Phạm Thị Hoài's Blog, page 22
March 19, 2014
Lực lượng cực hữu và những hành động của Nga ở Krym
Timothy Snyder
Phạm Nguyên Trường dịch
Nhà chức trách Nga tuyên bố rằng họ can thiệp vào Ukraine vì có những mối đe dọa mang tính phát xít do các nhà chức trách mới tại Kiev gây ra. Arseniy Yatseniuk, một nhà kĩ trị theo khuynh hướng bảo thủ, đang dẫn dắt chính phủ Ukraine. Cuộc cách mạng ở Ukraine được dân chúng thuộc mọi tầng lớp xã hội và mọi xu hướng chính trị tham gia. Người ta đã nống lên rằng những người chiến đấu với cảnh sát chống bạo loạn trong những tuần cuối cùng của cuộc cách mạng, khi chính quyền ở Ukraine sử dụng những biện pháp như bắt cóc, tra tấn, và bắn vào dân chúng, là lực lượng cực hữu. Các thành viên của đảng cánh hữu, Đảng Svoboda, chỉ giữ vài chức vụ trong chính phủ mới, trong khi các đảng chính trị thông thường và những người có những quan điểm khác giữ nhiều chức vụ hơn hẳn. Cuộc bầu cử trong mùa xuân này sẽ chứng tỏ rằng cánh cực hữu chỉ được một số lượng hạn chế cử tri trong xã hội Ukraine ủng hộ. Trong các cuộc thăm dò ý kiến được tổ chức nhân cuộc bầu cử tổng thống được dự kiến vào ngày 25 tháng 5 tới, các nhà lãnh đạo của cánh cực hữu ở Ukraine chỉ được từ 2 đến 3 phần trăm công dân Ukraine ủng hộ mà thôi. Không có người nào trong số các ứng cử viên hàng đầu có chút gì đó tương tự như những người dân tộc chủ nghĩa. Nếu cuộc bầu cử được tổ chức, người chiến thắng có thể sẽ là một ông trùm sôcôla hay một cựu võ sĩ quyền Anh hạng nặng, cả hai đều còn lâu mới là những người dân tộc chủ nghĩa.
Tất nhiên, mục đích của sự can thiệp của Nga là để đảm bảo rằng các cuộc bầu cử đó không bao giờ xảy ra. Dùng sự hiện diện của các chính trị gia cánh hữu trong chế độ dân chủ ở nước láng giềng làm lý do cho một cuộc xâm lược quân sự, đây là điều cực kì lạ lùng đối với một chế độ độc tài công khai ngả sang cánh hữu, như chế độ của Vladimir Putin. Dù có nói thế nào thì chính sách xã hội của chính Putin cũng ngả sang hữu hơn chính sách của những người Ukraine mà ông ta chỉ trích. Nỗ lực của Nga nhằm kiểm soát Ukraine dựa trên ý thức hệ Á-Âu (Eurasian ideology), dứt khoát bác bỏ chế độ dân chủ tự do. Người sáng lập của phong trào Á-Âu (Eurasian movement), Alexander Dugin, trên thực tế là một tay phát xít, ông ta từng kêu gọi một cuộc cách mạng các giá trị trong khu vực kéo dài từ Bồ Đào Nha đến Siberia. Người chịu trách nhiệm về chính sách đối với Ukraine là Sergei Glayzev, trước đây lãnh đạo đảng dân tộc cực hữu đã bị cấm vì chiến dịch tranh cử mang tính phân biệt chủng tộc. Putin đã tự đưa mình vào vị trí lãnh đạo chiến dịch chống lại đồng tính luyến ái toàn cầu. Điều này rất có lợi về mặt chính trị, vì phe đối lập Nga hiện đang bị vu cáo là tiến hành lobby cho tình dục đồng giới ở tầm quốc tế, một điều tự bản chất của nó là không thể nào xảy ra, nếu hiểu được tâm linh cố hữu của nền văn minh truyền thống của Nga.
Nga đã xâm lược và chiếm đóng bản đảo Krym với thái độ làm nhiều người, trong đó có một số nhà quan sát Nga, nhớ lại tinh thần hồi cuối những năm 1930. Luận cứ được mang ra sử dụng là nhà nước Nga có quyền bảo vệ người Nga. Làm như thế là đặt dân tộc tính, theo hình dung và đề xuất của Moskva, cao hơn biên giới quốc tế và luật pháp quốc tế. Thật vậy, nhà chức trách Nga đã thể hiện rõ rằng học thuyết của họ như sau: vì họ bảo rằng Ukraine không còn là một quốc gia nên Ukraine không còn là một quốc gia; và trong thế giới của những mối quan hệ quốc tế, chỉ có dân tộc tính và lịch sử được nhìn từ Moskva là quan trọng. Trong cái logic này, “quyền” duy nhất của các cá nhân là được Điện Kremlin coi là thành viên của một dân tộc[1] và sau đó tùy hoàn cảnh mà có bị xâm lược hay là không. Việc người Nga ở Ukraine, trên thực tế, được hưởng quyền tự do rộng rãi hơn so với người Nga ở Nga không phải là vấn đề cần quan tâm, vì trong chương trình này, người dân không phải là những cá nhân mà chỉ đơn giản là những luận cứ số liệu nhằm mở rộng lãnh thổ. Cung cách bác bỏ quốc gia và luật pháp theo hướng có lợi cho dân tộc tính và cuộc xâm lăng như vậy không phải là bằng chứng cho thấy nước Nga hiện nay chống chủ nghĩa phát xít.
Krym dưới chính quyền Ukraine là một tỉnh tự trị, ngoài người Nga và người Ukraine còn có cả người thiểu số Tatar. Tháng 5 năm 1944, toàn bộ người Tatar ở Krym, đàn ông, đàn bà và trẻ con, đều bị Bộ Nội vụ Liên Xô trục xuất. Những người hiện sống ở Krym là những người bị trục xuất còn sống sót và con cháu họ, từ nơi lưu đày khắc nghiệt ở Cộng hòa Xô-viết Uzbekistan trở về và tái định cư ở nước Ukraine độc lập. Cuộc hồi hương của họ là một trong những trường hợp kì diệu của sự hội nhập đa văn hóa ở châu Âu thời hậu Xô-viết. Kết quả là người Tatar ở Krym là những người ủng hộ Ukraine, theo nghĩa là họ thích luật pháp của Ukraine hơn bất cứ sự lựa chọn nào khác. Cuộc xâm lăng của Nga vào vùng đất quê hương họ lập tức tạo ra ý nghĩa mới về sự đe dọa, nó nhắc nhở nhiều người Tatar về kinh nghiệm của sự thanh lọc sắc tộc. Nhà của họ ngay lập tức bị đánh dấu. Cách đây mấy ngày, người ta đã phát hiện được xác một người Tatar ở Krym bị cắt ra từng khúc. Trước “cuộc trưng cầu dân ý”, phụ nữ và trẻ con Tatar ở Krym đã bị đưa sang phần đất liền Ukraine. Sau đây tình hình có thể còn xấu hơn.
Câu chuyện diễn ra ở Krym vào ngày Chủ nhật vừa qua chỉ là một trò hề. Không thể tiến hành trưng cầu dân ý dưới họng súng của quân chiếm đóng. Không thể tiến hành trưng cầu dân ý với chỉ hai lựa chọn mà thực chất là như nhau. Không thể tiến hành trưng cầu dân ý khi tất cả bộ máy tuyên truyền đều nằm trong tay nhà nước. Không thể tiến hành trưng cầu dân ý khi toàn bộ các đài truyền hình khu vực đều bị đóng cửa, còn các phóng viên thì bị đánh đập và đe dọa. Thậm chí trong những điều kiện như thế, lời tuyên bố cho rằng 75% dân chúng tham gia và hơn 96% bỏ phiếu đồng ý sáp nhập vào Nga cũng không đứng vững được. Sau nhiều năm khảo sát, chúng tôi biết rằng phần lớn người Krym không ủng hộ việc sáp nhập vào Nga. Một công trình khảo sát lớn cho thấy năm 2011 có 33% người ủng hộ ý tưởng này, năm 2013 chỉ còn 23%. Người Tatar ở Krym tẩy chay cuộc “trưng cầu dân ý”, nhiều người Ukraine cũng làm thế, vì nó bị chính phủ Ukraine tuyên bố là phi pháp và vi hiến. Số người tham gia ở thành phố Sevastopol là 123%.
Nhưng cũng có một số người ca ngợi “cuộc trưng cầu dân ý” này. Moskva gửi lời mời các đảng cực hữu của châu Âu và đã tìm được những chính trị gia sẵn sàng đóng vai“người quan sát”. Enrique Ravello từng là thành viên của Đảng Tân Quốc xã CEDADE và hiện là thành viên của cương lĩnh cực hữu Plataforma per Catalunya. Luc Michel từng là thành viên Liên đoàn Tân Phát xít với tên gọi là Liên đoàn Hành động Dân tộc và châu Âu (Fédération d’action nationaliste et européenne) và hiện ủng hộ cho tổ chức hỗn hợp giữa chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa Bolshevik, một tổ chức được nhiều người theo phái Á-Âu (Eurasianist) ở Nga biết đến. Béla Kovács là một thành viên của đảng cực hữu Hungary gọi là Jobbik và là thủ quỹ của Liên minh các Phong trào Quốc gia châu Âu (Alliance of European National Movements). Liên minh này mô tả vụ can thiệp của Nga ở Ukraine là phản ứng trước âm mưu của phái tân bảo thủ thế giới, được coi là nỗ lực mới nhất nhằm thống trị thế giới của người Do Thái.
Trong khi xâm lược và chiếm đóng bán đảo Krym, Nga – theo tường thuật của các nhân chứng – có đưa một số công dân của mình tới, nhằm gây ra tình trạng bất ổn tại các thành phố phía đông Ukraine như Kharkiv và Donetsk. Ở cả hai thành phố này, trong những diễn biến dường như là đã được sắp đặt từ trước, một người nào đó đã hạ cờ Ukraine từ một tòa nhà công cộng và thay thế bằng cờ Nga. Ở Kharkiv người làm việc này là một công dân Nga, anh ta còn để cho người ta chụp hình mình trong bộ đồng phục của Đức Quốc xã. Có lẽ đây chỉ đơn giản là lựa chọn thời trang mang tính cá nhân. Ở Donetsk, người treo cờ là Pavel Gubarov, một người dân tộc chủ nghĩa Nga (và là công dân Ukraine), anh này tuyên bố rằng mình là người cai trị nhân dân. Sau khi bị chính quyền Ukraine bắt, anh ta được vô tuyến truyền hình Nga đưa lên như một anh hùng và một vị thánh tử đạo. Trong khi đó ở Donetsk, Gubarov được mọi người coi là một tên phát xít và là thành viên của tổ chức phát xít gọi là Thống nhất Quốc gia Nga (Russian National Unity).
Nếu có ai bên cánh tả vẫn còn coi Putin là nghiêm túc khi ông ta diễn tả vụ chiếm đóng Ukraine của Nga là hành động chống phát xít, thì bây giờ có thể là thời điểm để xem xét lại.
Timothy Snyder là giáo sư sử học ở Đại học Yale (Yale University) và là tác giả cuốn Những vùng đất đẫm máu: Châu Âu giữa Hitler và Stalin.
Nguồn: New Republic 17-3-2014
Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra
[1] Tác giả chơi chữ: nguyên văn Volk, tiếng Đức nghĩa là dân tộc, nhưng lại đồng âm với từ “chó sói” trong tiếng Nga – ND
March 17, 2014
Tôi xấu hổ cho đất nước tôi
Wladimir Kaminer
Phạm Thị Hoài dịch
Tôi xấu hổ cho đất nước tôi, vô trách nhiệm tuân theo kẻ được mệnh danh là tổng thống mà đẩy thế giới đến bờ chiến tranh. Không, không phải mọi người Nga đều hoan hô quân Nga tiến vào Ukraine; người dân ở Krym chắc chắn không muốn bị một đơn vị vũ trang cai quản. Hiếm có hai dân tộc nào gần gũi nhau hơn Nga và Ukraine.
Ở Đức, bao nhiêu năm nay tôi ra sức nói tốt cho đồng bào mình. Bao nhiêu lần tôi đã giải thích trong các cuộc phỏng vấn rằng dân Nga không phải ai cũng ghét người đồng tính, ai cũng kì thị chủng tộc, ai cũng ủng hộ những trò chơi chiến tranh của ngài tổng thống. Song càng ngày càng khó bênh vực nước Nga hơn.
Mỗi lần về Nga, tôi đều hỏi bạn bè: Thế là thế nào? Sống thế mà cũng chịu được hay sao? Mọi chính kiến tự do, mọi hình thức tự do đều bị trấn áp, trên truyền hình thì toàn nói láo, các bạn không thấy những người đang lê bước sang đường kia à? Cứ năm chục mét họ lại ngoảnh đầu đảo mắt như bị ai theo dõi!
Thấy chứ, chúng tớ có mù đâu, bạn bè tôi đáp. Nhưng sao cậu lại nghĩ rằng tự do sẽ tốt cho những người ấy? Tự do gì mới được cơ chứ? Tự do khỏi cái gì nhỉ? Ở đây người ta không cần tự do mà cần tín dụng lãi suất thấp và nhà thuê giá rẻ. Putin cho họ những thứ ấy. Còn lại đều là những giá trị phương Tây cố tình nhồi nhét để gây rối cho những đầu óc kém minh mẫn. Ở đây chẳng ai cần tự do, trừ đám đồng tính, bọn trẻ vị thành niên và vài tay nhà báo. Ở đây thời nào cũng vậy và sẽ mãi mãi như vậy. Chỉ như vậy đất nước này mới trụ nổi, với một gã bạo chúa thay vì một chính phủ, với một bộ máy hành chính tham nhũng chỉ lăm le đạp kẻ yếu và liếm kẻ mạnh, và với một dân tộc ưa nghĩ ngợi, thấy hết nhưng tuyệt đối không lên tiếng. Đâu phải nước nào cũng phát triển giống nước nào. Thế cũng là một khả năng, phải không nhỉ?
Có một kinh nghiệm cay đắng là, dân tộc nào từ bỏ quyền tự do của mình thì sớm hay muộn cũng rơi vào chiến tranh và sau đó thì tọt vào thùng rác của lịch sử. Gã bạo chúa hiện tại không hề được bầu, mà 15 năm trước được giới thiệu là người “kế nhiệm” trước quốc dân. Từ đó đến nay gã cho tổ chức vài cuộc bầu cử, lần nào cũng tự đếm phiếu cho mình. Một gã đàn ông nhỏ con, xuất thân từ lò đào tạo mật vụ Xô-viết, không vợ, không bạn bè, cô lập với thế giới, đầy mặc cảm, cai trị một đất nước khổng lồ, nơi dân chúng đã từ lâu đánh mất mọi hi vọng có ngày được hưởng quyền công dân và thực sự được tự bầu lên tổng thống của mình. Phương Tây đang cố đoán gã nghĩ gì trong đầu, dân Nga thì chẳng buồn thử đoán. Đơn giản là họ theo gã. Gã ghét người đồng tính, vậy là họ xuống đường biểu tình chống người đồng tính. Gã không ưa nghệ thuật hiện đại, vậy là họ đi dẹp các phòng tranh. Gã xua quân sang nước láng giềng, vậy là họ gào lên: “Krym là của chúng ta!”
Họ không nghĩ đến một cuộc sống hậu Putin, ngay cả khi điều đó xảy ra vài năm nữa. Khi gã đang bay mà đụng phải một đàn cò và rơi xuống chẳng hạn. Hoặc nếu gã lặn quá sâu, hay bị một con báo ăn thịt. Lúc ấy họ, người Nga, đồng bào tôi, sẽ làm gì nhỉ?
__________
Wladimir Kaminer (46) là nhà văn gốc Nga-Do Thái viết tiếng Đức, sống tại Berlin. Tác phẩm Russendisko của ông thành công lớn và được chuyển thể điện ảnh. Bài viết này đăng trên trang FB và blog của ông ngày 04-3-2014, ngay khi lính Nga tràn qua biên giới Ukraine, sau đó được đăng lại trên một số trang báo.
Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra
March 11, 2014
Cách mạng đến rồi đi
Michail Ryklin trả lời phỏng vấn về Khủng hoảng Krym
Phạm Thị Hoài dịch
Die Zeit: Thưa ông Ryklin, có lần ông nói rằng điều duy nhất còn giữ được nước Nga là cảm giác về sức mạnh quân sự, dư âm từ chiến thắng của Stalin trong Thế chiến II. Hành động của Putin tại Krym hiện nay xuất phát từ đó chăng?
Michail Ryklin: Đó là điểm tựa cho guồng máy tuyên truyền của Putin. Mọi nỗ lực phân tích cuộc chiến một cách khoa học đều bị hình sự hóa. Đi chệch quy chuẩn ngôn ngữ chính thống về đề tài này là trở thành tà giáo. Đây là lần thứ hai Putin thất bại nặng nề tại Ukraine. Hồi Cách mạng Cam, ông ta đã đặt cược vào Yanukovych – và thua. Bây giờ lại thua nữa. Mà Putin lại là người khó tha thứ cho kẻ khác vì những sai lầm của chính mình. Kẻ khác phải trả giá.
Tình thế hiện nay của Putin ra sao?
Ông ta đang bị sập trong cái bẫy do chính mình giăng ra. Suốt bao nhiêu năm ông ta dựng hình ảnh về bản thân như một người hùng, và thực tế thì cuộc xâm lăng chủ quyền quốc gia của Ukraine đang diễn ra rồi – hiển nhiên là vi phạm luật pháp quốc tế. Câu hỏi chỉ còn là: Putin sẽ đi xa tới mức nào. Ông ta ưa trả thù, nhưng đồng thời cũng là người thực dụng. Máu mà đổ ở Krym thì ông ta có thể mất khá nhiều.
Dân Nga chờ đợi gì ở ông ta?
Nước Nga hài lòng tưởng mình đang có một tổng thống mạnh. Hơn 80 % dân Nga cho rằng chính phủ mới hiện nay ở Kiev là không chính danh. Họ muốn Putin tiếp tục tiến quân và khải hoàn. Ông ta đang ở thế cưỡi trên lưng hổ.
Trong công luận Nga có nhiều thành kiến bài phương Tây được chính phủ hà hơi, thành kiến về một “châu Âu đồng tính” phóng túng và yếu đuối. Hành động của Putin có hàm nghĩa tính dục lắm không? Có phải là để bằng mọi giá khẳng định rằng mình không “đồng tính” không?
Châu Âu bị coi là thiên đường của kẻ yếu và bọn đồng tính – thật không thể tưởng tượng nổi, một dân tộc từng có học thức như dân tộc Nga bây giờ lại đổ đốn ra đến thế. Về thể chất, Putin tuyệt đối khỏe mạnh; nào cưỡi ngựa, nào lặn, nào bay cùng đàn sếu – một Superman. Thế mà lại bị hở sườn ở đất nước Ukraine nghèo khó. Hình ảnh người hùng của ông ta đang bị lung lay. Ông ta không thể chịu được cảnh bị coi là kẻ yếu. Hiện tại quả thật ông ta đang phải trải qua giờ khắc của định mệnh.
Còn dân chúng, họ có vẻ tin chắc vào chiến thắng?
Dân Nga rất nặng đầu óc sô-vanh. Họ tưởng rằng ở Krym người ta sẽ giang tay ra đón lính Nga. Họ không hiểu rằng như thế là nước Nga trở thành kẻ xâm lược, rằng kinh tế Nga sẽ bị thiệt hại và Nga sẽ phải chịu những biện pháp trừng phạt. Hôm nay đã là một ngày Thứ Hai Đen cho nước Nga rồi. Chứng khoán Nga rớt 12 %. Còn đồng Rúp thì nửa năm qua đã mất giá 20%.
Nhưng Putin sẽ vẫn chiếm đóng Krym?
Tôi e rằng không thể quay ngược bánh xe diễn biến được nữa. Ngày 30 tháng Ba này sẽ có trưng cầu dân ý xem Krym có muốn sáp nhập vào Nga không. Đa số sẽ tán thành, vì 60 phần trăm dân số ở bán đảo này là người gốc Nga. Putin còn chờ kết quả đó.
Bộ máy tuyên truyền của Nga diễn tả rất mạnh theo chiều hướng rằng cuộc lật đổ ở Ukraine là tác phẩm của bọn phát-xít và những phần tử kích động phương Tây.
Nếu không có những thông tin độc lập thì chỉ trong vòng ba tháng, kiểu tuyên truyền này sẽ biến người ta thành cái xác sống. Nó gợi lại tinh thần của Goebbels và Stalin.
Ukraine đã thực hiện được điều mà người Nga chưa bao giờ đạt được: lật đổ chính phủ. Liệu dân Nga có đố kị với dân Ukraine không?
Đố kị là một yếu tố không phải là không quan trọng.
Ông hay được hỏi rằng vì sao ở Nga không thể có một cuộc lật đổ theo kiểu Mùa Xuân Ả-rập. Tôi nhớ, ông từng đưa ra ba lí do: thứ nhất, mùa Đông quá dài. Thứ hai, xã hội quá nhiều người già. Thứ ba, rượu Vodka.
Nga thực sự là một trong những nước yếu nhất, già nhất về mặt nhân khẩu. Một Mùa Xuân Ả-rập không bao giờ xảy ra tại Nga được. Nhưng còn có một nguyên nhân khác: Nga rất giàu tài nguyên. Nó chỉ việc bán tài nguyên với quy mô lớn – tất nhiên lợi nhuận trước hết rơi vào túi giới đầu sỏ, nhưng dân chúng, nhất là dân ở các đô thị lớn, cũng được hưởng chút sái cái lãi suất từ thiên nhiên này. Quyền lực bỏ tiền ra mua thuộc hạ.
Ở Ukraine không như vậy hay sao?
Ukraine không có tiền để mua chuộc dân chúng. Gia đình Yanukovych đã vơ vét một tài sản 12 tỉ, nhưng dân chúng không được gì hết. Yanukovych học đòi cách ứng xử của các bạo chúa Nga, nhưng bối cảnh làm nên sự giàu có của đám này thì ông ta lại không có. Nước Nga là một công ti cổ phần và người Nga là những cổ đông nhỏ, khó mà nổi loạn chống lại quyền lực. Còn ở Ukraine thì khác: Cổ đông chính nắm hết, không chịu chia cho ai, và đẩy đất nước vào vòng phá sản.
Giới thượng lưu Nga nghĩ thế nào về một cuộc chiến tranh mới ở Krym?
Tiền thì họ chuyển sang cất ở phương Tây, nhưng lại muốn chứng tỏ mình là những nhà ái quốc. Toàn bộ hệ thống vì thế mà thành dối trá và dễ bị tấn công. Giới thượng lưu Nga run sợ vì tài khoản của họ ở nước ngoài có thể bị khóa, bất động sản có thể bị tịch thu. Đó là một đòn đánh mạnh vào nước Nga – không cần đến một phát súng[1].
Có nghĩa là giới đầu sỏ không tán thành chiến tranh?
Anh cứ hình dung thế này: một đầu sỏ Nga điển hình thì có một biệt thự ở Florida, một nhà nghỉ ở Thụy Sĩ và một nhà nghỉ ở Côte d’Azur; con trai học ở London, con gái thì vừa sang Princeton, thế mà bây giờ Nga lại bị quốc tế trừng phạt. Nếu là anh thì anh sẽ quyết định thế nào: anh muốn một nước Nga kiêu hãnh hay anh muốn giữ tiền của anh?
Theo ông thì hiện nay không khí trong Điện Kremlin ra sao?
Không khí hoảng loạn đang hoành hành. Tôi tin chắc rằng ở đó bây giờ hai phe đang kịch liệt đấu khẩu: một bên là giới quân sự muốn chiến thắng triệt để, một bên là những người hoài nghi và cảnh báo. Điện Kremlin đã bị chia rẽ mạnh hồi Nga đứng trước cuộc chiến ở Afghanistan, bây giờ còn chia rẽ hơn nhiều.
Vậy Putin có thể làm gì?
Chắc ông ta đang đứng trước quyết định trọng đại nhất của cuộc đời. Cuối tháng Năm Ukraine sẽ bầu cử, còn cuối tháng Ba có cuộc trưng cầu dân ý ở Krym về việc sáp nhập vào Nga. Đến cuối tháng Năm, mọi thứ phải được quyết định, Putin còn có thời gian từ nay đến lúc đó. Nhưng diễn biến có thể xảy ra bất kể lúc nào. Putin sẽ tìm cách chiếm Krym.
Ông ta có được quyền tự mình định đoạt, như thường thấy trong các vở bi kịch không?
Không, ông ta không phải là một cá nhân đứng trên tất cả. Putin chỉ là tên gọi của cả một hệ thống. Và những hệ thống phải sử dụng một cỗ máy tuyên truyền lớn như vậy thì ở một mức độ nào sẽ hóa điên. Chúng tự sản xuất các huyền thoại về bản thân, cho đến khi những huyền thoại đó làm tổ trong hiện thực. Bà Thủ tướng Merkel cũng vừa có ý nói như vậy. Bà ấy bảo Barack Obama rằng bà ấy có cảm tưởng là Putin đang sống trong một thế giới tự huyễn hoặc, xung quanh toàn những kẻ xưng tụng ông ta là Nga hoàng.
Putin là tác giả, là người đích thân tạo nên cái hệ thống mà ông ta đang sống, hay ông ta chỉ là nhân vật chính bị cuốn vào đó?
Ông ta là một nhân viên mật vụ bẩm sinh và đã bao nhiêu năm xây đắp nên cái hệ thống này. Đấy là một hệ thống để người đồng tính – trong Điện Kremlin có rất nhiều – tồn tại, miễn là không công khai. Đấy là một hệ thống trong đó Putin khai tài sản là chỉ có một chiếc xe Volga cũ và một nhà nghỉ thừa kế của gia đình, chính thức thì ông ta không có của cải gì. Muốn tồn tại trong hệ thống đó thì thần kinh phải phân liệt. Một hệ thống bệnh hoạn. Nhưng nó đã có từ thời Stalin, Putin chỉ củng cố thêm mà thôi. Ông ta là sản phẩm của hệ thống đó.
Ông có hình dung nổi là một năm nữa Putin sẽ thôi không cầm quyền?
Có thể sẽ xảy ra một điều gì đó gạt ông ta khỏi vòng quyền lực. Nhưng tôi khó hình dung là từ đó tâm thế xã hội sẽ thay đổi. Anh thấy đấy: Cách mạng Cam từng cuốn phăng Yanukovych, nhưng sáu năm sau ông ta lại có mặt, do chính nhân dân bầu lên. Cách mạng đến rồi đi, còn tâm thế xã hội thì vẫn thế.
Putin cho rằng sự tan rã của Liên bang Xô-viết là tai họa địa chính trị nghiêm trọng nhất của thế kỉ 20. Có đúng là chỉ riêng nhận định đó đã đủ khiến ông ta phải tỏ ra “mạnh tay” ở Krym?
Có thể như vậy. Các sử gia đã so sánh sự tan rã của Liên Xô với chấn thương tâm lí của nước Đức sau Hiệp ước Versailles: Cả một quốc gia thấy mình bị đối xử bất công và bị hạ nhục. Sự tan rã của Liên Xô là một chấn thương như vậy đối với nước Nga. Ngoài ra, người Nga khá đồng thuận về Krym, họ coi bán đảo này là lãnh thổ Nga. Đặc biệt là có cả một huyền thoại về thành phố Sevastopol: một pháo đài từng bị bao vây biết bao lần mà vẫn hiên ngang đứng vững. Tolstoy từng là sĩ quan đồn trú tại đó và viết một tác phẩm về thành phố này.
Theo ông, tình hình sắp tới sẽ thế nào?
Gia đình tôi đang sống ở Moskva, tôi hi vọng chiến tranh không xảy ra. Nhưng tôi tin rằng hi vọng đó không trở thành hiện thực, vì tôi biết rõ Putin.
Xung đột này có thể leo thang tới mức nào?
Mọi chuyện đều có thể xảy ra, kể cả chiến tranh thế giới lần thứ ba. Chẳng hạn, nếu Thổ Nhĩ Kì với tư cách là thành viên Khối NATO can thiệp. Bản thân Ukraine cũng có một quân đội hùng hậu, được trang bị bằng vũ khí Xô-viết. Mọi khả năng đều tồn tại.
Cuộc khủng hoảng này xảy ra đúng một trăm năm sau ngày Thế chiến I bùng nổ, đó là một con số ma thuật chăng?
Tình thế hiện nay cho thấy là một điều gì đó hoàn toàn bất ngờ có thể xảy ra, khiến ta liên tưởng đến năm 1914. Nhiếu người quen của tôi ở Nga đang rất lo lắng. Họ biết rằng: họ sẽ phải chịu trận. Tôi mới chỉ chứng kiến một lần một tình thế tương tự, đó là trước khi Liên Xô tan rã. Đất nước, nơi ta sinh ra, bỗng nhiên biến mất. Chúng ta đang rơi tự do. Một người đàn ông có tâm lí không hoàn toàn bình thường đang cai quản quốc gia lớn nhất thế giới – bây giờ chúng ta đều cảm thấy điều đó. Ở Berlin cảm giác đó có lẽ không mạnh lắm. Nhưng ở Moskva thì cảm giác đó là: cháy to đến nơi rồi.
__________
GS Michail Ryklin (1948) là một trong những triết gia Nga đương đại nổi tiếng nhất. Ông giảng dạy tại Viện Triết học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Moskva và thỉnh giảng tại nhiều trường đại học quốc tế, hiện sống tại Berlin.
Nguồn: Tuần báo Zeit, 06/3/2014. Nhan đề của người dịch.
Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra
[1] Ông Bill Browder, người đứng đầu Quỹ Hermitage Capital từng đầu tư hàng tỉ dollar vào Nga trong 10 năm 1995-2006 rồi sau đó gặp rắc rối với luật pháp Nga, bị cấm cửa và xử vắng mặt với bản án 9 năm tù vì tội biển thủ thuế, trong một phỏng vấn với tờ Die Welt cũng cho rằng phương Tây chỉ cần áp lệnh trừng phạt với 300 đầu sỏ kinh tế Nga là sau hai tuần nước Nga sẽ gục, trong khi Ben Judah, tác giả cuốn Fragile Empire: How Russia Fell in and Out of Love with Vladimir Putin, trong một bài viết trên Politico nhan đề “Vì sao Nga không còn sợ phương Tây nữa” lại nhận định rằng giới đầu sỏ Nga không lo ngại bị phương Tây trừng phạt kinh tế, chẳng hạn vì châu Âu cũng bị các quyền lợi chia rẽ và nếu được trả thù lao khá thì nhiều chính khách phương Tây hết nhiệm kì như Gerhard Schröder, Tony Blair hay Nicolas Sarkozy cũng sẵn sàng đánh bóng cho các chế độ độc tài… (Chú thích của người dịch)
March 8, 2014
Viết trong ngày 8 tháng 3
Dạ Ngân
Bảy giờ sáng, con gái cách xa 12 cây số mang lẵng hoa đến. Của rể mua à con? Đâu, ảnh bận lu xà bù, hoa cho con còn chưa thấy nữa. Đành cười, rể cày để nuôi vợ nuôi con, vợ nó là con gái mình, coi như lẵng hoa này là của chồng công vợ.
Sở dĩ con gái mang hoa cho mẹ là vì biết mẹ thích hoa nhưng chồng của mẹ không bao giờ mua hoa. Đó là một trong những đặc điểm ưu tú của đàn ông Việt. Nhưng hôm nay khác, sau khi ăn phở được con gái trả tiền, ông chồng ra chợ cầm về một bông hồng vàng. Không khỏi ngạc nhiên, hội chứng đám đông đây à?
Đã thấy một bãi nước đái ở chân cầu thang chung cư. Luôn luôn là vậy, tuần nào thứ nước đái này cũng “đến hẹn lại lên”. Không biết của thằng bá vơ nào, không ai bắt được. Càng ngày càng thấy đàn ông đái bậy nhiều lên, như chửi bậy, làm bậy, ăn bậy, sống bậy, mơ bậy… Nhớ nhân vật nào đó nói rằng đàn ông các xứ lạc hậu nói chung chưa biết cài cúc quần mà lúc nào cũng nói chuyện cách mạng, văn minh, mặt trăng, vũ trụ. Mọi lần việc lau dọn tự nguyện này thuộc phần vợ nhưng hôm nay chồng chạy lên xách nửa xô nước dội ùm một cú. Nước tiểu loãng ra nhưng cầu thang đọng vũng. Vợ phải lụi cụi thu dọn cái mớ của thằng khốn nạn nào đó cùng với cách xử lý rất ư đàn ông Việt của chồng.Taylàm miệng nói, phải khu trú nó bắng giẻ thấm có cả nước thơm anh ơi, đúng ngữ điệu mềm mỏng được việc muôn thuở của đàn bà truyền thống.
Một bài phỏng vấn đang chờ trong e-mail. Quyển tản văn Gánh đàn bà của chị, riêng tên tập đã thấy khổ nhọc rồi, làm đàn bà cũng vui cũng thích chứ! Trả lời, đàn bà riêng việc đái cũng khổ sở hơn đàn ông, phải ngồi xuống đứng lên, phải kín đáo, không được tin vào gốc cây mà đủ. Làm con gái thì đúng là có vui có thích, thanh tân, da trắng tóc dài, những tiêu chuẩn để con trai theo đuổi, nhớ là chỉ thời con gái thôi nha. Đến ngưỡng đàn bà rồi thì sẽ biết, thời chiến tranh có người chưa hết đau đã khổ, còn phải ngóng tin dữ tin lành từ con, rồi còn phải tiếp tục nuôi cháu để kéo dài tinh thần chiến binh. Xin chị nói chuyện đàn bà hòa bình đi, ừ thì hòa bình, hậu chiến bời bời, chia rẽ, họa xâm lược lúc nào cũng lơ lửng, làm đàn bà châu Á đã bị đè đầu cởi cổ, làm đàn bà Việt còn trần ai gấp mấy. Nhưng hòa bình đã gần 40 năm rồi mà chị? Vâng, hòa bình gần 40 năm nhưng đàn ông Việt nhậu nhất thế giới, cao đàm khoát luận chắc cũng vào loại nhất thế giới, và gì gì nữa, thôi, kể hết thì không in báo lề phải được, thông cảm nha.
Buổi chiều, một vị trong tổ hưu đến uống trà. Có chuyện vềUkrainelàm mồi uống. Lan man địa chính trị một hồi thế nào cũng so ví với ViệtNam. Cái tên Trung Quốc không thể không xuất hiện, cuối cùng là chuyện ca ngợi nền văn hóa Trung Hoa. Vợ hết chịu nổi, điên tiết “Đừng có mà ca ngợi cái thứ văn hóa Trung Hoa trước mặt tôi, nhá!”.
Biết là hơi thất lễ nhưng không nín được. Đàn bà mình phải tế nhị, lịch sự, nhã nhặn với khách chứ. Nhưng hôm nay là ngày 8 tháng 3, miễn phê bình.
© 2014 Dạ Ngân & pro&contra
March 7, 2014
Đông Tây Nam Nữ
Phạm Thị Hoài
Viết cho Ngày Phụ nữ
1.
Không có gì thể hiện sự khinh bỉ đàn bà sâu sắc như tệ sùng bái gái trinh của đàn ông một số nước châu Á, đặc biệt là Việt Nam và Trung Quốc. Ngẫm nghĩ về việc săn trinh những cô gái trẻ để lấy đỏ trong làm ăn, tôi từng sa vào những thắc mắc: Trinh tiết đàn bà giúp được gì cho business? Tăng nguồn đầu tư chăng? Phá trinh một em xong thì trúng tuyển công chức chăng? Mấy em gộp lại thì đủ trúng thầu một cầu vượt? Hay tổng thể và hoành tráng hơn, bao nhiêu cái trinh hùn vào thì giúp được một đại gia khám phá triết lí mở đường cho kinh doanh thành đạt, kiểu “” chẳng hạn?
Đương nhiên không có câu trả lời khả dĩ nào mà không xúc phạm đến lí trí bình thường. Nên một thời gian dài tôi lí giải hiện tượng này theo hướng những tín điều u minh, về bản chất hoàn toàn giống việc tranh đoạt ấn Đền Trần, cướp hoa tre Hội Gióng. Cửa Phật, cửa Thánh, cửa Mẫu, hay cửa mình của chị em đều là chỗ để đặt niềm tin vào tài lộc do các thế lực siêu nhiên ban phát theo quota. Nhưng nếu đã thế thì vì sao các đấng mày râu không đeo cái chiến lợi phẩm trinh nữ ấy như bùa hộ mệnh ở cổ? Sao không dâng lên bàn thờ?
Song siêu nhiên hóa hay tâm linh hóa cái màng trinh không chỉ là ngớ ngẩn, mà trước hết là lãng mạn rởm. Đằng sau hiện tượng sùng bái mấy giọt máu này không có gì huyền nhiệm mà thuần túy là một phép tính lạnh lùng [1]. Nó bắt nguồn từ tập quán đàn ông đi nhà thổ để giải đen. Họ tin rằng toàn bộ sự xui xẻo trong mình sẽ theo dòng tinh trùng mà xả ra. Sau cơn mây mưa họ sẽ được tẩy trần, sạch dơ dớp nhớp nhúa của vận hạn.
Nhưng vì sao họ chọn gái điếm chứ không phải vợ hay người yêu để phục vụ sứ mệnh ấy? Rất đơn giản: Cái mà họ xả ra cũng là cái mà họ trút vào người đàn bà. Vận đen, theo niềm tin của họ, tuần hoàn bất diệt trong nhân gian, không tự nhiên sinh ra và không tự nhiên mất đi, chỉ chuyển từ người này sang người khác. Người khác tất nhiên không thể là người thân của họ. Đằng sau sự thản nhiên trút tất cả vận rủi của bản thân vào một cô gái làng chơi để tẩy rửa mình cho vận hên ấy là một triết lí vụ lợi trắng trợn và một văn hóa khinh miệt phụ nữ vô tận. Thân thể đàn bà là bãi chứa xú uế của đàn ông.
Các cô gái nhà chứa sẽ làm gì khi chìm trong cái biển nhầy nhụa rủi ro phun ra từ khách hàng đó? Câu hỏi này đám đàn ông coi việc chơi đĩ để giải đen cũng bình thường như đi nhậu hiển nhiên không bao giờ đặt ra. Nhưng họ biết rõ sức chứa có giới hạn của một người đàn bà đã nhận vô vàn trận xả xui trong cuộc đời bán thân của mình. Đã bão hòa. Rót một giọt đen thêm vào đó là vòng tuần hoàn nói trên có thể đổi hướng. Họ điên tiết. Khả năng đụng phải vài ba thằng cha khác xả xui cùng một lỗ là rất lớn. Họ khát khao một cái lỗ mới toanh. Còn nguyên niêm phong. Nơi họ không phải gặp một thằng cha nào khác. Nơi họ là kẻ đầu tiên xả như chưa bao giờ được xả. Đến đây, cuộc săn trinh gái trẻ bắt đầu và trẻ đến đâu dường như cũng không đủ. Không phải để lấy đỏ như tôi ngớ ngẩn tưởng. Mà để giải đen với hiệu ứng cao nhất và chất lượng đáng tin cậy nhất, thậm chí có thể chữa lành Aids.
2.
Hồi tôi lấy chồng, một anh bạn nhà văn chân thành chúc mừng rằng: “Hoài may mà có thằng Tây khuân đi, chứ ở nhà thì ế.” Tôi chưa bao giờ lọt vào dù chỉ vòng ngoài cùng của tấm bia sắc đẹp mà đàn ông mê bắn. Đi cạnh chồng ở Hà Nội, tôi đã quen nghe bình luận ngay trước mũi rằng bọn Tây có cái gu kì cục, thiếu gì gái Việt đẹp mà chọn toàn những cô không ra gì. Nên khi nghe anh bạn nói thế tôi chỉ lo cho anh, lỡ lời rồi phải nói tiếp đúng điều mình nghĩ thì thật bất tiện. Nhưng lời giải thích sau đó không đến nỗi khó nuốt. Anh bảo, đàn bà thông minh như tôi thì bố thằng nào dám sờ đến.
Tôi thầm cảm ơn anh vì chữ dám tế nhị. Thực tế không được nhã nhặn như thế. Thực tế là đàn ông Việt Nam không phải không dám, mà họ tránh xa những người đàn bà có nhiều hơn một phút tư duy trong đầu. Sau bao nhiêu thử thách của 200.000 năm tiến hóa cùng nhân loại cộng thêm extra bonus 4014 năm văn hiến riêng, đích hôn phối của đàn ông Việt đã hoàn toàn được xác định. Đó là một thiên thần xinh xắn, tóc dài, da trắng ở cả những chỗ hay bắt nắng và hệ thần kinh trung ương cũng trắng triệt để, làm lụng luôn tay, ngoan cả ngày lẫn đêm, hiền lành, hi sinh, chịu khó chịu thương và trên hết là chịu đựng. Không có tài khoản riêng. Không có ý kiến riêng. Không có nguyện vọng riêng. Đấy là gói basic. Tùy nhu cầu có thể đặt thêm các khoản phụ trội khác như biết đẻ con trai, tận tụy với nhà chồng, hết lòng vì sự nghiệp làm vợ và làm mẹ… Tôi đáp ứng được không đầy năm phần trăm lí tưởng ấy. May mà có thằng Tây khuân đi.
Đàn ông Việt Nam là một chủng loại đặc biệt chăng? Câu hỏi này, dù thế nào, dứt khoát nên trả lời phủ định. Trừ những cơn thỉnh thoảng lại giống, trở về thời bầy đàn cắn xé vì một tảng thịt, một góc hang, một con cái, thì hiện tại tôi thấy họ có nhiều điểm chung với giới mày râu khắp thế giới đấy chứ. Họ cũng chiếm đa số trong các câu lạc bộ quyền lực, các danh sách triệu phú và các thống kê tội phạm. Họ cũng hói, cũng liệt dương, viêm tinh hoàn, rối loạn tuyến tiền liệt và bụng càng ngày càng phệ. Họ cũng chia sẻ hai sở thích nổi bật của đàn ông mọi châu lục: những bộ ngực đàn bà đồ sộ và những chiếc xe hơi khổng lồ. Với vóc dáng nhỏ xinh nhất hành tinh, giữa những chiều kích cực đại ấy trông họ bất giác giống một bức hí họa. Nhưng can họ là vô ích, sự điên rồ này họ cũng chung với anh em bất kể giống nòi: chỉ đàn ông mới nhầm lẫn giữa size và độ lớn. Chỉ đàn ông mới có thể mắc chứng vĩ cuồng.
Gần đây có phong trào chị em so sánh trai Việt với trai ngoại quốc, đặc biệt là trai Tây. Tôi cũng biết vài phụ nữ Việt lấy chồng Đức ở đây, người tự hào thằng Tây nhà tao hiền lắm, người khoe Tây nhà em cực chăm chỉ, Tây nhà mình dễ nuôi, Tây nhà tớ trung thành…, nghe tuy hơi giống người ta khen một con ngựa, thêm kích thước, độ bền, độ khỏe nữa thì thành quảng cáo cái máy xúc, nhưng trong đó có một sự thật nho nhỏ là khá nhiều đàn ông Tây hiện đại đang được trang bị những đức tính mà khá nhiều đàn ông Việt hiện đại không phải là không sở hữu mà không thèm sở hữu. Hiền lành, chăm chỉ, chí thú gia đình, chung tình…, những phẩm chất đàn bà chán ngắt. Dù nói chung không biết mình là ai, đứng ở vị trí nào, đàn ông Việt luôn biết chắc một điều: mình là thằng đàn ông, đứng cao hơn đàn bà ít nhất dăm bảy bậc.
3.
Thật ra chẳng có điều gì khác nhau giữa trai Tây và trai Việt, trừ quỹ đạo chuyển động. Đàn ông phương Tây phần lớn hoàn toàn đơn giản: họ sống ở thế kỉ 21, tuyên ngôn ở thế kỉ 21, tư duy ở thế kỉ 21, cảm xúc ở thế kỉ 21, yêu đương ở thế kỉ 21, lấy vợ ở thế kỉ 21. Đàn ông Việt Nam phức tạp hơn gấp bội: sống ở thế kỉ 21, tuyên ngôn ở thế kỉ 30, tư duy ở thế kỉ 19, cảm xúc ở thế kỉ 18, yêu đương ở thế kỉ 20 và lấy vợ ở thế kỉ 15. Điều đáng kinh ngạc là phần lớn phụ nữ Việt Nam trong cùng một ngày chịu được chừng ấy niên đại.
© 2014 pro&contra
[1] Phần lớn mớ tín điều đỏ đen chẳng những dai dẳng tồn tại mà còn ngày càng thịnh hành trong xã hội Việt Nam cũng thế, thoạt nhìn thì rắc rối bí ẩn lắm, tưởng phải thuộc làu pho văn hóa dân tộc mới cắt nghĩa nổi, nhưng thực ra chỉ dựa trên những cảm nhận nhập nhằng, tùy tiện, không thể không gọi là ngây ngô. Cái mâm ngũ quả ngày Tết chẳng hạn: nặng trĩu ý nghĩa và biểu tượng, nào ngũ phúc, ngũ hành, nào ngũ thường, ngũ giới, nào năm mầu, năm phương, nào tổ tiên, nào phong thủy. Vậy mà rốt cuộc thì miền Bắc nhất định bày cam và chuối, miền Nam lại sợ hai thứ đó như hủi, chỉ vì chuối gần với chúi nhủi, cam mang vạ từ quýt làm cam chịu. Miền Nam cúng bằng mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung để cầu vừa đủ xài sung. Không lâu nữa người ta sẽ cúng bằng quả bí, để theo âm business.
March 5, 2014
Tội bẻ cong luật pháp
Phạm Thị Hoài
Ngày 18/11/1976, học giả Robert Havemann, nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất ở CHDC Đức, người được coi là cha đẻ tinh thần của cuộc cách mạng hòa bình năm 1989, viết một bức thư ngỏ gửi Tổng Bí thư Erich Honecker về việc bạn ông, cũng một nhà bất đồng chính kiến lừng danh, nghệ sĩ Wolf Biermann, bị cấm về nước sau chuyến lưu diễn tại Tây Đức. Havemann từng là bạn tù của Honecker thời Quốc xã, từng viết thư thỉnh cầu Honecker thả một người bất đồng chính kiến khác và được chấp thuận, từng được Honecker che chắn ở một số vụ, và dù đã bị khai trừ khỏi Đảng, cấm giảng dạy, sa thải khỏi trường đại học và Viện Hàn lâm Khoa học, tước mọi chức vụ trong đó có chức đại biểu Quốc hội, ông vẫn coi mình là một người cộng sản.
Bốn ngày sau, 22/11/1976/, tuần tin Spiegel (Tây Đức) đăng bức thư đó. Trong thư, Havemann kêu gọi Honecker cho phép Wolf Biermann được về nước, “trước hết để tránh nhục nhã và thiệt hại cho tất cả chúng ta và uy tín của đất nước ta“, bởi lẽ – nguyên văn: “tất cả những cáo buộc và nghi ngờ rằng Wolf Biermann thù địch với CHDC Đức đều hoàn toàn vô lối. Wolf Biermann đã phê phán, phê phán mạnh mẽ và sắc nhọn. Nhưng những đồng chí ưu tú nhất của chúng ta cũng đã sử dụng vũ khí phê phán mạnh mẽ không khoan nhượng, nhất là khi cần vạch ra những khuyết điểm và nhầm lẫn của chính chúng ta, chẳng phải luôn luôn là như vậy hay sao? Wolf Biermann đã phê phán theo cách đó, phê phán trong tinh thần của người cộng sản. Ai không chịu nổi những lời phê phán ấy là thừa nhận rằng mình không có gì để đáp lại ngoài bạo lực.” Ông phân tích tiếp, với chiến dịch khai trừ Wolf Biermann “các đồng chí đã biến anh ấy thành hình ảnh lí tưởng trong mắt hàng triệu thanh niên Đông Đức. Giờ đây anh ấy là hiện thân của một thứ hi vọng lớn cuối cùng về một chủ nghĩa xã hội mà những thanh niên ấy đã thôi không còn mơ ước.”
Bốn ngày sau, 26/11/1976, Tòa án huyện Fürstenwalde ra lệnh quản thúc Havemann tại gia, vì tội “hoạt động đe dọa đến an ninh và trật tự công cộng“. Nơi ở và toàn bộ gia đình ông bị 200 nhân viên An ninh Quốc gia (Stasi) thay nhau canh gác suốt ngày đêm. Ông bị cấm liên lạc với phóng viên, nhân viên ngoại giao nước ngoài và 70 công dân Đông Đức “có vấn đề” khác. Năm 1979, tòa ra tiếp lệnh khám nhà, tịch thu nhiều tài liệu và đồ đạc, phạt ông một khoản tiền lớn, 10.000 Mark Đông Đức, với tội danh vi phạm Luật Ngoại tệ, vì ông đã cho xuất bản nhiều tác phẩm ở nước ngoài. Đơn kháng án của ông bị bác. Luật sư của ông bị tước quyền hành nghề. Ba năm sau, 1982, Havemann qua đời.
So với ước chừng tổng cộng 250.000 tù nhân chính trị trong vòng 40 năm ở CHDC Đức, những người thậm chí bị tống giam chỉ vì buông một lời nói kháy chính quyền hay Anh Cả Liên Xô, ông Havemann, “kẻ thù số 1 của nhà nước”, với ba năm quản thúc và một khoản tiền phạt có thể coi là còn được luật pháp của đất nước chuyên chính vô sản này nương nhẹ. Song gần hai mươi năm sau khi ông qua đời, 7 thẩm phán và công tố viên của nhà nước Đông Đức đã tham gia vào hai vụ án kết tội ông, đến lượt họ, lại phải ra tòa vì tội Rechtsbeugung: lợi dụng luật pháp, cưỡng đoạt luật pháp, lũng đoạn luật pháp, tha hóa luật pháp, nắn bóp và co giãn luật pháp… để cản trở công lí, nói nôm na là bẻ cong luật pháp.
Một trong những điểm then chốt trong hiệp thương thống nhất giữa hai nhà nước Đức sau Chiến tranh Lạnh là nguyên tắc hòa giải. Không được dùng luật pháp của Tây Đức để phán xử thực tiễn xã hội Đông Đức. Chỉ có thể dùng chính luật pháp của Đông Đức để khôi phục công lí cho những gì đã diễn ra tại đó. Thực tế áp dụng nguyên tắc hòa giải này, sau một phần tư thế kỉ, là một quá trình vô cùng gian nan, đầy tranh cãi, với những câu hỏi còn lại không thể trả lời, những nguyện vọng không thể đáp ứng, những vấn đề khó lòng giải quyết thỏa đáng. Song nó tránh cho nước Đức thống nhất, sau gần nửa thế kỉ chia cắt dân tộc, cảnh hận thù và chia rẽ của “bên thắng cuộc” và kẻ bại trận.
Vụ án xử 7 cán bộ của ngành tư pháp Đông Đức nói trên cho thấy sự phức tạp ấy và là một bài học đáng nghiền ngẫm về tư pháp chính trị. Nó kéo dài gần ba năm, từ 1997 đến 2000. Đầu tiên, Tòa án Tiểu bang Frankfurt/Oder xử cho cả 7 bị cáo trắng án, Viện Công tố kháng nghị. Tiếp theo, Tòa án Tối cao Liên bang ra quyết định hủy bản án, chuyển vụ án về một tòa án tiểu bang khác để xét xử lại. Cuối cùng, Tòa án Tiểu bang Neuruppin, sau 26 phiên tòa, đã kết án 2 trong số 7 người nói trên về tội bẻ cong luật pháp, kết hợp với tội tước đoạt tự do của người khác, liên quan tới lệnh quản thúc Havemann.
Theo kết luận của tòa, hai cán bộ tư pháp của nhà nước Đông Đức này đã biết rõ rằng việc truy tố nhà bất đồng chính kiến Havemann không phải là để thực thi một công lí trên cơ sở xác định sự thật bằng những công cụ của luật pháp, mà trước hết và chủ yếu là để vô hiệu hóa hay triệt tiêu một đối thủ chính trị. Họ đã tham dự với đầy đủ ý thức vào một kịch bản soạn sẵn, được thỏa thuận trước với những cơ quan và cá nhân đứng ngoài ngoài hệ thống tư pháp, với bản án đã định trước ngay từ đầu. Với những bản án bỏ túi và phiên tòa trình diễn đó, họ đã vi phạm chính luật pháp của Đông Đức, nơi nguyên tắc “xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” cũng được long trọng ghi trên mặt giấy.
*
Khi nhận lệnh quản thúc, ông Havemann tuyên bố: “Tôi đâu có ý định rời khỏi CHDC Đức, vì mỗi bước đi ở đây là một bước ta có thể chứng kiến chế độ đã và đang đánh mất toàn bộ uy tín, chỉ cần vài sự kiện và cú huých từ bên ngoài là đủ để vứt Bộ Chính trị vào sọt rác.” Mười ba năm sau, Bộ Chính trị Đảng SED quả nhiên biến mất. Cựu Tổng Bí thư Honecker cùng vợ tháo chạy khỏi đất nước, trốn vào Đại sứ quán Chile tại Moskva xin tị nạn chính trị.
Nước Đức mất gần 2 thập niên để giải quyết di sản của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Đông Đức. 374 vụ bẻ cong luật pháp với 618 bị cáo được đưa ra xét xử, trong đó 5 người bị phạt tiền, 176 người bị kết án tù, trong đó có 63 thẩm phán, 56 công tố viên, 5 thẩm phán và công tố viên thuộc tòa án quân sự và 41 nhân viên tư pháp khác. 8 trong số này chịu án tù từ 5 đến 10 năm.
Thật khó hình dung, mười, hai mươi năm, ba mươi năm hay năm mươi năm nữa chúng ta sẽ làm gì với di sản của nền tư pháp Việt Nam hiện tại. Những thẩm phán, đại diện Viện Kiểm sát và các nhân viên tư pháp tham gia các vụ xét xử những người bất đồng chính kiến, mới hôm kia là blogger Trương Duy Nhất, bằng những bản án bỏ túi rồi sẽ phải chịu trách nhiệm gì? Chúng ta hay tự an ủi rằng họ sẽ phải đứng trước tòa án của lương tâm và tòa án của lịch sử. Song lương tâm thường phán quyết có lợi cho chủ của nó. Còn đợi lịch sử xếp xong lịch xét xử thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã hết từ lâu.
© 2014 pro&contra
March 3, 2014
Vài suy nghĩ nhỏ về cuộc chiến sau cuộc chiến
Trần Hoàng
Sau chiến tranh Việt Nam, tại nước Mỹ đã xuất hiện hàng loạt cuốn sách, bài báo, bộ phim tài liệu nói tới cuộc chiến này, tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến kết cục bi đát của nó. Nhưng không ở đâu việc nghiên cứu được tiến hành sâu rộng, nghiêm túc như ở Bộ Quốc phòng Mỹ. Chiến tranh Việt Nam là đề tài của hàng trăm, nếu không muốn nói hàng nghìn, công trình nghiên cứu, phân tích, luận án… trong các cơ quan, tổ chức, viện nghiên cứu, trường học thuộc Pentagon.
Giới chuyên gia chiến lược quân sự cơ bản thống nhất với nhau trong nhận định rằng một trong những yếu tố quyết định nhất dẫn đến thất bại của Mỹ trong cuộc chiến trên là sai lầm cơ bản trong cách hiểu, cách định nghĩa một cuộc chiến tranh. Trong khi phía Bắc Việt Nam luôn hiểu rõ, luôn bám sát chiến lược coi cuộc chiến tranh “thống nhất đất nước” của họ là một cuộc chiến toàn diện, cả về mặt quân sự, tư tưởng, chính trị, tuyên truyền, ngoại giao, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục…, phải được huy động lực lượng tham gia từ tất cả các tầng lớp, giới chức, nghề nghiệp, thành phần trong nhân dân – tức là một cuộc chiến tranh tổng lực - thì người Mỹ và đồng minh của họ ở miền Nam Việt Nam hầu như chỉ chú trọng tới lĩnh vực quân sự, hoặc là bỏ qua, hoặc không quan tâm đúng mức tới các lĩnh vực khác, có quá nhiều lơi là trước hết là trong tuyên truyền, văn hóa, nghệ thuật…, thậm chí ngay cả trong lĩnh vực chính trị.
Nếu mở rộng cách nhìn nhận chiến tranh tổng lực theo phương diện địa lý thì để đảm bảo thắng lợi, bất kỳ một cuộc chiến tranh nào cũng phải được tiến hành tại mọi nơi, mọi địa điểm, quốc gia và khu vực có thể có liên quan. Nơi đây ẩn chứa nguyên nhân thất bại thứ hai, không kém phần nghiêm trọng của người Mỹ: các nhà lãnh đạo nước này không quan tâm đúng mức tới công tác chính trị, tuyên truyền, giải thích về các hoạt động can thiệp quân sự, chính trị của nước Mỹ ở cái quốc gia nhỏ bé nằm ở châu Á xa xôi kia cho chính người dân nước họ, vì thế không những họ không được ủng hộ của công luận, mà ngược lại, trở thành mục tiêu công kích, phản đối, đấu tranh của các phong trào chống chiến tranh tại Mỹ có sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân, trước hết là của thế hệ trẻ. Thất bại ở Việt Nam vì thế có thể được hiểu là kết quả của áp lực chính trị-xã hội trong nội bộ nước Mỹ.
Sẽ không bàn luận ở đây về việc người Mỹ đã áp dụng những bài học kinh nghiệm rút ra được từ chiến tranh Việt Nam trong các cuộc chiến sau này như chiến tranh Iraq, Afghanistan… ra sao. Nhận thức chiến tranh tổng lực có thể giải thích tại sao mọi cuộc chiến tranh có tính xâm lược đều khó có thể giành được thắng lợi; công tác tuyên truyền chính trị trong người dân nước bị chiếm đóng là hầu như không thể giải quyết được.
Mở rộng ra, không chỉ các cuộc chiến tranh mà mọi cuộc đấu tranh, mọi cuộc cách mạng đều cần phải có tính tổng lực để đảm bảo thành công. Điều này cũng đúng cho phong trào đấu tranh dân chủ hiện nay ở Việt Nam. Hoạt động đấu tranh phải được tiến hành trong mọi lĩnh vực, chính trị, tư tưởng, tuyên truyền, ngoại giao, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục, thậm chí không gạt lĩnh vực quân sự ra ngoài. Cần có sự tham gia của mọi tầng lớp, giới chức trong nhân dân. Ai có mặt mạnh gì thì hoạt động trong mặt đó, người nông dân thì giữ đất, giữ ruộng cày; các nhà chuyên gia chính trị, xã hội, hay kinh tế phê phán đường lối, chính sách của nhà nước cộng sản, liên hệ, tìm kiếm và huy động áp lực từ quốc tế và nước ngoài; các nhà hoạt động xã hội tiếp xúc, giúp đỡ, tập hợp, tuyên truyền người dân; giới văn nghệ sĩ thì sáng tác truyện, thơ, đồng dao, vè, sấm…; người họa sĩ thì vẽ tranh; người thầy giáo, trong chừng mực cho phép, truyền đạt cho học sinh những kiến thức cần thiết, v.v.; mỗi người góp một phần sức. Ai không biết làm gì cụ thể thì dùng… võ mồm cũng tốt; mọi lời nói, suy nghĩ đều không mất đi mà không để lại gì, đều có tác động, hiệu quả nhất định. Niềm tin cũng rất quan trọng: mặc dù tình hình Việt Nam ngày nay u ám, chúng ta luôn tin tưởng là sẽ có thay đổi tốt đẹp trên đất nước chúng ta.
Chỉ xin đưa ra đây một thí dụ nhỏ: giá có ai giúp Hiệp hội Dân oan Việt Nam đang hình thành vẽ ra biểu tượng hay lập bài hát cho hội thì hay biết mấy. Dân ta được cho là thông minh, nếu để ý tìm tòi chắc chắn sẽ có nhiều sáng kiến hay, ý tưởng tốt hơn nữa để tăng thêm sức sống cho phong trào dân chủ. Nguyễn Trãi ngày xưa còn dùng mật và mỡ để truyền “ tin trời” kia mà! Tất nhiên là phương pháp, phương tiện càng có tính quần chúng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc thì càng tốt.
Các hoạt động, hiệp hội, tổ chức thiết nghĩ nên chú trọng tới chính sách đối ngoại (tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức nước ngoài, liên lạc, kết nghĩa với các hiệp hội, tổ chức tương tự ở các nước khác…) ngoài chính sách đối nội.
Hoạt động đấu tranh của kiều bào ở nước ngoài là rất đáng trân trọng, rất cần thiết, có thể cổ vũ sức lực, tinh thần, giúp quảng bá cho phong trào trong nước, xây dựng và tăng cường sức ép của các chính phủ nước ngoài tới chính phủ Việt Nam.
Tiếp đến, cho dù mục tiêu hàng đầu và trước mắt hiện nay là đấu tranh giành dân chủ ở Việt Nam, cũng không nên hoàn toàn chỉ chăm chút tới vấn đề này. Có lẽ là phải tính xa hơn một chút, cũng phải chú ý tới việc chuẩn bị tinh thần, trí tuệ và sức lực trước hết cho công cuộc tiếp nhận quyền lực vào tay lực lượng dân chủ và sau đó cho các bước đi tiếp theo.
Các bài học lịch sử cho thấy để công cuộc cách mạng, đấu tranh hay chiến tranh giành được thắng lợi là khó, nhưng để giữ được thành quả và đi bước tiếp cũng không kém phần khó khăn hơn chút nào. Điều này có thể được chứng minh bằng rất nhiều thí dụ, trong đó có thể kể đến diễn biến chính trị vô cùng phức tạp ở Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945, hay ở Campuchia sau thắng lợi quân sự của Việt Nam trong Chiến tranh Tây Nam, ở Afghanistan sau can thiệp quân sự của Liên bang Xô-viết, ở Iraq sau thắng lợi quân sự của Lực lượng Đa Quốc gia đứng đầu là Mỹ , ở Afghanistan sau can thiệp của NATO và đồng minh, ở Tunisia sau Cách mạng Hoa Nhài hay ở Libya sau thắng lợi của các cuộc biểu tình nổi dậy của quần chúng nhân dân năm 2011 v.v.. Trong những ngày này, chúng ta chia vui với nhân dân Ukraina đã thành công trong việc lật đổ chế độ độc tài, nhưng cũng cảm thông, sẵn sàng ủng hộ tinh thần cho họ vì biết họ đang đứng trước một công cuộc không kém phần khó khăn, quyết liệt, trong đó họ (tức là người dân) có thể không còn trực tiếp nắm kiểm soát hay tham gia quyết định nữa. Chỉ thắng lợi tiếp theo trong công cuộc này mới thực sự đảm bảo cho họ cơ hội được hưởng thụ những thành quả dân chủ mà họ xứng đáng nhận được sau những cống hiến, hy sinh trong công cuộc cách mạng.
Công việc phải giải quyết đầu tiên sau thắng lợi trong mỗi cuộc cách mạng là chuyển giao quyền lực. Đó là một quá trình vô cùng phức tạp, vô cùng tinh vi, với hậu quả sâu rộng khó lường; nhất là đối với các nước mới thoát khỏi vòng kìm kẹp của chế độ cộng sản, phải đương đầu trước sức mạnh của thể chế cũ có lực lượng rộng khắp, có thế, lực tiềm ẩn và có lợi thế về mọi mặt, lại sẵn độ khôn ngoan và không nề hà thủ đoạn. Bên thắng cuộc đứng trước một lượng vô hạn những công việc và chọn lựa phức tạp, mỗi lựa chọn đều tiềm ẩn nhiều bất lợi và nguy hiểm: làm thế nào để khôi phục, đảm bảo trật tự xã hội (trong tình trạng gần như vô chính phủ), thành lập chính phủ lâm thời với những thành phần nào, có đại diện của cộng sản hay không, có giải tán quốc hội hay không, có tạm thời tiếp nối hiến pháp và pháp luật hay không, những việc nào cần có trưng cầu dân ý, những việc gì cần phải chờ quốc hội mới, những việc gì chính phủ lâm thời phải giải quyết ngay, áp dụng thể chế chính trị nào (tổng thống, hay đại nghị, hay hỗn hợp), tổ chức tổng tuyển cử và bảo đảm tính dân chủ trong bầu cử như thế nào, những luật định nào cần phải được ưu tiên sửa đổi hay thay thế trước v.v. và v.v.. Quá trình chuyển giao quyền lực tóm lại là cuộc chiến sau cuộc chiến và không có gì chắc chắn là bên thắng cuộc sẽ một lần nữa lại thắng cuộc. Vì thời gian lúc đó không ủng hộ, rất cần thiết để có mường tượng trước về những công việc phải làm, tính toán và cân nhắc những tình thế có thể xảy ra, cũng có các hướng giải quyết nhất định; nếu vừa làm vừa tính thì hậu quả có thể sẽ vô cùng tai hại, khó có thể sửa chữa được.
Đó là chưa nói đến các bước đi tiếp trong công cuộc cải cách chính trị, xã hội và kinh tế.
Tôi có anh bạn là giáo viên, ông này lấy vợ muộn, tính hài hước, hay có những so sánh, liên tưởng rất thú vị. Bàn về vấn đề này ông ấy nhận xét: “Cái này cũng như việc lấy vợ, lấy được rồi mà không cẩn thận thì có mà khổ, có mà nhục, có mà ăn cám…”
Nhìn nhận thấy những khó khăn, phức tạp, nguy hiểm trong quá trình chuyển giao quyền lực sau mỗi thay đổi chế độ không nên cho chúng ta có bi quan: “Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh”, mà chỉ lưu ý chúng ta phải có một cái nhìn hiện thực, có tinh thần chuẩn bị sẵn sàng.
Tôi tin chắc rằng những suy nghĩ trên đã được nhiều người trong chúng ta cân nhắc tới, để tâm tới và đã có đường hướng giải quyết thỏa đáng. Được như vậy thì không còn gì bằng và có thể hoàn toàn yên tâm dẹp bỏ ý nghĩ không mấy lạc quan: “Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu”.
© 2014 Trần Hoàng & pro&contra
March 2, 2014
Đấu tranh vì lương tâm: Phương pháp của Gandhi (6)
Joan V. Bondurant
Phan Trinh dịch
Xem kì 1, kì 2, kì 3, kì 4, kì 5 và toàn bài trong bản PDF
5.
ĐẤU TRANH TOÀN QUỐC CHỐNG LUẬT MUỐI [1]
Ghi chú: Cuộc đấu tranh vì lương tâm chống luật muối là một phần của phong trào bất tuân dân sự kéo dài một năm, từ 1930 đến 1931. Những dòng liệt kê dưới đây đề cập đến cả phong trào, mặc dù nhiều chi tiết của cuộc đấu tranh rộng lớn này đã được lược bớt.
Ngày tháng, thời gian kéo dài, địa điểm:
(1) Tháng 3/1930 đến tháng 3/ 1931.
(2) Bất tuân dân sự mở rộng đã diễn ra liên tục trong một năm.
(3) Đây là phong trào toàn quốc, với tổng hành dinh đặt ở Bombay. Các hành vi đấu tranh vì lương tâm được phát động ở mọi tỉnh thành.
Mục tiêu:
(1) Mục tiêu cấp bách: Huỷ bỏ Đạo luật Muối. Những quy định của đạo luật này cho phép chính phủ độc quyền về muối. Số thu từ Thuế Muối vào lúc đó lên đến 25.000.000 đô-la, trên tổng số thuế thu được là 800.000.000 đô-la. Luật về muối đã gây khó khăn rất lớn cho người dân, nhất là dân nghèo, vì là khoản thuế đánh trên một nhu yếu phẩm.
(2) Mục tiêu dài hạn: Đạo luật Muối được Gandhi chọn để chống đối trong phong trào bất tuân dân sự không chỉ vì Đạo luật này tự bản chất là bất công, mà còn vì đây là biểu tượng của một chính quyền ngoại lai không được lòng dân, cũng không vì dân. Nhà cầm quyền Anh mô tả cuộc đấu tranh này nhằm mục tiêu “không gì khác hơn là làm tê liệt toàn bộ guồng máy hành chính…” Thực ra, mục tiêu tối hậu của phong trào bất tuân dân sự này không gì khác hơn là đòi độc lập hoàn toàn.
Người tham gia và lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm:
(1) Gandhi và các lãnh tụ khác của Đảng Quốc đại Ấn Độ
(2) Nhóm lãnh đạo thứ cấp: Trong giai đoạn đầu, việc tham gia trực tiếp được giới hạn và dành cho những thành viên đã qua đào tạo thuộc cộng đoàn của Gandhi tại Ahmedabad, do chính Gandhi tuyển chọn, để thực hiện cuộc hành hương chân đất, đi bộ đến biển làm muối. Họ được mô tả như “những chiến sĩ được trui rèn như thép để tuân thủ kỷ luật và đương đầu với những gian khó mà cuộc đi bộ ba trăm cây số chắc chắn sẽ gây ra.”
Nhiều nghị sĩ có tầm ảnh hưởng lớn trở thành người tổ chức bất tuân dân sự tại các địa phương khác khắp Ấn Độ. Trong số phải kể đến Rajagopalachariar ở Tamilnad, Vallabhbhai Patel hoạt động trên toàn vùng Gujarat, Jawaharlal Nehru ở Các Tỉnh Thống nhất, Satish Chandra Das Gupta ở Bengal, Konda Venkatappaya ở Andhra, và Gopabandhu Chowdhury ở Utkal (Orissa).
(3) Người tham gia: Sau khi các vụ bất tuân luật muối đầu tiên nổ ra thì người Ấn khắp nơi trên toàn quốc đã tham gia.
(4) Đặc tính của người tham gia: Theo báo cáo của chính phủ thì đại đa số người tham gia là người theo Ấn Độ giáo, nhưng cũng có những người Hồi giáo, nhất ở vùng Biên giới. Quan chức chính quyền lúc ấy bày tỏ lo lắng khi “cộng đồng doanh nhân và công nghiệp theo Ấn Độ giáo cũng bày tỏ tình cảm ủng hộ” và yểm trợ tài chính cho phong trào. Một yếu tố “bất ngờ” khác trong hàng ngũ người đấu tranh là sự tham gia của rất nhiều phụ nữ Ấn Độ. “Hàng ngàn người – nhiều chị xuất thân từ các gia đình có uy tín và học thức cao – bất ngờ rời khỏi những căn nhà kín cổng cao tường của họ, cũng có chị rời khỏi những khu cách ly phụ nữ họ đang sống, để tham gia các cuộc biểu tình của Đảng Quốc đại và giúp tạo thành những hàng rào người đấu tranh…”
Người tham gia và lãnh đạo hàng ngũ đối phương:
(1) Quan chức chính quyền Ấn Độ.
(2) Cảnh sát, Anh lẫn Ấn.
(3) Một số đơn vị quân đội.
Tổ chức và hoạt động hỗ trợ:
(1) Vai trò của Đảng Quốc đại Ấn Độ: Chiến dịch được tiến hành như một phần của cuộc đấu tranh toàn diện nhằm giành lại độc lập cho Ấn Độ, được đảng chính trị đối lập lớn nhất Ấn Độ lúc bấy giờ thực hiện, và được lên kế hoạch phù hợp với đường lối tổ chức và hiến chương của đảng. Đảng Quốc đại đã trao toàn quyền và trách nhiệm tổ chức, lãnh đạo chiến dịch cho Gandhi (theo nghị quyết ngày 21/3/1930)
(2) Chuyển giao lãnh đạo: Quyền lực rộng rãi được trao cho chủ tịch Đảng Quốc đại (lúc bấy giờ là Jawaharlal Nehru) để thay mặt cho ủy ban thường vụ trong trường hợp ủy ban không họp được. Chủ tịch đảng được trao quyền đề cử người thay thế trong trường hợp mình không thể tiếp tục hoạt động, người thay thế cũng có quyền đề cử tương tự. Quyền tương tự cũng được trao cho lãnh tụ Đảng Quốc đại ở các tỉnh và địa phương.
(3) Quần áo tự dệt: Việc mặc quần áo tự dệt bằng tay trở nên một phần không thể thiếu đối với mọi người tham gia đấu tranh vì lương tâm – trang phục dệt tay này đã trở thành một thứ đồng phục cho Đảng Quốc đại và cho cả phong trào.
(4) Những mặt khác của hoạt động hỗ trợ: Công tác giúp đỡ xã hội và hỗ trợ tự lực cánh sinh được xem là một trong những cách để quảng bá lý tưởng của cuộc đấu tranh. Gandhi tin rằng người đấu tranh vì lương tâm sẽ “tìm thấy mình ở vào một trong ba trường hợp sau”: “1. Ở tù, hay ở một nơi tương tự như tù, hoặc 2. Tham gia bất tuân dân sự, hoặc 3. Dệt vải bằng tay, hoặc đang tham gia một hoạt động hỗ trợ nào đó góp phần vào công cuộc giành độc lập.”
Chuẩn bị trước khi hành động:
(1) Công luận về mục tiêu độc lập: Trước khi tung ra chiến dịch chống Đạo luật Muối, ý thức về nền độc lập toàn diện đã được đưa ra thảo luận và nghiên cứu trong nội bộ Đảng Quốc đại. Ngày 26/1, thành viên của Đảng Quốc đại, họp tại Lahore, đã cam kết “thực hiện những hướng dẫn do Đảng Quốc đại đưa ra, nhằm đạt được nền độc lập toàn diện (Purna Swaraj).”
(2) Các khoá huấn luyện: Tình nguyện viên tham gia đấu tranh vì lương tâm trải qua các cuộc huấn luyện về kỹ thuật đối đầu trực tiếp, nhất là về cách kiểm soát đám đông. Người tham gia được tập trận thường xuyên, dù đó chỉ là tập trận không vũ khí.
(3) Lên kế hoạch bất tuân dân sự: Các luật lệ về muối được chọn làm mục tiêu bất tuân. Gandhi dự định dẫn đầu đoàn hành hương đi bộ đến bờ biển, ở đó người đấu tranh vì lương tâm sẽ làm trái quy định của chế độ độc quyền muối bằng cách tự lấy nước biển làm muối. Vallabhbhai Patel được chọn để chuẩn bị lộ trình cho cuộc đi bộ dự kiến. Patel đã lên đường đi dọc lộ trình, đi đến đâu, ông đều phổ biến cho người dân tại chỗ mục tiêu của chiến dịch và hướng dẫn họ về các nguyên tắc của đấu tranh vì lương tâm. Quần chúng cũng được khuyến khích tham gia các hoạt động hỗ trợ, tránh xa rượu chè hút sách và vượt qua nạn kỳ thị đẳng cấp. (Đến ngày 7/3/1930 Patel bị bắt.)
(4) Cam kết Đấu tranh vì Lương tâm: Uỷ ban Thường vụ Đảng Quốc đại Toàn cõi Ấn Độ, trong cuộc họp tại Ahmedabad ngày 21/3//1930 đã soạn thảo lời cam kết dưới đây dành cho những tình nguyện viên tham gia đấu tranh vì lương tâm:
Tôi tự nguyện tham gia chiến dịch bất tuân dân sự vì độc lập của Ấn Độ do Đảng Quốc đại tiến hành.
Tôi chấp nhận Tôn chỉ của Đảng Quốc đại, đó là giành độc lập toàn diện cho Ấn Độ, bằng nỗ lực của toàn dân Ấn Độ và bằng những phương pháp đấu tranh ôn hoà và hợp pháp.
Tôi sẵn lòng và tự nguyện vào tù cũng như chấp nhận những đau khổ và hình phạt khác có thể nhắm vào tôi vì tôi tham gia chiến dịch này.
Trong trường hợp vào tù, tôi sẽ không đòi hỏi bất cứ trợ giúp tài chính nào cho gia đình tôi từ ngân quỹ của Đảng Quốc đại.
Tôi sẽ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh của những người có trách nhiệm điều hành chiến dịch.
Những hành động mở đầu:
(1) Thông báo bất tuân dân sự: Thông qua nghị quyết về độc lập của Đảng Quốc đại – đưa ra tại Lahore và sau đó được quảng bá và thảo luận rộng rãi – chủ trương của Đảng Quốc đại nhằm đấu tranh cho độc lập, bằng bất tuân dân sự khi cần thiết, đã được biết đến rộng rãi.
(2) Thư của Gandhi gửi Toàn quyền Irwin: Trong thư gửi cho Ngài Irwin ngày 2/3/1930, Gandhi thông báo cho vị Toàn quyền kế hoạch đấu tranh vì lương tâm và trình bày cho ông biết những thống khổ người dân Ấn Độ đang phải gánh chịu. Gandhi cho biết bất bạo động sẽ có thể là “một sức mạnh hết sức chủ động”. Ông báo cho vị Toàn quyền rằng mục tiêu của ông là “sẽ kích hoạt sức mạnh này, nhằm chống lại sự bạo động từ phía nhà cầm quyền Anh tại Ấn cũng như bạo động tự phát từ những kẻ xúi giục bạo động khác… Đấu tranh bất bạo động sẽ diễn ra dưới hình thức bất tuân dân sự, và trong giai đoạn này sẽ chỉ dành riêng cho những thành viên của Cộng đoàn Đấu tranh vì Lương tâm, nhưng phong trào cũng nhắm mục tiêu tối hậu là lan rộng và bao trùm tất cả những ai tự nguyện tham gia phong trào với những giới hạn nhất định của nó.”
(3) Tối hậu thư: Trong lá thư, Gandhi cũng đưa ra đề nghị thương lượng để giải quyết xung đột, nếu không thương lượng được thì ông sẽ dẫn đầu cuộc đấy tranh vì lương tâm. Ông cũng cho biết chính xác ngày tháng ông và người cộng sự sẽ bất tuân những quy định của Đạo luật Muối. Ông nói với vị Toàn quyền rằng: “Tất cả tuỳ thuộc vào quyết định của ông. Ông có thể bắt tôi để ngăn cản tôi. Nhưng tôi hy vọng sẽ có hàng chục ngàn người sẵn sàng, với phong cách đường hoàng, họ sẽ tiếp tục việc tôi làm là bất tuân Đạo luật Muối, họ cũng sẵn sàng chấp nhận mọi trừng phạt của Luật pháp và không làm tổn hại đến uy tín của Luật pháp.” Gandhi cũng nói ông rất hoan nghênh mọi cuộc thảo luận thêm về vấn đề này với giới hữu trách, và lá thư của ông không hề là một lời đe dọa, mà chỉ là việc làm “đơn giản, đúng bổn phận thiêng liêng và kịp thời của một người thực hành bất tuân dân sự.” Một thanh niên người Anh (tên là Reginald Reynolds) tham gia Cộng đoàn Đấu tranh vì Lương tâm, đã được cử đi giao lá thư này.
Hành động:
(1) Đi bộ đến biển: Vào ngày 12/3, Gandhi và những chiến hữu đấu tranh vì lương tâm đã rời Ahmedabad để đến Dandi nằm ven biển. Dọc lộ trình ông đi qua, ông kêu gọi dân làng hãy làm các công việc hỗ trợ công ích, giữ gìn tinh thần bất bạo động và tham gia bất tuân dân sự, theo gương việc bất tuân dân sự đầu tiên sẽ diễn ra tại Dandi. Cuộc đi bộ 300 cây số được xem như một hình thức tự vấn lương tâm và kỷ luật bản thân để bắt đầu tiến hành bất tuân dân sự. Cuộc đi bộ cũng nâng tầm quan trọng của vấn đề và thu hút được dư luận của người dân cả nước.
(2) Bắt đầu bất tuân dân sự: Đoàn người đi bộ đặt chân đến Dandi vào ngày 5/4. Buổi sáng hôm sau, sau buổi cầu nguyện, họ ra biển, lấy nước biển làm muối, và như thế, chính thức bất tuân các luật lệ về muối.
(3) Gandhi gửi thông điệp cho báo chí: Sau khi bất tuân luật muối, Gandhi tuyên bố giờ đây tất cả mọi người đều có thể sản xuất muối ở bất cứ nơi nào họ muốn, và sẵn sàng chấp nhận bị đàn áp vì làm như thế. Dân làng khắp nơi được hướng dẫn về ý nghĩa và tác hại của thuế muối và hướng dẫn cách làm muối.
(4) Phổ biến tờ rơi: Các tờ hướng dẫn cách làm muối được phổ biến rộng rãi tại nhiều nơi trên toàn quốc.
(5) Phản ứng của người dân: Nehru đưa ra nhận xét này về phản ứng của người dân: ”Như một dòng suối đột ngột tuôn trào”, khắp mọi nơi mọi người đều làm muối. Họ tận dụng “nồi niêu soong chảo, mọi thứ có thể để làm muối và thành công trong việc tạo ra được những mẻ muối thô, rồi họ nâng muối trong tay, đưa lên vẫy trên cao cho mọi người thấy trong niềm vui chiến thắng. Những mẻ muối này thường được bán đấu giá với giá rất cao.” Nehru cũng nói điều quan trọng nhất là cho thấy sự bất tuân đối với “Đạo luật Muối cực kỳ phi lý”, và rằng “Khi chứng kiến sự phấn khích lan tràn nhanh hóng của quần chúng và việc làm muối lan ra mạnh và nhanh như cháy rừng, thì quả thật chúng tôi cũng cảm thấy thẹn thùng và xấu hổ vì đã hoài nghi, đã đặt vấn đề với Gandhi về hiệu quả của phương pháp này khi ông đưa ra thảo luận. Chúng tôi thật sự ngưỡng mộ tài năng tuyệt vời của Gandhi trong việc truyền cảm hứng đến khối quần chúng lớn lao và khiến họ dự phần vào một hành động rất có tổ chức.”
(6) Bãi thị: Cứ mỗi lần có các lãnh tụ đấu tranh vì lương tâm bị bắt là các chủ cửa hiệu trên toàn quốc lại đóng cửa, bãi thị.
(7) Từ chức: Đông đảo các trưởng thôn, xã trưởng và công chức cấp thừa hành đã từ chức hàng loạt để biểu lộ tình cảm dành cho cuộc đấu tranh vì lương tâm.
(8) Hành động biểu tượng: Trong rất nhiều vùng miền tại Ấn Độ, các cuộc biểu tình lớn và đầy ý nghĩa đã được tổ chức. Tại Bombay, một “hình nộm” đại diện cho Đạo luật Muối đã được quăng xuống biển như biểu tượng rằng Đạo luật Muối do người Anh đặt ra đã được khai tử trên đất Ấn Độ.
(9) Nối tiếp vai trò lãnh đạo: Jawaharlal Nehru bị bắt vào ngày 14/4, và được thay thế bởi cha của ông, ông Motilal Nehru. Ở những nơi khác, các lãnh tụ đấu tranh vì lương tâm được nối tiếp bằng hình thức bổ nhiệm sau khi người lãnh đạo trước đó bị bắt. Gandhi cũng bị bắt vào ngày 5/5, và được Abbas Tyabji nối tiếp.
(10) Không đóng thuế: Tại một số địa phương, như ở Bardoli, một chiến dịch không đóng thuế đã được phát động và thực hiện.
(11) Hành động để kiểm soát bạo loạn: Các nhà lãnh đạo đã hết sức tìm cách duy trì đặc tính bất bạo động của cuộc đấu tranh vì lương tâm. Khi bạo loạn nổ ra tại Karachi và Calcutta, Gandhi đã công bố (ngày 17/4) rằng: “Nguyên lý bất bạo động nghiêm ngặt vẫn phải được duy trì bằng bất cứ giá nào, để chống lại bạo động cả từ phía người dân, chứ không chỉ bạo động từ phía chính quyền.” Sau đó (ngày 26/4) Gandhi thông báo rằng nếu những người tham gia đấu tranh vì lương tâm không đáp ứng được những điều kiện cơ bản đã đề ra, thì chính ông sẽ thực hành đấu tranh vì lương tâm chống lại họ.
(12) Gandhi gửi lá thư thứ hai đến vị Toàn quyền: Trong nội bộ chính quyền cũng diễn ra một hình thức bất hợp tác nào đó, vì họ đã từ chối không cho bắt Gandhi trong giai đoạn đầu của chiến dịch. Vào tuần đầu tháng 5, Gandhi trình bày trong lá thư thứ hai rằng hành động kế tiếp của ông sẽ là đi đến Dharsana, nơi chính quyền có một nông trại làm muối rất lớn. Khi đến đó, ông sẽ đòi quyền sở hữu nông trại muối này. Ông cũng cho biết, Toàn quyền có thể ngăn cản cuộc “đột nhập” này bằng một trong ba cách như sau:
Bãi bỏ Đạo luật Muối
Bắt ông và những người đấu tranh, nhưng tôi hy vọng rằng người dân đất nước này sẽ đứng lên, thế chỗ cho từng người bị bắt.
Dùng côn đồ để trấn áp tàn độc, nhưng tôi hy vọng rằng người dân đất nước này sẽ hiên ngang, không ngừng thế chỗ cho những cái đầu chẳng may bị đánh vỡ.
(13) Đột nhập vào nông trại muối: Sau khi Gandhi bị bắt vào ngày 5/5 (ngay lúc nửa đêm), thì những người tình nguyện, do một số nhân sĩ có uy tín của Đảng Quốc đại dẫn đầu, đã diễu hành tiến về nông trại muối, bao vây và tiến vào nông trại. Cảnh sát đánh gục những người đấu tranh tự nguyện, nhưng người này ngã xuống thì người kia tiến lên thay chỗ. Nhiều đội cứu thương có tổ chức đã làm việc cật lực để cứu chữa nạn nhân.
(14) Thuyết phục cảnh sát bằng bất bạo động: Trong suốt thời gian người đấu tranh vì lương tâm bị đánh đập khi tràn vào nông trại muối, họ đã tự chế không chống cự, nhiều người cũng không hề tránh đòn. Họ tràn ngập các bãi chứa muối, hết đợt người này đến đợt người khác. Bất cứ khi nào có thể, họ đều kêu gọi cảnh sát theo về phía họ. Báo cáo cho biết nhiều cảnh sát đã chùn tay, ngừng tay, không tấn công đánh đập nữa. Một nhà báo Mỹ, ông Negley Farson, kể lại chuyện một người gốc Sikh, đầu mình đầy máu vì bị một trung sĩ cảnh sát đánh đập mạnh tay đã ngã xuống đất. Người cứu thương vội chạy đến, đắp đá lạnh vào mặt anh, nhà báo kể tiếp “… anh ta nhìn chúng tôi, mỉm một nụ cười dù mặt đầy máu me, rồi anh ta đứng dậy, đưa mặt ra để chịu những cú đánh tiếp nối…” Viên trung sĩ cảnh sát, lúc này “người ướt đầm mồ hôi vì vừa đánh đập cật lực, mồ hôi thẫm cả đai da vắt vai, cạ bẩn cả áo đồng phục trắng anh đang mặc. Tôi nín thở, tim ngưng, miệng há hốc nhìn anh cảnh sát. Anh vung tay ra sau chuẩn bị giáng mạnh một cú kết liễu – nhưng rồi, anh đã từ từ hạ ‘tay xuống thả xuôi theo hông. Anh thều thào ‘Vô ích thôi!’ Rồi anh quay nhìn tôi, nhoẻn nửa miệng cười như bẽn lẽn và nói: ‘Không thể nào đánh được một người khi hắn chỉ đứng im cho mình đánh như thế!’ Nói đoạn, viên cảnh sát đưa tay lên, chào thua anh người Sikh kia, rồi đi mất.”
(15) Tẩy chay kinh tế: Khi gió mùa và mưa đến, cuộc bao vây nông trại muối ngưng lại, thay bằng hình thức bất tuân dân sự khác, gồm cả tẩy chay hàng ngoại, đặc biệt là quần áo. Các cửa tiệm quần áo và rượu liên tục bị bao vây.
(16) Bất tuân chỉ thị của chính quyền: Khi chiến dịch diễn ra, chính quyền đã ban hành các chỉ thị đặc biệt nhằm đè bẹp việc quảng bá cuộc đấu tranh ra công chúng và giới hạn đám đông tụ tập. Nhưng những người đấu tranh đã liên tục bất tuân các chỉ thị này bằng phong trào mọi người tự nguyện vào tù.
(17) Những hoạt động liên tục: Chiến dịch lan toả rộng rãi và được tiến hành suốt năm với nhiều hình thưc bất hợp tác và bất tuân dân sự khác nhau.
(18) Đỉnh điểm của chiến dịch: Sau các cuộc thảo luận, Gandhi và Toàn quyền đa đi đến một thoả thuận. Thoả thuận giữa Gandhi và Irwin được phổ biến vào ngày 5/3/1931.
Phản ứng của đối phương:
(1) Bắt bớ: Ban đầu, chính quyền tránh bắt bớ hàng loạt, một phần vì để đối phó với chủ trương “tự nguyện vào tù” của cuộc đấu tranh vì lương tâm. Tuy nhiên, cuối cùng, cũng có hàng ngàn người đấu tranh vì lương tâm bị bắt, trong số có hàng trăm vị lãnh đạo quan trọng của Đảng Quốc đại.
(2) Hành vi của cảnh sát: Dựa trên những lời khai báo, tường trình của cả hai phía trong chiến dịch này, có thể thấy rõ là cảnh sát đã phản ứng quyết liệt và đã dùng vũ lực. Báo cáo chính thức từ chính quyền không công nhận các vụ lạm quyền, quá tay của cảnh sát, nhưng đông đảo những người quan sát ngoại quốc đã lên tiếng cho thấy điều ngược lại mới đúng. Người viết tiểu sử cho Toàn quyền Irwin chép rằng: “Các Viên chức cảnh sát Châu Âu, vì bị kích động và quá tải, không phải lúc nào cũng cố gắng kiềm chế nhân viên của mình.” Trong lá thư gửi cho Toàn quyền Irwin, Gandhi viết: “cảnh sát cấp dưới rất thường xuyên hành xử man rợ, và trong một số trường hợp họ còn xâm hại tình dục người đấu tranh nữa.” Một nhà báo Mỹ, ông Webb Miller, tường trình rằng sau vụ tràn ngập nông trại muối, ông đếm được trong bệnh viện 320 người bị thương, “nhiều người vẫn còn bất tỉnh vì chấn thương sọ não, nhiều người quằn quại đau đớn vì bị đá vào bọng đái và bụng…”
(3) Quyết tâm của chính quyền: Tuyên bố trước lưỡng viện quốc hội vào ngày 9/7/1930, Toàn quyền Irwin khẳng định rằng cuộc đấu tranh của quần chúng “không có gì lạ mà chính là sử dụng bạo lực dưới một hình thức khác, và khi họ đã công khai mục tiêu là làm cho chính quyền bất lực, thì chính quyền không còn cách khác mà phải kháng cự, hoặc là thoái vị.” Và ông kết luận chính quyền phải “chiến đấu chống lại chúng bằng mọi sức mạnh có thể.”
(4) Sắc lệnh đặc biệt: Để phần nào kiểm soát tình hình, chính quyền đã ban hành một loạt những sắc lệnh, gồm cả sắc lệnh kiểm duyệt báo chí và chặn đứng, tịch thu những tài liệu in bất lợi cho mình. Một số địa phương còn cấm cả dân chúng đội mũ trắng theo kiểu Gandhi thường đội.
(5) Toàn quyền loan báo kế hoạch thương lượng qua Hội nghị Bàn tròn: Toàn quyền Irwin loan báo vào ngày 12/5/1930 rằng ông đang cho chuẩn bị các bước để triệu tập một hội nghị tại Luân Đôn, Anh Quốc, quy tụ đại diện các bên để thảo luận về việc sửa đổi hiến pháp cho Ấn Độ.
(6) Tiếp tục trấn áp đấu tranh bất bạo động: Trong suốt những tháng đầu năm 1931, chính quyền tiếp tục trấn áp các cuộc bất tuân dân sự bằng hình thức bắt bớ, bắn, đánh đập bằng gậy gộc, và những hình thức bạo lực khác của lực lượng cảnh sát.
(7) Thỏa thuận giữa Gandhi và Irwin: Bao gồm việc hủy bỏ các sắc lệnh và trả tự do cho những người đấu tranh vì lương tâm bị bắt giam.
Kết quả:
(1) Điều chỉnh luật muối: Nói chung, cuộc đấu tranh vì lương tâm chống Đạo luật Muối, mở màn cho phong trào bất tuân dân sự rộng rãi, đã đạt được mục tiêu quan trọng nhất. Đạo luật Muối tuy không bị hủy bỏ nhưng một cách diễn giải mới và chính thức đã được đưa ra trong thỏa thuận giữa Gandhi và Irwin. Cách diễn giải này có chi tiết như sau: “Để góp phần… giảm bớt khó khăn một số tầng lớp nghèo khổ”, chính quyền sẽ “mở rộng các quy định hành chính, như vẫn đang diễn ra tại một số nơi, cho phép cư dân địa phương tại các làng xã, ở cạnh vùng có thể làm muối hay thu gom muối, được quyền làm muối hay thu gom muối cho nhu cầu sử dụng trong nhà, hoặc bán cho bà con cùng làng xã, nhưng không được buôn bán hay trao đổi với người sống ở địa phương khác.”
(2) Những điều khoản khác trong Thỏa thuận giữa Gandhi và Irwin: Sau các cuộc thương lượng và thỏa thuận giữa Gandhi và Toàn quyền Irwin, chính quyền đồng ý với các việc sau đây:
(a) Ân xá cho những người bị kết tội vi phạm luật pháp nhưng không bạo động trong các cuộc bất tuân dân sự.
(b) Bãi bỏ những sắc lệnh có tính áp chế.
(c) Trả lại những tài sản bị tịch thu, tước đoạt, khống chế.
(d) Nới lỏng quyền hạn cho dân được là muối ở một số địa phương nhất định.
Đáp lại, bất tuân dân sự sẽ chấm dứt và đặc biệt là các hoạt động sau đây phải kết thúc:
(a) Việc bất tuân có tổ chức bất cứ khoản luật lệ nào.
(b) Việc rủ nhau không đóng thuế đất và các khoản thuế khác theo luật định.
(c) Việc phát hành các bản tin hỗ trợ cho bất tuân dân sự.
(d) Việc vận động công chức, quân lính và quan chức làng xã chống lại chính quyền hoặc thuyết phục họ từ chức.
(3) Sửa đổi hiến pháp: Bản thỏa thuận cũng có đoạn ghi rằng trong những cuộc thương lượng sắp tới về sửa đổi hiến pháp, đại diện Đảng Quốc đại sẽ được mời tham dự, và trong số những đề tài được đưa ra trong Vòng Hội nghị Bàn tròn sắp tới, những vấn đề như định chế liên bang, việc bảo vệ người dân thuộc địa (ví dụ trong quốc phòng, ngoại giao), tín dụng tài chính, và vị trí của các sắc dân thiểu số sẽ được mang ra bàn luận.
***
ĐÚC KẾT CHIẾN DỊCH MUỐI:
Trong hai năm 1930-1931, đấu tranh vì lương tâm đã được sử dụng trên toàn quốc để đẩy mạnh mục tiêu đòi độc lập cho Ấn Độ. Hàng ngàn chiến dịch được địa phương hóa trong một phong trào bất tuân dân sự rộng khắp, cuốn hút hàng trăm ngàn người tham gia, nhiều người trong số áp dụng đấu tranh vì lương tâm như một hành vi tức thời nhưng chưa thực hiểu đầy đủ về nguyên lý nền tảng của cuộc đấu tranh. Tuy vậy, phong trào hầu hết đã diễn ra với tinh thần bất bạo động.
Chiến dịch mở đầu với Gandhi lãnh đạo cuộc diễu hành về biển là biểu tượng cho quyết tâm theo đuổi những nguyên lý bất bạo động cơ bản, đồng thời cũng là biểu hiện của một tư duy chiến lược xuất sắc. Một đặc tính nổi bật nữa của các chiến dịch khác trong những tháng đấu tranh này là khả năng lãnh đạo mạnh mẽ và hiệu quả của hàng trăm thành viên Đảng Quốc đại tại các tỉnh thành và làng xã.
Xét về những yếu tố tạo nên cuộc đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa, có thể nói tất cả những yếu tố cần và đủ đều có thể tìm thấy trong cuộc đấu tranh chống Đạo luật Muối này.
Mục tiêu tiên quyết là loại trừ những luật lệ gây khó khăn cho người nghèo. Đạo luật Muối, cho phép chính quyền có độc quyền đối với một nhu yếu phẩm của người dân, còn là biểu tượng của một tình trạng bất công lớn hơn – đó là tình trạng Ấn Độ phải chịu ách thống trị của một thế lực nước ngoài. Vì vậy, người đấu tranh vì lương tâm nhận lấy bổn phận là phải bất tuân luật muối bất công và thực thi quyền lợi chính đáng là quyền được làm muối của người Ấn Độ. Một quyền lợi chính đáng khác được ngầm hiểu ở đây là quyền tự quyết của nhân dân Ấn Độ thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang.
Những người đấu tranh vì lương tâm tự nguyện phát động chiến dịch chống Đạo luật Muối đã tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc bất bạo động. Chỉ khi tấn công vào các hồ muối, một số người đấu tranh mới bắt đầu phá hoại tài sản bằng cách cắt hàng rào kẽm hoặc kéo đổ hàng rào bao quanh nông trại muối. Bản thân Gandhi không lãnh đạo cuộc tấn công trong đó tài sản bị phá hủy, và nếu có mặt lúc đó chắc hẳn ổng sẽ ngăn cản những vụ phá hoại và xem đó là một hành vi sai lầm trong giai đoạn này của chiến dịch. Một số người đấu tranh biện hộ cho việc phá hàng rào là để tìm cách đi vào các hồ muối, họ cho rằng nông trại muối là tài sản chung và mọi công dân đều có quyền đến đó. Tuy nhiên, cũng không có bằng chứng nào cho thấy người đấu tranh vì lương tâm đã gây thương tích cho đối phương. Bạo động chỉ xảy ra trong các cuộc đột nhập liên tục vào hồ muối – nhưng đó là bạo động khi cảnh sát đánh đập người đấu tranh vì lương tâm, và nhiều người trong số đã can đảm chịu những trận đòn rất đau đớn với thương tích trầm trọng. Hết lớp người này đến lớp người kia đã thay nhau tiến lên, bất kể đòn thù, hành động của họ không bạo động nhưng vẫn đầy tính tấn công. Họ đáp trả, không bằng bạo lực, mà bằng một số kỹ thuật thuyết phục đối phương mà họ có thể áp dụng.
Tự túc cũng là đặc tính trong ứng xử của người đấu tranh vì lương tâm. Họ ký cam kết để tự nguyện tham gia bất tuân dân sự mà không đòi hỏi được đền đáp bằng quyền lợi vật chất cho bản thân hay cho gia đình.
Việc quảng bá có tổ chức đã được thực hiện thông qua việc ấn hành và phân phối các bản tin và tờ rơi. Báo chí trên toàn quốc cũng đã góp phần quảng bá cho chiến địch bằng việc tường thuật chi tiết các hoạt động đấu tranh vì lương tâm. Việc chính quyền đàn áp tiếng nói của phe đấu tranh và kiểm duyện báo chí cũng chỉ góp phần tạo cơ hội cho người trong cuộc bất tuân luật lệ nhiều hơn.
Những người đấu tranh vì lương tâm đã luôn chủ động đưa ra sáng kiến trong suốt phong trào bất tuân dân sự. Với mục tiêu trọng tâm là bất tuân Đạo luật Muối bất công, họ đã tiến hành cuộc đi bộ đường dài ra biển và làm mẻ muối trái luật đầu tiên rồi sau đó họ bao vây và thu giữ muối từ các nông trại muối của chính quyền và cuối cùng là biến việc tự làm muối trở thành một hành động phản kháng tràn lan khắp nơi.
Hành động phản kháng còn được mở rộng thành các cuộc tẩy chay kinh tế, được hỗ trợ bởi những hàng người bao vây các cửa hiệu quần áo và rượu bia.
Những hành động đối đầu trực tiếp vừa kể đã không hề được thực hiện cho đến khi mọi nỗ lực tìm ra một giải pháp trong danh dự thông qua các kiến nghị và thương lượng với vị Toàn quyền đều đã thất bại. Yêu cầu của phe đấu tranh rằng người dân Ấn Độ phải được quyền tự do sản xuất muối theo ý muốn chưa bao giờ bị sao nhãng. Tuy nhiên, Gandhi luôn sẵn lòng để thương lượng với chính quyền để đạt đến một thỏa thuận.
Cuộc đấu tranh vì lương tâm này được tiến hành thông qua những bước cơ bản đầu tiên là cố gắng thương lượng, quảng bá đến quần chúng biểu tình và diễu hành, sau đó là công bố tối hậu thư.
Đối phương được thông báo ý định và diễn tiến của cuộc đấu tranh. Khi thỏa thuận cuối cùng đã đạt được sau các cuộc thương lượng giữa Gandhi và Toàn quyền, mục tiêu tiên quyết của cuộc đấu tranh – làm giảm nỗi khổ của dân nghèo vì Đạo luật Muối – đã đạt được ở một mức độ rất lớn, tuy rằng bản thân Đạo luật Muối không bị bãi bỏ.
Mục tiêu dài hạn là độc lập dân tộc cho Ấn Độ, dĩ nhiên, không thể thành tựu một sớm một chiều. Tuy nhiên, Thỏa thuận giữa Gandhi và Irwin cũng đã mở đường cho Đảng Quốc đại được tham gia vào vòng kế tiếp của Hội nghị Bàn tròn để bàn luận các vấn đề về sửa đổi hiến pháp giúp Ấn Độ tiến xa hơn trên lộ trình dành được độc lập toàn phần.
***
IV. ĐÚC KẾT NĂM CHIẾN DỊCH ĐẤU TRANH VÌ LƯƠNG TÂM
Đấu tranh vì lương tâm, như một hành động xã hội và chính trị, đòi hỏi phải được lên kế hoạch và chuẩn bị có bài bản, toàn diện, đồng thời phải được tiến hành thận trọng, có nghiên cứu kỹ lưỡng.
Để có thể tìm thấy những điều kiện cơ bản làm nên một cuộc đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa, cần chú ý đến nhiều yếu tố khác nhau, từ việc chọn lựa mục tiêu, đến việc chọn người tham gia, đến điều kiện cho các giải pháp cuối cùng.
Yếu điểm trong những chiến dịch đấu tranh nêu trong chương này thường xuất hiện khi một trong những bước căn bản của chiến dịch bị sao lãng hay bỏ qua.
Chẳng hạn, chiến dịch đấu tranh đòi lại đường qua đền Vykom có dấu hiệu thất bại cho tới khi người đấu tranh xác định lại rằng người tham gia tốt nhất chính là cộng đồng tôn giáo có liên quan trực tiếp đến kết quả đấu tranh.
Cuộc đấu tranh của công nhân dệt may Ahmedabad tiến rất gần đến nguy cơ thất bại chỉ vì những người tham gia không được chuẩn bị kỹ lưỡng và chương trình hỗ trợ toàn diện đã không được đưa ra.
Trong khi đó chiến dịch tại Bardoli lại thành công vì đã thận trọng chú ý thực hiện mọi bước cần thiết của đấu tranh vì lương tâm.
Chiến dịch Rowlatt bị ngừng giữa chừng khi bạo động nổ ra cũng vì người tham gia đấu tranh không được chuẩn bị kỹ lưỡng, số người tham gia không được giới hạn hợp lý, và nhóm lãnh đạo điều phối hoạt động kém.
Cho đến năm 1930 thì cả nước đã biết đến hình thức và ý nghĩa của đấu tranh bất bạo động. Như Nehru nhận xét, một nếp tư duy đã hình thành trên cả nước, và người dân “có sự hiểu biết tốt hơn về bản chất của cuộc đấu tranh.” Người đấu tranh không chỉ hiểu rõ hơn về kỹ thuật đấu tranh bất bạo động, Nehru nhận xét tiếp “mà quan trọng hơn nữa, cũng theo quan điểm của Gandhi, kỹ thuật đã được thực hiện đầy đủ bởi tất cả những ai thực sự tin tưởng vào giá trị của bất bạo động. Mười năm về trước, người ta từng nghi ngờ về điều này, nhưng giờ đây không còn ai nghi ngờ gì nữa.” [2]
Bước đầu tiên của cuộc đấu tranh chống Đạo luật Muối đã được tổ chức cẩn thận với việc chuẩn bị cho những người tham gia đấu tranh và cho cả dân các làng xã nằm dọc theo lộ trình đến biển. Những khó khăn diễn ra sau này, hầu hết, là do sự tham gia quá rộng rãi của quần chúng vượt quá tầm điều khiển thích hợp của nhóm lãnh đạo. Sự ủng hộ của người dân toàn quốc cũng đưa đến việc một số đối tượng tham gia nhưng không chấp nhận hoặc không hiểu rõ ý nghĩa của đấu tranh bất bạo động. Khi bất tuân dân sự đi quá giai đoạn đầu là chống Đạo luật Muối, chiến dịch cũng vướng vào khuyết điểm là không xác định được đâu là mục tiêu gần nhưng có thể góp phần vào công cuộc giành độc lập toàn diện.
*
Việc tìm hiểu năm chiến dịch nêu trên cũng cho thấy người tham gia trong một cuộc đấu tranh vì lương tâm có thể bao gồm đông đảo người từ mọi thành phần kinh tế, xã hội và tôn giáo khác nhau.
Chúng ta đã thấy sự tham gia của người lao động, nông dân, giới kinh doanh buôn bán; của phụ nữ nông thôn và cả phụ nữ có trình độ học vấn cao và xuất thân từ những gia đình giàu có; của người thuộc đẳng cấp cùng đinh Ấn Độ lẫn giáo sĩ Bà la môn và tín đồ Hồi giáo; và cũng có cả (như sẽ được nói tới ở Chương IV) sự tham gia của những chiến binh Pathan nổi tiếng đáng gờm đến từ vùng Biên giới.
Những người lãnh đạo cũng vậy, họ xuất thân từ nhiều thành phần, có cả phụ nữ và người của các cộng đồng thiểu số. Hầu hết người tham gia trong các chiến dịch kể trên đều dùng bất bạo động để đạt các mục tiêu cụ thể và họ cũng áp dụng đấu tranh vì lương tâm như một phương pháp vì sự hiệu quả của nó.
Với phần lớn người tham gia, bất bạo động được xem là một chính sách, chứ không phải tín điều. Thư ký lâu năm của Gandhi, ông Pyarelal, nói về khía cạnh này của các phong trào đấu tranh vì lương tâm khi trả lời câu tôi hỏi tôi về tầm quan trọng của niềm tin hoàn toàn vào bất bạo động. Ông nói: ”Có thể tiến hành đấu tranh vì lương tâm với những người không tin vào bất bạo động như một tín điều, với điều kiện họ thành thực và hoàn toàn tuân theo các luật lệ được đề ra và đấu tranh với tinh thần bất bạo động tuyệt đối…”[3]
*
Các biện pháp chiến thuật đưa ra trong một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm khác hẳn nhau tùy hoàn cảnh phát sinh. Chiến thuật được điều chỉnh để thích ứng với tình hình thực tế, cả trong công lẫn thủ. Trong khi đó, chiến lược gần như không thay đổi, vẫn đi theo các bước, hay giai đoạn, của một chiến dịch đấu tranh vì lương tâm. Chúng ta đã thấy đấu tranh vì lương tâm đã được áp dụng thành công để không chỉ chống lại chính quyền thuộc địa Anh tại Ấn Độ, nhưng còn để chống lại giới giáo sĩ Bà la môn chính thống thủ cựu, chống lại giới chủ nhân nhà máy, và chống lại các chính quyền địa phương.
Chiến thuật đấu tranh bất bạo động trong tình huống xung đột có cả tính chất tự vệ lẫn tấn công. Trong trường hợp đền Vykom, cuộc đấu tranh vì lương tâm chủ yếu có tính tấn công.
Trong mọi chiến dịch kể trên thì giai đoạn đầu luôn được dành để thuyết phục đối phương. Các cuộc đối đầu trực tiếp và bất bạo động chỉ diễn ra trong các giai đoạn sau của chiến dịch, nhất là trong những cuộc đấu tranh vì lương tâm diễn ra trên toàn cõi Ấn Độ.
Trong cuộc đấu tranh tại Ahmedabab, Gandhi nhận ra rằng cuộc tuyệt thực của ông mang tính chất ép buộc đối phương, khiến cho tính chính đáng của đấu tranh vì lương tâm bị lệch lạc.
Chủ trương thiên về thuyết phục hơn là ép buộc được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đấu tranh tại Vykom: Sau khi chính quyền tiểu bang rút mọi hậu thuẫn cho phía đối phương và đường đến Vykom được chính thức mở ra cho giai cấp cùng đinh, thì người đấu tranh vì lương tâm đã không lợi dụng ưu thế này để đi vào con đường vừa mở, chống lại sự phản kháng chưa chấm dứt của giới giáo sĩ Bà la môn. Họ đã tiếp tục đấu tranh vì lương tâm cho đến khi thuyết phục được giới giáo sĩ rằng khước từ quyền đi lại của người cùng đinh là một sai lầm không thể biện minh về mặt đạo đức.
Khi xem xét đường đi nước bước của hình thái đấu tranh vì lương tâm, có thể thấy rằng đấu tranh vì lương tâm vận hành như một sức mạnh có thể làm thay đổi xã hội. Sức mạnh này hiệu quả đến đâu tùy thuộc vào khả năng thuyết phục, độ rộng của các hoạt động hỗ trợ công ích, và mức độ bất bạo động đạt được.
—
Nguồn: Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict, tác giả Joan Bondurant, NXB Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
[1] Dữ liệu cho phần này được lấy từ các nguồn sau: Robert Bernays, “Naked Faquir” (New York: H. Holt, 1932); Glorney Bolton, The Tragedy of Gandhi (London: Allen & Unwin, 1934); Congress Presidential Addresses; Ngài Reginal Coupland, The Indian Problem: Report on the Constitutional Problem in India (New York, etc.: Oxford University Press, 1944); Cumming, sđd; Diwakar, sđd; Negley Farson, “Indian Hate Lyric” đăng trong We Cover the World, được viết bởi 15 nhà báo quốc tế, do Eugene Lyons hiệu đính (New York: Harcourt, Brace, 1937); Gregg, sđd; India in 1930-31: A Report Prepared for Presentation to Parliament in Accordance with the Requirements of the 26th Section of the Government of India Act (5 and 6 Geo. V, Chap. 61) (Calcutta: Government of India Central Publishing Branch, 1932); Alan Campbell Johnson, Viscount Halifax, An Biography (London: Robert Hale, 1941); Webb Miller, I Found No Peace: The Journal of a Foreign Correspondent (New York: The Literary Guild, 1936); The Indian Annual Register, Nripendra Nath Mitra, hiệu đính, (Calcutta: Annual Register Office, 1930 & 1931), Vols. I, II, 1930, Vols I, II, 1931; Nehru, An Autobiography; Các số báo The New York Times vào thời kỳ này; Sitaramayya, sđd; G. C. Sondhi, hiệu đính, To the Gates of Liberty: Congress Commemoration Volume (Calcutta: Swadesh Bharati, 1948); các số báo Young India vào thời kỳ này; Trao đổi giữa tác giả và R. R. Diwakar, Pyarelal (Nayyar), và R. R. Keithahn.
[2] Nehru, An Autobiography, tr. 209.
[3] Trích thư gửi tác giả, đề ngày 17/10/1951.
March 1, 2014
Đấu tranh vì lương tâm: Phương pháp của Gandhi (5)
Joan V. Bondurant
Phan Trinh dịch
4.
ĐẤU TRANH TOÀN QUỐC CHỐNG LUẬT ROWLATT [i]
Ngày tháng, thời gian kéo dài, địa điểm:
(1) Từ 1/3 đến 18/4/1919.
(2) Kéo dài bảy tuần.
(3) Đây là cuộc đấu tranh vì lương tâm đầu tiên có quy mô toàn quốc được tiến hành tại Ấn Độ. Kế hoạch hành động xuất phát từ Ahmedabad; ban chỉ huy được thành lập tại Bombay. Nơi đấu tranh mạnh nhất là tại Tỉnh Bombay [một trong ba vùng lãnh thổ của nước Ấn thuộc Anh thời thực dân] và tại Bắc Ấn, với Thành phố Madras và Calcutta là những trung tâm đấu tranh quan trọng.
Mục tiêu:
(1) Bối cảnh:
(a) Điều khoản trong các Đạo luật và Dự luật Rowlatt: Theo lời đề nghị của Ủy ban Chống Bạo loạn dưới quyền Ngài Sidney Rowlatt năm 1918, các luật lệ được soạn thảo để gia tăng quyền lực cho chính quyền trong việc kiểm soát tội ác, kể cả trấn áp bạo loạn. Điều được gọi là Đạo luật Rowlatt (Đạo luật Số XI năm 1919 của Chính quyền Ấn Độ) “được soạn thảo để cho phép xét xử nhanh chóng những vụ gây rối bằng một phiên toà nghiêm khắc, với ba thẩm phán Tòa Thượng thẩm, và không cho bị cáo quyền kháng án.” Đạo luật cũng cho chính quyền thêm quyền lực để giam giữ ngăn ngừa – tức bắt bớ và giam giữ những người bị tình nghi là mối đe dọa cho trật tự công cộng – và quyền triệu tập người bị tình nghi hoạt động phá hoại vì lý do an ninh, quyền buộc họ phải ở một nơi nhất định, hoặc phải từ bỏ một số hành vi cụ thể. Ngoài ra, luật còn cho phép giam giữ không gián đoạn những thành phần được cho là “nguy hiểm”.
Một Dự luật thứ hai, với “dự định thay đổi hẳn luật hình sự thông thường áp dụng trên lãnh thổ”, chưa từng được đệ trình trước Hội đồng Lập pháp Ấn Độ, bao gồm các điều khoản như: “… những ai lưu giữ tài liệu có mục đích gây rối với ý định xuất bản hay phố biến chúng … có thể bị trừng trị bằng các bản án tù giam.”
(b) Lập luận của Chính quyền: Người bảo vệ Đạo luật và Dự luật Rowlatt nhấn mạnh đến những quy định nghiêm ngặt để đảm bảo an toàn. Theo đúng thủ tục, luật chỉ có hiệu lực khi vị Toàn quyền kết luận rằng ở một nơi nào đó trên phần đất của Nước Ấn thuộc Anh, những vụ gây rối có tính cách mạnh đang diễn ra tràn lan. Một ủy ban điều tra có thực quyền sẽ được thành lập để xem xét các dữ liệu dựa trên đó chính quyền đưa ra lệnh trấn áp hay bắt bớ. Ủy ban điều tra sẽ gồm một nhân viên tư pháp và một người Ấn không là viên chức chính quyền.
(c) Lập luận của phe đối lập: Đối với người Ấn, những điều khoản trong Đạo luật và Dự luật Rowlatt là “không công bằng, phá hoại nguyên tắc về tự do và công lý, hủy diệt những quyền cơ bản của cá nhân con người mà trên đó sự an toàn của đất nước và nhà nước Ấn Độ được xây dựng.” Luật cũng ẩn chứa bên trong sự phủ định những lời hứa các lãnh tụ nước Anh đưa ra trong thời chiến, đồng thời khẳng định mối hoài nghi rằng nước Anh có ý đồ ngăn cản Ấn Độ tiến tới độc lập. Nó cũng “xâm phạm đến quyền lợi thông thường của những công dân tự do,” bao gồm việc: bãi bỏ các phiên tòa có bồi thẩm đoàn và quyền kháng án trong trường hợp xét xử tội nổi loạn; cho phép xử kín; cho dùng những chứng cớ không qua kiểm tra chéo; tiếp tục cho Hành pháp quyền hạn chế tự do cá nhân và kiềm chế tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp. Quần chúng khắp nơi tỏ ra hết sức bất mãn với các Đạo luật và Dự luật này.
(2) Mục tiêu ngắn hạn của cuộc đấu tranh vì lương tâm: Hủy bỏ Đạo luật thứ nhất đã được ban hành, được mô tả như “luật để đối phó với tội phạm có tính gây rối và cách mạng”, và ngăn chặn việc thông qua Dự luật thứ hai.
(3) Mục tiêu dài hạn: Thông qua cuộc vận động tranh thủ quần chúng và nâng cao ý thức chính trị, phong trào là một phần của cuộc đấu tranh rộng lớn và không ngừng giành lại độc lập quốc gia.
Người tham gia và lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm:
(1) Gandhi: Gandhi khởi xướng phong trào cùng các đồng sự từ cộng đoàn Ahmedabad.
(2) Lớp lãnh đạo thứ hai: Thành viên cộng đoàn của Gandhi tại Ahmedabad và lãnh tụ từ các phong trào quốc gia giành độc lập toàn Ấn Độ.
(3) Số người tham gia: Toàn bộ các chương trình hành động của cuộc đấu tranh được cho là thu hút “hàng triệu” người tham gia trên cả nước Ấn Độ. Quần chúng ở miền Nam ủng hộ phong trào mạnh mẽ bất ngờ. Tại Thành phố Bombay, số tình nguyện viên đặc biệt (thành viên đấu tranh tích cực) được ghi nhận là 600 người.
(4) Tính cách người tham gia: Một báo cáo chính thức của người Anh ghi nhận “có sự liên thông huynh đệ” giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo, cả trong hàng ngũ những người đẳng cấp thấp. Phụ nữ và trẻ em cũng tham gia vào những hình thức đấu tranh trực diện.
Người tham gia và lãnh đạo hàng ngũ đối phương:
(1) Viên chức chính quyền Ấn Độ.
(2) Cảnh sát Ấn Độ dưới quyền chỉ huy của sĩ quan Anh.
Tổ chức và hoạt động hỗ trợ:
(1) Hội Đấu tranh vì Lương tâm được thành lập tại Bombay như tổng hành dinh của phong trào.
(2) Chọn luật để bất tuân: Theo sau quyết định bất tuân dân sự, Ủy ban Đấu tranh vì Lương tâm đã được bổ nhiệm để chọn lọc các đạo luật phù hợp làm mục tiêu của bất tuân dân sự.
(3) Các Ủy ban Địa phương được thành lập tại các vùng miền khác của Ấn Độ để hướng dẫn người dân về nguyên tắc và kỹ thuật đấu tranh vì lương tâm.
(4) Các hình thức hoạt động hỗ trợ được đưa vào sinh hoạt của Hội Đấu tranh vì Lương tâm.
Chuẩn bị trước khi hành động:
(1) Cam kết Đấu tranh vì Lương tâm: Việc phổ biến rộng rãi cam kết dưới đây không chỉ góp phần quảng bá mục tiêu phong trào, mà còn nhấn mạnh đến nguyên tắc phải giữ gìn sự thật và bất bạo động:
Ý thức và nhận định rằng Dự luật có tên là Dự luật Số 1 năm 1919 về Sửa đổi Luật Hình sự Ấn Độ, và Dự luật Số 2 năm 1919 về Quyền hạn Khẩn cấp trong Thi hành Luật Hình sự là không công bằng, là đi ngược lại nguyên tắc về tự do và công lý, hủy diệt những quyền cơ bản của cá nhân con người mà trên đó sự an toàn của cả đất nước Ấn Độ và của nhà nước được xây dựng, chúng tôi long trọng khẳng định rằng: Trong trường hợp những Dự luật này trở thành đạo luật, và cho đến khi chúng bị hủy bỏ, chúng tôi sẽ từ chối chấp hành những đạo luật này, và những luật lệ khác mà ủy ban đấu tranh sau này thấy là cần chống lại, đồng thời chúng tôi cũng khẳng định rằng trong cuộc đấu tranh này, chúng tôi sẽ một lòng đề cao sự thật và sẽ không thực hiện hành vi bạo động nào đối với sự sống, đối với con người, và đối với tài sản các loại.
(2) Thảo luận về những vấn đề chung tại các cuộc mít tinh đông đảo quần chúng và ký tên vào cam kết.
(3) Thanh luyện: Sự tham gia của đại chúng được đánh dấu bằng một ngày “khiêm cung và cầu nguyện”. Mỗi người tham gia đấu tranh được yêu cầu thực hiện 24 giờ chay tịnh như một hình thức tuân thủ kỷ luật để chuẩn bị cho mình dấn thân vào cuộc bất tuân dân sự. Ký tên vào Cam kết Đấu tranh vì Lương tâm cũng là một điều mọi người tham gia bất tuân dân sự cần làm. Những ai không ký cam kết và không chay tịnh trong 24 giờ sẽ không tham gia bất tuân dân sự, nhưng vẫn có thể áp dụng hình thức bất hợp tác với chính quyền bằng những cách khác. Họ cũng có thể có lời cam kết khác như sẽ “đề cao sự thật bằng mọi giá và sẽ không bạo động.”
(4) Công tác chuẩn bị theo nhận xét của một viên chức chính quyền: Phía đối lập công nhận rằng Gandhi đã “công khai lên án mọi hình thức sử dụng bạo lực” và rằng “không điều gì, trong thái độ hay tuyên bố, của Gandhi có thể dùng để biện minh cho việc chính quyền đưa ra những biện pháp chống lại ông trước khi chiến dịch thực sự bắt đầu.”
(5) Phê phán các Dự luật Rowlatt ngay tại Hội đồng Lập pháp: Những thành viên độc lập thuộc Hội đồng Lập pháp Ấn Độ kịch liệt chống đối các Dự luật Rowlatt. Một nguồn tin chính thức từ chính quyền ghi nhận rằng sự chống đối này, cùng với việc phổ biến Cam kết Đấu tranh vì Lương tâm đã “đặt nền móng cho một cuộc vận động lớn lao chưa từng có trong nhiều năm vừa qua.”
Những hành động mở đầu:
(1) Kiến nghị gửi Toàn quyền: Trong quá trình thông qua Dự luật Rowlatt thứ nhất, Gandhi đã khuyến cáo vị Toàn quyền (bằng thư riêng hoặc thư chung) đừng phê duyệt Dự luật. Gandhi cảnh báo nếu Dự luật được thông qua và trở thành Đạo luật, thì ông sẽ không còn con đường nào khác hơn là dùng biện pháp mạnh toàn diện.
(2) Kế hoạch bất tuân dân sự: Người tham gia đấu tranh cam kết sẽ bất tuân Đạo luật Rowlatt nếu được áp dụng trong trường hợp của họ. Kế hoạch cũng đặt phong trào trên một nền tảng rộng lớn hơn bằng cách chọn những luật lệ khác nữa để bất tuân cùng lúc. Quyết định này cho thấy phong trào có tác dụng như một phần của cuộc đấu tranh vì độc lập và khiến một số lãnh tụ quốc gia bất bình. Motilal Nehru, người chống lại quyết định, nhưng sau này (trong diễn văn gửi Đại hội Đảng Quốc đại năm 1919) lại cho thấy ông tin vào tiềm năng cách mạng lớn lao của đấu tranh vì lương tâm.
(3) Quảng bá rộng rãi: Trong suốt tháng 3/1919, báo chí ngập tràn bài viết về các cuộc biểu tình phản đối, các bài báo và kiến nghị chống lại luật Rowlatt.
Hành động:
(1) Bãi thị: Các cửa hàng trên toàn quốc đồng loạt đóng cửa. Ngày tổng bãi thị, dự kiến vào ngày 30/3, sau đổi thành ngày 6/4. Bãi thị vẫn bắt đầu ở Delhi vào ngày 30/3 vì lãnh đạo phong trào tại đây chưa nhận được thông báo hoãn. Bãi thị ở những nơi khác diễn ra vào ngày 6/4 và gần như tất cả mọi địa phương đều tham gia.
(2) Biểu tình: Biểu tình tuần hành đã diễn ra trên đường phố các thành phố chính. Người tham gia ban đầu giữ rất nghiêm nguyên tắc bất bạo động.
(3) Bất tuân một số luật chọn lọc: Ủy ban đấu tranh quyết định chọn những luật nào mà sự bất tuân sẽ dẫn đến bất tuân toàn diện của quần chúng:
(a) Làm muối từ nước biển để bất tuân luật đóng thuế muối.
(b) Bán sách vở bị cấm lưu hành: Sách vở bị cấm được bán công khai (có thể dễ dàng tìm ra người bán). Tổ chức đọc trích đoạn những tác phẩm bị cấm trước công chúng. Dự định bán sách vở này được Ban Chỉ huy Đấu tranh vì Lương tâm loan báo. Nếu không đủ bản in để bán thì viết tay các bản khác để bán. Sách được chọn để phổ biến là các cuốn: Hind Swaraj (độc lập nước nhà) của Gandhi; Bản tiếng Gujarati tác phẩm Unto this Last (cả người cuối cùng này) của Ruskin, do Gandhi dịch (đặt tên là Sarvodaya); Câu chuyện Đấu tranh vì lương tâm, một bài diễn giải tác phẩm Defence and Death of Socrates (biện giải và cái chết của Socrates). Tất cả những cuốn sách này đều bị chính quyền cấm đoán.
(c) Xuất bản và lưu hành tờ báo không đăng ký: Gandhi xuất bản tờ báo có tên Satyagrahi (người đấu tranh vì lương tâm). Tờ báo phổ biến những hướng dẫn về cách ứng xử khi bị bắt vào tù, cách phản ứng khi bị phạt, bị tước đoạt tài sản, và khuyên mọi người không lẩn trốn, cũng không chống đối tự vệ. Tờ báo bán được nhiều tiền và số tiền được chuyển vào quỹ chung để hỗ trợ cuộc đấu tranh bất tuân dân sự.
(4) Bạo động nổ ra: Đáp lại sự trả thù bạo động của cảnh sát, và sau đó là chống lại các vụ bắt giữ hàng ngũ lãnh đạo, bạo động đã xảy ra tại nhiều nơi sau ngày tổng biểu tình đầu tiên. Người ta ghi nhận những vụ ném đá xảy ra ở Delhi, một số tòa nhà ở các nơi khác bị đốt cháy, đường dây điện tín bị cắt, và có cả những viên chức người Anh lẫn người Ấn bị giết.
(5) Gandhi tạm ngưng phong trào và bắt đầu “tuyệt thực sám hối” trong ba ngày.
(6) Gandhi khuyến cáo người đấu tranh: Khi nhận thấy cuộc đấu tranh không bám sát tinh thần bất bạo động đúng nghĩa, Gandhi đã kêu gọi những chiến hữu đấu tranh vì lương tâm nên tuyệt thực và “thú nhận” sai phạm của mình. Ông viết: “Tôi tin rằng người muốn lãnh đạo quần chúng tham gia đấu tranh vì lương tâm phải là người có khả năng giữ được quần chúng trong phạm vi bất bạo động mình được giao phó.”
Phản ứng của đối phương:
(1) Quyết tâm thông qua các Dự luật Rowlatt: Dự luật thứ nhất được áp đặt lên Ủy ban Tuyển chọn với đa số chính thức. Tại đây, để xoa dịu công chúng, Dự luật được điều chỉnh để chỉ có hiệu lực trong ba năm.
(2) Đàn áp bạo động: Có báo cáo cho biết cảnh sát đã nổ súng từ ngày đầu tiên của bãi thị và biểu tình, bắt đầu diễn ra từ ngày 30/3 tại Delhi. Cảnh sát tấn công người biểu tình bằng gậy bọc sắt mỗi lần cuộc đấu tranh vì lương tâm bước vào giai đoạn quyết định.
(3) Phản ứng với việc bán sách cấm: Để tình hình bớt phức tạp hơn, chính quyền đã ngừng bắt người vi phạm lệnh cấm bán sách. Chính quyền biện minh cho việc ngừng bắt rằng người vi phạm chưa bán cuốn sách cấm nào, hoặc sách họ bán là ấn bản mới, không bị lệnh cấm chi phối.
(4) Bắt Gandhi: Khi Gandhi tìm cách rời Bombay đến Punjab, chính quyền gửi ông thông báo cấm đến Punjab. Ông bất tuân, tiếp tục đến Punjab, bị bắt và được cảnh sát áp giải về Bombay.
(5) Thiết quân luật được ban hành tại Ahmedabad, Lahore và Amritsar. Cũng từ lệnh thiết quân luật này, ban hành theo lệnh của Tướng Dyer, mà vụ thảm sát tai tiếng Jallianwala Bagh tại Amritsar đã diễn ra. Cảnh sát, dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Anh, đã bắn vào đám đông tụ tập trong một khu vực không lối thoát, làm chết hàng trăm người tay không vũ khí. Giai đoạn này cũng xảy ra những vụ trừng phạt đầy tính sỉ nhục, như đánh đòn nạn nhân giữa nơi công cộng, hoặc “lệnh bò lê”, bắt người Ấn phải bò lê bằng bụng trên đoạn đường mà một phụ nữ người Anh trước đó đã bị tấn công.
Kết quả:
(1) Kết quả tức thời: Mục tiêu của chiến dịch đã không đạt được lập tức (và chiến dịch bị hủy bỏ trước khi đến giai đoạn chung cuộc). Tuy nhiên, Dự luật Rowlatt thứ hai đã không được đưa ra Hội đồng Lập pháp nữa, và Đạo luật Rowlatt, vốn là nguyên nhân dẫn đến cuộc đấu tranh, đã không hề được chính quyền đem ra sử dụng.
(2) Gandhi xem xét lại các điều kiện tiên quyết khi đấu tranh vì lương tâm: Vì thất bại trong vụ đấu tranh chống các Dự luật Rowlatt, và vì không thể dự đoán phản ứng của quần chúng, Gandhi đã phải ta thán rằng đây là “một sai lầm, lớn như Hy Mã Lạp Sơn.” Khi hay tin bạo động nổ ra, ông hiểu rằng quần chúng chưa được chuẩn bị kỹ lưỡng để đấu tranh vì lương tâm. Ông viết: “Tôi nhận ra rằng trước khi quần chúng có thể tham gia bất tuân dân sự, họ phải hiểu được việc mình làm sẽ dẫn đến hiệu quả và hậu quả nào”. Ông khẳng định rằng trước khi ông lại có thể lãnh đạo một phong trào như thế, “cần phải thành lập một nhóm những người tự nguyện nòng cốt có dày dạn kinh nghiệm, với lương tâm thanh thản, và hiểu biết thấu đáo những đòi hỏi của đấu tranh vì lương tâm. Những người nòng cốt này sẽ truyền đạt lại cho quần chúng và bằng cách giám sát ngày đêm, giữ quần chúng theo đường lối đúng đắn.”
(3) Tổ chức lực lượng đấu tranh vì lương tâm nòng cốt: Vời việc thành lập Hội Đấu tranh vì Lương tâm, Gandhi đã quy được được một lực lượng nòng cốt những tình nguyện viên, và đã bắt đầu công tác hướng dẫn quần chúng về ý nghĩa và cách thực hành đấu tranh vì lương tâm.
(4) Hợp tác với chính quyền: Với niềm tin rằng “trước khi bạn trở nên người thích hợp để thực hành bất tuân dân sự, bạn phải là người sẵn lòng tuân thủ và tuân thủ một cách nghiêm túc luật lệ nhà nước,” Gandhi loan báo rằng người đấu tranh vì lương tâm phải “không ngừng” giúp đỡ nhà cầm quyền “bằng tất cả mọi cách mà ta có thể, với tư cách là những người đấu tranh vì lương tâm” để “vãn hổi trật tự và khống chế tình trạng vô pháp luật.” Ông nói họ phải “không sợ hãi loan truyền nguyên tắc Satya [sự thật] và Ahimsa [bất bạo động / tình thương], chỉ khi đó, và cũng chỉ khi nào làm được như thế, chúng ta mới có thể tiến hành đấu tranh vì lương tâm với quy mô lớn.”
***
ĐÚC KẾT CHIẾN DỊCH ROWLATT:
Đánh giá theo tiêu chuẩn đấu tranh vì lương tâm của Gandhi, cuộc đấu tranh chống các Dự luật Rowlatt là một thất bại. Nó bị biến dạng khi bạo động nổ ra. Các lực lượng khác nhau đã vào cuộc nhưng Gandhi và các chiến hữu đã không thể kiểm soát được. Khuyết điểm của chiến dịch với những hậu quả vừa kể sẽ được phân tích tại đây. Phải chăng cuộc đấu tranh chống các Dự luật Rowlatt đã bác bỏ niềm tin của Gandhi về hiệu quả của đấu tranh vì lương tâm? Hoặc chiến dịch này mới chỉ là duragraha (bất bạo động quyết liệt) chứ chưa phải là satyagraha (đấu tranh vì lương tâm)?
Phân tích những diễn biến của chiến dịch cho thấy phần lớn các bước cần có của một cuộc đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa đã diễn ra, và hầu hết các quy tắc liên quan đã được áp dụng. Tôi tin rằng có thể gọi chiến dịch này là một cuộc đấu tranh vì lương tâm theo đúng nghĩa của Gandhi.
Mục tiêu tiên quyết là loại bỏ một luật lệ được cho là không công bằng. “Sự thật”, hay quyền lợi chính đáng, của chiến dịch là hủy bỏ những luật lệ được cho là sẽ vi phạm quyền dân sự của con người, và – với những người Ấn Độ có ý thức chính trị – Dự luật này còn biểu tượng cho tình trạng bất công lớn hơn, đó là tình trạng đất nước Ấn Độ bị người Anh kìm kẹp.
Những kế hoạch hành động chống lại chính quyền cũng tuân thủ những nguyên tắc bất bạo động. Việc bất tuân đã diễn ra trong lặng lẽ nhưng kiên định, và các luật lệ được chọn để bất tuân cũng được chọn lọc kỹ lưỡng để bảo đảm việc bất tuân có thể diễn ra dễ dàng nhất, và ít đánh đố khiến cảnh sát phải trấn áp bằng bạo động nhất. Mỗi lần bị cảnh sát trấn áp, phe đấu tranh cũng đều kêu gọi phương pháp tự khổ, thay vì đánh trả.
Cách ứng xử của những người đấu tranh tích cực được diễn giải trên tờ Satyagrahis, được bán ra bất chấp lệnh buộc mọi ấn phẩm phải đăng ký. Cuộc đấu tranh vì lương tâm cũng được bắt đầu bằng những khóa chay tịnh, nhằm thúc đẩy sự đoàn kết của những người đấu tranh và giúp mọi người thêm cương quyết nhưng vẫn giữ được sự khách quan.
Những quy tắc cơ bản khi tiến hành đấu tranh vì lương tâm cũng được tuân thủ trong chiến dịch này:
(1) Thái độ tự túc được thể hiện rõ nét trong cách tổ chức của những người đấu tranh. Tài chính hỗ trợ phong trào có được nhờ việc bán báo và sách vở.
(2) Trong giai đoạn đầu của cuộc đấu tranh, thế chủ động luôn nằm trong tay người đấu tranh vì lương tâm. Khi bạo động xảy ra, họ bị quá tải với nhiệm vụ kiểm soát quần chúng hỗn độn nên thế chủ động lọt vào tay đối phương, và đối phương đã dùng những biện pháp đàn áp khốc liệt, mở đường cho những bạo động khác tiếp diễn.
(3) Quảng bá chắc chắn là một phần không thể thiếu của chiến dịch. Báo chí tường thuật chi tiết vụ chống các Dự luật Rowlatt và có bài viết hàng ngày. Cộng đoàn những người đấu tranh vì lương tâm cũng phổ biến những bản tin và hướng dẫn dành cho thành viên tham gia chiến dịch.
(4) Yêu sách về những quyền dân sự cơ bản được nêu lên rõ ràng.
(5) Việc tiến hành bất tuân dân sự chỉ được thực hiện sau khi có những nỗ lực giải quyết xung đột trong danh dự. Gandhi đã viết thư cho chính quyền, yêu cầu họ bãi bỏ Đạo luật gây tranh cãi. Những thành viên không chính thức của Hội đồng Lập pháp cũng tìm cách bác bỏ Dự luật. Chính quyền được biết trước ý định của những người đấu tranh vì lương tâm và mọi bước sẽ diễn ra trong phong trào có tổ chức này.
(6) Đạo đức và kỷ luật trong hàng ngũ những người đấu tranh đã không đủ mạnh để ngăn cản quần chúng bạo động. Kết quả của chiến dịch cho thấy cần có ý thức mạnh mẽ hơn về những yếu kém nội bộ và phải chuẩn bị chu đáo hơn để mọi người đấu tranh vì lương tâm hiểu rõ trách nhiệm của mình.
(7) Trong giai đoạn đầu, đã có những nỗ lực kiến tạo bầu không khí thuận lợi để đối thoại, cho phép hợp tác tối đa với chính quyền trong việc kiềm chế các “tội phạm có tính hỗn loạn vô chính phủ” mà không phải dùng đến luật Rowlatt đang gây tranh cãi. Trong giai đoạn cuối, Gandhi đã đến gặp giới chức chính quyền và cuối cùng được phép lên tiếng với đám đông biểu tình tại Ahmedabad, nơi ông tuyên bố chấm dứt chiến dịch.
(8) Không lúc nào có dấu hiệu cho thấy những người đấu tranh vì lương tâm từ bỏ mục tiêu cốt lõi của mình (rút lại Đạo luật đã ban hành và hủy bỏ Dự luật thứ hai).
(9) Chiến dịch được chấm dứt trước khi đạt được thỏa thuận.
Một lần nữa, việc phân tích những bước mà người đấu tranh tiến hành để chống luật Rowlatt cho thấy chiến dịch là một cuộc đấu tranh vì lương tâm theo đúng tinh thần Gandhi:
(1) Họ đã cố gắng thương lượng bất cứ khi nào có thể.
(2) Việc chuẩn bị cho người đấu tranh đã được thực hiện thông qua việc chay tịnh để thanh tẩy tư tưởng và việc hướng dẫn các thao tác đấu tranh bất bạo động. Tuy nhiên, xét theo kết quả, có thể nói giai đoạn chuẩn bị này đáng lẽ cần được kéo dài hơn, cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Cũng nên chú ý là tuyệt thực, chay tịnh chỉ được dùng như một hình thức kỷ luật tự giác và sau đó được Gandhi thực hiện như một hành vi sám hối vì bạo động đã xảy ra, nhưng tuyệt thực đã không hề được dùng trong chiến dịch như một biện pháp để gây áp lực với đối phương.
(3) Việc quảng bá được tiến hành đầy đủ và rộng khắp trên cả nước.
(4) Tối hậu thư, dưới hình thức lời cam kết đấu tranh vì lương tâm, rất rạch ròi dứt khoát, và cũng rạch ròi không kém nội dung bản tuyên bố của Gandhi gửi cho vị Toàn quyền.
(5) Tẩy chay kinh tế không giữ vai trò đáng kể trong chiến dịch; các cuộc bãi thị mở đầu chiến dịch có chỉ có vai trò như một hình thức biểu dương lực lượng mang nhiều tính biểu tượng hơn kết quả thực tế.
(6) Bất hợp tác không phải là hoạt động chủ yếu trong chiến dịch này. Tuy nhiên, bất hợp tác đã được các cá nhân thực hiện. (Bản thân nhà thơ Rabindranath Tagore cũng trả lại tước hiệu hiệp sĩ để bày tỏ thái độ bất hợp tác, dưới tác động của cuộc đấu tranh vì lương tâm này.)
(7) Bất tuân dân sự là đặc tính của chiến dịch. Ngoài Đạo luật và Dự luật chiến dịch chọn để chống đối, việc chọn các đạo luật khác để bất tuân cũng là đặc điểm của chiến dịch. Bất tuân luật xuất bản và phát hành cũng được thực hiện chặt chẽ và khéo léo.
(8) Chiến dịch đã không mở rộng đến mức có thể thay thế các chức năng của chính quyền, mặc dù ở Bombay, cộng đoàn đấu tranh vì lương tâm dường như đã tạm thời thay mặt chính quyền và tranh thủ được sự trung thành của quần chúng.
Như vậy, có thể nói chiến dịch chống lại luật Rowlatt có đủ các thành tố tạo nên một cuộc đấu tranh vì lương tâm đúng nghĩa. Nhưng tại sao chiến dịch lại dẫn đến hỗn loạn sâu rộng và tan vỡ, mở đường cho bạo động khiến chiến dịch phải chấm dứt?
Nguyên nhân chính khiến chiến dịch thất bại và không giữ được tính bất bạo động nằm ở việc quần chúng tham gia đã không được chuẩn bị tinh thần đúng mức, nhất là khối quần chúng mở rộng, ở vòng ngoài chiến dịch. Những nguyên tắc kỷ luật, vốn được một số những nhân vật trung tâm của chiến dịch hiểu và tuân thủ, đã không được truyền đạt đến một số lượng đủ lớn những người tình nguyện để đảm bảo họ tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc đấu tranh vì lương tâm.
Công tác lãnh đạo đã không được mở rộng kịp thời để kiểm soát được số lượng khổng lồ quần chúng bất ngờ được kích hoạt và tham gia. Như sau này Gandhi tường trình trước Uỷ ban Hunter – uỷ ban điều tra vụ bạo động – tuyệt đại đa số quần chúng Ấn Độ từ trước đến nay hầu như là một quần chúng hoàn toàn bất động. Các lãnh tụ Ấn Độ chưa bao giờ thu hút được quần chúng tham gia vào các hoạt động chính trị. Họ hoàn toàn không có nguyên tắc, cũng không có kỷ luật. Chiến dịch Rowlatt lần đầu tiên đánh thức được tiềm lực đã ngủ quên rất lâu trong lòng đại chúng. Ông Motilal Nehru đã mô tả sự thay đổi mà cuộc đấu tranh bất bạo động mang lại như sau:
“Một lực lượng mới bỗng dưng xuất hiện trong sinh hoạt chính trị của chúng ta, một lực lượng với tiềm năng khổng lồ. Quần chúng tại Ấn Độ bỗng dưng thức tỉnh và thông điệp của đấu tranh vì lương tâm đã len lỏi vào từng căn nhà dù nhỏ đến đâu, dù xa xôi đến đâu. Một số chúng ta không đồng ý với những từ ngữ được dùng trong Cam kết Đấu tranh vì Lương tâm, nhiều người cũng cho rằng thời cơ chưa chín muồi để bất tuân dân sự. Nhưng ít ai, tôi tin như thế, lại có thể không đồng ý với những điểm cốt lõi của đường lối này. Và đó là, theo suy nghĩ của tôi, sự thật, không sợ hãi, và bất bạo động.” [ii]
Sai lầm “lớn như Hy Mã Lạp Sơn” của Gandhi, như chữ ông dùng, là do ông không thể dự đoán lời kêu gọi của mình được quần chúng hưởng ứng mãnh liệt đến mức nào. Ông lý giải: “Họ thấy mình có một sức mạnh mới, nhưng lại không biết sức mạnh đó là gì và phải dùng nó ra sao.” Trong khi một nhóm những người đấu tranh vì lương tâm hàng đầu hiểu rõ tính chất và hệ quả của hành vi bất bạo động, quần chúng lại gần như không được hướng dẫn về ý nghĩa đấu tranh vì lương tâm.
Riêng với Gandi, vì đã tạo được uy tín như một lãnh tụ xã hội, ông có thể kiểm soát được sức mạnh quần chúng nói trên tại mỗi nơi ông đích thân có mặt và điều động đấu tranh. Nhưng ở những nơi khác, kết quả đấu tranh cho thấy rất cần phải có một lứa lãnh đạo thứ cấp có đủ sức mạnh và chiều sâu.
Nơi nào chính quyền ngăn cấm Gandhi đặt chân tới thì ở nơi đó nguyên lý đấu tranh vì lương tâm lại càng khó duy trì hơn. Thực vậy, Gandhi đã không có dịp trực tiếp tiếp xúc hay kêu gọi quần chúng tại những nơi như Delhi hoặc Punjab. Khi Gandhi bị bắt, những người vốn không hiểu nhiều và cũng không có kinh nghiệm về những kỹ thuật khắt khe của bất bạo động đã trở về dùng cách bộc lộ giận dữ của mình bằng bạo động – vốn là cách quen thuộc để giải toả căng thẳng tức thời. Khi các lãnh tụ bất bạo động bị bắt – hoặc khi có tin đồn sai là họ đã bị bắt – phản ứng chung sẽ nghiêng về bạo động để đòi lại tự do cho họ. Đó là điều đã xảy ra tại Ahmedabad, nơi Anasuya Sarabhai (người tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh vì lương tâm năm 1918 của công nhân dệt may) được cho là đã bị bắt. Lúc đó cũng xảy ra tình trạng lãnh đạo thiếu người thay thế, và thiếu kỷ luật xuyên suốt.
Điều vừa kể cũng cho thấy bạo động không là hệ quả của bất tuân dân sự, vì ở đâu bạo động lên đến đỉnh điểm – chẳng hạn như ở Punjab – thì ở đó không hề có bất tuân dân sự, và ngược lại, đấu tranh vì lương tâm qua hình thức bất tuân dân sự chỉ phát triển mạnh mẽ ở những vùng đất Ấn Độ nơi bạo động hầu như không hề nổ ra. (Motilal Nehru, thoạt đầu chống đối phương pháp đấu tranh của Gandhi, vào cuối năm đó khi đưa ra nhận định về chiến dịch, cũng đã phải công nhận điều quan trọng vừa kể. [iii])
Dĩ nhiên, đã có nhiều cảm tình viên và thành viên chiến dịch chống luật Rowlatt không hề có ý định tuân theo những chỉ dẫn về bất bạo động. Điều này có lẽ cần được tiên đoán trong bất kỳ cuộc đấu tranh vì lương tâm nào có quy mô toàn quốc. Những chứng cớ trình ra trước Uỷ ban Điều tra Hunter cho thấy bạo động xảy ra tại Ahmedabad đã diễn ra một cách “có tổ chức”.
Kế hoạch đấu tranh vì lương tâm tại đây đã không tính tới việc hoá giải những bạo động có tổ chức trong hàng ngũ những người tự cho là thành viên chiến dịch. Chiến lược bất bạo động trong một cuộc đấu tranh quy mô lớn như thế cần phải tính tới những động thái chiến thuật theo nhiều hướng khác nhau. Nhóm lãnh đạo đấu tranh vì lương tâm đã thất bại trong việc tiên đoán mức độ bạo động có thể sẽ diễn ra và trong việc chuẩn bị phương án hoá giải bằng bất bạo động.
Nói tóm lại, cuộc đấu tranh vì lương tâm chống luật Rowlatt biến tướng thành bạo động là hậu quả của việc quần chúng bị lèo lái chệch hướng trước khi được chuẩn bị đầy đủ để vào cuộc. Đó là sự thất bại trong việc truyền đạt ý nghĩa, nguyên tắc và hệ quả sẽ có của phương pháp đấu tranh tối hậu này cho số lượng lớn quần chúng tham gia, và cũng là thất bại trong việc lên kế hoạch hoá giải bằng bất bạo động những anh em đã đi chệch hướng nhúng tay vào bạo động.
Và như thế, thất bại của cuộc đấu tranh chống luật Rowlatt không phải là chứng cớ cho thấy đấu tranh vì lương tâm kém hiệu quả, mà là thất bại của những người lên kế hoạch và tiến hành chiến dịch, vì họ đã không hướng dẫn cặn kẽ cho người tham gia về phương pháp đấu tranh này, và cũng không biết áp dụng chính phương pháp này để hoá giải những người trong hàng ngũ khi họ đi chệch hướng.
(Còn tiếp)
Nguồn: Joan Bondurant, Conquest of Violence – the Gandhian Philosophy of Conflict, Nhà Xuất bản Đại học Princeton, Mỹ, phát hành năm 1952, bản hiệu đính năm 1988, từ trang 15 đến trang 104
Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra
[i] Dữ liệu cho phần này được lấy từ các nguồn sau: Andrews, sđd; N. K. Bose, Studies in Gandhism; Winston S. Churchill, India: Speeches and an Introduction (London: Thornton Butterworth, 1931); Congress Presidential Addresses from the Silver to the Golden Jubilee: Full Text of the Presidential Addresses from 1911 to 1934 (Madras: Natesan Second Series, 1934); Ngài John Cumming, hiệu đính, Political India, 1832-1932, A Co-operative Survey of a Century (London: Humphrey Milford, 1932); Diwakar, sđd; Gandhi, An Autobiography or The Story of My Experiments with Truth; India in 1919: A Report Prepared for Presentation to Parliament in Accordance with the Requirements of the 26th Section of the Government of India Act, của L. F. Rushbrook Williams (Calcutta: Home Department, Government of India, 1920); Nehru, An Autobiography; Báo Young India, 1919-1922, Vols. I, II (Madras: S. Ganesan, 1922); Sitaramayya, sđd.
[ii] Congress Presidential Addresses, tr. 432.
[iii] Như trên, tr. 433.
February 28, 2014
Ném đá và ân xá
Phạm Thị Hoài
Ném đá là điều rất mọi rợ, rất đáng ghét, rất bullshit. Đặc biệt là ném đá người giầu. Nó gợi lại một chương rùng rợn trong lịch sử dân tộc. Người nghèo đã được cách mạng giải phóng trước, bây giờ – chậm còn hơn không – cách mạng quay sang giải phóng nốt người giầu. Trước hết là giải phóng họ khỏi những chê bai, ghen ghét, đố kị, cào bằng, dèm pha, soi mói, ngờ vực của người nghèo, những thói xấu dã man của đám bần cố nông phản tiến hóa có thể kéo lùi xã hội trở về thời cộng sản hang động. Điểm đến của chúng ta phải là chỗ khác, một thiên đường cộng sản “ăn theo quyền lực, hưởng theo nhu cầu”. Người giầu cũng có nhu cầu, tối thiểu là nhu cầu ở nhà cao rộng. Họ cũng có nhân quyền và nhân phẩm. Họ cũng phải được bình đẳng trước pháp luật như mọi người. Thậm chí bình đẳng hơn mọi người. Rốt cuộc thì Việt Nam khải hoàn với tỉ phú dollar duy nhất lọt vào danh sách Forbes hay với mấy chục triệu người sống bằng 1 dollar một ngày? Nghèo là hèn, nghèo là nhục. Nghèo là có tội, phải không em?
Vâng, tôi hoàn toàn đồng ý rằng quan lớn ở nhà to không có gì là sai trái. Một đời cống hiến cho nhân dân mà có cái biệt thự hưởng tuổi già ở quê nhà cũng không được nhân dân đồng ý, thế thì cống hiến để làm gì? Một đời phấn đấu cho lí tưởng quét sạch sở hữu tư nhân, chẳng lẽ sự nghiệp ấy không đáng vinh danh bằng chút bất động sản? Ông Trần Văn Truyền xứng đáng ở một biệt thự trên diện tích hơn 16.000 mét vuông. (Nói khẽ, kẻo đánh thức cái chương lịch sử rùng rợn vừa nhắc: Thời ấy trung bình chưa đầy 7.000 mét vuông là đủ để địa chủ bỏ mạng. Con cháu cụ Phan Bội Châu, nhà ba người với ba sào đất – 3 x 360 = 1.080 mét vuông – cũng suýt thành kẻ thù của nhân dân.) Cơ ngơi của ông tổng thanh tra quốc gia về hưu chẳng qua chỉ bằng diện tích của Công viên Lenin ở Hà Nội, tức “rộng rãi hơn chút” so với xung quanh, như ông thanh thản so sánh. Hơi nhỉnh hơn căn nhà 51 mét vuông của đương kim Chủ tịch nước, nhưng chưa chắc ăn đứt nơi cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết về vui thú điền viên và nuôi chim yến lấy thu nhập mỗi tháng hai mươi triệu cho gia đình.
So với khu nhà vườn của gia đình Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương, khu dinh thự sinh thái của cựu Chủ tịch tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô, khu dinh thự của Chủ tịch tỉnh Bình Dương hay với cái biệt thự La Mã của một chức quan nhỏ xíu là tham tán thương mại Đại sứ quán Việt Nam tại Ý đã thấy ngượng, đừng nói so với những lâu đài hùng vĩ tráng lệ, những tòa nhà dát vàng của các nhà buôn sắt, buôn bạc, buôn lụa… đang cấp tốc dạy đẳng cấp sống cho đất nước rất ham học này.
Bạn có thể bẻ rằng cả đời khâu miệng thì lương ông Truyền tích cóp lại may ra mới xây được nửa cái cổng và nửa vòng tường bao quanh khu dinh thự ấy. Vâng, nhưng bạn cũng biết rằng xây nhà ở Việt Nam, người ta đặt tất cả tâm huyết vào cái tường, cái cổng, cái nóc và những thứ lô nhô đập ngay vào mắt. Rất nhiều mái lệch, ở rất nhiều độ cao khác nhau. Mưa móc ở xứ nhiệt đới này rơi mỗi tầng một trọng lượng. Rất nhiều tháp. Rất nhiều cột. Rất nhiều vòm và những thứ lỉnh kỉnh khác. Trông rắc rối hoành tráng thế thôi nhưng bên trong cũng “bình thường chứ chẳng có vấn đề gì“, như ông Truyền cho biết. Chân tường chắc cũng lở loét, dây điện cũng nhằng nhịt, toa lét cũng khai mù, có gì mà xa hoa.
Hơn nữa, sao bạn không đơn giản ghi nhận sự may mắn của những người thành đạt? Nước bao giờ cũng chảy chỗ trũng, bạn không thể lôi ông Truyền ra tòa chỉ vì con trai ông ấy có viễn kiến, biết mua kha khá đất từ thuở bạn còn dồn tiền mua xe máy bãi rác; chỉ vì em nuôi ông ấy hảo tâm hào phóng, trong khi ở những gia đình khác con giết mẹ lấy 2,8 triệu đồng đi chơi game, cậu ruột chích điện mưu sát cả nhà cháu ruột do tranh chấp 200 mét đất, con đòi bán nhà chia tài sản không được bèn giết bố; chỉ vì xung quanh ông ấy biết bao người vô tư xúm lại biến đầm lầy đất hoang thành dinh thự khang trang, trong khi bạn cứ một thân một mình chống chọi với hoàn cảnh… Tạo hóa bất công, tiếc rằng chúng ta vẫn phải chấp nhận luật fairplay với cả những người quá nhiều may mắn. Không, bạn tuyệt đối không nên ném đá.
Còn khi tất cả những sự may mắn đã thi nhau chọn ông Truyền chứ không chọn bạn nhưng vẫn không đủ để giải trình cái dinh thự của ông thì như một nhà báo trong vụ này đã đặt vấn đề, chúng ta có thể cân nhắc áp dụng một công cụ hữu ích: ân xá kinh tế, nhằm “giải phóng các tài sản đang nằm ở đâu đó để khơi lại dòng vốn đầu tư cho nền kinh tế“. Nói cách khác, hợp pháp hóa những tích lũy có thể bất hợp pháp, khơi trong những dòng vốn có thể không sạch, rửa những đồng tiền có thể bẩn. Đen trắng không quan trọng, miễn là đầu tư vào kinh tế quốc gia, và xây “biệt thự gia đình” tất nhiên là kích cầu, là đầu tư, là đóng góp cho đất nước. Đúng quá. Sâu trong những góc tối nhất của lương tâm, ai chẳng có vài cái xác chưa chôn. Bây giờ đem chúng ra ánh sáng, làm một lễ truy điệu tế nhị, rồi “ân xá và công nhận” thủ phạm “thay vì truy tìm và trừng phạt“, thế là xua tan bao nhiêu tử khí độc hại, giải quyết bao nhiêu tồn đọng âm ỉ, mở nắp van cho bao nhiêu áp lực ngầm, chắp cánh cho bao nhiêu lương tâm khỏi bị đè nặng. Quả là một giải pháp kì diệu. Điều gì có lợi cho đất nước hơn: khuyến khích cho phần chìm của tảng băng nổi lên và tan vào những lâu đài, biệt thự hay ủ vàng vào hũ đem chôn? (Nói khẽ, vàng chôn lâu đến đâu cũng không hết đát, trong khi băng tan rồi, đông cứng lại và chìm xuống một lần nữa khó hơn.)
Tôi đồng ý hết, với điều kiện: không ân xá thẩm mĩ. Tối thiểu ba năm tù cho các kiểu biệt thự cổ điển rởm tân trang. Từ ngoài vào trong: mỗi chiếc mái lệch phạt thêm hai trăm triệu. Mỗi chiếc vòm bốn trăm triệu. Mỗi chiếc tháp năm trăm triệu. Cổng chạm rồng phạt sáu tháng quản thúc, chạm rồng phun nước tăng gấp rưỡi, chạm trống đồng tăng gấp đôi. Mỗi đôi sư tử đá phạt ba tháng lao động công ích, tượng Vệ Nữ sáu tháng, hòn non bộ chín tháng. Mỗi bộ sừng voi một năm tù cho hưởng án treo cộng năm trăm triệu tiền phạt, sừng tê giác phạt thêm năm mươi tỉ đồng.
Mỗi bể cá vàng phạt chín roi vào mông, năm mươi roi cho mỗi bộ bàn ghế gỗ đỏ, một trăm roi cho mỗi nhà sàn Tây Nguyên tái chế, năm trăm roi cho mỗi bức tranh ngựa trên mực Tầu giấy dó, một nghìn roi cho mỗi bức tranh tám con ngựa phi trên biển sơn mài…
Vì sao? Vì tài sản địa chủ có thể biến hóa, nhưng gu phú nông mãi mãi là gu phú nông, dù không cái gu nào trên đời không hợp pháp.
Bạn cũng thấy đấy, lâu đài của cựu Tổng thống Ukraine Yanukovych có thể chuyển về tay nhân dân, nhưng cái gu thẩm mĩ của các nhà độc tài thì không thể thanh lí.
Ảnh 1: Một lâu đài ở Phủ Lý, Hà Nam
Ảnh 2: Nội thất trong một biệt thự ở Cần Thơ
Ảnh3: Sofa Nàng tiên cá bằng vàng trong lâu đài của Gaddafi
© 2014 pro&contra
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers

