra tại nhiều nơi trên toàn cõi Ấn Độ, và kinh nghiệm tại Bardoli có thể có ảnh hưởng lan rộng. Nhiệm vụ chống lại những sưu thuế bất công là nhiệm vụ chung. Gandhi viết trên tờ Young India (8/3/1928) rằng: “Bất cứ điều gì đánh thức được lương tâm con người về điều sai trái mình làm, bất cứ điều gì cho ta thêm sức mạnh để đấu tranh trong kỷ luật, ôn hòa và giúp ta chung chịu nỗi đau chung đều góp phần đưa chúng ta đến gần hơn với nền độc lập.”
Người tham gia và lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm:
(1) Tổng chỉ chuy chiến dịch: Ông Sardar Vallabhbhai Patel, được dân chúng mời đến Bardoli để lãnh đạo cuộc đấu tranh chống bất công.
(2) Lãnh đạo thứ cấp: Các công nhân xây dựng, gồm cả hai người Hồi giáo từng làm việc với Gandhi tại Nam Phi. Cũng có một số phụ nữ từ huyện khác, trong số có một phụ nữ gốc Parsi đến từ Thành phố Bombay.
(3) Vai trò của Gandhi: Gandhi hỗ trợ chiến dịch thông qua các bài viết của ông trên tờ Young India. Ông đến thăm Bardoli sáu tháng sau khi cuộc đấu tranh bắt đầu, và đặt mình dưới quyền điều động của Sardar Patel.
(4) Những thành viên đấu tranh vì lương tâm tích cực (“tình nguyện viên”): Con số lên đến 250 người, bao gồm người Ấn Độ giáo thuộc đủ mọi đẳng cấp hay không thuộc đẳng cấp nào, những người Hồi giáo, một số ít người Parsi. Cũng có vài ngàn thổ dân Kaliparaj hợp tác với phong trào. Phụ nữ được tham gia tự do và lãnh đạo một số những hoạt động trọng tâm.
(5) Những cảm tình viên và người hợp tác: Hầu hết người dân trong xã (tổng dân số là 87.000 người) cuối cùng đều hợp tác. Lúc đầu cũng có sự lưỡng lự của giới cho vay tiền, những trưởng ấp, trưởng thôn, và cấp dưới của họ, nhưng về sau những người này lại tham gia chiến dịch, trưởng ấp, trưởng thôn quyết định từ chức.
Người tham gia và lãnh đạo hàng ngũ đối phương:
(1) Quan chức tại Sở Thuế
(2) Cảnh sát huyện, được yểm trợ bởi một lực lượng bổ sung gồm những người Pathan (người theo Hồi giáo ở Tỉnh Biên giới Tây Bắc) được điều tới từ Thành phố Bombay (được cho là những kẻ “mạnh-tay”)
(3) Thống đốc Bombay, người tuyên bố rằng vấn đề nằm ở chỗ “liệu có nên thi hành lệnh Hoàng đế nước Anh trên phần lãnh thổ của ngài, hay nên nghe theo yêu sách của một nhóm cá nhân không chính thức. Đó là vấn đề mà chính quyền sẵn sàng giải quyết bằng tất cả mọi sức mạnh có trong tay.”
Tổ chức và chương trình hỗ trợ :
(1) Tổ chức nòng cốt: Bốn trung tâm hỗ trợ được thành lập tại địa bàn.
(2) Tổ chức mở rộng: Với xã Bardoli là tổng hành dinh, tổng cộng có 16 trại đấu tranh vì lương tâm được thành lập tại các làng thôn khác nhau trên địa bàn.
(3) Văn phòng truyền thông: Từ tổng hành dinh, một bản tin hàng ngày được phát hành, bên cạnh những tờ rơi, truyền đơn và các diễn văn của Sardar Patel. Ban đầu, 5.000 bản tin được in ra tại Surat (trung tâm huyện), và được phân phối miễn phí, thông qua các tổ chức đấu tranh vì lương tâm, đến tay nông dân tại Bardoli. Sau đó, số in tăng lên 14.000 để có thể phân phát đến tận những làng xã và thị trấn trong tỉnh. Người ngoài tỉnh có thể đặt mua bản tin.
(4) Hệ thống chỉ đạo chiến dịch: Các chỉ thị cho tình nguyện viên được tổng hành dinh đưa ra và được những người đưa tin truyền đạt đến tình nguyện viên.
(5) Họat động hỗ trợ: Việc quay tơ dệt vải và các hoạt động hỗ trợ an sinh xã hội khác được thực hiện trong suốt chiến dịch, với điểm nhấn là chương trình mọi người mặc áo khadi (áo vải dệt bằng tay). Mọi thành viên đấu tranh vì lương tâm đều mặc áo khadi như đồng phục.
Chuẩn bị hành động:
(1) Hướng dẫn dân chúng về ý nghĩa cuộc đấu tranh: Bài thuyết trình của người lãnh đạo nhấn mạnh đến việc cần giữ kỷ luật và chuẩn bị sẵn sàng đương đầu với gian khó và chấp nhận khắc khổ. Phản ứng của chính quyền được dự đoán trước là sẽ khắc nghiệt, bao gồm cả những biện pháp mạnh như giam tù và tịch thu đất đai.
(2) Tận dụng truyền thông đại chúng: Những bài hát về chiến dịch đấu tranh vì lương tâm được sáng tác và tập dượt. Những cuộc hội họp đông người được tổ chức, trong đó người tham dự cầu nguyện chung, hát những ca khúc đấu tranh và đọc cho nhau nghe những trích đoạn tự truyện của Gandhi.
(3) Thu hút sự tham gia của dân trong xã: Thu thập chữ ký của người dân trong xã cho cam kết đấu tranh vì lương tâm. Nỗ lực chuyển hóa các trưởng xã, trưởng thôn về với chính nghĩa bằng cách thuyết phục họ trở thành người phát ngôn cho nhân dân mình, thay vì làm tay chân cho chính quyền. Bản tin từ những xã lân cận, với những lời chia sẻ và động viên, được lưu truyền rộng rãi.
(4) Liệu trước những bất đồng: Có tài liệu cho thấy sự phản đối từ những người không ký cam kết đấu tranh vì lương tâm. (Sau này, họ có bị tẩy chay về mặt xã hội, nhưng mọi người vẫn thận trọng để không làm họ mất khả năng sinh sống thối thiểu.) Nông dân được chuẩn bị tinh thần để bỏ canh tác trên các mảnh đất có thể còn tranh chấp, do chủ nhân từ ngoài tỉnh mua lại.
Hành động khởi đầu:
(1) Phản đối báo cáo của Sở Thuế về tình hình xã: Sự phản đối được bày tỏ từ giữa năm 1926. Chi nhánh của Đảng Quốc đại địa phương đã cho phổ biến một báo cáo phản biện, cho thấy nông dân không thể đáp ứng được mức thuế điều chỉnh.
(2) Kiến nghị: Một Ủy ban do Đảng Quốc đại thành lập đến gặp và trao kiến nghị cho Nghị viên Phụ trách Thuế vụ thuộc Chính quyền Tiểu bang vào đầu năm 1927.
(3) Hội nghị: Một hội nghị được tổ chức tại Bardoli vào tháng 9/1927, và mọi người đồng ý kiên quyết không trả thêm đồng thuế nào cho khoản gia tăng vừa điều chỉnh.
(4) Patel được mời lãnh đạo cuộc đấu tranh vì lương tâm: Sau khi có sắc lệnh của chính quyền vào ngày 5/1/1927 yêu cầu nhân viên tiến hành thu thuế, Patel đã nghiên cứu tình hình chung và chấp nhận trở thành chủ tịch của hội nghị nông dân, tổ chức vào ngày 4/2.
(5) Patel đề xướng việc trao đổi tin thư với chính quyền: Khi chính quyền phản hồi rằng họ sẽ “không nhượng bộ bất cứ điều gì”, một nghị quyết đã được thông qua vào ngày 12/2, nêu rõ yêu cầu cần mở một cuộc điều tra và cho thấy nông dân sẽ kiên quyết không đóng thuế cho tới khi chính quyền chấp nhận mức thuế cũ là đã đủ, hoặc cho tới khi một toà án độc lập được bổ nhiệm để điều tra toàn bộ tình hình.
Hành động:
(1) Bất hợp tác: Nông dân đóng cửa không tiếp nhân viên thu thuế, hoặc mở cửa cho vào nhưng sau đó đọc to cho họ nghe trích đoạn các diễn văn của Patel, hoặc tìm cách tranh luận để thuyết phục rằng họ không thể thu thuế. Khi cảnh sát được điều tới để phá cửa và tịch thu công cụ sản xuất của nông dân thì nông dân bắt đầu tháo gỡ xe cộ và những nông cụ khác đem giấu mỗi món mỗi nơi.
(2) Vi phạm kỹ thuật: Phụ nữ tình nguyện dựng chòi và cắm trại tại các khu đất đai tranh chấp. Nông dân tiếp tục gieo cấy bất chấp tính cách pháp lý của mảnh đất đã thay đổi.
(3) Chấp nhận bị bắt: Người tình nguyện bám theo nhân viên công vụ bất cứ nơi đâu, cắm trại ngay trên đường, ngay bên ngoài các chòi chỉ huy của nhân viên công vụ. Khi bị bắt, họ liền được thay thế bằng những người khác “cho tới khi chính quyền mệt mỏi với việc bắt bớ mới thôi.”
(4) Từ chức, từ nhiệm: Những viên chức nhỏ thuộc chính quyền cấp xã, ấp, thôn được thuyết phục để bày tỏ sự bất đồng. Một số Nghị sĩ của Hội đồng Lập pháp Bombay đã từ nhiệm để biểu lộ đồng tình với người đấu tranh.
(5) Phản đối ở cấp quốc gia: Ông Chủ tịch Hội đồng Lập pháp Trung ương đã trình bày thông tin và dữ liệu cho vị Toàn quyền được biết và đóng góp rất lớn cho quỹ đấu tranh đấu tranh vì lương tâm, ông cam kết đóng góp tài chính hàng tháng.
(6) Đối đãi tử tế với đối phương: Nhân viên thu thuế được cung ứng mọi nhu cầu “với giá thị trường”. Patel tiếp tục nhắc nhở mọi người giữ gìn bất bạo động và không thù ghét đối phương, ông giải thích rằng họ có thể “làm tan chảy ngay cả trái tim chai đá của một quan chức độc đoán.” Mức phí miễn dịch vụ, vốn không gia tăng, vẫn được trả đầy đủ. Những người cầm đầu đấu tranh nhắc mọi người đối xử với lực lượng an ninh “tay to” và đặc biệt là các viên chức theo đạo Hồi như những người bạn.
(7) Tẩy chay xã hội: Tiến hành với sự kiềm chế. Những ai bị phát hiện là rời bỏ đường lối chung sẽ được vận động để trả một khoản tiền “trả trước thay vì trả sau”, và trong vài trường hợp, một số đã dùng khoản đóng thuế để góp vào quỹ đấu tranh vì lương tâm.
(8) Từ bỏ các chiến thuật bạo động: Những đề xuất có tính gây hấn như dựng hàng rào dọc đường hay đâm thủng bánh xe đã bị bác bỏ dứt khoát.
(9) Không-sở-hữu cũng là đấu tranh: Mọi vật dụng tiện nghi đều được loại bỏ, ngay cả chậu vại bằng đồng thau, tất cả vì mục tiêu “… không cho chính quyền chỗ đặt tay.”
(10) Điều chỉnh yêu sách: Vào tháng 7/1927, Patel được mời hội ý với Thống đốc. Chính quyền tiếp tục đòi hỏi dân đóng đủ thuế trước khi họ đồng ý mở cuộc điều tra, có thể sẽ do một nhân viên Thuế vụ tiến hành, cùng với một nhân viên Tòa án. Patel chấp nhận nguyên tắc về một cuộc điều tra chính thức, nhưng với điều kiện cuộc điều tra phải khách quan trong bản chất và đại diện của người dân phải được mời cung cấp bằng chứng. Một số các điều kiện khác cũng được nêu ra:
(a) Các tù nhân bị bắt khi đấu tranh vì lương tâm phải được trả tự do.
(b) Phục hồi lại toàn bộ đất đai bị tịch thu.
(c) Trả tiền bằng giá thị trường cho mọi công cụ và tài sản cơ giới bị tịch thu.
(d) Khoan hồng và chấm dứt mọi vụ sa thải người và trừng phạt xuất phát từ cuộc đấu tranh.
Patel tái khẳng định ý muốn của những người đấu tranh vì lương tâm là đạt được một giải pháp danh dự cho cả chính quyền lẫn dân chúng.
(11) Đạt được thỏa thuận: Vào ngày 4/8/1927, một kế hoạch chung được thỏa thuận giúp người đấu tranh đạt được tất cả những đòi hỏi căn bản của mình và cùng lúc giữ được thể diện cho chính quyền.
Phản ứng của đối phương:
(1) Chiếm đất: Chiếm đoạt đất đai quy mô lớn bù lại cho việc không trả thuế. Có trên 1.500 Thông báo Tịch biên Tài sản được ghi nhận.
(2) Tịch thu công cụ: Cảnh sát, với lực lượng hỗ trợ từ Pathan, dùng vũ lực để tịch thu tài sản cá nhân, kể cả những thứ như dụng cụ bếp núc, chiếu, xe kéo, trâu bò.
(3) Bắt người: Bắt người quy mô lớn với tội danh cản trở thi hành pháp luật và vi phạm hình sự.
(4) Bạo động: Diễn ra liên tục các vụ cảnh sát đánh người gây thương tích cá nhân.
(5) Ngụy tạo bằng chứng: Lừa phỉnh để nông dân đóng thuế bằng cách nói rằng một người tiếng tăm nào đó trong xã đã đóng thuế. Có trường hợp một cán bộ thuế tự trả thuế và ép nông dân nhận biên lai (giả vờ như nông dân tự trả), rồi dùng họ làm ví dụ điển hình.
(6) Tuyên truyền chống lại những người tổ chức đấu tranh: Nhiều tin đồn lan ra rằng dân trong xã bị khủng bố bởi những kẻ xấu bên ngoài nên không dám đóng thuế.
(7) Loan báo miễn phạt nếu trả trễ: Vào những tháng cuối chiến dịch đấu tranh, chính quyền cho thu thuế trễ, bằng cách hứa sẽ không phạt tiền nếu nông dân trả thuế, tuy trễ nhưng vẫn còn trong thời gian quy định.
(8) Phổ biến thông tin phản tuyên truyền: Văn phòng Thông tin Tiểu bang cung cấp tờ rơi, Chỉ huy Đội Thu thuế Huyện chỉ đạo việc phân phát tờ rơi đến người dân.
(9) Dùng những nhóm thiểu số: Đưa những người theo đạo Hồi vào làm nhân viên công vụ và cảnh sát để chia rẽ nông dân trên nền tảng phe phái tôn giáo; tạo áp lực đối với người gốc Parsi và Bania (chuyên cho vay tiền). Người Bania sau đó khuyến dụ người khác giữ tiền mặt, để dễ tịch thu, và cách này trên thực tế đã làm tròn số thuế phải đóng.
(10) Nhượng bộ chung cuộc: Theo diễn biến của chiến dịch, người gốc Pathan được đưa ra khỏi lực lượng cảnh sát. Một số làng xã được sắp xếp lại sau khi mức thuế được hạ xuống. Yêu cầu tổ chức điều tra cuối cùng được đáp ứng sau khi người đấu tranh bất bạo động cam kết sẽ đóng thuế khi các điều kiện liên quan được thực hiện. Lời lẽ trong bản thỏa thuận cho phép chính quyền giữ được thể diện.
Kết quả:
(1) Ủy ban Điều tra (được biết đến với tên Ủy ban Broomfield) được chỉ định, qua đó thực hiện yêu cầu đầu tiên và duy nhất của cuộc đấu tranh vì lương tâm. Ủy ban này điều tra tình hình ở Bardoli và địa bàn Chorasi lân cận, từ tháng 11/1928 đến tháng 3/1929. Đại diện của các làng xã được tự do lên tiếng. Ủy ban sau này báo cáo rằng dân chúng “tuy không thiếu gì những phàn nàn, nhưng hoàn toàn không có thái độ thù hận…”
(2) Trả lại đất bị cướp: Đất bị cướp được trả lại cho chủ nhân. Chỉ huy Đội Thu thuế Huyện, người đã từng tuyên bố đất bán rồi không bao giờ thu hồi lại được, được thay thế bởi một Chỉ huy khác, người đã hoàn tất việc giao trả đất cho dân.
(3) Mọi người đấu tranh bất bạo động đều được trả tự do.
(4) Các viên chức nhỏ từ chức trong thời gian đấu tranh được phục hồi vị trí.
(5) Điều chỉnh mức tăng thuế: Ủy ban Điều tra đề nghị mức tăng thuế đất không quá 6,25 phần trăm. Nhưng trong thỏa thuận cuối cùng về mức thuế mới, những yếu tố mà Ủy ban cho là mình không có đủ thẩm quyền quyết định cũng được đưa ra cứu xét theo yêu cầu của nông dân, và kết quả là gần như không có mức tăng thuế đất nào được đưa ra tại Bardoli nữa.
(6) Sự hợp tác chặt chẽ giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo, giữa người cho vay và nông dân, và giữa những bộ phận khác nhau trong cộng đồng. Thực vậy, hiệu ứng lan rộng từ Bardoli đã tỏa đi rất xa. Theo nhận xét của Nehru: “thành công thực sự của chiến dịch này … nằm ở ảnh hưởng mà nó có được đối với nông dân toàn cõi Ấn Độ. Bardoli trở thành tín hiệu và biểu tượng của hy vọng, của sức mạnh và của chiến thắng đối với nông dân Ấn Độ.”
***
ĐÚC KẾT CHIẾN DỊCH BARDOLI
Cuộc đấu tranh ở Bardoli là ví dụ điển hình cho một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đầy đủ, diễn ra gần như theo đúng từng bước và tuân thủ những luật lệ nền tảng được Gandhi đề ra trong phương pháp đấu tranh vì lương tâm.
Đòi hỏi chính đáng, hay “sự thật”, ở Bardoli là chính quyền phải mở một cuộc điều tra khách quan về việc tăng thuế đất. Đây là mục tiêu mà người tham gia đấu tranh theo đuổi đến cùng, không nhượng bộ. Họ cho thấy sự chân thành và kiên định thông qua việc chấp nhận những hình phạt như bắt bớ và tịch thu đất đai – đó là những hình phạt được áp dụng khi họ từ chối nộp thuế chiếu theo luật pháp.
Hành vi bất bạo động là đặc thù của chiến dịch. Những chiến thuật thuyết phục được áp dụng, bao gồm cả yếu tố có tính ép buộc là tẩy chay xã hội. (Vì điều này, chính quyền cho rằng bên đấu tranh đã đe dọa “tuyệt thông” với ai không ủng hộ.) Tuy nhiên, những hành vi trả đũa rõ ràng đã được giữ ở mức tối thiểu và những người lãnh đạo cuộc đấu tranh cho thấy rất rõ họ sẵn sàng đón nhận bất cứ người nào muốn tham gia phong trào, vào bất kỳ giai đoạn nào, cả những người trở lại sau một thời gian rời bỏ hàng ngũ. Hành động đấu tranh nhắm vào đối phương là bất hợp tác và bất bạo động ở mức cao độ. Những nhu cầu cơ bản vẫn được cung ứng cho nhân viên nhà nước, và những đề nghị gây tổn hại vật chất (như chọc thủng bánh xe) đã bị bác bỏ.
Biện pháp mạnh đã chỉ được tiến hành vào lúc những nỗ lực không ngừng nhằm thương lượng, kiến nghị, và các phương pháp hợp hiến khác đều thất bại, không giải quyết được nỗi bất bình nghiêm trọng trong dân.
Công tác chuẩn bị tiến hành biện pháp mạnh bao gồm việc thường xuyên hướng dẫn người tham gia về bổn phận của người đấu tranh vì lương tâm. Không có chứng cớ nào cho thấy chiến dịch phải dùng đến tuyệt thực như một cách thanh tịnh bản thân. Bằng hình thức cầu nguyện, đọc sách chung và hát cộng đồng, có thể thấy việc chuẩn bị tinh thần cho người đấu tranh được đặt trên nền tảng đạo đức rõ rệt.
Trong giai đoạn khởi động phong trào, các cuộc mít tinh lớn thường được tổ chức rộng rãi. Nhưng tuần hành hoặc biểu tình công cộng diễn ra không nhiều, vì trong trường hợp Bardoli đại đa số người dân đều ủng hộ mục tiêu của cuộc đấu tranh vì lương tâm. Nghị quyết đưa ra ngày 12/2 được xem như tối hậu thư của cuộc đấu tranh Bardoli, vì nó loan báo quyết tâm không đóng thuế cho tới khi chính quyền bổ nhiệm một tòa án độc lập, hoặc như một hướng giải quyết khác, chính quyền chấp nhận số tiền thuế đất cũ, trước khi được điều chỉnh, là đầy đủ.
Tẩy chay kinh tế chỉ giữ một vai trò rất nhỏ trong chiến dịch, và mang hình thức từ chối cung cấp cho các quan chức chính quyền và những người chống đối khác những sản phẩm vật dụng và dịch vụ không thuộc loại thiết yếu.
Cuộc đấu tranh vì lương tâm tại đây phần lớn có hình thức bất hợp tác. Chỉ có một hành vi bất tuân dân sự đáng chú ý là việc tiếp tục cày cấy trên mảnh đất đã bị tịch thu, làm như là đất đai kia vẫn chưa hề đổi chủ. Xâm nhập trái phép có tính biểu tượng cũng được thực hiện – nhất là do những phụ nữ tự nguyện – bằng cách xây nhà chòi và cắm trại trên những miếng đất bị tịch thu trái phép.
Bước cuối cùng trong phong trào nhắm trực diện vào chính quyền, tức đứng ra thay thế chức năng của chính quyền, chỉ có mặt phần nào trong chiến dịch Bardoli. Dĩ nhiên, ủy ban điều hành đấu tranh vì lương tâm điều động hầu hết sinh hoạt của người dân toàn địa bàn, nhất là trong những tháng cuối chiến dịch. Khi một quan chức chính quyền muốn mua, muốn dùng một dịch vụ nào đó trên địa bàn, thì họ phải có phép của ban chỉ huy đấu tranh vì lương tâm. Yếu tố này của chiến dịch đã trở thành một mối đe dọa đáng báo động dành cho chính quyền đang ở thế đối lập với dân chúng. Câu hỏi mà vị Thống đốc đặt ra, rằng không biết nghe “lệnh Vua” hay nghe “yêu sách của một nhóm người không chính thức” là một câu hỏi rất nặng ký.
So với những chuẩn mực của đấu tranh vì lương tâm, chiến dịch ở Bardoli có thể nói đã tuân theo với sự nhất quán cao độ. Phong trào được chính những người có quyền lợi liên quan trực tiếp duy trì và vận hành. Tính chủ động cũng được những người đấu tranh giữ gìn, cho tới khi có thỏa thuận cuối cùng. Phản ứng của chính quyền thường chỉ đi sau một bước thành công của cuộc đấu tranh. Điều này có thể thấy được qua các biện pháp tuyên truyền chống phá của chính quyền. Dĩ nhiên, một số động thái bất hợp tác đòi hỏi chính quyền phải đi bước trước. Khi chính quyền ra thông báo cuối cùng yêu cầu trả thuế hoặc bị tịch thu đất đai thì dân chúng đã phản ứng lại bằng cách bất hợp tác. Điều này được thực hiện thông qua việc gửi thư từ chối, kết hợp với các tranh luận để thuyết phục, nhắm vào các cá nhân quan chức, kêu gọi họ từ nhiệm, thay vì cố sức thực hiện việc chiếm đất.
Những đòi hỏi của cuộc đấu tranh được giữ ở mức tối thiểu, và đang khi cuộc đấu tranh diễn ra, những đòi hỏi này cũng được điều chỉnh – trong trường hợp này, điều chỉnh theo hướng tăng thêm – bao gồm cả đòi hỏi trả lại các khoản tiền phạt tích lũy trong thời gian đấu tranh.
Quảng bá là một phần rất quan trọng của chiến dịch (trong cuộc đấu tranh tại Vykom, điều này lại thiếu). Việc quảng bá rộng rãi cuộc đấu tranh không chỉ bồi đắp sự tự tin của nông dân tại Bardoli, và góp phần kiểm soát những hoạt động chung, mà còn giúp phong trào thu hút được sự ủng hộ lớn, về cả ngân quỹ lẫn sự ủng hộ tinh thần từ những quận huyện lân cận, và cuối cùng là từ đồng bào cả nước.
Việc liên tục đánh giá lại tình hình và xem xét những khuyết điểm nội bộ được thực hiện bởi những lãnh tụ tài ba của phong trào, đặc biệt là của Sardar Patel, một bậc thầy về tổ chức. Chiến thuật mới luôn được đưa ra khi tình hình cụ thể đòi hỏi. Phong trào đã không hề né tránh hay che đậy các điểm yếu nội bộ trong bất cứ lúc nào. Vấn đề tế nhị là duy trì sự thống nhất trong hành động giữa các cộng đồng tôn giáo khác nhau, đẳng cấp xã hội khác nhau, ngành nghề khác nhau trong dân chúng Bardoli không hề bị xem nhẹ. Phe đối phương tìm cách kích động các mâu thuẫn này bao nhiêu thì càng đòi hỏi những biện pháp hóa giải xuất sắc bấy nhiêu. Đặc tính tiến bộ của đấu tranh vì lương tâm có thể thấy được khi phong trào chuyển từ việc nhấn mạnh đến “vượt qua sợ hãi” vào giai đoạn đầu, qua “hòa bình” và đoàn kết ở những giai đọan sau. Sức mạnh của nông dân tham gia đã tăng lên không ngừng thông qua việc họ hợp tác với nhau.
Sardar Patel, lãnh tụ phong trào, thường xuyên loan báo ước muốn được ngồi xuống thương lượng với chính quyền. Tuy nhiên, chưa khi nào ông từ bỏ những đòi hỏi then chốt của phong trào. Khi thỏa thuận cuối cùng đạt được, Patel chấp thuận lá thư của chính quyền yêu cầu rằng thuế gốc phải được trả trước khi mở cuộc điều tra. Lời lẽ viết trong thỏa thuận, rằng “các điều kiện phải được đáp ứng” cho phép chính quyền giữ thể diện, nhưng vẫn đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của người đấu tranh. Cuối cùng, đã có một thỏa thuận toàn phần giữa lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm và chính quyền về một cuộc điều tra độc lập theo đòi hỏi của nông dân.
***
3.
ĐẤU TRANH CỦA CÔNG NHÂN AHMEDABAD [ii]
Ngày tháng, thời gian kéo dài, địa điểm:
(1) Từ tháng 2 đến tháng 3, năm 1918.
(2) Thời gian kéo dài chính thức là 25 ngày.
(3) Tranh chấp diễn ra giữa những công nhân dệt may và chủ nhân nhà máy tại Ahmedabad ở Bombay.
Mục tiêu:
(1) Bối cảnh: Tranh chấp – về số tiền trợ cấp “giá cả đắt đỏ” cần trả cho công nhân dệt may – bắt đầu với việc hủy bỏ một khoản hỗ trợ đặc biệt dành cho công nhân (vào tháng 8/1917) để họ tiếp tục làm việc trong thời gian dịch bệnh lan tràn. Khoản “hỗ trợ dịch bệnh” này, có trường hợp lên đến 70 hay 80 phần trăm lương công nhân, được tiếp tục trả sau khi bệnh dịch đã giảm. Vào tháng 1/1918, khi giới chủ nhân nhà máy cho biết ý định hủy bỏ khoản hỗ trợ này, công nhân đã đề nghị được tăng lương, ít nhất là 50 phần trăm so với lương vào tháng 7/1917, như một hình thức tiếp tục trợ cấp giá sinh hoạt đắt đỏ. Công nhân cho thấy giá cả đã tăng vọt thế nào, lên đến hai hoặc bốn lần giá cũ.
Gandhi lần đầu tiên biết được tình hình vừa kể là do một trong các chủ nhân nhà máy thông báo, người này nhờ ông can thiệp. Ông đến Ahmedabad và bắt đầu cuộc điều tra riêng. Cả hai bên đồng ý đưa tranh chấp ra trước một ban trọng tài, mỗi bên sẽ có ba người đại diện trong ban. Gandhi là một trorng những người được ủy nhiệm thay mặt cho công nhân.
Việc phân xử chưa đi đến đâu (và Gandhi cũng có việc tạm rời Ahmedabad) thì công nhân tại một số nhà máy, vì sợ bị giới chủ nhân cấm đi làm, tổ chức đình công. Vì điều này, cuộc phân xử đổ bể, giới chủ nhân tuyên bố sẽ không tuân thủ kết luận gì của ban trọng tài, và sẽ sa thải tất cả mọi công nhân nếu họ không chịu coi mức tăng 20 phần trăm như trợ cấp đắt đỏ.
Khi Gandhi điều tra thêm về cuộc sống công nhân và giá sinh hoạt, ông kết luận rằng tăng lương 35 phần trăm mới là mức hợp lý. Ông khuyên công nhân đòi hỏi không hơn và cũng không kém mức 35 phần trăm. Khi giới chủ nhân bác bỏ đòi hỏi này, xung đột đã diễn ra. Gandhi lúc đầu bước vào cuộc tranh chấp với tư cách người hòa giải nay trở thành lãnh đạo của công nhân, và ông dùng hình thức đấu tranh vì lương tâm như phương pháp để đạt được giải pháp tích cực.
(2) Mục tiêu trước mắt: Tăng 35 phần trăm trợ cấp giá cả sinh hoạt, hoặc đưa tranh chấp ra phân xử.
Người tham gia và lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm:
(1) Gandhi: Điều lạ lùng trong cuộc đấu tranh vì lương tâm tại Ahmedabad là quan hệ cá nhân gần gũi giữa người lãnh đạo của hai phe đối đầu. Gandhi vừa là bạn của những công nhân, vừa là bạn của giới chủ nhân.
(2) Lớp lãnh đạo thứ hai: Chị Anasunya Sarabhai, người có tài tổ chức hoạt động cho công nhân, là người tiên phong của các công nhân tham gia đấu tranh vì lương tâm. Trong khi đó, anh cô, Ambalal Sarabhai, lại là lãnh tụ đại diện cho quyền lợi của giới chủ nhân nhà máy. Những lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm khác còn có Vallabhbhai Patel, Chhaganlal Gandhi, và Shankarlal Banker.
(3) Người tham gia: Bao gồm hàng ngàn (từ 5.000 đến 10.000) công nhân trong các nhà máy dệt tại Ahmedabad.
Người tham gia và lãnh đạo hàng ngũ đối phương:
(1) Ban điều hành nhà máy: Được đại diện bởi Nhóm Đại diện các Nhà máy Dệt
(2) Lãnh tụ chính: Ambalal Sarabhai, Gandhi mô tả là người “hậu thuẫn cho lập trường không khoan nhượng với đình công của giới chủ nhân nhà máy”. Gandhi dành cho ông những lời trân trọng này: “Sự quyết tâm và chân thành thẳng thắn của anh rất tuyệt vời và chạm đến trái tim tôi. Thật là một vinh dự được đối đầu với anh.”
Tổ chức và chương trình hỗ trợ:
(1) Nguyên tắc tự cung tự cấp: Gandhi nhấn mạnh là trong thời gian đình công, các công nhân nên kiếm sống bằng cách tìm một việc làm khác. Nhiều người được mướn để xây ngôi trường dạy quay tơ tại một cộng đoàn của Gandhi.
(2) Hoạt động hỗ trợ an sinh: Gandhi và những lãnh tụ khác hướng dẫn công nhân cách giữ gìn vệ sinh, cung cấp hỗ trợ y tế và các hỗ trợ khác, và tổ chức thu thập thông tin về điều kiện sinh sống của công nhân. Từ kinh nghiệm đấu tranh này, về sau hình thành Hiệp hội Công nhân Dệt may Ahmedabad, với các chương trình quy mô lớn vì quyền lợi an sinh của hội viên.
(3) Bản tin hàng ngày được phát hành.
(4) Các buổi họp hàng ngày để giải quyết những vấn đề phát sinh.
Chuẩn bị trước khi hành động:
(1) Huấn thị dành cho người đấu tranh:
(a) Không bạo động.
(b) Không quấy nhiễu những công nhân “bỏ cuộc”
(c) Không sống nhờ vào của bố thí, nhưng tự túc bằng những công việc khác.
(d) Không đầu hàng, dù đình công kéo dài đến đâu.
(2) Lời hứa đấu tranh vì lương tâm lặp lại vào buổi họp mỗi ngày:
(a) Không đi làm cho tới khi có bảo đảm tăng lương 35 phần trăm (tăng dựa trên mức lương vào tháng 7 trước đó).
(b) Không quậy phá, cãi cọ, trộm cắp, tước đoạt, hoặc nói lời thô tục, hoặc làm hư hỏng tài sản của giới chủ nhân, và hành xử ôn hòa trong thời gian bị cấm cửa đến nhà máy.
Hành động:
(1) Biểu tình tuần hành: Những cuộc tuần hành hàng ngày diễn ra trên đường phố Ahmedabad với biểu ngữ “Ek tek!” (Nhất trí, một lòng!)
(2) Phản ứng khi chủ nhân chấm dứt cấm cửa: Sau khi giới chủ nhân loan báo nhà máy sẽ mở cửa lại cho những ai chấp nhận mức tăng lương 20 phần trăm, một số công nhân đã dao động trong quyết tâm đình công. Gandhi mạnh mẽ lên tiếng kêu gọi công nhân giữ vững lập trường, nhắc tới tính chất công bằng của mức tăng lương 35 phần trăm.
(3) Tuyệt thực: Khi thấy dấu hiệu yếu lòng trong hàng ngũ công nhân (có cả thái độ đe dọa đối với những công nhân bỏ cuộc đi làm lại) Gandhi tuyên bố: “Trừ khi tất cả mọi người đình công củng cố lại và tiếp tục đình công cho đến khi đạt được một thỏa thuận, hoặc cho đến khi tất cả đều cùng rời nhà máy, tôi sẽ không ăn bất cứ thứ gì.” Và Gandhi đã làm điều ông quyết tâm. Ông khuyến cáo những công nhân khác không nên tuyệt thực như ông, nhưng nhiều người đã cùng tuyệt thực với ông trong ngày đầu tiên.
(4) Bác bỏ nhượng bộ đầu tiên: Vào đêm thứ ba của cuộc tuyệt thực, Ambalal Sarabhai, lãnh tụ đại diện giới chủ nhân, đồng ý chấp nhận tăng lương lập tức 35 phần trăm với điều kiện là Gandhi “từ nay về sau” sẽ không tiếp cận với công nhân nữa. Gandhi bác bỏ đòi hỏi “cắt cổ” này và cùng lúc công nhận sức ép có tính tiêu cực của cuộc tuyệt thực.
(5) Thỏa thuận: Để đáp lại quan điểm rằng giới chủ nhân cũng có “cam kết” của riêng mình phải tuân theo (cam kết không tăng lương quá 20 phần trăm), Gandhi đồng ý giải quyết tranh chấp bằng phân xử, và chấp nhận nhượng bộ một số chi tiết trong cuộc dàn xếp. Công thức dưới đây do Gandhi đề nghị đã được giới chủ nhân chấp thuận:
(a) Công nhân sẽ đi làm trở lại vào ngày hôm sau (20/3) và vào ngày hôm đó, họ sẽ nhận được mức tăng lương 35 phần trăm; và vào ngày thứ hai họ đi làm (21/3) họ sẽ được tăng lương 20 phần trăm.
(b) Từ ngày thứ ba (22/3) họ sẽ được tăng lương theo mức mà trọng tài sẽ quyết định (nhưng không vượt quá 35 phần trăm)
(c) Giáo sư Anandshanker Dhruva, Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Gujarat, sẽ là Trọng tài.
(d) Trong thời gian trước khi có thông báo về con số cụ thể từ Trọng tài, công nhân sẽ nhận được mức tăng lương là 27,5 phần trăm.
(e) Số lương được tăng, theo quyết định của Trọng tài sẽ được điều chỉnh dựa trên số 27,5 phần trăm, có nghĩa là nếu con số của Trọng tài cao hơn 27,5 phần trăm thì giới chủ nhân sẽ trả thêm phần còn thiếu, ngược lại, nếu con số thấp hơn 27,5 phần trăm thì công nhân sẽ hoàn lại số dư đã nhận.
(6) Công nhân chấp nhận thỏa thuận: Gandhi kết thúc tuyệt thực khi thỏa thuận được chính thức công bố. Lãnh đạo của các ban ngành khác nhau trong phong trào công nhân đọc diễn văn bầy tỏ lòng biết ơn và chấp nhận việc giới chủ nhân mời kẹo. (Mời kẹo là tục lệ được thực hiện khi có điều vui mừng, cũng là biểu tượng của sự hài lòng.)
Phản ứng của đối phương:
(1) Cấm cửa nhà máy: Được giới chủ nhân áp dụng ngày 22/2.
(2) Chấm dứt cấm cửa: Ngày 12/3, mọi công nhân được mời đi làm trở lại để được tăng lương 20 phần trăm.
(3) Tuyên truyền phản biện: Truyền đơn được phân phát nhằm phản biện lý luận của những người đấu tranh. Dữ liệu về giá cả sinh hoạt do người đấu tranh đưa ra bị đặt vấn đề. Giới chủ nhân khuyến cáo công nhân rằng họ vẫn có thể kiếm thêm bằng cách “làm việc chăm chỉ và cẩn thận hơn” và cũng ám chỉ rằng nhà máy không phải là một đơn vị “làm công quả”.
(4) Tung tin đồn: Tin đồn để làm yếu lập trường của người đình công được cho là do giới chủ nhân tung ra và lan truyền.
(5) Thương lượng với Gandhi: Lãnh đạo đại diện giới chủ nhân (Ambalal Sarabhai) đề nghị đồng ý với mức tăng lương theo yêu cầu để thuyết phục Gandhi chấm dứt tuyệt thực, và yêu cầu Gandhi rời xa công nhân “từ nay về sau, và để những việc liên quan giữa chúng tôi và công nhân cho chúng tôi hoàn toàn tự giải quyết.”
(6) Thỏa hiệp: Đồng ý với đề nghị của Gandhi là đưa vấn đề ra cho trọng tài phân xử.
Kết quả:
(1) Trọng tài phân xử tranh chấp
(2) Quyết định: Cho tăng lương 35 phần trăm, dựa trên lương tháng 7, cho mọi công nhân nhà máy, cùng với 7,5 phần trăm bù đắp cho thời gian bắc cầu từ khi đi làm trở lại cho đến khi mức tăng lương cuối cùng được áp dụng. Quyết định được công bố ngày 8/10/1918.
(3) Hành xử ôn hòa của người đình công trấn an dư luận: Một sĩ quan Anh đã đúc kết các phản ứng quanh vụ Ahmedabad bằng lời tường trình rằng ông chưa hề thấy hoặc nghe nói về bất cứ một cuộc đấu tranh nào ôn hòa đến thế.
(4) Hiệu quả lâu dài: Sự phát triển của Hiệp hội Công nhân Dệt may Ahmedabad với một hiến chương cam kết mang lại quyền lợi chính đáng và bất bạo động cho mọi hội viên, và một chương trình hỗ trợ bao gồm trợ giúp y tế, quyền lợi phụ sản, giáo dục, thể dục, giải trí, và các hoạt động cải thiện xã hội – có thể nói đây là những việc tiên phong trong sinh hoạt công đoàn tại Ấn Độ.
***
ĐÚC KẾT CHIẾN DỊCH AHMEDABAD
Một điểm khác biệt của cuộc đấu tranh công nhân tại Ahmedabad là tuyệt thực đã được dùng như một vũ khí bất bạo động. Gandhi công nhận việc ông tuyệt thực đã mang tính bức ép, và trong hồi ký sau này ông công nhận cuộc tuyệt thực “có sai sót nghiêm trọng.” Ông cho biết quan hệ thân thiện ông từng có với giới chủ nhân đã khiến việc ông tuyệt thực “không thể không ảnh hưởng đến quyết định của họ.”
Tuy ông tuyệt thực vì công nhân chao đảo lập trường và để giúp họ vực dậy quyết tâm bãi công, nhưng ông nhận ra rằng “là một người đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa”, ông không nên tuyệt thực chống lại giới chủ nhân như thế, và “đáng lẽ ông chỉ nên để họ khách quan chịu tác động của những cuộc công nhân đình công mà thôi.”
Sau khi nhấn mạnh rằng giới chủ nhân không nên để việc ông tuyệt thực ảnh hưởng, Gandhi cũng thổ lộ: họ chỉ “nghe tôi nói với vẻ lạnh nhạt, lại còn dành cho tôi những lời mỉa mai chua chát, tuy tế nhị. Nhưng thực ra, họ có quyền làm thế.” [iii]
Rõ ràng là theo Gandhi nhận định, cuộc đấu tranh tại Ahmedabad không đạt đến mức một cuộc đấu tranh vì lương tâm lý tưởng, nhưng vẫn đủ chất lượng để được gọi là một đấu tranh vì lương tâm theo định nghĩa đưa ra ở chương sách này. Điều này càng rõ khi nghiên cứu các đặc tính và bước hành động khác trong quá trình đấu tranh:
Công bằng xã hội, và biểu hiện của nó là yêu cầu tăng trợ cấp, đã tạo nên yếu tố “sự thật” (chính nghĩa) của phong trào. Việc phân xử tranh chấp qua trọng tài cũng là một giải pháp thay thế khả thi. Yếu tố bất bạo động đã được tôn trọng với chỉ vài sai trái nhỏ, khi một số người có thái độ “đe dọa” những công nhân bỏ cuộc. Yếu tố tự khổ được chứng minh qua việc công nhân hy sinh lương trong thời gian đình công và việc Gandhi tuyệt thực.
Việc giúp công nhân trang bị kỹ năng làm việc trái với tay nghề vốn có, nhất là loại việc thường được xem như không xứng tầm, là một khác biệt mới mẻ trong cuộc đấu tranh. (Công nhân dệt có tay nghề cao được giới lãnh đạo đấu tranh thuyết phục để làm những việc như khuân gạch xây trường tại cộng đoàn.) Những hoạt động hỗ trợ công ích khác, như vận động giữ gìn vệ sinh, cũng đã được thực hiện mặc dù thời gian đình công khá ngắn ngủi.
Công tác quảng bá là phần không thể thiếu trong cuộc đấu tranh công nhân này, bằng hàng loạt những truyền đơn do giới lãnh đạo đấu tranh phân phát và bằng việc hô các khẩu hiệu khi diễu hành qua đường phố Ahmedabad. Nhiều nỗ lực được thực hiện để giải quyết tranh chấp trước khi phải dùng đến biện pháp mạnh. Xuyên suốt, thế chủ động luôn ở trong tay người đấu tranh, mặc dù chỉ có ít những hành vi bất bạo động có tính tấn công tích cực. Yếu điểm nội bộ trong hàng ngũ công nhân cũng được nhìn nhận rõ ràng, và quyết định tuyệt thực của Gandhi cũng là lời xác nhận cho yếu điểm đó.
Phong trào tại Ahmedabad cho thấy vai trò của trọng tài trong một cuộc đấu tranh vì lương tâm. Người đấu tranh vì lương tâm tin rằng yêu sách của mình được đặt ở mức tối thiểu, phù hợp với “sự thật” và quyền lợi chính đáng, đồng thời họ cũng ý thức rằng mình có thể sai, và sẵn sàng thay đổi suy nghĩ nếu mình sai. Người đấu tranh trong trường hợp này tuy giữ vững lập trường đòi tăng lương 35 phần trăm, nhưng họ cũng không thể thay đổi lập trường của giới chủ nhân. Vào bất cứ giai đoạn nào của cuộc đấu tranh, việc phân xử đều có thể diễn ra như một công cụ để giải quyết tranh chấp, miễn là người đấu tranh thấy rằng không khí đã cải thiện để phân xử có thể diễn ra công bằng và hiệu quả.
Tại Ahmedabad, cũng vì phân xử đổ vỡ lúc ban đầu nên đấu tranh đã nổ ra. Người đấu tranh đã thành công trong việc thay đổi tình thế, khiến phân xử được tái lập. Gandhi tin rằng người đấu tranh không có gì để mất khi đưa tranh chấp cho bên thứ ba phân xử, miễn là yêu sách được đưa ra ở mức thấp nhất có thể. Ông sẵn sàng đưa vấn đề ra trước trọng tài và dự đoán trọng tài sẽ có một quyết định thuận lợi cho công nhân. Sự tự tin này đã đúng, vì cuối cùng mức tăng lương 35 phần trăm đã được đồng ý.
Rõ ràng, người đấu tranh có rủi ro khi đưa vấn đề ra phân xử, vì họ phải tuân thủ phán quyết của bên thứ ba, trong khi phán quyết này lại dựa trên những gì bên thứ ba xem là “chính nghĩa”, là “sự thật”. Nhưng dù sao thì người đấu tranh vì lương tâm cũng phải tìm giải pháp bằng hình thức thương lượng hay trọng tài nào đó trước khi bị buộc phải dùng biện pháp mạnh. Tùy thuộc vào tính chất riêng của từng cuộc đấu tranh, phán quyết cuối cùng của cuộc phân xử có thể giúp cuộc đấu tranh kết thúc.
Một ý nghĩa quan trọng khác của cuộc đấu tranh Ahmedabad được phản ảnh qua sự phát triển của Hiệp hội Công nhân Dệt may Ahmedabad, được hình thành sau khi công nhân tham gia cuộc đấu tranh này và những cuộc đấu tranh sau đó. Nhà nghiên cứu G.N. Dahwan năm 1946 nhận định rằng Hiệp hội Công nhân Dệt may Ahmedabad là “công đoàn lao động hùng mạnh nhất toàn quốc, với số thành viên 55.000 người”, được công nhận là một công đoàn xuất sắc vì “tính cách địa phương đặc thù của mình… và vì cách giải quyết tranh chấp bằng phân xử và hòa giải, được hoàn thiện nhờ ảnh hưởng của Gandhi.” [iv] Sự quyết tâm tuân thủ nguyên tắc bất bạo động và hoạt động vì lợi ích an sinh của công đoàn là rất đáng kể. Kể từ năm 1939, Công đoàn đã huấn luyện công nhân biết làm những công việc thay thế khác, để trong trường hợp nhà máy đóng cửa hay đình công, hoặc mất việc, họ vẫn có thể kiếm sống. Chương trình huấn luyện này theo đúng những nguyên lý nền tảng của đấu tranh vì lương tâm.
(Còn tiếp)
Nguồn: Joan Bondurant, Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict, Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
[i] Dữ liệu cho phần này được lấy từ các nguồn sau: Mahadev Desai, The Story of Bardoli: Being a History of the Bardoli Satyagraha of 1928 and Its Sequel (Ahmedabad: Navajivan, 1929). Tài liệu kỹ lưỡng và bám sát thực tế này về chiến dịch Bardoli được chính quyền Ấn Độ công nhận là có độ tin cậy bậc nhất. Mahadev Desai là một trong ba đại diện của nông dân vào thời điểm diễn ra cuộc điều tra của Ủy ban Broomfield sau chiến dịch đấu tranh vì lương tâm. Các phụ lục của tác phẩm này gồm những tài liệu sau đây, cung cấp thêm những dữ liệu quan trọng: Thông báo của Chính quyền Bombay (21/5/1928) gửi chủ sở hữu đất tại khu vực huyện Bardoli và xã Valod; Thư trả lời của Ngài Leslie Wilson gửi cho K. M. Munshi (29/5/1928); Diễn văn của Thống đốc Bombay tại Hội đồng Lập pháp (23/7/1928); Gregg, sđd; G. N. Dhawan, The Political Philosophy of Mahatma Gandhi (Bombay: The Popular Book Depot, 1946); Diwakar, sđd; B. Pattabhi Sitaramayya, The History of the Indian National Congress: 1885-1935 (Madras: Working Committee of the Congress, 1935); The Indian Year Book, 1929, do Ngài Standley Reed và S. T. Sheppard hiệu đính (Bombay: Bennett, Coleman, 1929); The Indian Quarterly Register, Nripendra Nath Mitra hiệu đính (Calcutta: Annual Register Office, 1930), Vol. II, Tháng 7 đến Tháng 12/ 1928, Vol. I, Tháng 1 đến Tháng 6/1929; Jawaharlal Nehru: An Autobiography (London: John Lane, The Bodley Head, tái bản với chương mới, 1942). Xem thêm báo Times of India trong thời gian từ Tháng 3 đến Tháng 8/1928 để biết ý kiến của phe ủng hộ chính quyền và chống đấu tranh vì lương tâm chung quanh vụ Bardoli.
[ii] Dữ liệu cho phần này được lấy từ các nguồn sau: M. K. Gandhi, An Autobiography or The Story of My Experiments with Truth, do Mahadev Desai dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati (Ahmedabab: Navajivan, 1940); Mahadev Haribhai Desai, A Righteous Struggle: A Chronicle of the Ahmedabad Textile Labourers’s Fight for Justice, do Sommath P. Dave dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati, Bharatan Kumarappa hiệu đính (Ahmedabad: Navajivan, 1951). Phụ lục tác phẩm này là nguyên văn những tư liệu sau: (a) tuyên bố của công nhân, (b) tuyên bố của giới chủ nhân, (c) quyết định của trọng tài, (d) lời giải thích của Gandhi về cuộc đấu tranh và cuộc tuyệt thực của ông, (e) các tờ rơi phổ biến trong cuộc đấu tranh. Diwakar, sđd; Indian Labour Gazette, Government of India, Ministry of Labour, Labour Bureau, Vol. VIII, No. 9, Tháng 3/1951 (New Dehli: 1951); R. N. Bose, Gandhian Technique and Tradition in Industrial Relations (Calcutta: All India Institute of Social Welfare and Business Management, 1956).
[iii] Gandhi, sđd, tr. 348.
[iv] Dhawan, sđd, tr. 239-240
February 26, 2014
Đấu tranh vì lương tâm: Phương pháp của Gandhi (3)
Joan V. Bondurant
Phan Trinh dịch
PHẦN II
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM: TÁC ĐỘNG CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
Đấu tranh vì lương tâm là một phương pháp hành động. Cốt lõi của nó là kiên trì bênh vực một sự thật [lẽ phải, điều chính đáng] được công bố, bằng những hành xử bất bạo động, và sẵn sàng chấp nhận tự khổ.
Phương pháp này nhằm mang lại những thay đổi khi có xung đột. Như mọi phương pháp hành động khác để xoay chuyển tình thế, nó dùng đến sức mạnh. Nhưng, so với những phương pháp quy ước dùng vũ lực để giải quyết xung đột, sức mạnh do đấu tranh vì lương tâm mang lại có những đặc tính và kết quả hoàn toàn khác.
Đấu tranh vì lương tâm có nhiều hình thức khác nhau. Thường xuyên nhất trong phong trào đòi độc lập Ấn Độ là hình thức bất hợp tác, và bất tuân dân sự. Trong khi đó, chương trình hỗ trợ là khía cạnh tích cực của đấu tranh vì lương tâm, diễn ra cùng lúc với các hình thức đấu tranh khác.
Bất hợp tác có thể bao gồm đình công, bãi công, hartal [bãi thị]* từ nhiệm, từ chức, bỏ việc và từ chối tước hiệu. Về nguyên tắc, bất hợp tác đơn giản là từ chối làm những gì vi phạm đến “sự thật” cốt lõi, hoặc từ chối hợp tác với những người chịu trách nhiệm về những vi phạm này.
Bất tuân dân sự là trực tiếp vi phạm những luật lệ cụ thể, có thể gồm cả không đóng thuế. Tự nguyện vào tù cũng là một cách bất phản kháng** đặc biệt được áp dụng trong bất tuân dân sự. Tính dân sự của đấu tranh vì lương tâm được thực hiện bằng cách kêu gọi và tự nguyện chấp nhận bị luật pháp trừng phạt, vì đã cố tình hành động trái với luật pháp.
***
Cũng cần nói một điều quan trọng liên quan đến tuyệt thực và vị trí của nó trong phương pháp đấu tranh đấu tranh vì lương tâm của Gandhi.
Gandhi thường xuyên viết về những nguy hiểm khi tuyệt thực được dùng như một cách đấu tranh. Ông cho rằng hầu hết các cuộc tuyệt thực diễn ra chỉ đơn thuần là những “cuộc tuyệt thực không chuẩn bị trước và không suy nghĩ cẩn thận.”
Ông lên tiếng rất nhiều lần để phản đối việc tuyệt thực tùy tiện và biết rõ rằng thường “có bạo động đằng sau những cuộc tuyệt thực như thế.” [i] Mặc dù Gandhi hoàn toàn tin tuyệt thực có thể là “vũ khí hiệu quả” bậc nhất trong “kho vũ khí” của đấu tranh vì lương tâm, [ii] ông nhận ra rằng phải suy nghĩ rất thận trọng khi chọn tuyệt thực.
“Tuyệt thực là một vũ khí nóng. Nó có khoa học của riêng nó. Theo kinh nghiệm của tôi, không ai hiểu biết hoàn toàn về tuyệt thực.
“Những thử nghiệm phi khoa học với tuyệt thực sẽ chỉ làm hại chính người tuyệt thực, và có thể làm hại cả chính nghĩa họ theo đuổi. Vì vậy, những ai chưa có đủ thẩm quyền để tuyệt thực thì không nên sử dụng vũ khí này.
“Một người chỉ nên tuyệt thực khi người ấy có liên quan đến đối tượng mà anh ta tuyệt thực để chống lại. Người bị chống lại cũng phải liên quan trực tiếp đến mục đích của cuộc tuyệt thực.” [iii]
Nói chung, tuyệt thực có thể dùng để hỗ trợ cho những hoạt động khác của đấu tranh vì lương tâm. Không nên xem đó là một hình thức đấu tranh dành cho đại chúng. Tuy nhiên, với sự phát triển của “đấu tranh vì lương tâm theo hình thức đại diện”, một số cá nhân được chọn lọc để đại diện cho tập thể tiến hành đấu tranh vì lương tâm, thì họ có thể dùng đến tuyệt thực.
***
I. CỐT LÕI KHI THỰC HÀNH ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM
Nếu muốn làm một cẩm nang cho các chiến dịch đấu tranh vì lương tâm nói chung, dựa trên kinh nghiệm tại Ấn Độ, ba chương đầu sẽ viết về: (1) Những nguyên tắc nền tảng, (2) Những quy tắc ứng xử, và (3) Những bước thực hành. Và những điểm dưới đây cần được ghi vào cẩm nang này:
1. NHỮNG NGUYÊN TẮC NỀN TẢNG [iv]
(1) Tự lập trong mọi lúc. Có thể chấp nhận sự trợ giúp từ bên ngoài trong những hoàn cảnh đặc biệt, nhưng không bao giờ nên trông chờ hay lệ thuộc vào trợ giúp từ bên ngoài.
(2) Luôn có sáng kiến. Người thực hành đấu tranh vì lương tâm cần thúc đẩy phong trào đi tới không ngừng, bằng cách liên tục đánh giá tình hình xung đột, tham gia những hoạt động hỗ trợ khi có thể, tích cực phản kháng khi cần thiết, hoặc bằng kỹ thuật thuyết thục và điều chỉnh khi phù hợp.
(3) Quảng bá mục tiêu, chiến lược và chiến thuật của cuộc đấu tranh. Quảng bá phải là một phần không thể thiếu của cuộc đấu tranh. Việc quảng bá, hướng dẫn công chúng, hướng dẫn người tham gia và cả đối thủ, phải được tiến hành liên tục và nhanh chóng.
(4) Giảm các yêu sách đến mức tối thiểu, phù hợp với sự thật mình theo đuổi. Liên tục đánh giá lại tình hình và mục tiêu muốn đạt với sự sẵn sàng điều chỉnh các yêu sách là điều rất cần thiết.
(5) Từng bước thúc đẩy phong trào lớn mạnh, thực hiện các bước và giai đoạn phù hợp với tình hình cụ thể. Quyết định khi nào bước vào giai đoạn kế tiếp của đấu tranh vì lương tâm cần được cân nhắc thận trọng cho phù hợp với tình hình luôn thay đổi, nhưng phải tránh bằng được tình trạng trì trệ, giậm chân tại chỗ. Tuy nhiên, biện pháp mạnh chỉ được tung ra sau khi mọi nỗ lực để đạt được thỏa thuận trong danh dự đều đã được dùng đến mà không mang lại kết quả.
(6) Đánh giá điểm yếu trong nội bộ của tập thể thực hiện đấu tranh vì lương tâm. Tinh thần và kỷ luật của những người tham gia đấu tranh vì lương tâm phải được duy trì thông qua việc chủ động nắm bắt bất cứ những biểu hiện nào của mất kiên nhẫn, manh động, của xuống tinh thần hoặc thái độ bỏ cuộc, buông tay với bất bạo động trong hàng ngũ thành viên cũng như người lãnh đạo.
(7) Tích cực tìm kiếm những thỏa thuận trong danh dự với đối thủ. Mọi nỗ lực phải được thực hiện để thu phục đối thủ bằng cách giúp đỡ đối thủ (khi việc này phù hợp mới mục tiêu thật của đấu tranh vì lương tâm) qua đó, chứng tỏ sự chân thành muốn đạt một thỏa thuận chung với đối thủ, thay vì “ta thắng, địch bại”.
(8) Khi thương lượng, không được bỏ đi những nguyên lý cốt lõi. Đấu tranh vì lương tâm không chấp nhận những thỏa hiệp làm ảnh hưởng đến những nguyên lý nền tảng hoặc thành tố quan trọng của những mục tiêu đúng đắn. Cần thận trọng để không thương lượng, mua bán hay đổi chác.
(9) Phải có được thỏa thuận hoàn toàn về những điểm then chốt trước khi chấp nhận một dàn xếp nào đó.
***
2. NỘI QUY
Những điểm sau đây được Gandhi đưa ra như một quy định cho những người tình nguyện tham gia phong trào năm 1930: [v]
(1) Không giận dữ nhưng chấp nhận đau khổ khi đối phương giận dữ. Từ chối đáp trả khi đối phương tấn công.
(2) Không tuân phục bất cứ lệnh nào được đưa ra trong lúc giận dữ, dù có thể bị trừng phạt nặng vì không tuân phục.
(3) Không sỉ nhục và chửi rủa người khác.
(4) Bảo vệ đối phương khỏi bị sỉ nhục và tấn công, dù có thể rủi ro đến tính mạng.
(5) Không chống cự lại nếu bị bắt hay bị tịch thu tài sản, trừ khi đang bảo vệ tài sản với tư cách là người được ủy thác trông coi tài sản.
(6) Không cho tịch thu bất cứ tài sản gì mình được ủy thác trông coi, dù có thể rủi ro đến tính mạng.
(7) Nếu trở thành tù nhân, hãy hành xử với phong cách đường hoàng, mẫu mực.
(8) Là thành viên của một đơn vị đấu tranh vì lương tâm, cần tuân lệnh người điều hành đấu tranh vì lương tâm, và từ chức rời khỏi đơn vị nếu có bất đồng nghiêm trọng.
(9) Không đòi hỏi những khoản bảo đảm trong việc cấp dưỡng cho người thân.
***
3. NHỮNG BƯỚC TIẾN HÀNH MỘT CHIẾN DỊCH ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM [vi]
Dưới đây là những bước áp dụng trong một phong trào xuất phát từ những xung đột quyền lợi, nhằm chống lại một trật tự chính trị nhất định. Những bước này cũng có thể áp dụng trong những tình huống xung đột khác.
(1) Thương lượng và hòa giải. Mọi nỗ lực nhằm giải quyết xung đột và mâu thuẫn thông qua những kênh tiếp xúc hiện có phải được tận dụng, trước khi tiến hành những bước kế tiếp.
(2) Chuẩn bị tập thể trước khi đấu tranh trực tiếp. Ngay sau khi nhận ra một tình huống xung đột có thể dẫn tới đấu tranh trực tiếp, cần phải xem xét cẩn thận mọi mục tiêu đề ra, tiến hành luyện tập để mọi người biết giữ kỷ luật bản thân, và phải tiến hành thảo luận thấu đáo trong nội bộ về những vấn đề cần bàn, những đường lối cần thực hiện, tình hình của đối phương, những biến động trong dư luận, v.v. Bước này thường bao gồm, như ở Ấn Độ, các cuộc nhịn ăn để thanh tịnh tinh thần.
(3) Quảng bá. Bước này bao gồm một chiến dịch quảng bá tích cực, cùng lúc với những họat động rầm rộ như mít-tinh, diễu hành, hô khẩu hiệu.
(4) Công bố tối hậu thư. Cần gửi một kiến nghị cuối cùng mạnh mẽ đến đối phương để giải thích những bước kế tiếp sẽ thực hiện nếu không đạt được thỏa thuận. Ngôn ngữ và cách trình bày tối hậu thư cần đưa ra một khả năng thỏa thuận lớn nhất có thể, tạo điều kiện cho đối phương giữ sĩ diện, không mất mặt, và đưa ra được một giải pháp có tính xây dựng.
(5) Tấy chay kinh tế và những hình thức đình công. Đình công, bãi công có thể được áp dụng rộng rãi, cùng với những cuộc biểu tình và hướng dẫn quần chúng liên tục. Có thể biểu tình ngồi (dharna), cũng như các hình thức đình công bất bạo động khác, và vận động tổ chức một cuộc tổng đình công rộng khắp.
(6) Bất hợp tác. Tùy vào bản chất của vấn đề đang được đặt ra, những hành động như không nộp thuế, nghỉ học, bãi khóa hay nghỉ làm, tẩy chay những thiết chế công cộng, tự loại mình ra khỏi tổ chức công quyền, ngay cả tự lưu đày, đều là những hình thức có thể thực hiện.
(7) Bất tuân dân sự. Cần chọn lựa rất thận trọng điều luật mà mọi người sẽ bất tuân. Điều luật đó nên là điều luật cốt lõi tạo ra xung đột, hay có giá trị biểu tượng cao.
(8) Thay mặt nhà nước thực hiện chức năng chính quyền. Shridharani gọi điều này là “đấu tranh vì lương tâm tấn công”. Cần chuẩn bị thật đầy đủ để bước này đạt hiệu quả.
(9) Chính quyền song song. Việc thiết lập những chức năng song song xuất phát từ bước (8) vừa kể, và những chức năng này cần được củng cố để thu hút quần chúng hợp tác nhiều nhất có thể.
Hành động cụ thể sẽ thực hiện trong một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm tiêu biểu, dĩ nhiên, sẽ do tình hình thực tế quy định. Cũng giống như việc chuẩn bị kỹ lưỡng và sâu rộng cho các trận đánh vũ trang, tất cả đều lệ thuộc vào kỷ luật, lãnh đạo, chuẩn bị, mục tiêu kiên định, và khả năng điều chỉnh sao cho lý thuyết và hành động phù hợp với tình hình thực tế.
Việc phân tích những chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đã diễn ra trong lịch sử sẽ cho thấy người tham dự đã được chuẩn bị theo hướng nào để củng cố những chiến dịch này và để tránh những yếu điểm tiềm ẩn.
Gandhi và những lãnh tụ Ấn Độ khác đón nhận tất cả mọi người đến tham gia các chiến dịch của họ. Họ đưa ra những luật lệ và chiến thuật đang khi tiến hành đấu tranh trong những tình huống xung đột rất kinh điển.
Nếu được quyền chọn lọc và có thể huấn luyện người tham gia đảm đương nhiều vai trò trong các chiến dịch đấu tranh vì lương tâm thì có lẽ cuộc đấu tranh của Gandhi và các lãnh tụ đã vang dội hơn nhiều. Tuy vậy, họ đã thành công rất lớn, nhất là nếu hiểu rằng họ hành động trên nền tảng hoàn toàn tự phát, và đã vận động được đại đa số quần chúng vốn trước đó chưa hiểu biết gì về kỹ thuật đấu tranh cần có, và cũng rất ít người trong đám đông kia có khả năng giữ gìn kỷ luật liên tục đang khi thực hành các kỹ thuật đấu tranh.
***
II. SATYAGRAHA (ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM) HAY DURAGRAHA (BẤT BẠO ĐỘNG QUYẾT LIỆT)?
Trước khi giới thiệu tổng quát về một số cuộc đấu tranh tiêu biểu diễn ra tại Ấn Độ vào thời Gandhi còn sống, cũng nên biết rằng có những phong trào, tuy một số mặt được tiến hành giống như đấu tranh vì lương tâm nhưng lại không hội đủ các điều kiện để trở thành một cuộc đấu tranh vì lương tâm theo đúng tinh thần Gandhi.
Vậy, làm thế nào để biết đâu là đấu tranh vì lương tâm đích thực?
Trước hết cũng cần nói rằng không thể đòi các phong trào đấu tranh phải được tiến hành và đạt hiệu quả hoàn hảo. Ngay các cuộc chiến vũ trang, như thường được biết, cũng chỉ đạt hiệu quả thấp đến đáng ngạc nhiên.
Điều khác biệt là các chương trình hỗ trợ đã mang lại cho đấu tranh vì lương tâm những lợi thế ban đầu. Tuy vậy, không có bất cứ một cách đấu tranh nào, dù vũ trang hay bất bạo động, có thể đạt được hiệu quả hoàn toàn, cả trong việc giữ gìn kỷ luật nội bộ lẫn tiến hành chiến lược và chiến thuật.
Những chiến dịch đấu tranh vì lương tâm kiên định đã đạt mức thành công cao, và nhiều chiến dịch đã loại bỏ được bạo động vật lý, nhưng có lẽ không chiến dịch nào đã có thể bất bạo động đến mức hoàn hảo về mọi mặt.
Khi đặt vấn đề làm sao để biết đâu là đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa, chúng ta không nói đến mức độ thành công – trong chủ trương, mục đích, hay hiệu quả so với dự đoán – của chiến dịch. Vấn đề không phải là mức độ, mà là loại hình (dĩ nhiên sự khác nhau về mức độ quá lớn có thể dẫn đến khác nhau về loại hình).
Khác biệt giữa satyagraha (đấu tranh vì lương tâm) và điều người Ấn gọi là duragraha (bất bạo động quyết liệt) nằm ở một số điểm then chốt sau đây:
Điểm rõ nhất của một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa nằm ở chương trình hành động của nó. Câu hỏi đầu tiên cần đặt ra để phân biệt thật giả là xem chiến dịch có tuân theo các bước đi, từ việc tận dụng các điều kiện có sẵn từ đầu để giải quyết xung đột, rồi đến các bước khác, nhất là những bước cho thấy nỗ lực tìm kiếm thỏa thuận mà không làm nhục đối thủ.
Một cuộc vận động bằng đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa sẽ có dấu hiệu cho thấy nó được tiến hành với các bước như vừa kể. Việc quảng bá đầy đủ ý định của người thực hiện đấu tranh vì lương tâm cũng phải được tiến hành. Cũng phải có chứng cớ cho thấy những nỗ lực nhằm giảm tối đa khó khăn cho đối thủ.
Một chương trình hỗ trợ đi kèm cũng là dấu hiệu của một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa. Chiến dịch có thực hiện các bước tích cực nhằm phục vụ cho thành viên của mình, cho quần chúng, và trong một số trường hợp, cho cả đối thủ hay không?
Việc sẵn lòng chấp nhận những hình phạt của luật pháp cũng là một nét đặc thù của đấu tranh vì lương tâm, trong khi việc dựa vào luật pháp để tự vệ lại là điều ít thấy xảy ra.
Một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa luôn năng động và đầy tính xây dựng, vừa tấn công, vừa hòa giải.
Nhất quyết tìm cho được cái đúng trong hoàn cảnh cụ thể, kiên trì tìm ra những hình thức đấu tranh mới và sáng tạo cũng là một đặc điểm khác.
Có thể thấy ngay rằng những cuộc tuyệt thực đơn giản, hoặc biểu tình, đình công đơn thuần không phải là những cuộc đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa, vì không hội đủ các yếu tố cần thiết.
Tuyệt thực, biểu tình hay đình công có thể được sử dụng trong một giai đoạn của một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm, nhưng bản thân chúng đơn thuần chỉ là những hành động như tên gọi đã gợi ra và không nên xem đó như một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đầy đủ.
***
Xem xét các phong trào diễn ra trong thời gian qua [đầu thập niên 1950, trước khi sách này xuất bản - ND] ở Ấn Độ dưới danh nghĩa đấu tranh vì lương tâm, có thể thấy rất nhiều những hình thức đấu tranh chỉ nên được gọi là những cuộc tuyệt thực, đình công ngồi, tẩy chay hoặc duragraha mà thôi.
Nhiều cuộc đấu tranh của giáo viên tại Ấn Độ trong vài năm qua cũng không đủ yếu tố để được gọi là đấu tranh vì lương tâm theo đường lối Gandhi; hành động của các nhóm Ấn Độ giáo chính thống trong việc chiếm đóng Kashmir cũng không thể được xem như đấu tranh vì lương tâm của Gandhi; các cuộc biểu tình diễn ra trước năm 1953 tại vùng Nam Ấn nói tiếng Tegulu đấu tranh cho tiểu bang Andhra tự trị cũng không cấu thành một cuộc đấu tranh vì lương tâm theo tinh thần Gandhi đúng nghĩa.
Dĩ nhiên, nói như vậy không có nghĩa là những người tham gia các cuộc đấu tranh này không có được những tố chất như Gandhi, cũng không phải người viết xem nhẹ sự dấn thân của họ, hoặc phán xét chính nghĩa mà các cuộc đấu tranh kia nhắm tới.
Một số những cuộc đấu tranh vừa kể đạt thành công, với tính cách là duragraha, cũng như đấu tranh vũ trang cũng thành công và đạt được những mục tiêu giới hạn. Nhưng tôi tin mọi người rất cần hiểu rằng không phải cuộc đấu tranh nào cũng là đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa chỉ vì nó không dùng đến bạo lực.
Lịch sử các diễn biến chính trị đương đại tại Ấn Độ cho thấy duragraha và biểu tình, đình công, tuyệt thực – dưới danh nghĩa đấu tranh vì lương tâm – chính là những chiến thuật thông dụng thời kỳ này. Chắc chắn những cách đấu tranh này dễ tổ chức hơn, không quá khó để lãnh đạo hay kiểm soát nếu so sánh với đấu tranh vì lương tâm theo cách của Gandhi. Trong nhiều trường hợp, đây là những cuộc đấu tranh tự phát, và thường được gán ngay cho tên gọi đấu tranh vì lương tâm. Nhưng chỉ cần xem xét chúng dựa trên các tiêu chuẩn nêu ra ở đây cũng có thể thấy chúng không là những cuộc đấu tranh vì lương tâm thực thụ.
Tuy vậy, cũng có một số chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa, rất đáng chú ý và có nhiều ý nghĩa trong thời kỳ hậu-Gandhi tại Ấn Độ. Trong số này có hai cuộc đấu tranh đáng kể nhất, diễn ra ở hai đầu cách biệt của Ấn độ: một ở huyện Manbhum, Bihar, và một ở huyện Surat, Bombay.
Trong giai đoạn đầu cuộc đấu tranh ở Manbhum, đấu tranh vì lương tâm đã được áp dụng triệt để, dù gặp phải rất nhiều trở ngại, cho thấy cuộc đấu tranh đã giữ được những nguyên lý cốt lõi của đấu tranh vì lương tâm, và được tiến hành từng bước một, tới cả bước thành lập một hệ thống chính quyền địa phương (thông qua việc thành lập các hội đồng địa phương, đại diện cho quần chúng) vốn đối đầu trực tiếp với chính quyền tiểu bang.
Trong khi đó, đấu tranh vì lương tâm ở Pardi, tiểu bang Bombay, là cuộc đấu tranh được quảng bá nhiều hơn, được tổ chức và lãnh đạo bởi những người theo cánh Xã hội chống lại Chính quyền Tiểu bang Bombay. [vii] Cuộc đấu tranh này tiến hành được một số bước tiêu biểu theo đúng cách của đấu tranh vì lương tâm, và cuối cùng thành công, buộc chính quyền Bombay thực hiện mục tiêu đấu tranh là trả lại vùng đồng cỏ cho dân canh tác.
Nghiên cứu những cuộc đấu tranh này và những chiến dịch tương tự tại Ấn Độ đương đại sẽ làm rõ những quy cách được áp dụng trong các chiến dịch đấu tranh vì lương tâm của Gandhi.
Trong những trang sau, tôi sẽ thử phân tích ngắn gọn năm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm diễn ra trong thời kỳ của Gandhi, nói về cách thức và lý do chúng được gọi là đấu tranh vì lương tâm, thay vì duragraha, mặc dù không cuộc đấu tranh nào tránh được bạo động hay thành công 100%, cũng có chiến dịch thất bại trong một lĩnh vực rất quan trọng nữa.
***
III. PHÂN TÍCH NĂM CHIẾN DỊCH ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM
Năm ví dụ đấu tranh vì lương tâm điển hình dưới đây được chọn để cho thấy phương pháp đấu tranh này được dùng cho nhiều mục tiêu khác nhau, trong những hoàn cảnh xã hội và chính trị khác nhau, được nhiều nhóm xã hội khác nhau sử dụng, và nhắm vào nhiều đối thủ khác nhau.
Việc chọn lựa quả là khó khăn, vì gần đây trong lịch sử Ấn Độ có đến hàng trăm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm với nhiều bối cảnh khác biệt. Tôi chọn vài ví dụ điển hình vì có đầy đủ dữ liệu về chiến dịch, nhưng tôi cũng đã bỏ qua một số chiến dịch quan trọng được ghi chép đầy đủ để chỉ giữ lại chiến dịch nào thực sự tiêu biểu và cho thấy phương pháp dấu tranh đã được thực hiện ra sao trong một bối cảnh đặc thù. Hai trong số năm chiến dịch này không do Gandhi lãnh đạo, chúng được chọn vì mục tiêu của tôi là mô tả phương pháp đấu tranh của Gandhi, chứ không phải mô tả vai trò lãnh đạo của Gandhi.
Trong năm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm này, một chiến dịch đấu tranh của đẳng cấp cùng đinh chống lại một nhóm quý tộc xa rời quần chúng; một chiến dịch là phong trào nông dân chống lại chính quyền địa phương và tiểu bang; chiến dịch thứ ba là của công nhân chống lại giới chủ nhân nhà máy. Hai chiến dịch còn lại là hai chiến dịch diễn ra trên toàn cõi Ấn Độ, chống lại chính quyền trung ương.
Để có sự thống nhất khi phân tích các chiến dịch đấu tranh vì lương tâm, và cũng để xét xem chúng có là đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa hay không, tôi sẽ trình bày mỗi chiến dịch theo 10 điểm sau đây:
Ngày tháng, thời gian kéo dài, địa điểm
Mục tiêu
Người tham gia và lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm
Người tham gia và lãnh đạo hàng ngũ đối phương
Tổ chức và chương trình hỗ trợ
Cách chuẩn bị trước khi hành động
Hành động mở đầu
Hành động
Phản ứng của đối phương
Kết quả
Sau những điểm tóm tắt sẽ là phân tích ngắn gọn về các chiến dịch này xem chúng gần gũi hay khác xa với phương pháp nguyên bản, và xem chúng có đúng là đấu tranh vì lương tâm như tên gọi hay không.
***
1.
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM ĐÒI LẠI ĐƯỜNG QUA ĐỀN VYKOM [viii]
Ngày tháng, thời gian kéo dài, địa điểm:
(1) Từ mùa xuân 1924 đến mùa thu 1925
(2) Kéo dài trên 16 tháng
(3) Làng Vykom, Tiểu bang Travancore, cực nam Ấn Độ
Mục tiêu:
(1) Mục tiêu trước mắt: Tháo gỡ lệnh cấm người cùng đinh sử dụng con đường đi ngang qua đền Vykom. Điều này khiến người cùng đinh gặp nhiều khó khăn vì phải đi một con đường vòng vèo rất dài tránh xa ngôi đền để về nhà họ.
(2) Mục tiêu dài hạn: Một bước tiến đến việc xóa bỏ vết nhơ “đẳng cấp cùng đinh” trong Ấn Độ giáo.
Người tham gia và lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm:
(1) Đặc điểm của nhóm lãnh đạo: Một trong những người khởi xướng chiến dịch là một người Syria theo Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, dư luận muốn có những lãnh đạo là tín đồ Ấn Độ giáo cho phù hợp hơn với mục tiêu đấu tranh. Sau đó, những người Ấn Độ giáo địa phương đã nắm vai trò lãnh đạo chủ chốt. Gandhi, tuy giữ liên hệ với chiến dịch ngay từ đầu, không lãnh đạo chiến dịch, ông cũng không có mặt ở Travancore cho tới giai đoạn sau của chiến dịch, là lúc ông góp phần đòi được chính quyền Tiểu bang nhượng bộ.
(2) Đặc điểm người tham gia: Người theo Ấn Độ giáo, gồm cả đẳng cấp cùng đinh lẫn đẳng cấp có đặc quyền, họ tạo nên đại đa số người tham gia. Những người theo đạo Sikh ở Tiểu bang Punjab cũng giúp đỡ trực tiếp bằng cách mở một bếp ăn phục vụ người tham gia đấu tranh, nhưng theo đề nghị của Gandhi, sau đó họ được thay thế bằng những tín đồ Ấn Độ giáo địa phương, để những người Ấn Độ giáo chính thống – không muốn nhận giúp đỡ từ người ngoài – không cảm thấy bị xúc phạm.
(3) Số người tham gia: Những người đấu tranh tích cực, sống trực tiếp trong trại được thành lập cho tình nguyện viên, là khoảng 50 người. Rất nhiều người khác hợp tác, tổng số người tham gia ước tính trong khoảng từ 600 đến “hàng ngàn” người.
Người tham gia và lãnh đạo hàng ngũ đối phương:
(1) Tín đồ Ấn Độ giáo Chính thống: Hàng ngũ đối phương thỉnh thoảng cũng có người cùng đinh, nhưng đa số là những tín đồ Ấn Độ giáo đẳng cấp cao, nhất là các Giáo sĩ Bà la môn. Ngoài ra còn có Hội Tín đồ Ấn Độ giáo Chính thống và Hội Savarna Mahajana Sabha ủng hộ lập trường của giới Giáo sĩ trong suốt cuộc tranh chấp.
(2) Cảnh sát của Tiểu bang Tranvancore.
(3) Thành viên của Hội đồng Lập pháp Tiểu bang Tranvancore: Đại đa số Hội đồng ủng hộ lập trường của phe chính thống.
Tổ chức và chương trình hỗ trợ :
(1) Tổng doanh trại: Một cộng đoàn đấu tranh vì lương tâm được thành lập ngay khi bắt đầu chiến dịch.
(2) Chương trình hỗ trợ: Công việc điều hành cộng đoàn hàng ngày được xem như một phần tất yếu của chiến dịch, qua đó, người tham gia chiến dịch được giao những nhiệm vụ, hoặc làm việc công ích cho cộng đoàn hoặc tham gia những hành vi đấu tranh trực tiếp. Cộng đoàn đạt được một mức độ tự lập cao. Việc quay tơ dệt vải bằng tay, xây trường học cùng những việc hỗ trợ và công ích khác được duy trì xuất chiến dịch.
Chuẩn bị hành động:
(1) Cầu nguyện: Phong trào mang ít nhiều màu sắc tôn giáo, những buổi họp mặt cầu nguyện trở thành một phần quan trọng của đời sống cộng đoàn.
(2) Hướng dẫn tiến hành đấu tranh vì lương tâm: Người tham gia chiến dịch cùng thảo luận về những nguyên lý cốt lõi của đấu tranh vì lương tâm. Họ nhấn mạnh đến việc hiểu cho thấu đáo quan điểm của phe chính thống đối phương, và làm sao để thắng được đối phương bằng cách thuyết phục.
Hành động khởi đầu:
(1) Thương lượng: Một trong những nỗ lực thương lượng để tìm ra giải pháp là họ gửi một phái đoàn đến thương lượng với chính quyền Tiểu bang.
(2) Vận động quần chúng: Nhiều nỗ lực được tiến hành để thu hút sự chú ý của công chúng vào những thiệt thòi mà người cùng đinh ở Vykom đang phải chịu đựng.
Hành động:
Giai đoạn thứ nhất:
(1) Tín đồ Ấn Độ giáo – gồm người cùng đinh và đẳng cấp cao – cùng diễu hành ngay trên con đường bị cấm. Họ đã không trả đũa khi bị người của đẳng cấp Giáo sĩ đánh đập.
(2) Chấp nhận bị bắt. Cuộc diễu hành thứ hai trên con đường cấm dẫn đến việc một số lãnh đạo của chiến dịch bị bắt.
(3) Thay thế lãnh đạo. Khi các lãnh đạo bị bắt, liền có những người khác đứng ra thay thế.
(4) Lứa lãnh đạo thứ hai cũng chấp nhận bị bắt mà không chống cự.
Giai đoạn thứ hai:
(1) Đối đầu với hàng rào cảnh sát. Khi cảnh sát dựng hàng rào trên đường, tín đồ Ấn Độ giáo, người cùng đinh và người đẳng cấp cao cùng nhau tụ tập đứng đối diện với hàng rào cảnh sát và giữ vị trí hết ngày này qua ngày khác.
(2) Hành động trong vụ gió mùa. Khi gió mùa đổ mưa làm ngập lụt đường đi và cảnh sát phải ngồi trên thuyền để giữ vị trí, những người đấu tranh vẫn tiếp tục đứng đó, chia thành những ca kéo dài 3-giờ thay phiên nhau, có lúc họ đứng khi nước ngập lên đến vai.
Giai đoạn thứ ba:
(1) Thuyết phục chính quyền Tiểu bang. Gandhi, đến Tranvancore vào tháng 4/1925, lần đầu tiên từ khi chiến dịch bắt đầu, và thuyết phục chính quyền dỡ bỏ hàng rào chắn.
(2) Loan báo dự định không lợi dụng tình hình lúc dỡ bỏ hàng rào. Người đấu tranh giữ mình không đi vào con đường mặc dù hàng rào và cảnh sát đều đã được dời đi. Họ loan báo sẽ không bước vào con đường cấm cho tới khi nào giới Giáo sĩ hoàn toàn bị thuyết phục, và chính quyền công bố chấp nhận cho người cùng đinh sử dụng con đường.
(3) Thuyết phục những Giáo sĩ chống đối. Bằng cách thuyết phục không ngừng với lý lẽ hợp lý, được những lời cầu nguyện hỗ trợ, cuối cùng phe chống đối đã đổi ý.
Phản ứng của đối phương:
(1) Bạo động chống lại những người đấu tranh bằng cách đánh đập lên thân thể từng người.
(2) Bỏ tù những người đấu tranh sau khi bắt giữ họ.
(3) Chấm dứt bắt giữ sau khi các nhà tù đã không còn chỗ chứa người bị bắt.
(4) Dựng rào chắn. Cảnh sát dựng hàng rào và dàn người đứng cạnh khi được chỉ đạo phải ngăn người đấu tranh đi vào đường cấm.
(5) Hội đồng Lập pháp Tiểu bang ủng hộ. Đa số Hội đồng Lập pháp Tiểu bang ủng hộ hành động của cảnh sát.
(6) Cô lập xã hội dành cho những người tổ chức đấu tranh. Cô lập, theo sau những đe dọa tịch biên tài sản gia đình của người đấu tranh, và không cho họ hưởng những chế độ an sinh gia đình khác. Sự cô lập đã diễn ra rất khắc nghiệt.
(7) Tháo dỡ rào chắn. Theo sau cuộc nói chuyện của Gandhi (tháng 4/1925) với chính quyền Tiểu bang, cảnh sát được lệnh tháo dỡ hàng rào mà họ đã dựng lên và đứng canh mỗi ngày.
(8) Hoang mang vì phản ứng của người đấu tranh. Các Giáo sĩ, ban đầu dự tính người đấu tranh thế nào cũng đi vào con đường cấm ngay khi cảnh sát rút lui và tháo dỡ hàng rào, nhưng họ đã nhầm và hụt hẫng khi thấy người đấu tranh tự kiềm chế không đi vào đường cấm.
(9) Thua cuộc. Đến mùa thu 1925, giới Giáo sĩ tuyên bố rằng: “Chúng tôi không thể tiếp tục chống lại lời khẩn nguyện họ đưa ra cho chúng tôi, và chúng tôi cũng sẵn sàng đón nhận người cùng đinh.”
Kết quả:
(1) Đường mở ra cho mọi người. Mục tiêu trước mắt của chiến dịch đấu tranh vì lương tâm đã đạt được trọn vẹn.
(2) Khu vực dành riêng cho Giáo sĩ các địa phương khác cũng mở toang. Trong những địa phương khác của Ấn Độ, phong trào đấu tranh này cũng có ảnh hưởng trực tiếp, với sự mở cửa đón nhận người cùng đinh vào mọi cơ sở và đền đài mà trước đây họ bị cấm lui tới.
(3) Điều kiện sinh sống của người cùng đinh được cải thiện. Bằng cách mở rộng các hoạt động hỗ trợ, điều kiện chung của đẳng cấp cùng đinh đã được cải thiện.
(4) Mục tiêu dài hạn. Chiến dịch là một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc chấm dứt sự kỳ thị dành cho đẳng cấp cùng đinh.
***
TÓM LƯỢC CUỘC ĐẤU TRANH ĐÒI LẠI ĐƯỜNG QUA ĐỀN VYKOM
Cuộc đấu tranh Vykom đáp ứng hầu hết các chuẩn mực đấu tranh vì lương tâm. Sự thật mà người đấu tranh nêu cao là quyền riêng của mỗi cá nhân được đi qua con đường chung[ix] mà không bị kỳ thị vì lý do đẳng cấp. Cách đấu tranh được dùng để khẳng định sự thật này là biểu tình bất bạo động và chống lại một tập quán mà họ tin là bất công. Người đấu tranh cũng hết sức thận trọng để giữ được tính bất bạo động, mặc dù cũng có lúc có vài manh động, như có người kích động quần chúng leo qua hàng rào cảnh sát.
Tự khổ cũng rất rõ nét trong thái độ của những người đấu tranh vì lương tâm. Họ kiên trì đấu tranh một cách dũng cảm suốt 16 tháng, chấp nhận đau đớn trên thân thể do bị kẻ thù đánh đập cũng như do thời tiết khắc nghiệt, khiến số đông phải đứng ngâm mình dưới nước đến tận thắt lưng vào đợt gió mùa. Sau khi cảnh sát gỡ bỏ rào chắn, họ tiếp tục cuộc đấu tranh một cách hòa bình góp phần thuyết phục đối phương đồng thuận trước khi bước chân trên con đường gây tranh chấp.
Tính chất xây dựng, thay vì quấy phá, và hành xử mẫu mực của người đấu tranh được thể hiện rõ ràng trong mọi lúc. Thành viên của cộng đoàn đấu tranh vì lương tâm không chỉ thực hiện những công việc thường ngày, mà còn quay thêm tơ, dệt thêm vải đóng góp vào quỹ khadi của Đảng Quốc đại và Quỹ Tưởng niệm Deshabandhu Toàn Ấn Độ. [x] Bằng cách này, họ xem phong trào đấu tranh tại Vykom là một phần của đấu tranh giành độc lập. Họ ứng biến trong công tác lãnh đạo và điều chỉnh hành động khi có ý kiến phê phán việc nhận hỗ trợ từ người ngoài Ấn Độ giáo, điều này cho thấy họ tuân theo ý chí chung để giữ được tính cách của phong trào là luôn “cải thiện từ bên trong”.
Họ rất chú trọng đến việc tìm cách thuyết phục đối phương trong đấu tranh. Họ đã cân nhắc cẩn thận để không xúc phạm đến sự nhạy cảm tôn giáo của đối phương. Điều này được Gandhi diễn tả trên tờ Young India số ra ngày 1/5/1924 như sau:
“Đấu tranh vì lương tâm là một quá trình chuyển hóa. Nhà cải cách, tôi tin chắc vậy, không tìm cách áp đặt ý chí của mình lên cộng đồng, mà tìm cách đánh động trái tim cộng đồng.
“Nếu được nói về phương pháp đấu tranh vì lương tâm, tôi xin nói rằng sự giúp đỡ vật chất từ bên ngoài hẳn sẽ gây nhiễu cho sự gắn kết của những người bên trong. Nhìn như vậy thì có thể thấy việc các tín đồ đạo Sikh dự định mở bếp ăn miễn phí có thể xem là một mối đe dọa, gây khiếp sợ cho những người theo Ấn Độ giáo ở Vykom.
“Tôi cũng không mảy may hoài nghi rằng các tín đồ Ấn Độ giáo phái chính thống bảo thủ sẽ phải phát sốt ở mức báo động vì những gì đang diễn ra ở Vykom, vì họ luôn nghĩ rằng thờ Thượng đế nghĩa là không được va chạm vào người đồng đạo nghèo khó của chính họ, và tin rằng theo đạo tóm lại là phải tắm rửa cho sạch và tránh xa mọi ô uế thể chất. Họ tin rằng tôn giáo của mình đang lâm nguy. Vì vậy, người tổ chức đấu tranh phải làm cho cả những người chính thống lẫn những người cực đoan nhất yên tâm và đảm bảo với họ rằng chúng ta không cải cách bằng ép buộc …”
Việc quảng bá cho cuộc đấu tranh có lẽ chưa đạt chuẩn mong muốn trong một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm tiêu biểu. Công tác quảng bá chỉ may mắn có được nhờ những bài Gandhi viết trên tờ Young India và nhờ báo chí quốc gia thường đưa tin về những đề tài sốt dẻo. Những người đấu tranh trực tiếp đã không công bố văn bản nào về cuộc đấu tranh.
Việc bất tuân tôn giáo (có thể sánh với bất tuân dân sự trong đấu tranh với chính quyền) đã diễn ra cùng lúc với những cuộc thương lượng và đối thoại với quan chức nhà nước và với phái chính thống đối lập.
Tính chủ động của hàng ngũ đấu tranh chỉ mất đi trong vài trường hợp. Có lẽ, lúc khó nhất là khi cảnh sát tháo dỡ rào chắn. Nhưng, người đấu tranh vì lương tâm đã không manh động làm mất thế chủ động, họ tiếp tục đứng ngoài đường cấm để thuyết phục giới Giáo sĩ.
Những người đấu tranh vì lương tâm cũng không đưa ra yêu sách nào quá đáng. Mục tiêu đấu tranh rất đơn giản và họ đã không hề thỏa hiệp mục tiêu tiên quyết là mở đường cấm cho mọi người đi. Tuy vậy, họ cho thấy một thái độ hiểu biết dành cho đối thủ. Họ nhắm tới, và đã đạt được, một thỏa thuận mà hai bên hoàn toàn đồng thuận trước khi cuộc đấu tranh kết thúc.
(Còn tiếp)
Nguồn: Joan Bondurant, Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict, Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
* [hartal:] Tự nguyện đóng cửa hàng và ngưng kinh doanh, thường trong vòng 24 giờ.
** Rất nên lưu ý rằng bất-phản-kháng (non-resistance) không phải là đấu tranh vì lương tâm. Nhiều người hiểu lầm phương pháp của Gandhi vì không thấy được sự khác biệt giữa phản kháng tích cực, vốn thường xuyên diễn ra trong một cuộc đấu tranh vì lương tâm, với hệ quả của nó, tức hành vi bất-phản-kháng thỉnh thoảng được áp dụng, chẳng hạn như hành vi không phản kháng để tình nguyện vào tù. Chương này sẽ làm rõ giới hạn của những cụm từ như “phản kháng thụ động” khi chúng được dùng để chỉ đấu tranh vì lương tâm. Cũng cần nhấn mạnh là “bất-phản-kháng” không thể là thuộc tính của đấu tranh vì lương tâm, và chỉ mô tả một bước trong nỗ lực bất tuân dân sự mà thôi.
[i] Báo Harijan, số ra ngày 11/3/1930, như trích trong cuốn Studies in Gandhism của N. K. Bose (bản thứ hai, Calcutta: NXB Indian Associated Pubishing Co., 1947), tr. 159.
[ii] Harijan, 26/7/1942.
[iii] Harijan, 13/10/1940, như trích trong Bose, sđd, tr. 157.
[iv] Những nguyên tắc này được áp dụng và diễn giải trong Bose, sđd, tr. 175.
[v] Những điều này được diễn giải trong tác phẩm Mahatma, Vol. III của D. G. Tendulkar (Bombay: Jhaveri and Tendulkar, 1952), tr. 17.
[vi] Những bước tiến hành tương tự cũng được liệt kê trong tác phẩm kinh điển War Without Violence của Krishnalal Shridharani (New York: Harcourt, Brace, 1939), tr. 5-42.
[vii]Để biết thêm về phong trào này, có thể xem tuyển tập Indian Press Digest, Vol. II, No. 7, Magaret W. Fisher và Joan Bondurant hiệu đính (Berkeley: Institute of East Asiatic Studies of the University of California, 1955), tr. 64-80.
[viii] Dữ liệu dùng ở đây được lấy từ các nguồn sau: C. F. Andrews , Mahatma Gandhi’s Ideas (New York: Macmillan, 1930). Andrews có mặt tại chỗ trong cuộc đấu tranh nên đã viết như một nhân chứng. R. R. Diwakar, Satyagraha: Its Technique and History (Bombay: Hind Kitabs, 1946), tr. 115; Richard B. Gregg, The Power of Non-Violence (re. ed., London: George Routledge and Sons, Ltd., 1938); Các bài báo Young India đăng vào thời kỳ diễn ra đấu tranh; Các cuộc trao đổi giữa tác giả và các nhân vật: Ngài R. R. Diwadar, Richchard R. Keithahn, và Pyarelal (Nayyar).
[ix] Xem Gandhi, Young India 1924-1926 (New York: The Viking Press, 1927) về con đường được cho là của chung.
[x] Như trên, tr. 857.
February 25, 2014
Đấu tranh vì lương tâm: Phương pháp của Gandhi (2)
Joan V. Bondurant
Phan Trinh dịch
Xem kì 1
II. BẤT BẠO ĐỘNG
12.
Chữ ahimsa diễn tả một quy tắc đạo đức cổ xưa của Ấn Độ giáo, Jain giáo và Phật giáo. Chữ “a” có nghĩa phủ định nằm trước “himsa”, vốn có nghĩa là “làm hại”, tạo thành một chữ thường được dịch là “bất bạo động”.
Đặc tính của ngôn ngữ Ấn Độ giáo và Phật giáo là một từ phủ định thường ẩn chứa nhiều ý nghĩa khác không được nói ra. Chữ ahimsa, nếu hiểu toàn diện mặt ngoài, có nghĩa là “làm, nhưng không làm hại.” [i] Albert Schweitzer, trong nghiên cứu tóm lược về tư tưởng Ấn Độ, [ii] nhắc người đọc nhớ tới ý nghĩa vừa kể của ahimsa.
Xét về từ nguyên thì himsa lại xuất thân từ chữ han có nghĩa là giết hoặc gây hại, himsa có nghĩa là muốn giết hại.*** Ahimsa, vì vậy, có nghĩa là từ bỏ ý muốn giết hay làm hại. Gandhi tinh chỉnh ý nghĩa này như sau:
“Ahimsa không có ý nghĩa thô như đã từng được mô tả. Không gây tổn thương cho bất cứ sinh linh nào dĩ nhiên là một phần của ahimsa. Nhưng đó là ý nghĩa sơ đẳng nhất.
“Nguyên lý của himsa là gây tổn thương bằng cả những ý nghĩ độc ác, bằng sự nóng vội thái quá, bằng nói dối, bằng thù ghét, bằng cầu mong điều xấu cho người khác. [iii]
“Tôi đồng ý với định nghĩa rằng ahimsa không chỉ là một trạng thái vô hại tiêu cực nhưng còn là một trạng thái yêu thương tích cực, làm điều tốt cho cả kẻ ác nữa.
“Nhưng điều này không có nghĩa là phải giúp kẻ ác tiếp tục làm điều sai trái hoặc chịu đựng chúng bằng sự im lặng đồng lõa. Ngược lại, tình thương, trạng thái tích cực của ahimsa, đòi hỏi tôi phải kháng cự lại kẻ làm ác bằng cách tách ly bản thân tôi với kẻ làm ác, dù là điều này có thể đụng chạm đến anh ta hoặc gây hại cho anh ta về cả thể chất nữa.” [iv]
Ở đây, Gandhi đồng nhất ahimsa với tình thương. Sự gần gũi của khái niệm này với lòng bác ái của Thiên chúa giáo và với khái niệm agape của Hy Lạp, nói chung, rất rõ ràng.
Như sẽ thấy trong Chương III kế tiếp, quy tắc này của đấu tranh vì lương tâm đã mang lại những hệ quả xã hội thực tế thể hiện qua các hoạt động hỗ trợ và đòi hỏi mọi cuộc vận động đấu tranh vì lương tâm đều phải có một “chương trình hỗ trợ xã hội tích cực”.
13.
[Sự thật và tình thương]
Sự kết hợp không thể tách rời giữa sự thật và tình thương theo quan điểm Gandhi đã tạo thành cốt lõi của giải pháp Gandhi cho câu hỏi: để đạt mục đích, cần dùng phương tiện gì.
“… không có ahimsa sẽ không thể tìm và thấy sự thật. Ahimsa và sự thật hòa quyện vào nhau chặt chẽ đến nỗi không thể nào tháo gỡ hay tách rời được trên thực tế.
“Cả hai giống như hai mặt của một đồng tiền, hay đúng hơn, hai mặt của một đĩa kim loại không tì vết. Ai có thể nói đây là mặt trước, kia là mặt sau?
“Dù sao đi nữa thì ahimsa là phương tiện, sự thật là mục đích.
“Đã là phương tiện thì phải luôn trong tầm tay của người dùng, và như thế ahimsa là bổn phận tối hậu của chúng ta.
“Nếu chú trọng đến phương tiện, không sớm thì muộn chúng ta sẽ đạt được mục đích. Nếu hiểu được điều này, chiến thắng cuối cùng sẽ không còn là vấn đề nữa. [v]
“Sự thật là mục đích, tình thương là phương tiện dẫn đến mục đích.
“Chúng ta biết thế nào là tình thương hoặc bất bạo động, mặc dù khó có thể tuân thủ luật lệ của tình thương.
“Cũng vậy, chúng ta chỉ biết được một phần sự thật mà thôi.
“Con người khó có kiến thức hoàn hảo về sự thật, cũng như khó thực hành bất bạo động đến mức hoàn hảo.” [vi]
Để đến được mục đích là sự thật – theo nghĩa tuyệt đối – con đường cần phải đi qua việc thử nghiệm những sự thật tương đối.
Việc thử nghiệm sự thật chỉ có thể được thực hiện bằng cách nghiêm túc tuân thủ ahimsa – tức hành động dựa trên nguyên tắc không gây hại, hoặc đúng hơn, là hành động dựa trên tình thương.
Vì sự thật, xét như nhu cầu của con người, sẽ bị hủy diệt bằng bạo động, bất kể do bên này hay bên kia. Vì vậy, bất bạo động, hoặc ahimsa, trở thành giá trị tối thượng, một tiêu chuẩn có thể hiểu được, dùng để xác định thế nào là hành động đúng đắn.
14.
[Không gây hại, không thù ghét]
Nếu có một giáo điều nào trong triết lý của Gandhi thì đó là điều này: Cách duy nhất để trắc nghiệm sự thật chính là hành động không gây hại.
Gandhi gọi những người đồng hành với mình là những “người đi tìm sự thật”. Họ theo những tôn giáo khác nhau, hoặc không theo đạo nào, họ có những quan điểm rất khác nhau, chẳng hạn về quan điểm tổ chức và cấu trúc xã hội, hoặc về những chương trình phục vụ cộng đồng trong một xã hội bất bạo động.
Ông thừa nhận nhiều lúc có sai sót và do dự trên con đường tìm kiếm sự thật, nhưng có một nguyên tắc mà ông giữ vững đến cùng đó là nguyên tắc ahimsa – nguyên tắc duy nhất và tối thượng để khám phá những sự thật trong xã hội.
Ông nhấn mạnh và yêu cầu rằng: “Ai đã tham gia vào Cộng đoàn [những người đấu tranh vì lương tâm] thì phải chấp nhận ý nghĩa đích thực này”. Và “ý nghĩa này” của ahimsa đã đưa ông vào một lĩnh vực cao hơn hẳn, thay vì chỉ là không-giết-hại.
“Ahimsa đúng nghĩa đòi hỏi ta không được xúc phạm bất cứ người nào, ta không được nuôi dưỡng những ý nghĩ khắc nghiệt dù là đối với người ta cho là kẻ thù …
“Nếu ta căm ghét hành vi của một người bạn, hoặc hành vi của một kẻ thù, thì ta vẫn chưa giữ đúng quy tắc ahimsa…
“Khi nuôi dưỡng ý nghĩ như thế, ta đã xa rời ahimsa. Ai tham gia Cộng đoàn thì phải chấp nhận ý nghĩa đích thực này.
“Điều đó không có nghĩa ta thực hành được toàn bộ quy tắc. Còn xa lắm. Đó là một lý tưởng mà ta phải vươn tới, và cũng là một lý tưởng ta phải vươn tới ngay giây phút này, nếu có thể được.” [vii]
Nói như thế nhưng Gandhi rất hiểu sức người có hạn trong việc thực hiện bất bạo động đúng nghĩa. Như sẽ thấy trong Chương III cuốn sách này, sự bất toàn được dự đoán trước, và ở mức độ nào đó, được châm chước trong các cuộc đấu tranh vì lương tâm của Gandhi.
Ở đây, khi tìm hiểu thêm về ý nghĩa của đấu tranh bất bạo động, chúng ta sẽ đến với quy tắc cốt lõi thứ ba của đấu tranh vì lương tâm, tự khổ, vì rằng:
“Bất bạo động, theo đúng tính năng và đòi hỏi của nó, có nghĩa là chịu khổ có ý thức.
“Nó không có nghĩa là co rúm lại trước ý chí của kẻ ác, nhưng có nghĩa là đặt toàn bộ lương tâm mình chống lại ý chí của bạo chúa.
“Thực hiện được điều luật để tồn tại này trong đời mình thì một cá nhân lẻ loi có thể thách đố toàn bộ sức mạnh của một đế chế bất công …” [viii]
***
III. TỰ KHỔ
15.
“Tình thương không đòi hỏi, tình thương luôn cho đi.
“Tình thương chấp nhận khổ đau, không bao giờ căm ghét, không bao giờ trả thù. [ix]
“Thử thách của tình thương là “tapasya” và “tapasya” có nghĩa là tự khổ.” [x]
Luật hành xác Du-già [yoga] kinh điển đòi hỏi sự tự chế và kỷ luật tự thân, cùng với nguyên tắc tapas, có nghĩa sự hành xác để hối cải hoặc khổ hạnh, là một phần quen thuộc của văn hóa Ấn Độ. Chương IV sách này sẽ nói về bối cảnh văn hóa của tập quán khổ hạnh, nhưng ở đây, xin chỉ nói về ý nghĩa của tự khổ, hoặc tapasya, như một thuộc tính của đấu tranh vì lương tâm.
Tự khổ trong quan điểm đạo đức của Gandhi có một số đặc tính khác hẳn với thực hành tapas hoặc khổ hạnh thường diễn ra vì ý nghĩa riêng của nó.
Tự khổ trong đấu tranh bất bạo động trước hết nhắm vào mục tiêu thuyết phục về mặt đạo đức đối tượng của cuộc đấu tranh.
Nó không phải là biện pháp thay thế khi không có khả năng dùng bạo lực để chiến thắng đối thủ; nó không phải là “vũ khí của kẻ yếu”.
Tự khổ rõ ràng khác hẳn sự hèn nhát, và cũng không phải là điều có thể áp dụng bừa bãi. Tự khổ khác với bạo động ở chỗ bạo động hàm ý làm hại người khác.
“Chịu khổ nơi bản thân mình… là cốt lõi của bất bạo động và là chọn lựa thay thế cho bạo động chống lại kẻ khác.
“Không phải vì xem nhẹ mạng người nên tôi sẵn lòng ủng hộ việc hàng ngàn người tự nguyện hy sinh đời mình nhân danh đấu tranh vì lương tâm, nhưng vì tôi tin rằng cuối cùng nó sẽ giúp cho ít người thiệt mạng nhất, ngoài ra, nó còn tôn vinh những người hy sinh và làm cho thế giới đạo đức hơn nhờ hy sinh của họ.” [xi]
16.
[Bất bạo động: Vũ khí của kẻ mạnh]
Việc nhấn mạnh đến tự khổ cũng có tính thiết thực của nó.
Tự khổ và tự nguyện chấp nhận tổn thương là một chủ trương tích cực chứ không hề là một biện pháp vớt vát cuối cùng.
Gandhi đã rất thận trọng phân biệt phương pháp này với hình thức đấu tranh thụ động, vốn có nghĩa thiếu khả năng dùng bạo lực, hoặc chỉ là một bước đệm trước khi dùng bạo lực.
Trong quá trình thực hiện đấu tranh vì lương tâm tại Nam Phi, [xii] Gandhi nhắc tới lời một người ủng hộ, khi ông này giới thiệu Gandhi với công chúng. Người này nhận xét rằng người Ấn Độ “phải dùng đến đấu tranh thụ động vốn là vũ khí của kẻ yếu.” [xiii]
Gandhi tiếp tục nhắc tới “bất bạo động của kẻ yếu” trong đời mình mỗi khi ông muốn phê bình học trò, hoặc những lúc – như trong những tháng cuối trước khi mất – ông nghĩ mình đã không truyền đạt cho người khác ý nghĩa đầy đủ của đấu tranh vì lương tâm, rằng bất bạo động là vũ khí của kẻ mạnh.
Đấu tranh vì lương tâm đạt đến đỉnh điểm khi những người thực hành nó đang ở vị trí, như vẫn thường xảy ra, có thể sử dụng vũ lực một cách hiệu quả nhưng lại khước từ vũ lực và sẵn sàng đón nhận khổ đau đến với mình.
“Đấu tranh thụ động có thể cùng sánh đôi với vũ lực. Nhưng đấu tranh vì lương tâm không bao giờ đi được với sức mạnh thô bạo, vốn phủ định lẫn nhau.
“Trong đấu tranh thụ động luôn hiện diện ý đồ quấy phá đối phương và sẵn sàng chấp nhận những khó khăn vì hành vi quấy phá này.
“Trong khi đấu tranh vì lương tâm thì không hề có mảy may ý tưởng nào gây hại cho đối phương. Đấu tranh vì lương tâm chủ trương chinh phục kẻ thù bằng cách tự mình chịu khổ.” [xiv]
17.
[Hèn nhát gây đồi bại]
Gandhi không muốn thu hút những người sợ cầm vũ khí, hoặc không thấy mình có khả năng kháng cự vào phong trào đấu tranh vì lương tâm.
Ông viết “Tôi thực sự tin rằng nếu chỉ được chọn giữa hèn nhát và bạo động, thì tôi khuyên nên chọn bạo động.” [xv] Gandhi luôn nhấn mạnh rằng hành vi bất bạo động “không bao giờ làm con người đánh mất nhân phẩm”, trong khi sự hèn nhát thì “luôn làm con người trở nên đồi bại”. [xvi]
“Không thể dạy bất bạo động cho người sợ chết và không có sức kháng cự.
“Một chú chuột nhắt run sợ không phải là kẻ bất bạo động vì nó luôn bị mèo ăn thịt.
“Chuột cũng sẽ sung sướng ăn thịt ả mèo kia nếu nó có thể, nhưng ngược lại nó chỉ tìm cách thoát khỏi nanh vuốt con mèo.
“Ta không gọi chú chuột kia là hèn nhát vì nó sinh ra đã thế và chỉ làm được như thế.
“Nhưng một con người, khi đứng trước nguy hiểm, mà lại cư xử như chú chuột kia thì phải gọi là hèn nhát.
“Hắn nuôi dưỡng bạo động và thù hận trong tim và sẵn sàng giết hại kẻ thù nếu có thể, trong khi tránh cho mình không bị trầy trật.
“Hắn hoàn toàn xa lạ với bất bạo động.” [xvii]
Nếu như ahimsa trong quan niệm đạo đức của Gandhi ngoài ý nghĩa bất bạo động còn có thêm ý nghĩa tích cực là tình thương và thiện chí, thì tự khổ cũng đòi hỏi thái độ tích cực là lòng dũng cảm.
Ta sẽ thấy (trong Chương III) người đấu tranh vì lương tâm được huấn luyện để phát triển lòng dũng cảm và khắc sâu tinh thần kỷ luật giúp họ vượt qua sợ hãi ra sao. Vì rằng:
“Giống như con người phải học nghệ thuật chém giết khi được huấn luyện về bạo động, thì con người cũng cần phải học nghệ thuật xả thân khi được huấn luyện về bất bạo động …
“Người nhiệt thành với bất bạo động cần phải trau giồi khả năng hy sinh ở mức cao nhất để có thể hoàn toàn vượt qua sợ hãi …
“Người chưa vượt qua được mọi sợ hãi thì không thể thực hành ahimsa ở mức hoàn hảo.” [xviii]
Trong suốt những lời giảng của mình về tự khổ, Gandhi nhấn mạnh đến việc cần phân biệt giữa sẵn sàng chịu khổ và sự hy sinh.
Đầu hàng không bao giờ là một phần của đấu tranh vì lương tâm.
Thúc thủ trước sự sỉ nhục phải luôn được chống trả quyết liệt, và ở chỗ cần thiết, những khổ đau lớn hơn cho thân thể mình, kể cả cái chết, là điều đón nhận được.
Trong bất cứ trường hợp nào, người đấu tranh bất bạo động phải từ chối làm những gì mà lương tâm mình không cho phép, và phải giữ gìn nhân cách riêng mình, dù đó có nghĩa là mất mát tài sản hay ngay cả mạng sống. [xix]
18.
[Hy sinh và nhân phẩm]
Trong ba nguyên tắc cốt lõi của đấu tranh vì lương tâm, tự khổ dường như là nguyên tắc ít được chấp nhận nhất đối với tư duy của người phương Tây.
Tuy nhiên, sự hy sinh như thế rất có thể lại là phương tiện tối hậu để đạt được một điều rất được đề cao trong luân lý học phương Tây, đó là: phẩm giá của một con người.
Trước khi tìm hiểu về vai trò của cá nhân trong quan niệm đạo đức của Gandhi, cũng nên biết qua nhận định này của một nhà tư tưởng phương Tây đương thời:
“Có hai loại hy sinh hoàn toàn khác nhau.
“Một trong những bi kịch có thực của đời người là nhu cầu của cái tôi thể xác và cái tôi tinh thần có thể xung đột nhau; và thực ra ta cần phải hy sinh cái tôi thể xác để khẳng định sự toàn vẹn của cái tôi tinh thần.
“Sự hy sinh này không bao giờ mất đi chất bi thương của nó.
“Cái chết không bao giờ ngọt ngào, kể cả khi chết vì lý tưởng cao đẹp nhất.
“Vị đắng ngắt của nó không thể nói được bằng lời, nhưng dù vậy, nó vẫn là sự khẳng định tối hậu nhân cách của một con người.” [xx]
***
IV. VAI TRÒ CÁ NHÂN
19.
Cuộc đời của Gandhi là ví dụ thực tế nhất cho thấy một cá nhân có thể làm gì trong xã hội.
Trong thời đại mà chỗ đứng của con người cá nhân đang bị đe dọa và bóng ma của kiểm soát toàn triệt đang ngoi dậy cùng trời cuối đất, thì Gandhi lại khẳng định rằng không có bất cứ quyền lực nào trên trái đất này có thể cưỡng ép được một người làm điều trái với lương tâm mình.
Phương pháp đấu tranh vì lương tâm đưa ra một phương tiện và gợi mở một quy trình, qua đó đấu tranh có thể trở thành một quyền lực tích cực.
Và trong cuộc đấu tranh đó yếu tố tự khổ, hay tự hy sinh, chính là giải pháp thay thế tuyệt đỉnh.
Với Gandhi, tự do và việc bảo vệ sự chính trực của một cá nhân là những giá trị cao hơn cả.
“Gông cùm trói buộc một người sẽ tan tành vào chính giây phút người ấy tự xem mình là một người tự do.
“Người ấy sẽ nói với chủ rằng: “Tôi là nô lệ của ông cho tới giờ phút này, nhưng từ nay trở đi tôi không còn là nô lệ nữa. Ông có thể giết tôi nếu muốn. Nhưng nếu ông để tôi sống, nếu ông trả tự do cho tôi một cách tự nguyện, thì tôi sẽ không đòi hỏi ông thêm điều gì. Ông đã từng cho tôi cơm ăn, áo mặc, dù tôi có thể tự lo cơm ăn và áo mặc bằng sức lao động của mình…” [xxi]
20.
[Tự do không tùy tiện]
Gandhi quan tâm đến tự do cá nhân không phải là để đề cao cái tôi cá nhân. Ông không có lập trường cực đoan như những người phái vô chính phủ trong quan niệm về bản chất của tự do.
“Nếu một cá nhân không còn giá trị gì nữa, thì xã hội sẽ còn gì?
“Tự do cá nhân là điều duy nhất có thể khiến một người tự nguyện hy sinh trọn vẹn để phụng sự xã hội.
“Nếu bị lấy mất tự do, anh ta sẽ trở thành một thiết bị tự động và xã hội sẽ phá sản.
“Không thể xây dựng được một xã hội, nếu tự do cá nhân bị tước đoạt.” [xxii]
Cũng vậy, quan điểm của Gandhi về tự do cá nhân không dẫn đến một dạng đạo đức tùy tiện. Ý chí con người có thể là tiền đồn cuối cùng bảo vệ tự do không bị tước đoạt, nhưng ý chí ấy không hoạt động một mình. Dù đường lối của Gandhi có vẻ đề cao quyết định của từng cá nhân, vẫn có nhiều chứng cớ cho thấy Gandhi rất hiểu những ảnh hưởng không thể chối bỏ của môi trường và những định chế xã hội đối với đời sống một con người. Ông viết:
“Bọn côn đồ không từ trên trời rơi xuống, cũng không từ dưới đất chui lên như quỷ ma.
“Chúng là sản phẩm của một xã hội vô tổ chức, và vì thế xã hội phải chịu trách nhiêm vì sự có mặt của chúng. Nói cách khác, nên nhìn chúng như triệu chứng của sự hư hỏng trong xã hội chúng ta.” [xxiii]
Một điều cho thấy chủ trương của Gandhi cũng khác xa quan niệm của những người theo chủ nghĩa tiền định, đó là ông tin rằng: Ý chí cá nhân và lý trí của anh ta có thể khiến xã hội thay đổi.
Chúng ta từng nhắc rằng phương pháp đấu tranh vì lương tâm của Gandhi tránh xa cạm bẫy của chủ nghĩa tương đối trong đạo đức, bằng cách xác lập những tiêu chuẩn đánh giá khách quan dựa trên ảnh hưởng của nó đối với xã hội. Ở đây, tôi muốn thêm rằng việc Gandhi bảo vệ quyền tự do cá nhân, và quyền lực của ý chí cá nhân, tuy khiến ông hoàn toàn khác xa với chủ nghĩa tiền định, nhưng vẫn không dẫn tới một thái cực khác là chủ nghĩa đạo đức tùy tiện. Vì quan niệm đạo đức Gandhi không chỉ được định đoạt thông qua các nhu cầu của con người trong bối cảnh xã hội, nó còn phải được thử nghiệm bằng thước đo bất bạo động nữa.
Hãy xem xét qua mối tương quan giữa những nguyên lý cốt lõi tạo thành đấu tranh vì lương tâm, xem chúng ảnh hưởng đến nhau thế nào, để thấy được diễn biến thực tế.
***
V. TƯƠNG QUAN GIỮA SỰ THẬT, BẤT BẠO ĐỘNG & TỰ KHỔ
21.
Sự thật trong phương pháp đấu tranh vì lương tâm của Gandhi, như trình bày ở trên, là sự thật tương đối.
Tiêu chuẩn khách quan để xác định đâu là sự thật chính là tiêu chuẩn nhân bản, dựa trên nhu cầu của con người.
Phương tiện để đi đến sự thật theo ý nghĩa đó phải không gây tổn hại cho con người, hoặc phá hoại, thay vì thực hiện, nhu cầu của con người. Nếu điều đó xảy ra thì sự thật chỉ còn là trò đùa bôi bác.
Việc tìm kiếm sự thật, hay giải quyết xung đột phát sinh từ những ý kiến khác nhau về sự thật, phải được xử lý thông qua hành vi bất bạo động.
Khi từ chối gây tổn hại cho người khác, người bất bạo động thường phải đương đầu với bạo động có thể có do kẻ đối đầu gây ra. Trong trường hợp này, tự khổ chính là phương tiện tiếp theo để sự thật tương đối được trắc nghiệm.
Ba nguyên lý cốt lõi của đấu tranh vì lương tâm sẽ dẫn đến các hiệu quả tương đương.
Sự thật trong đấu tranh vì lương tâm sẽ dẫn tới chủ nghĩa nhân bản đạo đức.
Cũng vậy, ahimsa (bất bạo động), vốn chứa đựng ý nghĩ tình thương, dẫn đến việc phụng sự xã hội.
Tự khổ – không phải thứ tự khổ cho chính nó, mà để chứng tỏ sự chân thành, đồng thời xuất phát từ việc khước từ làm hại đối phương trong khi vẫn giữ lấy sự thật – dẫn đến việc hy sinh và sẵn lòng hy sinh, dù có thể chết.
Đó là những nguyên lý chứa đựng trong đấu tranh vì lương tâm.
Khi những nguyên lý này được sử dụng trong những cuộc vận động xã hội hay chính trị cụ thể thì những hình thức đấu tranh bất tuân dân sự, như bất hợp tác, đình công bất bạo động, và các hoạt động hỗ trợ sẽ được thiết lập và điều chỉnh phù hợp.
Những kỹ thuật cụ thể này – mà Gandhi thường gọi là những chi nhánh của đấu tranh vì lương tâm – sẽ được bàn tới trong Chương III cuốn sách này.
***
[Ghi chú: Sau đoạn trên, cuối Chương II, Bondurant dành một đoạn nói về nội dung Chương V và VI. Xin lược bớt đoạn này vì không liên quan đến nội dung chính. ND]
(Còn tiếp)
Nguồn: Joan Bondurant, Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict, Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
[i] Xem Louis Renou, trong bài “Gandhi and Indian Civilization” trong tập Gandhi Memorial Peace Number do Kshitis Roy hiệu đính (Santiniketan [India]: The Visva-Bharati Quarterly, 1949), tr. 230-238.
[ii] Indian Thought and Its Development, của Charles E. B. Russell (London: Holder and Stoughton, 1926), tr. 79
*** Himsa thực ra xuất phát từ hins, nghĩa là làm hại, giết, hoặc hủy diệt, và hins lại có gốc từ han, có nghĩa tiêu diệt, giết chết, hoặc làm hại. (Xem Sanskrit-English Dictionary, Etymologically and Philosophically Arranged, bản cải tiến [Oxford: Clarendon Press, 1899]).
Diễn giải này tương tự với cách hiểu của Whitney, người cho rằng gốc của hins “có lẽ là hình thức thu gọn và xuất phát từ …” han. (Xem William Dwight Whitney, The Roots, Verb-Form, and Primary Derivatives of the Sanskrit Language [Leipzig: Breitkopf and Hartel; London: Trubner and Co., 1885]), tr. 205.
[iii] M. K. Gandhi, From Yeravda Mandir: Ashram Observances, do Valji Govindji Desai dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati (3rd ed., Ahmedabad: Navajivan, 1945), tr. 7.
[iv] Young India, 19/1/1921, như trích trong Chander, sđd, tr. 412.
[v] Gandhi, From Yeravda Mandir: Ashram Observances, tr. 8.
[vi] Như trên, tr. 19.
[vii] Từ một địa chỉ của YMCA, Madras, 16/2/1916, như trích trong Chander, sđd, tr. 405-406.
[viii] Young India, 11/8/1920, như trích trong Chander, sđd, tr. 409-410.
[ix] Young India, 9/7/1925, như trích trong Chander, sđd, tr. 352
[x] Young India, 12/6/1922, như trích trong Chander, sđd, tr. 352
[xi] M. K. Gandhi, Non-Violence in Peace & War (2nd., Ahmedabad: Navajivan, 1944), tr. 49.
[xii] M. K. Gandhi, Satyagraha in South Africa, Valji Govindji Desai dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati (Madras: S. Ganesan, 1928), tr. 175.
[xiii] Như trên, cùng trang.
[xiv] Như trên, tr. 179.
[xv] Young India, 11/8/1920, như trích trong Chander, sđd, tr. 408.
[xvi] Young India, 31/10/1929.
[xvii] Harijan, 20/7/1935, như trích trong Chander, sđd, tr. 417-418.
[xviii] Harijan, 1/9/1940, như trích trong Chander, sđd, tr. 422.
[xix] M. K. Gandhi, Non-Violence in Peace & War, tr. 360.
[xx] Erich Fromm, Escape from Freedom (New York, Toronto: Rinehart, 1941), tr. 268.
[xxi] Trích từ diễn văn của Gandhi trước Ủy ban Đại hội Toàn quốc Ấn Độ, sau khi Đảng Quốc đại thông qua Nghị quyết “Rút khỏi Ấn Độ” nổi tiếng vào ngày 8/8/1942. Trích từ Tendulkar, sđd, Vol VI, tr. 199.
[xxii] Harijan, 1/2/1942, như trích trong Chander, sđd, tr. 321.
[xxiii] M. K. Gandhi, Non-Violence in Peace & War, tr. 390-391.
February 24, 2014
Đấu tranh vì lương tâm: Phương pháp của Gandhi (1)
Joan V. Bondurant
Phan Trinh dịch
Giới thiệu của người dịch
Tuy âm thầm nhưng có thật, tuy quy mô nhỏ nhưng tác dụng sâu, xã hội dân sự tại Việt Nam trong thời gian qua có thể nói đang thực sự chuyển mình. Chuyển từ “0” thành “1”. Chuyển từ không thành có. Chuyển từ nhận thức, đến hoạt động hỗ trợ người trong cuộc, đến vận động dư luận rộng rãi bên ngoài. Một phương pháp hành động vì nhân quyền và sự thật dường như đang định hình. Và, lạ thay, nó rất gần với những gì Gandhi đã nghĩ và đã làm cách đây trên dưới 100 năm.
Thực vậy, gần đây đã có một số cách nhìn khác về “bạo lực” và “bạo động”:
- Khi trang mạng Bauxite Việt Nam mong muốn tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ ngưng tuyệt thực lần hai (sau lần thứ nhất gây tiếng vang), lý do chính được đưa ra là: “Lòng tin vào chính nghĩa không cho phép con người dùng bạo lực: bạo lực từ phía nhà tù…, cũng như sự tuyệt thực – nên được coi như một dạng bạo lực cuối cùng của kẻ nạn nhân của bạo lực.” (Bauxite VN, 17/10/2013)
- Trong bài “Trị căn hơn trị chứng”, nhà nghiên cứu triết học Bùi Văn Nam Sơn tin rằng: “Bất công xã hội, tự nó, là bạo động. Đặc quyền, đặc lợi là bạo động. Độc thoại trên diễn đàn thông tin đại chúng là bạo động. Ngôn ngữ mạ lỵ, thiếu tương kính là bạo động …” (Tuổi trẻ, 31/12/2013)
Gần đây, cũng bắt đầu có những hoạt động hỗ trợ thiết thực:
- Ngày 25/11/2013, Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam được thành lập, ghi rõ chủ trương: “… để đại diện một cách độc lập, công bằng và vô vị lợi cho toàn thể những người phụ nữ đã, đang và sẽ bị tổn thương về Nhân quyền.”
- Ngày 6/1/2014 cuộc vận động quyên góp “Nhịp cầu Hoàng Sa” đã được các nhà báo Huy Đức, Kim Hạnh, Nguyễn Thế Thanh và bằng hữu phát động để “… làm điều gì đó thiết thực hơn cho thân nhân những người lính đã hy sinh ở Hoàng Sa và cho những người lính từ Hoàng Sa trở về sống âm thầm suốt 40 năm qua.” Sau đó, Nhịp cầu còn mở rộng để hỗ trợ gia đình những người lính chiến đấu và hy sinh tại Gạc Ma.
- Ngày 14/1/2014, chương trình “Quà Tết cho Tù nhân Lương tâm” do trang mạng Diễn đàn Xã hội Dân sự và nhóm Bầu bí Tương thân đã khởi động ở Nghệ An, để sau đó thực hiện ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng… Dù bị cản trở, các cuộc thăm viếng vẫn diễn ra. Và lời kêu gọi khó quên này đã được tiến sĩ Nguyễn Quang A gióng lên: “1 giờ mà quý vị đến thăm họ để biết hoàn cảnh thật của họ tại gia đình họ, thì 1 giờ đó có thể giúp quý vị hiểu nhiều hơn 1 năm chỉ đọc và nghe. Hãy thường xuyên đến với họ, bày tỏ sự đoàn kết với họ và đấy là một trong những cách phá vỡ sự cô lập chết người mà một số kẻ lạm dụng quyền lực đã và đang gây ra…” (Bauxite VN, 22/1/2014)
- Ngày 18/2/2014, . Ngoài mục tiêu “Đấu tranh cho một nền pháp chế biết đề cao nhân phẩm, tôn trọng nhân quyền, thăng tiến tự do, xây dựng dân chủ…”, Hội còn ghi trong Điều lệ chủ trương “Duy trì các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ cho các cựu tù nhân lương tâm cũng như các thân nhân gia đình của những tù nhân lương tâm còn bị giam cầm.”
Và gần đây, cũng nở rộ hoạt động quảng bá cho nhân quyền, bao gồm:
- Những cuộc dã ngoại nhân quyền, những buổi phổ biến bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân Quyền, những cuộc tiếp xúc với Đại sứ Quán các nước về nhân quyền, những chuyến đi gặp gỡ và điều trần tại các tổ chức và diễn đàn nhân quyền quốc tế, và cột mốc quan trọng là cuộc điều trần UPR ngày 5/2/2014 tại Genève của Mạng lưới Blogger Việt Nam cùng các tổ chức xã hội dân sự từ Việt Nam và hải ngoại khác.
***
Không hẹn mà gặp, những cách nhìn về bạo động như kể trên rất gần với cách nhìn của Mohandas Gandhi (được tôn kính gọi là Mahatma Gandhi); những hoạt động hỗ trợ vừa kể cũng là những hoạt động hỗ trợ mà Gandhi chủ trương; việc quảng bá cho dư luận biết về cuộc đấu tranh cũng là điều Gandhi rất chú trọng.
Tất cả đều là những thành phần không thể thiếu của phương pháp đấu tranh Satyagraha, được xem như di sản lớn nhất Gandhi để lại cho Ấn Độ và nhân loại.
Satyagraha thường được dịch là “đấu tranh bất bạo động”, nhưng ở đây, xin được dịch là đấu tranh vì lương tâm (Satyagraha nghĩa gốc là “giữ lấy sự thật”, cũng có thể hiểu là bảo vệ, là hành động, là dấn thân vì sự ngay thẳng, cái đúng, cái thật, lẽ phải, điều chính trực nằm ngay trong lương tâm mỗi người, được từng người cảm nhận).
***
Nhưng, đấu tranh vì lương tâm, ngoài yếu tố bất bạo động, nhận thức mới, các hoạt động hỗ trợ và quảng bá, vẫn còn có những nguyên lý, bước tiến hành và kỹ thuật khác. Cơ bản hơn, phương pháp này còn được xây dựng trên một nền tảng tư duy mà nhà nghiên cứu hàng đầu về Gandhi, Joan V. Bondurant, tác giả cuốn Conquest of Violence được trích dịch ở đây, gọi là “Biện chứng Gandhi” (Bondurant, tr. 237).
Khác hẳn thứ biện chứng chủ trương A phải diệt B, nông dân diệt địa chủ, công nhân diệt tư bản để tiến lên chủ nghĩa xã hội…, biện chứng Gandhi tin rằng: A không diệt B để tiến bộ.
Nhưng, nếu không diệt cũ, diệt sai, diệt cộng, diệt độc tài thì có thể dựng mới, làm đúng, và xây nền dân chủ được không? Đây là câu hỏi hóc búa. Vâng, không diệt cũ thì dựng mới cách nào?
Trả lời: Với Gandhi, người đấu tranh vì lương tâm “không tìm chiến thắng một chiều, mà tìm cách mở đường cho một dàn xếp mới tốt nhất có thể. Người đấu tranh muốn thắng, nhưng không phải là thắng đối thủ, mà là thắng tình trạng xung đột bằng một hợp đề tốt nhất có thể.” (Bondurant, tr. 196)
Với Gandhi, phương tiện ra sao sẽ dẫn đến mục đích như vậy, phương tiện cũng là mục đích, gieo gì thì gặt nấy, nhân nào thì quả nấy. Điều này có thể diễn giải thành: Nếu dùng phương tiện là bạo lực nhằm tiêu diệt đối thủ thì sẽ không thể đạt mục đích dân chủ đích thực, vì dân chủ vốn là cuộc sống chung ôn hòa của những kẻ khác nhau, thậm chí bất đồng với nhau.
Gandhi cũng khuyến cáo: “Nếu không truyền lại cho thế hệ kế thừa một phương thuốc hữu hiệu để chống lại sự lạm quyền, thì ta sẽ thả lỏng cho ma lực của thù hận và ý chí trả thù mặc sức lộng hành”. Ông tin rằng: “Đấu tranh vì lương tâm là cách duy nhất … để ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố.” (Bondurant, tr. 235)
Trong 50 năm qua, đáp án cho câu hỏi hóc búa nêu trên cũng đã lần lượt được Martin Luther King (Mỹ), Václav Havel (Tiệp Khắc), Nelson Mandela (Nam Phi) và Aung San Suu Ky (Miến Điện) tìm hiểu, thử nghiệm và áp dụng thành công. Họ đã vượt qua bạo động. Họ không cần diệt đối thủ để tiến bộ. Và hầu hết đều đã lấy cảm hứng từ phương pháp đấu tranh vì lương tâm của Gandhi.
Đấu pháp có lẽ vốn nhiều màu, từ đen ngòm, đến đỏ máu, đỏ cờ, đến xanh lục, nhung, cam, hoặc trắng như tã hài nhi, như khăn tang quả phụ, như nón lá dân oan, hoặc nâu sồng như áo nhà sư, hoặc không màu, chỉ có mùi hương hoa nhài. Lấy máu đòi máu thì máu cứ chảy, cách mạng thất bại, mạng người thì mất, như người Việt đã thấy trên quê hương Việt Nam khổ đau này.
***
Đấu tranh vì lương tâm là gì? Làm thế nào để bất tuân cá nhân – trước một luật lệ xúc phạm lương tâm và nhân phẩm – trở thành bất tuân đại chúng? Làm thế nào để bất bạo động tạo được áp lực với nhà cầm quyền? Bất bạo động có phải là chọn lựa giai đoạn khi địch mạnh ta yếu, hay là chọn lựa chiến lược duy nhất? Bạo quyền có chuyển hóa, ngồi xuống “nói chuyện phải trái” với quần chúng tay không tấc sắt được không? Vì sao bất bạo động được dùng nhiều nhưng ít được hiểu đúng hay làm đúng? Làm thế nào để hóa giải và tìm được điểm chung với đối phương?… Những câu hỏi này phần nào được giải mã trong hai chương sách được dịch ở đây.
Đó là Chương II và Chương III cuốn Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict (vượt qua bạo động – triết học về xung đột, theo Gandhi), của Joan Bondurant, do Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104.
Chương II nói về những nguyên lý nền tảng của phương pháp đấu tranh vì lương tâm. Chương III nói về năm (05) chiến dịch đấu tranh vì lương tâm tiêu biểu đã diễn ra tại Ấn Độ với những thông tin xúc tích và cụ thể.
Hy vọng hai chương sách này sẽ là một tham khảo ít nhiều có ích về phương pháp đấu tranh vượt qua bạo động, giải quyết xung đột trong ôn hòa, cho cuộc đấu tranh vì nhân quyền, sự thật và dân chủ tại Việt Nam hiện nay.
***
Để tiện theo dõi, Chương II, III sẽ được gọi là Phần I, II. Các đoạn trong Phần I cũng sẽ được đánh số thay cho số trang. Tựa đề và tiêu đề trong ngoặc vuông do người dịch đặt. Hai phần sẽ gồm những nội dung sau:
PHẦN I
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
Sự thật
Bất bạo động
III. Tự khổ
Vai trò cá nhân
Tương quan giữa sự thật, bất bạo động và tự khổ
PHẦN II
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM: TÁC ĐỘNG CHÍNH TRỊ VÀ XÃ HỘI
Cốt lõi khi thực hành đấu tranh vì lương tâm
Những nguyên tắc nền tảng
Nội quy
Những bước tiến hành một chiến dịch
Satyagraha (đấu tranh vì lương tâm) hay Duragraha (bất bạo động quyết liệt)?
III. Phân tích năm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm
Đấu tranh đòi lại đường qua đền Vykom
Đúc kết chiến dịch Vykom
Đấu tranh của nông dân Bardoli chống chính quyền Bombay
Đúc kết chiến dịch Bardoli
Đấu tranh của công nhân Ahmedabad
Đúc kết chiến dịch Ahmedabad
Đấu tranh toàn quốc chống luật Rowlatt
Đúc kết chiến dịch Rowlatt
Đấu tranh toàn quốc chống luật muối
Đúc kết chiến dịch muối
Đúc kết năm chiến dịch đấu tranh vì lương tâm
________________________
PHẦN I
ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM – NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
1.
“Thưa ông Gandhi, có phải ông là tác giả của phong trào đấu tranh vì lương tâm?”
“Thưa ngài, đúng vậy.”
“Ông giải thích thêm được không, ngắn gọn thôi?”
Ngài Hunter đã mở đầu cuộc thẩm vấn Mohandas Gandhi[1] như thế. Hunter là Chủ tịch Ủy ban Điều tra đợt vận động toàn quốc đầu tiên của phong trào đấu tranh vì lương tâm tại Ấn Độ.
Và Gandhi trả lời:
“Đó là cách đấu tranh nhằm thay thế những cách đấu tranh bạo động khác, và là cuộc đấu tranh dựa hoàn toàn vào sự thật…”
2.
Là một phương pháp “nhằm thay thế những cách đấu tranh bạo động khác”, đấu tranh vì lương tâm ra đời tại Nam Phi, rồi được tiếp nối tại Ấn Độ.
Triết lý đấu tranh này tuy không phát sinh từ lý thuyết hay được trình bày trên giấy trắng mực đen, trong một văn bản có logic hay hệ thống, nhưng nền tảng tư tưởng và hành động của nó – được rút tỉa và bổ sung thông qua các cuộc đấu tranh xã hội và chính trị trên thực tế – lại hiện ra rất rõ trước mắt những ai muốn tìm hiểu, hiểu để thách thức, để áp dụng, hay cả để chống đối.
Đấu tranh vì lương tâm chỉ có vài nguyên lý cốt lõi, và mang lại hiệu quả nhiều hay ít tùy vào việc người thực hành hiểu về những điểm cốt lõi đó nhiều hay ít, đồng thời tùy thuộc vào kỹ năng áp dụng chúng trong tình huống đấu tranh cụ thể.
Nếu không hiểu những điểm cốt lõi này, hoặc không thấy chúng đã được tinh tế vận dụng vào thực tế ra sao để trở thành một quy trình đấu tranh, thì rất dễ trông gà hóa cuốc, xem những hình thức đấu tranh như đình công, tuyệt thực, biểu tình tuần hành… là phương pháp của Gandhi, dù trên thực tế đó chỉ là những hình thức đấu tranh đã cũ.
3.
Tìm hiểu ý nghĩa mà Gandhi gán cho các ý niệm như sự thật, bất bạo động và tự khổ cũng là khám phá cốt lõi tư tưởng của Gandhi. Nhưng, đế hiểu thấu đáo phương pháp đấu tranh này, cũng cần hiểu thêm về tương quan qua lại giữa sự thật, bất bạo động và tự khổ, và vai trò của cá nhân như người quyết định tối hậu trong phương pháp đấu tranh vì lương tâm.
***
I. SỰ THẬT
4.
Gandhi nói rằng “Satyagraha nghĩa là giữ lấy sự thật, và vì vậy cũng có thể gọi đó là quyền lực của sự thật [Truth-force]”.
Nhưng, Gandhi nói đến “sự thật” nào khi dùng nó như cốt lõi của một phương pháp đấu tranh? Làm thế nào để sự thật trở thành “sức mạnh” hay “quyền lực”, và nó liên quan đến hành động của con người trong đấu tranh ra sao?
Gandhi cho biết “sự thật luôn loại bỏ bạo lực, nhưng vì con người không thể biết được sự thật tuyệt đối nên không đủ tư cách để dùng bạo lực trừng phạt kẻ khác.”[2]
Tìm kiếm sự thật vốn là khát khao của con người từ bao đời. Ý niệm về cái vô cùng đã có mặt dưới nhiều hình thức, tuy những ý niệm này trong tôn giáo và triết học cũng có lúc trở thành những giáo điều gây bất ổn.
Tại Ấn Độ, truyền thống Ấn Độ giáo mở ra cho con người khả năng nhận biết cái tuyệt đối: đích đến của hành trình đời người chính là sự hợp nhất giữa con người với Thượng đế, và đó là ý nghĩa của việc con người tự hoàn thiện mình.
Gandhi, khi mô tả mục tiêu đời mình, cũng có chung hoài bão như những người Ấn Độ giáo khác, rằng mọi nỗ lực của đời ông cuối cùng chính là “được thấy Thượng đế, mặt đối mặt.”
Chiếu theo niềm tin của một tín đồ Ấn Độ giáo, Gandhi chấp nhận cái tuyệt đối, và cái nhìn của riêng ông về Thượng đế cũng là cái nhìn của một tín đồ về Đấng Brahma hiện hữu mọi nơi. Nhưng Gandhi rất hiểu rằng trí tuệ giới hạn của loài người không thể hiểu được cái nằm ngoài giới hạn.
Gandhi chưa bao giờ nghĩ mình nắm được sự thật tuyệt đối, nên ông liên tục nhắc mọi người rằng: vì không có khả năng biết được sự thật tuyệt đối, nên luôn phải có thái độ cởi mở với những người khác mình.
5.
Khi khởi xướng phong trào đấu tranh vì lương tâm, ông nhận ra rằng “cuộc tìm kiếm sự thật không cho phép dùng bạo động để trấn áp đối phương, nhưng đòi người đấu tranh phải tránh xa sai lầm bằng sự kiên nhẫn và cảm thông.” Lý do là vì “điều có vẻ đúng với người này lại có thể là sai lầm với người kia.”[3]
Để hoàn thiện bản thân, Gandhi đã biến đời mình thành “một loạt những cuộc thử nghiệm với sự thật.” Bằng cách “giữ lấy sự thật”, ông không có ý nói rằng sự thật đó phải là, hoặc có thể là, đối tượng khách quan được mọi người công nhận. Đơn giản hơn, ông nói rằng:
“… Tôi là người đi tìm sự thật. Tôi nghĩ mình tìm được con đường. Tôi nghĩ mình đang cố gắng không ngừng. Nhưng phải thú nhận tôi vẫn chưa gặp được sự thật. Gặp được sự thật toàn bích là gặp được bản thân và định mệnh đời mình, là trở nên hoàn hảo. Tôi đau đớn vì thấy mình bất toàn, nhưng từ nơi bất toàn kia tôi tìm được sức mạnh của mình, biết được giới hạn của chính mình là điều khó nhọc họa hiếm biết bao.” [4]
Và, cũng vì thế, Gandhi, người đi tìm sự thật tuyệt đối, đã chú tâm nhiều hơn đến việc tìm kiếm phương tiện, tức con đường để đến với sự thật kia.
6.
[Sự thật là Thượng đế]
Có thể thấy, sự thật được dùng trong đấu tranh vì lương tâm không phải là sự thật tuyệt đối. Khi theo đuổi những cuộc thử nghiệm với sự thật, tính chất tương đối của sự thật như một nguyên tắc hành động ngày càng rõ hơn.
Phương pháp đấu tranh vì lương tâm được phát triển vừa như một phương tiện để Gandhi giải quyết những vấn đề xã hội và chính trị thực tế, vừa là một tuyên ngôn cho những niềm tin triết học của ông. Nhận định về nguồn gốc cụm từ satyagraha – đấu tranh vì lương tâm – Gandhi viết:
“Chữ “Satya” (Sự thật) có gốc từ “Sat”, nghĩa là hiện hữu. Không có gì hiện hữu trên thực tế ngoài Sự thật. Đó cũng là lý do “Sat”, hay Sự thật, nên là tên gọi quan trọng nhất của Thượng đế. Nhưng nói “Sự thật là Thượng đế” thì đúng hơn nói “Thượng đế là Sự thật”… nhìn như thế sẽ thấy “Sat” (hiện hữu) hay “Satya” (Sự thật) là tên duy nhất đúng và phù hợp để gọi Thượng đế.”*
7.
Trong những tuyên bố trước đó, Gandhi từng gắn liền Thượng đế với sự thật. Năm 1925, khi nói chuyện với các nhà truyền giáo đạo Thiên chúa tại Darjeeling, Gandhi nói rằng, với ông “Thượng đế và Sự thật là hai từ có thể đổi chỗ cho nhau.”[v] Một năm sau, trong lần nói chuyện tại Wardha, ông nhận định: “… với tôi, Sự thật là Thượng đế. Và không có con đường nào có thể dẫn đến Sự thật ngoài con đường bất bạo động.”[vi]
Năm 1931, khi được nhóm phản chiến vì lý do đạo đức tại Thụy Sĩ hỏi vì sao ông xem Thượng đế là sự thật, Gandhi đã giải thích rằng câu nói quen thuộc “Thượng đế là Tình yêu” của người theo đạo Thiên chúa dường như không được thỏa đáng, và ông đã đi đến kết luận “Thượng đế là Sự thật”. Nhưng sau đó, ông thấy cũng cần đi thêm một bước nữa để gọi “Sự thật là Thượng đế”. Ông cho biết:
“Bạn sẽ thấy sự khác nhau tế nhị giữa hai mệnh đề “Thượng đế là Sự thật” và “Sự thật là Thượng đế.” Tôi đi đến kết luận như vậy sau 50 năm không ngừng tìm kiếm sự thật. Và tôi cũng thấy được rằng con đường gần nhất để đến với sự thật chính là tình thương.”[vii]
Sự “khác nhau tế nhị” kể trên được một số nhà phê bình cho là rất quan trọng. N. K. Bose giải thích rằng sự thay đổi này đã tháo gỡ cho người đấu tranh vì lương tâm khỏi những niềm tin thần học, hoặc ít nhất là khỏi một số tín điều thần học cụ thể nào đó:
“Khi thay đổi cách nhìn như vậy, bạn sẽ dễ dàng gần gũi với những ai chọn mục tiêu nhân bản, hay mục tiêu tương tự, làm lý tưởng để mình sẵn sàng hy sinh cả đời. Bằng cách đặt sự thật lên chỗ cao nhất trên bệ thờ, Gandhi trở thành tín đồ của một tôn giáo chung, ông không thấy có ngăn cách nào giữa mình với những tín đồ đang thờ một Thượng đế khác với Thượng đế của ông.”[viii]
Có thể nói việc Gandhi thay đổi cấu trúc mệnh đề thần học vừa kể đã giúp ông tự do hơn khi xây dựng phương pháp đấu tranh vì lương tâm. Một lần nữa, đây là ví dụ cho thấy Gandhi đã chỉ đưa ra những đúc kết triết học sau khi có những trải nghiệm thực tế, sau khi tìm cách đưa đạo đức vào đấu tranh.
Trong tự truyện, ông viết:
“Có vô số định nghĩa về Thượng đế, vì Ngài cũng có vô số cách biểu hiện. Chúng làm tôi choáng ngợp trong kính úy và ngưỡng vọng và cũng làm tôi choáng váng.
“Nhưng tôi tôn thờ Thượng đế chỉ như sự thật mà thôi. Tôi chưa thấy được Ngài, nhưng tôi luôn tìm kiếm Ngài. Tôi sẵn sàng hy sinh điều quý báu nhất của tôi để theo đuổi khát khao này… Nhưng, chừng nào tôi chưa tìm thấy sự thật tuyệt đối này, chừng đó tôi còn phải bám lấy sự thật tương đối mà tôi cảm nhận được. Sự thật tương đối vì vậy sẽ trở thành người dẫn đường cho tôi, lá chắn của thôi, trạng sư của tôi.”[ix]
8.
[Tôi chân thực, vì vậy tôi hiện hữu]
Bất kể những nhận định triết học của Gandhi còn thiếu sót đến đâu, nếu đo theo thước của triết gia, cũng dễ thấy rằng những cảm nhận của Gandhi về sự thật đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của phương pháp đấu tranh vì lương tâm.
Ông quan tâm đến những khái niệm này chỉ vì chúng ảnh hưởng đến hành vi của con người. Để giải thích quan điểm về sự thật, ông viết cho một người bạn như sau:
“Trong câu ‘Thượng đế là Sự thật’, ‘là’ không có nghĩa ‘tương đương với’, cũng không có nghĩa ‘đúng là’.
“Sự thật không đơn thuần là một thuộc tính mà Thượng đế có, vì Thượng đế ‘là’ sự thật. Thượng đế sẽ không là gì khác nếu không là sự thật.
“Sự thật trong tiếng Sankrit có nghĩa là ‘Sat’. Và ‘Sat’ cũng có nghĩa là ‘hiện hữu’. Vì vậy, trong sự thật đã có ý nghĩa ‘hiện hữu’.
“Chỉ Thượng đế hiện hữu, không có gì khác hiện hữu. Vì vậy, càng chân thực bao nhiêu, tôi lại càng gần với Thượng đế bấy nhiêu. Nói cách khác: Tôi chân thực, vì vậy tôi hiện hữu.” [x]
Cũng nên biết là những tuyên bố thi thoảng về bản thể hoặc nhận thức luận vừa kể được hình thành trong quá trình hoạt động của Gandhi để giải quyết xung đột của con người, chứ không được hình thành trong quá trình suy tư về triết học thuần lý.
Trong những thử nghiệm với sự thật thì sự thật mà Gandhi theo đuổi không là sự thật trong bản thể luận hay nhận thức luận, mà là sự thật như một yếu tố thuộc phạm vi đạo đức xã hội.
Càng ngày ông càng chú tâm nhiều vào phương tiện hơn là mục đích. Phương tiện càng trở nên cụ thể, trong khi mục đích – con người gặp được Thượng đế, vốn cũng là sự thật – lại trở nên thứ yếu.
9.
[Tìm sự thật bằng bất bạo động & tình thương]
Năm 1924, Gandhi viết trên tờ Young India rằng: “Tôi muốn gặp Thượng đế, mặt đối mặt. Như tôi biết, Thượng đế là Sự thật. Với tôi, phương tiện duy nhất chắc chắn để hiểu Thượng đế chính là bất bạo động – ahimsa – tình thương.”[xi]
Trong quá trình tìm kiếm sự thật, Gandhi đã phát triển khái niệm về bất bạo động – phương tiện để đạt sự thật tối hậu – và điều đáng kể là khi ông làm như vậy, khái niệm về Thượng đế của ông trở nên tự do, rộng mở hơn nhiều.
Tính tương đối trong quan niệm về Thượng đế của Gandhi đã được thể hiện rõ từ khoảng năm 1919, khi Gandhi được Ủy ban Hunter chất vấn, và cuộc trao đổi đã diễn ra giữa Gandhi và đại diện Ủy ban như sau:
“Nguyên lý đấu tranh vì lương tâm của ông, như tôi được biết, có liên quan đến việc theo đuổi sự thật, và để theo đuổi sự thật, ông chấp nhận đau khổ cho bản thân và không bạo động với bất cứ ai khác, có đúng vậy không?”
Gandhi đáp: “Đúng vậy, thưa Ngài.”
“Nhưng dù con người có cố gắng thành thật đến mấy trong việc tìm kiếm sự thật, thì quan niệm về sự thật của anh ta vẫn có thể khác với quan niệm của người khác. Trong trường hợp đó, ai sẽ xác định đâu là sự thật?”
“Cá nhân đương sự sẽ quyết định đâu là sự thật.”
“Nhưng mỗi cá nhân lại có một cách nhìn khác nhau về sự thật. Điều đó sẽ dẫn tới hỗn loạn?”
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Cố gắng và thành thật tìm kiếm sự thật cũng khác nhau tùy từng trường hợp.”
“Chính vì vậy mà bất bạo động trở thành điều kiện tối cần. Bằng không sẽ là hỗn loạn và tệ hơn nữa.”[xii]
Vai trò của bất bạo động như một nguyên lý cốt lõi của đấu tranh vì lương tâm sẽ được tìm hiểu ở phần sau. Quan niệm về sự thật của Gandhi, vốn không có tính tuyệt đối, đã thoát khỏi một khó khăn thực tế mà chủ nghĩa tương đối trong đạo đức đã gặp phải trước đây, và nó thoát khỏi khó khăn này nhờ yếu tố bất bạo động như một nguyên lý hành động cho đấu tranh vì lương tâm.
10.
[Sự thật giữa đời và trong hang tối]
Có rất nhiều chứng cớ cho thấy Gandhi đã sử dụng những chuẩn mực xã hội để đánh giá đâu là sự thật trong một hoàn cảnh nhất định. Trong cuốn History of Satyagrahashram (Lịch sử cộng đoàn Đấu tranh vì lương tâm), Gandhi viết về việc sám hối khi làm sai:
“’Việc làm sai’ là việc phải được luật lệ quy định rõ ràng, được mọi người công nhận là sai, có hại về mặt tinh thần, và người làm sai biết là sai. Không được dựa trên suy diễn mà kết tội vô căn cứ. Làm như thế có thể dẫn đến những hậu quả nguy hiểm.
“Nếu còn hoài nghi thì không được kết tội. Hơn nữa, không ai phải chịu phạt vì việc mình cho là sai dựa trên niềm tin và ý kiến riêng. Có thể điều hôm nay tôi cho là sai thì ngày mai tôi lại cho là vô hại. Vì vậy điều sai phải là điều xã hội xem là sai.
“Tôi có thể xem việc không mặc quần áo tự dệt (khadi) [để chứng tỏ đồng tình với cuộc đấu tranh] là rất sai. Nhưng bạn bè tôi có thể xem là không sai, cũng không ca tụng việc không mặc như một đức hạnh, vì vậy họ có thể lúc mặc lúc không. Nếu tôi cho rằng điều đó sai lầm và tuyệt thực chống lại thì đó không còn là đấu tranh nữa, mà là áp đặt ý chí của tôi lên người khác.
“Cũng không thể trừng phạt khi người có lỗi không biết mình đã phạm sai lầm.”**
Ở đây, Gandhi cũng đề xuất cách giải quyết vấn đề theo tinh thần khách quan. Dù công nhận rằng sự thật chỉ tương đối, một số tiêu chuẩn khách quan cũng đã được xác lập. Giải pháp nằm ở chỗ “con người là thước đo sự thật”.
Giải pháp thực tế này, đúc kết qua những “thử nghiệm với sự thật” của Gandhi, thực ra rất gần với giải pháp lý thuyết được nhà duy vật nhân bản người Đức Feuerbach đưa ra.
Feuerbach cho rằng: Những sự thật không tuyệt đối – tức không là Thượng đế, theo Gandhi – có liên quan đến nhu cầu cộng sinh của con người. Con người cá nhân tìm kiếm sự thật thông qua cộng đồng mà họ là thành viên. Gandhi cũng cho rằng: ”Khát khao sự thật không thể được thỏa mãn trong một hang hốc xa xôi nào đó.” Gandhi viết:
“Khi có điều gì không thật xảy ra trong Cộng đoàn, tôi xin được nhận lỗi về mình. Điều đó có nghĩa tôi chưa đạt đến sự thật như tôi mong muốn. Có thể do ngu dốt mà ra, nhưng rõ ràng tôi đã chưa hiểu đầy đủ sự thật, vì vậy chưa nghĩ thấu đáo hoặc nói thấu đáo về sự thật, càng chưa thực hành được sự thật.
“Nhưng với những khuyết điểm như thế, tôi có nên bỏ đi đến những hang động nào đó trong dãy Hy Mã Lạp Sơn và nhập thất tịnh khẩu hay không?
“Nếu tôi làm vậy thì đó là hèn nhát. Không thể tìm kiếm sự thật trong hang tối. Tịnh khẩu không có ý nghĩa gì vào lúc cần phải mở miệng.
“Trong hoàn cảnh nào đó, người ta vẫn có thể ở ẩn trong hang. Nhưng người bình thường chỉ có thể được thử thách giữa chợ đời mà thôi.”[xiii]
11.
[Sự thành thực & lòng chính trực]
Trong khi thiếu vắng sự thật tuyệt đối, thì Gandhi, người hành động xã hội, cũng đã thường xuyên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của những đại diện dễ nhận biết của sự thật, đó là sự thành thật và lòng chính trực. Ông viết:
“Sự thành thật chính là chìa khóa chủ.
“Đừng nói dối trong bất cứ tình huống nào, đừng giữ điều gì làm bí mật, hãy tin cẩn những người dậy dỗ mình và các bậc trọng tuổi, và hãy bộc bạch lòng mình với họ về mọi việc.
“Đừng nghĩ xấu về bất cứ ai, đừng nói điều xấu xa về bất cứ ai sau lưng họ. Trên hết, hãy “thành thật với bản thân” để mình không thể giả dối với bất cứ ai.
“Sống thật trong từng việc đơn giản, trong từng việc nhỏ nhất là bí quyết duy nhất của đời sống trong lành.”[xiv]
Những lời khuyên giản dị này – về sự thành thật và chính trực – xuất phát từ một nhận thức thực tế về xã hội. Gandhi đã đồng nhất Sự thật với Thượng đế, và dường như vì không thực sự thoải mái trong lĩnh vực tín lý thần học nên ông đã diễn giải Thượng đế dưới dạng tương đối, thông qua rất nhiều những diễn giải cá nhân khác nhau. Và khi mâu thuẫn xảy ra, ông dựa vào luận động của những mối quan hệ giữa người với người để làm tiêu chuẩn phân định sự thật, hoặc gần với sự thật, trong một tình huống nhất định.
Điều này, tất nhiên, đưa ông trở về lĩnh vực của đạo đức. Thật vậy, cuộc đời của Gandhi là cuộc đời của người dấn thân trọn vẹn cho việc khám phá hiệu quả đạo đức của niềm tin siêu hình, và những hành động có thể xuất phát từ niềm tin đó.
Gandhi bắt đầu viết và giảng dậy về đấu tranh khi ông tìm cách mô tả, và sau đó mở rộng thêm bằng những lập luận hợp lý và dễ hiểu, những cách đấu tranh mà ông khởi đầu và theo đuổi trên sân khấu chính trị tại Nam Phi.
Nếu Sự thật là Thượng đế và Thượng đế được hiểu bởi người này thế này, người kia thế kia, thì làm thế nào để “giữ lấy sự thật” [nghĩa gốc của đấu tranh vì lương tâm]?
Đấu tranh vì lương tâm không phải là một giáo điều, cũng không bất động hoặc có thể khẳng định như đinh đóng cột. Giữ lấy sự thật là một ý niệm động và đấu tranh vì lương tâm là một phương pháp hành động.
Vậy thì làm thế nào để hiểu và để giữ lấy sự thật?
Làm thế nào để tránh hỗn độn khi việc truy tìm sự thật lại khác nhau tùy mỗi hoàn cảnh?
Câu trả lời Gandhi đưa ra nằm trong một quy tắc khác, quy tắc cho rằng sự thật không thể nào tách rời khỏi ahimsa (bất bạo động / tình thương).
(Còn tiếp)
Nguồn: Joan Bondurant, Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict, Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
[1] Diễn ra ngày 9/1/1920. Để biết thêm nội dung trao đổi giữa Ngài Hunter với Gandhi, và giữa Ngài Chimanlal Setalwad với Gandhi, đọc D. G. Tendulkar, Mahatma, Vol. I, (Bombay: Jhaveri and Tendulkar, 1952) tr. 340-343.
[2] M. K. Gandhi, Speeches and Writings of Mahatma Gandhi (4th ed.; Madras: Natesan [n.d.]), tr. 508
[3] Jag Parvesh Chander, ed., Teachings of Mahatma Gandhi (Lahore: The Indian Printing Works, 1945), tr. 494.
[4] Gandhi, Young India, 17/11/1921. Xem thêm Tendulkar, sđd, Vol. II, tr. 98.
* Young India, 30/7/1931, tr. 196. Để biết thêm ghi chú về sự khác biệt giữa “hiểu biết” và “hiện hữu” trong ý niệm của Ấn Độ giáo về Sự thật, xem thêm bài “The Hindu Idea of Truth” của J. H. Muirhead, trong tập sách Mahatma Gandhi, Essays and Reflections on His Life and Work do S. Radhakrishnan hiệu đính (2nd ed.; London: Allen & Unwin [1949]), tr. 197-200.
[v] Tendulkar, sđd, Vol. II, tr. 249.
[vi] Như trên, tr. 312.
[vii] Như trên, Vol. III, tr. 176.
[viii] N. K. Bose, Studies in Gandhism (2nd Ed., Calcutta: Indian Associated Publishing Co., 1947), tr. 269.
[ix] M. K. Gandhi, An Autobiography or The Story of My Experiments with Truth, do Mahadev Desai dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati (Ahmedabad: Navajivan, 1940), tr. 4.
[x] Trích thư gửi P. G. Mathew, 9/7/1932, dẫn trên Harijan số ra ngày 27/3/1949, tr. 28.
[xi] Ngày 3/4/1924 như trích dẫn trong Chander, sđd, tr. 266.
[xii] Tendulkar, sđd, Vol I, tr. 342. Đoạn này cũng xuất hiện trên Young India, 1919-1922 (Madras: S. Ganesan, 1922), tr. 33-36.
** Dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati đăng trên Harijan, số ra ngày 4/7/1948. Đoạn bằng tiếng Hindi trong Satyagraha Ashram ka Itihas của Gandhi được Ramnarayan Chaudhuri dịch từ nguyên bản tiếng Gujurati (Ahmedabad: NXB Navajivan, [1948]), tr. 17-18.
Gandhi chấp thuận một số hình thức đấu tranh vì lương tâm nhắm vào những đối tượng được cho là không có ý thức rằng mình sai trái, nếu vấn đề được người đấu tranh cảm thấy là thực sự nghiêm trọng.
[xiii] Dịch từ nguyên bản tiếng Gujarati đăng trên Harijan, số ra ngày 18/7/1948. Đoạn bằng tiếng Hindi trong Satyagraha Ashram ka Itihas của Gandhi được Ramnarayan Chaudhuri dịch từ nguyên bản tiếng Gujurati (Ahmedabad: Navajivan, 1948), tr. 13.
[xiv] Young India, 25/12/1925, như trích trong sách của Chander, sđd, tr. 559-560.
February 6, 2014
Tương lai dân chủ xã hội của Mỹ: Hình cung chính sách tuy dài nhưng đang uốn tới công bằng xã hội (2)
Lane Kenworthy
Trần Ngọc Cư dịch
CÁC RỦI RO VÀ PHẦN THƯỞNG XÃ HỘI
Hầu hết những gì mà các nhà khoa học xã hội gọi là “chính sách xã hội” thực ra chỉ là bảo hiểm công. An sinh xã hội (Social Security) và Bảo hiểm y tế cho người nghỉ hưu (Medicare) là bảo hiểm giúp cá nhân chống lại rủi ro thiếu thốn hay không có tiền bạc sau khi nghỉ hưu. Bồi thường thất nghiệp (unemployment compensation) là bảo hiểm giúp cá nhân chống lại rủi ro mất việc làm. Các chương trình chi trả cho người tàn tật (Disability payment) là bảo hiểm giúp cá nhân chống lại rủi ro phải chịu những đau đớn thể chất, tinh thần và tâm lý khiến họ không thể kiếm sống.
Các dịch vụ và quyền lợi công cộng khác tại Hoa Kỳ cũng là các chương trình bảo hiểm, cho dù người ta thường không quan niệm như thế. Trường công là bảo hiểm chống lại rủi ro không có trường tư, hoặc có mà quá đắt hay thiếu chất lượng. Những chương trình tái huấn luyện hay tìm việc là bảo hiểm chống lại rủi ro do các điều kiện thị trường gây khó khăn cho việc kiếm việc làm. Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được (The Earned Income Tax Credit [i]) là bảo hiểm chống lại rủi ro do tiền lương của một người làm việc nằm dưới mức cần thiết để duy trì một tiêu chuẩn sống đàng hoàng. Các chương trình trợ cấp xã hội, như tem phiếu (food stamps) và Trợ cấp tạm thời cho các gia đình túng thiếu (Temporary Assistance for Needy Families), là bảo hiểm chống lại rủi ro không thể tìm ra việc làm nhưng lại không đủ điều kiện để hưởng tiền bồi hoàn thất nghiệp hay bệnh tật.
Trong thế kỷ qua, Hoa Kỳ, cũng như các nước giàu khác, đã tạo ra một số chương trình bảo hiểm công. Nhưng để đạt được an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, sự thịnh vượng chung thật sự, thì trong nửa thế kỷ tới, chính phủ liên bang cần phải mạnh dạn nới rộng tầm mức và phạm vi hoạt động của các chương trình bảo hiểm hiện có, đồng thời đưa ra các chương trình mới.
Chính phủ có thể giúp các hộ gia đình Mỹ có một hoặc hai người lớn đi làm bằng cách tăng mức lương tối thiểu theo qui định và điều chỉnh mức lương này theo lạm phát và bằng cách tăng quyền lợi được đưa ra trong Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được, đặc biệt đối với những hộ không con, tức những người mà Tín dụng này chỉ trả lại một số tiền nhỏ. Đối với những hộ gia đình không có người đi làm, giải pháp này trở nên phức tạp hơn. Những người có thể thành công trong thị trường lao động thì cần phải được giúp đỡ và được thúc đẩy đi kiếm việc, việc này đòi hỏi một sự hỗ trợ rộng rãi và nhắm vào từng cá nhân. Chính phủ liên bang cần phải gia tăng mức lợi ích (benefit levels) và nới lỏng các tiêu chuẩn về quyền được hưởng các chương trình trợ cấp xã hội chủ yếu như: Trợ cấp tạm thời cho các gia đình thiếu thốn, cứu trợ tổng quát cho người không con (general assistance), tem phiếu thực phẩm, trợ cấp nhà ở, và trợ cấp năng lượng.
Vài sáng kiến có thể giúp giảm bớt các vụ mất lợi tức lớn ngoài ý muốn: bảo hiểm y tế công cộng, nghỉ phép được trả lương để chăm sóc con, và quyền hưởng bảo hiểm thất nghiệp được nới rộng. Hiện nay, gần một phần ba công nhân Mỹ nghỉ bệnh không được trả lương, luật pháp Hoa Kỳ chỉ đòi hỏi các công ty cho phép nhân viên nghỉ 12 tuần không lương để chăm sóc con, và chỉ 40 phần trăm người Mỹ mất việc có đủ điều kiện để hưởng tiền bồi thường thất nghiệp. Hoa Kỳ cũng sẽ hưởng được lợi ích từ một chương trình bảo hiểm đồng lương (wage insurance). Đối với người Mỹ bị sa thải và không kiếm được một việc làm trả lương hậu như công việc trước đó, bảo hiểm đồng lương sẽ bù vào một nửa khoảng cách giữa đồng lương cũ và đồng lương mới thấp hơn trong thời gian một hay hai năm.
Bằng cách nâng lợi tức của những hộ gia đình nghèo có con, việc gia tăng Tín dụng thuế trên số con (the Child Tax Credit [ii]) sẽ giúp đảo ngược khoảng cách đang nới rộng trong tình trạng bất bình đẳng cơ hội. Trường học giúp xóa khoảng cách trong năng lực trẻ em do những khác biệt từ gia đình và khu láng giềng. Cho trẻ em vào trường ở cái tuổi sớm hơn có thể giảm những khác biệt tồn tại khi chúng vào trường mẫu giáo. Thật vậy, một số nhà nghiên cứu đã kết luận rằng ảnh hưởng của việc đến trường là lớn nhất trong những năm mẫu giáo.
Vì quyền lợi của người cao niên, thiết tưởng cần có thêm một bổ sung hữu ích cho mạng lưới an toàn xã hội Hoa Kỳ, đó là một kế hoạch hưu trí bổ túc mà số tiền đóng góp được qui định rõ ràng và nhân viên được tự động đăng ký. Các công ty nào đã có sẵn kế hoạch này thì có thể tiếp tục duy trì nó, nhưng phải tự động đăng ký mọi nhân viên và khấu trừ một phần lương của họ, trừ phi một nhân viên nào đó không chịu tham gia. Các nhân viên không tiếp cận được một kế hoạch hưu trí do công ty mình bảo trợ sẽ được tự động đăng ký vào quĩ hưu trí phổ quát mới (the new universal fund), và các công nhân mà công ty không khớp thêm (match) một số tiền tương ứng với phần đóng góp của mình sẽ được hưởng phần khớp thêm này từ chính phủ.
Mảnh ghép cuối cùng cho bức tranh an ninh kinh tế sẽ nằm dưới hình thức gia tăng các chi tiêu liên bang về chăm sóc trẻ em ở các cơ sở công cộng, về đường sá và cầu cống, về y tế và các luật lệ liên bang đòi hỏi các công ty phải thêm ngày nghỉ lễ và nghỉ phép cho công nhân. Những thay đổi này sẽ nâng cao phẩm chất đời sống của mọi người dân Mỹ và giải phóng lợi tức của họ để họ có thể mua sắm các hàng hóa và dịch vụ khác.
Làm sao để chia sẻ sự thịnh vượng cho mọi người? Cách hay nhất để đảm bảo lợi tức của các hộ gia đình gia tăng đồng bộ với nền kinh tế sẽ là nâng cao tiền lương và tạo thêm công ăn việc làm cho giới trung lưu và tầng lớp thấp hơn. Sau khi điều chỉnh lạm phát, tiền lương của người Mỹ bình thường đã không tăng từ giữa thập niên 1970, và hiện nay tỉ lệ người có công ăn việc làm thấp hơn năm 2000. Những người làm chính sách cũng phải xét đến một cách điều chỉnh bảo hiểm công; không những phải gia tăng quyền lợi được đưa ra trong Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được mà lại còn cống hiến tín dụng này cho người Mỹ trung lưu và gắn liền nó với GDP đầu người.
Dĩ nhiên, việc chi tiêu cho bảo hiểm xã hội sẽ diễn ra với một cái giá. Người Mỹ cần phải trả thuế nhiều hơn. Ngoài ra, sự hiện hữu của bảo hiểm xã hội có khả năng khuyến khích thêm các hành vi mạo hiểm hay trốn tránh công việc. Tuy vậy, bảo hiểm xã hội cũng có nhiều lợi ích kinh tế. Một nền giáo dục và y tế tốt đẹp hơn sẽ cải tiến năng suất. Các biện pháp ngăn chặn phá sản sẽ khuyến khích óc kinh doanh. Chương trình bồi thường thất nghiệp sẽ khuyến khích một lực lượng lao động linh động hơn và tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công nhân cải tiến kỹ năng của mình. Những chương trình như Tín dụng thuế trên số con hay Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được sẽ cải thiện viễn ảnh giáo dục và kinh tế của các trẻ em lớn lên trong những hộ gia đình nghèo. Và, quan trọng hơn cả, bảo hiểm xã hội cho phép một nền kinh tế hiện đại đề phòng rủi ro mà không dựa vào những biện pháp điều tiết bóp nghẹt kinh tế, những qui định chi ly về những gì các doanh nghiệp có thể làm và không thể làm.
Kinh nghiệm của các nước giàu trên thế giới trong thế kỷ qua chắc chắn sẽ làm dịu nỗi lo sợ là việc gia tăng tầm cỡ và phạm vi của các chương trình xã hội công cộng sẽ làm suy yếu nền kinh tế Hoa Kỳ. Chắc chắn là có một mức độ nào đó mà nếu vượt quá thì việc chi tiêu cho các chương trình công ích sẽ gây tai hại đối với tăng trưởng kinh tế. Nhưng bằng chứng cho thấy là Hoa Kỳ chưa vượt tới mức đó. Trên thực tế, hẳn là nước Mỹ vẫn còn nằm dưới mức đó khá xa.
CÁI GIÁ DÙ LỚN, NHƯNG LỢI ÍCH CÒN LỚN HƠN
Một số nhà quan sát, thậm chí cả những người bên cánh Tả, lo ngại về tính khả thi của những chính sách theo mô hình Bắc Âu – những chính sách đã thành công trong bối cảnh các nước nhỏ và tương đối đồng nhất về chủng tộc – đối với một quốc gia rộng lớn và đa diện như Hoa Kỳ. Nhưng tiến tới một nền dân chủ xã hội tại Hoa Kỳ gần như chỉ là đòi hỏi chính phủ liên bang làm thêm những gì mà chính phủ này đã thực hiện. Việc này không đòi hỏi phải chuyển sang một khế ước xã hội khác hẳn về phẩm chất.
Nhưng liệu Hoa Kỳ có đủ sức để theo đuổi một nền dân chủ xã hội không? Mặc dù cái giá được cộng thêm để tạo ra những chương trình mới và triển khai các chương trình sẵn có được mô tả ở trên trong khi vẫn duy trì An sinh xã hội và Trợ cấp y tế cho người nghỉ hưu sẽ tùy thuộc vào phạm vi chính xác và sự hào phóng của những chương trình này, người ta ước tính các bảo hiểm xã hội Mỹ cần thêm một số tiền tương đương 10 phần trăm GDP của Hoa Kỳ, hay khoảng 1.500 tỉ USD. (Một suy thoái kinh tế, như cuộc suy thoái gây ra do khủng hoảng tài chính 2008, thường làm sai lệch các số liệu GDP và lợi tức thuế, vì thế sử dụng dữ liệu của năm 2007, năm cao điểm của chu kỳ kinh tế trước khủng hoảng, là cách hay nhất.) Nếu 10 phần trăm GDP nghe có vẻ dữ dội, xin hãy nhớ hai điều: Một, nếu chi tiêu của chính phủ Hoa Kỳ tăng từ 37 phần trăm GDP, tức mức chi tiêu năm 2007, đến khoảng 47 phần trăm, sự gia tăng này sẽ đặt Hoa Kỳ chỉ vài phần trăm trên chuẩn mực của những nước giàu trên thế giới. Hai, một gia tăng chi tiêu chính phủ 10 phần trăm GDP sẽ nhỏ hơn nhiều so với sự gia tăng 25 phần trăm đã diễn ra từ năm 1925 cho đến ngày nay.
Là một vấn đề kỹ thuật, sửa đổi lại luật thuế Hoa Kỳ để gây thêm ngân quĩ sẽ tương đối đơn giản. Bước đầu tiên và quan trọng nhất sẽ là đưa ra một thuế tiêu thụ quốc gia dưới hình thức một thuế giá trị gia tăng (a value-added tax), mà chính phủ sẽ đánh lên hàng hóa và dịch vụ vào từng giai đoạn sản xuất và phân phối chúng. Các phân tích của Robert Barro, Alan Krueger, và các nhà kinh tế khác cho thấy rằng một thuế giá trị gia tăng ở tỉ lệ 12 phần trăm, với các miễn trừ hạn chế, sẽ có khả năng mang lại khoảng 5 phần trăm GDP lợi tức quốc gia — nửa số tiền cần thiết để tài trợ việc nới rộng các chương trình bảo hiểm xã hội được đề xuất nơi đây.
Tùy thuộc quá nhiều vào một thuế tiêu thụ là điều cấm kỵ đối với một số trí thức tiến bộ, những người tin tưởng rằng lợi tức thuế quốc gia phụ trội phải đến chủ yếu – có lẽ hoàn toàn – từ những hộ gia đình giàu có nhất nước. Nhưng trên thực tế, Washington không thể vắt thêm một lợi tức thuế tương đương 10 phần trăm GDP từ những hộ gia đình ở chóp bu xã hội, cho dù những thành phần giàu có này đang thụ hưởng đều đặn một phần lợi tức chưa trừ thuế ngày càng lớn hơn so với cả nước. Từ năm 1960 đến nay, thuế suất liên bang trung bình thực thụ (tức những số tiền thuế trả cho chính phủ liên bang như một phần của thu nhập chưa trừ thuế) đánh vào những hộ gia đình giàu có nhất chiếm 5 phần trăm dân số chưa bao giờ vượt quá 37 phần trăm, và trong những năm gần đây, thuế suất này chỉ quanh quẩn ở 29 phần trăm. Nếu muốn thu vào một lợi tức thuế tương đương với 10 phần trăm GDP chỉ từ nhóm nhà giàu này, thuế suất thực thụ nói trên sẽ phải lên đến 67 phần trăm. Dù muốn dù không, một sự tăng thuế ở mức độ này sẽ không được các nhà hoạch định chính sách ủng hộ.
Một pha trộn gồm các thay đổi khác trong hệ thống thuế liên bang có thể tạo thêm một lợi tức thuế tương đương với 5 phần trăm GDP – những biện pháp như: trở lại thuế suất liên bang trước khi có chính quyền Tổng thống George W. Bush, gia tăng thuế suất liên bang trung bình thực thụ của 1 phần trăm dân số gồm những gia đình giàu có nhất lên khoảng 37 phần trăm, chấm dứt việc giảm thuế cho tiền lãi nợ nhà, đặt ra những thuế mới đánh trên khí thải carbon dioxide và các giao dịch tài chính, nâng cao mức trần của tiền lương phải chịu thuế an sinh xã hội [iii], và tăng thêm một phần trăm thuế suất tiền lương hiện nay.
NHỮNG Ụ GIẢM TỐC, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ NHỮNG Ụ CẢN CHÍNH TRỊ
Những loại cải tổ thuế này và những chương trình bảo hiểm xã hội mà chúng tài trợ sẽ không diễn ra tức khắc. Đó sẽ là một tiến trình chậm chạp, có phần do một loạt trở ngại mà các đề xuất dân chủ xã hội chắc chắn sẽ gặp phải. Nhưng không một rào cản nào trong số này tỏ ra là không thể vượt qua.
Một vấn đề cơ bản, mà những người chống đối có thể nêu ra, là dân Mỹ vốn không thích một chính phủ đồ sộ. Mặc dù điều này đúng ở một mức độ trừu tượng, nhưng khi nói đến những chương trình chính phủ cụ thể, dân Mỹ lại có xu thế ủng hộ mạnh mẽ. Chẳng hạn, theo bản Thăm dò Xã hội Tổng quát của Trung tâm Nghiên cứu Dư luận Quốc gia, kể từ thập niên 1970, đại đa số dân Mỹ – luôn luôn trên 80 phần trăm và thường thường trên 90 phần trăm – đã nói rằng họ tin tưởng chính phủ hiện đang chi tiêu đúng mức hay quá ít về trợ cấp cho người nghèo, về cải tiến hệ thống giáo dục quốc gia, về cải thiện và bảo vệ sức khỏe cho toàn dân, và về tài trợ quĩ An sinh Xã hội.
Những người hoài nghi cũng có thể ghi nhận rằng việc bành trướng các chương trình xã hội sẽ tùy thuộc vào sự thành công của các ứng viên Dân chủ trong các cuộc bầu cử, và có khả năng là thời vận của Đảng Dân chủ đang trở nên lu mờ. Phe Dân chủ đã mất hậu thuẫn trong hàng ngũ công nhân da trắng, một thành phần quan trọng của liên minh New Deal, một liên minh từng thống trị chính trị Hoa Kỳ từ thập niên 1930 đến hết thập niên 1970. Nhưng các ứng viên tổng thống và quốc hội thuộc Đảng Dân chủ đã thành công với một cơ sở cử tri mới gồm giới chuyên nghiệp ở thành thị, phụ nữ, người Mỹ gốc châu Phi và châu Mỹ La tinh. Việc đổ tiền ào ạt của khu vực tư vào các cuộc vận động tranh cử, được khuyến khích bởi phán quyết Citizens United năm 2010 của Tối cao Pháp viện [cho phép các tập đoàn kinh tế và các công đoàn đóng góp vô giới hạn vào việc ủng hộ hay chống lại các ứng viên], có thể đặt phe Dân chủ vào thế bất lợi khi gây quĩ. Nhưng các đóng góp của tư nhân vào các cuộc vận động tranh cử đã gia tăng tầm quan trọng qua nhiều thập kỷ rồi, mà cho đến nay, những ứng viên Dân chủ vẫn có thể bắt kịp đối phương. Và mặc dù các khối dân số, các liên minh cử tri, và việc tài trợ cho các cuộc vận động chắc chắn là quan trọng, nhưng tình hình kinh tế thường là yếu tố quyết định chính cho kết quả của các cuộc tranh cử cấp quốc gia. Nếu phe Dân chủ quản lý kinh tế tương đối tốt khi họ nắm chính quyền, họ vẫn có thể duy trì khả năng cạnh tranh trong các mùa bầu cử.
Một trở ngại tiềm năng khác [cho dân chủ xã hội Mỹ] là chuyển biến hữu khuynh trong cán cân quyền lực giữa các nhóm lợi ích bên ngoài vũ đài tranh cử, những thế lực gây ảnh hưởng đáng kể lên việc hoạch định chính sách. Kể từ thập niên 1970, các doanh nghiệp và các cá nhân giàu có đã huy động được lực lượng, trong khi phong trào công đoàn liên tục mất thành viên. Nhưng sự thay đổi này chỉ có thể làm chậm lại, chứ không chặn đứng hẳn, sự đi tới của chính sách xã hội tiến bộ.
Một trở ngại tiềm năng cuối cùng cho dân chủ xã hội Mỹ là cấu trúc của hệ thống chính trị Hoa Kỳ, trong đó việc chặn đứng các thay đổi chính sách thông qua vận động tại quốc hội hay phủ quyết có hiệu lực của tổng thống là tương đối dễ dàng. Dựa vào cấu trúc này, hình thức gây cản trở và trì hoãn việc thông qua các đạo luật một cách có kỷ luật của các đại biểu Cộng hòa tại Quốc hội trong nhiệm kỳ của Obama chắc chắn sẽ đe dọa bước tiến của bảo hiểm công. Tuy nhiên, không chóng thì chầy, các lãnh đạo Cộng hòa sẽ tránh xa cái định hướng cương quyết chống lại sự bành trướng của chính phủ, một định hướng đã hình thành chiến lược và chiến thuật của Đảng Cộng hòa trong những năm gần đây. Về lâu về dài, trọng tâm của đảng này sẽ chuyển dịch, và Đảng Cộng hòa sẽ đi đến chỗ giống như các đảng trung-hữu (center-right parties) tại Tây Âu, mà đại đa số đều chấp nhận một nhà nước phúc lợi hào phóng và những loại thuế tương đối cao.
Ba điều có tiềm năng châm ngòi cho một chuyển biến như thế. Một là sự thất cử của một ứng viên Cộng hòa rất bảo thủ trong một cuộc tuyển cử mà lẽ ra người này đã có thể thắng nếu có một lập trường cởi mở hơn. Nếu Đảng Cộng hòa sẽ đề cử một thành viên trong phe cực hữu hay phe đòi hỏi tối đa cho các quyền tự do công dân và giảm đến mức tối thiểu quyền lực chính phủ (libertarian faction) vào năm 2016 hay 2020, ứng viên này gần như chắc chắn sẽ thất cử, và sự thất bại này sẽ thúc đẩy các lãnh đạo Cộng hòa trở về với vị trí trung tâm. Một yếu tố khác thúc đẩy lập trường trung dung của phe Cộng hòa là tầm quan trọng đang gia tăng của giai cấp công nhân da trắng đối với đảng này. Gần đây, một số tiếng nói sâu sắc và nổi bật từ khuynh hướng trung-hữu, như David Brooks, Roth Douthat, David Frum, Charles Murray, Ramesh Ponnuru, và Reihan Salam, đã ghi nhận rằng người da trắng thuộc giai cấp công nhân hiện đang chật vật về kinh tế và có thể hưởng được quyền lợi từ sự trợ giúp của chính phủ. Để tăng cường hậu thuẫn từ nhóm cử tri này, nhiều lãnh đạo Cộng hòa hàng đầu sẽ quay ra ủng hộ – hay chí ít không chống đối – việc nới rộng các chương trình như Tín dụng thuế trên số con, chương trình cho trẻ đi học sớm, Tín dụng thuế lợi tức kiếm được, An sinh xã hội, và thậm chí cả Bảo hiểm y tế cho người nghỉ hưu và Trợ cấp y tế cho người nghèo và người tàn tật.
Có lẽ hầu hết các nhà lý luận sáng suốt quan trọng bên cánh Hữu cuối cùng sẽ nhận thức rằng, căn cứ vào khát vọng an ninh kinh tế và công bằng xã hội của dân Mỹ, vấn đề không còn là chính phủ có nên can thiệp hay không, mà là nên can thiệp như thế nào. Việc mở rộng các chương trình xã hội không nhất thiết có nghĩa là chính phủ sẽ can thiệp hơn nữa vào thị trường và làm suy yếu thêm tính cạnh tranh. Về điểm này, một lần nữa các nước Bắc Âu có thể soi đường dẫn lối cho Hoa Kỳ. Viện nghiên cứu chính sách bảo thủ Heritage Foundation hợp tác với The Wall Street Journal trong một dự án đánh giá các nước trên mười kích thước của tự do kinh tế. Mặc dù Hoa Kỳ có các mức thuế và chi tiêu của chính phủ thấp hơn các nước Bắc Âu, nhưng tính trung bình Đan Mạch, Phần Lan, và Thụy Điển có điểm số cao hơn Mỹ trên tám kích thước khác, gồm quyền thiết lập và điều hành một xí nghiệp mà không có sự can thiệp của nhà nước, số rào cản bằng luật lệ điều tiết đối với hàng nhập và xuất khẩu, số hạn chế áp đặt lên việc chuyển vốn. Dân Mỹ muốn được chính phủ che chở và hậu thuẫn. Để đáp lại những nguyện vọng này, các nhà hoạch địch chính sách phải lựa chọn giữa bảo hiểm công và việc điều tiết kinh tế bằng luật lệ, và phe bảo thủ chắc chắn sẽ ủng hộ bảo hiểm công hơn.
NƯỚC MỸ CỦA THẾ KỶ 21
Có lẽ điều quan trọng nhất để ghi nhận về tương lai dân chủ xã hội của Hoa Kỳ là, tương lai này sẽ không cực kỳ khác xa hiện tại. Hoa Kỳ sẽ không trở thành một xã hội không tưởng tiến bộ (a progressive utopia); nói đúng ra, nó sẽ trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình hiện nay.
Một bộ phận đông đảo hơn gồm người đã trưởng thành sẽ có công ăn việc làm, mặc dù đối với nhiều người, tuần làm việc sẽ ngắn hơn và sẽ có nhiều ngày nghỉ phép và nghỉ lễ hơn. Gần như tất cả mọi công việc sẽ nằm trong khu vực dịch vụ, đặc biệt là nghề dạy học, quảng cáo, huấn luyện, tổ chức, phụ tá, y tá, giám sát, và vận chuyển; chỉ khoảng năm phần trăm số người làm việc sẽ ở trong khu vực chế tạo hay nông nghiệp. Hầu hết người Mỹ sẽ thay đổi công việc và thậm chí thay đổi nghề nghiệp thường xuyên hơn hiện nay. Sẽ có thêm nhiều người Mỹ làm việc với lương thấp, và trong cuộc đời làm việc của mình sẽ mất việc ít nhất một lần, và khi đến tuổi nghỉ hưu sẽ không dành dụm được bao nhiêu. Gia đình, tổ chức cộng đồng, và công đoàn thậm chí có thể trở nên yếu kém hơn hiện nay.
Nhưng bằng cách bổ túc những khiếm khuyết trong mạng lưới an toàn xã hội, chính phủ liên bang sẽ cải thiện an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và thịnh vượng chung cho hầu hết mọi người Mỹ bất chấp những thay đổi nói ở đoạn trên. Một nước Mỹ dân chủ xã hội sẽ là một xã hội có an ninh kinh tế và công bằng rộng lớn hơn. Kinh tế sẽ linh hoạt, năng động, và sáng tạo hơn. Tỉ lệ người có công ăn việc làm sẽ tăng lên. Người dân sẽ có nhiều tự do trong sinh hoạt. Việc quân bình giữa việc làm và gia đình sẽ trở nên dễ dàng hơn. Dân Mỹ sẽ trả thuế cao hơn hiện nay, nhưng sự hi sinh này là đáng giá, vì họ sẽ nhận về nhiều lợi lộc.
Hoa Kỳ đã tiến bộ nhiều trên con đường trở thành một xã hội tốt đẹp, nhưng quốc gia này còn phải đi xa hơn nữa. May thay, lịch sử Mỹ và kinh nghiệm của các quốc gia giàu có khác đang chỉ dẫn con đường đi tới. Sở dĩ Hoa Kỳ ngày nay là một nước tốt đẹp hơn nhiều so với một thế kỷ trước đây là vì chính phủ liên bang đã nỗ lực nhiều hơn để đảm bảo an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và thịnh vượng chung. Trong tương lai, nếu chính phủ này nỗ lực hơn nữa, thì đất nước này nhờ thế sẽ còn tốt đẹp hơn.
LANE KENWORTHY là giáo sư Xã hội học và Chính trị học tại Đại học Arizona. Bài tiểu luận này dựa vào tác phẩm gần đây nhất của ông, Social Democratic America [Nước Mỹ dân chủ xã hội] (Oxford Unversity Press, 2014).
Nguồn: “America’s Social Democratic Future – The Arc of Policy Is Long But Bends Toward Justice”, Foreign Affairs Jan/Feb 2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
[i]Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được (the Earned Income Tax Credit): số tiền thuế mà chính phủ liên bang hoàn trả lại cho những cá nhân hoặc cặp vợ chồng có lợi tức thấp hoặc trung bình – đặc biệt những người có con.
[ii]Tín dụng thuế trên số con (The Child Tax Credit): số tiền thuế hoàn trả lại cho một hộ gia đình, dựa trên mức lợi tức và số con.
[iii]Riêng năm 2013, trần lợi tức phải chịu thuế An sinh Xã hội là 113.700 USD; số tiền kiếm được ngoài mức trần này khỏi phải đóng thuế An sinh Xã hội. Nghĩa là, người có lợi tức 113.700 USD và người kiếm được một triệu USD trong năm 2013 sẽ đóng thuế An sinh Xã hội ngang nhau.
Lane Kenworthy Tương lai dân chủ xã hội của Mỹ: Hình cung chính sách tuy dài nhưng đang uốn tới công bằng xã hội (2)
CÁC RỦI RO VÀ PHẦN THƯỞNG XÃ HỘI
Hầu hết những gì mà các nhà khoa học xã hội gọi là “chính sách xã hội” thực ra chỉ là bảo hiểm công. An sinh xã hội (Social Security) và Bảo hiểm y tế cho người nghỉ hưu (Medicare) là bảo hiểm giúp cá nhân chống lại rủi ro thiếu thốn hay không có tiền bạc sau khi nghỉ hưu. Bồi thường thất nghiệp (unemployment compensation) là bảo hiểm giúp cá nhân chống lại rủi ro mất việc làm. Các chương trình chi trả cho người tàn tật (Disability payment) là bảo hiểm giúp cá nhân chống lại rủi ro phải chịu những đau đớn thể chất, tinh thần và tâm lý khiến họ không thể kiếm sống.
Các dịch vụ và quyền lợi công cộng khác tại Hoa Kỳ cũng là các chương trình bảo hiểm, cho dù người ta thường không quan niệm như thế. Trường công là bảo hiểm chống lại rủi ro không có trường tư, hoặc có mà quá đắt hay thiếu chất lượng. Những chương trình tái huấn luyện hay tìm việc là bảo hiểm chống lại rủi ro do các điều kiện thị trường gây khó khăn cho việc kiếm việc làm. Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được (The Earned Income Tax Credit [i]) là bảo hiểm chống lại rủi ro do tiền lương của một người làm việc nằm dưới mức cần thiết để duy trì một tiêu chuẩn sống đàng hoàng. Các chương trình trợ cấp xã hội, như tem phiếu (food stamps) và Trợ cấp tạm thời cho các gia đình túng thiếu (Temporary Assistance for Needy Families), là bảo hiểm chống lại rủi ro không thể tìm ra việc làm nhưng lại không đủ điều kiện để hưởng tiền bồi hoàn thất nghiệp hay bệnh tật.
Trong thế kỷ qua, Hoa Kỳ, cũng như các nước giàu khác, đã tạo ra một số chương trình bảo hiểm công. Nhưng để đạt được an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, sự thịnh vượng chung thật sự, thì trong nửa thế kỷ tới, chính phủ liên bang cần phải mạnh dạn nới rộng tầm mức và phạm vi hoạt động của các chương trình bảo hiểm hiện có, đồng thời đưa ra các chương trình mới.
Chính phủ có thể giúp các hộ gia đình Mỹ có một hoặc hai người lớn đi làm bằng cách tăng mức lương tối thiểu theo qui định và điều chỉnh mức lương này theo lạm phát và bằng cách tăng quyền lợi được đưa ra trong Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được, đặc biệt đối với những hộ không con, tức những người mà Tín dụng này chỉ trả lại một số tiền nhỏ. Đối với những hộ gia đình không có người đi làm, giải pháp này trở nên phức tạp hơn. Những người có thể thành công trong thị trường lao động thì cần phải được giúp đỡ và được thúc đẩy đi kiếm việc, việc này đòi hỏi một sự hỗ trợ rộng rãi và nhắm vào từng cá nhân. Chính phủ liên bang cần phải gia tăng mức lợi ích (benefit levels) và nới lỏng các tiêu chuẩn về quyền được hưởng các chương trình trợ cấp xã hội chủ yếu như: Trợ cấp tạm thời cho các gia đình thiếu thốn, cứu trợ tổng quát cho người không con (general assistance), tem phiếu thực phẩm, trợ cấp nhà ở, và trợ cấp năng lượng.
Vài sáng kiến có thể giúp giảm bớt các vụ mất lợi tức lớn ngoài ý muốn: bảo hiểm y tế công cộng, nghỉ phép được trả lương để chăm sóc con, và quyền hưởng bảo hiểm thất nghiệp được nới rộng. Hiện nay, gần một phần ba công nhân Mỹ nghỉ bệnh không được trả lương, luật pháp Hoa Kỳ chỉ đòi hỏi các công ty cho phép nhân viên nghỉ 12 tuần không lương để chăm sóc con, và chỉ 40 phần trăm người Mỹ mất việc có đủ điều kiện để hưởng tiền bồi thường thất nghiệp. Hoa Kỳ cũng sẽ hưởng được lợi ích từ một chương trình bảo hiểm đồng lương (wage insurance). Đối với người Mỹ bị sa thải và không kiếm được một việc làm trả lương hậu như công việc trước đó, bảo hiểm đồng lương sẽ bù vào một nửa khoảng cách giữa đồng lương cũ và đồng lương mới thấp hơn trong thời gian một hay hai năm.
Bằng cách nâng lợi tức của những hộ gia đình nghèo có con, việc gia tăng Tín dụng thuế trên số con (the Child Tax Credit [ii]) sẽ giúp đảo ngược khoảng cách đang nới rộng trong tình trạng bất bình đẳng cơ hội. Trường học giúp xóa khoảng cách trong năng lực trẻ em do những khác biệt từ gia đình và khu láng giềng. Cho trẻ em vào trường ở cái tuổi sớm hơn có thể giảm những khác biệt tồn tại khi chúng vào trường mẫu giáo. Thật vậy, một số nhà nghiên cứu đã kết luận rằng ảnh hưởng của việc đến trường là lớn nhất trong những năm mẫu giáo.
Vì quyền lợi của người cao niên, thiết tưởng cần có thêm một bổ sung hữu ích cho mạng lưới an toàn xã hội Hoa Kỳ, đó là một kế hoạch hưu trí bổ túc mà số tiền đóng góp được qui định rõ ràng và nhân viên được tự động đăng ký. Các công ty nào đã có sẵn kế hoạch này thì có thể tiếp tục duy trì nó, nhưng phải tự động đăng ký mọi nhân viên và khấu trừ một phần lương của họ, trừ phi một nhân viên nào đó không chịu tham gia. Các nhân viên không tiếp cận được một kế hoạch hưu trí do công ty mình bảo trợ sẽ được tự động đăng ký vào quĩ hưu trí phổ quát mới (the new universal fund), và các công nhân mà công ty không khớp thêm (match) một số tiền tương ứng với phần đóng góp của mình sẽ được hưởng phần khớp thêm này từ chính phủ.
Mảnh ghép cuối cùng cho bức tranh an ninh kinh tế sẽ nằm dưới hình thức gia tăng các chi tiêu liên bang về chăm sóc trẻ em ở các cơ sở công cộng, về đường sá và cầu cống, về y tế và các luật lệ liên bang đòi hỏi các công ty phải thêm ngày nghỉ lễ và nghỉ phép cho công nhân. Những thay đổi này sẽ nâng cao phẩm chất đời sống của mọi người dân Mỹ và giải phóng lợi tức của họ để họ có thể mua sắm các hàng hóa và dịch vụ khác.
Làm sao để chia sẻ sự thịnh vượng cho mọi người? Cách hay nhất để đảm bảo lợi tức của các hộ gia đình gia tăng đồng bộ với nền kinh tế sẽ là nâng cao tiền lương và tạo thêm công ăn việc làm cho giới trung lưu và tầng lớp thấp hơn. Sau khi điều chỉnh lạm phát, tiền lương của người Mỹ bình thường đã không tăng từ giữa thập niên 1970, và hiện nay tỉ lệ người có công ăn việc làm thấp hơn năm 2000. Những người làm chính sách cũng phải xét đến một cách điều chỉnh bảo hiểm công; không những phải gia tăng quyền lợi được đưa ra trong Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được mà lại còn cống hiến tín dụng này cho người Mỹ trung lưu và gắn liền nó với GDP đầu người.
Dĩ nhiên, việc chi tiêu cho bảo hiểm xã hội sẽ diễn ra với một cái giá. Người Mỹ cần phải trả thuế nhiều hơn. Ngoài ra, sự hiện hữu của bảo hiểm xã hội có khả năng khuyến khích thêm các hành vi mạo hiểm hay trốn tránh công việc. Tuy vậy, bảo hiểm xã hội cũng có nhiều lợi ích kinh tế. Một nền giáo dục và y tế tốt đẹp hơn sẽ cải tiến năng suất. Các biện pháp ngăn chặn phá sản sẽ khuyến khích óc kinh doanh. Chương trình bồi thường thất nghiệp sẽ khuyến khích một lực lượng lao động linh động hơn và tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công nhân cải tiến kỹ năng của mình. Những chương trình như Tín dụng thuế trên số con hay Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được sẽ cải thiện viễn ảnh giáo dục và kinh tế của các trẻ em lớn lên trong những hộ gia đình nghèo. Và, quan trọng hơn cả, bảo hiểm xã hội cho phép một nền kinh tế hiện đại đề phòng rủi ro mà không dựa vào những biện pháp điều tiết bóp nghẹt kinh tế, những qui định chi ly về những gì các doanh nghiệp có thể làm và không thể làm.
Kinh nghiệm của các nước giàu trên thế giới trong thế kỷ qua chắc chắn sẽ làm dịu nỗi lo sợ là việc gia tăng tầm cỡ và phạm vi của các chương trình xã hội công cộng sẽ làm suy yếu nền kinh tế Hoa Kỳ. Chắc chắn là có một mức độ nào đó mà nếu vượt quá thì việc chi tiêu cho các chương trình công ích sẽ gây tai hại đối với tăng trưởng kinh tế. Nhưng bằng chứng cho thấy là Hoa Kỳ chưa vượt tới mức đó. Trên thực tế, hẳn là nước Mỹ vẫn còn nằm dưới mức đó khá xa.
CÁI GIÁ DÙ LỚN, NHƯNG LỢI ÍCH CÒN LỚN HƠN
Một số nhà quan sát, thậm chí cả những người bên cánh Tả, lo ngại về tính khả thi của những chính sách theo mô hình Bắc Âu – những chính sách đã thành công trong bối cảnh các nước nhỏ và tương đối đồng nhất về chủng tộc – đối với một quốc gia rộng lớn và đa diện như Hoa Kỳ. Nhưng tiến tới một nền dân chủ xã hội tại Hoa Kỳ gần như chỉ là đòi hỏi chính phủ liên bang làm thêm những gì mà chính phủ này đã thực hiện. Việc này không đòi hỏi phải chuyển sang một khế ước xã hội khác hẳn về phẩm chất.
Nhưng liệu Hoa Kỳ có đủ sức để theo đuổi một nền dân chủ xã hội không? Mặc dù cái giá được cộng thêm để tạo ra những chương trình mới và triển khai các chương trình sẵn có được mô tả ở trên trong khi vẫn duy trì An sinh xã hội và Trợ cấp y tế cho người nghỉ hưu sẽ tùy thuộc vào phạm vi chính xác và sự hào phóng của những chương trình này, người ta ước tính các bảo hiểm xã hội Mỹ cần thêm một số tiền tương đương 10 phần trăm GDP của Hoa Kỳ, hay khoảng 1.500 tỉ USD. (Một suy thoái kinh tế, như cuộc suy thoái gây ra do khủng hoảng tài chính 2008, thường làm sai lệch các số liệu GDP và lợi tức thuế, vì thế sử dụng dữ liệu của năm 2007, năm cao điểm của chu kỳ kinh tế trước khủng hoảng, là cách hay nhất.) Nếu 10 phần trăm GDP nghe có vẻ dữ dội, xin hãy nhớ hai điều: Một, nếu chi tiêu của chính phủ Hoa Kỳ tăng từ 37 phần trăm GDP, tức mức chi tiêu năm 2007, đến khoảng 47 phần trăm, sự gia tăng này sẽ đặt Hoa Kỳ chỉ vài phần trăm trên chuẩn mực của những nước giàu trên thế giới. Hai, một gia tăng chi tiêu chính phủ 10 phần trăm GDP sẽ nhỏ hơn nhiều so với sự gia tăng 25 phần trăm đã diễn ra từ năm 1925 cho đến ngày nay.
Là một vấn đề kỹ thuật, sửa đổi lại luật thuế Hoa Kỳ để gây thêm ngân quĩ sẽ tương đối đơn giản. Bước đầu tiên và quan trọng nhất sẽ là đưa ra một thuế tiêu thụ quốc gia dưới hình thức một thuế giá trị gia tăng (a value-added tax), mà chính phủ sẽ đánh lên hàng hóa và dịch vụ vào từng giai đoạn sản xuất và phân phối chúng. Các phân tích của Robert Barro, Alan Krueger, và các nhà kinh tế khác cho thấy rằng một thuế giá trị gia tăng ở tỉ lệ 12 phần trăm, với các miễn trừ hạn chế, sẽ có khả năng mang lại khoảng 5 phần trăm GDP lợi tức quốc gia — nửa số tiền cần thiết để tài trợ việc nới rộng các chương trình bảo hiểm xã hội được đề xuất nơi đây.
Tùy thuộc quá nhiều vào một thuế tiêu thụ là điều cấm kỵ đối với một số trí thức tiến bộ, những người tin tưởng rằng lợi tức thuế quốc gia phụ trội phải đến chủ yếu – có lẽ hoàn toàn – từ những hộ gia đình giàu có nhất nước. Nhưng trên thực tế, Washington không thể vắt thêm một lợi tức thuế tương đương 10 phần trăm GDP từ những hộ gia đình ở chóp bu xã hội, cho dù những thành phần giàu có này đang thụ hưởng đều đặn một phần lợi tức chưa trừ thuế ngày càng lớn hơn so với cả nước. Từ năm 1960 đến nay, thuế suất liên bang trung bình thực thụ (tức những số tiền thuế trả cho chính phủ liên bang như một phần của thu nhập chưa trừ thuế) đánh vào những hộ gia đình giàu có nhất chiếm 5 phần trăm dân số chưa bao giờ vượt quá 37 phần trăm, và trong những năm gần đây, thuế suất này chỉ quanh quẩn ở 29 phần trăm. Nếu muốn thu vào một lợi tức thuế tương đương với 10 phần trăm GDP chỉ từ nhóm nhà giàu này, thuế suất thực thụ nói trên sẽ phải lên đến 67 phần trăm. Dù muốn dù không, một sự tăng thuế ở mức độ này sẽ không được các nhà hoạch định chính sách ủng hộ.
Một pha trộn gồm các thay đổi khác trong hệ thống thuế liên bang có thể tạo thêm một lợi tức thuế tương đương với 5 phần trăm GDP – những biện pháp như: trở lại thuế suất liên bang trước khi có chính quyền Tổng thống George W. Bush, gia tăng thuế suất liên bang trung bình thực thụ của 1 phần trăm dân số gồm những gia đình giàu có nhất lên khoảng 37 phần trăm, chấm dứt việc giảm thuế cho tiền lãi nợ nhà, đặt ra những thuế mới đánh trên khí thải carbon dioxide và các giao dịch tài chính, nâng cao mức trần của tiền lương phải chịu thuế an sinh xã hội [iii], và tăng thêm một phần trăm thuế suất tiền lương hiện nay.
NHỮNG Ụ GIẢM TỐC, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ NHỮNG Ụ CẢN CHÍNH TRỊ
Những loại cải tổ thuế này và những chương trình bảo hiểm xã hội mà chúng tài trợ sẽ không diễn ra tức khắc. Đó sẽ là một tiến trình chậm chạp, có phần do một loạt trở ngại mà các đề xuất dân chủ xã hội chắc chắn sẽ gặp phải. Nhưng không một rào cản nào trong số này tỏ ra là không thể vượt qua.
Một vấn đề cơ bản, mà những người chống đối có thể nêu ra, là dân Mỹ vốn không thích một chính phủ đồ sộ. Mặc dù điều này đúng ở một mức độ trừu tượng, nhưng khi nói đến những chương trình chính phủ cụ thể, dân Mỹ lại có xu thế ủng hộ mạnh mẽ. Chẳng hạn, theo bản Thăm dò Xã hội Tổng quát của Trung tâm Nghiên cứu Dư luận Quốc gia, kể từ thập niên 1970, đại đa số dân Mỹ – luôn luôn trên 80 phần trăm và thường thường trên 90 phần trăm – đã nói rằng họ tin tưởng chính phủ hiện đang chi tiêu đúng mức hay quá ít về trợ cấp cho người nghèo, về cải tiến hệ thống giáo dục quốc gia, về cải thiện và bảo vệ sức khỏe cho toàn dân, và về tài trợ quĩ An sinh Xã hội.
Những người hoài nghi cũng có thể ghi nhận rằng việc bành trướng các chương trình xã hội sẽ tùy thuộc vào sự thành công của các ứng viên Dân chủ trong các cuộc bầu cử, và có khả năng là thời vận của Đảng Dân chủ đang trở nên lu mờ. Phe Dân chủ đã mất hậu thuẫn trong hàng ngũ công nhân da trắng, một thành phần quan trọng của liên minh New Deal, một liên minh từng thống trị chính trị Hoa Kỳ từ thập niên 1930 đến hết thập niên 1970. Nhưng các ứng viên tổng thống và quốc hội thuộc Đảng Dân chủ đã thành công với một cơ sở cử tri mới gồm giới chuyên nghiệp ở thành thị, phụ nữ, người Mỹ gốc châu Phi và châu Mỹ La tinh. Việc đổ tiền ào ạt của khu vực tư vào các cuộc vận động tranh cử, được khuyến khích bởi phán quyết Citizens United năm 2010 của Tối cao Pháp viện [cho phép các tập đoàn kinh tế và các công đoàn đóng góp vô giới hạn vào việc ủng hộ hay chống lại các ứng viên], có thể đặt phe Dân chủ vào thế bất lợi khi gây quĩ. Nhưng các đóng góp của tư nhân vào các cuộc vận động tranh cử đã gia tăng tầm quan trọng qua nhiều thập kỷ rồi, mà cho đến nay, những ứng viên Dân chủ vẫn có thể bắt kịp đối phương. Và mặc dù các khối dân số, các liên minh cử tri, và việc tài trợ cho các cuộc vận động chắc chắn là quan trọng, nhưng tình hình kinh tế thường là yếu tố quyết định chính cho kết quả của các cuộc tranh cử cấp quốc gia. Nếu phe Dân chủ quản lý kinh tế tương đối tốt khi họ nắm chính quyền, họ vẫn có thể duy trì khả năng cạnh tranh trong các mùa bầu cử.
Một trở ngại tiềm năng khác [cho dân chủ xã hội Mỹ] là chuyển biến hữu khuynh trong cán cân quyền lực giữa các nhóm lợi ích bên ngoài vũ đài tranh cử, những thế lực gây ảnh hưởng đáng kể lên việc hoạch định chính sách. Kể từ thập niên 1970, các doanh nghiệp và các cá nhân giàu có đã huy động được lực lượng, trong khi phong trào công đoàn liên tục mất thành viên. Nhưng sự thay đổi này chỉ có thể làm chậm lại, chứ không chặn đứng hẳn, sự đi tới của chính sách xã hội tiến bộ.
Một trở ngại tiềm năng cuối cùng cho dân chủ xã hội Mỹ là cấu trúc của hệ thống chính trị Hoa Kỳ, trong đó việc chặn đứng các thay đổi chính sách thông qua vận động tại quốc hội hay phủ quyết có hiệu lực của tổng thống là tương đối dễ dàng. Dựa vào cấu trúc này, hình thức gây cản trở và trì hoãn việc thông qua các đạo luật một cách có kỷ luật của các đại biểu Cộng hòa tại Quốc hội trong nhiệm kỳ của Obama chắc chắn sẽ đe dọa bước tiến của bảo hiểm công. Tuy nhiên, không chóng thì chầy, các lãnh đạo Cộng hòa sẽ tránh xa cái định hướng cương quyết chống lại sự bành trướng của chính phủ, một định hướng đã hình thành chiến lược và chiến thuật của Đảng Cộng hòa trong những năm gần đây. Về lâu về dài, trọng tâm của đảng này sẽ chuyển dịch, và Đảng Cộng hòa sẽ đi đến chỗ giống như các đảng trung-hữu (center-right parties) tại Tây Âu, mà đại đa số đều chấp nhận một nhà nước phúc lợi hào phóng và những loại thuế tương đối cao.
Ba điều có tiềm năng châm ngòi cho một chuyển biến như thế. Một là sự thất cử của một ứng viên Cộng hòa rất bảo thủ trong một cuộc tuyển cử mà lẽ ra người này đã có thể thắng nếu có một lập trường cởi mở hơn. Nếu Đảng Cộng hòa sẽ đề cử một thành viên trong phe cực hữu hay phe đòi hỏi tối đa cho các quyền tự do công dân và giảm đến mức tối thiểu quyền lực chính phủ (libertarian faction) vào năm 2016 hay 2020, ứng viên này gần như chắc chắn sẽ thất cử, và sự thất bại này sẽ thúc đẩy các lãnh đạo Cộng hòa trở về với vị trí trung tâm. Một yếu tố khác thúc đẩy lập trường trung dung của phe Cộng hòa là tầm quan trọng đang gia tăng của giai cấp công nhân da trắng đối với đảng này. Gần đây, một số tiếng nói sâu sắc và nổi bật từ khuynh hướng trung-hữu, như David Brooks, Roth Douthat, David Frum, Charles Murray, Ramesh Ponnuru, và Reihan Salam, đã ghi nhận rằng người da trắng thuộc giai cấp công nhân hiện đang chật vật về kinh tế và có thể hưởng được quyền lợi từ sự trợ giúp của chính phủ. Để tăng cường hậu thuẫn từ nhóm cử tri này, nhiều lãnh đạo Cộng hòa hàng đầu sẽ quay ra ủng hộ – hay chí ít không chống đối – việc nới rộng các chương trình như Tín dụng thuế trên số con, chương trình cho trẻ đi học sớm, Tín dụng thuế lợi tức kiếm được, An sinh xã hội, và thậm chí cả Bảo hiểm y tế cho người nghỉ hưu và Trợ cấp y tế cho người nghèo và người tàn tật.
Có lẽ hầu hết các nhà lý luận sáng suốt quan trọng bên cánh Hữu cuối cùng sẽ nhận thức rằng, căn cứ vào khát vọng an ninh kinh tế và công bằng xã hội của dân Mỹ, vấn đề không còn là chính phủ có nên can thiệp hay không, mà là nên can thiệp như thế nào. Việc mở rộng các chương trình xã hội không nhất thiết có nghĩa là chính phủ sẽ can thiệp hơn nữa vào thị trường và làm suy yếu thêm tính cạnh tranh. Về điểm này, một lần nữa các nước Bắc Âu có thể soi đường dẫn lối cho Hoa Kỳ. Viện nghiên cứu chính sách bảo thủ Heritage Foundation hợp tác với The Wall Street Journal trong một dự án đánh giá các nước trên mười kích thước của tự do kinh tế. Mặc dù Hoa Kỳ có các mức thuế và chi tiêu của chính phủ thấp hơn các nước Bắc Âu, nhưng tính trung bình Đan Mạch, Phần Lan, và Thụy Điển có điểm số cao hơn Mỹ trên tám kích thước khác, gồm quyền thiết lập và điều hành một xí nghiệp mà không có sự can thiệp của nhà nước, số rào cản bằng luật lệ điều tiết đối với hàng nhập và xuất khẩu, số hạn chế áp đặt lên việc chuyển vốn. Dân Mỹ muốn được chính phủ che chở và hậu thuẫn. Để đáp lại những nguyện vọng này, các nhà hoạch địch chính sách phải lựa chọn giữa bảo hiểm công và việc điều tiết kinh tế bằng luật lệ, và phe bảo thủ chắc chắn sẽ ủng hộ bảo hiểm công hơn.
NƯỚC MỸ CỦA THẾ KỶ 21
Có lẽ điều quan trọng nhất để ghi nhận về tương lai dân chủ xã hội của Hoa Kỳ là, tương lai này sẽ không cực kỳ khác xa hiện tại. Hoa Kỳ sẽ không trở thành một xã hội không tưởng tiến bộ (a progressive utopia); nói đúng ra, nó sẽ trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình hiện nay.
Một bộ phận đông đảo hơn gồm người đã trưởng thành sẽ có công ăn việc làm, mặc dù đối với nhiều người, tuần làm việc sẽ ngắn hơn và sẽ có nhiều ngày nghỉ phép và nghỉ lễ hơn. Gần như tất cả mọi công việc sẽ nằm trong khu vực dịch vụ, đặc biệt là nghề dạy học, quảng cáo, huấn luyện, tổ chức, phụ tá, y tá, giám sát, và vận chuyển; chỉ khoảng năm phần trăm số người làm việc sẽ ở trong khu vực chế tạo hay nông nghiệp. Hầu hết người Mỹ sẽ thay đổi công việc và thậm chí thay đổi nghề nghiệp thường xuyên hơn hiện nay. Sẽ có thêm nhiều người Mỹ làm việc với lương thấp, và trong cuộc đời làm việc của mình sẽ mất việc ít nhất một lần, và khi đến tuổi nghỉ hưu sẽ không dành dụm được bao nhiêu. Gia đình, tổ chức cộng đồng, và công đoàn thậm chí có thể trở nên yếu kém hơn hiện nay.
Nhưng bằng cách bổ túc những khiếm khuyết trong mạng lưới an toàn xã hội, chính phủ liên bang sẽ cải thiện an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và thịnh vượng chung cho hầu hết mọi người Mỹ bất chấp những thay đổi nói ở đoạn trên. Một nước Mỹ dân chủ xã hội sẽ là một xã hội có an ninh kinh tế và công bằng rộng lớn hơn. Kinh tế sẽ linh hoạt, năng động, và sáng tạo hơn. Tỉ lệ người có công ăn việc làm sẽ tăng lên. Người dân sẽ có nhiều tự do trong sinh hoạt. Việc quân bình giữa việc làm và gia đình sẽ trở nên dễ dàng hơn. Dân Mỹ sẽ trả thuế cao hơn hiện nay, nhưng sự hi sinh này là đáng giá, vì họ sẽ nhận về nhiều lợi lộc.
Hoa Kỳ đã tiến bộ nhiều trên con đường trở thành một xã hội tốt đẹp, nhưng quốc gia này còn phải đi xa hơn nữa. May thay, lịch sử Mỹ và kinh nghiệm của các quốc gia giàu có khác đang chỉ dẫn con đường đi tới. Sở dĩ Hoa Kỳ ngày nay là một nước tốt đẹp hơn nhiều so với một thế kỷ trước đây là vì chính phủ liên bang đã nỗ lực nhiều hơn để đảm bảo an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và thịnh vượng chung. Trong tương lai, nếu chính phủ này nỗ lực hơn nữa, thì đất nước này nhờ thế sẽ còn tốt đẹp hơn.
LANE KENWORTHY là giáo sư Xã hội học và Chính trị học tại Đại học Arizona. Bài tiểu luận này dựa vào tác phẩm gần đây nhất của ông, Social Democratic America [Nước Mỹ dân chủ xã hội] (Oxford Unversity Press, 2014).
Nguồn: “America’s Social Democratic Future – The Arc of Policy Is Long But Bends Toward Justice”, Foreign Affairs Jan/Feb 2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
[i]Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được (the Earned Income Tax Credit): số tiền thuế mà chính phủ liên bang hoàn trả lại cho những cá nhân hoặc cặp vợ chồng có lợi tức thấp hoặc trung bình – đặc biệt những người có con.
[ii]Tín dụng thuế trên số con (The Child Tax Credit): số tiền thuế hoàn trả lại cho một hộ gia đình, dựa trên mức lợi tức và số con.
[iii]Riêng năm 2013, trần lợi tức phải chịu thuế An sinh Xã hội là 113.700 USD; số tiền kiếm được ngoài mức trần này khỏi phải đóng thuế An sinh Xã hội. Nghĩa là, người có lợi tức 113.700 USD và người kiếm được một triệu USD trong năm 2013 sẽ đóng thuế An sinh Xã hội ngang nhau.
February 5, 2014
Tương lai dân chủ xã hội của Mỹ: Hình cung chính sách tuy dài nhưng đang uốn tới công bằng xã hội (1)
Lane Kenworthy
Trần Ngọc Cư dịch
Dẫn nhập của người dịch
Dân chủ xã hội đã được giới thiệu nhiều lần trên talawas và pro&contra, nhưng phần lớn tập trung vào các mô hình dân chủ xã hội Bắc Âu. Trong tiểu luận sau đây, Lane Kenworthy phác họa một hành trình chậm rãi nhưng vững chắc của Hoa Kỳ trên con đường tiến tới một tương lai dân chủ xã hội. Theo tiên đoán của Kenworthy, tương lai này sẽ nằm ngay trong thế kỷ 21 và “không cực kỳ khác xa hiện tại”, mà chỉ “trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình hiện nay”.
Nền kinh tế hậu công nghiệp đặt cơ sở trên công nghệ thông tin và toàn cầu hóa đã tác động mạnh lên xã hội Mỹ. Việc đưa các cơ sở sản xuất ra nước ngoài và sự chuyển đổi ráo riết từ một nền kinh tế chế tạo sang kinh tế dịch vụ đã gây xáo trộn chóng mặt cho giai cấp công nhân, kể cả công nhân da trắng. Khủng hoảng này đòi hỏi một loạt chương trình xã hội nhằm giúp giới công nhân điều chỉnh lại nghề nghiệp và tái tham gia nền kinh tế mới.
Một thuộc tính khác của kinh tế hậu công nghiệp là tình trạng bất bình đẳng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Kể từ thập niên 1970, lợi tức của một thiểu số rất nhỏ ở những nấc thang kinh tế cao nhất đã tăng lên nhiều lần, trong khi lợi tức của giai cấp trung lưu và thấp hơn, nhích lên không đáng kể. Lời than phiền được nghe nhiều nhất gần đây là, một phần trăm dân số Hoa Kỳ gồm những người giàu nhất đang nắm trong tay 23 phần trăm của cải cả nước.
Cuộc nổi dậy của Phong trào Chiếm phố Wall năm 2012 là một cảnh báo về khả năng một cuộc xung đột giai cấp và khủng hoảng xã hội có thể diễn ra . Để chặn đứng khả năng này từ trong trứng nước, dân chủ xã hội sẽ là một đồng thuận tất yếu giữa cánh Hữu và cánh Tả của chính trị Mỹ.
*
Bài liên quan:
Các nước Bắc Âu – Siêu mô hình sắp tới
Bí quyết thành công của Bắc Âu
________
Từ tháng Ba 2010, khi Tổng thống Mỹ Barack Obama phê chuẩn Dự luật Cải tổ Y tế, đạo luật này đã nằm ở vị trí trung tâm của chính trị Mỹ. Các nhà hoạt động trong phong trào Tiệc Trà [i] và các đồng minh của họ trong Đảng Cộng hòa đã cố gắng gần như bằng mọi cách để ngăn chặn luật này. Hạ viện Mỹ do Đảng Cộng hòa kiểm soát đã biểu quyết hơn 40 lần nhằm hủy bỏ hay cắt giảm ngân sách thực thi nó, và tháng Mười vừa qua Hạ viện đã cho phép chính phủ liên bang đóng cửa một phần trong một toan tính nhằm chặn đứng hay trì hoãn việc thực thi luật này. Cuộc tranh luận xoay quanh Luật cải tổ Y tế chưa có dấu hiệu sớm chấm dứt.
Obamacare, như luật này thường được gọi, là cải tổ hệ thống y tế Hoa Kỳ có ý nghĩa nhất trong nửa thế kỷ nay. Mục đích của nó là gia tăng số người Mỹ có bảo hiểm y tế, cải tiến phẩm chất các chương trình bảo hiểm y tế, và làm chậm bớt mức gia tăng các chi phí y tế. Nhưng cuộc tranh cãi về đạo luật không chỉ giới hạn trong chính sách y tế, và tính cách gay gắt của cuộc xung đột không chỉ do sự phân cực đảng phái gây ra. Obamacare đã trở thành chiến trường chính trong một cuộc chiến đang tiếp diễn giữa phe phóng khoáng (liberals) và phe bảo thủ (conservatives) về tầm vóc và phạm vi hoạt động của chính phủ Hoa Kỳ, một tranh chấp có gốc rễ từ cuộc Khủng hoảng Kinh tế 1929-1930 và chính sách New Deal (Tái Phân phối).
Những người phản đối các sáng kiến của Franklin Roosevelt đã phải im tiếng khi các cải tổ của chính sách New Deal trở thành định chế dưới thời Truman và Eisenhower, và nhà nước phúc lợi Hoa Kỳ đã tiến thêm một bước nhảy vọt nữa dưới thời Lyndon Johnson, mà nghị trình Đại Xã hội (Great Society) của ông đã nới rộng trợ cấp công cho người nghèo và tạo ra các chương trình bảo hiểm y tế do chính phủ điều hành, đó là Bảo hiểm y tế cho người nghỉ hưu (Medicare [ii]) và Trợ giúp y tế cho người nghèo (Medicaid [iii]). Nhưng những thập niên sau đó ít thấy những bổ sung quan trọng, mà còn gặp phải một số thất bại đáng kể, chẳng hạn thất bại của Tổng thống Bill Clinton trong nỗ lực cải tổ y tế năm 1994.
Việc thông qua Obamacare đã gây nhiều tranh cãi, một phần vì nó có vẻ báo hiệu một giai đoạn mới trong xu thế trực tiếp thay đổi xã hội của chính phủ (government activism), khiến một số nhân vật bảo thủ chống đối nó như một bước ngoặt khuynh tả có tính quyết định, không gì lay chuyển được. “Chính vì Luật Cải tổ Y tế thể hiện giấc mơ dài nửa thế kỷ của phe phóng khoáng”, bình luận gia bảo thủ Peter Wehner gần đây đã viết trong The Weekly Standard, “nếu luật này thất bại, đó sẽ là một đòn chí mạng không những đánh vào Barack Obama mà còn đánh vào bản thân chủ nghĩa phóng khoáng Mỹ (American liberalism). Vì sao? Vì trong nhiều cung cách Obamacare là hiện thân, là hình mẫu lý tưởng, của chủ nghĩa phóng khoáng hiện đại. Điều này được phản ánh trong những yếu tố mang tính cưỡng chế, trong sự tin tưởng cực kỳ cao độ vào các giải pháp kỹ trị (technocratic solutions), trong tham vọng tập trung hóa tiến trình làm quyết sách, và trong tín lý cho rằng chính phủ biết hết mọi điều.”
Những tranh luận cơ hồ báo hiệu ngày tận thế này phần lớn đã cường điệu quá đáng ý nghĩa thực tế của Obamacare. Nhưng đồng thời chúng cũng làm lu mờ một thực tế đáng chú ý hơn, đó là luật cải tổ y tế này tiêu biểu thêm một bước nữa trong cuộc hành trình lâu dài, chậm chạp, nhưng vững chắc, xa dần nhà nước tư bản phóng khoáng cổ điển (the classical liberal capitalist state) và hướng tới một phiên bản dân chủ xã hội đặc thù Mỹ. Khác với Bắc Âu chẳng hạn, nơi mà thể chế dân chủ xã hội đã được thực thi một cách nghiêm chỉnh và toàn diện bởi các phong trào chính trị có ý thức rõ ràng mình đang theo đuổi một ý hệ, tại Hoa Kỳ một mạng lưới an toàn xã hội khiêm nhượng và có tính cách chắp vá hơn được đan kết lại bởi các nhà chính trị và các nhà kỹ trị thực tiễn (pragmatic politicians and technocrats) trong khi họ tìm cách giải quyết từng vấn đề riêng lẻ. Các thế lực hùng hậu sẽ tiếp tục chống lại những nỗ lực này, và do đó các chính sách bảo hiểm xã hội sẽ xuất hiện từ từ hơn, ít phổ quát hơn, ít hiệu năng và ít hiệu lực hơn so với trường hợp không gặp sự chống đối vừa nói. Nhưng những người chống đối này đang tham dự một trận đánh mà họ nắm phần thua và chỉ có thể làm chậm lại cũng như làm méo mó kết quả sau cùng chứ không chặn đứng được nó. Nhờ một sự kết hợp gồm đòi hỏi của đại chúng, yểm trợ hậu cần của giới kỹ trị, và của cải quốc gia tăng dần lên, dân chủ xã hội là tương lai của Hoa Kỳ.
CÁC MÔ HÌNH BẮC ÂU
Thể chế dân chủ xã hội phát sinh vào đầu thế kỷ 20 như một chiến lược để cải thiện chủ nghĩa tư bản chứ không nhằm thay thế nó. Ngày nay, người ta thường liên hệ thể chế dân chủ xã hội với các đảng dân chủ xã hội và các chính sách mà những đảng này đã thiết định được, đặc biệt tại các nước Bắc Âu như Đan Mạch và Thụy Điển. Trong quá trình nửa thế kỷ tới, một loạt chương trình xã hội được chính phủ liên bang Hoa Kỳ đưa ra sẽ ngày càng giống những chương trình do các nước đó đưa ra.
Ngày nay, tiên đoán này có một nội hàm khác hẳn với nội hàm mà nó có thể gợi ra cách đây chừng một thế hệ, khi nhãn hiệu “dân chủ xã hội” có nghĩa hạn hẹp là những chính sách giúp người dân sống qua ngày dễ dàng mà ít dựa vào hoặc khỏi cần dựa vào đồng lương kiếm được. Trong những thập niên 1960 và 1970, việc thực thi dân chủ xã hội chủ yếu chỉ là duy trì một mạng lưới an toàn công cộng rộng lớn. Ngày nay, đó là một quan niệm quá hẹp hòi. Trong những thập niên gần đây, các nước Bắc Âu đã bổ túc các chương trình xã hội hào phóng của mình bằng các dịch vụ nhằm tạo công ăn việc làm và gia tăng năng suất: các chương trình được chính phủ tài trợ như nhà giữ trẻ, trường mầm non, trung tâm dạy nghề và văn phòng tìm việc, các dự án hạ tầng quan trọng, và hỗ trợ của chính phủ dành cho việc nghiên cứu và phát triển trong khu vực tư. Đồng thời, các chính phủ Bắc Âu cũng chấp nhận một đường lối điều tiết kinh tế thân thiện với thị trường. Mặc dù các chính phủ này vẫn duy trì các luật lệ bảo vệ công nhân, người tiêu thụ, và môi trường, nhưng họ quân bình được những biện pháp bảo vệ này với một hệ thống có khả năng khuyến khích óc kinh doanh và tính linh động bằng cách tạo điều kiện dễ dàng cho việc mở hay đóng một công ty, việc thuê mướn hay đuổi nhân viên, và việc điều chỉnh số giờ làm việc.
Đi tiên phong tại những nước Bắc Âu, dân chủ xã hội hiện đại ngụ ý một sự cam kết sử dụng rộng rãi chính sách chính phủ để thúc đẩy an ninh kinh tế, mở rộng cơ hội, và đảm bảo mức sống ngày càng cao cho tất cả mọi người. Nhưng nó thực hiện mục tiêu này trong khi vẫn đảm bảo tự do kinh tế, tính linh hoạt kinh tế, và tính năng động thị trường, tất cả những điều này từ lâu vốn là thương hiệu (hallmarks) của nền kinh tế Hoa Kỳ. Kinh nghiệm của các nước Bắc Âu chứng minh rằng một chính phủ có thể kết hợp thành công tính linh hoạt kinh tế với an ninh kinh tế và nuôi dưỡng công bằng xã hội mà không gây trở ngại cho việc cạnh tranh. Dân chủ xã hội hiện đại cống hiến những điều tốt đẹp nhất của hai thế giới.
Tuy nhiên, những người quan niệm rằng Hoa Kỳ có thể gia tăng hơn nữa tầm cỡ và phạm vi hoạt động của nhà nước phúc lợi có lẽ đã không nhận ra thực tế của chính trị Mỹ đương đại. Nhưng ta thử lùi lại một bước để cân nhắc con đường về lâu về dài. Bài học của một trăm năm qua cho thấy rằng, khi Hoa Kỳ càng giàu có hơn, người Mỹ lại càng muốn chi tiêu thêm ngân sách để tạo bảo hiểm chống lại rủi ro kinh tế và gia tăng công bằng xã hội. Những tiến bộ trong chính sách xã hội chỉ có thể đến từng đợt thất thường, nhưng chúng vẫn thực sự diễn ra. Và một khi chúng đến, chúng thường tồn tại lâu dài.
Xu thế này có thể sẽ tiếp diễn. Các nhà làm chính sách Hoa Kỳ sẽ nhận ra lợi ích của một vai trò chính phủ rộng lớn hơn trong việc theo đuổi an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và mức sống ngày càng đi lên và sẽ cố gắng đưa nước Mỹ đi theo chiều hướng đó. Thông thường, họ sẽ thất bại. Nhưng đôi khi, họ sẽ thành công. Tiến bộ sẽ gia tăng, dù xảy đến từng đợt thất thường, như từng diễn ra trong quá khứ. Các chương trình mới và các dạng triển khai những chương trình hiện có thường sẽ tồn tại lâu dài, vì những chương trình hoạt động tốt sẽ trở nên thịnh hành và vì tiến trình hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thường làm cho những kẻ chống đối các chương trình xã hội khó có thể tháo dỡ chúng. Những bước ngắn và thỉnh thoảng có bước nhảy vọt dài, cộng với những bước thụt lùi có giới hạn, sẽ mang lại một kết quả tích lũy làm gia tăng đáng kể diện rộng và tính hào phóng của những chương trình xã hội do chính phủ điều hành.
Đây không phải là một tiên đoán về thời điểm hay các điều kiện theo đó các tiến bộ chính sách cụ thể sẽ diễn ra. Đây chỉ là một giả thuyết về một tiến trình mang tính xác suất (a probabilistic process). Về lâu về dài, thỉnh thoảng chính phủ sẽ tạo thêm các chương trình mới và mở rộng các chương trình hiện có, và những chương trình mới và những dạng triển khai này chắc chắn sẽ không bị đảo ngược.
NHỮNG BẤT CẬP
Để hiểu lý do tại sao Hoa Kỳ đang ở trên đường tiến tới dân chủ xã hội, ta phải nhìn nhận thực tế là, mặc dù Mỹ là một nước giàu – và trong nửa thế kỷ tới, nước này thậm chí sẽ còn giàu hơn nữa – nhưng nó vẫn chịu những suy yếu kinh tế nghiêm trọng. Đây là những vấn đề tiềm ẩn; mặc dù những vấn đề này đã trở nên tồi tệ thêm do cuộc Đại Suy thoái vừa qua và do kinh tế phục hồi yếu ớt, nhưng chúng vốn đã tồn tại trước khi nước Mỹ gặp phải những khó khăn kinh tế gần đây.
Một là, Hoa Kỳ không đảm bảo đủ an ninh kinh tế cho người dân của mình. Quá nhiều người Mỹ có lợi tức thấp đến nỗi họ phải phấn đấu rất chật vật mới đủ sống qua ngày: 25 triệu hộ gia đình ở đáy thang lợi tức, chiếm một phần năm dân số, chỉ có lợi tức trung bình là 18.000 USD một năm. Quá nhiều người Mỹ đang trải qua những sút giảm lợi tức to lớn: mỗi năm, khoảng một phần bảy số hộ gia đình tại Hoa Kỳ bị giảm sút từ 25 phần trăm lợi tức hàng năm hay nhiều hơn. Quá nhiều người Mỹ không có bảo hiểm y tế: ngay cả khi Obamacare được thực thi đầy đủ, vẫn còn từ năm đến mười phần trăm công dân Hoa Kỳ không có bảo hiểm, một con số cao hơn khá xa so với bất cứ quốc gia giàu có nào khác. Sau cùng, quá nhiều người Mỹ gần đến tuổi nghỉ hưu mà tiền dành dụm thì ít ỏi và lương hưu thiếu hụt: tiền tiết kiệm hộ gia đình trung bình, như một phần lợi tức hộ gia đình có thể tiêu xài được, đã rơi từ mười phần trăm trong thập niên 1970 xuống chỉ còn ba phần trăm trong thập niên đầu thế kỷ này; mặc dù một số công ty có kế hoạch hưu trí với số tiền nhân viên đóng góp được qui định rõ ràng, nhưng nhiều người đã đóng góp rất ít hoặc rút tiền ra quá sớm, và vụ vỡ bong bóng địa ốc vừa qua đã xóa sạch cái tài sản duy nhất của nhiều chủ nhà trung lưu.
Hai là, nước Mỹ không giữ được lời hứa về cơ hội đồng đều. Hầu hết phụ nữ và nhiều người Mỹ gốc châu Phi hiện nay có cơ may tốt đẹp hơn trước nhiều để theo đuổi một trình độ giáo dục cao và thành công trong thị trường lao động so với các bậc cha anh của mình một thế hệ trước đây. Nhưng câu chuyện về người Mỹ lớn lên trong cảnh nghèo nghe ra không được phấn khởi bao nhiêu. Trong số những nước giàu với dữ liệu thống kê đầy đủ, Hoa Kỳ ở vào một trong những nấc thấp nhất về sự thăng tiến lợi tức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một người Mỹ sinh ra trong một gia đình thuộc một phần năm dân số ở đáy thang lợi tức trong giai đoạn từ giữa thập niên 1960 đến giữa thập niên 1980 có khoảng 30 phần trăm cơ may vươn tới một phần năm dân số thuộc giai cấp trung lưu hay cao hơn khi đến tuổi trưởng thành; trong khi đó, một người Mỹ sinh ra trong một phần năm dân số ở các nấc thang lợi tức cao nhất có khoảng 80 phần trăm cơ may gia nhập một phần năm dân số thuộc giai cấp trung lưu hay cao hơn. Ngoài ra, những thập niên gần đây đã chứng kiến những gia tăng lớn trong khoảng cách giữa điểm thi và tỉ lệ tốt nghiệp đại học của con cái những gia đình có lợi tức thấp và con cái những gia đình có lợi tức cao, và khoảng cách này có khả năng sẽ phản ánh trong doanh lợi hay thu nhập của họ khi đến tuổi trưởng thành.
Ba là, quá ít người Mỹ được chia sẻ sự phồn vinh mà nước họ đã hưởng trong những thập kỷ gần đây. Trong một xã hội tốt đẹp, những thành phần ở giữa và ở đáy thang lợi tức phải được hưởng lợi lộc đáng kể từ tăng trưởng kinh tế quốc gia. Khi đất nước thịnh vượng, thì mọi người phải được phồn vinh. Nhưng từ thập niên 1970, mặc dù kinh tế tăng trưởng vững chắc, nhưng thu nhập của những hộ gia đình trung lưu và thấp hơn đã tăng lên rất chậm so với những hộ gia đình thuộc giai cấp thượng lưu. Theo những ước tính mà Văn phòng Ngân sách Quốc hội [một cơ quan độc lập không đảng phái] đưa ra để giải thích mức lạm phát, mức thu nhập trung bình của các hộ gia đình thuộc một phần trăm dân số ở chóp bu đã bay bổng từ 350.000 USD năm 1979 lên 1,3 triệu USD năm 2007. Đối với 60 phần trăm dân số ở phía đáy, mức tăng lợi tức hoàn toàn khiêm nhượng: từ 30.000 USD lên 37.000 USD [trong khoảng thời gian 30 năm vừa nói].
Những bất cập này một phần do các thay đổi trong kinh tế toàn cầu gây ra, đặc biệt là sự cạnh tranh ngày càng gia tăng mà các hãng của Hoa Kỳ phải đối diện. Các công ty Mỹ bán hàng hóa hay dịch vụ trên thị trường quốc tế đang đối đầu với những địch thủ nước ngoài có khả năng hơn trước rất nhiều. Các công nghiệp trong nước cũng gặp nhiều cạnh tranh với nhau hơn, khi những tiến bộ công nghệ, giá xây cất và chuyên chở rẻ hơn, và việc nới lỏng các luật lệ điều tiết kinh tế hạ thấp những rào cản đối với việc tham gia thị trường. Hơn nữa, các cổ đông ngày nay muốn giá trị cổ phần tăng nhanh. Trong khi một thế hệ trước đây, người đầu tư vào một công ty có thể hài lòng vì được trả tiền lời đều đặn và giá cổ phần của công ty tăng lên phần nào trong dài hạn, thì ngày nay họ đòi hỏi lợi nhuận tăng lên từng quí [ba tháng một] và giá cổ phần thường xuyên tăng trưởng.
Những thay đổi này có lợi cho người đầu tư, người tiêu thụ và một số nhân viên. Nhưng chúng khuyến khích các công ty chống lại việc tăng lương, bỏ các chương trình bảo hiểm y tế, cắt giảm tiền đóng góp vào quĩ hưu của nhân viên, di dời ra nước ngoài, cắt giảm nhân sự, và thay thế nhân viên thường trực bằng nhân viên tạm thời – hay bằng máy điện toán. Những chiến lược cắt giảm chi phí như thế rốt cuộc làm suy yếu an ninh kinh tế, hạn chế cơ hội đối với giới lao động thiếu kỹ năng, và giảm mức tăng trưởng lợi tức đối với nhiều người Mỹ bình thường – những xu thế này chắc chắn còn tiếp tục đi vào một tương lai có thể thấy trước. Trong những thập niên tới, một số người Mỹ đông đảo hơn sẽ mất việc, sẽ làm việc qua những thời gian dài mà không được tăng lương, sẽ làm việc bán thời gian hay vào những giờ giấc thất thường, sẽ không có chương trình hưu trí do công ty bảo trợ hay bảo hiểm y tế.
Một số người cho rằng phương cách hay nhất để đối phó những sức ép và căng thẳng của nền kinh tế mới là củng cố gia đình, các tổ chức công dân, và các công đoàn. Đó là những tiêu chí đáng ca ngợi. Nhưng trong nửa thế kỷ qua những định chế này liên tục trở nên suy yếu. Mặc dù những người chủ trương mang lại sức sống cho chúng đưa ra nhiều hi vọng, nhưng họ cho thấy quá ít bằng chứng về sự thành công.
Một thế lực chính trị tạiWashingtonủng hộ một giải pháp khác: thu nhỏ vai trò của chính phủ liên bang. Theo quan điểm này, giảm thuế và giảm chi tiêu của chính phủ sẽ cải tiến hiệu năng, hạn chế lãng phí, và gia tăng các phần thưởng khuyến khích đầu tư, kinh doanh, và sự hăng hái làm việc, do đó dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh chóng hơn. Nhưng đường lối này đặt cơ sở trên ý niệm sai lầm là sự lớn mạnh của chính phủ sẽ hạn chế sự tăng trưởng của khu vực tư. Qua quá trình một thế kỷ nay, Hoa Kỳ đã từng bước nới rộng chi tiêu của chính phủ, từ 12 phần trăm GDP năm 1920 đến 37 phần trăm năm 2007. Suốt gian đoạn này, đà tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ vẫn bền vững rất ngoạn mục. Các bằng chứng khác từ nước ngoài cũng cho thấy: trong số những nước giàu, những nước mà thuế và chi tiêu chính phủ đều cao có xu thế tăng trưởng nhanh chóng y hệt như những nước mà chính phủ đóng vai trò nhỏ bé hơn. Hơn nữa, thậm chí nếu việc giảm thuế và giảm chi tiêu của liên bang có thực sự đưa đến tăng trưởng nhanh hơn chăng nữa, thì lịch sử của mấy thập niên qua vẫn cho thấy rằng sự tăng trưởng ấy không mang lại lợi ích bao nhiêu cho người Mỹ trung lưu hay giai cấp kinh tế thấp hơn.
Một phản ứng khả thể khác đối với tình trạng này là nhe răng cười chịu đựng. Theo quan điểm này, gần như không ai có thể làm được gì để cải thiện những hậu quả xấu của nền kinh tế hiện đại, vì thế hành động khôn ngoan nhất của người Mỹ bình thường là phải điều chỉnh những kỳ vọng của mình cho phù hợp với thực tế để tiếp tục sống. Nhưng Hoa Kỳ có thể làm một cái gì tốt đẹp hơn thế – và đường lối tốt đẹp nhất để đối phó những bất cập kinh tế-xã hội của nước này là nới rộng bảo hiểm công.
(Còn 1 kì)
LANE KENWORTHY là giáo sư Xã hội học và Chính trị học tại Đại học Arizona. Bài tiểu luận này dựa vào tác phẩm gần đây nhất của ông, Social Democratic America [Nước Mỹ dân chủ xã hội] (Oxford Unversity Press, 2014).
Nguồn: “America’s Social Democratic Future – The Arc of Policy Is Long But Bends Toward Justice”, Foreign Affairs Jan/Feb 2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
[i]Phong trào Tiệc Trà (the Tea Party movement): một phong trào chính trị Mỹ chủ trương giảm nợ quốc gia và thâm thủng ngân sách liên bang bằng cách giảm chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Danh xưng có xuất xứ từ một biến cố lịch sử được gọi là Tiệc trà Boston (the Boston Tea Party) diễn ra năm 1773 khi một số dân thuộc địa tổ chức đổ trà từ một thuyền buôn Anh xuống sông Boston như một hành động chống lại việc Đế quốc Anh đánh thuế lên các thuộc địa Bắc Mỹ trong khi họ không được đại diện tại Nghị viện Anh (taxation without representation). Đây là một phong trào vừa dân túy, vừa bảo thủ, vừa bênh vực các tự do dân sự chống lại các áp đặt của chính phủ.
[ii]Medicare: một chương trình bảo hiểm xã hội quốc gia, được chính phủ liên bang Mỹ quản trị từ năm 1966, nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho những người Mỹ ở tuổi 65 hoặc già hơn, trước đó đã làm việc và trả phí vào hệ thống này.
[iii]Medicaid: một chương trình y tế xã hội cho các gia đình hoặc cá nhân có lợi tức thấp và nguồn lực yếu kém
Lane Kenworthy Tương lai dân chủ xã hội của Mỹ: Hình cung chính sách tuy dài nhưng đang uốn tới công bằng xã hội (1)
Trần Ngọc Cư dịch
Dẫn nhập của người dịch
Dân chủ xã hội đã được giới thiệu nhiều lần trên talawas và pro&contra, nhưng phần lớn tập trung vào các mô hình dân chủ xã hội Bắc Âu. Trong tiểu luận sau đây, Lane Kenworthy phác họa một hành trình chậm rãi nhưng vững chắc của Hoa Kỳ trên con đường tiến tới một tương lai dân chủ xã hội. Theo tiên đoán của Kenworthy, tương lai này sẽ nằm ngay trong thế kỷ 21 và “không cực kỳ khác xa hiện tại”, mà chỉ “trở thành một phiên bản tốt hơn của chính mình hiện nay”.
Nền kinh tế hậu công nghiệp đặt cơ sở trên công nghệ thông tin và toàn cầu hóa đã tác động mạnh lên xã hội Mỹ. Việc đưa các cơ sở sản xuất ra nước ngoài và sự chuyển đổi ráo riết từ một nền kinh tế chế tạo sang kinh tế dịch vụ đã gây xáo trộn chóng mặt cho giai cấp công nhân, kể cả công nhân da trắng. Khủng hoảng này đòi hỏi một loạt chương trình xã hội nhằm giúp giới công nhân điều chỉnh lại nghề nghiệp và tái tham gia nền kinh tế mới.
Một thuộc tính khác của kinh tế hậu công nghiệp là tình trạng bất bình đẳng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Kể từ thập niên 1970, lợi tức của một thiểu số rất nhỏ ở những nấc thang kinh tế cao nhất đã tăng lên nhiều lần, trong khi lợi tức của giai cấp trung lưu và thấp hơn, nhích lên không đáng kể. Lời than phiền được nghe nhiều nhất gần đây là, một phần trăm dân số Hoa Kỳ gồm những người giàu nhất đang nắm trong tay 23 phần trăm của cải cả nước.
Cuộc nổi dậy của Phong trào Chiếm phố Wall năm 2012 là một cảnh báo về khả năng một cuộc xung đột giai cấp và khủng hoảng xã hội có thể diễn ra . Để chặn đứng khả năng này từ trong trứng nước, dân chủ xã hội sẽ là một đồng thuận tất yếu giữa cánh Hữu và cánh Tả của chính trị Mỹ.
*
Bài liên quan:
Các nước Bắc Âu – Siêu mô hình sắp tới
Bí quyết thành công của Bắc Âu
________
Từ tháng Ba 2010, khi Tổng thống Mỹ Barack Obama phê chuẩn Dự luật Cải tổ Y tế, đạo luật này đã nằm ở vị trí trung tâm của chính trị Mỹ. Các nhà hoạt động trong phong trào Tiệc Trà [i] và các đồng minh của họ trong Đảng Cộng hòa đã cố gắng gần như bằng mọi cách để ngăn chặn luật này. Hạ viện Mỹ do Đảng Cộng hòa kiểm soát đã biểu quyết hơn 40 lần nhằm hủy bỏ hay cắt giảm ngân sách thực thi nó, và tháng Mười vừa qua Hạ viện đã cho phép chính phủ liên bang đóng cửa một phần trong một toan tính nhằm chặn đứng hay trì hoãn việc thực thi luật này. Cuộc tranh luận xoay quanh Luật cải tổ Y tế chưa có dấu hiệu sớm chấm dứt.
Obamacare, như luật này thường được gọi, là cải tổ hệ thống y tế Hoa Kỳ có ý nghĩa nhất trong nửa thế kỷ nay. Mục đích của nó là gia tăng số người Mỹ có bảo hiểm y tế, cải tiến phẩm chất các chương trình bảo hiểm y tế, và làm chậm bớt mức gia tăng các chi phí y tế. Nhưng cuộc tranh cãi về đạo luật không chỉ giới hạn trong chính sách y tế, và tính cách gay gắt của cuộc xung đột không chỉ do sự phân cực đảng phái gây ra. Obamacare đã trở thành chiến trường chính trong một cuộc chiến đang tiếp diễn giữa phe phóng khoáng (liberals) và phe bảo thủ (conservatives) về tầm vóc và phạm vi hoạt động của chính phủ Hoa Kỳ, một tranh chấp có gốc rễ từ cuộc Khủng hoảng Kinh tế 1929-1930 và chính sách New Deal (Tái Phân phối).
Những người phản đối các sáng kiến của Franklin Roosevelt đã phải im tiếng khi các cải tổ của chính sách New Deal trở thành định chế dưới thời Truman và Eisenhower, và nhà nước phúc lợi Hoa Kỳ đã tiến thêm một bước nhảy vọt nữa dưới thời Lyndon Johnson, mà nghị trình Đại Xã hội (Great Society) của ông đã nới rộng trợ cấp công cho người nghèo và tạo ra các chương trình bảo hiểm y tế do chính phủ điều hành, đó là Bảo hiểm y tế cho người nghỉ hưu (Medicare [ii]) và Trợ giúp y tế cho người nghèo (Medicaid [iii]). Nhưng những thập niên sau đó ít thấy những bổ sung quan trọng, mà còn gặp phải một số thất bại đáng kể, chẳng hạn thất bại của Tổng thống Bill Clinton trong nỗ lực cải tổ y tế năm 1994.
Việc thông qua Obamacare đã gây nhiều tranh cãi, một phần vì nó có vẻ báo hiệu một giai đoạn mới trong xu thế trực tiếp thay đổi xã hội của chính phủ (government activism), khiến một số nhân vật bảo thủ chống đối nó như một bước ngoặt khuynh tả có tính quyết định, không gì lay chuyển được. “Chính vì Luật Cải tổ Y tế thể hiện giấc mơ dài nửa thế kỷ của phe phóng khoáng”, bình luận gia bảo thủ Peter Wehner gần đây đã viết trong The Weekly Standard, “nếu luật này thất bại, đó sẽ là một đòn chí mạng không những đánh vào Barack Obama mà còn đánh vào bản thân chủ nghĩa phóng khoáng Mỹ (American liberalism). Vì sao? Vì trong nhiều cung cách Obamacare là hiện thân, là hình mẫu lý tưởng, của chủ nghĩa phóng khoáng hiện đại. Điều này được phản ánh trong những yếu tố mang tính cưỡng chế, trong sự tin tưởng cực kỳ cao độ vào các giải pháp kỹ trị (technocratic solutions), trong tham vọng tập trung hóa tiến trình làm quyết sách, và trong tín lý cho rằng chính phủ biết hết mọi điều.”
Những tranh luận cơ hồ báo hiệu ngày tận thế này phần lớn đã cường điệu quá đáng ý nghĩa thực tế của Obamacare. Nhưng đồng thời chúng cũng làm lu mờ một thực tế đáng chú ý hơn, đó là luật cải tổ y tế này tiêu biểu thêm một bước nữa trong cuộc hành trình lâu dài, chậm chạp, nhưng vững chắc, xa dần nhà nước tư bản phóng khoáng cổ điển (the classical liberal capitalist state) và hướng tới một phiên bản dân chủ xã hội đặc thù Mỹ. Khác với Bắc Âu chẳng hạn, nơi mà thể chế dân chủ xã hội đã được thực thi một cách nghiêm chỉnh và toàn diện bởi các phong trào chính trị có ý thức rõ ràng mình đang theo đuổi một ý hệ, tại Hoa Kỳ một mạng lưới an toàn xã hội khiêm nhượng và có tính cách chắp vá hơn được đan kết lại bởi các nhà chính trị và các nhà kỹ trị thực tiễn (pragmatic politicians and technocrats) trong khi họ tìm cách giải quyết từng vấn đề riêng lẻ. Các thế lực hùng hậu sẽ tiếp tục chống lại những nỗ lực này, và do đó các chính sách bảo hiểm xã hội sẽ xuất hiện từ từ hơn, ít phổ quát hơn, ít hiệu năng và ít hiệu lực hơn so với trường hợp không gặp sự chống đối vừa nói. Nhưng những người chống đối này đang tham dự một trận đánh mà họ nắm phần thua và chỉ có thể làm chậm lại cũng như làm méo mó kết quả sau cùng chứ không chặn đứng được nó. Nhờ một sự kết hợp gồm đòi hỏi của đại chúng, yểm trợ hậu cần của giới kỹ trị, và của cải quốc gia tăng dần lên, dân chủ xã hội là tương lai của Hoa Kỳ.
CÁC MÔ HÌNH BẮC ÂU
Thể chế dân chủ xã hội phát sinh vào đầu thế kỷ 20 như một chiến lược để cải thiện chủ nghĩa tư bản chứ không nhằm thay thế nó. Ngày nay, người ta thường liên hệ thể chế dân chủ xã hội với các đảng dân chủ xã hội và các chính sách mà những đảng này đã thiết định được, đặc biệt tại các nước Bắc Âu như Đan Mạch và Thụy Điển. Trong quá trình nửa thế kỷ tới, một loạt chương trình xã hội được chính phủ liên bang Hoa Kỳ đưa ra sẽ ngày càng giống những chương trình do các nước đó đưa ra.
Ngày nay, tiên đoán này có một nội hàm khác hẳn với nội hàm mà nó có thể gợi ra cách đây chừng một thế hệ, khi nhãn hiệu “dân chủ xã hội” có nghĩa hạn hẹp là những chính sách giúp người dân sống qua ngày dễ dàng mà ít dựa vào hoặc khỏi cần dựa vào đồng lương kiếm được. Trong những thập niên 1960 và 1970, việc thực thi dân chủ xã hội chủ yếu chỉ là duy trì một mạng lưới an toàn công cộng rộng lớn. Ngày nay, đó là một quan niệm quá hẹp hòi. Trong những thập niên gần đây, các nước Bắc Âu đã bổ túc các chương trình xã hội hào phóng của mình bằng các dịch vụ nhằm tạo công ăn việc làm và gia tăng năng suất: các chương trình được chính phủ tài trợ như nhà giữ trẻ, trường mầm non, trung tâm dạy nghề và văn phòng tìm việc, các dự án hạ tầng quan trọng, và hỗ trợ của chính phủ dành cho việc nghiên cứu và phát triển trong khu vực tư. Đồng thời, các chính phủ Bắc Âu cũng chấp nhận một đường lối điều tiết kinh tế thân thiện với thị trường. Mặc dù các chính phủ này vẫn duy trì các luật lệ bảo vệ công nhân, người tiêu thụ, và môi trường, nhưng họ quân bình được những biện pháp bảo vệ này với một hệ thống có khả năng khuyến khích óc kinh doanh và tính linh động bằng cách tạo điều kiện dễ dàng cho việc mở hay đóng một công ty, việc thuê mướn hay đuổi nhân viên, và việc điều chỉnh số giờ làm việc.
Đi tiên phong tại những nước Bắc Âu, dân chủ xã hội hiện đại ngụ ý một sự cam kết sử dụng rộng rãi chính sách chính phủ để thúc đẩy an ninh kinh tế, mở rộng cơ hội, và đảm bảo mức sống ngày càng cao cho tất cả mọi người. Nhưng nó thực hiện mục tiêu này trong khi vẫn đảm bảo tự do kinh tế, tính linh hoạt kinh tế, và tính năng động thị trường, tất cả những điều này từ lâu vốn là thương hiệu (hallmarks) của nền kinh tế Hoa Kỳ. Kinh nghiệm của các nước Bắc Âu chứng minh rằng một chính phủ có thể kết hợp thành công tính linh hoạt kinh tế với an ninh kinh tế và nuôi dưỡng công bằng xã hội mà không gây trở ngại cho việc cạnh tranh. Dân chủ xã hội hiện đại cống hiến những điều tốt đẹp nhất của hai thế giới.
Tuy nhiên, những người quan niệm rằng Hoa Kỳ có thể gia tăng hơn nữa tầm cỡ và phạm vi hoạt động của nhà nước phúc lợi có lẽ đã không nhận ra thực tế của chính trị Mỹ đương đại. Nhưng ta thử lùi lại một bước để cân nhắc con đường về lâu về dài. Bài học của một trăm năm qua cho thấy rằng, khi Hoa Kỳ càng giàu có hơn, người Mỹ lại càng muốn chi tiêu thêm ngân sách để tạo bảo hiểm chống lại rủi ro kinh tế và gia tăng công bằng xã hội. Những tiến bộ trong chính sách xã hội chỉ có thể đến từng đợt thất thường, nhưng chúng vẫn thực sự diễn ra. Và một khi chúng đến, chúng thường tồn tại lâu dài.
Xu thế này có thể sẽ tiếp diễn. Các nhà làm chính sách Hoa Kỳ sẽ nhận ra lợi ích của một vai trò chính phủ rộng lớn hơn trong việc theo đuổi an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và mức sống ngày càng đi lên và sẽ cố gắng đưa nước Mỹ đi theo chiều hướng đó. Thông thường, họ sẽ thất bại. Nhưng đôi khi, họ sẽ thành công. Tiến bộ sẽ gia tăng, dù xảy đến từng đợt thất thường, như từng diễn ra trong quá khứ. Các chương trình mới và các dạng triển khai những chương trình hiện có thường sẽ tồn tại lâu dài, vì những chương trình hoạt động tốt sẽ trở nên thịnh hành và vì tiến trình hoạch định chính sách của Hoa Kỳ thường làm cho những kẻ chống đối các chương trình xã hội khó có thể tháo dỡ chúng. Những bước ngắn và thỉnh thoảng có bước nhảy vọt dài, cộng với những bước thụt lùi có giới hạn, sẽ mang lại một kết quả tích lũy làm gia tăng đáng kể diện rộng và tính hào phóng của những chương trình xã hội do chính phủ điều hành.
Đây không phải là một tiên đoán về thời điểm hay các điều kiện theo đó các tiến bộ chính sách cụ thể sẽ diễn ra. Đây chỉ là một giả thuyết về một tiến trình mang tính xác suất (a probabilistic process). Về lâu về dài, thỉnh thoảng chính phủ sẽ tạo thêm các chương trình mới và mở rộng các chương trình hiện có, và những chương trình mới và những dạng triển khai này chắc chắn sẽ không bị đảo ngược.
NHỮNG BẤT CẬP
Để hiểu lý do tại sao Hoa Kỳ đang ở trên đường tiến tới dân chủ xã hội, ta phải nhìn nhận thực tế là, mặc dù Mỹ là một nước giàu – và trong nửa thế kỷ tới, nước này thậm chí sẽ còn giàu hơn nữa – nhưng nó vẫn chịu những suy yếu kinh tế nghiêm trọng. Đây là những vấn đề tiềm ẩn; mặc dù những vấn đề này đã trở nên tồi tệ thêm do cuộc Đại Suy thoái vừa qua và do kinh tế phục hồi yếu ớt, nhưng chúng vốn đã tồn tại trước khi nước Mỹ gặp phải những khó khăn kinh tế gần đây.
Một là, Hoa Kỳ không đảm bảo đủ an ninh kinh tế cho người dân của mình. Quá nhiều người Mỹ có lợi tức thấp đến nỗi họ phải phấn đấu rất chật vật mới đủ sống qua ngày: 25 triệu hộ gia đình ở đáy thang lợi tức, chiếm một phần năm dân số, chỉ có lợi tức trung bình là 18.000 USD một năm. Quá nhiều người Mỹ đang trải qua những sút giảm lợi tức to lớn: mỗi năm, khoảng một phần bảy số hộ gia đình tại Hoa Kỳ bị giảm sút từ 25 phần trăm lợi tức hàng năm hay nhiều hơn. Quá nhiều người Mỹ không có bảo hiểm y tế: ngay cả khi Obamacare được thực thi đầy đủ, vẫn còn từ năm đến mười phần trăm công dân Hoa Kỳ không có bảo hiểm, một con số cao hơn khá xa so với bất cứ quốc gia giàu có nào khác. Sau cùng, quá nhiều người Mỹ gần đến tuổi nghỉ hưu mà tiền dành dụm thì ít ỏi và lương hưu thiếu hụt: tiền tiết kiệm hộ gia đình trung bình, như một phần lợi tức hộ gia đình có thể tiêu xài được, đã rơi từ mười phần trăm trong thập niên 1970 xuống chỉ còn ba phần trăm trong thập niên đầu thế kỷ này; mặc dù một số công ty có kế hoạch hưu trí với số tiền nhân viên đóng góp được qui định rõ ràng, nhưng nhiều người đã đóng góp rất ít hoặc rút tiền ra quá sớm, và vụ vỡ bong bóng địa ốc vừa qua đã xóa sạch cái tài sản duy nhất của nhiều chủ nhà trung lưu.
Hai là, nước Mỹ không giữ được lời hứa về cơ hội đồng đều. Hầu hết phụ nữ và nhiều người Mỹ gốc châu Phi hiện nay có cơ may tốt đẹp hơn trước nhiều để theo đuổi một trình độ giáo dục cao và thành công trong thị trường lao động so với các bậc cha anh của mình một thế hệ trước đây. Nhưng câu chuyện về người Mỹ lớn lên trong cảnh nghèo nghe ra không được phấn khởi bao nhiêu. Trong số những nước giàu với dữ liệu thống kê đầy đủ, Hoa Kỳ ở vào một trong những nấc thấp nhất về sự thăng tiến lợi tức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một người Mỹ sinh ra trong một gia đình thuộc một phần năm dân số ở đáy thang lợi tức trong giai đoạn từ giữa thập niên 1960 đến giữa thập niên 1980 có khoảng 30 phần trăm cơ may vươn tới một phần năm dân số thuộc giai cấp trung lưu hay cao hơn khi đến tuổi trưởng thành; trong khi đó, một người Mỹ sinh ra trong một phần năm dân số ở các nấc thang lợi tức cao nhất có khoảng 80 phần trăm cơ may gia nhập một phần năm dân số thuộc giai cấp trung lưu hay cao hơn. Ngoài ra, những thập niên gần đây đã chứng kiến những gia tăng lớn trong khoảng cách giữa điểm thi và tỉ lệ tốt nghiệp đại học của con cái những gia đình có lợi tức thấp và con cái những gia đình có lợi tức cao, và khoảng cách này có khả năng sẽ phản ánh trong doanh lợi hay thu nhập của họ khi đến tuổi trưởng thành.
Ba là, quá ít người Mỹ được chia sẻ sự phồn vinh mà nước họ đã hưởng trong những thập kỷ gần đây. Trong một xã hội tốt đẹp, những thành phần ở giữa và ở đáy thang lợi tức phải được hưởng lợi lộc đáng kể từ tăng trưởng kinh tế quốc gia. Khi đất nước thịnh vượng, thì mọi người phải được phồn vinh. Nhưng từ thập niên 1970, mặc dù kinh tế tăng trưởng vững chắc, nhưng thu nhập của những hộ gia đình trung lưu và thấp hơn đã tăng lên rất chậm so với những hộ gia đình thuộc giai cấp thượng lưu. Theo những ước tính mà Văn phòng Ngân sách Quốc hội [một cơ quan độc lập không đảng phái] đưa ra để giải thích mức lạm phát, mức thu nhập trung bình của các hộ gia đình thuộc một phần trăm dân số ở chóp bu đã bay bổng từ 350.000 USD năm 1979 lên 1,3 triệu USD năm 2007. Đối với 60 phần trăm dân số ở phía đáy, mức tăng lợi tức hoàn toàn khiêm nhượng: từ 30.000 USD lên 37.000 USD [trong khoảng thời gian 30 năm vừa nói].
Những bất cập này một phần do các thay đổi trong kinh tế toàn cầu gây ra, đặc biệt là sự cạnh tranh ngày càng gia tăng mà các hãng của Hoa Kỳ phải đối diện. Các công ty Mỹ bán hàng hóa hay dịch vụ trên thị trường quốc tế đang đối đầu với những địch thủ nước ngoài có khả năng hơn trước rất nhiều. Các công nghiệp trong nước cũng gặp nhiều cạnh tranh với nhau hơn, khi những tiến bộ công nghệ, giá xây cất và chuyên chở rẻ hơn, và việc nới lỏng các luật lệ điều tiết kinh tế hạ thấp những rào cản đối với việc tham gia thị trường. Hơn nữa, các cổ đông ngày nay muốn giá trị cổ phần tăng nhanh. Trong khi một thế hệ trước đây, người đầu tư vào một công ty có thể hài lòng vì được trả tiền lời đều đặn và giá cổ phần của công ty tăng lên phần nào trong dài hạn, thì ngày nay họ đòi hỏi lợi nhuận tăng lên từng quí [ba tháng một] và giá cổ phần thường xuyên tăng trưởng.
Những thay đổi này có lợi cho người đầu tư, người tiêu thụ và một số nhân viên. Nhưng chúng khuyến khích các công ty chống lại việc tăng lương, bỏ các chương trình bảo hiểm y tế, cắt giảm tiền đóng góp vào quĩ hưu của nhân viên, di dời ra nước ngoài, cắt giảm nhân sự, và thay thế nhân viên thường trực bằng nhân viên tạm thời – hay bằng máy điện toán. Những chiến lược cắt giảm chi phí như thế rốt cuộc làm suy yếu an ninh kinh tế, hạn chế cơ hội đối với giới lao động thiếu kỹ năng, và giảm mức tăng trưởng lợi tức đối với nhiều người Mỹ bình thường – những xu thế này chắc chắn còn tiếp tục đi vào một tương lai có thể thấy trước. Trong những thập niên tới, một số người Mỹ đông đảo hơn sẽ mất việc, sẽ làm việc qua những thời gian dài mà không được tăng lương, sẽ làm việc bán thời gian hay vào những giờ giấc thất thường, sẽ không có chương trình hưu trí do công ty bảo trợ hay bảo hiểm y tế.
Một số người cho rằng phương cách hay nhất để đối phó những sức ép và căng thẳng của nền kinh tế mới là củng cố gia đình, các tổ chức công dân, và các công đoàn. Đó là những tiêu chí đáng ca ngợi. Nhưng trong nửa thế kỷ qua những định chế này liên tục trở nên suy yếu. Mặc dù những người chủ trương mang lại sức sống cho chúng đưa ra nhiều hi vọng, nhưng họ cho thấy quá ít bằng chứng về sự thành công.
Một thế lực chính trị tạiWashingtonủng hộ một giải pháp khác: thu nhỏ vai trò của chính phủ liên bang. Theo quan điểm này, giảm thuế và giảm chi tiêu của chính phủ sẽ cải tiến hiệu năng, hạn chế lãng phí, và gia tăng các phần thưởng khuyến khích đầu tư, kinh doanh, và sự hăng hái làm việc, do đó dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh chóng hơn. Nhưng đường lối này đặt cơ sở trên ý niệm sai lầm là sự lớn mạnh của chính phủ sẽ hạn chế sự tăng trưởng của khu vực tư. Qua quá trình một thế kỷ nay, Hoa Kỳ đã từng bước nới rộng chi tiêu của chính phủ, từ 12 phần trăm GDP năm 1920 đến 37 phần trăm năm 2007. Suốt gian đoạn này, đà tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ vẫn bền vững rất ngoạn mục. Các bằng chứng khác từ nước ngoài cũng cho thấy: trong số những nước giàu, những nước mà thuế và chi tiêu chính phủ đều cao có xu thế tăng trưởng nhanh chóng y hệt như những nước mà chính phủ đóng vai trò nhỏ bé hơn. Hơn nữa, thậm chí nếu việc giảm thuế và giảm chi tiêu của liên bang có thực sự đưa đến tăng trưởng nhanh hơn chăng nữa, thì lịch sử của mấy thập niên qua vẫn cho thấy rằng sự tăng trưởng ấy không mang lại lợi ích bao nhiêu cho người Mỹ trung lưu hay giai cấp kinh tế thấp hơn.
Một phản ứng khả thể khác đối với tình trạng này là nhe răng cười chịu đựng. Theo quan điểm này, gần như không ai có thể làm được gì để cải thiện những hậu quả xấu của nền kinh tế hiện đại, vì thế hành động khôn ngoan nhất của người Mỹ bình thường là phải điều chỉnh những kỳ vọng của mình cho phù hợp với thực tế để tiếp tục sống. Nhưng Hoa Kỳ có thể làm một cái gì tốt đẹp hơn thế – và đường lối tốt đẹp nhất để đối phó những bất cập kinh tế-xã hội của nước này là nới rộng bảo hiểm công.
(Còn 1 kì)
LANE KENWORTHY là giáo sư Xã hội học và Chính trị học tại Đại học Arizona. Bài tiểu luận này dựa vào tác phẩm gần đây nhất của ông, Social Democratic America [Nước Mỹ dân chủ xã hội] (Oxford Unversity Press, 2014).
Nguồn: “America’s Social Democratic Future – The Arc of Policy Is Long But Bends Toward Justice”, Foreign Affairs Jan/Feb 2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
[i]Phong trào Tiệc Trà (the Tea Party movement): một phong trào chính trị Mỹ chủ trương giảm nợ quốc gia và thâm thủng ngân sách liên bang bằng cách giảm chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Danh xưng có xuất xứ từ một biến cố lịch sử được gọi là Tiệc trà Boston (the Boston Tea Party) diễn ra năm 1773 khi một số dân thuộc địa tổ chức đổ trà từ một thuyền buôn Anh xuống sông Boston như một hành động chống lại việc Đế quốc Anh đánh thuế lên các thuộc địa Bắc Mỹ trong khi họ không được đại diện tại Nghị viện Anh (taxation without representation). Đây là một phong trào vừa dân túy, vừa bảo thủ, vừa bênh vực các tự do dân sự chống lại các áp đặt của chính phủ.
[ii]Medicare: một chương trình bảo hiểm xã hội quốc gia, được chính phủ liên bang Mỹ quản trị từ năm 1966, nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho những người Mỹ ở tuổi 65 hoặc già hơn, trước đó đã làm việc và trả phí vào hệ thống này.
[iii]Medicaid: một chương trình y tế xã hội cho các gia đình hoặc cá nhân có lợi tức thấp và nguồn lực yếu kém
February 3, 2014
Trần Thắng Lợi, Nguyễn Ái Quốc và “Đảng ta”
Phạm Thị Hoài
Bài “Đảng ta” của Hồ Chí Minh [1], đăng trong tập san Sinh hoạt Nội bộ [2] số 13, tháng 1-1949, là một bài báo đặc biệt. Một mặt, nó thường xuyên được các nhà tuyên giáo của Đảng trích dẫn và lấy làm điểm tựa. Thậm chí cụm từ “Đảng ta” từ đây được coi như một phát kiến độc đáo, mặc dù nó đã xuất hiện trong các văn kiện Đảng từ trước 1945 và cũng được chính Hồ Chí Minh dưới bút danh X.Y.Z dùng tràn ngập trong tác phẩm Sửa đổi lề lối làm việc từ năm 1947. Mặt khác, bài báo này chứa đúng 8 chữ mà cho đến nay không một nhà truyền bá lịch sử Đảng nào dám hay muốn đụng vào. Tám chữ lạ lùng này lại nằm trong một đoạn văn cũng gây kha khá rắc rối, khiến bài báo rơi vào số phận kì quặc: vừa bị né tránh vừa được ca ngợi hết lời.
Đoạn đó như sau:
“Một nước mà ba đảng cộng sản. Cả ba nhóm đều ngầm hiểu như thế là sai. Quần chúng đều hiểu rằng như thế là không đúng. Cả ba nhóm đều tìm cách để đi đến thống nhất. Nhưng bệnh hẹp hòi và cách làm không khéo, cho nên càng muốn gần nhau, lại càng xa nhau.
Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu, cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng.
Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám.
Để giữ bí mật, các đại biểu khai hội bên sân đá banh của người Tàu. Vừa giả xem đá banh, vừa bàn bạc về Đảng.
Sau cuộc bàn bạc sôi nổi, và sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất cả ba nhóm thành một đảng.
Thế là Đảng ta chân chính thành lập.
Đó là ngày lịch sử mồng 6-1-1930.”
Hai câu hỏi phiền hà nhất liên quan đến Hội nghị thành lập Đảng đều tập trung trong đoạn văn này. Thứ nhất, thời điểm. Thứ hai, nhân sự.
Về thời điểm, trong “Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18-2-1930″ [3], Nguyễn Ái Quốc ghi rõ: “Lập tức tôi đi Trung Quốc, tới đó vào ngày 23-12. Sau đó, tôi triệu tập các đại biểu của 2 nhóm (Đông Dương và An Nam). Chúng tôi họp vào ngày mồng 6-1… Các đại biểu trở về An Nam ngày 8-2“. Trong “Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản Đông Dương” [4] viết năm 1933, Tổng Bí thư thứ ba của Đảng, ông Hà Huy Tập, cũng nhiều lần nhắc chính xác ngày 6 tháng Giêng là ngày diễn ra Hội nghị hợp nhất. Tuy trong “Tư liệu bổ sung về nguồn gốc các tổ chức cộng sản ở Đông Dương” [5] viết trước đó, dưới bút danh Giôdép Marát, ông ghi thời điểm này là tháng 2-1930, song lại có một chú thích của biên tập cho tư liệu này như sau: “Từ giữa năm 1932 đến đầu năm 1933, các tác phẩm của đồng chí Hà Huy Tập đều viết ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là 3-2-1930. Đến giữa năm 1933, đồng chí đã cải chính lại là 6-1 chứ không phải 3-2.”
Tuy vậy, ngày 3 tháng 2 chứ không phải ngày 6 tháng 1 vẫn được thông qua trong Nghị quyết sửa đổi ngày sinh “cho phù hợp với sự thật” của Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ III ngày 10-9-1960 như sau: “Từ mấy chục năm nay, Đảng ta lấy ngày 6 tháng Giêng dương lịch làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng. Nay căn cứ theo các văn kiện và tài liệu lịch sử, thì ngày bắt đầu cuộc Hội nghị hợp nhất để thành lập Đảng là ngày 3-2-1930 dương lịch, tức là ngày 5 tháng 1 theo âm lịch.” [6]
Nếu quả có sự nhầm lẫn kéo dài ba mươi năm, rằng đó là ngày 6 tháng 1 âm, thì phải chuyển thành ngày 4 tháng 2 dương, chứ không thể bỗng nhiên lui xuống, thành ngày 5 tháng 1 âm tức 3 tháng 2 dương được. Cách lí giải âm-dương này không thuyết phục. Rút cuộc thì hội nghị đã kéo dài bao nhiêu ngày và kết thúc vào ngày nào? Năm ngày, từ 03-2 đến 07-2 hay hơn một tháng, từ 06-1 đến 07-1? Và “các văn kiện và tài liệu lịch sử” nào đã dẫn đến “sự thật” đó? Theo ông Nguyễn Minh Cần [7], lí do được đưa ra rất giản dị, vì “các đồng chí Liên Xô cho biết ngày đó mới đúng theo tài liệu lưu trữ của Liên Xô” và ông Hồ Chí Minh ngồi trên chủ tịch đoàn của Đại hội đã gạt phăng, không cho thảo luận về việc sửa đổi ngày thành lập đó. Cùng với “các đồng chí Liên Xô”, dường như lời giải cho câu đố về ngày tháng ấy đã vĩnh viễn bị vùi vào quá khứ. Tất nhiên ngày 6 tháng 1 hay ngày 3 tháng 2 hay một ngày nào khác không khiến Đảng Cộng sản Việt Nam mang một lí lịch ít hay nhiều vẻ vang hơn, song vấn đề thời điểm ngày thành lập cho thấy thái độ dễ dãi, tùy tiện và cả độc đoán của Đảng với chính lịch sử của mình, huống gì với lịch sử chung của dân tộc.
Về nhân sự, “Báo cáo tóm tắt hội nghị” [8] ngày 7-2-1930 ghi rõ ngay ở mục I: “Có mặt: 1. Một đại biểu của Quốc tế Cộng sản; 2. Hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng; 3. Hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng.” Như thế, tổng cộng là 5 người. Đó là: Nguyễn Ái Quốc (Quốc tế Cộng sản), Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh (Đông Dương Cộng sản Đảng), Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm (An Nam Cộng sản Đảng). Tuy nhiên, nhiều tài liệu khác của Đảng sau này ghi thêm hai người của Quốc tế Cộng sản cũng có mặt với tư cách khách dự thính trong Hội nghị, đó là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn. Vậy chúng ta có khả năng thứ hai: 7 người, đã khác so với Báo cáo ngày 7-2 [9].
Song dường như còn có một khả năng thứ ba, gợi nên từ đoạn văn nêu trên.
Tác giả bài “Đảng ta” là Hồ Chí Minh, sử dụng bút danh Trần Thắng Lợi. Nghiên cứu việc ông Hồ sử dụng những bút danh nào vào mục đích nào và thời điểm nào hẳn là việc thú vị. Trong trên dưới 50-60 bút danh, Trần Thắng Lợi chỉ được ông Hồ dùng một lần. Với thời gian, chúng ta đã đủ làm quen với việc ông Hồ không có gì áy náy khi sử dụng một bút danh lạ hoắc để ca tụng bản thân. Mới đây tôi phải bật cười khi đọc tác phẩm Giấc ngủ mười năm [10] của Hồ Chí Minh với bút danh Trần Lực, trong đó ông Hồ cho một nông dân người Nùng tên Nông Văn Minh làm nhân vật xưng tôi viết thư “dâng lên Cụ Hồ để cảm ơn Người và chúc Người mạnh khoẻ“. Té ra chữ Người viết hoa này là sáng tạo của chính Người từ thuở ấy để chỉ riêng Người. Song trong bài “Đảng ta”, Trần Thắng Lợi làm một việc độc nhất vô nhị: Với 8 chữ lạ lùng nhất trong toàn bộ trước tác của Hồ Chí Minh: “ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi”, Trần Thắng Lợi tức Hồ Chí Minh đã hiển ngôn rằng mình và Nguyễn Ái Quốc là hai người khác nhau.
Người đọc không bối rối mới là lạ. Mấy chữ trước đó, “trong 7, 8 đại biểu“, khiến đã rối lại càng rối thêm. Vậy số người tham dự Hội nghị thành lập Đảng không phải là 5, không phải là 7, mà có thể là 8, và người thứ 8 này phải là Trần Thắng Lợi tức Hồ Chí Minh. Tôi phải thừa nhận rằng lí giải của tác giả cuốn Hồ Chí Minh sinh bình khảo ở đoạn này có vẻ gỡ được mối bòng bong, đồng thời cũng góp phần giải thích vì sao Hồ Chí Minh có một vị trí tối thượng trong Đảng Cộng sản Việt Nam, trong khi Nguyễn Ái Quốc từng bị các lãnh tụ lừng lẫy khác của Đảng kịch liệt phê bình. Ngay trong năm 1930, Hội nghị Trung ương tháng 10 đã xóa bỏ bản “Chính cương của Đảng” do Nguyễn Ái Quốc thảo và được Hội nghị hợp nhất thông qua bằng bản “Luận cương chính trị” của Trần Phú. Chỉ 3 năm sau ngày thành lập Đảng, ông Hà Huy Tập nhận định: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc là người đã có sáng kiến đề ra và lãnh đạo công cuộc thống nhất. Nhưng đồng chí đã phạm một loại sai lầm cơ hội chủ nghĩa trong thời gian hội nghị hợp nhất mà chúng ta không thể bỏ qua.” [11]
Song rất tiếc rằng giả thuyết xuất phát từ cuốn Hồ Chí Minh sinh bình khảo vấp phải một mâu thuẫn khó nhằn: nếu ông Hồ Tập Chương tức Hồ Chí Minh quả thật đã thay thế ông Nguyễn Ái Quốc mất năm 1932 [12] thì vào thời điểm năm 1949 khi viết bài “Đảng ta”, ông Hồ Tập Chương tức Hồ Chí Minh không thể nói rằng tất cả đã hi sinh, ngoài mình và Nguyễn Ái Quốc cũng như Hồ Tùng Mậu và Trịnh Đình Cửu còn sống. Rốt cuộc thì 5, 7 hay 8 người đã tham dự hội nghị thành lập Đảng? Rốt cuộc thì Hồ Chí Minh tức Trần Thắng Lợi và Nguyễn Ái Quốc là hai hay một người?
Tất cả những câu hỏi ấy đến nay đều bị né tránh.
© 2014 pro&contra
_________________
Phụ lục
Trần Thắng Lợi
Đảng ta
(Tặng các đồng chí chi bộ)
Năm 1847, Mác và Ăngghen phát biểu “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Sau 70 năm cách mạng Nga thành công. Sau 98 năm cách mạng Việt Nam thành công. Hiện nay, nước nào cũng có Đảng Cộng sản và chủ nghĩa cộng sản đang lan tràn khắp thế giới. 20 triệu đảng viên cộng sản khắp các nước đang hăng hái lãnh đạo hàng trăm triệu người lao động và dân tộc bị áp bức, đấu tranh cho cuộc giải phóng của mình, cho một xã hội mới, cho chủ nghĩa cộng sản.
Đảng ta tuy trẻ trung, nhưng đã lập được những công trạng rất to tát.
Nhân ngày kỷ niệm thành lập Đảng, tôi nhắc lại vài mẩu chuyện của Đảng cho các đồng chí trẻ biết, chứ không phải viết lịch sử Đảng.
Năm 1921, trong cuộc Đại hội của Đảng Xã hội Pháp mở ở Tua (Tours), Đảng ấy chia làm hai phái. Phái thiểu số thì cứ giữ lấy Đảng Xã hội cũ. Phái đa số thì lập thành Đảng Cộng sản Pháp. Trong phái này có một người cộng sản đầu tiên của Đông Dương là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, chủ nghĩa cộng sản bắt đầu vượt qua lưới sắt của chủ nghĩa đế quốc Pháp và dần dần thấm vào nước ta.
Năm 1925, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cùng anh em cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Hội này đưa thanh niên trong nước ra Quảng Châu, huấn luyện họ, rồi phái họ trở về tuyên truyền và tổ chức khắp cả nước.
Năm 1929, trong khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc đi vắng, Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội khai toàn quốc Đại hội ở Hương Cảng. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức đảng cộng sản, bị gạt đi, liền bỏ hội nghị ra về.
Sau đó, trong nước dần dần thành lập ba nhóm cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương cộng sản Liên đoàn.
Một nước mà ba đảng cộng sản. Cả ba nhóm đều ngầm hiểu như thế là sai. Quần chúng đều hiểu rằng như thế là không đúng. Cả ba nhóm đều tìm cách để đi đến thống nhất. Nhưng bệnh hẹp hòi và cách làm không khéo, cho nên càng muốn gần nhau, lại càng xa nhau.
Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại Tàu, cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng.
Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi, nay chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày Cách mạng Tháng Tám.
Để giữ bí mật, các đại biểu khai hội bên sân đá banh của người Tàu. Vừa giả xem đá banh, vừa bàn bạc về Đảng.
Sau cuộc bàn bạc sôi nổi, và sau lời giải thích rõ ràng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất cả ba nhóm thành một đảng.
Thế là Đảng ta chân chính thành lập.
Đó là ngày lịch sử mồng 6-1-1930.
Sự thống nhất làm cho đảng viên và quần chúng cả nước rất vui mừng và thêm hăng hái. Do đó mà Đảng phát triển rất mau, hoạt động rất mạnh. Từ đó trở đi, phong trào cách mạng ở nước ta đều do Đảng ta lãnh đạo.
Vì có một chủ nghĩa cách mạng nhất, một tổ chức chặt chẽ nhất, chí hy sinh tận tuỵ không bờ bến của đảng viên, có sự hăng hái vô cùng của quần chúng, nên Đảng ta thành lập không bao lâu, đã lãnh đạo được cuộc khởi nghĩa Nghệ Tĩnh, thành lập Xô viết Nghệ An. Nếu so sánh lịch sử cách mạng các nước, chúng ta có thể nói rằng Xô viết Nghệ An đối với Việt Nam cũng hơi giống cách mạng 1905 Nga.
Xô viết Nghệ An đã lôi cuốn được cả công nhân, nông dân và học sinh. Đã lập nên chính quyền nhân dân. Đã làm cho giặc Pháp kinh sợ. Thật là một cuộc cách mạng oanh liệt đầu tiên do giai cấp vô sản Việt Nam lãnh đạo.
Giặc Pháp đàn áp một cách vô cùng dã man. Hàng ngàn hàng vạn đảng viên và quần chúng bị giết chết, bị tù đày. Giặc Pháp đã xoa tay mừng rằng cách mạng Việt Nam, cộng sản Việt Nam hết rồi. Chúng nào có hiểu: Có thể ngăn sông, có thể đào núi, nhưng không có lực lượng nào có thể ngăn trở chủ nghĩa cộng sản phát triển và thực hiện.
Sau trận khủng bố ghê gớm 1930-1931, năm 1933 Đảng lại hoạt động mạnh và càng ngày càng mạnh.
Nói đến đây, tôi phải nhắc đến những đảng viên đã vì Đảng, vì giai cấp, vì dân tộc mà oanh liệt hy sinh như đồng chí Lê Hồng Phong, Trần Phú, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ, Lương Khánh Thiện, Minh Khai, cùng trăm nghìn đồng chí khác. Và những thanh niên cộng sản anh dũng như Trọng Con, Hồng Quang. Máu xương của các tiên liệt đã thấm nhuần gốc rễ của Đảng ta, làm cho cây nó càng vững, ngành nó càng to, và kết quả khai hoa ngày càng rực rỡ.
Thế giới đại chiến lần thứ hai bùng nổ. Một lần nữa thực dân Pháp ra tay khủng bố. Nhiều đảng viên bị bắt, bị tù. Nhưng Đảng ta vẫn đứng vững. Đảng giao cho một số đồng chí thảo kế hoạch đánh Nhật chống Pháp. Các đồng chí ấy khai hội trên một bãi cỏ ở Quảng Tây. Trong 6,7 người, tôi chỉ nhớ tên các đồng chí Phùng Tự Do (đã hy sinh ở Na Rì, Bắc Cạn), Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp.
Muốn đánh giặc, phải có quân đội. Đội du kích đầu tiên của nước ta lập ở Cao Bằng, với 12 người, trong đó có hai nữ đồng chí. Đội này do các đồng chí Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm và Bằng Giang phụ trách. Toàn đội chỉ có một khẩu “pạc-hoọc”, hai khẩu súng kíp và giáo mác. Thấy vậy, người khác có thể cười rằng đó là trò chơi trẻ con. Nhưng chính từ cái hạt cỏn con đó mà nay đã phát triển thành hàng chục vạn Vệ quốc quân và hàng trăm vạn dân quân du kích đang oanh liệt kháng chiến từ Bắc đến Nam, làm cho giặc Pháp phải kinh hồn, thế giới phải khen phục.
Trong mấy tháng, đội du kích số một ấy phát triển đã khá. Đảng giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp cải tổ thành đội Nam tiến. Khi đã lấy lại sáu tỉnh Việt Bắc và đã lập chính quyền nhân dân, đội Nam tiến đổi tên là Quân Giải phóng. Cách mạng Tháng Tám thành công, Chính phủ Cộng hoà thành lập, Quân Giải phóng trở nên Vệ quốc quân.
Năm nay, Đảng ta mới 19 tuổi. Nhưng suốt 19 năm ấy, năm nào cũng là một năm đấu tranh dũng cảm. Kinh qua bao nhiêu cơn sóng gió, bao nhiêu bước khó khăn, càng nhiều gian nan, Đảng ta càng nhiều rèn luyện, càng thêm vững chắc và rộng lớn. Nhờ chính sách đúng, lãnh đạo chắc, kỷ luật nghiêm, nhờ tư tưởng thống nhất, mà Đảng ta và dân tộc ta được những thắng lợi vẻ vang ngày nay.
Tuy vậy, chúng ta tuyệt đối không được tự kiêu, tự đại.
Chúng ta có nhiều thành công, nhưng chúng ta cũng còn nhiều khuyết điểm. Mỗi đồng chí ta cần phải mạnh dạn và thành thật kiểm điểm mình, kiểm điểm đồng chí mình.
- Đã bỏ hết bệnh chủ quan, hẹp hòi chưa?
- Đã bỏ hết tư ý tiểu khí chưa?
- Đã luôn cố gắng học tập, luôn luôn cầu tiến bộ chưa?
- Đã thực hiện đoàn kết 100% chưa?
- Đã thật cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư chưa?
- Đã thật là người kiểu mẫu trong phong trào thi đua ái quốc chưa?
Nếu chưa thì phải làm cho kỳ được.
Sứ mệnh của Đảng ta rất to. Công việc Đảng ta rất nhiều. Đảng đòi hỏi chúng ta phải làm trọn nhiệm vụ của đảng viên.
Không có vinh dự nào to bằng cái vinh hạnh được làm đảng viên của Đảng Cộng sản. Vì vậy, bất kỳ ở hoàn cảnh nào, làm công việc gì, chúng ta cũng phải kiên quyết làm cho xứng đáng với vinh hạnh ấy. Như thế, thì dân tộc giải phóng nhất định thành công, thế giới cách mạng nhất định thành công.
Trần Thắng Lợi
(Viết đầu năm 1949. Tập san Sinh hoạt nội bộ, số 13, tháng 1-1949. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Hà Đông xuất bản thành sách năm 1950)
Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000, tập 5
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000
[2] Theo thông tin trên Tạp chí Cộng sản: “Tạp chí Sinh hoạt Nội bộ ra đời tháng 8-1947, với tư cách là ‘cơ quan trung ương huấn luyện công tác và lý luận’. Nhưng vì hồi bấy giờ Đảng không ra công khai, cho nên trên bìa số 1 ghi là ‘của Cứu quốc Hội’, từ số 2 đến số 13 ghi là ‘của Đoàn thể’, và từ số 14 (ra tháng 2-1949) ghi là ‘của Đảng’… Tạp chí Sinh hoạt Nội bộ do đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng, trực tiếp phụ trách. Đồng chí Trường Chinh định ra kế hoạch từng số và phân công người viết bài… Từ khi ra đời (tháng 8-1947) cho đến tháng 3-1950, Sinh hoạt Nội bộ đã xuất bản được 20 số. Từ tháng 3-1950, tạp chí Sinh hoạt Nội bộ đình bản, và sau đó được thay thế bằng Tạp chí Cộng sản.”
[3] Hồ Chí Minh, sđd, tập 3
[4] Nguyên bản tiếng Pháp “Essai d’histoire du mouvement communiste en Indochine”, tác giả là Hồng Thế Công, một bút danh của Hà Huy Tập.
[5] Văn kiện Đảng, tập 4
[6] Văn kiện Đảng, tập 21
[7] Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế, bản lưu hành trên Internet
[8] Văn kiện Đảng, tập 2
[9] Điều đáng lưu ý là đầu năm 1949, khi Hồ Chí Minh viết bài “Đảng ta”, Nguyễn Đức Cảnh, Châu Văn Liêm và Lê Hồng Sơn (tức Tản Anh) đã bị chính quyền thực dân Pháp giết hại từ lâu, nhưng trong số người còn lại có Nguyễn Thiệu, khi đó ở miền Nam, mà ông Hồ không hề nhắc đến. Hai năm sau, khi Hồ Tùng Mậu cũng hi sinh trong kháng chiến, hai người duy nhất còn lại ngoài Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thiệu và Trịnh Đình Cửu. Cả hai ông đều chỉ lên tới những chức vụ hữu danh vô thực bậc trung trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, một trở thành Giám đốc Viện Bảo tàng Cách mạng, một trở thành Phó Giám đốc Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, nay là Học viện Hồ Chí Minh.
[10] Tổng bộ Việt Minh xuất bản năm 1949. Hồ Chí Minh, sđd, tập 5
[11] Hà Huy Tập, “Essai d’histoire du mouvement communiste en Indochine”, bài đã dẫn
[12] Trong bài “Kỷ niệm 3 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương” 1933, Văn kiện Đảng, tập 4, ông Hà Huy Tập cũng nói rõ rằng “đồng chí Nguyễn Ái Quốc bị ám sát trong các nhà tù địa ngục của Hồng Công“.
January 31, 2014
Đọc lại những lời chúc Tết của Hồ Chủ tịch
Phạm Thị Hoài
Từ 1946 cho đến khi qua đời, mỗi năm Hồ Chủ tịch đều có lời chúc Tết. Có lẽ ông là nguyên thủ quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam làm điều đó. Tổng cộng những lời chúc Tết này, 24 cái Tết, trích từ bộ Hồ Chí Minh toàn tập (2000), gồm 65 văn bản. Phần thơ chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, phần chính còn lại là thư, lời kêu gọi, điện văn, diễn văn, bài nói chuyện, lời cảm ơn.
Hai năm đầu 1946 và 1947, hai năm chênh vênh, phức tạp và bề bộn công việc nhất trong sự nghiệp đứng đầu chính quyền của Hồ Chí Minh, lại là thời gian ông chăm chỉ lên tiếng nhất. Năm 1946, ngày mồng Một dương lịch ông gửi một bức thư cho đồng bào toàn quốc và một bức thư chúc Tết Việt kiều Lào, Xiêm. Tiếp đó, trước Tết nguyên đán, ông gửi thư cho thanh niên và nhi đồng; ra thêm một bài báo kêu gọi nhân dịp Tết; làm một bài thơ Tết mừng một tờ báo tư nhân, báo Quốc gia [1]; và đúng ngày mồng Một âm lịch ông gửi một bức thư chúc mừng năm mới. Ngoài ra ông còn có thơ gửi phụ nữ Việt Nam nhân dịp Xuân Bính Tuất và có lời cảm ơn đồng bào đã gửi quà Tết, tổng cộng là tám văn bản. Năm 1947 ông còn tích cực hơn, ra tới chín văn bản, cả dịp năm mới dương lịch lẫn Tết Nguyên đán. Giai đoạn dồi dào nhiệt tình kết thúc ở đó. Năm 1948, Hồ Chủ tịch chỉ có một bài thơ tám câu chúc Tết Mậu Tý, loại thơ năm chữ. Năm 1949 tăng lên được bốn văn bản, rồi từ đó đi vào ổn định ở số lượng tối đa là ba, nhiều năm chỉ có một.
Những năm kháng chiến ở Việt Bắc, Hồ Chủ tịch rất chú trọng Tết nguyên đán, không một năm nào bỏ qua. Từ khi chính phủ về lại Hà Nội trở đi, Tết ta hầu như không còn vai trò nữa, các “thông điệp đầu năm” của ông đều phát vào dịp năm mới dương lịch. Điều này không thể là ngẫu nhiên. Tết nguyên đán thuộc văn hóa cổ truyền. Những người cộng sản thuở ấy thấy mình đại diện cho một ý thức hệ tiên tiến, quyết xây dựng tương lai bằng cách đoạn tuyệt với tất cả những gì sinh ra trước họ. Trong nhãn quan ấy, Tết nguyên đán chỉ là tàn dư sót lại từ một quá khứ lỗi thời. Tết cộng sản thời chiến, nhiều nhà còn không khói hương. Cùng với những biến chuyển khác mà chúng ta sẽ thấy sau đây, việc thay đổi thời điểm chúc Tết cũng đánh dấu lộ trình đầy hoạch định của ông Hồ, từ lãnh tụ giải phóng dân tộc ở Việt Bắc đến lãnh tụ cộng sản ở Hà Nội. Toàn bộ trước tác của ông, thành tựu trong bộ Toàn tập, là khối tư liệu rành rọt về lộ trình này. Ông là một nhà ái quốc nồng nàn thế nào thì cũng là một người cộng sản nhiệt thành thế ấy. Năng khiếu đặc biệt của ông là biết lúc nào cần diễn tư cách nào. Những ai bây giờ vẫn muốn biện hộ cho một Hồ Chí Minh cộng sản bằng một Hồ Chí Minh yêu nước nên thận trọng xem xét năng khiếu diễn xuất ấy.
Cho đến Tết Giáp Ngọ 1954, ở chiến khu, Hồ Chủ tịch luôn “thay mặt chính phủ” hoặc đôi khi “thay mặt Chính phủ và Đoàn thể” nói với quốc dân. Ông không bao giờ nhắc đến Đảng, tức Đảng Cộng sản Đông Dương đã chính thức giải tán ngày 11-11-1945 để xuất hiện trở lại tháng 2 năm 1951 với tên Đảng Lao động Việt Nam, với ông là Chủ tịch Đảng. Đúng ngày 1-1-1955, ông đọc một “Diễn văn chúc mừng năm mới trong dịp lễ mừng Trung ương Đảng và Chính phủ về Thủ đô”, trong đó lần đầu tiên ông nghiễm nhiên phát ngôn “thay mặt Đảng và Chính phủ“, để từ đó trở đi sẽ lặp lại thông lệ mới này. Cụm từ “Đảng và Chính phủ” hay sau này là “Đảng và Nhà nước“, đúng theo trình tự Đảng đứng trước Nhà nước đứng sau, từ đó sẽ trở thành chuẩn mực trong ngôn ngữ chính trị Việt Nam. Chưa bao giờ tôi được nghe một lí giải thấu đáo nào về mặt thủ tục hay cơ sở pháp lí cho bước nhảy từ một chính đảng không chính thức tồn tại, không chính thức có mặt trong chính phủ, thành một chính đảng độc quyền cầm quyền, đứng trước hay đứng trên chính phủ này. Đó là chưa kể lời tuyên bố trịnh trọng ngày 31-10-1946 của Hồ Chí Minh: “Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới: Tôi chỉ có một đảng, đảng Việt Nam“.
Về nội dung, những lời chúc Tết của Hồ Chủ tịch càng không cho phép một hoài nghi nào về con đường cộng sản của cuộc cách mạng do ông lãnh đạo. Sau một khúc dạo đầu ngắn ngủi năm 1946, trong đó “quyền dân chủ của đồng bào” còn được ông đặt ngang hàng với “nền độc lập của Tổ quốc“, từ 1947 trở đi cái phông màn quyền dân chủ của đồng bào ấy được dọn nhanh vào hậu trường, nhường hẳn chỗ cho chủ đề kháng chiến giành lại độc lập, mỗi năm một nấc mới, năm nay “chuẩn bị tổng phản công“, năm sau “chuyển mạnh sang tổng phản công“. Năm 1954, vị Chủ tịch bổ sung thêm chủ đề cải cách ruộng đất. Cho đến năm 1957, ông còn kể cho quốc dân nghe chuyện hai phe trên thế giới, trong đó phe ta là “phe dân chủ và yêu chuộng hòa bình“. Từ 1958 trở đi, ông bắt đầu gọi hẳn phe ta là “phe xã hội chủ nghĩa“, Việt Nam (miền Bắc) nằm trong “đại gia đình xã hội chủ nghĩa” và cho đến khi qua đời ông chỉ có hai chủ đề trọng tâm: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và giải phóng miền Nam chống Mỹ cứu nước.
Nhưng điều thú vị nhất đối với tôi khi theo dõi mạch những lời chúc Tết của Hồ Chủ tịch là giọng văn và phong cách. Tôi không chắc chắn rằng tất cả 65 văn bản này đều do ông đích thân viết ra. Cách đây không lâu tôi còn được biết rằng bản Tuyên ngôn Độc lập nổi tiếng của ông mà tôi khâm phục có thể do một người khác hay một nhóm người chấp bút. Với tất cả các thông tin về Hồ Chí Minh, chúng ta phải tính đến mọi khả năng bất ngờ, kể cả khả năng ông không phải là chính ông. Song dù thế nào, căn cứ trên những văn bản mặc định ông là tác giả, điểm mấu chốt có thể nhận ra là tính chất tuyên giáo ở đó mỗi năm một sâu đậm và lên dần đến đỉnh cao. Càng về sau, những lời chúc Tết của Hồ Chủ tịch càng không khác gì những “xã luận đầu năm” nhàm chán mà ta quá quen thuộc ở tất cả các nhà lãnh đạo Việt Nam sau ông, với những công thức hô hào đoàn kết, kêu gọi thi đua, hứa hẹn thành công và chúc thắng lợi muôn thuở. Chúng giống nhau tới mức không ai, kể cả ban biên tập bộ Toàn tập, nhận ra rằng “Lời chúc mừng năm mới” trên 1300 chữ của ông năm 1961 là nguyên xi “Lời chúc mừng năm mới” cũng của ông ba năm trước, năm 1958, chỉ khác nhau vài chữ [2]. Đọc Hồ Chí Minh toàn tập tôi thường xuyên giật mình, như thể các tác giả “chống diễn biến hòa bình” của Quân đội Nhân dân cùng các tác giả xã luận của Nhân dân tề tựu cả ở đó để bồi dưỡng nghiệp vụ. Ông Hồ chứ không ai khác chính là nguồn sản xuất khuôn mẫu cho ngôn ngữ tuyên giáo chính thống. Tất cả những lập luận và cách diễn đạt đã ăn sâu vào xương tủy của nền tuyên giáo cách mạng đều nợ ở ông bản quyền. Muốn giải phóng người Việt khỏi ngôn ngữ, tư duy và cảm xúc tuyên giáo này, phải bắt đầu ở cha đẻ của nó.
Từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ” và “toàn Đảng, toàn dân“, “kiên quyết thi hành” và “ra sức phấn đấu“, “kiên quyết chống âm mưu” và “tỉnh táo đề phòng“, “nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang” và “quyết tâm làm tròn nhiệm vụ“… đến “tăng cường đoàn kết nhất trí trên cơ sở tư tưởng Mác – Lênin, nhận thức đúng đắn về tình hình và nhiệm vụ. Nâng cao ý thức trách nhiệm, ý thức tổ chức và kỷ luật” và “nâng cao cảnh giác, đoàn kết chặt chẽ, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì hoà bình, dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội“… tất cả đều là những lời chúc Tết của Hồ Chủ tịch sau này. Thật khó hình dung rằng ông cũng chính là người trong những năm đầu cầm quyền và trong kháng chiến từng viết những lời như sau:
“Trong mấy ngày Tết, đồng bào ở hậu phương ai cũng đoàn tụ sum vầy chung quanh những bình hoa, mâm bánh. Mà các chiến sĩ thì ăn gió nằm mưa, lạnh lùng ở chốn sa trường. Song, hình dung các bạn thì ấm áp trong lòng thân ái của mỗi một quốc dân.” (Thư chúc mừng năm mới, 1946)
hay đoạn văn này:
“Trong ngày trời xuân tươi ấm, Tết nhất vui vẻ, đại gia đình Việt Nam ở vùng tự do sum họp vui vầy, để tưởng nhớ đến tổ tiên và hân hoan cùng con cháu, tôi ngậm ngùi nghĩ đến đồng bào.
Cũng ngày tốt lành, trời Nam đất Việt, mà các đồng bào phải riêng chịu sự lạnh lùng, nhục nhã, cơ cực, tức buồn dưới gót sắt lũ quỷ thực dân tàn bạo.
Mắt tôi như trông thấy các cụ tuổi cao tóc bạc đang đau xót, tức giận trước một cảnh tượng điêu tàn.
Mắt tôi như trông thấy những gia đình túng thiếu khổ sở, đã vất vả về vật chất, càng cay đắng về tinh thần.
Mắt tôi như trông thấy các cháu nam nữ thanh niên đau xót, hoặc bị truỵ lạc, hoặc bị giày vò, đang ngóng đợi ngày mai tươi sáng.
Mắt tôi như trông thấy các cháu nhi đồng, đang run rẩy bồi hồi như những đàn chim con bị mưa sa gió bão.” (Thư chúc Tết đồng bào trong vùng tạm bị địch chiếm, 1949)
Hồ Chủ tịch chưa bao giờ không là một nhà tuyên truyền, thậm chí một nhà tuyên truyền lão luyện, song những lời vừa dẫn là một giọng văn khác, một phong cách khác. Nó toát lên một không khí mà tôi muốn gọi là không khí đầu thế kỉ, với thần thái cổ kính, đôi khi cổ lỗ, còn sót lại của một thời văn hóa Việt nho phong sĩ tử, trộn với hương vị hiện đại và lạ hóa của một thời văn hóa Việt Tây học, cái không khí mà những nhà văn, nhà báo Việt Nam tài năng nhất nửa đầu thế kỉ 20 đã hít thở: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nhất Linh, Phạm Quỳnh, Nam Cao, Phan Khôi, Nguyễn Tuân… Nó cho thấy một con người thay vì một cái loa phóng thanh. Con người ấy từng gửi lời cảm ơn đồng bào đã tặng mình “cam, mứt, bánh chưng, dưa cải, mùi soa“. Từng thổ lộ với các cháu nhi đồng rằng “Bác không có quà Tết biếu các cháu, Bác chỉ gửi các cháu nhiều cái hôn“, ở một chỗ khác còn là “nhiều cái hôn âu yếm” và ở một chỗ khác nữa còn là những cái hôn “rõ kêu“. Từng hỏi thăm chiến sĩ, “Các em ăn Tết thế nào? Vui vẻ lắm chứ? Tôi và nhân viên Chính phủ vì nhớ đến các em cho nên cũng không ai nỡ ăn Tết” và động viên, “Các em hăng hái tiến lên, lòng Già Hồ, lòng Cính phủ và lòng toàn thể đồng bào luôn luôn ở bên cạnh các em“… Hơi quá nhiều riêng tư, ủy mị. Cuộc cách mạng mà ông lãnh đạo rồi sẽ nhanh chóng chỉ cho phép một cảm xúc chủ đạo: tập thể anh hùng ca. Nên câu thơ ngẩn ngơ “Độc lập đầy vơi ba cốc rượu” Tết năm đầu sự nghiệp lãnh tụ của Hồ Chủ tịch cũng dần nhường chỗ cho trường phái thơ khẩu hiệu Tết, hô “Xung phong” và “Tiến lên”. Thật may mắn là sau Hồ Chủ tịch, các nguyên thủ quốc gia Việt Nam không còn làm cái gọi là “thơ chúc Tết” nữa.
Phụ lục: Toàn văn những lời chúc Tết của Hồ Chủ tịch 1946-1969 (bản PDF)
© 2014 pro&contra
[1] Theo thông tin tôi tìm được trên mạng, tờ Quốc gia khi đó có trụ sở ở 67 Cửa Nam và Tổng Biên tập là ông Lê Quang Thiều.
[2] Chẳng hạn “đòi hòa bình, thống nhất nước nhà” thay vì “đòi thống nhất nước nhà bằng phương pháp hòa bình“.
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers

