Phạm Thị Hoài's Blog, page 19

May 27, 2014

Lý Kiến Trúc phỏng vấn Hà SÄ© Phu và Mai Thái LÄ©nh – Phần 3: Thoát Trung, thoát Cộng

Xem kì 1 , kì 2 và toàn bài trong bản PDF


Lý Kiến Trúc: Ông vừa đề cập một động thái mới diễn ra ở Biển Đông, với giàn khoan HD-981 của Trung Quốc. Theo ông, động thái đó thể hiện ý đồ xâm lược, ý đồ Hán hóa Biển Đông của Trung Quốc đến mức nào?


Mai Thái LÄ©nh: Đầu năm 2001, sau khi vừa thoát khỏi vụ án “phản bội tổ quốc”, tôi bắt đầu chú ý đến vấn đề này. Rồi có việc anh Bùi Minh Quốc khi ra Bắc chỉ vì muốn đi xem các cột mốc biên giới mà cÅ©ng bị bắt, đem về quản chế thêm hai năm. Rồi trong dư luận người ta đặt vấn đề “Ải Nam Quan có mất hay không”, “Thác Bản Giốc có mất hay không”? Khi đi vào nghiên cứu, tôi mới thấy rõ rằng căn nguyên cá»§a chuyện mất đất này chính là do một quan niệm rất sai lầm cá»§a Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ đã có một thời gian tin vào chá»§ nghÄ©a cộng sản. Họ tin rằng biên giới quốc gia không quan trọng bằng biên giới cá»§a phe xã hội chá»§ nghÄ©a. Cho nên đối với  đường biên giới phía Bắc giữa Việt Nam và Trung Quốc, họ rất lÆ¡ là, mà chỉ chú ý, chỉ lo đến việc thống nhất đất nước. Tức là chỉ lo đánh vào Miền Nam thôi, không lo gì đến phía Bắc, cÅ©ng không lo gì đến các vùng đảo. Sau năm 1954, “giải phóng” được Miền Bắc, đáng lẽ công việc đầu tiên cá»§a một quốc gia là phải vẽ lại các bản đồ cá»§a đường biên giới, hiện đại hóa các cột mốc thì họ lại không làm. Cho nên sau này, khi đàm phán thì chẳng có bản đồ, Trung Quốc đưa cái bản đồ nào thì xài cái đó, chứ tôi thấy mấy ông lãnh đạo không đưa ra được cái bản đồ nào cá»§a phía Việt Nam. Theo cuốn sách thời 1979 tố cáo Trung Quốc thì Việt Nam lại đưa bản đồ cho họ in giùm, thế là họ lại sá»­a trên cái bản đồ đó. Như vậy chứng tỏ họ rất lÆ¡ là ý thức bảo vệ chá»§ quyền ở biên giới. Họ cho rằng cách mạng cứ thắng được ở nÆ¡i nào là phe “xã hội chá»§ nghÄ©a” mở rộng ở chỗ đó, đó mới là điều quan trọng, còn biên giới giữa các nước “anh em” với nhau thì họ không chú ý. Trong lúc đó, phía Trung Quốc lại rất chú ý việc mở rộng biên giới. Do vậy mà chúng ta bị thua thiệt trong việc đàm phán biên giới. Trung Quốc lấn chiếm đường biên giới trên bộ, một mặt là để giảm khả năng phòng thá»§ cá»§a Việt Nam. Mặt khác họ muốn tuyên truyền với nhân dân Trung Quốc rằng các triều đại ngày xưa chưa lấn được Việt Nam, còn giờ đây “chúng ta giỏi hÆ¡n, chúng ta lấn được Việt Nam”. Bây giờ họ kích động tinh thần dân tộc cá»§a người Trung Quốc lên cao và đi xa hÆ¡n nữa, nhất là từ khi họ cảm thấy Việt Nam nhượng bộ họ ở đường biên giới trên bộ. Sá»± nhượng bộ đó chính là một khuyến khích rất lớn đối với người cộng sản Trung Quốc để họ tiếp tục xâm chiếm ở Biển Đông.


Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa từ 1974. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam đương nhiên có lên tiếng tố cáo rõ ràng, nhưng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc thì không hề có một văn bản nào lên án Trung Quốc. Chưa thấy có ai trưng ra được một văn bản nào như thế, mà lại có Công hàm của ông Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958. Bản Tuyên bố của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về hải phận của Trung Quốc ngày 4/9/1958 có nói rõ về Tây Sa, Nam Sa; không lẽ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không nghiên cứu để biết Tây Sa, Nam Sa là cái gì mà cứ ký hay sao[1]? Từ chỗ đó, Trung Quốc thấy Việt Nam có vẻ nhượng bộ, thế thì họ lấn tiếp. Về cách mà họ lấn tiếp thì theo tôi thấy, một mặt họ tăng cường lực lượng quân sự để đe dọa. Mặt khác, họ hợp lý hóa dần dần bằng cách “bây giờ đất đó là đất của tôi, tôi đưa giàn khoan khai thác ở đó”. Tôi nói giả định như mai mốt họ biến quần đảo Hoàng Sa thành một thứ như Hong Kong hay Ma Cao chẳng hạn, thế thì người dân Trung Quốc ở đó có thể xin nhập cảnh vào Việt Nam ngay từ một vùng đất của Việt Nam. Họ cứ làm như thế, mà Việt Nam thì cứ tuyên bố là bảo vệ tình hữu nghị, trong khi Trung Quốc chỉ hữu nghị trên giấy tờ, hữu nghị bằng mồm chứ trong thực tế thì không. Đến bây giờ mà ta vẫn chỉ phản đối họ bằng những câu yếu ớt như thế thì không giải quyết được vấn đề gì hết.


Lý Kiến Trúc: Vậy theo nhận định của ông về tình đồng chí giữa hai đảng cộng sản, có thể có một sự thỏa hiệp về lãnh hải hai nước trên Biển Đôngkhông?


Mai Thái Lĩnh: Do tin vào chủ nghĩa quốc tế vô sản, những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam các thế hệ trước đã lơ là về biên giới, trong khi phía Trung Quốc lại đầy chủ mưu. Bây giờ, những người lãnh đạo cộng sản thuộc các thế hệ sau lại không có can đảm thoát ra khỏi cái di sản đó. Như tôi đã trình bày trong cuốn Huyền thoại về một Nhà nước tự tiêu vong, chủ thuyết đó là do Lenin ở vào thế bí, muốn bảo vệ nước Nga nên mới kêu gọi mấy anh nhỏ nhỏ (các dân tộc bị áp bức) ra sức bảo vệ cái thành trì của phe xã hội chủ nghĩa là Liên Xô. Thế thì chỉ có lợi cho Liên Xô chứ có lợi cho ai khác đâu. Không một nước nhỏ theo hệ thống cộng sản nào không lệ thuộc vào một anh lớn, trừ Tito. Nhưng Nam Tư và Liên Xô là hai nước cách bức nhau chứ không cùng biên giới. Còn Việt Nam thì lại sát với Trung Quốc, hàng nghìn năm nay bị Trung Quốc xâm lấn. Nếu các nhà lãnh đạo hiện nay không có can đảm dứt khoát vứt bỏ chủ thuyết cộng sản, không chịu suy nghĩ lại để ý thức được tinh thần dân tộc thì mất nước là chuyện dĩ nhiên, bây giờ dù có kêu gào cách mấy cũng không giải quyết được.


Lý Kiến Trúc: Ông có cho rằng sự kiện giàn khoan là phản ứng của Trung Quốc trước việc vừa rồi ông Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn tổ chức cho Việt kiều đi thăm Trường Sa để khẳng định Trường Sa là của Việt Nam không?


Mai Thái LÄ©nh: Tôi nghÄ©, với Trung Quốc thì ông Thứ trưởng Nguyễn Thanh SÆ¡n không quan trọng. Họ muốn đối phó với ông Nguyễn Tấn DÅ©ng hÆ¡n, vì Thá»§ tướng Việt Nam từng tuyên bố trước Quốc hội rằng Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp, và ông ấy cÅ©ng từng có ý định tổ chức tưởng niệm về Hoàng Sa ở Đà Nẵng hay ở nÆ¡i nào đó nhưng không thá»±c hiện được. Bây giờ thì họ trả lời cho Việt Nam. Họ bảo “Hoàng Sa chính là đất cá»§a chúng tôi, bây giờ chúng tôi đưa giàn khoan dầu tới đó, anh đụng vào nó thì chúng tôi sẽ đưa lá»±c lượng quân sá»± tới”, và nếu tiếp tục cái đà này thì họ sẽ không chỉ làm ở Hoàng Sa mà tiếp tục làm ở Trường Sa…, dần dần họ sẽ lấn chiếm toàn Biển Đông. Còn Đảng Cộng sản Việt Nam, trước kia trong chiến tranh chống Mỹ, họ luôn nói rằng thắng lợi thá»±c tế trên chiến trường mới là quyết định chứ không phải trên bàn ngoại giao. Bây giờ mấy ổng lại đổi ngược lại, bảo rằng ta sẽ không đánh nhau vì như thế là đụng tới tình hữu nghị, đụng tới hòa bình thế giới, ta chỉ nói tới vấn đề pháp lý thôi. Từ chỗ lấy sức mạnh trên chiến trường làm chính, nay thụt lùi thành cái đường lối ngoại giao “chỉ đấu tranh pháp lý” với một anh chàng chỉ biết dùng vÅ© lá»±c. Với Nhật Bản, một cường quốc kinh tế,  mà Trung Quốc còn muốn tranh chấp thì Việt Nam là cái gì khiến họ phải sợ? HÆ¡n nữa họ cÅ©ng biết rằng, nếu “trị” được Việt Nam thì chắc chắn Đông Nam Á sẽ rúng động.


Lý Kiến Trúc: Còn cảm nghĩ của ông trước sự leo thang xâm lược của Trung Quốc ở Biển Đông, thưa ông Hà Sĩ Phu?


Hà Sĩ Phu: Sự kiện giàn khoan chỉ là một bước tất yếu trong toàn bộ tiến trình xâm lược Việt Nam của Trung Quốc, khởi đầu từ khi mở cửa biên giới năm 1950 trong cuộc chiến tranh chống Pháp. Toàn bộ cuộc xâm lược rất bài bản đó dựa trên yếu tố cộng sản, khai thác và tận dụng sự chọn lầm đường của Việt Nam, một nước nhỏ và lạc hậu mà đi vào quỹ đạo cộng sản ảo tưởng nhưng độc tài, tách khỏi khối văn minh nhân loại để chui vào vòng tay của hai đế quốc cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc.


Nước nhỏ muốn thoát khỏi tay nước lớn cần đến 5 yếu tố: cần cảnh giác đề phòng trước, cần giữ khoảng cách, cần phơi bày công khai, cần dựa vào dân và cần liên kết với các nước lớn khác. Nhưng Đảng CSVN đã cố tình và kiên quyết chọn cách làm ngược lại tất cả những yếu tố tự cứu ấy, vậy thì ván cờ đã biết trước kết quả. Kiên quyết đi sâu miết vào tử lộ một cách đầy hứng khởi, nay tỉnh ngộ cũng đã muộn huống chi còn chưa tỉnh ngộ.


Trong câu chuyện ngắn ngủi này tôi không thể phân tích cặn kẽ những sai lầm ấy, chỉ xin nêu mấy bế tắc chính:


Muốn thoát Tàu cần phải thoát Cộng, nhưng quyền lực và quyền lợi đã giữ chặt những người cầm quyền trong vòng kim cô cộng sản, dù họ chẳng còn tin gì vào chủ nghĩa này. Trong thế tự kìm chân nhau, kẻ nào muốn thoát ra sẽ bị diệt ngay, trốn khỏi băng ma túy sẽ bị đồng bọn tiêu diệt.


Nhưng giả thiết một điều không thể có, giả thử toàn bộ giới lãnh đạo ViệtNammuốn từ bỏ chủ nghĩa cộng sản thì cũng không bỏ được trước vòng kim cô Trung Quốc. Trung Quốc muốn thôn tính ViệtNamtrong chiến lược êm như tằm ăn dâu thì buộc ViệtNamphải là nước cộng sản. Trung Quốc thừa sức thực hiện sự ép buộc rất cộng sản, rất “tình nghĩa” đó.


Lối thoát bằng liên minh chiến lược với Hoa Kỳ đã được tính đến từ lâu, nhưng Đảng CSVN không muốn tự xóa “vinh quang” của mình bằng con đường đó. Bây giờ có muốn cũng đã muộn. Chẳng những Hoa Kỳ cần một cường quốc Trung Hoa thứ nhì thế giới hơn một nước ViệtNamcộng sản rất ít thực tâm, mà Hoa Kỳ cũng không thể thắng Trung Quốc trên địa bàn ViệtNam, khi Trung quốc đã chiếm lĩnh trận địa một cách toàn diện. Liên minh muộn mằn với Hoa Kỳ nếu có cũng chỉ cải thiện tình hình phần nào mà thôi.


Lối thoát bằng gia tăng quân sự, nhất là mua vũ khí từ Nga, một nước đang xích lại gần Trung Quốc thì chẳng có ý nghĩa gì ngoài tâm lý tự trấn an. Vả lại, trong phương sách giữ nước thì chính trị cao hơn quân sự, chính trị sai lầm thì quân sự cũng vô ích.


Lối thoát theo con đường Putin, một thứ cộng sản biến tướng, độc tài và tham nhũng? Nếu xuất hiện một Putin tại ViệtNam, Trung Quốc sẽ thừa sức mua hoặc diệt Putin đó bằng tất cả sức mạnh của mình.


Lối thoát duy nhất là dựa vào lòng yêu nước của dân đứng lên chống giặc. Nhưng lâu nay Đảng sợ dân hơn sợ Tàu, sợ dân chủ hơn sợ mất nước. Đảng đã tước vũ khí của nhân dân một cách toàn diện và trở thành đối lập với dân lâu rồi. Nhân dân đang trắng tay, dễ gì chống cả nội xâm lẫn ngoại xâm đang cấu kết?


Tuy vậy, chỉ có từ nhân dân mới hé ra hy vọng, vì sức mạnh của nhân dân luôn là một ẩn số, nó dao động từ sức mạnh của một đàn cừu đến một sức mạnh Phù Đổng, phá hết mọi gông xiềng, không ai có thể biết trước. Sự đột biến của nhân dân không tách rời sự thức tỉnh của lực lượng trí thức tinh hoa và sức mạnh của thế giới tiến bộ và các nước lớn văn minh.


Tôi nhìn vụ giàn khoan HD-981 trong bối cảnh như vậy.


Lý Kiến Trúc: Để tạm chấm dứt cuộc trao đổi hôm nay, thưa ông Hà Sĩ Phu, thưa ông Mai Thái Lĩnh, hai ông có cho rằng giải pháp cuối cùng để Việt Nam cất cánh cùng thế giới là phải giải thế Đảng Cộng sản và chia tay hoàn toàn với Trung Quốc về ý thức hệ? Và điều đó có thể xảy ra không?


Hà SÄ© Phu: Không hiểu sao, ngay trong những ngày Tết Con Ngá»±a tôi đã linh cảm thấy một cái gì bất thường, sôi động sẽ đến trong năm 2014, mặc dù phía nhà cầm quyền vẫn tỏ ra kiên định trong mọi quyết sách và cách ứng xá»­. Tôi có ra một vế đối thế này: “Đánh cho dân tộc tan hoang, trận đánh đẹp đáng ghi vào lịch sá»­“. Có một cái tích là đại tá công an Đỗ Hữu Ca chỉ huy một “trận đánh”, dùng cả quân đội lẫn công an, bố trí mọi thứ y như một trận đánh địch để đánh vào dân oan rồi tuyên bố đây là một trận đánh đẹp và đáng ghi vào sách. Tôi nhại luôn câu đó. Nói về chiến công cá»§a Đảng Cộng sản Việt Nam thì đánh Pháp là chuyện nhỏ, đánh Mỹ thì không đâu vào đâu, đánh Trung Quốc thì đánh xong lại phải xin lỗi, cÅ©ng không phải là chiến công gì ghê gớm, chỉ duy cái chiến công mà tôi cho là to lớn nhất cá»§a Đảng là đánh vào chính dân tộc Việt Nam, sá»­ dụng rồi làm triệt tiêu tất cả những ưu điểm cá»§a dân tộc. Dân tộc nào cÅ©ng có phần ưu phần nhược, nhưng đặc biệt dưới thể chế cộng sản thì những nhược điểm lại được khuếch đại, còn những ưu điểm bị tiêu mòn. Dân tộc Việt Nam vốn rất nhân ái, sao bây giờ cái thú tính lại ghê thế, giết nhau như bỡn, ngày nào cÅ©ng có hàng chục trận giết nhau? Hay là, một dân tộc rất yêu nước, thế mà bây giờ cứ sợ nói yêu nước, nói chuyện yêu nước là “run như cầy sấy”, y như là đi ăn trộm. Tóm lại, ai đã đánh cho dân tộc Việt Nam mất hết tất cả những truyền thống tốt đẹp đó? Trước đây Pháp tám mươi năm đô hộ không đồng hóa được Việt Nam, Tàu một nghìn năm đô hộ không làm mất được cái chất dân tộc Việt Nam, thế mà chỉ có mấy chục năm cai trị cá»§a Đảng Cộng sản là mất đến tận gốc! Tôi xin dùng lại chữ cá»§a ông Dương Trung Quốc là“chúng ta ngày nay đã bị mất gốc hoàn toàn”. Tôi cho rằng đánh được cho dân tộc Việt Nam mất gốc hoàn toàn thì đấy là chiến công đáng ghi vào sá»­ sách nhất và rõ ràng nhất, không ai có thể cãi được là cá»§a Đảng!


Vế đối cá»§a tôi tưởng đã là ghê gớm, nhưng cái vế cá»§a người ứng đối cÅ©ng sắc sảo không kém. Đó là một nhân vật tên là Mai Xuân Hương, giới thiệu trên trang Ba Sàm, một trang chuyên về chính trị, kinh tế, ít đi vào văn học. Ông ấy đối rằng: Tiêu vì chiêu bài giải phóng, lính đánh thuê sao gọi đấy anh hùng”. Tiêu tức là chết, vì cái chiêu bài giải phóng Miền Nam. Một cái Miền Bắc chưa văn minh, lại đánh vào Miền Nam là cái anh ở trong một hệ thống tuy còn là dân chá»§ sÆ¡ khai nhưng cÅ©ng là cái văn minh bình thường cá»§a thế giới, tóm lại là một nền văn minh kém lại đòi giải phóng một nền văn minh cao hÆ¡n. Chính vì thế mà chết, cho nên “Tiêu vì chiêu bài giải phóng”. Ná»­a thứ hai cá»§a vế đối này mới ác: “Lính đánh thuê sao gọi đấy anh hùng”. Lấy “lính đánh thuê” đối với “trận đánh đẹp“! Câu này muốn nói rằng mọi cuộc chiến tranh cá»§a ta chẳng qua là đánh thuê, đánh thuê cho Liên Xô, đánh thuê cho Trung Quốc. Chính ông Lê Duẩn đã công nhận rồi, ông ấy nói là ta đánh đây cÅ©ng là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc! Nhưng có một điều mà ít người nghÄ© tới là cả dân tộc mình đánh thuê cho Đảng Cộng sản Việt Nam! Bỏ rất nhiều sinh mệnh, tài sản, công lao vào chiến tranh, để rồi sau đó chiến công, thành quả có cái gì là Đảng giữ hết chứ dân được gì đâu, được mấy cái ghế cá»§a 14 ông vua và một tập đoàn lợi ích nhóm! Tóm lại nhân dân là lính đánh thuê với giá rất rẻ cho Đảng. Mà đã gọi là lính đánh thuê, hy sinh trong ngộ nhận thì không thể gọi là anh hùng, thậm chí khó gọi là liệt sÄ© dù cho sá»± hy sinh đó là phi thường, là rất đáng cảm phục! Nỗi cảm thương và hối tiếc quá lớn cho dân tộc ngót một thế ká»·, tất cả nay cần được định danh hết lại cho đúng.CÅ©ng vì thế, trong những câu đối năm Con Ngá»±a này tôi đã dành 3-4 câu  để xét lại cái lô-cốt cuối cùng: Dân Việt nuôi con ngá»±a Hồ khác nào nuôi “ngá»±a thành Troy”?


Mai Thái Lĩnh: Qua việc nghiên cứu và phê phán chủ nghĩa Marx, khoảng năm 2004-2005 tôi tình cờ đọc được một số tài liệu về ông Phan Châu Trinh. Bây giờ tôi mới thấy cái nhìn của ông Phan Châu Trinh thật sự là đúng đắn. Tôi đã có dịp trình bày qua một số bài viết, và sắp tới cũng còn phải viết nhiều nữa, bởi vì những tài liệu về Phan Châu Trinh hiện còn ít và rải rác. Nhất là về giai đoạn ông qua Pháp thì rất ít người biết, những người biết thì lại cố tình diễn giảng nó theo một hướng khác. Ví dụ có người diễn giảng rằng ông Phan Châu Trinh ở gần ông Nguyễn Ái Quốc mà tại sao không tiếp thu cái tinh hoa của ông Nguyễn Ái Quốc, nhưng thật ra ông Nguyễn Ái Quốc không thể nào có tầm tư tưởng bằng ông Phan Châu Trinh được. Ý tưởng đúng đắn nhất của ông Phan Châu Trinh về vấn đề chủ quyền là: một đất nước chỉ có thể được giữ gìn khi giao nó cho toàn dân, chỉ có toàn dân mới giữ gìn được một đất nước, chứ không có một gia đình nào, một dòng họ hay là một đảng phái chính trị nào, dù tập trung quyền lực trong tay, có thể gìn giữ được.


Lý Kiến Trúc: Xin chân thành cảm ơn hai ông.


© 2014 Lý Kiến Trúc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh & pro&contra




[1] Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4/9/1958


“Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nay tuyên bố:


(1) Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.


(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.


(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.


(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.


Ðài Loan và Bành Hồ hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Bành Hồ đang chờ được chiếm lại. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoài không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc”.


Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai ngày 14/9/1958:


“Thưa đồng chí Tổng lý


Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.


Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.


Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”


Xem thêm: “Công hàm Phạm Văn Đồng làm lung lay yêu sách chá»§ quyền cá»§a Việt Nam“, bài viết cá»§a Sam Bateman trên Eurasia Review ngày 15/5/2014, bản dịch cá»§a Đoan Trang.


(Chú thích của pro&contra)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 27, 2014 03:53

Lý Kiến Trúc phỏng vấn Hà Sĩ Phu và Mai Thái Lĩnh – Phần 3: Thoát Trung, thoát Cộng

Xem kì 1 , kì 2 toàn bài trong bản PDF


Lý Kiến Trúc: Ông vừa đề cập một động thái mới diễn ra ở Biển Đông, với giàn khoan HD-981 của Trung Quốc. Theo ông, động thái đó thể hiện ý đồ xâm lược, ý đồ Hán hóa Biển Đông của Trung Quốc đến mức nào?


Mai Thái Lĩnh: Đầu năm 2001, sau khi vừa thoát khỏi vụ án “phản bội tổ quốc”, tôi bắt đầu chú ý đến vấn đề này. Rồi có việc anh Bùi Minh Quốc khi ra Bắc chỉ vì muốn đi xem các cột mốc biên giới mà cũng bị bắt, đem về quản chế thêm hai năm. Rồi trong dư luận người ta đặt vấn đề “Ải Nam Quan có mất hay không”, “Thác Bản Giốc có mất hay không”? Khi đi vào nghiên cứu, tôi mới thấy rõ rằng căn nguyên của chuyện mất đất này chính là do một quan niệm rất sai lầm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ đã có một thời gian tin vào chủ nghĩa cộng sản. Họ tin rằng biên giới quốc gia không quan trọng bằng biên giới của phe xã hội chủ nghĩa. Cho nên đối với  đường biên giới phía Bắc giữa Việt Nam và Trung Quốc, họ rất lơ là, mà chỉ chú ý, chỉ lo đến việc thống nhất đất nước. Tức là chỉ lo đánh vào Miền Nam thôi, không lo gì đến phía Bắc, cũng không lo gì đến các vùng đảo. Sau năm 1954, “giải phóng” được Miền Bắc, đáng lẽ công việc đầu tiên của một quốc gia là phải vẽ lại các bản đồ của đường biên giới, hiện đại hóa các cột mốc thì họ lại không làm. Cho nên sau này, khi đàm phán thì chẳng có bản đồ, Trung Quốc đưa cái bản đồ nào thì xài cái đó, chứ tôi thấy mấy ông lãnh đạo không đưa ra được cái bản đồ nào của phía Việt Nam. Theo cuốn sách thời 1979 tố cáo Trung Quốc thì Việt Nam lại đưa bản đồ cho họ in giùm, thế là họ lại sửa trên cái bản đồ đó. Như vậy chứng tỏ họ rất lơ là ý thức bảo vệ chủ quyền ở biên giới. Họ cho rằng cách mạng cứ thắng được ở nơi nào là phe “xã hội chủ nghĩa” mở rộng ở chỗ đó, đó mới là điều quan trọng, còn biên giới giữa các nước “anh em” với nhau thì họ không chú ý. Trong lúc đó, phía Trung Quốc lại rất chú ý việc mở rộng biên giới. Do vậy mà chúng ta bị thua thiệt trong việc đàm phán biên giới. Trung Quốc lấn chiếm đường biên giới trên bộ, một mặt là để giảm khả năng phòng thủ của Việt Nam. Mặt khác họ muốn tuyên truyền với nhân dân Trung Quốc rằng các triều đại ngày xưa chưa lấn được Việt Nam, còn giờ đây “chúng ta giỏi hơn, chúng ta lấn được Việt Nam”. Bây giờ họ kích động tinh thần dân tộc của người Trung Quốc lên cao và đi xa hơn nữa, nhất là từ khi họ cảm thấy Việt Nam nhượng bộ họ ở đường biên giới trên bộ. Sự nhượng bộ đó chính là một khuyến khích rất lớn đối với người cộng sản Trung Quốc để họ tiếp tục xâm chiếm ở Biển Đông.


Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa từ 1974. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam đương nhiên có lên tiếng tố cáo rõ ràng, nhưng chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc thì không hề có một văn bản nào lên án Trung Quốc. Chưa thấy có ai trưng ra được một văn bản nào như thế, mà lại có Công hàm của ông Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958. Bản Tuyên bố của chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về hải phận của Trung Quốc ngày 4/9/1958 có nói rõ về Tây Sa, Nam Sa; không lẽ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không nghiên cứu để biết Tây Sa, Nam Sa là cái gì mà cứ ký hay sao[1]? Từ chỗ đó, Trung Quốc thấy Việt Nam có vẻ nhượng bộ, thế thì họ lấn tiếp. Về cách mà họ lấn tiếp thì theo tôi thấy, một mặt họ tăng cường lực lượng quân sự để đe dọa. Mặt khác, họ hợp lý hóa dần dần bằng cách “bây giờ đất đó là đất của tôi, tôi đưa giàn khoan khai thác ở đó”. Tôi nói giả định như mai mốt họ biến quần đảo Hoàng Sa thành một thứ như Hong Kong hay Ma Cao chẳng hạn, thế thì người dân Trung Quốc ở đó có thể xin nhập cảnh vào Việt Nam ngay từ một vùng đất của Việt Nam. Họ cứ làm như thế, mà Việt Nam thì cứ tuyên bố là bảo vệ tình hữu nghị, trong khi Trung Quốc chỉ hữu nghị trên giấy tờ, hữu nghị bằng mồm chứ trong thực tế thì không. Đến bây giờ mà ta vẫn chỉ phản đối họ bằng những câu yếu ớt như thế thì không giải quyết được vấn đề gì hết.


Lý Kiến Trúc: Vậy theo nhận định của ông về tình đồng chí giữa hai đảng cộng sản, có thể có một sự thỏa hiệp về lãnh hải hai nước trên Biển Đôngkhông?


Mai Thái Lĩnh: Do tin vào chủ nghĩa quốc tế vô sản, những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam các thế hệ trước đã lơ là về biên giới, trong khi phía Trung Quốc lại đầy chủ mưu. Bây giờ, những người lãnh đạo cộng sản thuộc các thế hệ sau lại không có can đảm thoát ra khỏi cái di sản đó. Như tôi đã trình bày trong cuốn Huyền thoại về một Nhà nước tự tiêu vong, chủ thuyết đó là do Lenin ở vào thế bí, muốn bảo vệ nước Nga nên mới kêu gọi mấy anh nhỏ nhỏ (các dân tộc bị áp bức) ra sức bảo vệ cái thành trì của phe xã hội chủ nghĩa là Liên Xô. Thế thì chỉ có lợi cho Liên Xô chứ có lợi cho ai khác đâu. Không một nước nhỏ theo hệ thống cộng sản nào không lệ thuộc vào một anh lớn, trừ Tito. Nhưng Nam Tư và Liên Xô là hai nước cách bức nhau chứ không cùng biên giới. Còn Việt Nam thì lại sát với Trung Quốc, hàng nghìn năm nay bị Trung Quốc xâm lấn. Nếu các nhà lãnh đạo hiện nay không có can đảm dứt khoát vứt bỏ chủ thuyết cộng sản, không chịu suy nghĩ lại để ý thức được tinh thần dân tộc thì mất nước là chuyện dĩ nhiên, bây giờ dù có kêu gào cách mấy cũng không giải quyết được.


Lý Kiến Trúc: Ông có cho rằng sự kiện giàn khoan là phản ứng của Trung Quốc trước việc vừa rồi ông Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn tổ chức cho Việt kiều đi thăm Trường Sa để khẳng định Trường Sa là của Việt Nam không?


Mai Thái Lĩnh: Tôi nghĩ, với Trung Quốc thì ông Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn không quan trọng. Họ muốn đối phó với ông Nguyễn Tấn Dũng hơn, vì Thủ tướng Việt Nam từng tuyên bố trước Quốc hội rằng Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp, và ông ấy cũng từng có ý định tổ chức tưởng niệm về Hoàng Sa ở Đà Nẵng hay ở nơi nào đó nhưng không thực hiện được. Bây giờ thì họ trả lời cho Việt Nam. Họ bảo “Hoàng Sa chính là đất của chúng tôi, bây giờ chúng tôi đưa giàn khoan dầu tới đó, anh đụng vào nó thì chúng tôi sẽ đưa lực lượng quân sự tới”, và nếu tiếp tục cái đà này thì họ sẽ không chỉ làm ở Hoàng Sa mà tiếp tục làm ở Trường Sa…, dần dần họ sẽ lấn chiếm toàn Biển Đông. Còn Đảng Cộng sản Việt Nam, trước kia trong chiến tranh chống Mỹ, họ luôn nói rằng thắng lợi thực tế trên chiến trường mới là quyết định chứ không phải trên bàn ngoại giao. Bây giờ mấy ổng lại đổi ngược lại, bảo rằng ta sẽ không đánh nhau vì như thế là đụng tới tình hữu nghị, đụng tới hòa bình thế giới, ta chỉ nói tới vấn đề pháp lý thôi. Từ chỗ lấy sức mạnh trên chiến trường làm chính, nay thụt lùi thành cái đường lối ngoại giao “chỉ đấu tranh pháp lý” với một anh chàng chỉ biết dùng vũ lực. Với Nhật Bản, một cường quốc kinh tế,  mà Trung Quốc còn muốn tranh chấp thì Việt Nam là cái gì khiến họ phải sợ? Hơn nữa họ cũng biết rằng, nếu “trị” được Việt Nam thì chắc chắn Đông Nam Á sẽ rúng động.


Lý Kiến Trúc: Còn cảm nghĩ của ông trước sự leo thang xâm lược của Trung Quốc ở Biển Đông, thưa ông Hà Sĩ Phu?


Hà Sĩ Phu: Sự kiện giàn khoan chỉ là một bước tất yếu trong toàn bộ tiến trình xâm lược Việt Nam của Trung Quốc, khởi đầu từ khi mở cửa biên giới năm 1950 trong cuộc chiến tranh chống Pháp. Toàn bộ cuộc xâm lược rất bài bản đó dựa trên yếu tố cộng sản, khai thác và tận dụng sự chọn lầm đường của Việt Nam, một nước nhỏ và lạc hậu mà đi vào quỹ đạo cộng sản ảo tưởng nhưng độc tài, tách khỏi khối văn minh nhân loại để chui vào vòng tay của hai đế quốc cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc.


Nước nhỏ muốn thoát khỏi tay nước lớn cần đến 5 yếu tố: cần cảnh giác đề phòng trước, cần giữ khoảng cách, cần phơi bày công khai, cần dựa vào dân và cần liên kết với các nước lớn khác. Nhưng Đảng CSVN đã cố tình và kiên quyết chọn cách làm ngược lại tất cả những yếu tố tự cứu ấy, vậy thì ván cờ đã biết trước kết quả. Kiên quyết đi sâu miết vào tử lộ một cách đầy hứng khởi, nay tỉnh ngộ cũng đã muộn huống chi còn chưa tỉnh ngộ.


Trong câu chuyện ngắn ngủi này tôi không thể phân tích cặn kẽ những sai lầm ấy, chỉ xin nêu mấy bế tắc chính:


Muốn thoát Tàu cần phải thoát Cộng, nhưng quyền lực và quyền lợi đã giữ chặt những người cầm quyền trong vòng kim cô cộng sản, dù họ chẳng còn tin gì vào chủ nghĩa này. Trong thế tự kìm chân nhau, kẻ nào muốn thoát ra sẽ bị diệt ngay, trốn khỏi băng ma túy sẽ bị đồng bọn tiêu diệt.


Nhưng giả thiết một điều không thể có, giả thử toàn bộ giới lãnh đạo ViệtNammuốn từ bỏ chủ nghĩa cộng sản thì cũng không bỏ được trước vòng kim cô Trung Quốc. Trung Quốc muốn thôn tính ViệtNamtrong chiến lược êm như tằm ăn dâu thì buộc ViệtNamphải là nước cộng sản. Trung Quốc thừa sức thực hiện sự ép buộc rất cộng sản, rất “tình nghĩa” đó.


Lối thoát bằng liên minh chiến lược với Hoa Kỳ đã được tính đến từ lâu, nhưng Đảng CSVN không muốn tự xóa “vinh quang” của mình bằng con đường đó. Bây giờ có muốn cũng đã muộn. Chẳng những Hoa Kỳ cần một cường quốc Trung Hoa thứ nhì thế giới hơn một nước ViệtNamcộng sản rất ít thực tâm, mà Hoa Kỳ cũng không thể thắng Trung Quốc trên địa bàn ViệtNam, khi Trung quốc đã chiếm lĩnh trận địa một cách toàn diện. Liên minh muộn mằn với Hoa Kỳ nếu có cũng chỉ cải thiện tình hình phần nào mà thôi.


Lối thoát bằng gia tăng quân sự, nhất là mua vũ khí từ Nga, một nước đang xích lại gần Trung Quốc thì chẳng có ý nghĩa gì ngoài tâm lý tự trấn an. Vả lại, trong phương sách giữ nước thì chính trị cao hơn quân sự, chính trị sai lầm thì quân sự cũng vô ích.


Lối thoát theo con đường Putin, một thứ cộng sản biến tướng, độc tài và tham nhũng? Nếu xuất hiện một Putin tại ViệtNam, Trung Quốc sẽ thừa sức mua hoặc diệt Putin đó bằng tất cả sức mạnh của mình.


Lối thoát duy nhất là dựa vào lòng yêu nước của dân đứng lên chống giặc. Nhưng lâu nay Đảng sợ dân hơn sợ Tàu, sợ dân chủ hơn sợ mất nước. Đảng đã tước vũ khí của nhân dân một cách toàn diện và trở thành đối lập với dân lâu rồi. Nhân dân đang trắng tay, dễ gì chống cả nội xâm lẫn ngoại xâm đang cấu kết?


Tuy vậy, chỉ có từ nhân dân mới hé ra hy vọng, vì sức mạnh của nhân dân luôn là một ẩn số, nó dao động từ sức mạnh của một đàn cừu đến một sức mạnh Phù Đổng, phá hết mọi gông xiềng, không ai có thể biết trước. Sự đột biến của nhân dân không tách rời sự thức tỉnh của lực lượng trí thức tinh hoa và sức mạnh của thế giới tiến bộ và các nước lớn văn minh.


Tôi nhìn vụ giàn khoan HD-981 trong bối cảnh như vậy.


Lý Kiến Trúc: Để tạm chấm dứt cuộc trao đổi hôm nay, thưa ông Hà Sĩ Phu, thưa ông Mai Thái Lĩnh, hai ông có cho rằng giải pháp cuối cùng để Việt Nam cất cánh cùng thế giới là phải giải thế Đảng Cộng sản và chia tay hoàn toàn với Trung Quốc về ý thức hệ? Và điều đó có thể xảy ra không?


Hà Sĩ Phu: Không hiểu sao, ngay trong những ngày Tết Con Ngựa tôi đã linh cảm thấy một cái gì bất thường, sôi động sẽ đến trong năm 2014, mặc dù phía nhà cầm quyền vẫn tỏ ra kiên định trong mọi quyết sách và cách ứng xử. Tôi có ra một vế đối thế này: “Đánh cho dân tộc tan hoang, trận đánh đẹp đáng ghi vào lịch sử“. Có một cái tích là đại tá công an Đỗ Hữu Ca chỉ huy một “trận đánh”, dùng cả quân đội lẫn công an, bố trí mọi thứ y như một trận đánh địch để đánh vào dân oan rồi tuyên bố đây là một trận đánh đẹp và đáng ghi vào sách. Tôi nhại luôn câu đó. Nói về chiến công của Đảng Cộng sản Việt Nam thì đánh Pháp là chuyện nhỏ, đánh Mỹ thì không đâu vào đâu, đánh Trung Quốc thì đánh xong lại phải xin lỗi, cũng không phải là chiến công gì ghê gớm, chỉ duy cái chiến công mà tôi cho là to lớn nhất của Đảng là đánh vào chính dân tộc Việt Nam, sử dụng rồi làm triệt tiêu tất cả những ưu điểm của dân tộc. Dân tộc nào cũng có phần ưu phần nhược, nhưng đặc biệt dưới thể chế cộng sản thì những nhược điểm lại được khuếch đại, còn những ưu điểm bị tiêu mòn. Dân tộc Việt Nam vốn rất nhân ái, sao bây giờ cái thú tính lại ghê thế, giết nhau như bỡn, ngày nào cũng có hàng chục trận giết nhau? Hay là, một dân tộc rất yêu nước, thế mà bây giờ cứ sợ nói yêu nước, nói chuyện yêu nước là “run như cầy sấy”, y như là đi ăn trộm. Tóm lại, ai đã đánh cho dân tộc Việt Nam mất hết tất cả những truyền thống tốt đẹp đó? Trước đây Pháp tám mươi năm đô hộ không đồng hóa được Việt Nam, Tàu một nghìn năm đô hộ không làm mất được cái chất dân tộc Việt Nam, thế mà chỉ có mấy chục năm cai trị của Đảng Cộng sản là mất đến tận gốc! Tôi xin dùng lại chữ của ông Dương Trung Quốc là“chúng ta ngày nay đã bị mất gốc hoàn toàn”. Tôi cho rằng đánh được cho dân tộc Việt Nam mất gốc hoàn toàn thì đấy là chiến công đáng ghi vào sử sách nhất và rõ ràng nhất, không ai có thể cãi được là của Đảng!


Vế đối của tôi tưởng đã là ghê gớm, nhưng cái vế của người ứng đối cũng sắc sảo không kém. Đó là một nhân vật tên là Mai Xuân Hương, giới thiệu trên trang Ba Sàm, một trang chuyên về chính trị, kinh tế, ít đi vào văn học. Ông ấy đối rằng: Tiêu vì chiêu bài giải phóng, lính đánh thuê sao gọi đấy anh hùng”. Tiêu tức là chết, vì cái chiêu bài giải phóng Miền Nam. Một cái Miền Bắc chưa văn minh, lại đánh vào Miền Nam là cái anh ở trong một hệ thống tuy còn là dân chủ sơ khai nhưng cũng là cái văn minh bình thường của thế giới, tóm lại là một nền văn minh kém lại đòi giải phóng một nền văn minh cao hơn. Chính vì thế mà chết, cho nên “Tiêu vì chiêu bài giải phóng”. Nửa thứ hai của vế đối này mới ác: “Lính đánh thuê sao gọi đấy anh hùng”. Lấy “lính đánh thuê” đối với “trận đánh đẹp“! Câu này muốn nói rằng mọi cuộc chiến tranh của ta chẳng qua là đánh thuê, đánh thuê cho Liên Xô, đánh thuê cho Trung Quốc. Chính ông Lê Duẩn đã công nhận rồi, ông ấy nói là ta đánh đây cũng là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc! Nhưng có một điều mà ít người nghĩ tới là cả dân tộc mình đánh thuê cho Đảng Cộng sản Việt Nam! Bỏ rất nhiều sinh mệnh, tài sản, công lao vào chiến tranh, để rồi sau đó chiến công, thành quả có cái gì là Đảng giữ hết chứ dân được gì đâu, được mấy cái ghế của 14 ông vua và một tập đoàn lợi ích nhóm! Tóm lại nhân dân là lính đánh thuê với giá rất rẻ cho Đảng. Mà đã gọi là lính đánh thuê, hy sinh trong ngộ nhận thì không thể gọi là anh hùng, thậm chí khó gọi là liệt sĩ dù cho sự hy sinh đó là phi thường, là rất đáng cảm phục! Nỗi cảm thương và hối tiếc quá lớn cho dân tộc ngót một thế kỷ, tất cả nay cần được định danh hết lại cho đúng.Cũng vì thế, trong những câu đối năm Con Ngựa này tôi đã dành 3-4 câu  để xét lại cái lô-cốt cuối cùng: Dân Việt nuôi con ngựa Hồ khác nào nuôi “ngựa thành Troy”?


Mai Thái Lĩnh: Qua việc nghiên cứu và phê phán chủ nghĩa Marx, khoảng năm 2004-2005 tôi tình cờ đọc được một số tài liệu về ông Phan Châu Trinh. Bây giờ tôi mới thấy cái nhìn của ông Phan Châu Trinh thật sự là đúng đắn. Tôi đã có dịp trình bày qua một số bài viết, và sắp tới cũng còn phải viết nhiều nữa, bởi vì những tài liệu về Phan Châu Trinh hiện còn ít và rải rác. Nhất là về giai đoạn ông qua Pháp thì rất ít người biết, những người biết thì lại cố tình diễn giảng nó theo một hướng khác. Ví dụ có người diễn giảng rằng ông Phan Châu Trinh ở gần ông Nguyễn Ái Quốc mà tại sao không tiếp thu cái tinh hoa của ông Nguyễn Ái Quốc, nhưng thật ra ông Nguyễn Ái Quốc không thể nào có tầm tư tưởng bằng ông Phan Châu Trinh được. Ý tưởng đúng đắn nhất của ông Phan Châu Trinh về vấn đề chủ quyền là: một đất nước chỉ có thể được giữ gìn khi giao nó cho toàn dân, chỉ có toàn dân mới giữ gìn được một đất nước, chứ không có một gia đình nào, một dòng họ hay là một đảng phái chính trị nào, dù tập trung quyền lực trong tay, có thể gìn giữ được.


Lý Kiến Trúc: Xin chân thành cảm ơn hai ông.


© 2014 Lý Kiến Trúc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh & pro&contra




[1] Tuyên bố của Chính phủ Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về Lãnh hải ngày 4/9/1958


“Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nay tuyên bố:


(1) Chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý. Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.


(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm căn bản của bờ biển trên đất liền và các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường căn bản của lãnh hải dọc theo đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường căn bản là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường căn bản, kể cả vịnh Bohai và eo biển Giongzhou, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo bên trong các đường căn bản, kể cả đảo Dongyin, đảo Gaodeng, đảo Mazu, đảo Baiquan, đảo Niaoqin, đảo Ðại và Tiểu Jinmen, đảo Dadam, đảo Erdan, và đảo Dongdinh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.


(3) Nếu không có sự cho phép của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính Phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.


(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.


Ðài Loan và Bành Hồ hiện còn bị cưỡng chiếm bởi Hoa Kỳ. Ðây là hành động bất hợp pháp vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Bành Hồ đang chờ được chiếm lại. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại các phần đất này trong tương lai. Các nước ngoài không nên xen vào các vấn đề nội bộ của Trung Quốc”.


Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai ngày 14/9/1958:


“Thưa đồng chí Tổng lý


Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.


Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.


Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”


Xem thêm: “Công hàm Phạm Văn Đồng làm lung lay yêu sách chủ quyền của Việt Nam“, bài viết của Sam Bateman trên Eurasia Review ngày 15/5/2014, bản dịch của Đoan Trang.


(Chú thích của pro&contra)

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 27, 2014 03:53

May 26, 2014

Lý Kiến Trúc phỏng vấn Hà Sĩ Phu và Mai Thái Lĩnh – Phần 2: Con đường đổi mới

Xem kì 1: Nhóm Đà Lạt


Lý Kiến Trúc: Xin được trở lại với ông Mai Thái Lĩnh. Thưa ông, năm xưa ông đã thoát ly môi trường đang sống để đi theo cộng sản, bây giờ ông lại từ bỏ Đảng Cộng sản. Trải qua một quá trình lâu dài và qua nhiều chế độ như vậy, ông nhận định thế nào về con đường chính trị của Việt Nam hiện nay cũng như con đường của Đảng Cộng sản sắp tới?


Mai Thái Lĩnh: Tôi hình dung quá trình đổi mới của Việt Nam là như thế này: Năm 86 có thể coi là thời điểm Đảng Cộng sản đổi mới, nhưng đáng tiếc là ở Việt Nam cuộc đổi mới đó – như rất nhiều người, kể cả một số đảng viên cao cấp, đã nói – chỉ là đổi mới một hướng, là đổi mới kinh tế chứ không đổi mới về chính trị và tư tưởng. Cái hạn chế lớn là đến khoảng năm 89-90, khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đi sang một số nước xã hội chủ nghĩa thấy hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ thì ông ấy lo sợ và cố tìm cách bảo vệ cái đảng này. Cho nên công cuộc đổi mới bị khựng lại từ đó. Sự đổi mới này là đổi mới chỉ có một chân, và cái chân quan trọng là chính trị như tôi đã phân tích trong một số tác phẩm, thì lại không đổi mới.


Như tôi đã nói, tôi học chủ nghĩa Marx qua hai cách khác nhau. Trước năm 1975 tôi có học triết học Đông phương, triết học Tây phương, trong đó có cả Marx. Sau năm 75 tôi lại được học Marx-Lenin ngay trong Trường Đảng. Từ hai cách học khác nhau đó tôi thấy được cái gốc của vấn đề. Đối với một đảng cộng sản, cái quan trọng hàng đầu mà người ta cứ nói nhập tâm: chỉ có hai vấn đề, một là chính trị tư tưởng, hai là tổ chức. Nhiều người, kể cả các học giả Tây phương, khi nghiên cứu về chủ nghĩa Marx hay chủ nghĩa cộng sản họ không hiểu điều này. Đối với  người cộng sản thì sức mạnh của họ là do cái đầu. Khi họ nhồi tất cả cái đầu đi về một hướng thì tất cả tạo thành một sức mạnh, cho nên họ rất sợ cái chất keo này nó rã ra. Về mặt chính trị tư tưởng và tổ chức, họ lo sợ mất quyền nên không thay đổi. Tôi nghĩ đó là một điều đáng tiếc cho Việt Nam. Khi mấy anh em ở Đà Lạt chúng tôi phát hiện ra điều này thì đã xảy ra một cuộc va chạm. Một số vị trong Đảng thực sự có ý thức đối với dân tộc và có suy nghĩ độc lập thì từ từ họ hưởng ứng chúng tôi, nhưng ngược lại về phía ban lãnh đạo thì họ rất khó chịu.


Về con đường của Việt Nam hiện nay, vấn đề thì đã được đặt ra rồi, nhưng đổi mới theo cách nào vẫn đang còn là khó khăn rất lớn. Hiện nay người ta giả định rằng trong Đảng có hai xu hướng khác nhau, tạm gọi như thế, một được coi là tiến bộ-cấp tiến, một bị coi là bảo thủ-giáo điều. Nhưng cái khó nhất ở đây là trong nội bộ Đảng, cái gì cũng bị bưng bít. Những người bảo thủ-giáo điều không cần sợ gì cả vì họ đi theo con đường mòn, họ không bao giờ phải chịu trách nhiệm; lỡ có gì thì họ chỉ bị kiểm điểm sơ sơ rồi cũng hạ cánh an toàn thôi. Còn nếu anh có tư tưởng đổi mới, tiến bộ mà để lộ ra là anh bị gạt ra ngoài liền. Cho nên chúng ta không thể phân biệt được trong Đảng ai là thật sự đổi mới, ai không thật sự đổi mới. Chúng tôi chỉ xác nhận những người sau đây là thực sự đổi mới: chẳng hạn như ông Nguyễn Hộ hay ông Trần Độ; đó là những người có quyết tâm đổi mới, còn đối với những người khác chúng tôi thấy rất lờ mờ, không rõ ràng. Đó là điều rất khó cho người ở bên ngoài Đảng.


Vừa rồi có một cuộc gặp gỡ trao đổi giữa một số anh em ở đây với một số anh em ở Sài Gòn (trong phong trào học sinh, sinh viên cũ của Sài Gòn). Có hai vấn đề được đặt ra. Một là: ở trong Đảng có một bộ phận tiến bộ-đổi mới hay không? Chúng tôi nghĩ là có, nhưng sức mạnh được bao nhiêu, khả năng chuyển đổi bao nhiêu thì chúng tôi không rõ. Hai là: mối quan hệ giữa “bên trong” (đấu tranh trong nội bộ Đảng) và “bên ngoài” (cuộc đấu tranh ngoài xã hội). Bên nào là quan trọng hơn? Đối với vấn đề này thì giữa chúng tôi không có sự thống nhất. Một số anh em cho rằng “bên trong” quan trọng hơn, nhưng anh Hà Sĩ Phu, tôi và cả một số anh em khác nữa thì quan niệm “bên ngoài” mới là quan trọng. Phong trào đấu tranh ôn hòa bên ngoài phải mạnh thì mới tạo điều kiện cho cánh tiến bộ trong Đảng phát triển lên, chứ chỉ trông chờ vào bản thân Đảng Cộng sản thì… Cho đến cái tuổi này (tôi đã gần 70 rồi, còn anh Hà Sĩ Phu thì đã qua cái tuổi ấy), khi nhìn vào quá trình phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng tôi cảm thấy đừng hoài công vô ích chờ đợi sự đổi mới từ bên trong. Vì Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời khác với các đảng cộng sản ở Đông Âu. Ở Đông Âu, do áp lực của Liên Xô nên họ mới bị áp đặt chế độ cộng sản. Hơn nữa, ở các nước đó trước kia đã có một nhánh gọi là đảng dân chủ-xã hội, sau Chiến tranh Thế giới thứ hai thì các đảng cộng sản Đông Âu buộc các đảng dân chủ-xã hội phải nhập vào đảng của họ, anh nào không chịu nhập thì họ đuổi đi hoặc tìm cách đàn áp, cho nên dù sao thì trong lòng các đảng cộng sản Đông Âu vẫn có sẵn một cái mầm dân chủ-xã hội cũ. Có nghĩa là yếu tố đổi mới của họ vẫn có trong lòng, cho nên chúng ta mới thấy sự kiện 1956 của Hungary, sự kiện 1968 của Tiệp Khắc, chứ Việt Nam làm gì có? Việt Nam mới mon men đến “Nhân văn-Giai phẩm” là bị dập rồi, mà mức độ đổi mới lúc đó còn rất thấp. Cho nên tôi nghĩ đừng hi vọng Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam “tự đổi mới”.


Cách làm việc, thói quen của một đảng cộng sản cũng không có gì là rõ ràng. Cho nên đối với những ý kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chúng tôi cũng chưa dám khẳng định là đến mức nào, và có thực tâm hay không. Còn cần phải có thời gian, phải chờ thực tế chúng ta mới thấy rõ. Tôi nhớ đã đọc được trên một tờ báo Liên Xô bằng tiếng Pháp thời kỳ đối mới, ông Thủ tướng cộng sản cuối cùng của Ba Lan có nói một câu đại ý: đừng nói cái này là do tôi, tôi là Thủ tướng nhưng tôi chỉ làm những gì mà Bộ Chính trị quyết, chứ tôi có quyền gì đâu! Trong lúc dầu sôi lửa bỏng như thế ông Thủ tướng ấy mới nói được, chứ trong tình hình Việt Nam tôi nghĩ ông Nguyễn Tấn Dũng chưa chắc dám nói hết những gì mình muốn nói. Chúng tôi không chủ trương ủng hộ riêng một cá nhân nào, nhưng chúng tôi cũng không tuyệt đối từ chối bất cứ cá nhân nào. Bởi vì bất cứ người cộng sản nào, kể cả những người được đánh giá là bảo thủ, nếu có những hành động thực tiễn, những quan điểm đúng đắn, làm được việc tốt thì chúng ta cũng hoan nghênh.


Trong thông điệp đầu năm, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nói về vấn đề đổi mới, nhưng tôi chưa thấy rõ là “đổi mới thể chế kinh tế” hay “đổi mới về chính trị”. Có thể là vì ở cương vị của ổng, ổng không dám nói hết. Mà hiện nay có một đề tài  sắp tới tôi sẽ viết thêm một số bài để làm rõ hơn: cánh tả có hai quan niệm đổi mới khác nhau. Quan niệm thứ nhất được gọi là dân chủ-xã hội (social democracy), quan niệm thứ hai là chủ nghĩa xã hội dân chủ (democratic socialism). Trước đây hai quan niệm này giống nhau nhưng khoảng từ đầu thập niên 80 đến nay bắt đầu tách hẳn. Quan niệm dân chủ-xã hội ngày nay không nói gì tới chủ nghĩa xã hội nữa, mà người ta khẳng định chắc chắn rằng nền kinh tế vẫn phải là kinh tế thị trường, với chủ nghĩa tư bản, chứ cũng chưa ai tìm ra cái gì thay thế nó. Vậy chỉ còn cách dùng hệ thống chính trị để điều chỉnh thế nào cho có được sự công bằng trong xã hội, phân phối một cách công bằng, phát triển một cách đúng hướng, hạn chế những tác hại của kinh tế thị trường, chứ nếu thả nó ra thì sẽ xảy ra chuyện này chuyện kia, chứ họ không còn nói gì tới một thứ chủ nghĩa xã hội nào để thay thế chủ nghĩa tư bản cả. Ngược lại, phái được gọi là chủ nghĩa xã hội dân chủ thì họ vẫn cho rằng phải xây dựng chủ nghĩa xã hội để thay chủ nghĩa tư bản, và chỉ khác nhau ở chỗ dùng phương pháp dân chủ. Như vậy là có sự khác nhau: một bên coi dân chủ chỉ là phương pháp, một bên lại coi dân chủ là nguyên tắc. Tôi xin nêu ví dụ: tại Đức, Đảng Dân chủ-Xã hội lâu đời SPD hiện nay trở thành một đảng trung tả (center-left), tức là nếu nhích thêm một tí nữa họ sẽ giống với Đảng Dân chủ Mỹ. Tôi cứ hình dung: nếu họ ngả thêm tí nữa sang phía hữu, rồi Đảng Dân chủ Mỹ ngả sang phía tả thêm tí nữa thì hai anh sẽ giống nhau, nghĩa là Châu Âu và Hoa Kỳ gần giống nhau. Ngược lại, đảng được gọi là Đảng Cánh tả (The Left), tức là đảng của ông Gysi vừa rồi phát biểu có phần nào bênh vực ông Putin, lại chính là hậu duệ của Đảng Cộng sản Đông Đức trước đây, cộng với một bộ phận của Đảng SPD do không bằng lòng với đảng cũ mà tách ra. Chính đảng này (Đảng Cánh tả) thể hiện một cách đổi mới mà người ta gọi là Chủ nghĩa Xã hội Dân chủ chứ không phải là Dân chủ-Xã hội. Dân chủ-Xã hội ngày nay không còn quan niệm như xưa nữa. Thành ra đọc thông điệp đầu năm của Thủ tướng tôi có cảm giác như vẫn còn nằm trong xu hướng Chủ nghĩa Xã hội Dân chủ, cho nên tôi cũng chưa biết là đổi mới chính trị thì đổi đến mức nào. Do đó tôi chưa dám khẳng định. Nhưng cũng xin nói thêm rằng: nếu đổi mới được theo hướng như thế thì dù sao cũng là một bước đáng hoan nghênh, tuy thật ra thì cũng chỉ là “đi được nửa con đường” mà thôi.


Lý Kiến Trúc: Tiếp tục đề tài này, xin hỏi ý kiến ông Hà Sĩ Phu, ông nghĩ thế nào về quan điểm đổi mới của ông Nguyễn Tấn Dũng hiện nay?


Hà Sĩ Phu: Trước hết tôi đề cập vấn đề giữa lời nói và con người thật, con người phát ngôn.  Hiện nay thế nào là đúng, thế nào là chân lý thì con đường của toàn nhân loại đã quá rõ. Thứ hai là con đường của Việt Nam phải trở thành cái gì cũng rất rõ. Tóm lại cái chân lý để nói cho đúng khách quan thì rất rõ rồi, những người cộng sản có nói những lời hay nhất thì cũng chỉ mới là nói một phần của chân lý thôi, chưa phải đã nói đến tận cùng chân lý. Nhưng những câu nói có chút tốt đẹp đó cũng rất đáng hoan nghênh, bởi vì trong cái hệ thống này trước đây người ta toàn nói ngược với chân lý, nói ngược với tiến hóa. Bây giờ dám nói thế thì cũng đáng hoan nghênh quá rồi, nhưng cái điều quan trọng là phải phân biệt lời nói của con người ấy với thực chất con người ấy.


Ví dụ rất nhiều người trong cuộc đấu tranh dân chủ hiện nay cứ phải trích lời cụ Hồ. Cụ Hồ cũng có nhiều câu nói được lắm chứ, ví dụ như câu “nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ“. Câu nói ấy quá mạnh, câu nói ấy nghe được quá, nhưng mà con người thì sao? Nói thế nhưng cả đời ông Hồ chưa bao giờ tạo điều kiện để thực hiện điều ấy. Để thực hiện điều ấy, để đuổi được chính phủ thì phải có luật, phải có tổ chức. Nhưng “cụ” không bao giờ tạo ra những điều kiện đó!


Tóm lại phải soi điều ấy vào những câu nói tốt đẹp, ví dụ lời nói của ông Nguyễn Văn An, lời nói của ông Nguyễn Tấn Dũng vừa rồi, rất đáng hoan nghênh, nếu làm được đúng như nói thì tốt quá. Nhưng tôi cũng nghĩ như anh Lĩnh, xã hội hiện nay bị bưng bít, chẳng những là bưng bít với nhân dân mà ngay trong Đảng với nhau nữa, họ cũng trói buộc nhau ghê lắm. Đã ở trong Đảng là phải theo kỷ luật Đảng, đâu có thể khác được, vì thế cho nên giữa lời nói với thực tế còn một khoảng cách rất xa. Cho nên khi ta ủng hộ thì phải nhớ đến điều này: tôi ủng hộ câu đó, câu đó là một phần của chân lý đấy, nhưng tôi không ủng hộ con người đó đâu nhé. Anh nói câu đó nhưng phải xem anh có phấn đấu tạo điều kiện để làm cái đó hay không, khả năng ấy tôi còn để ngỏ. Ta khen những câu của ông Nguyễn Văn An trước đây, khen những cái lời phát biểu đầu xuân vừa rồi của ông Nguyễn Tấn Dũng. Khen là rất đúng, nói những câu đó là rất đáng mừng, nhưng không được dừng ở đấy mà phải nói luôn rằng, cái đó nếu mà chỉ nói cho vừa lòng dân thôi thì là nói xạo. Đáng lẽ câu đó nâng con người anh lên, nhưng nếu chứng minh được rằng anh lại không làm như thế, hoặc làm ngược lại, thì chính câu nói đó sẽ làm giảm lòng tin đối với anh thôi, chứ không phải cứ có một câu nói hay đã là tốt đâu. Câu nói hay mà làm theo đó thì nó nâng uy tín của anh lên thật sự, thậm chí uy tín có thể đến mức độ lật đổ được phía đối lập bảo thủ, nhưng nếu không thực hiện thì tác dụng lại dội ngược, nghĩa là anh tạo ra một cái bài PR cho mình, tạo ra một cái hy vọng nhất thời, nhưng rồi lại tịt, rồi lại làm một phi vụ khác, một cú “nổ” khác, tạo một hy vọng khác!


Nếu lặp lại cái đó hai, ba lần thì những lời hay đó sẽ mất tác dụng. Tôi sợ rằng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã lặp lại cái bài đó hai, ba lần rồi. Một lần ông ấy nói rằng phải có luật để cho nhân dân được biểu tình, cho nên trí thức Hà Nội đã biểu tình ủng hộ Thủ tướng, nhưng chính cuộc biểu tình đó lại bị đàn áp luôn! Lần thứ hai là về bảo vệ đất nước bảo vệ biển đảo, ông ấy nói rằng trước đây Miền Nam đã có công giữ biển đảo thì ta cũng phải kỷ niệm cũng phải ca ngợi, nhưng cuối cùng cũng không thực hiện được. Thế là lần thứ hai một câu nói rất hay bị hỏng. Lần thứ ba này có vẻ mạnh mẽ hơn, có lẽ vì đã có một lực lượng nào đấy đứng đằng sau ủng hộ. Chúng tôi cũng hoan nghênh, nhưng có hoan nghênh được nhân vật ấy hay không thì còn phải chờ.


Lý Kiến Trúc: Một người cũng rất có uy tín, được biết từ trong nước tới hải ngoại, là giáo sư Tương Lai, đã có một bài viết . Sau đó lại có một loạt bài phản biện, có vẻ như đả kích giáo sư Tương Lai. Ông có nghĩ là tính dân chủ đa nguyên đã từ từ nảy mầm ở Việt Nam như vậy không?


Hà Sĩ Phu: Những tích lũy về lượng từ nhiều năm nay đã khiến cho năm 2014 này thành thời điểm có những biến đổi nhiều hơn về chất, nhà cầm quyền tức là Đảng Cộng sản cũng thấy là không thể cai trị theo kiểu cũ nữa, cho nên chính trong họ cũng phải xuất hiện nhiều kiểu nói, nhiều cách ứng xử.  Nhưng tôi phải nói ngay là mở ra ở mặt này thì đóng lại ở mặt khác. Ví dụ việc thả ông Cù Huy Hà Vũ, ông Đinh Đăng Định, ông Nguyễn Tiến Trung…, nhiều người cho rằng đấy là biểu hiện của sự cởi mở, nhưng đừng nhầm. Đó là ngôn ngữ để nói với Hoa Kỳ, đó là cái quân bài để trao đổi hàng hóa đối lưu với Hoa Kỳ, chứ bên cạnh việc đó Đảng Cộng sản luôn luôn nói lại với dân, rằng đừng tưởng bở, đừng tưởng tôi thả như thế là trong nước cứ làm bậy đâu! Chính trong lúc đó thì lại có những cú bắt người, đánh người và có người chết trong đồn công an nữa chứ. Tôi đang được yên tĩnh một hai năm nay thì chính lúc đó bỗng nhiên bị gọi lên “làm việc lại”, và tôi phải ra thông cáo là tôi cương quyết không “làm việc lại”. Rồi ông Phạm Đình Trọng cũng bị bắt “làm việc lại”, gần đây là ông Phạm Bá Hải… Người ta làm thế ở đây để nói với Hoa Kỳ: anh đòi thả thì tôi thả nhưng anh đừng tưởng bở, tôi chưa có gì thay đổi đâu.


Thời gian này tình hình rất phức tạp, cái biểu hiện bên ngoài với cái thực chất bên trong có khi không phải là một. Phía chính quyền, có khi nói rất hay nhưng trong bụng chưa thay đổi gì cả, đấy là một kiểu. Kiểu thứ hai là có người ở phía dân chủ muốn thay đổi rất nhiều nhưng lại phải chọn cách nói nội bộ, cách nói ôn hòa. Ngược lại, có người phê phán tiêu cực rất mạnh nhưng kỳ thực chỉ muốn ủng hộ một phe phái trong Đảng. Tóm lại là cả hai bên đều dối trá. Anh bảo thủ thì dối trá nói lời tốt đẹp để mua phiếu hay để được lòng dân, song kỳ thực bên trong những cái chốt vẫn giữ nguyên không thay đổi gì cả, đấy là cái dối trá của người cầm quyền. Nhưng phía những người dân chủ cũng có dối trá, tôi gọi là dối trá thôi, nhưng với phía dân chủ thì đó là phương pháp: ví dụ tôi biết cuối cùng phải đi đến điểm Y điểm Z này, nhưng khởi đầu mà nói đến điểm Z thì chết ngay, khởi đầu thì cũng phải nói từ ABC. Cho nên giữa lời nói và thực tế luôn luôn cứ phải đánh dấu hỏi, mà chỉ có những người trong cuộc mới hiểu đúng, mới phân định đúng. Có hai loại người trong cuộc, thứ nhất là người cầm quyền, độc tài, họ phân định đúng vô cùng, dù cho anh có lựa lời nói rất nội bộ rất ôn hòa họ vẫn biết ngay anh có nguy hiểm cho họ hay không. Trái lại có người nói rất mạnh nhưng họ biết ngay người này không mạnh hay chỉ đánh mạnh  ngoài da, cái mạnh đó chỉ là cú đấm vào chân vào tay chứ không chọc vào huyệt. Là người trong cuộc, người cầm quyền họ phân định rất đúng, họ trừng trị ai là họ biết người đó nguy hiểm. Trái lại có những anh rất hùng hổ, quơ chân quơ tay nhưng họ vẫn không trừng trị. Loại người trong cuộc thứ hai là những người đã từng lăn lộn trong công cuộc dân chủ đổi mới của đất nước này, đã từng bị tù tội, đã bị trừng trị rất nhiều năm. Cái nhìn của người trong cuộc ấy mới không bị lừa, chứ những người mới đứng bên rìa, chỉ căn cứ vào thông tin bên ngoài thì rất dễ ngộ nhận, giữa cái người ta nói ra với cái thực chất trong đầu thì vẫn chưa có máy dò để xác định được. Đánh giá đúng một nhân vật phải là những người trong cuộc ông ạ.


Lý Kiến Trúc: Thưa ông Mai Thái Lĩnh, qua những nhận định của ông Hà Sĩ Phu, ông có cho rằng những người trong cuộc loại thứ nhất, tức những người cầm quyền của Đảng, hiện đang chuẩn bị từng bước để tiến tới Đại hội 12, sẽ đem lại thay đổi lớn nào cho Việt Nam không?


Mai Thái Lĩnh: Đây cũng chỉ là dự đoán, là hy vọng thôi. Tôi nghĩ rằng Đại hội 12 có khả năng sẽ phải đặt lên bàn nghị sự một số vấn để mà lâu nay họ tránh né. Thứ nhất, đường lối ngoại giao xưa nay của Việt Nam là một thứ chính sách “đu dây”, khi thì ngả sang Hoa Kỳ và phương Tây, khi thì bám vào Trung Quốc, cứ đu dây giữa hai bên, không có gì là rõ ràng. Nhưng cái chính sách đu dây, giỏi làm xiếc ấy của Đảng Cộng sản, theo tôi chỉ thích hợp ngày trước, chứ trong tình hình hiện nay khó có khả năng thực hiện. Tôi mới đọc tin lúc sáng nay là Trung Quốc đã  chuyển cái giàn khoan khổng lồ của họ, trị giá 1 tỷ đô-la, vào khu vực quần đảo Hoàng Sa cách bờ biển Việt Nam chỉ có 120 hải lý, tức là nằm trong 200 hải lý thuộc vùng thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Hành động này rõ ràng nằm trong chính sách trước sau như một của Trung Quốc. Và như tôi đã phân tích trong các bài viết, ngay từ xa xưa cho đến khi họ giành được đất trên đường biên giới trên bộ, họ đã có cả một kế hoạch chuẩn bị chu đáo từng bước một trong lúc phía Việt Nam đối phó một cách bị động, không có kế hoạch, không có hệ thống gì hết. Và bây giờ họ giành từng bước bằng cách đưa giàn khoan tới nơi đó và đương nhiên có lực lượng quân sự đứng đàng sau. Về phía Việt Nam thì điều đáng nói là Đảng Cộng sản Việt Nam xưa nay rất giỏi chỉ huy đánh Mỹ, đánh Pháp, đánh bất cứ đế quốc phương Tây nào, nhưng lại hoàn toàn bất lực trước ông bạn đồng chí Trung Quốc. Nhất là từ sau khi có thỏa thuận trong Hội nghị Thành Đô, những ban lãnh đạo các khóa về sau này cứ chấp hành theo những thỏa thuận đó chứ không dám thay đổi. Vậy thì trong Đại hội này dứt khoát phải giải quyết vấn đề đó.


Thứ hai là về mặt kinh tế. Vừa rồi, sau khi đã mở cửa phát triển kinh tế một thời gian, nâng được tốc độ tăng trưởng lên – nhưng cũng một phần là nhờ tiền đi vay – thì bây giờ nước ta bước vào cái ngưỡng gọi là thu nhập trung bình. Tôi không rành về kinh tế lắm nhưng được biết có một chuyên gia Nhật Bản phát biểu rằng Việt Nam có thể rơi vào “cái bẫy thu nhập trung bình”. Theo tôi hiểu, điều đó có nghĩa là khi vượt từ mức thu nhập kém lên đến mức thu nhập trung bình mà anh làm ăn dở thì có thể trong vòng 40-50 năm sau anh cứ loay hoay mãi trong “cái bẫy thu nhập trung bình” đó chứ không vượt lên được. Theo chuyên gia kinh tế người Nhật Bản ấy thì việc rơi vào “cái bẫy thu nhập trung bình” đã trở thành hiện thực rồi. Nếu không có sự chỉnh đốn thì chúng ta sẽ giậm chân mãi ở đó và có thể sẽ mất một hai thế hệ chúng ta vẫn là một nước nghèo. Như vậy, phải làm ăn theo cách nào khác chứ không thể như cũ nữa.


Thứ ba là vấn đề thể chế chính trị. Nhiều người khi nói về chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Marx thì chủ yếu chỉ nói về kinh tế. Không phải như thế. Có một tác giả người Mỹ, bà Sheri Berman, viết về dân chủ-xã hội khoảng 2008, rất giống ý tưởng của tôi trong cuốn Huyền thoại về một Nhà nước tự tiêu vong: cái phân biệt giữa những người cộng sản và những người dân chủ-xã hội chính là vấn đề chính trị chứ không phải vấn đề kinh tế. Những người dân chủ-xã hội chọn con đường chính trị là một chế độ dân chủ, từ đó họ mới bắt đầu thay đổi đường lối kinh tế của họ, trong khi những người cộng sản lại chọn con đường chính trị là chuyên chính vô sản, nghĩa là chọn chế độ độc tài chứ không chọn chế độ dân chủ, cho nên về kinh tế họ đi theo một hướng hoàn toàn khác và rơi vào bế tắc. Cho nên chính trị là quan trọng nhất, thay đổi chế độ chính trị thì sẽ chuyển được nhiều thứ. Nếu chỉ thay đổi kinh tế thì cũng không giải quyết được gì. Nếu chỉ thay đổi chính trị từng phần hoặc chỉ thay đổi ở một mức nào đó, cũng không giải quyết được vấn đề.


Ngày xưa, ở Miền Nam tôi có nghe một số giáo sư – nhất là những người thiên tả, hoặc như nhóm ông Ngô Công Đức – hay nói về “chủ nghĩa xã hội không-cộng sản”. Họ cũng giới thiệu Thụy Điển, nhưng rất tiếc là không có ai trình bày rõ Thụy Điển là như thế nào, Bắc Âu là như thế nào. Mãi sau này tôi mới nghiên cứu lại đề tài đó, và tôi thấy ở các nước Bắc Âu họ giải quyết vấn đề dựa trên chế độ dân chủ. Nhờ đó mà họ giải quyết được rất nhiều việc trong đó có vấn đề bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chủ quyền. Mặc dù họ là những nước nhỏ, đứng giữa các cuộc xung đột của các cường quốc, nhưng họ vẫn giữ vững được nền độc lập, vẫn phát triển được kinh tế, đem lại đời sống tốt đẹp cho nhân dân. Tất nhiên mô hình của họ bây giờ cũng gặp khó khăn trong giai đoạn toàn cầu hóa này, nhưng tôi nghĩ rồi đây họ cũng sẽ tìm ra được con đường đi thích hợp, bởi vì họ dựa trên chế độ dân chủ. Ở một mức độ nào đó, tôi nghĩ Đại hội 12 này cũng phải đặt vấn đề đổi mới chính trị chứ không thể bỏ qua được.


(Còn tiếp 1 kì)


© 2014 Lý Kiến Trúc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 26, 2014 06:07

May 25, 2014

Lý Kiến Trúc phỏng vấn Hà Sĩ Phu và Mai Thái Lĩnh – Phần 1: Nhóm Đà Lạt

Trong dịp về nước thăm quần đảo Trường Sa theo lời mời của Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn cuối tháng Tư vừa qua, nhà báo Lý Kiến Trúc từ Nam California có dịp gặp gỡ hai thành viên của nhóm Thân hữu Đà Lạt, ông Hà Sĩ Phu và ông Mai Thái Lĩnh. Cuộc phỏng vấn sau đây diễn ra vào đầu tháng Năm tại nhà riêng của ông Hà Sĩ Phu.


Được những người tham gia tin cậy, tôi đã biên tập bài phỏng vấn này dựa trên bản ghi chép từ băng ghi âm, trong tinh thần giữ đúng nội dung chính, chỉ lược bớt những chi tiết rườm rà không tránh khỏi của một cuộc trò chuyện không định trước, kéo dài khoảng một tiếng rưỡi.


Phạm Thị Hoài


____________


Ngày 5/5/2014, đại diện cho tờ Văn hóa Magazine California, tôi hân hạnh được gặp và trò chuyện với hai nhà tranh đấu dân chủ ở Đà Lạt, ông Hà Sĩ Phu và ông Mai Thái Lĩnh.


Ông Hà Sĩ Phu nổi tiếng với loạt bài: “Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ” (1988), “Chia tay ý thức hệ” (1995). Nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh để đời với luận chứng “Sự thật về Thác Bản Giốc[1], gần đây tạo ra cuộc tranh biện gắt gao với ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Việt Nam.


Lý Kiến Trúc


*


Lý Kiến Trúc: Thưa ông Mai Thái Lĩnh, ông có thể kể sơ qua về hoàn cảnh xuất thân được không?


Mai Thái Lĩnh: Tôi không sinh ra tại Đà Lạt. Bố tôi là người Thanh Hóa, mẹ tôi là người Hà Tĩnh, vào vùng cao nguyên này khoảng năm 1942-1943. Bố tôi tham gia Việt Minh năm 1945 tại Đồng Nai Thượng tức là vùng Di Linh ngày nay, cách đây khoảng 80 km. Khi mẹ tôi mang thai tôi năm 1946, chưa sinh thì người Pháp trở lại Đồng Nai Thượng, bố tôi và tất cả những người trong Ủy ban Kháng chiến phải rút ra ngoài rừng về vùng Bình Thuận, và từ đó coi như chúng tôi mất liên lạc. Có thể nói từ khi sinh ra tôi không hề biết mặt bố tôi, mãi đến sau năm 1975 tôi mới được gặp. Mẹ tôi sau đó tái giá với một người khác và tôi có một số em cùng mẹ khác cha nhưng sống với tôi từ nhỏ đến lớn, và hiện nay hầu như toàn bộ đều ở hải ngoại: ba người em ở Canada, hai người em ở Hoa Kỳ. Coi như ở đây chỉ còn mình tôi. Tôi sống ở Di Linh đến năm 14 tuổi; hết cấp 2 lên Đà Lạt học tiếp và từ đầu thập niên 1960 trở đi thì gia đình tôi mới chuyển lên Đà Lạt. Cho nên tuy không sinh ra tại Đà Lạt, nhưng tính thời gian cư trú ở đây (và có lẽ cho đến cuối đời) thì Đà Lạt là nơi mà tôi sinh sống lâu nhất. Cho nên tôi cũng coi đây như là một quê hương sâu nặng, ngoài cái nơi mà tôi sinh sống suốt thời thơ ấu là Di Linh.


Lý Kiến Trúc: Trước đây, thời sinh viên ông cũng đã có những hoạt động tranh đấu ở Sài Gòn?


Mai Thái Lĩnh: Vâng, thật ra trước kia tôi không tham gia tranh đấu. Khi về học ở Sài Gòn thì từ khoảng năm 1965 tôi tham gia các hoạt động “công tác xã hội” và cùng với anh Nguyễn Đức Quang và anh Đinh Gia Lập là một trong những người sáng lập Phong trào Du ca Việt Nam. Thế nhưng tới những năm mà tình hình thời sự ở Miền Nam có những diễn biến rất là sôi động thì tôi bị lôi kéo giữa hai luồng tư tưởng, trong đó đặc biệt có một số anh em bạn bè bị ảnh hưởng bởi phong trào phản chiến. Lúc đó tôi cũng mong muốn có được một đất nước hòa bình, thống nhất, và một phần cũng do nguồn gốc của mình, rồi cũng do một số ảnh hưởng từ trong các trường đại học mà tôi theo học – nhất là từ các giáo sư học ở Pháp về, nên có xu hướng phản chiến – người ta thường gọi là lực lượng thứ ba. Tất nhiên bây giờ nhìn lại thì rõ là có những điều bồng bột, xốc nổi, có những cái mình suy nghĩ không chín chắn, hoặc là “con đường thứ ba” có một cái gì đó mơ hồ, không có đường lối rõ ràng, vì thế nó dẫn đến những thiệt hại cho dân tộc. Nhưng vào thời tuổi trẻ thì tôi bị lôi cuốn như thế. Năm 1969 tôi tốt nghiệp cử nhân. Năm 70-71 tôi giảng dạy tại Đại học Văn khoa Đà Lạt. Chính trong thời gian đó một số người trong phong trào đấu tranh và bên phía Đảng Cộng Sản biết được “nguồn gốc” của tôi, nên họ tìm cách móc nối. Sau đó đến năm 1972 thì tôi vào trường sĩ quan Thủ Đức, nhưng sau khi ra trường tôi không ra đơn vị mà bỏ ngũ, và sau Hiệp định Paris tôi thoát ly ra ngoài rừng và ở đó cho đến năm 75 mới trở về thành phố.


Từ sau năm 1975, tôi trở về lại ngành giáo dục. Tôi vốn là cử nhân giáo khoa triết học, mà cử nhân giáo khoa triết học thì đối với chế độ này chỉ là con số 0. Họ cho rằng ai học triết là bị nhiễm độc về mặt tư tưởng, cho nên nhiều người tốt nghiệp Cử nhân Triết học như tôi chỉ được chuyển xuống dạy cấp 2 hoặc dạy một môn khác. Chẳng hạn một ông thầy dạy triết của tôi ở đại học bị chuyển sang dạy môn Pháp văn. Trong hoàn cảnh đó, tôi được đưa về một trường trung học làm Phó Hiệu trưởng, nhưng lúc bấy giờ nhiều người trong ngành giáo dục không bằng lòng. Họ cho rằng “anh này là cử nhân giáo khoa triết học mà bây giờ làm phó hiệu trưởng thì sao ảnh làm được”. Lúc đó, một vị lãnh đạo ở đây mới nói với tôi là phải hợp lý hóa bằng cách cho tôi đi học Trường Đảng, tức là tôi lại được đi học triết học một lần nữa, lần này là triết học Mác-Lênin, để “hợp pháp hóa” văn bằng cử nhân. Sau hơn một năm rưỡi đi học tại Trường Đảng, tôi còn phải học thêm mấy tháng trong vài mùa hè nữa thì mới được cấp một cái bằng gọi là Đại học Sư phạm môn Chính trị. Như vậy là tôi tốt nghiệp hai cái bằng: một cái là bằng Cử nhân Giáo khoa Triết học của chế độ Việt Nam Cộng hòa và cái thứ hai là bằng Đại học Sư phạm Chính trị của chế độ cộng sản.


Tôi công tác trong ngành giáo dục đến năm 1988. Do thấy không có kết quả gì đáng kể và cũng do lúc bấy giờ có một số bài báo của tôi đụng chạm đến chế độ, tôi cảm thấy mình làm việc không còn có tác dụng nữa nên xin từ chức lãnh đạo. Ngành giáo dục giải quyết bằng cách “anh không làm lãnh đạo thì anh cũng không thể ở trường này được, vì anh còn ở đây thì không ai lãnh đạo được anh”, do đó tôi chuyển qua trường sư phạm. Lúc bấy giờ thì có lời đề nghị của một vị lãnh đạo thành phố Đà Lạt mời tôi về làm việc, cho nên sau đó tôi ứng cử Hội đồng Nhân dân Thành phố và trúng chức Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố. Tôi làm hết khóa đó (nhiệm kỳ 1989-94), sau đó thì tôi bỏ việc, và từ đó tới giờ tôi là một thường dân. Đó là tóm tắt hoạt động của tôi, có lẽ là hơi dông dài.


Lý Kiến Trúc: Ở trên ông đã nhắc đến Phong trào Du Ca. Ban nhạc Trầm Ca do ông sáng lập phải không ạ?


Mai Thái Lĩnh: Không phải một mình tôi. Trong thời gian học ở Sài Gòn, tôi chơi với một số bạn trong đó có có các anh Nguyễn Đức Quang, Hoàng Kim Châu, Trần Trọng Thảo, Nguyễn Quốc Văn, Đinh Gia Lập. Lúc đầu chỉ có mấy anh em cựu học sinh trường Trần Hưng Đạo thôi, được gọi là ban Trầm Ca. Ban Trầm Ca gồm anh Quang và chúng tôi; trong thực tế thì anh Quang là đầu tàu, là nhạc sĩ duy nhất, bọn tôi về âm nhạc chỉ biết đàn hát cho vui thôi. Sau đó thì chị Phương Oanh ở bên trường âm nhạc cùng tham gia, và chúng tôi trở thành ban Trầm Ca nổi tiếng thời bấy giờ. Chính ban Trầm Ca đó là tiền thân để sau này hình thành nên Phong trào Du Ca. Có thể coi đó là cái sở thích thứ hai của tôi.


Lý Kiến Trúc: Thưa ông Hà Sĩ Phu, là một trí thức xuất thân ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ông đã vào miền Nam từ năm nào?


Hà Sĩ Phu: Cuối 1983 đầu 1984, lúc ấy tôi đang là cán bộ nghiên cứu của Viện Khoa học Việt Nam ở Hà Nội, tôi làm để tài nghiên cứu cấy mô cây sâm và cây tam thất là hai cây đòi khí hậu lạnh. Tôi đã làm xong thí nghiệm trong phòng thí nghiệm, tiếp theo là muốn dùng cái điều kiện tự nhiên ôn đới để phát triển hai cây đó, nên tôi xin chuyển vào Trung tâm Khoa học Đà Lạt để làm tiếp đề tài. Nhưng sau khi tôi vào rồi thì tình hình xã hội của mình thay đổi và những công trình nghiên cứu cơ bản đó cũng không làm được.


Lý Kiến Trúc: Có lẽ đây là cái nhân duyên lạ lùng cho sự gặp gỡ ngày hôm nay, giữa những nhân vật từ nhiều nhánh trong dòng chảy dân tộc Việt Nam. 


Mai Thái Lĩnh: Tôi gặp anh Hà Sĩ Phu vào một giai đoạn sau khi có sự kiện được gọi là “Đổi mới” của Đảng Cộng Sản tức là sau năm 1986, và cũng có thể nói là có “cơ duyên”… Thật ra, lúc đó chúng tôi không cùng làm việc trong một môi trường. Tôi cũng không nhớ lần đầu tiên gặp nhau vào lúc nào, nhưng có lẽ là thông qua một hình thức sinh hoạt ở Hội Văn nghệ tỉnh Lâm Đồng. Anh Hà Sĩ Phu và tôi không phải là dân văn nghệ, đúng ra không phải là nhà văn, nhà thơ. Hội Văn nghệ Lâm Đồng lúc bấy giờ được thành lập năm 1987, anh Bùi Minh Quốc và anh Tiêu Dao Bảo Cự là Chủ tịch và Phó Chủ tịch, anh Hà Sĩ Phu và tôi tham gia trong nhóm được gọi là lý luận nhưng chúng tôi không chuyên về lý luận văn học. Anh Hà Sĩ Phu tuy là dân sinh học nhưng lại thích viết về triết, về tư tưởng chính trị, v.v…, tôi cũng thiên về triết, về tư tưởng chính trị. Lúc đó Hội Văn nghệ Lâm Đồng ra một tờ báo, tờ Lang Bian, mà chúng tôi có tham gia một số bài viết. Có thể coi là một cái hoa mới vừa nở lên và cũng khá nổi tiếng, nhưng chỉ được 3 số thì bị “dứt”. Tiếp theo là sự kiện anh Bùi Minh Quốc và anh Bảo Cự tổ chức một chuyến đi xuyên Việt, đến mỗi tỉnh lại thu thập chữ ký để làm một kiến nghị về vấn đề văn học nghệ thuật. Khi về lại Đà Lạt hai anh bị khai trừ Đảng, anh Hà Sĩ Phu và tôi cùng ở trong một nhóm ký kiến nghị để bảo vệ hai anh đó. Chúng tôi kiên quyết cho rằng việc khai trừ hai ảnh là sai, thế là giữa chúng tôi và lãnh đạo tỉnh sinh ra đụng chạm, từ đó chúng tôi bắt đầu thân nhau. Và cũng trong dịp đó anh Hà Sĩ Phu viết một số bài, bài đầu tiên là “Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ”, ảnh tên thật là Nguyễn Xuân Tụ nhưng dùng bút danh Hà Sĩ Phu. Khi bài viết được tung ra thì mọi người chưa biết là của ai, thế là lãnh đạo các ngành an ninh, văn hóa tư tưởng cứ đi thăm dò, người bảo là của ông Phan Đình Diệu, người lại bảo của ông này ông kia… Cuối cùng vẫn không biết bài đó là của ai, thế mà nó bị vài chục bài trên báo Đảng và báo lý luận đánh tơi bời, làm ầm ầm lên, nên nó trở thành nổi tiếng.


Từ đó chúng tôi bị cuốn vào cùng một dòng chảy. Nói chung chúng tôi đều là những người cầm bút. Tôi thì dù sao cũng đã từng là đại biểu hội đồng nhân dân và cũng đã từng phụ trách cơ quan dân cử ở đây là Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt. Tôi cũng không thể nhắm mắt làm ngơ để anh em trí thức bị đánh, bị vùi dập trong một vùng đất có thể gọi là quê hương của tôi được. Vì vậy mà tôi và một số anh em khác – những người không cầm bút như anh Huỳnh Nhật Hải và anh Huỳnh Nhật Tấn (như anh biết, thường được gọi là “hai anh em họ Huỳnh”, là những người ra Đảng rất sớm), chúng tôi cùng nhau ra sức bảo vệ các nhà trí thức này, thế là tự nhiên hình thành một tình thân hữu và một nhóm. Có những lúc rất khó khăn, các anh ấy bị công an gác rồi quản chế, v.v…; đi thăm mấy ảnh mọi người rất ngại, chỉ có bọn tôi đi tới đi lui thôi. Tình thân giữa chúng tôi bắt đầu vào khoảng 1988-89.


Lý Kiến Trúc: Thưa ông Hà Sĩ Phu, điểm nào ông thấy đắc ý nhất khi gặp gỡ ông Mai Thái Lĩnh và những anh em khác trong cái bối cảnh lúc đó?


Hà Sĩ Phu: Nhóm thân hữu chúng tôi thì cũng đông, nhưng có bốn anh em gần như là trung tâm, là người khởi xướng, có anh Mai Thái Lĩnh, nhà thơ Bùi Minh Quốc, nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự và tôi. Bốn chúng tôi không ai giống ai, xuất thân khác nhau lắm. Tôi vốn chỉ biết nghiên cứu, tức là ở phòng thí nghiệm và bục giảng, không liên quan một tí tẹo nào đến hoạt động xã hội. Nhất là con nhà nho thường kín đáo nhu mì chứ không có gì gọi là xông xáo hoạt động xã hội cả. Mỗi người một khác, cái duyên gắn với nhau nó rất lạ. Nó như thế này: đầu tiên tôi xin vào Đà Lạt để làm khoa học. Như đã nói, tôi làm về cây sâm và cây tam thất. Hai cây thuốc quý đó, sản xuất để nhân dân mình có thuốc dùng, nhưng khi tôi định vào đây để làm thì lúc bấy giờ ta đã có quan hệ với Trung Quốc khá là rộng rãi rồi. Ở Trung Quốc họ trồng sâm, trồng tam thất rẻ lắm. Người ta có sẵn, mình mua, chứ đâu cần phải cầu kỳ sản xuất bằng việc nhân tạo khó khăn, nên công trình đó không có ý nghĩa thực tiễn nữa, tôi phải bỏ.


Rồi đúng lúc anh Bùi Minh Quốc được Tỉnh ủy mời vào đây làm trưởng ban vận động thành lập Hội Văn nghệ Lâm Đồng. Cái vốn nho học của tôi từ xưa, làm thơ làm câu đối, lại trở nên gần gũi với giới văn nghệ của các anh ấy. Trước khi có cái hội đó, tôi cũng đã viết một số bài thơ đăng báo Lâm Đồng rồi.


Bấy giờ văn học chỉ là cái phương tiện chở tư duy của mình. Lúc đó đất nước đang chuyển đổi, không khí đổi mới ập đến, tất cả chúng tôi bốn người khác nhau lại cùng có mặt trong Hội Văn nghệ Lâm Đồng. Và chúng tôi đều có quan hệ với những người cộng sản ly khai, đổi mới trước tiên ở đất nước này, ví dụ chúng tôi đều thân với ông Nguyễn Hộ ai cũng biết, có tác phẩm Quan điểm và cuộc sống. Ông ấy từng có ý định lập chiến khu mà. Sau đó là thân với ông Trần Độ. Có một thời kỳ, không gọi là thân nhưng chúng tôi rất có thiện cảm với ông Võ Văn Kiệt, một người cộng sản cao cấp nhưng có những tư tưởng không đồng nhất với ý kiến đa số.


Bốn người chúng tôi từ bốn phương trời khác nhau, khả năng khác nhau, anh làm thơ, anh làm văn, anh thì giảng dạy nghiên cứu về triết, còn tôi thì một anh về khoa học tự nhiên. Xin nói tại sao khoa học tự nhiên mà lại dính vào chuyện này: ngay từ khi theo học cái khoa Sinh học ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, lúc ấy dạy Mác-Lênin còn nặng lắm, tôi thấy Sinh học và triết học Mác-Lênin mâu thuẫn với nhau vô cùng. Lúc bấy giờ xã hội còn rất ổn định, coi Mác-Lênin là duy nhất khoa học không ai được cãi nửa câu. Nhưng trong những cuộc thảo luận tổ sinh viên tôi đã là người cãi bướng, vì tôi thấy ông Mác, ông Lênin nói nhiều câu chẳng khoa học gì cả. Cái mầm nó có từ đó, cho nên khi vào đây tham gia Hội Văn nghệ thì anh em thấy “ông này với cái tư duy khoa học chiếu vào cái triết học xã hội này có nhiều điểm được lắm”.


Có một hôm tôi với chị Việt Nga, con gái ông Trường Chinh, cùng ngồi nghe báo cáo thời sự. Chị Nga bảo, này anh Tụ, những ý tưởng anh phát biểu làm tôi rất sáng ra; khi nào anh tổng kết lại, nói có hệ thống một chút cho anh em nghe! Thế là có một cuộc mạn đàm, có thêm cả hai nhà khoa học xã hội là Hoàng Ngọc Hiến và Phạm Vĩnh Cư, cả hai đều nghiên cứu về văn học và học ở Nga rất lâu. Buổi đó tôi vẽ một cái sơ đồ như báo cáo khoa học, nghe xong mọi người bảo phải viết ngay bài này ra, đây sẽ là một quả bom. Tôi bảo viết cái này để nó bắt cho thì chết à? Ông Quốc thì bảo không chừng ông Mác còn bảo vệ cho ông đấy, vì ông Mác cũng có nói một câu giống Phật: muốn giác ngộ thì phải nghi ngờ, phải có phản biện. Thì ông cứ phản biện đi!


Thế là tôi bắt tay vào viết bài đầu tiên, dài có 10 trang đánh máy, chính là cái bài “Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của trí tuệ”. Lúc ấy còn quá tin tưởng vào tính xây dựng của mình nên viết xong tôi gửi cho báo Nhân dân, báo Đảng Cộng sản, Hội Nhà văn Việt Nam… Nhiều cơ quan trả lời là rất đồng ý, ví dụ tạp chí Sông Hương hứa sẽ đăng ngay trong số sau, Hội Nhà văn Việt Nam viết thư cám ơn… Ai ngờ chỉ ít lâu sau, ông Đào Duy Tùng vác cái bài đó đi khắp các hội nghị đều nói rằng có một nhóm tập thể nào đó lấy tên Hà Sĩ Phu dám dạy chúng ta về Mác! Thế là thành một câu chuyện rất to. Báo Nhân dân, báo Quân đội, tạp chí Cộng sản… có hơn 30 bài đánh lại bài của tôi, một cái bài rất nhỏ không thấy đăng ở đâu, thậm chí cả triết gia Trần Đức Thảo cũng viết một bài phê phán bài đó. Thành ra…, một thằng khoa học tự nhiên không bao giờ dính vào chính trị, chỉ vì lý luận động vào cái nền tảng chính trị của các ông ấy mà bỗng nhiên bị chính trị hóa. Thế là tôi bị biến thành một nhân vật chính trị. Đồng thời phía hải ngoại lại hoan nghênh, tôi nhớ lúc đấy ông Nguyễn Ngọc Lan và ông Đỗ Mạnh Tri đã giúp tôi, khen một bài viết như thế này sao lại không được đăng, bên ngoài cũng rất ủng hộ, đến bài “Chia tay ý thức hệ” thì đài RFA cũng đọc mấy tháng liền.


Thế là một anh trước giờ chỉ biết phòng thì nghiệm, chỉ biết bục giảng, tự nhiên bị hai bên đẩy vào chính trị, và trong bốn người chúng tôi thì tôi là người bị đẩy vào chính trị sâu nhất, cho nên bị ngay cái án tù một năm, từ năm 95 tới năm 96. Tóm lại cơ sở để bốn người chúng tôi, người thì Bắc người thì Nam, mỗi người chuyên môn khác hẳn nhau, cùng chia sẻ là tư duy khoa học, nhất là tôi với anh Lĩnh, tư duy triết và toán, dùng luận lý khoa học để thấy sự phi lý của cái lý luận chính trị này. Muốn thành người trí thức thì phải dấn thân cho xã hội, bởi vì thành người trí thức là mình nợ xã hội, xã hội cho mình bao nhiêu thứ mình mới thành người trí thức. Chết đi mà mang cái tri thức đó đi thì mình thành ăn quỵt. Chính với cái tư duy đó và cái tấm lòng là phải trả nợ áo cơm, trả nợ kiến thức cho xã hội nên bốn người chúng tôi đều nghĩ giống nhau, đều thấy phải dùng cái vốn của mình vào công cuộc đổi mới. Vậy gặp nhau là gặp nhau ở cái trí, cái đầu, và gắn nhau ở trái tim.


Còn phải kể đến một yếu tố thứ ba, yếu tố ngẫu nhiên, khiến một anh đang ở Hà Nội lại nhảy vào Đà Lạt, rồi do hoàn cảnh đưa đẩy một anh theo cách mạng chính thống từ Miền Bắc như anh Quốc với hai ông gọi là “phong trào” trong Miền Nam là ông Lĩnh với ông Cự lại gắn kết vào nhau. Cái mối gắn kết này khiến công an người ta khó chịu lắm, người ta căm thù cái sự gắn kết đó và tìm mọi cách phân tán ra mà phân tán không được, người ta khai thác sự khác nhau giữa chúng tôi và đã nhiều phen đánh phá, đặc biệt là tách anh Cự anh Quốc ra khỏi tôi với anh Lĩnh nhưng không tách được, chúng tôi có cơ sở quá vững cho nên đánh không ăn thua. Mới vừa rồi thôi, ngày 22/4 là ngày sinh nhật tôi, trùng với sinh nhật ông Lênin, bốn người chúng tôi cùng ngồi với anh em ở đây rất là vui vẻ.


(Còn tiếp 2 kì)


© 2014 Lý Kiến Trúc, Hà Sĩ Phu, Mai Thái Lĩnh & pro&contra






[1] Mai Thái Lĩnh, “Sự thật về Thác Bản Giốc”, Bauxite Vietnam 1011-2-2012


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 25, 2014 10:52

May 21, 2014

Xã hội dân sự: Ngầm dưới sông băng

The Economist


Phan Trinh dịch


Giới thiệu của người dịch


Bài này tuy nói về xã hội dân sự Trung Quốc, nhưng cũng gợi ra nhiều điều đáng suy nghĩ về xã hội dân sự Việt Nam. Dù sao, Trung cộng và Việt cộng đều là bạn cùng “tàu”, và có chung nhiều tật.


Chỉ cần nhìn cách Đảng Cộng sản Việt Nam đàn áp dân Việt Nam biểu tình chống Trung Quốc xâm lược trong nhiều năm, rồi đùng cái cho biểu tình ngày 11/5, rồi đùng cái đàn áp trở lại ngày 18/5 là có thể thấy quan hệ giữa Đảng và dân là một thứ “quan hệ bất trắc, luyến ái phập phồng” (dangerous liaison).


Nhưng, ở Việt Nam lẫn Trung Quốc, phập phồng đến đâu thì Đảng cũng phải ngày càng cần dân, nhất là khi Đảng mở mắt thấy mình ngày càng bất lực.


***


Chuyện xã hội dân sự non trẻ trong lòng chế độ cộng sản già nua rệu rã mở ra nhiều nghịch lý. Có những nghịch lý nghe “nghịch nhĩ” đến khôi hài:


Giới bảo thủ trong Đảng thì xem xã hội dân sự là một phần của “diễn biến hoà bình”, âm mưu xói mòn quyền lực Đảng, lăm le lật đổ chế độ.


Ngược lại, giới thực dụng thì hiểu xã hội dân sự không phải là “hang ổ” của những kẻ chống Đảng. Họ biết tuyệt đại đa số các tổ chức phi chính phủ (NGO), tế bào tạo nên xã hội dân sự, chỉ làm những công việc không hề nhạy cảm chính trị, ngược lại còn góp phần ổn định xã hội, một việc Đảng thèm muốn nhưng bất lực, và qua đó giúp duy trì chế độ.


Người chống Đảng cực đoan thì lại bảo: Sao phải giúp Đảng ổn định xã hội? Sao không để chế độ cộng sản mục ruỗng và sụp đổ trước khi xây dựng dân chủ? Họ muốn đánh đổ trước, xây dựng sau.


Ngược lại, người ôn hoà hơn thì chủ trương xây dựng nền tảng dân chủ trước, mở đường cho cộng sản ra đi, và xã hội dân sự chính là nền tảng dân chủ.


Về phần mình, Đảng cũng lắm chiêu, lúc thì chiều, lúc thì chống NGO. Có hai loại NGO: NGO “dịch vụ xã hội” (social services), và NGO “dấn thân” (advocacy). Đảng dễ thân với các NGO làm dịch vụ xã hội, hoạt động trong lĩnh vực tạm gọi là dân sinh, dân trí. Ngược lại, Đảng vẫn nghi ngại, quấy phá, hoặc đàn áp những NGO dấn thân vì dân tộc, dân quyền, dân chủ.


NGO cũng vậy. Có NGO sẵn sàng thân với chính quyền, “đi với ma”, trong khi có những NGO ngoài luồng chỉ thích “đi với Bụt”. Lại có những NGO đi dây giữa hai bờ vực. Đối lại, Đảng có thể vừa mặc áo cà sa vừa mặc áo giấy, và sẵn sàng rung dây, hất cẳng, “nhập kho” người đi dây.


Cũng có thể nói vui rằng Đảng và xã hội dân sự tuy đều có mộng riêng nhưng đang phải nằm chung giường. Cả hai biết mình nhiều lúc phải dằn lòng, phải thương lượng và thoả hiệp với bên kia để đạt mục tiêu riêng trước mắt, nhưng cả hai đều tin tương lai sẽ thuộc về mình.


Nhưng, thực tại thường không tách bạch trắng đen, nên tuy đồng sàng dị mộng, là đồng bào nhưng không đồng chí, vẫn có một số chỗ để hai bên đồng thuận.


Điều đáng buồn nằm ở chỗ đây vẫn là mối quan hệ bất trắc và phập phồng của một cặp múa đôi không cân xứng: Kẻ ngồi trên pháp luật lúc nào cũng có thể giẫm chân hoặc hạ gục người kia bất cứ lúc nào mình muốn.


Chính vì vậy, để xã hội dân sự đúng nghĩa có thể phát triển trong lòng một chế độ còn độc tài, tối thiểu phải có hai điều kiện: Báo chí tự do và tư pháp độc lập.


***


Những nghịch lý vừa nêu, thực ra, mới chỉ là một cách nhìn về quan hệ giữa Đảng và xã hội dân sự ở Trung Quốc, được các phóng viên tờ The Economist ghi nhận, từ vị trí của người bên ngoài. Cách nhìn của người trong cuộc còn mở ra những nghịch lý khác mà một NGO Việt Nam đang gặp. Trong bài “ (BBC Việt ngữ 26/4/2014), chị Huỳnh Thục Vy, thành viên của Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, cho biết như sau:


“… tôi từng lo sợ rằng: Vì sự an toàn dưới chế độ độc tài, hiện nay các nhóm thuộc đảng phái, phe nhóm chính trị thường hoạt động dưới lớp vỏ xã hội dân sự. Điều này dẫn đến những hệ lụy nguy hiểm: xã hội dân sự phát triển một cách giả tạo, bị khuynh loát và không có đủ sức đặt nền tảng cho một chế độ dân chủ hậu cộng sản.”


Về tình cảnh trớ trêu, “trên đe dưới búa” của một NGO độc lập tại Việt Nam, chị Vy viết:


“Dư luận viên thì chụp mũ chúng tôi là tổ chức ngoại vi của đảng này đảng khác… Nhiều người đấu tranh khác, vì thiếu thông tin, thì nghĩ chúng tôi là ‘quốc doanh’ vì ‘chưa thấy chúng tôi bị đàn áp gì cả…


Là một tổ chức bảo vệ nhân quyền, chúng tôi bị chính quyền cộng sản thù ghét vì họ nghĩ chúng tôi đang cố tập trung lực lượng xói mòn quyền lực độc tôn của họ. Là một tổ chức độc lập, chúng tôi bị các đảng phái, phe nhóm chính trị đả kích vì chúng tôi không nằm trong phạm vi chi phối và kiểm soát của họ.”


Quả là trong lòng chế độ cộng sản giai đoạn cuối, cả ở Việt Nam lẫn Trung Quốc, chuyện “dân sự” rất dễ bị biến thành “chính sự”, bị chính trị hóa bởi cả Đảng lẫn người ngoài Đảng hay chống Đảng.



Dù bị kiềm kẹp về chính trị, một xã hội dân sự giàu sức sống đang tạo được chỗ đứng


Đối nghịch với các ông trùm nhà máy và các xếp lớn cộng sản, vốn thường kết hợp ăn ý và tướng tá béo tốt, thì Tăng Phi Dương (Zeng Feiyang) chỉ có một thân hình gầy yếu. Năm nay 39 tuổi, anh Tăng làm việc trong một căn phòng bít bùng không cửa sổ ở Phiên Ngung, ngoại ô thành phố Quảng Châu, miền nam Trung Quốc, nơi anh điều hành một tổ chức phi chính phủ (NGO) có tên là Trung tâm Hỗ trợ Công nhân Nhập cư Phiên Ngung. Hơn chục năm qua, tổ chức của anh đấu tranh cật lực để bảo vệ quyền lợi công nhân các nhà máy ở Quảng Đông. Và cái giá phải trả là anh đã nhiều lần bị tống cổ khỏi nhiều căn phòng khác nhau, điện nước tại chỗ bị cúp, thường xuyên bị quan chức địa phương và bọn côn đồ tay sai quấy nhiễu. Đùng một cái, mùa thu vừa qua, anh nhận được cuộc điện thoại từ một quan chức vẫn quấy nhiễu mình. Anh Tăng kể lại: “Ông ta hỏi tôi có muốn đăng ký hợp thức hóa tổ chức phi chính phủ của tôi không. Tôi nghe mà giật cả mình.”


Trong ba năm qua, nhiều nhà hoạt động khác trong các NGO chưa đăng ký cũng nhận được những cuộc điện thoại của chính quyền mời đăng ký tương tự. Việc đăng ký NGO từng là một đề tài rất nhạy cảm, dù chỉ là điền giấy tờ thuần túy. Cũng vì vậy mà việc nới lỏng luật lệ đăng ký quả là đang báo hiệu một thay đổi lớn lao. Trung Quốc có hơn 500.000 NGO đăng ký hợp pháp. Cũng cần thận trọng với con số này vì nhiều NGO chỉ là những tổ chức bán chính thức hay đội lốt NGO để moi tiền nhà nước. Trong khi đó, những tổ chức có thực chất muốn cải thiện đời sống người dân thì hầu hết đều hoạt động trong các lĩnh vực không hề nhạy cảm về chính trị. Hiện cũng có khoảng 1.500.000 NGO khác chưa đăng ký, và một số, như NGO của anh Tăng, đang hoạt động trong các lĩnh vực mà nhà nước vẫn cho là đáng ngại.


Các NGO chưa đăng ký đang gia tăng về số lượng và tầm ảnh hưởng. Họ là biểu hiện của những lực lượng xã hội đang sôi sục từ bên dưới ngoi lên trong một hệ thống nhà nước máy móc luôn muốn mọi sự phải đi từ trên xuống. Rất có thể, những tổ chức đó chính là con đường để Đảng Cộng sản điều hướng năng lượng và tài nguyên thuộc xã hội dân sự. Ngược lại, cũng rất có thể các tổ chức đó là phương tiện để chính năng lượng kia thử thách quyền lực của Đảng. Cũng vì hai tiềm năng trái ngược này mà tính pháp lý của các NGO được xem là chuyện lớn. Bà Quách Hồng (Guo Hong) thuộc Học viện Khoa học Xã hội Tứ Xuyên, tỉnh Thành Đô, gọi việc nới lỏng luật lệ đăng ký cho NGO là “thực hiện một phần quyền tự do lập hội”. Tương tự như việc nới lỏng kinh tế tự do vào đầu thập niên 1980 đã mang lại những hiệu quả sâu rộng cho đời sống vật chất, bước tiến mới nhất này cũng có thể mang lại những ảnh hưởng sâu sắc về mặt xã hội.


Thiểu số đáng kể


Những quy định mới về đăng ký chỉ được áp dụng cho một số loại NGO, nhất là những NGO làm dịch vụ xã hội, hỗ trợ cho các đối tượng như người nghèo, người già, người khuyết tật. Các NGO dấn thân vào vận động chính trị sẽ tiếp tục bị soi mói nghi ngờ. Các NGO nhân quyền sẽ tiếp tục bị cấm đoán, cũng như các hội đoàn hoạt động vì lý do tôn giáo, sắc tộc, hay vì quyền của người lao động sẽ vẫn bị cấm. Nhưng, những gì vừa diễn ra cho anh Tăng ở Quảng Châu kể trên cho thấy chính quyền đang tìm cách làm việc với ít nhất là một số các tổ chức đang bênh vực công nhân, mà hoạt động trước đây của họ rõ ràng là bị dán nhãn phá hoại.


Mãi cho đến năm 2012, bất kỳ NGO nào muốn đăng ký để có phép hoạt động đều phải có một cơ quan nhà nước đứng ra làm chủ quản, thường là một cơ quan đang hoạt động trong lĩnh vực tương tự như NGO. Điều này đảm bảo cho nhà nước quyền kiểm soát chặt chẽ mọi NGO, mà Đảng thích gọi là các “tổ chức xã hội” hơn (vì trong tiếng Trung, “phi chính phủ” nghe có mùi như “phản chính phủ”).  Các NGO quốc tế cũng chỉ được hoạt động tại Trung Quốc khi tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt.


Điều vừa kể nghe có vẻ khắc nghiệt, nhưng thực ra, đây là một bước cởi mở lớn so với cả một thời kỳ dài trước đó. Năm 1949, khi Đảng Cộng sản lên nắm quyền, họ đã loại trừ bất cứ những gì chen vào giữa quan hệ nhà nước và cá nhân, bất kể đó là các tôn giáo, nghiệp đoàn, hay tổ chức độc lập các loại – không những thế, Đảng còn tìm cách phá nát giềng mối gia đình truyền thống. Nói cách khác, điều mà các nước khác gọi là xã hội dân sự đã bị loại trừ hoàn toàn khỏi Trung Quốc, ít nhất là cho tới khi Mao Trạch Đông chết năm 1976. Những tổ chức duy nhất được phép hoạt động là những đơn vị giả danh là không thuộc nhà nước. Những tổ chức này có một cái tên nghe rất George Orwell [tác giả tiểu thuyết 1984] là “GONGO” (tổ chức phi-chính-phủ do-chính-phủ điều hành – government-operated non-govermental organizations), như Quỹ Phát triển Thanh niên Trung Quốc, Quỹ Xóa đói Giảm nghèo Trung Quốc.


Rồi sau khi các cuộc biểu tình và đàn áp đẫm máu tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989 diễn ra, các lãnh tụ Trung Quốc đã phải mở cho dân một chọn lựa khác: Chỉ cần đứng ngoài chính trị là bạn có thể làm gần như bất cứ gì bạn muốn. Tuy hầu hết những thứ tự do được phép nửa vời kia đều thuộc lĩnh vực kinh tế, nhưng không gian dành cho hoạt động xã hội cũng đã được mở rộng.


Dĩ nhiên, có những cấm kỵ lộ liễu. Sự sụp đổ của khối Xô-viết – mà các nghiệp đoàn, giáo hội và tổ chức dân sự ở Ba Lan, Tiệp Khắc và các nước khác góp phần tạo nên – đã càng củng cố suy nghĩ của giới lãnh đạo Trung Quốc rằng phải cấm các NGO tiếp cận với những vấn đề chính trị, hoặc những thứ có thể trở thành vấn đề chính trị. Tuy vậy, các NGO địa phương, hầu hết là những tổ chức từ thiện với phạm vi hoạt động giới hạn, vẫn được phép lớn mạnh trong một số lĩnh vực, với điều kiện họ phải chấp nhận sự kiểm soát của nhà nước thông qua quy trình đăng ký. Các NGO hoạt động bảo vệ môi trường và phòng chống HIV/AIDS là những NGO trong hai lĩnh vực đầu tiên mà nhà nước có thể chịu đựng được. Tuy trên thực tế, các NGO này đã phải đấu tranh kiên trì mới có được tự do hoạt động như đang có, và nhà nước vẫn tiếp tục có nhiều chiêu trò quấy nhiễu.


Không nới không xong


Sau giai đoạn kể trên, hành trình phát triển của các NGO không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió. Năm 2005, bị đe dọa bởi các cuộc cách mạng “màu” ở Ukraine, Georgia và Kyrgyzstan, lãnh đạo Trung Quốc đã siết chặt các NGO, đặc biệt là với các NGO hoạt động tích cực hơn cả. Nhưng trong những năm gần đây, một lần nữa kiểm soát chặt chẽ đã được nới lỏng, phần lớn là do xã hội có nhiều khó khăn cần giải quyết. Tốc độ đô thị hóa nhanh chóng và một xã hội đa dạng hơn hình thành cũng có nghĩa Đảng không còn khả năng bao cấp cho mọi việc trong đời sống công dân như họ đã từng làm, hoặc nghĩ mình có thể làm. Khi người dân giận dữ vì bất mãn với những chính sách an sinh xã hội bèo bọt thì ổn định xã hội sẽ gặp nguy và chế độ Đảng trị, vốn xây trên ổn định xã hội, cũng sẽ bị thách thức. Việc trung ương đùn đẩy cho địa phương các trách nhiệm chăm lo y tế, giáo dục và các chính sách an sinh xã hội khác cũng chẳng giải quyết được gì, vì chính quyền địa phương không mặn mà hoặc cũng chẳng có tiền để chi trả cho những công việc như thế.


Trong một thập niên vừa qua, sự kiện hàng loạt các NGO chưa đăng ký nở rộ như nấm phải nói là đáng kinh ngạc. Một số được hình thành vì niềm tin tôn giáo: Các bác sĩ theo đạo Thiên Chúa mở phòng khám từ thiện, trám vào lỗ hổng của hệ thống y tế nhà nước, hoặc các nhóm Phật tử đứng ra chăm sóc người già neo đơn. Các nhóm dân sự khác cũng có những hoạt động phong phú, phụ huynh trẻ tự kỷ thì hình thành các hội tương trợ qua internet, người quan tâm đến giáo dục thì mở website đăng địa chỉ trường nghèo trên địa bàn thành phố, và kêu gọi mọi người khi đi qua trường hãy ghé giúp đỡ bằng cách tặng sách vở bút giấy cho học trò. Những hoạt động tự nguyện này cho thấy trong xã hội điều được gọi là “lý tưởng” chưa hề mất đi mà vẫn sống mạnh trong lòng nhiều người, và đó cũng là điều Đảng Cộng sản ngày càng hiểu ra và biết trân trọng. Theo lời kể của ông Hà Kiện Vũ (He Jianyu) tại Trung tâm Nghiên cứu NGO thuộc Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh, khi Đảng cử người đi điều tra về hoạt động của các NGO thì họ nhận ra rằng “NGO không phải là hang ổ của những nhà cách mạng muốn đạp đổ Đảng như họ thường nghĩ trước đây”.


Một cú hích quan trọng khiến NGO nảy nở tại Trung Quốc – gấp đôi so với chục năm trước (xem biểu đồ) – dường như chính là cuộc động đất khủng khiếp tại Tứ Xuyên năm 2008, làm chết 70.000 người. Hàng ngàn người thiện nguyện đã tụ về Tứ Xuyên để giúp giải cứu nạn nhân. Người dân bình thường tham gia các hoạt động này nhận ra được hiệu quả của việc họ làm khi tự đứng ra tổ chức và tham gia cứu hộ. Bà Quách Hồng, thuộc Học viện Khoa học Xã hội Tứ Xuyên nhắc đến ở trên, cho biết: “Chúng tôi đều thấy các NGO hoạt động ra sao, và hiểu ra rằng họ làm việc hiệu quả hơn nhiều lần so với chính quyền”. Chính quyền cũng đi đến kết luận tương tự, và nhờ vậy đã cho thêm nhiều NGO đăng ký thông qua các tổ chức nhà nước.


Đàng sau sự nảy nở của các NGO là sự trỗi dậy không thể kiềm chế của tầng lớp trung lưu mới ở Trung Quốc. Giống như Đảng, giới trung lưu muốn có ổn định xã hội. Nhưng một số thành phần trong giới trung lưu cũng thực sự muốn có cơ hội mới để tham gia việc xã hội. Và các lãnh tụ Đảng, hiện không còn bị ý thức hệ cộng sản trói chặt, dần nghiệm ra rằng họ sẽ có lợi nếu biết cách sống chung với những công dân thích hoạt động này, thay vì phải lo trấn áp họ. Giới lãnh đạo Đảng cho rằng: rất có thể việc sống chung sẽ mở đường để xã hội ủng hộ chế độ, một việc mà Đảng dù muốn cũng không còn sức để làm. Vì lý do này, chính quyền đang nới lỏng luật lệ, không chỉ cho phép các NGO đăng ký mà không cần một cơ quan nhà nước làm chủ quản đỡ đầu, mà còn khuyến khích họ ra đăng ký.


Kể từ năm 2011, đã có bốn loại hội đoàn được đăng ký thẳng, không cần đỡ đầu, tại một số tỉnh thành, đó là: các hội đoàn thuộc lĩnh vực công nghiệp, các tổ chức khoa học kỹ thuật, các hội từ thiện và các nhóm làm dịch vụ xã hội. Cuối năm nay, những quy định tương tự được dự kiến sẽ nhân rộng ra trên toàn quốc. Karla Simon, một học giả Mỹ, tác giả cuốn Xã hội Dân sự tại Trung Quốc nói rằng số lượng các NGO có thể sẽ còn tăng gấp đôi chỉ trong một hai năm nữa, khi thủ tục đăng ký ngày càng nới lỏng.


Cũng đáng chú ý là những thay đổi này diễn ra vào lúc đàn áp chính trị đang gia tăng cường độ, đàn áp cả những người chỉ đơn thuần kêu gọi Đảng, vốn coi trời bằng vung, phải tuân thủ những điều khoản được ghi trong Hiến pháp Trung Quốc (do chính Đảng Cộng sản Trung Quốc viết ra). Kể từ khi Tập Cận Bình lên làm Tổng Bí thư Đảng năm 2012, nhà nước đã không ngừng đàn áp những người có tư tưởng tự do. Vào cuối tháng 1/2014, việc kết án ông Hứa Chí Vĩnh (Xu Zhiyong), một học giả tầm vóc, án tù giam bốn năm, và các vụ quấy nhiễu liên tục những nhà hoạt động khác cho thấy rằng: dù hoạt động ôn hòa và không chống Đảng quá đáng, những người như ông Hứa vẫn không được Đảng chấp nhận. Sắp tới, việc kiểm soát sẽ còn chặt chẽ hơn, vì ngày kỷ niệm 25 năm cuộc thảm sát Thiên An Môn đang đến gần [4/6/1989-4/6/2014].


Đảng hầu như tin rằng họ có thể thúc đẩy NGO phát triển mà không phải nới lỏng kiểm soát chính trị. Có lẽ niềm tin này là phiên bản mới của một nguyên lý Lênin-nít cũ, một cú đổi màu mới của chú tắc kè toàn trị cũ, một lớp vỏ ngụy trang thông minh được gọi là “chủ nghĩa độc tài có tham khảo ý dân”. Hoặc, nói theo bà Jessica Teets thuộc Học viện Middlebury Mỹ, thì chủ trương kia của Đảng sẽ dẫn đến một thực tế là chỗ cho quyền lực thì còn nguyên, trong khi không gian cho bất đồng thì vẫn bị kiềm hãm.


Nhưng, nhiều người làm việc cho các NGO lại nghĩ ngược lại. Họ cho rằng: càng cho phép các hội đoàn xã hội dân sự được tự do bao nhiêu thì lần hồi Đảng cũng sẽ phải thay đổi từ bên trong bấy nhiêu – đây đích thị là “diễn biến hòa bình” mà các tay trùm bảo thủ trong Đảng ra sức chống đối. Mặc dù những chuyển biến dẫn đến cải cách chính trị đúng nghĩa vẫn chỉ cầm chừng, nhưng  các nhà hoạt động vẫn cho rằng các luật lệ mới về NGO là một phần của những đợt sóng ngầm có tên là đổi thay xã hội đang bắt đầu xói mòn từ bên dưới dòng sông băng nghìn năm.


Từ “Đảng làm” đến “dân làm”


Mãi đến gần đây, Đảng mới nhận ra rằng NGO có một số ưu điểm mà Đảng không hề có, đó là: NGO có ý tưởng phong phú, NGO có sự hiểu biết thấu đáo về những vấn đề cụ thể tại địa phương vì đã trải qua nhiều kinh nghiệm đau thương, và NGO được cộng đồng địa phương ủng hộ. Thật vậy, giờ đây ít ai tin vào Đảng về bất cứ thứ gì, trong khi hầu hết mọi người tin rằng các NGO có khả năng tiếp cận vấn đề với sự hiểu biết và nhạy bén cần thiết. Chẳng hạn, NGO đối xử với những người dùng ma túy hoặc gái giang hồ nhiễm AIDS như những nạn nhân của một vấn đề sức khỏe cần được giải quyết với sự quan tâm thật lòng và tư vấn tế nhị, chứ không xem họ như những kẻ có tội. Một kế hoạch của Đảng được trông đợi từ lâu về đô thị hóa, vừa công bố vào tháng 3/2014 vừa qua, có nhắc đến nhu cầu “kích hoạt năng lượng” của những NGO như vừa nói. Một trí thức Trung Quốc còn nhận xét: Thách thức giờ đây có hai mặt, không mặt nào kém quan trọng hơn mặt nào. Một mặt là làm sao giúp chính quyền biết cách chuyển giao một số lĩnh vực của chính sách xã hội cho các NGO, và mặt kia là làm sao giúp các NGO có thêm năng lực để hoạt động hiệu quả.


Lòng nhân ái đang quay trở lại như một sức mạnh xã hội, khi người dân ngày càng có ý thức cao hơn. Hiện tượng này một phần được lý tưởng tôn giáo thúc đẩy: Phật giáo và Lão giáo đang trong thời kỳ phục hồi mạnh mẽ, hiện cũng có 80 triệu người theo Thiên Chúa giáo ở Trung Quốc, rất nhiều người trong các tôn giáo kia muốn làm việc có ích cho xã hội. Công việc từ thiện và làm việc phi lợi nhuận đang ngày càng trở nên phổ biến. Một biên tập viên người Mỹ của tập san Báo cáo Phát triển Trung Quốc, tập san có trụ sở tại Bắc Kinh chuyên viết về NGO, ông Shawn Shieh, nhận xét rằng: Việc thiện nguyện và lòng nhân ái đã trở thành câu cửa miệng của tầng lớp giàu có.


Dĩ nhiên, xã hội dân sự vừa thành hình còn đường dài phải đi. Vấn đề lớn nhất là tìm được nguồn tiền để hoạt động. Một số chính quyền địa phương đã đài thọ kinh phí trực tiếp cho các NGO. Chính quyền tỉnh Quảng Đông đã cung cấp 466 triệu nhân dân tệ (75 triệu USD) cho các NGO vào năm 2012; tỉnh Vân Nam cũng chi 300 triệu nhân dân tệ. Những con số này dự kiến còn tăng nhiều. Tuy nhiên, mặc dù nhiều hội đoàn không còn cần một cơ quản chủ quản bảo trợ, họ cũng được nhận tiền công chúng đóng góp, nhưng lại không được phép quyên tiền công khai. Việc quyên tiền hiện vẫn phải thông qua một GONGO trung gian phiền phức, điều này cũng có nghĩa chính quyền vẫn kiểm soát được độ vươn xa của một NGO trong quần chúng, và qua đó kiểm soát cả nguồn thu của họ. Tương tự, việc kiểm soát các khoản tài trợ từ nước ngoài gần đây cũng bị thắt chặt hơn.


Càng kiểm soát cũng có nghĩa tham nhũng càng có cơ hội. Một số chính quyền địa phương đã dựng lên các NGO trá hình để bòn rút những khoản ngân sách mới. Trong khi các NGO thực chất lại hiếm khi nào nghe nói đến các cuộc mời thầu cung cấp dịch vụ mà họ có thể tham gia. Những gói thầu kia thường rơi vào những tổ chức tay trong, các tay trong này lại ký hợp đồng triển khai dự án thông qua các công ty con để hưởng huê hồng.


Tuy vậy, cũng như ở các nước, internet đang thay đổi mọi sự. Các trang vi blog tương tự như Twitter ở Trung Quốc cho phép người cùng chí hướng tụ lại với nhau và thu hút quần chúng ủng hộ cho một mục tiêu chung. Hiện nay, người dân có thể khiếu nại về nhiều điều trên mạng mà không bị xem là phá hoại, mặc dù vẫn có những giới hạn cần thận trọng, chẳng hạn: bạn có thể gửi tin nhắn than phiền về nạn không khí ô nhiễm, nhưng bạn sẽ khó phàn nàn về một nhà máy sai phạm, nếu nhà máy có quan hệ mật thiết với một vị lãnh đạo nào đó. Những người khá giả thuộc tầng lớp trung lưu cũng dùng các trang vi blog để bày tỏ sự giận dữ về những vấn nạn như an toàn thực phẩm, khan hiếm nước sạch, cách đối xử với công nhân nhập cư, tình hình giáo dục và y tế – tức những đề tài cốt lõi của NGO. Tương tự, NGO nào dùng mạng internet để giúp quần chúng biết đến công việc của họ thường dễ dàng thu hút những khoản đóng góp đáng kể, dù họ không chủ động gây quỹ.


Giữa Bụt và ma


Câu chuyện xã hội dân sự đang hình thành không đơn thuần là câu chuyện trắng đen tách bạch, mà có màu xám, ranh giới địch ta mờ nhoà và thiện ác múa đôi, bên nào cũng cần thoả hiệp với bên kia để có đất sống. Người hoạt động trong các NGO rất dễ bị cám dỗ thoả hiệp để được nhà nước cấp tiền hoạt động. Ngược lại, một nhà ngoại giao phương Tây tại Bắc Kinh lại cho rằng: nếu chấp nhận đi đôi với hệ thống thì ta có thể làm được nhiều việc hơn nhiều.


Một tổ chức có tên là Chí Thành (Zhicheng), chuyên hỗ trợ pháp luật cho người nghèo, là ví dụ điển hình cho khả năng đi  đôi với hệ thống như vừa nói. Tổ chức này được Đông Lệ Hoa (Tong Lihua), một luật sư xuất thân quê nghèo, thành lập năm 1999, với mục đích ban đầu là bảo vệ quyền lợi cho trẻ em nông thôn. Anh tạo ấn tượng tốt với quan chức địa phương và thuyết phục được họ hỗ trợ. Sau đó, anh Đông chuyển qua tư vấn cho công nhân bị quỵt lương. Anh cho biết: Quan chức chính quyền địa phương vẫn đang để yên cho anh hoạt động, vì mặc dù hoạt động trong một lãnh vực nhạy cảm, anh đang góp phần củng cố, chứ không phá hoại, ổn định xã hội. Anh nói mục tiêu của mình là thúc đẩy những cải cách xã hội và pháp luật từ bên trong hệ thống. Mặc dù đôi khi bị các nhà hoạt động khác chê cười vì quá thân Đảng, anh Đông nói 99,9% việc mình làm là hoàn toàn độc lập. Anh cũng nổi cáu khi được hỏi có phải là tay trong của chính quyền hay không. Anh nói tổ chức Chí Thành đã tư vấn pháp lý miễn phí cho 400.000 người, giúp họ truy lĩnh được những khoản lương còn thiếu và đòi được các khoản bồi thường thương tật lao động, tổng số tiền đòi được lên tới 400 triệu nhân dân tệ [khoảng 64 triệu USD].


Khác với NGO Chí Thành hoạt động trong lòng chế độ, NGO Ích Nhân Bình (Yirenping) lại hoạt động ngoài luồng, đây là một NGO dấn thân, gồm các luật sư tự đảm nhận các ca tố tụng có tính tiền lệ. Một trong những ca gần đây liên quan đến một nữ sinh không được thi trung học toàn quốc chỉ vì em bị mù. Ích Nhân Bình cũng giúp những bệnh nhân viêm gan siêu vi B và AIDS bị mất việc chỉ vì mắc bệnh. Một trong các luật sư của tổ chức, chị Hoàng Nhất Chi (Huang Yizhi) nói có lẽ họ sẽ không tìm cách đăng ký chính thức cho Ích Nhân Bình. Giống như nhiều NGO khác không tìm được cơ quan chủ quản đỡ đầu, hiện tổ chức này đang đăng ký dưới dạng một doanh nghiệp. Cũng theo lời chị Hoàng, nếu đăng ký như một NGO, rất có thể họ sẽ nhận được tiền của chính phủ, nhưng bù lại, họ sẽ phải giới hạn mức độ dấn thân. Sự lưỡng lự này có vẻ phù hợp, vì họ đang rất thận trong khi chọn các ca kiện tụng để theo đuổi, họ cũng chủ trương dấn thân vào những vấn đề lớn hơn, như đòi hỏi công bằng xã hội, một đề tài mà Đảng cho rằng thuộc phạm vi quan tâm của Đảng. Dĩ nhiên, họ phải thận trọng, sao cho không chạm nọc đuôi rồng, không khiến nó nổi đoá quẫy đuôi đập nát.


Không ở trong lòng cũng không nằm ngoài luồng như hai trường hợp trên là anh Mã Quân (Ma Jun). Vốn là nhà báo, năm 1999 anh Mã cho phát hành một cuốn sách rất đáng chú ý về môi trường, cuốn Khủng hoảng nước ở Trung Quốc. Anh Mã điều hành Viện Công vụ và Môi trường (IPE), một tổ chức hợp pháp. Cũng giống như ông Đông nói trên, anh Mã nhìn nhận rằng sự hợp tác với chính quyền là cần thiết. Anh nói “Chúng ta đều đi chung thuyền, và không ai muốn thuyền lật.” Nhưng anh lại không hợp tác nhiều với các GONGO quốc doanh. Khi đang có quá nhiều vụ biểu tình vì vấn đề môi trường, rõ là Đảng hiện ngày càng lo lắng về các cuộc vận động xanh. Trong khi đó, anh Mã lại đang ở vị trí tiên phong trong việc phối hợp hoạt động giữa các NGO liên tỉnh, một điều cấm kỵ khác của Đảng. Đảng luôn e ngại hiện tượng những người cùng chí hướng có cùng một mục tiêu lại có thể liên kết với nhau trên phạm vi cả nước. Vì điều này mà các NGO chưa được phép đăng ký mở chi nhánh tại các tỉnh thành khác nhau. Hiện IPE là một phần của mạng lưới gồm 50 nhóm bảo vệ môi trường được gọi là Liên minh Chọn lựa Xanh, một liên minh có khả năng lên tiếng như một tổ chức duy nhất. Có thể nói anh Mã đang đi dây, điều đáng ngại là dây lơ lửng có thể rung lắc mạnh. Nếu như vài năm trước chính quyền ca ngợi ông Hứa Chí Vĩnh, rồi gần đây kết án ông bốn năm tù như trên đã nói, thì điều gì có thể xảy ra với anh Mã, người bây giờ cũng đang được họ ca tụng?


Một vế khác của câu chuyện là chính quyền cũng đi hàng hai trong cách họ ứng xử với các NGO. Tháng 7/2013, Bộ Môi trường đã tổ chức cuộc hội thảo tại Bắc Kinh và lần đầu tiên có mời những hội đoàn như của anh Mã tham dự. Mười năm trước thì việc này quả là điều không tưởng. Theo lời kể của một người tham dự, và cho rằng đó là một hội thảo gây chấn động, thì quan chức chính quyền đã khuyến khích các NGO mạnh dạn “đối đầu với các thế lực mạnh” – tức những nhóm lợi ích cấu kết chặt chẽ trong vùng. Tuy chấn động như vậy, nhưng cùng lúc, chính quyền vẫn có những nước cờ nhằm hạn chế khả năng của các NGO bảo vệ môi trường trong việc kiện các chính quyền địa phương ra toà. Cũng có một tài liệu Đảng, gọi là Tài liệu Số 9, được phổ biến tới mọi phòng ban các cấp năm 2013, tố cáo các NGO là đang tìm cách làm nảy nở các “lực lượng chống Trung Quốc”. Biên tập viên Shawn Shieh gọi tình trạng này là tình trạng hai mặt kiểu “tâm thần phân liệt”. Ông Tăng Phi Dương, nhà hoạt động bênh vực người lao động nhắc đến ở đầu bài, cũng nói rằng mặc dù được mời đăng ký NGO của mình, ông vẫn bị quấy nhiễu như thường.


Khả năng đi hàng hai của Đảng còn nằm ở chỗ họ có thể siết chặt hoạt động của NGO sau khi cho nới lỏng một thời gian. Giáo sư Trần Kiện Dân (Chan Kin-man) thuộc Trung tâm Nghiên cứu Xã hội Dân sự thuộc Đại học Trung văn Hongkong cho rằng các NGO tuy bùng nổ về số lượng nhưng ảnh hưởng lại không nhiều. Ông cũng lập luận rằng phạm vi hoạt động của xã hội dân sự thực ra đang bị thu hẹp. [Giáo sư Dân cũng là nhà hoạt động vì dân chủ cho HK, so với tự do rộng rãi trước năm 1997, khi HK được Anh trả về TQ, không gian dân sự tại HK đúng là đang hẹp dần]. Một số biểu hiện của việc đàn áp chính trị, chẳng hạn như luật chống tung tin đồn, có vẻ như khẳng định lập luận của giáo sư Dân. Tuy nhiên, các quan sát viên khác lại phản biện rằng không nhất thiết cứ phải đối đầu với chính quyền mới có phạm vi hoạt động rộng hơn, mà phạm vi hoạt động rộng hơn có được nhờ thương lượng với chính quyền vẫn là khoản không gian có giá trị. Trong khi đó, nhiều người khác cũng thấy rằng sự phân biệt của Đảng giữa các NGO dịch vụ xã hội và NGO dấn thân sẽ nhoà dần. Một nhân viên NGO nước ngoài ở Bắc Kinh nói “Không thể nào làm dịch vụ xã hội cho người già mà lại không trở nên người dấn thân vận động để đòi những quyền lợi lớn hơn cho người già.”


Đi về đâu, hỡi Hoa?


Một số nhà hoạt động trong các NGO lo rằng khi họ để cho bản thân bị chính quyền điều hướng là họ đang vô tình củng cố quyền lực độc tài của Đảng Cộng sản, vì họ đang góp phần giúp Đảng giải quyết những vấn đề lớn nhất về quản lý xã hội. Vị hội trưởng người Trung Quốc của một NGO, hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm là tài trợ và giúp đỡ những công nhân bị thương tật lao động, kể rằng bạn bè ông bảo: Sao không cứ để cho hệ thống cộng sản “mục ruỗng rồi sụp đổ” thay vì cứu vãn nó. Điều đáng nói là ngay khi NGO của ông được công chúng quan tâm, thông qua bài viết trên các blog, thì chính quyền đã cung cấp vài triệu nhân dân tệ để hỗ trợ công việc họ đang làm. Ông nói “Khi mình tạo được điểm nhấn cho một vấn đề gì đó thì chính quyền sẽ phải nhập cuộc thôi.”


Không rõ là Đảng có thật lòng tin tưởng xã hội dân sự hay không. Nhưng rõ là Đảng xem các NGO như công cụ hữu dụng để đạt mục đích riêng. Nhưng khi chính trị từ trên xuống không giải quyết được những vấn đề xã hội từ dưới lên, và khi có một tầng lớp trung lưu mới muốn tham dự việc xã hội nhiều hơn, thì việc gia tăng vai trò cho xã hội dân sự là điều không thể né tránh. Vì vậy, có thể nói một hợp đồng ngầm đã được hình thành giữa Đảng và xã hội dân sự, trong đó hai bên đều sẵn sàng thoả hiệp để đạt được các mục tiêu ngắn hạn, và cùng lúc cả hai đều hy vọng tương lai sẽ diễn ra theo hướng có lợi cho mình.


Những cấm đoán và bất mãn vẫn còn đầy dẫy. Những thay đổi trong luật lệ đăng ký NGO sẽ chỉ có tác động chậm chạp đối với đời sống hàng ngày của thường dân Trung Quốc. Bên cạnh đó, những vấn đề xã hội và tài chính có thể sẽ còn tăng gấp bội, làm vô hiệu hoá bất cứ nỗ lực nào nhằm xây dựng một xã hội dân sự lớn mạnh hơn. Tuy vậy, bằng cách của mình, các tổ chức phi chính phủ NGO đang bắt đầu trở thành chất keo kết dính xã hội lại với nhau, vào lúc nhà nước thì thoái lui, cấu trúc gia đình thì xáo trộn và những giềng mối quan hệ giữa người với người trong xã hội đang bị giằng xé đến độ có thể rách toạc. Các NGO hiện nay đang được một tầng lớp những người Trung Quốc trung lưu mới ủng hộ, họ là những người có cuộc sống khá giả hơn đại đa số và có ý thức rõ ràng về quyền hạn của mình. Đảng sẽ không thể dễ dàng tiếp tục hất ngược họ trở về đất đen được nữa.


Nguồn: “Beneath the Glacier”, The Economist, 12/4/2014, tường trình từ Bắc Kinh, Thành Đô, Quảng Châu. Các ghi chú trong ngoặc vuông là của người dịch.


Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 21, 2014 06:53

May 19, 2014

Lá thư từ Bắc Kinh

Phạm Thị Hoài


Những năm cuối đời, các chuyến đi chữa bệnh của Hồ Chủ tịch tại Trung Quốc mỗi đợt một dài hơn. Năm 1966: một tháng, từ 16/5 đến 16/6. Năm 1967: 3 tháng 13 ngày, từ 10/9 đến 23/12. Chỉ một tuần sau ông lại đi Bắc Kinh, lần này 3 tháng 20 ngày, từ 1/1 đến 21/4/1968, trùng với lịch tiến hành giai đoạn 1 của vụ Tổng Tiến công và Nổi dậy Tết Mậu Thân [1].


Vấn đề vai trò mờ nhạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự vô hiệu hóa Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, người cũng trong thời gian này ngẫu nhiên đi dưỡng bệnh ở nước ngoài, trong vụ Tết Mậu Thân đã được một số nhà nghiên cứu đặt ra. Ở thời điểm này, thực quyền và sự minh mẫn của của ông Hồ còn lại bao nhiêu để có được một vai trò dù mờ nhạt, có thể thấy rõ qua bức thư ông viết từ Bắc Kinh gửi người cầm quyền thực sự ở Hà Nội, ông Lê Duẩn. Toàn văn bức thư như sau:


Thư gửi đồng chí Lê Duẩn


Chú Duẩn thân mến,


Nhớ lại hồi Nôen năm ngoái, Chú có ý khuyên B. đi thăm miền Nam sau ngày ta thắng lợi hoàn toàn, B. rất tán thành.


Nhưng nay chỉ đổi chữ “sau” thành chữ “trước” ngày thắng lợi hoàn toàn, tức là đi thăm khi anh em trỏng đang chuẩn bị mở màn thứ ba. Đi thăm đúng lúc đó mới có tác dụng khuyến khích thêm anh em.


Cách đi, B. sẽ làm công trên một chiếc tàu thuỷ. Cùng đi sẽ có hai chú Bảo và Kỳ. Việc này B. tự thu xếp, dễ thôi.


Lúc đến anh em trỏng chỉ phụ trách đón khi tàu cặp bến Miên và đưa B. đến nhà anh Sáu, anh Bảy.


Ở lại. Tuỳ điều kiện mà quyết định: ít là mấy ngày, nhiều nhất cũng chỉ trong một tháng. Hoạt động thế nào, sẽ cùng anh em trỏng bàn định.


Có lẽ Chú và đồng chí khác e rằng sức khoẻ của B. không cho phép B. đi chơi xa. Nhưng, thay đổi không khí, hô hấp gió biển và sinh hoạt với quần chúng trong hoàn cảnh chiến đấu sẽ giúp sức khoẻ tiến bộ mau hơn.


Lịch trình đi thăm – cần mươi ngày để chuẩn bị.


Vượt biển độ 6 ngày.


Từ bến tàu đến địa điểm độ dăm hôm.


Vậy nhờ Chú tính ngày cho khớp, một mặt cho B. biết trước để chuẩn bị, một mặt cho anh em trỏng biết để chờ đón.


Để đảm bảo thật bí mật, Chú chỉ nên bàn việc này với một số ít đồng chí trong B.C.T.


Mong chờ Chú trả lời.


*


Trước khi đi Rumani, hai đồng chí Côn và Lành có ghé thăm Bắc Kinh và ở lại chơi mấy hôm, rất vui vẻ.


Sức khoẻ của B. không ngừng tiến bộ, càng gần ngày ấm, càng tiến bộ hơn. Chúc Chú và tất cả anh em mạnh khoẻ.


Chào thân ái và quyết thắng


B.


Viết ngày 10-3-1968


Bản chụp bút tích bức thư lưu tại Viện Hồ Chí Minh.


***


Dĩ nhiên kế hoạch “Bác lại xuống tàu” lần này không được phê chuẩn. Ở những người đã gần đất xa trời, mơ mộng tuổi trẻ thường trỗi dậy, đôi khi mãnh liệt tới mức điên rồ, song đề nghị “vô trỏng”, Nam tiến bằng cách vi hành vượt biển, “xuống làm công trên một chiếc tàu thủy”, có thể vẫn nghề phụ bếp, như chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành ở Bến Nhà Rồng năm nào của vị Chủ tịch 78 tuổi, bệnh tình trầm trọng, hàng ngày phải tiêm kháng sinh, chườm gừng, châm cứu, chạy điện tim phổi… quả là vượt quá sự lẫn trí thông thường của tuổi già. Nó trình bày một cảm giác bất lực của một con người thấy mình đã thừa ra, vô dụng. Cách đất nước mấy ngàn cây số, tầm quan trọng của vị nguyên thủ quốc gia bây giờ đóng khung trong những hoạt động dưỡng lão: nghe tin thắng trận ở miền Nam, nghe ngâm thơ, xem liên hoan văn nghệ, gửi thư khen chiến sĩ bắn rơi máy bay Mỹ, phụ lão trồng cây giỏi, nông dân có thành tích nuôi trâu bò và thâm canh tăng năng suất lúa, và làm thơ chữ Hán cảm thán về việc bị bác sĩ Trung Quốc cấm hút thuốc và uống rượu. Cuộc viếng thăm 3 ngày cuối tháng Một của tướng Võ Nguyên Giáp, trên đường từ nơi dưỡng bệnh ở Hungary về Hà Nội qua Bắc Kinh, có vẻ mang lại cho những tháng ngày nhàn tản ấy một mầu sắc chính trị tầm thượng đỉnh quốc gia nhất định, song theo tác giả Huy Đức trong bộ sách Bên thắng cuộc, trong khi “cả ‘Cha già Dân tộc’ và ‘Anh cả của Quân đội’ vẫn đang ‘an trí’ ở Bắc Kinh thì những binh đoàn chủ lực miền Bắc bí mật áp sát các đô thị miền Nam. ‘Ngày 29 tháng Chạp ta’, vào lúc sáu giờ chiều, Hồ Chí Minh ‘nhận được điện của Bộ Chính trị và Trung ương chúc mừng Bác Hồ năm mới’”. Hai con người lừng danh ấy được nhấc êm khỏi thời cuộc, trong giai đoạn quyết định của cuộc cách mạng dân tộc mà họ là những người khai sinh. Lá thư từ Bắc Kinh của Hồ Chí Minh rụt rè như một lời nài xin, lẩm cẩm, tội nghiệp.


Dù những nghi vấn khổng lồ về thân thế ông Hồ còn treo đó, càng ngày nhiều khoảng tối về sự nghiệp của ông càng sáng tỏ, một phần không nhỏ bằng chính những tư liệu chính thống. Nhưng câu hỏi sau đây có lẽ sẽ không sớm được giải đáp: Hóa đơn khám chữa bệnh cho Hồ Chủ tịch có bị phía Trung Quốc tính vào tổng số trên 800 tỉ (Dollar hay Nhân dân tệ?) – theo tuyên truyền hạch tội “Việt Nam vô ơn” của nhà cầm quyền Trung Quốc – mà Hà Nội bị coi là nợ Bắc Kinh cho chiến dịch Điện Biên Phủ và cuộc chiến tranh chống Mỹ không?


_________


Ảnh: Mít-tinh ủng hộ Hồ Chủ tịch tại Bắc Kinh 1965. Ảnh của Marc Riboud.


© 2014 pro&contra




[1] Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 10. Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành, 1996.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 19, 2014 09:55

May 15, 2014

Chủ quyền hay… chính quyền?

Thuận Văn


Không thể gìn giữ chữ tiết “nhạy cảm” cho gã láng giềng dở hữu nghị dở thù được nữa và nó, nhà nước toàn trị tại Việt Nam, đã cắn răng xé toạc màng trinh bước vào thời kỳ tuyên giáo “hậu giàn khoan”. Sông Rubicon đã vượt, những hàng tít nóng đã xối xả bắn ra, tràn ngập, như B-52 rải thảm.[1]


Nó không còn hoang mang, mơ hồ với “tàu lạ” nữa mà cụ thể, quyết liệt: “Quốc tế phẫn nộ trước các hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông”, “Thế giới lên án Trung Quốc ngang ngược…”.  Nó đã hết ấp úng rụt rè “gây đứt cáp” mà chính xác, đâu ra đó: “Tàu Trung Quốc ngang ngược đâm tàu Việt Nam”, “Trung Quốc ngang ngược mở rộng vành đai bảo vệ giàn khoan”, “Trung Quốc ngang ngược đòi Việt Nam rút tàu mới đàm phán” v.v… [2]


Nghe thì rắn rỏi và đanh thép thật nhưng vẫn có gì đó lấn cấn và, thậm chí, mâu thuẫn với chính nó. Âm mưu mở rộng “không gian sinh tồn” của chủ nghĩa Tân Đại Hán đã là chuyện “nhãn tiền” mà nhiều người Việt Nam đã thấy, đã cảnh tỉnh, đã phản đối để rồi bị chính nó khủng bố, bị nó vu khống và cầm tù. Chuyện đã xưa còn hơn ông tổng thống da đen đầu tiên của nước Mỹ trong khi mỗi thời khắc trôi qua thế giới này nảy sinh bao nhiêu là chuyện để … phẫn nộ, riêng hay chung, giật gân thời thượng hay sinh kế lâu dài. “Quốc tế”, như bà đệ nhất phu nhân da đen đầu tiên ấy, đang chau mày nghiến răng “phẫn nộ” trước việc 300 nữ sinh Nigeria bị quân khủng bố bắt cóc, không biết để giải quyết sinh lý hay để buôn bán như một thứ nô lệ tình dục. Và “quốc tế”, như rất nhiều công dân nước Úc và cả những chính phủ tiểu bang hiện tại, đang “phẫn nộ” vì những khó khăn tài chính mà chính phủ liên bang trút hết lên đầu và vai họ. Như thế thì “quốc tế” có thể bất bình, có thể “không đồng ý”, có thể “bày tỏ sự quan ngại sâu xa” hay “kêu gọi các bên liên quan kiềm chế” và những loạt đạn tuyên giáo về sự “phẫn nộ” hay “lên án” nhằm mở ra những hy vọng phơi phới cho một thế trận ngọai giao trùng điệp chỉ là một sự cường điệu nguy hiểm và mỵ dân. [3]


Nhưng cứ cho là vậy. Cứ tạm chấp nhận rằng “quốc tế đang phẫn nộ” và “thế giới đang lên án” thì đâu chỉ có bọn Trung Quốc cướp biển là nhà độc quyền ở cái khoản này? Chính nó cũng đã từng “ngang ngược”, từng khiến “quốc tế phẫn nộ” và “lên án” như thế, không chỉ một vài lần mà rất, rất nhiều lần.


Nhưng “quốc tế” là ai và “quốc tế” đã phẫn nộ như thế nào? “Quốc tế” không mơ hồ và trừu tượng như là… “tàu lạ” của thời kỳ “tiền giàn khoan” mà  là những đối tượng cụ thể, xác thực mà nó vẫn hằng khinh nhờn, giỡn mặt. “Quốc tế” là những định chế hành pháp hay lập pháp hợp hiến của từng quốc gia. “Quốc tế” là những tổ chức, nhân đạo hay chuyên môn, hoạt động vì những lợi ích cụ thể nào đó của nhân loại. “Quốc tế” còn là những cá nhân xuất chúng và khả kính, đã có những đóng góp nổi bật cho nhân loại hay được quốc gia mình tin tưởng phó thác cho vai trò đại diện đất nước của mình. “Quốc tế” là Bộ Ngọai giao Đức, Úc, Mỹ, Pháp hay Anh; là Nghị Viện Âu châu, là Hạ viện Anh hay lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ v.v…, những “đối tượng” mà nó vẫn hằng, nhẹ thì giả đui giả điếc, xem như lời nói gió bay, nặng thì “ngang ngược” xỉ vả là đui mù, “không thấy được thực tế” về những “thành tích nhân quyền” của nó. “Quốc tế” là Reporters Sans Frontières, tổ chức mà những dòng chữ lên án vụ bắt giam nhà báo tự do Anh Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh vẫn còn nóng hổi. “Quốc tế” là Union of concerned scientists, liên minh của những khoa học gia mà lá thư bày tỏ mối quan tâm về luận văn thạc sĩ của Nhã Thuyên, chừng như, cũng đang bị nó “ngang ngược” ném vào sọt rác. [4] Và “quốc tế” là ông Karel De Gucht, Chủ tịch Ủy hội Thương mại của Liên minh Âu châu, người mà, vào năm 2008, khi còn là Ngọai trưởng Bỉ, đến Việt Nam với tư cách là đại diện cao nhất của Vuơng quốc Bỉ, đã bị Hàng không Việt Nam “ngang ngược” cướp vé, đuổi cổ khỏi hạng ghế thương gia để dành chỗ cho những ủy viên trung ương cần bay đột xuất trong chuyến bay Hà Nội – Sài Gòn ngày 13 tháng Sáu năm 2008. [5]


Lớn thì có những chính sách trả thù và cướp bóc mệnh danh “cải tạo con người”, “cải tạo sản xuất” hay chủ trương chiếm đóng Cambodia suốt một thập niên, cực kỳ “ngang ngược”. Nhỏ thì những chuyện đối nhân xử thế như cướp vé một đại diện quốc gia, cũng cực kỳ “ngang ngược”. Đã có thể “ngang ngược” giỡn mặt với “quốc tế” trong suốt một thời gian dài như thế thì, bây giờ, nó có thể kỳ vọng gì ở sự nhượng bộ của tên cướp biển chuẩn siêu cường trước những tiếng nói “quốc tế” nói trên?


Như vậy thì những hàng tít “quốc tế phẫn nộ” và “thế giới lên án” nêu trên chỉ là hành động tự ru ngủ. Không chỉ ru ngủ dân mình, nó còn muốn ru ngủ chính mình, cái kiểu thủ dâm của một thế lực ngu dân.


Và còn có sự “phẫn nộ” từ bên trong theo tinh thần tuyên giáo “hậu nhạy cảm” nữa. Cũng xối xả bắn ra. Cũng nóng sốt, tràn ngập bộ mặt của truyền thông lề phải. “Ngư dân Lý Sơn mít-tinh phản đối hành động của Trung Quốc”. “Người dân miền Trung xuống đường phản đối Trung Quốc”. “Người dân ba miền xuống đường phản đối Trung Quốc”. “Người dân TPHCM diễu hành, mít tinh phản đối Trung Quốc” v.v…  Hẳn nhiên, đây là sự phẫn nộ chính đáng, là lòng yêu nước cần phải tôn trọng nhưng vấn đề là ứng xử của… nó. Nó đã muối mặt chà đạp sự lòng yêu nước ấy bao nhiêu lâu rồi để bây giờ, khi không thể nào cấm cản, lại trơ tráo “bắt cóc” cái khí thế yêu nước ấy, như có thể thấy trong những cuộc biểu tình ngày Chủ nhật vừa rồi.


Thì người dân Lý Sơn phẫn nộ mít tinh khi bọn giặc biển hung hăng đòi nuốt chửng vùng biển vẫn hằng nuôi sống họ nhưng, trước đó rất lâu, những người dân Tiên Lãng, Văn Giang hay Long An, Đồng Tháp, Thanh Hóa, Đà Nẵng, Khánh Hòa v.v.. cũng đã từng phẫn nộ. Hơn thế, họ còn phẫn nộ bằng máu, bằng sinh mạng qua những khối thuốc nổ, những bình xăng tự thiêu khi những bờ xôi ruộng mật đất từng là nồi cơm nuôi sống họ, từng là nơi yên nghỉ của tổ tiên họ bị chiếm đoạt, bị nuốt chửng, cực kỳ “ngang ngược”. Dửng dưng, không mảy may lùi bước trước sự phẫn nộ của nhân dân mình như một thứ giặc đất, nó có thể kỳ vọng gì ở sự chùn tay của tên giặc biển bên ngoài?


Giặc biển hay giặc đất cũng có cùng bản chất là ăn cướp và điều đau đớn của dân tộc ta là phải đối phó cùng lúc với cả hai thứ giặc. Nếu một Trung Quốc bá quyền hành xử với Việt Nam như một thứ giặc ngoại xâm thì nó đã hành xử như là quân ăn cướp trên chính đất nước của mình, với chính nhân dân của mình, như một thứ giặc nội xâm. Trung Quốc “ngang ngược” hành xử như thể Biển Đông là một thứ ao nhà và thì nó hành xử như thể đất nước Việt Nam là cái sâu sau của nó. Nhưng như một thứ nội xâm phải nấp bóng ngoại xâm mệnh danh “hữu nghị”, mệnh danh ý thức hệ, nó lại răm rắp mô phỏng, răm rắp toa rập và răm rắp a tòng như một thứ “tiểu Trung Quốc”, a tòng cho đến khi không thể a tòng được nữa.


Có thể thấy cái bản chất “nội xâm – tiểu Trung Quốc” ấy ở cơ cấu quyền lực cao nhất của nó, Hội nghị Trung ương Đảng đang diễn ra tại Hạ Nội, Hội nghị lần thứ 9.


Hội nghị khai mạc ngày 9 tháng Năm năm 2014, là một trong những ngày sôi sục nhất khi tin tức về sự gây hấn của Trung Quốc dồn dập đưa về. Trước một diễn biến cấp bách như thế thì một cơ cấu quyền lực như thế phải gạt phắt những hội nghị đã dự trù hay ít ra là những chương trình nghị sự dự trù để thay vào đó một hội nghị khẩn cấp với những vấn đề thời sự khẩn cấp. Nhưng Hội nghị Trung ương vẫn là… Hội nghị Trung ương. Không mảy may thay đổi như không có gì xảy ra, như thể những tin tức dồn dập đưa về kia chỉ là một thứ tin xe cán chó!


Bên Hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê / Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ, khác với lời ai oán của Chế Lan Viên về cái thời lòng người chán nản sau khi các phong trào kháng Pháp bị dập tắt hoàn toàn, vận nước đã khiến “chuyện vua Lê” nóng bỏng từ lâu, và không chỉ nóng lên ở những địa danh mang tính lịch sử đầy biểu tượng như Hồ Gươm. Chuyện đã nóng lên tận Hồ Con Rùa, nóng trong không gian của những quán cà phê vỉa hè bất kể sự rình rập của những công an chìm nổi, nóng một cách thực sự trên không gian ảo của web của những trang Facebook. Chỉ Tổng Bí thư, chỉ “Trung ương” mới “rêu phong chuyện cũ”. Tại hội nghị, như cái nhan đề trên báo Đại Đoàn Kết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nghiêm nghị bình giảng những chuyện chẳng biết để làm gì “Văn hoá hình thành nhân cách con người, bản sắc, cốt cách một dân tộc”. [6] Lẽ nào? Văn hoá chúng ta phải bao hàm bản sắc của chúng ta, mà bản sắc chúng ta cũng là một phần của văn hoá của chúng ta: một cơ cấu quyền lực ghê gớm như thế mà lại có thể thật thà đến như thế, có thể trịnh trọng với một đề tài dư thừa và ngớ ngẩn như thế, dư thừa và ngớ ngẩn ngay giữa một tình thế khẩn thiết đến như thế?


Nhưng nhất định phải có một “hội nghị khẩn” nào đó, đâu đó, trong bí mật, và trong các cơ quan cao nhất về an ninh và tuyên giáo, về đề tài “thời sự khẩn”.  Phải có một hội nghị khẩn như thế thì mới có những bài bản chiến thuật để “bắt cóc” khí thế các cuộc biểu tình, lèo lái cái khí thể “bảo vệ chủ quyền” trong hình hài “bảo vệ chính quyền”. [7]


Nếu “bắt cóc” là ngón nghề sở trưởng của quân khủng bố thì nó, như một thế lực đã từng chơi trò khủng bố, chơi trò cầm giữ con tin, đã tỏ ra lại tệ hơn quân khủng bố đến mấy bậc.


Nếu những tổ chức Hồi giáo cực đoan như al Quaeda sử dụng chiến thuật khủng bố đối với công dân các quốc gia “tà đạo” với ý đồ đánh vào ý chí của các đối thủ xem là tà đạo thì nó, hệ thống toàn trị, chỉ chăm chăm khủng bố dân mình, chăm chăm đánh vào ý chí yêu nước của nhân dân mình và hành xử như thể người dân của mình là một thứ con tin. Nó, như đã thấy trong các cuộc biểu tình chống Trung Quốc trước đây, “ngang ngược” đạp vào mặt người dân yêu nước của mình, cái hành động chi có tác dụng duy nhất là nuôi dưỡng ý đồ bành trướng của kẻ thù, như để cho kẻ thù thấy rằng họ muốn làm chuyện gì với đất nước Việt Nam cũng được. Và nó, như có thể thấy trong chiến thuật mặc cả ngoại giao, đã lòng vòng bắt – thả công dân của mình như một thứ con tin trong các chu kỳ “thế giới lên án” về vấn đề nhân quyền, một cách cự kỳ vô trách nhiệm.


Tháng Tư năm 2008, khi nói chuyện với hơn 3000 sinh viên Đại học Bắc Kinh,  nguyên Thủ tướng Úc Kevin Rudd đã nhắc nhở những nhà lãnh đạo tương lai của Trung Quốc rằng trong mai hậu chính họ sẽ chịu trách nhiệm “xác định thế cách mà thế giới sẽ nhìn vào Trung Quốc”, rằng trọng trách của họ là hãy đưa đất nước mình trở thành “công dân toàn cầu đầy trách nhiệm” bởi cộng đồng thế giới đang mong đợi sự “tham dự đầy đủ” của Trung Quốc trong “toàn bộ cơ chế của trật tự toàn cầu đặt trên nền tảng luật lệ”. [8] Ông Rudd nói thế, hay mong mỏi thế, vì ông thừa biết rằng còn lâu Trung Quốc mới trở thành một “công dân trách nhiệm” của cộng đồng quốc tế. Nhưng còn nó? Nó phải làm gì để đương đầu với gã khổng lồ vô trách nhiệm của cộng đồng thế giới đó?


Thì “dĩ độc trị độc”, nhưng nọc của một con ong vò vẽ chẳng thể nào sánh nổi nọc độc của con rắn hổ chúa. Nó phải hiểu là, để đương đầu với một “Trung Quốc cướp biển”, nó không thể tiếp tục mô phỏng để làm một thứ “tiểu Trung Quốc cướp đất”. Để ứng phó với một chuẩn siêu cường vô trách nhiệm với thế giới như Trung Quốc, nó không thể hành xử như một thành viên vô trách nhiệm hạng bét của thế giới. Để vận dụng được sự ủng hộ cao nhất của cộng đồng thế giới thì nó phải làm thế nào đó để “thay đổi cách nhìn của thế giới” về nó. Nó phải thể hiện trách nhiệm của mình với thế giới mà, để làm đuợc như thế thì, trước hết, phải thể hiện trách nhiệm với chính đất nước và nhân dân của mình.


Như thế, trong tình thế khẩn thiết của đất nước, thay vì lăng xăng cướp giật băng rôn và áp phích của người yêu nước, nó phải chứng tỏ thiện chí bằng cách cúi đầu xin lỗi những người yêu nước đã bị khủng bố, bị vu khống và cầm tù. Và, nếu cần, thay vì “ngang ngược” đặt chính quyền lên trên chủ quyền, nó phải chấp nhận buông dao, cái lưỡi gươm dài cứu nước của vua Lê nhưng bị nó sử dụng như một con dao cắt xẻo, cắt xẻo đất đai và cắt xẻo lòng người.


___________


Chú thích


[1] Rubicon là con sông cạn tại Ý, thành ngữ “Crossing the Rubicon” ngụ ý một hành động liều lĩnh, không có đường quay trở lại, xuất phát từ việc Julius Caesar bất chấp sự phản đối của Nguyên lão Nghị viện đưa quân băng qua con sông này để chinh phạt vàp năm 49 BC.


[2] Những hàng tin trên báo chí lề phải những ngày qua.


[3] Trên thực tế chính quyền VN đã không thành công về mặt ngoại giao, cả khối ASEAN cũng không đưa ra thông điệp mạnh mẽ như họ mong muốn.


[4] Đến nay, thư phản đối vụ thu hồi bằng thạc sĩ của Nhã Thuyên vẫn chưa được trả lời.


[5] Những quan chức này phải .


[6] “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Văn hoá hình thành nhân cách con người, bản sắc, cốt cách một dân tộc


Theo chương trình do Trung ương “thông qua”, Hội nghị này bàn 6 điều:


- Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc


- Đề cương các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng


- Chuẩn bị cho việc chỉ đạo tiến hành đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XII của Đảng


- Quy chế bầu cử trong Đảng; việc lấy phiếu tín nhiệm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI về xây dựng Đảng


- Tổng kết việc thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.


[7] Các thủ đoạn cho người áp đảo, dùng các khẩu hiệu “đồng lòng cùng chính phủ” để che chắn hay bằng cách cướp giật các khẩu hiệu đòi trả tự do cho người yêu nước.


Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 11.5.2014, blogger Hoàng Vi:


“Lần này ở Sài Gòn có sự tham gia của ba nhóm. Nhóm do 20 tổ chức dân sự kêu gọi, một nhóm của giáo sư Tương Lai từ nhà hát thành phố, và một nhóm do Thành đoàn tổ chức nhằm để phá biểu tình, cho người trà trộn vào các nhóm biểu tình, để đưa những thông điệp, khẩu hiệu ca ngợi Đảng và Bác, và nhà nước này kia.


Riêng với nhóm mình tham gia ở Nhà văn hóa Thanh niên, thì thấy họ rất mất trật tự, luôn luôn họ đi đầu, cầm cờ đỏ sao vàng và cầm biểu ngữ của họ đi đầu để cố tình che đi biểu ngữ của những người đi sau, đòi tự do cho những người yêu nước, như Điếu Cày, Bùi Hằng, Trần Huỳnh Duy Thức… Những biểu ngữ đó họ cố tình cho người che lại để nhóm làm truyền thông không có thấy để chụp hình. Lúc đầu, một số biểu ngữ yêu cầu trả tự do cho những người yêu nước bị họ cho người giựt đi rất là nhiều. Nhưng bên nhóm biểu tình chuẩn bị rất nhiều biểu ngữ, nên vẫn xuất hiện được trong cuộc biểu tình.


[8] http://www.theaustralian.com.au/news/kevin-rudds-speech-at-beijing-uni/story-e6frg6n6-1111116015758


14.5.2014


© 2014 Thuận Văn & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 15, 2014 17:47

May 14, 2014

Giàn khoan Trụ đồng – Điều kiện của Hy sinh

Trần Vũ


Ngày 11/4/2014, tại Hà Nội, được sự ủy quyền của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, ông Hồ Xuân Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao đã trao tặng Huân chương Hữu nghị của Nhà nước Việt Nam cho ông Khổng Huyễn Hựu, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước CHND Trung Hoa tại Việt Nam. – (Báo Điện tử Đảng CSVN)


Không ngẫu nhiên Tập Cận Bình kéo giàn khoan vào biển Việt Nam bơm dầu khí của dân Việt. Thời điểm được chọn lựa: ngay sau khi Obama công du Á châu trấn an các xứ trong vùng. Thời điểm còn được toan tính kỹ lưỡng: ngay lúc Quân đội Nhân dân phô trương rầm rộ Tinh thần Điện Biên Phủ. Tinh thần ấy vừa bị Tập Cận Bình trấn nước biển Đông.


Chưa khi nào, từ lúc vung khẩu hiệu Hữu nghị Việt-Trung, Đảng cầm quyền ngậm đắng nuốt cay 16 chữ vàng như lúc này. Bao nhiêu khiếp nhược quỵ lụy dâng đất dâng thác với ôm hôn thắm thiết, vô ích. Đàn áp dân biểu tình chống Tàu để chứng tỏ hòa hiếu, vô ích. Gửi sĩ quan Việt sang cho Bắc Kinh tập huấn, ưu tiên các dự án thầu cho công ty Trung Quốc, ngay cả chấp nhận điều kiện mai hậu nguy hiểm: cho phép Hoa kiều sinh sống đông đúc không cần chiếu khán trong các đặc khu, vẫn vô ích. Thiên triều của Tập Cận Bình hành xử như Thiên triều của nhà Minh từng sai Trương Phụ, Mộc Thạnh, Liễu Thăng sang cướp đất. Trương Phụ chiến thắng quân Việt trong thủy chiến Hàm Tử. Mộc Thạnh tiến xuống Sơn Tây hạ thành Đông đô. Liễu Thăng truy đuổi quân nhà Hồ đến tận Hà Tĩnh rồi bắt sống Hồ Quý Ly áp giải về Kim Lăng. Đầu thế kỷ 15 quốc gia rơi vào điêu tàn, quân nhà Hồ vì đánh không lại làm mất nước.


Lịch sử đang lặp lại?


Hôm nay Quân đội Nhân dân đối mặt thực tế: Tập Cận Bình vừa cắm Giàn khoan-Trụ đồng xuống biển Đông. Dưới biển, là đất Việt.




Hôm nay “Cảnh sát Biển Việt Nam vững vàng bảo vệ biển”, “Lực lượng kiểm ngư kiên quyết bảo vệ chủ quyền”… là những khẩu ngữ tung lên sau khẩu hiệu Hữu hảo Việt-Trung được ca tụng suốt hai thập niên. Đến hôm qua Đảng vẫn còn cho xây Cung Hữu nghị Việt-Trung trên đường Lê Quang Đạo-Mỹ Đình, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Lễ khởi công được tổ chức trọng thể ngày 8 tháng 10-2013 với thứ trưởng Nguyễn Phương Nga ôm hôn thắm thiết Khổng Huyễn Hựu,đại sứ Tàu.


Hôm qua “Việt Nam không hai lòng trong quan hệ với Trung Quốc”. Hôm nay Thủ tướng “khẩn thiết kêu gọi Asean phản đối hành động của Trung Quốc”. Dân chúng khó tin Đảng đã bị Hán triều lường gạt. Đã từ rất lâu dân Việt nhìn thấy hiểm nguy áp sát, xâm lược kề cận đã bắt đầu, duy nhất Đảng cố tình nhắm mắt. Nhiều hơn nhắm mắt: một dung túng.


“Cương quyết ngăn việc đặt trái phép giàn khoan bảo vệ vùng biển của tổ quốc…” Khẩu hiệu phất lên hàng ngày nhưng trên thực tế Cảnh sát Biển không cách nào làm nhiệm vụ chấp pháp xử phạt, thanh lý, dẹp giàn khoan. Vì thiếu hậu thuẫn của quân đội, đành “tự kềm chế.” Nuốt hờn căm vào lòng, là “tự kềm chế”. Láng giềng Đông Nam Á khuyên nhủ bớt giận và Hoa Kỳ quan tâm, là “quan ngại”. Quan-ngại-sâu-sắc, chưa có cụm từ nào trên trái đất giả dối bằng thuật ngữ ngoại giao này mà từ lâu, hiển lộng ý nghĩa: Không-động-đậy sau-khi-suy-tính-kỹ.


Phó Tư lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam Ngô Ngọc Thu khẳng định: “Mọi sự chịu đựng đều có giới hạn. Nếu tiếp tục đâm vào chúng tôi, chúng tôi sẽ có tự vệ tương tự để đáp lại.” Đáp lại tương tự − có nghĩa đâm tàu lại. Đâm vào 80 thuyền Trung Cộng trong đó có chiến thuyền, tàu võ trang, tàu tên lửa và được khu trục cơ tiêm kích không yểm. Chắc chắn Tập Cận Bình sẽ gia tăng cường độ thô bạo. Dương Danh Huy nhìn thấy: “Trung Quốc đang từng bước dồn Việt Nam đến câu hỏi Diên Hồng. Tránh câu hỏi Diên Hồng là vô trách nhiệm với chủ quyền lãnh thổ.”


Hòa hay chiến?


Câu hỏi đè nặng lên tâm trí từng người Việt.


Câu trả lời của mỗi người dân Việt đều giống nhau, không do dự: Sẽ liều chết giữ nước.


Chưa khi nào chữ “Nước” mang ý nghĩa như lúc này. Nước Việt của Cha. Nước Biển Đông nuôi dân sinh sống. Liều chết gìn giữ.


Dân Việt sẽ hy sinh nhưng lần này, dân chúng muốn chính quyền hiểu: không thể mãi mãi tiêu dùng xương máu của dân cho tư lợi riêng của đảng cầm quyền và gia đình những đảng viên trị vì. Tinh thần ái quốc của dân Việt không phải là món hàng dùng đàm phán với Bắc Kinh. Để rồi sau Hòa ước, với những điều khoản bí mật không cho dân biết, tất cả trở lại y như cũ? Tàu cướp của – Đảng cướp công – Công an hà hiếp – Dân oan mất đất – Trí thức bị đàn áp. Chồng, cha, anh, em và các con chết trận để tiếp tục như vậy? Tàu cướp hay Đảng cướp, khác gì?


Dân Việt sẵn sàng hy sinh, vì quốc gia, không vì Đảng, nhưng không chấp nhận thể chế tiếp tục chuyên chính.


Đổ máu để giữ biên cương, để trong phạm vi biên cương Việt Nam thực thi Tự do – Công bằng thật sự mà không là những khẩu hiệu giả dối của những định hướng chủ nghĩa lầm lạc.


Là điều kiện của hy sinh.


Plano, 13 tháng 5-2014


© 2014 Trần Vũ & pro&contra


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 14, 2014 12:36

May 11, 2014

Địa chính trị đang trở lại vị trí trung tâm: Sự trả thù của các cường quốc xét lại

Walter Russell Mead


Trần Ngọc Cư dịch


Cho đến thời điểm này, năm 2014 đã là một năm nhiều biến động, khi các cuộc tranh giành địa chính trị ồ ạt chiếm lại sân khấu trung tâm. Dù đó là các lực lượng vũ trang Nga đang chiếm giữ Krym, hay Trung Quốc đang đưa ra các yêu sách chủ quyền quyết đoán tại các vùng biển ven bờ, hay Nhật Bản đang đáp trả bằng một chiến lược ngày càng quyết đoán của chính mình, hay đó là Iran đang ra sức sử dụng các liên minh với Syria và Hezbollah để khống chế Trung Đông, thì các cách vận dụng quyền lực kiểu cũ cũng đang trở lại trong các quan hệ quốc tế.


Hoa Kỳ và Liên Âu, ít ra, cũng nhận thấy các xu thế này là đáng lo ngại. Cả hai đều muốn vượt qua những vấn đề địa chính trị gắn liền với lãnh thổ và sức mạnh quân sự và thay vào đó tập trung vào các vấn đề thuộc về trật tự thế giới và quản trị toàn cầu: tự do hóa mậu dịch, cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, nhân quyền, chế độ pháp trị, thay đổi khí hậu, vân vân. Thật vậy, kể từ khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, mục tiêu quan trọng nhất của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và Tây Âu là chuyển các quan hệ quốc tế từ các vấn đề có bên thắng bên thua [zero-sum issues] sang các vấn đề hai bên đều có lợi [win-win issues]. Bị lôi cuốn vào trong những cuộc đọ sức theo trường phái cũ như cuộc tranh chấp tại Ukraine không những lấy mất thì giờ và năng lực từ những vấn đề quan trọng nói trên; nó còn thay đổi bản chất của chính trị quốc tế. Khi môi trường quốc tế trở nên đen tối, công cuộc phát triển và duy trì trật tự thế giới ngày càng gặp nhiều đe dọa hơn.


Nhưng lẽ ra người phương Tây đừng bao giờ kỳ vọng rằng địa chính trị kiểu cũ cuối cùng sẽ biến mất. Sở dĩ họ tưởng như vậy chỉ vì trên cơ bản họ đã hiểu sai ý nghĩa về sự sụp đổ của Liên Xô: đây chỉ là một cuộc chiến thắng ý thức hệ của thể chế dân chủ tư bản tự do đối với chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là sự lỗi thời của quyền lực cứng [hard power]. Trung Quốc, Iran, và Nga không bao giờ chấp nhận sự dàn xếp địa chính trị tiếp theo sau Chiến tranh Lạnh, và những nước này đang toan tính các nỗ lực ngày càng táo bạo hơn để đảo ngược tình hình. Tiến trình này sẽ không theo đường lối hòa bình, và dù các cường quốc xét lại này có thành công hay không, thì những nỗ lực của chúng cũng đã làm lung lay quân bình lực lượng và thay đổi các tương tác chính trị quốc tế.


MỘT Ý THỨC SAI LẦM VỀ AN NINH


Khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, nhiều người Mỹ và người châu Âu dường như đã nghĩ rằng những vấn đề địa chính trị phiền phức nhất phần lớn đã được giải quyết xong. Ngoại trừ một số vấn đề tương đối nhỏ, như những rắc rối tại Nam Tư cũ và cuộc tranh chấp giữa Israel và Palestine, họ đinh ninh rằng những vấn đề lớn nhất trong chính trị thế giới sẽ không còn liên quan đến các biên giới quốc gia, các căn cứ quân sự, vấn đề dân tộc tự quyết, hay các vùng ảnh hưởng.


Không ai có thể trách cứ con người vì nuôi hi vọng. Đường lối tiếp cận của phương Tây đối với tình hình thực tế của thế giới hậu-Chiến tranh Lạnh đã mang nhiền ý nghĩa, và thật khó tưởng tượng ra hòa bình thế giới có thể trở thành hiện thực mà không cần thay thế sự tranh giành địa chính trị [geopolitical competition] bằng việc xây dựng một trật tự thế giới tự do. Tuy nhiên, người phương Tây thường quên rằng dự án này đặt cơ sở trên các nền móng địa chính trị đặc thù vừa được xây dựng vào những năm đầu của thập niên 1990 mà thôi.


Tại châu Âu, cuộc dàn xếp hậu-Chiến tranh Lạnh đưa đến việc thống nhất nước Đức, chia năm xẻ bảy Liên Xô, và kết nạp các quốc gia thuộc khối Warzsawa cũ và các nước cộng hòa Baltic vào NATO và Liên Âu. Tại Trung Đông, nó dẫn đến sự thắng thế của các nước Hồi giáo Sunni đồng minh với Hoa Kỳ (Ả-rập Saudi, các đồng minh Vùng Vịnh, Ai Cập, và Thổ Nhĩ Kỳ), và một chính sách bao vây ngăn chặn kép [double containment] nhắm vào hai nước Iran và Iraq. Tại châu Á, nó đồng nghĩa với ưu thế không bị ai thách thức của Hoa Kỳ, được củng cố bằng một loạt quan hệ an ninh với Nhật Bản, Nam Hàn, Australia, Indonesia, và các đồng minh khác.


Sự dàn xếp này phản ánh thực tế quyền lực lúc bấy giờ, và nó chỉ được vững vàng như các mối quan hệ đang chống đỡ nó mà thôi. Đáng tiếc là, nhiều nhà quan sát đã đồng hóa tình hình địa chính trị tạm thời của thế giới sau Chiến tranh Lạnh với kết quả được coi như là chung cục của cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa thể chế dân chủ tự do và chế độ cộng sản Xô-viết. Tuyên bố nổi tiếng của nhà nghiên cứu chính trị Francis Fukuyama, rằng kết thúc Chiến tranh Lạnh có nghĩa là “cáo chung của lịch sử”, chỉ là một phát biểu về ý thức hệ. Nhưng đối với nhiều người, sự sụp đổ của Liên Xô không những có nghĩa là cuộc đấu tranh ý thức hệ của nhân loại đã chấm dứt vĩnh viễn; họ còn nghĩ rằng bản thân địa chính trị cũng đến hồi chấm dứt vĩnh viễn.


Thoạt nhìn, kết luận này có vẻ là một suy diễn từ lý luận của Fukuyama chứ không phải là một sự bóp méo. Dẫu sao, ý kiến về sự cáo chung của lịch sử đã dựa vào những hậu quả mang tính địa chính trị của những cuộc đấu tranh ý thức hệ kể từ khi triết gia Đức Georg Wilhelm Friedrich Hegel lần đầu tiên phát biểu nó vào đầu thế kỷ 19. Đối với Hegel, chính trận Jena, năm 1806, đã hạ màn cuộc chiến giữa các tư tưởng. Theo quan điểm của Hegel, việc Napoleon Bonaparte tiêu diệt toàn bộ quân Phổ trong chiến dịch ngắn ngủi nói trên là chiến thắng của Cách mạng Pháp đối với đội quân tinh nhuệ nhất mà châu Âu tiền-Cách mạng có thể tạo ra. Điều này đã đưa đến một cáo chung cho lịch sử, Hegel lý luận, bởi vì trong tương lai, chỉ có những quốc gia chấp nhận những nguyên tắc và kỹ thuật của nước Pháp cách mạng mới có thể cạnh tranh và tồn tại.


Áp dụng vào thế giới hậu-Chiến tranh Lạnh, lý luận của Hegel được suy diễn là, trong tương lai, các quốc gia sẽ phải chấp nhận những nguyên tắc của chủ nghĩa tư bản tự do mới theo kịp thời đại. Những xã hội cộng sản khép kín như Liên Xô đã tỏ ra thiếu sáng tạo và kém năng suất, không thể cạnh tranh về kinh tế và quân sự với các quốc gia tự do. Chế độ chính trị của chúng cũng rất khập khễnh, vì không một hình thức xã hội nào khác ngoài thể chế dân chủ tự do mới có thể cung ứng đủ tự do và nhân phẩm cho một xã hội đương thời giữ được ổn định.


Để chống lại phương Tây hữu hiệu, các nước sẽ phải bắt chước phương Tây, và nếu việc này diễn ra, chúng sẽ trở thành một dạng thức xã hội mờ nhạt, chủ hòa, nhu nhược không còn muốn chiến đấu vì bất cứ lý do gì. Mối nguy duy nhất còn sót lại đối với hòa bình thế giới sẽ phát xuất từ các quốc gia côn đồ như Bắc Triều Tiên, và dù những nước này có đủ ý chí để thách thức phương Tây đi nữa, chúng cũng sẽ bị cơ cấu xã hội và chính trị lỗi thời của mình làm cho trở nên què quặt, không thể vượt lên trên mức độ chỉ gây khó chịu cho các nước khác (trừ phi chúng phát triển được vũ khí nguyên tử, hẳn nhiên). Và vì thế, các quốc gia cộng sản cũ, như Nga chẳng hạn, đã đối diện với một lựa chọn. Hoặc là tham gia phong trào hiện đại hóa và trở thành những quốc gia tự do, cởi mở, và chủ hòa, hoặc là cứ bám lấy vũ khí và văn hóa của mình trong khi bị thế giới qua mặt.


Lúc đầu, mọi việc có vẻ diễn ra như thế. Với lịch sử [của cuộc chiến ý thức hệ] chấm dứt, sự tập trung được chuyển từ địa chính trị sang các lãnh vực kinh tế phát triển và cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, đồng thời phần lớn chính sách đối ngoại chuyển trọng tâm sang các vấn đề như thay đổi khí hậu và thương mại. Kết hợp sự chấm dứt của địa chính trị với sự cáo chung của lịch sử đã đưa ra một viễn ảnh đặc biệt hấp dẫn đối với Hoa Kỳ: đó là ý tưởng cho rằng Mỹ có thể bắt đầu giảm bớt việc đóng góp vào hệ thống quốc tế mà vẫn thu hoạch nhiều lợi lộc hơn. Mỹ có thể giảm chi tiêu quốc phòng, cắt bớt các ngân khoản của Bộ Ngoại giao, giảm bớt sự hiện diện của mình tại những điểm nóng ở nước ngoài – và thế giới chỉ việc tiếp tục phồn thịnh và tự do hơn.


Viễn kiến này đã từng thu hút cả phe phóng khoáng lẫn phe bảo thủ tại Hoa Kỳ. Chính quyền của Tổng thống Bill Clinton, chẳng hạn, đã cắt giảm ngân sách của cả Bộ Quốc phòng lẫn Bộ Ngoại giao và trong tơ tóc đã thuyết phục được Quốc hội tiếp tục đóng lệ phí cho LHQ. Đồng thời, những nhà làm chính sách Mỹ lúc đó đinh ninh rằng hệ thống quốc tế sẽ trở nên vững mạnh hơn và có ảnh hưởng sâu rộng hơn trong khi vẫn đưa đến các lợi ích của Hoa Kỳ. Những chính khách theo chủ nghĩa cô lập mới trong Đảng Cộng hòa (Republican neo-isolationists), như cựu dân biểu Ron Paul từ Bang Texas, đã tranh luận rằng trong tình hình không có những thách thức địa chính trị nghiêm trọng, Hoa Kỳ có thể nhanh chóng cắt giảm chi tiêu quốc phòng và viện trợ trong khi vẫn tiếp tục hưởng lợi từ hệ thống kinh tế toàn cầu.


Sau Biến cố 9/11, Tổng thống George W. Bush đã đặt cơ sở chính sách đối ngoại trên xác tín là quân khủng bố Trung Đông đã trở thành một kẻ thù đặc biệt nguy hiểm, và Bush phát động điều mà ông cho là một cuộc chiến lâu dài chống lại chúng. Trên một số phương diện, thế giới lại quay về với phạm trù lịch sử đấu tranh. Nhưng tín lý của chính quyền Bush cho rằng thể chế dân chủ có thể dễ dàng được bứng sang  Trung Đông Ả Rập, bắt đầu bằng Iraq, là một bằng chứng về một sự tin tưởng sâu sắc rằng dòng thác biến cố toàn cầu đang diễn ra trong chiều hướng có lợi cho Mỹ.


Tổng thống Barack Obama đã xây dựng chính sách đối ngoại của mình trên xác tín cho rằng “chiến tranh chống khủng bố” đã bị thổi phồng quá đáng, rằng lịch sử [xung đột ý hệ] đã thực sự chấm dứt, và rằng, cũng như trong những năm Clinton cầm quyền, những ưu tiên quan trọng nhất đều liên quan tới việc củng cố trật tự thế giới tự do chứ không phải theo đuổi sách lược địa chính trị cổ điển. Chính quyền này đã minh định một nghị trình cực kỳ tham vọng nhằm yểm trợ trật tự đó: chặn đứng nỗ lực phát triển vũ khí hạt nhân của Iran, giải quyết cuộc xung đột Israel-Palestine, đàm phán một thỏa ước về vấn đề thay đổi khí hậu toàn cầu, ký kết các hợp đồng thương mại với các nước trên Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, ký kết các hiệp ước kiểm soát vũ khí với Nga, chấn chỉnh lại quan hệ ngoại giao của Mỹ với thế giới Hồi giáo, bênh vực quyền lợi của người đồng tính luyến ái, phục hồi niềm tin của các đồng minh châu Âu, và chấm dứt cuộc chiến tại Afghanistan. Nhưng, đồng thời Obama đã lên kế hoạch nhanh chóng cắt giảm chi tiêu quốc phòng và giảm bớt sự hiện diện của Mỹ tại những địa bàn chủ yếu trên thế giới, như châu Âu và Trung Đông.


MỘT TRỤC SÂU BỌ?


Tất cả những tin tưởng tốt lành nói trên sắp bị thử thách. Hai mươi lăm năm sau khi Bức tường Bá Linh sụp đổ, dù người ta tập trung chú ý vào sự kèn cựa giữa Liên Âu và Nga về Ukraine, một biến cố đã đưa đến việc Nga chiếm lấy Krym; hay người ta tập trung chú ý vào cuộc tranh chấp ngày càng gia tăng cường độ giữa Trung Quốc và Nhật Bản tại Đông Á; hay vào cuộc xung đột giáo phái đang bị thu hút vào các tranh chấp quốc tế hay các nội chiến tại Trung Đông, thì người ta vẫn nhận ra rằng càng ngày thế giới càng có vẻ chưa chịu để lại lịch sử đấu tranh ở đằng sau. Trong những cung cách rất khác nhau, với những mục tiêu rất khác nhau, Trung Quốc, Iran, và Nga cùng nhau đẩy lùi giải pháp chính trị của Chiến tranh Lạnh.


Mối tương quan giữa ba cường quốc xét lại này là phức tạp. Trong trường kỳ, Nga lo sợ sự trỗi dậy của Trung Quốc. Thế giới quan của Tehran ít có điểm chung với thế giới quan của Bắc Kinh hay của Moskva. Iran và Nga là những nước xuất khẩu dầu và muốn giá dầu cao; Trung Quốc rốt cuộc vẫn là nước tiêu thụ dầu và muốn giá dầu thấp. Bất ổn chính trị tại Trung Đông có thể làm lợi cho Iranvà Nga nhưng lại đặt ra nhiều rủi ro to lớn cho Trung Quốc. Ta không nên nói đến một liên minh chiến lược giữa ba nước này, và qua thời gian, nếu chúng thành công trong việc phá hoại ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại khu vực Á Âu, căng thẳng giữa chúng có khả năng sẽ gia tăng chứ không giảm bớt.


Tuy nhiên, điều kết hợp những cường quốc này lại với nhau chính là sự nhất trí rằng nguyên trạng cần phải được xét lại. Nga muốn tái phục hồi Liên Xô được chừng nào hay chừng ấy. Trung Quốc không có ý định tự mãn với một vai trò thứ yếu trong các vấn đề toàn cầu, đồng thời cũng không chấp nhận mức độ ảnh hưởng hiện nay của Hoa Kỳ tại châu Á và nguyên trạng lãnh thổ [the territorial status quo] tại đó. Iran muốn thay thế trật tự hiện nay tại Trung Đông – một trật tự do Ả Rập Saudi lãnh đạo và bị các quốc gia Ả Rập Hồi giáo Sunni khống chế – bằng một trật tự lấy Tehran làm trung tâm.


Lãnh đạo của ba nước này còn nhất trí với nhau rằng quyền lực Mỹ là trở ngại chính cho việc họ thực hiện các mục tiêu xét lại [revisionist goals] của mình. Thái độ thù địch của họ đối với Washington và trật tự mà Mỹ đặt ra có tính vừa công vừa thủ: không những họ hi vọng rằng sự suy yếu của quyền lực Mỹ sẽ làm cho việc lập lại trật tự mới trong khu vực của họ dễ dàng hơn, mà còn lo ngại rằng Washington có thể ra sức lật đổ họ nếu bất bình của người dân trong nước họ gia tăng. Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo xét lại này muốn tránh đối đầu trực tiếp với Hoa Kỳ, ngoại trừ trong một số trường hợp hiếm hoi khi tình hình hết sức thuận lợi cho họ (như trong vụ Nga xâm lăng Georgia năm 2008 và chiếm đóng rồi sáp nhập Krym năm nay). Thay vì đối đầu trực tiếp với nguyên trạng, họ tìm cách làm sứt mẻ dần dần các qui phạm và các mối quan hệ vốn đang duy trì nó.


Kể từ khi Obama trở thành tổng thống Mỹ, mỗi một trong ba cường quốc này đã theo đuổi một chiến lược riêng biệt tùy theo chỗ mạnh, yếu của mình. Nghịch lý là, Trung Quốc, quốc gia có nhiều tiềm năng to lớn nhất trong bộ ba, đã gặp nhiều trở ngại nhất. Những nỗ lực của Trung Quốc nhằm quyết đoán chủ quyền của mình trong khu vực chỉ mang đến hậu quả là làm thắt chặt thêm mối quan hệ giữa Hoa Kỳ với các đồng minh châu Á và gia tăng cường độ của chủ nghĩa dân tộc tại Nhật Bản. Tiềm năng của Bắc Kinh càng lớn, thì ý thức về thất bại sẽ càng sâu sắc. Một sự gia tăng sức mạnh từ phía Trung Quốc sẽ gặp phải một sự gia tăng quyết tâm từ phía Nhật Bản, và các căng thẳng tại châu Á sẽ có khả năng lan tràn sang lãnh vực kinh tế và chính trị toàn cầu.


Iran, quốc gia yếu nhất trong bộ ba này căn cứ trên nhiều thước đo, lại đạt nhiều thành tích nhất. Một kết hợp của việc Mỹ xâm lăng Iraq và việc Mỹ sau đó rút quân ra quá sớm đã giúp Tehran hàn gắn các mối quan hệ sâu sắc và bền vững với các trung tâm quyền lực có ý nghĩa ở bên kia biên giới Iraq, một diễn biến đã làm thay đổi cán cân quyền lực giáo phái và chính trị ở trong khu vực. Tại Syria, Iran, với sự trợ giúp của Hezbolla, một đồng minh lâu đời, đã đủ sức đảo ngược tình hình quân sự và chống đỡ được chính phủ của Bashar al-Assad trước sự phản đối mạnh mẽ của chính phủ Hoa Kỳ. Sự chiến thắng của chính trị thực tế này đã gia tăng quyền lực và uy tín của Iran một cách đáng kể. Khắp Trung Đông, Mùa Xuân Ả Rập đã làm suy yếu các chế độ Hồi giáo Sunni, đẩy thêm cán cân quyền lực về phía có lợi choIran. Iran cũng hưởng lợi nhờ mối chia rẽ ngày càng tăng giữa các chính phủ Sunni về cách họ phải ứng xử với Tổ chức Huynh đệ Hồi giáo và các chi nhánh và thành viên của nó.


Trong khi đó, Nga xuất hiện như một cường quốc xét lại có thành tích trung bình: mạnh hơn Iran và yếu hơn Trung Quốc, thành công hơn Trung Quốc về địa chiến lược nhưng không thành công bằng Iran. Nga đã đạt một số kết quả vừa phải trong nỗ lực ly gián Đức với Hoa Kỳ, nhưng tham vọng của Tổng thống Nga Vladimir Putin về việc phục hồi Liên Xô cũ đã trở nên khập khiễng do những giới hạn gay gắt của sức mạnh kinh tế nước ông. Để xây dựng một khối Á-Âu thực sự, như Putin mơ ước thực hiện, Nga sẽ phải cung cấp ngân sách cho các cộng hòa Xô-viết cũ – một điều Nga không đủ sức làm.


Tuy nhiên, bất chấp khả năng hạn chế của mình, Putin đã thành công xuất sắc trong việc làm thất bại các dự án của phương Tây trên lãnh thổ Xô-viết cũ. Ông đã chặn đứng NATO ngay trên con đường bành trướng của nó, đưa Armenia vào quĩ đạo của mình, nắm chặt Krym, và, với sự phiêu lưu của ông tại Ukraine, đã giáng một đòn bất ngờ khiến phương Tây cảm thấy bức xúc và nhục nhã. Từ quan điểm của phương Tây, Putin dường như đang đẩy đất nước mình vào một tương lai đen tối hơn bao giờ hết, để trở thành một quốc gia nghèo và đứng bên lề hệ thống quốc tế. Nhưng Putin không tin rằng lịch sử đã chấm dứt, và từ góc nhìn của ông, ông đã củng cố được quyền lực ở trong nước và đã nhắc nhở các cường quốc thù nghịch ở bên ngoài biết rằng con gấu Nga vẫn còn vuốt sắc.


CÁC THẾ LỰC HIỆN NAY


Những cường quốc xét lại này theo đuổi những nghị trình và có những tiềm năng khác biệt nhau đến nỗi không một nước nào trong nhóm này có thể tạo ra một lực chống đối có hệ thống và mang tính toàn cầu như Liên Xô đã làm trước đây. Do đó, người Mỹ đã chậm nhận ra rằng những quốc gia này đã làm lung lay trật tự địa chính trị Á Âu trong những cung cách gây khó khăn cho Mỹ và châu Âu trong nỗ lực xây dựng một thế giới hậu-lịch sử, đôi bên đều có lợi [a post-historical, win-win world].


Tuy vậy, người ta vẫn có thể chứng kiến các hậu quả của hành vi xét lại này ở nhiều nơi trên thế giới. Tại Đông Á, mặc dù lập trường ngày một quyết đoán của Trung Quốc chưa đạt nhiều tiến độ địa chính trị cụ thể, nhưng trên cơ bản nó đã thay đổi động lực tương tác chính trị trong một khu vực hiện có những nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Chính trị châu Á ngày nay xoay quanh sự kèn cựa giữa các dân tộc, các đòi hỏi chủ quyền xung đột nhau, các nỗ lực tăng cường hải quân, và các vấn đề lịch sử tương tự. Cuộc phục sinh của chủ nghĩa dân tộc tại Nhật Bản, một đáp trả trực tiếp đối với nghị trình của Trung Quốc, đã làm phát sinh một tiến trình theo đó chủ nghĩa dân tộc đang trỗi dậy ở nước này sẽ nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc ở nước kia. Trung Quốc và Nhật Bản đang tăng cường giọng điệu cứng rắn, gia tăng ngân sách quân sự của mỗi bên, khởi động các cuộc khủng hoảng song phương với tần suất cao hơn, và ngày càng tập trung vào cuộc tranh giành có bên thắng bên thua [zero-sum competition].


Mặc dù Liên Âu vẫn còn ở trong những giờ phút hậu-lịch sử [trong quan niệm cho rằng lịch sử đấu tranh ý thức hệ đã hoàn toàn chấm dứt], nhưng những cộng hòa nằm ngoài khối Liên Âu và thuộc Liên Xô cũ lại đang sống trong một thời đại rất khác. Trong vài năm qua, những hi vọng về việc chuyển đổi Liên Xô cũ thành một khu vực hậu-lịch sử đã phai tàn. Việc Nga chiếm Ukraine chỉ là bước mới nhất trong một loạt diễn biến đã biến Đông Âu thành một khu vực xung đột địa chiến lược gay gắt, khiến cho việc điều hành quốc gia theo đường lối dân chủ vững chắc và hữu hiệu trở nên khó thực hiện bên ngoài các quốc gia Baltic và Ba Lan.


Tại Trung Đông, tình hình thậm chí còn gay gắt hơn. Những ước mơ rằng thế giới Ả Rập đang tiến đến điểm chuyển đổi sang thể chế dân chủ – những ước mơ đã tạo hình dáng và phẩm chất của chính sách Hoa Kỳ dưới chính quyền Bush lẫn Obama – cũng đã phai tàn. Thay vì xây dựng một trật tự thông thoáng trong khu vực, các nhà làm chính sách Hoa Kỳ đang phải đối phó với sự tan rã của hệ thống nhà nước đã được khai sinh từ hiệp ước Sykes-Picot năm 1916, một hiệp ước đã chia cắt các vùng trong Đế quốc Ottoma, trong khi việc điều hành quốc gia đang bị xói mòn tại Iraq, Lebanon, và Syria. Obama đã cố gắng hết sức để tách rời vấn đề địa chính trị trong việc Iran bành trướng quyền lực nhanh chóng khắp khu vực khỏi vấn đề nước này phải tuân theo Hiệp ước Cấm phổ biến Vũ khí hạt nhân, nhưng những lo lắng của lãnh đạo Israel và Ả Rập Saudi về những tham vọng khu vực của Iran đang làm cho nỗ lực của Obama càng khó thực hiện. Một cản trở khác cho việc đạt được thỏa ước với Iran chính là Nga, một cường quốc đã sử dụng địa vị của mình trong Hội đồng Bảo an LHQ và việc hậu thuẫn cho Assad để đẩy lùi các mục tiêu của Mỹ tạiSyria.


Nga xem ảnh hưởng của mình tại Trung Đông như là một tài sản quan trọng trong cuộc cạnh tranh quyền lực với Mỹ. Điều này không có nghĩa là Moskva sẽ theo phản xạ chống lại các mục tiêu của Mỹ trong mọi trường hợp, nhưng có nghĩa là những kết quả mang lại lợi ích cho cả đôi bên [the win-win outcomes] mà lãnh đạo Mỹ sốt sắng tìm kiếm đôi khi sẽ bị hi sinh vì những lợi ích địa chính trị của Nga. Trong việc quyết định cần phải mạnh tay như thế nào với Nga về vấn đề Ukraine, Nhà Trắng không thể tránh né việc cân nhắc hậu quả đối với lập trường của Nga về cuộc chiến Syria hay về chương trình hạt nhân củaIran. Nga không thể biến mình thành một nước giàu có hơn hay rộng lớn hơn nhiều so với hiện nay, nhưng nó đã làm cho mình trở thành một yếu tố quan trọng trong tư duy chiến lược của Mỹ, và Nga có thể sử dụng lợi thế này để đòi hỏi các nhượng bộ quan trọng đối với mình.


Nếu những cường quốc theo chủ nghĩa xét lại này đã thắng thế, thì sức mạnh của những cường quốc muốn duy trì nguyên trạng đã bị xói mòn. Tình trạng suy yếu này diễn ra rõ nét nhất tại châu Âu, nơi mà cái thảm họa không suy giảm của đồng tiền chung đã chia rẽ công luận và buộc Liên Âu phải xoay hướng tập trung vào bên trong. Liên Âu có lẽ đã tránh được hậu quả tồi tệ nhất có thể xảy ra của cuộc khủng hoảng đồng euro, nhưng cả ý chí lẫn khả năng để hành động có hiệu quả ở ngoài biên giới của mình đã bị tổn thương đáng kể.


Hoa Kỳ đã không kinh qua một thiệt hại to lớn nào tương tự như nỗi đau kinh tế mà phần lớn châu Âu đã trải qua, nhưng vì Mỹ cũng đang đối diện nhiều vấn đề, gồm cái dư vị trong chính sách đối ngoại do những cuộc chiến của Bush để lại, một nhà nước giám sát ngày càng xâm phạm đời tư công dân, một cuộc hồi phục kinh tế chậm chạp, và một luật cải tổ y tế bị nhiều người chống đối, tâm lý công chúng đã trở nên chán chường. Cả bên cánh Tả lẫn bên cánh Hữu, người Mỹ đang đặt nghi vấn về những lợi ích của trật tự thế giới hiện nay và về khả năng của những kiến trúc sư đã tạo ra nó. Ngoài ra, dân chúng cũng chia sẻ sự đồng thuận của giới cầm quyền rằng trong một thế giới hậu-Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ nhất định có thể đóng góp ít hơn vào hệ thống quốc tế và rút ra nhiều lợi lộc hơn. Khi điều đó không xảy ra, người dân bèn đổ lỗi cho lãnh đạo. Dẫu sao, người dân Mỹ không còn mấy thiết tha đối với các sáng kiến đồ sộ mới mẻ ở trong cũng như ngoài nước. Một quần chúng yếm thế đang trở nên thờ ơ với một Washington phân cực, bằng một thái độ vừa chán chường vừa khinh bỉ.


Obama lên cầm quyền với kế hoạch cắt giảm chi tiêu quân sự và thu nhỏ tầm quan trọng của chính sách đối ngoại trong chính trị Mỹ trong lúc tăng cường trật tự thế giới tự do. Nhưng hiện nay, hơn nửa đoạn đường trong chức vụ tổng thống, Obama thấy mình bị sa lầy vào chính những hình thức tranh đua địa chính trị mà trước đây ông từng hi vọng có thể vượt qua. Chính sách phục thù của Trung Quốc, Iran, và Nga chưa lật đổ được sự dàn xếp hậu-Chiến tranh Lạnh tại khu vực Á Âu, và có lẽ không bao giờ làm được điều này, nhưng nó đã biến một nguyên trạng không tranh chấp [uncontested status quo] thành một nguyên trạng bị tranh chấp. Các tổng thống Mỹ không còn tự do hành động khi họ tìm cách củng cố hệ thống tự do; càng ngày họ càng bận tâm với việc chống đỡ những nền tảng địa chính trị của hệ thống này.


HOÀNG HÔN CỦA LỊCH SỬ


Chính vì cách đây 22 năm Fukuyamađã cho xuất bản cuốn The End of History and the Last Man (Cáo chung của Lịch sử và Con người Cuối cùng) mà người ta có xu thế coi sự tái xuất của địa chính trị là một cách bác bỏ dứt khoát luận thuyết của ông. Thực tế phức tạp hơn nhiều. Như Fukuyama đã nhắc nhở người đọc, tận cùng của lịch sử là ý kiến của Hegel, và mặc dù loại hình nhà nước cách mạng đã vĩnh viễn chiến thắng loại hình chế độ cũ, Hegel lý luận, cạnh tranh và xung đột sẽ còn tiếp tục diễn ra. Ông tiên đoán rằng những xáo trộn chính trị sẽ xảy ra trong các lãnh thổ, ngay cả khi các vùng trung tâm của văn minh châu Âu đi vào một thời kỳ hậu-lịch sử (post-historical time). Giả dụ các lãnh thổ trong quan niệm của Hegel gồm có Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, và Nga, chắc chắn người ta sẽ không ngạc nhiên rằng hơn hai thế kỷ sau, những xáo trộn kia vẫn chưa chấm dứt. Chúng ta đang sống trong buổi hoàng hôn của lịch sử chứ không sống vào thời điểm lịch sử đã thật sự cáo chung.


Ngày nay, một quan niệm về tiến trình lịch sử theo kiểu Hegel sẽ cho rằng kể từ đầu thế kỷ 19 đến nay tiến trình này vẫn không mấy thay đổi. Để được hùng mạnh, các quốc gia phải phát triển những tư duy và những định chế có thể cho phép họ sử dụng các lực vô cùng to lớn của chủ nghĩa tư bản công nghiệp và thông tin. Ngoài ra, không còn có một con đường nào khác; xã hội nào không đủ sức hoặc không muốn đi theo con đường này cuối cùng sẽ trở thành kẻ tuân theo mệnh lệnh của lịch sử chứ không thể làm nên lịch sử.


Nhưng con đường dẫn đến thời hậu hiện đại [postmodernity] vẫn còn nhiều gập ghềnh. Để tăng cường quyền lực của mình, Trung Quốc, chẳng hạn, rõ ràng sẽ phải đi qua một tiến trình phát triển kinh tế và chính trị, đòi hỏi nước này phải khắc phục những vấn đề mà các xã hội phương Tây đã và đang đối phó. Nhưng, vẫn không có gì đảm bảo rằng con đường mà Trung Quốc sử dụng để đi tới tình trạng hiện đại tự do và ổn định sẽ ít hỗn độn hơn con đường mà Đức đã đi qua, chẳng hạn. Buổi hoàng hôn của lịch sử không phải là một thời gian yên ắng.


Phần hai cuốn sách của Fukuyama ít được chú ý vì không làm hài lòng người phương Tây. Khi Fukuyama tìm hiểu một xã hội hậu-lịch sử sẽ giống như thế nào, ông đã phát hiện một hình ảnh đáng lo ngại. Trong một thế giới mà những vấn đề lớn đã được giải quyết xong và lãnh vực địa chính trị đã nhường bước cho lãnh vực kinh tế, nhân loại trông sẽ giống như “con người cuối cùng” theo chủ nghĩa hư vô mà triết gia Friedrich Nietzche đã mô tả: đó là người tiêu thụ chỉ biết chăm chút chính mình mà không còn khát vọng nào lớn hơn ngoài chuyến đi mua sắm tiếp theo.


Nói cách khác, những người này sẽ gần giống giới quan liêu châu Âu và giới vận động hành lang tại Washington ngày nay. Họ có thừa khả năng để quản lý công việc của mình trong xã hội hậu-lịch sử, nhưng hiểu được các động cơ và chống lại được những chiến lược của các lãnh đạo chính trị cường quốc kiểu cũ là việc khó đối với họ. Khác với những đối thủ của họ vừa kém năng suất vừa thiếu ổn định, những con người hậu lịch sử không biết hi sinh, chỉ tập trung vào mục tiêu ngắn hạn, dễ dàng bị lung lạc, và thiếu can đảm.


Thực tế của đời sống cá nhân và sinh họat chính trị tại những xã hội hậu lịch sử là rất khác với thực tế tại những nước như Trung Quốc, Iran, và Nga, nơi mà mặt trời lịch sử vẫn đang chiếu sáng. Những xã hội khác biệt này không những đề cao các nhân cách và giá trị khác biệt, mà các định chế của chúng cũng hoạt động kiểu khác và dân chúng ở đó chịu ảnh hưởng bởi các tư tưởng kiểu khác.


Các xã hội gồm toàn những con người cuối cùng của Nietzche có đặc tính là hiểu sai và đánh giá thấp những đối thủ mà họ cho là bán khai trong những xã hội mà họ cho là lạc hậu – một điểm mù có thể, chí ít tạm thời, xoá bỏ những lợi thế khác của nước họ. Trào lưu lịch sử có thể đang chảy không ngừng về hướng thể chế dân chủ tư bản tự do, và mặt trời lịch sử có thể đang thật sự khuất sau những rặng đồi. Nhưng thậm chí khi bóng đêm len xuống và vì sao đầu tiên xuất hiện trên bầu trời thì những nhân vật như Putin vẫn còn sải bước trên sân khấu thế giới. Họ sẽ không nhẹ nhàng đi vào cái đêm an lành kia, mà bằng tất cả cuồng nộ, họ sẽ chống lại sự lụi tắt của ánh sáng.


__________


WALTER RUSSELL MEAD là Giáo sư về Các Vấn đề Đối ngoại và Khoa học Nhân văn tại Đại học Bard và là Cộng tác viên của The American Interest.


Nguồn: Walter Russell Mead, “The Return of Geopolitics“, Foreign Affairs, May/June 2014


Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 11, 2014 15:13

May 10, 2014

17 ý tưởng biểu tình

Từ Linh


Bất bình


Nga vừa ngang ngược nuốt chửng Crimea của Ukraine, trong khi phương Tây lừ đừ, thì Trung Quốc có ngay một quả Crimea xấc láo khác khi cắm giàn khoan HD 981 trên vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam.


Đây là một cú tát, nổ đom đóm. Tát vào mặt các đồng chí Việt Nam vẫn lảm nhảm 4 tốt 16 vàng, tát cả vào mặt phương Tây và Tổng thống Mỹ Obama, người mới vừa kết thúc chuyến công du khẳng định chuyển trục về Châu Á. Nếu Mỹ không làm gì trước biến cố này thì mọi đảm bảo của Mỹ mới đây với Nhật, Hàn, Malaysia, Phillippines sẽ chỉ là trò đùa của một con “cọp giấy”, làm mất mặt Mỹ.


Nhưng, Trung Quốc khinh Đảng Cộng sản Việt Nam cũng vì Đảng đã quá khinh dân, đã đạp vào mặt người dân biểu tình chống Trung Quốc, đã cho nhảy đầm ưỡn ẹo “con bướm xinh” và cắt đá, phá đám buổi tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh vì Hoàng Sa, đã bắt bớ, bỏ tù, hành hạ những người chống Trung Quốc như Điếu Cầy trước đây.


Cú tát của Trung Quốc đau điếng người, nên chưa bao giờ Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh mở miệng mạnh như thế: “Việt Nam sẽ dùng mọi biện pháp phù hợp cần thiết để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.”


Nhưng hàng triệu người Việt lòng như lửa đốt muốn hỏi “mọi biện pháp” là biện pháp gì?


“Làm gì?” đó là câu hỏi nóng sốt hôm nay.


Người Việt dư biết Trời thường đi sau người và chỉ giúp người tự giúp, nên phải dựa sức mình trước, không thể chờ hay lệ thuộc bên ngoài. Nhà nước sẽ có những biện pháp từ trên xuống, nhưng xã hội dân sự cũng sẽ có những tự phát hợp tình hợp lý từ dưới lên.


Người Việt vốn thông minh, nhất là khi gặp khó, ai nấy đều có thể đưa ra những ý tưởng hay. Ở đây, chỉ xin góp 17 ý về cách thức biểu lộ tình cảm bất bình, không theo trình tự nào, có thể khả khi, dự phần vào cuộc động não chung.


17 ý tưởng


1. Không đàn áp biểu tình: Trước hết là chấm dứt ngay “con bướm xinh” nhảy đầm, cắt đá, quấy phá, bắt bớ, đánh, đập, đạp, đá người biểu tình. Các trường đại học cũng hãy chấm dứt cấm sinh viên biểu tình chống xâm lược, và chấm dứt đày đọa, đuổi học họ sau biểu tình.


2. Hồi chuông một phút: Đúng 8 giờ sáng chủ nhật 11/5/2014, mọi quả chuông nhà thờ, nhà chùa, thánh thất trên khắp ba miền đất nước: từ Nhà thờ Lớn Hà Nội, đến Nhà thờ Thái Hà, Nhà thờ Đức Bà, Nhà Thờ Chúa Cứu thế Saigon, từ Chùa Vĩnh Nghiêm, Chùa Thiên Mụ, đến Chùa Trấn Quốc, từ mọi nhà thờ ở Bùi Chu, Phát Diệm, Hố Nai, Gia Kiệm, đến các Thánh thất Cao đài ở Tây Ninh, Trà Vinh… tất cả sẽ đổ một hồi chuông kéo dài một phút để nhắc mọi người quốc nạn ngoại xâm.


Và cứ thế, trong thời gian giàn khoan Trung Quốc còn đó, cứ đúng 8 giờ sáng mỗi ngày thứ hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, và chủ nhật, hàng ngàn quả chuông từ rừng xuống biển, từ thành phố đến làng quê sẽ đổ hồi cùng lúc.


3. Dừng xe một phút: Cùng lúc khi nghe tiếng chuông 8 giờ sáng, mọi người đang đi trên đường hay trên sông nước sẽ dừng xe, dừng ghe thuyền, tắt máy và im lặng trong một phút. Hãy để các thành phố và dòng sông đứng im, cả nước đứng im. Im, để tưởng niệm bao nhiêu người Việt đã ngã xuống trong cả ngàn năm qua cho độc lập nước nhà. Im, để lắng nghe dòng máu nóng bất khuất ấy vẫn đang âm ỉ chảy trong huyết quản mỗi người, ngay bây giờ, ở đây.


4. Tổng biểu tình mỗi chủ nhật: Hãy xuống đường, với một mục tiêu duy nhất: Chống Trung Quốc xâm lược. 10.000 người, 100.000 người, 1.000.000 người hãy xuống đường vào ngày chủ nhật, bắt đầu từ 11/5 và kéo dài trong các chủ nhật sau đó. Tất cả, từ cựu chiến binh Quân đội Nhân dân đến cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa, từ trí thức đến doanh nhân, nghệ sĩ, vận động viên, từ thày cô giáo, nhân viên văn phòng, công nhân, nông dân đến sinh viên, học sinh, từ các chị tiểu thương, buôn gánh bán bưng, các chị nội trợ, đến các anh chị công an, quân nhân… Vượt qua mọi thuộc tính, khuynh hướng, đẳng cấp hay chức vụ, tất cả đều có chung căn cước đầu tiên: Tôi là người Việt Nam, số phận tôi sẽ đen tối nếu đất nước này rơi vào tay kẻ cướp. Tất cả hãy rủ nhau xuống đường mỗi chủ nhật, ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt, Saigon, Cần Thơ, Vũng Tàu, Trà Vinh, Rạch Giá, Hà Tiên… Việt Nam có biết bao thành phố ven biển, không quyết liệt hôm nay, rất có thể ngày mai cứ nhìn ra biển ở bất cứ nơi nào là thấy một giàn khoan lạ lếu láo.


5. Biểu tình 5 phút, 5 giờ chiều: Giờ tan sở, thay vì về nhà ngay, hãy rủ nhau chạy xe đi đến tòa Đại sứ Trung Quốc ở 46 Hoàng Diệu, Hà Nội, hay Tổng Lãnh sự Trung Quốc ở 175 Hai Bà Trưng, Saigon. Đến nơi, hãy dừng xe lại, tất cả sẽ bấm còi trong 1 phút, rồi tắt máy trong 5 phút. Từ đám đông dày đặc nhưng im lặng dừng xe kia hãy cất lên những khẩu hiệu chống Trung Quốc vang dội, hùng hồn.


6. Không chiếu phim: Hiện Việt Nam có hàng trăm đài truyền hình từ thành phố lớn đến tỉnh nhỏ, với hàng trăm kênh phát sóng gần như 24/24, và liều lượng phim Trung Quốc trên sóng cực cao. Trong những ngày này, hãy cắt sóng truyền hình toàn bộ phim Trung Quốc, kể cả phim truyện ngoài rạp.


7. Không hát nhạc: Hãy tẩy chay nhạc Trung Quốc trong mọi quán Karaoke ở Việt Nam, trong mọi quán café, trong mọi khách sạn, nhà hàng, từ 5 sao đến bình dân, và trong mọi nhà dân, từ miền ngược đến miền xuôi.


8. Tẩy chay hàng hóa: Không bán, không mua, không mặc, không dùng hàng Trung Quốc nữa. Các anh chị tiểu thương không đi “đánh hàng” thời trang, giày da, túi xách ở Trung Quốc nữa. Các chị đi chợ sẽ không mua trái cây, hạt củ quả, đồ nhựa, đồ sành sứ, đồ điện từ Trung Quốc nữa. Một ngày cần thiết, hãy mời mọi người mang những món hàng Trung Quốc không dùng kia đến gom thành một đống lớn tại một bãi đất trống để đốt, có ghi hình chụp ảnh, tải clip lên mạng trực tiếp.


9. Không du lịch: Các công ty lữ hành từ lớn đế nhỏ, từ Saigon Tourist, Hanoi Tourist, Vietravel, Fiditour, Bến Thành Tourist đến hàng ngàn dịch vụ du lịch khác hãy hủy tất cả các tour đi Trung Quốc. Và du khách Việt trong và ngoài nước hãy hy sinh, hủy mọi chuyến du lịch Trung Quốc để đồng hành cùng toàn dân trong công cuộc chống ngoại xâm.


10. Không đón khách: Xin lỗi, nếu các vị du khách Trung Quốc yêu thích Việt Nam xin hãy không vào nước tôi khi cái cái giàn khoan hỗn xược kia vẫn còn cắm trên biển Việt Nam. Khách Trung Quốc nào đang ở Việt Nam thì xin lỗi, sẽ không có mát-xa cho quý vị, sẽ không cắt tóc cho quý vị, sẽ không còn món Vịt Bắc Kinh hay cơm gà Thượng Hải trong thực đơn. Không phải vì kỳ thị, chúng tôi bất đắc dĩ phải làm thế chỉ vì Bắc Kinh đang ngang ngược để tiết vịt lộn lên đầu.


11. Khoan yêu: Chị em, anh em có người yêu hay chồng, vợ mang quốc tịch Trung Quốc – ở Việt Nam, ở Trung Quốc, ở cả hải ngoại – xin hãy kiếu chuyện trăng hoa nhặt khoan ong bướm trong những ngày không vui này. Hãy nói Tập Cận Bình nhổ giàn khoan đi đã.


12. Loan tin trên mạng: Không hề “cô đơn trên mạng”, ngược lại, cộng đồng mạng đồng lòng đến ngạc nhiên và đi nhanh hơn ai có thể dự đoán. Trong những ngày qua, hàng loạt facebookers đã đổi Avatar riêng tư thành thông điệp nóng bỏng “Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam”… Hãy tiếp tục trở thành những người quan sát, viết tin, đưa tin và lan tỏa tin tức về biểu tình, về hành động chống Trung Quốc đến mọi người, từ các chị trên webtretho đến các hot boy, hot girl, hot blogger cả nước, và loan tin đến cả cộng đồng bạn toàn cầu.


13. Đình công: Công nhân Việt làm việc tại hàng ngàn hãng xưởng của Trung Quốc tại Việt Nam, người Việt làm việc ở các nơi khai thác Boxit, các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở hay khai thác khoáng sản… hãy cùng bộc lộ bất bình bằng cách đình công một giờ mỗi ngày, một ngày mỗi tuần, hay thứ ba, năm, bảy mỗi tuần, hay một tuần trong tháng. Hoặc nếu có sự hỗ trợ việc làm và sinh sống của cả xã hội, rất có thể hàng trăm ngàn công nhân trong các công ty Trung Quốc vừa nói sẽ đình công kéo dài, cho tới khi giàn khoan không còn.


14. Bãi trường: Học sinh, sinh viên, học viên các trường của người Trung Quốc hãy bãi trường, và mời các thày cô có lương tri cùng biểu tình chống giàn khoan ngay tại sân trường.


15. Hát cho đồng bào nghe: Các ca sĩ, nhạc sĩ, nhạc công, diễn viên, người mẫu, đạo diễn, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nghệ sĩ thị giác… hãy cùng cộng đồng tổ chức những đêm thắp nến, những đêm ca nhạc, những đêm không ngủ nuôi lòng yêu nước và hướng về biển đảo. Lâu nay nhiều người trong số phải im lặng vì nhà nước bịt miệng nhà văn chống Trung Quốc, nhưng lần này có lẽ nhà nước sẽ cho nhà nhà mở miệng.


16. Bao vây tòa đại sứ: Bằng hình thức tương tự như phong trào “chiếm đóng” (occupy) Wall Street gần đây, người Việt và bạn bè quốc tế ở hải ngoại hãy bao vây các tòa đại sứ và lãnh sự quán Trung Quốc ở mọi nơi: Ở Los Angeles, San Francisco, Houston, New York, Chicago, ở Torronto, Montreal, Ottawa, ở London, Paris, Lyon, Marseille, ở Berlin, Munich, Praha, ở Seoul, Tokyo, Manila, Singapore, Kuala Lumpur, Jakarta, ở Canberra, Sydney, Melbourne, ở Wellington, Auckland…


17. Vận động hải ngoại: Mặt trận quan trọng bậc nhất sau nhân tâm là mặt trận truyền thông. Có người từng nói: “Ai nắm được truyền thông là nắm được suy nghĩ của đại chúng và cầm chịch dư luận.” Đừng để cho Trung Quốc lộng hành truyền thông – học bài dối trá của Putin trong vụ Crimea – và bẻ quặt truyền thông thành công cụ bịp bợm, biến mệnh đề trên thành “Ai nắm truyền thông là nắm… chân lý.” Đừng để kẻ to mồm bịt miệng người nói thật.


Người Việt hải ngoại hãy biểu tình, vận động dân biểu địa phương và các tổ chức quốc tế để họ lên tiếng và cộng đồng quốc tế tạo áp lực buộc Trung Quốc rút giàn khoan.


Đây là cơ hội rất lớn để chứng tỏ rằng sự hiện diện của hàng ngàn hội đoàn trong cộng đồng 4.000.000 người Việt hải ngoại trên thế giới là có thực và có nghĩa, hơn thế nữa, còn có giá trị đặc biệt, không thay thế được.


________________


Ảnh 1-4 từ trên xuống: Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội, Manila, Đài Bắc và Tokyo


© 2014 Từ Linh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 10, 2014 03:55

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.