Phạm Thị Hoài's Blog, page 20

May 7, 2014

Bí ẩn tâm hồn Nga (Bài 6) – Một công cụ vô dụng

Alexei Varlamov


Bài phỏng vấn do Dmitry Babich và Andrei Zolotov Jr. thực hiện


Phạm Nguyên Trường dịch


Bài 1: Dmitry Babich – Các chuyên gia phá hoại


Bài 2: Elena Rubinova – Sự tiến hóa của con người Xô-viết


Bài 3: Roland Oliphant – Tập hoài nghi


Bài 4: Tom Balmforth – Thiên tài khoa học rởm


Bài 5: Andrei Zolotov Jr. – Đòi hỏi phép màu


Khái niệm tâm hồn Nga là khái niệm có ích khi giải thích nền văn hóa phóng khoáng của những dân tộc chưa được văn minh.


Alexei Varlamov, 47 tuổi, là một trong những nhà văn Nga đương đại xuất chúng nhất. Ông trình làng với những truyện ngắn hồi cuối những năm 1980 và trở nên nổi tiếng vào năm 1995 với cuốn tiểu thuyết bán tự truyện Lokh (tạm dịch: Thằng ngu), tiếp theo là Rozhdenie (Sinh), giúp ông giành giải thưởng Anti-Booker danh giá.


Với sự chia rẽ chính trị quyết liệt trong giới văn chương Nga thời hậu Xô-viết thành “yêu nước” và “dân chủ”, Varlamov gần như là trường hợp có thái độ trung lập đặc biệt. Thế giới quan và văn phong của ông ban đầu gần với “văn chương nông thôn” truyền thống Nga, nhưng cuối cùng ông đã xuất bản trên các tạp chí theo trường phái tự do.


Năm 2006 Varlamov nhận Giải thưởng Alexander Solzhenitsyn cho “một tác phẩm đầy màu sắc về quyền lực và sự mong manh của tâm hồn con người và số phận của nó trong thế giới hiện đại”, cũng như giúp “tìm hiểu con đường của văn học Nga trong thế kỷ XX trong thể loại tiểu sử của nhà văn.” Trong những năm gần đây, Varlamov đã xuất bản tiểu sử các nhà văn Nga thời Liên Xô như Mikhail Prishvin, Alexei Tolstoy và Mikhail Bulgakov, cũng như tiểu sử một nhà thần bí đầy tranh cãi là Grigory Rasputin.


Phóng viên: Đối với ông, một nhà văn và một người nghiên cứu lịch sử văn chương, khái niệm “tâm hồn Nga” có thực hay không?


Alexei Varlamov: Tâm hồn tất nhiên là có thực. Nhưng “tâm hồn Nga” có thực hay không lại là một câu hỏi lớn. Tôi cảm thấy trong chuyện này phần huyền thoại nhiều hơn. Tôi chưa bao giờ thao tác với khái niệm đó. Xin nói đấy là một công cụ mà người ta có thể sử dụng để mô tả nhận thức của chúng ta về thế giới, về lịch sử và thời hiện đại của chúng ta. Nhưng nó không phải là công cụ phổ quát. Nó là một ẩn dụ, nói được một điều gì đó với một người nào đó. Nhưng với cá nhân tôi, nó không nói được nhiều.


Tôi không biết ai phát minh ra nó – Người Nga hay người nước ngoài. Nhiều khả năng là người nước ngoài. Tôi thấy trong đó một cái gì cảm động, nhưng đầy vẻ kẻ cả. Giống như khi lần đầu tiên đặt chân lên đất Nhật, nơi tất cả mọi thứ đều xa lạ, người châu Âu đã phát minh ra một phép ẩn dụ để giải thích tất cả cùng một lúc. Nước Nga thì cũng thế: một thực thể xa lạ, ích kỉ. “Tâm hồn Nga” có lẽ là một công cụ tiện dụng để phân tích thực thể này.


Vì vậy, đối với người ngoại quốc, có lẽ nó không phải là một công cụ tồi. Nhưng đối với những người sống ở đây và là một phần của nền văn hóa này, thì nó là thừa.


Phóng viên: Lần đầu tiên Nga giáp mặt đồng loạt với phương Tây là vào cuối thế kỷ XVII, dưới thời Peter Đại đế. Có thể nói về tâm hồn Nga như một cái gì thúc đẩy Nga trở thành một phần của nền chính trị châu Âu không?


Alexei Varlamov: Tôi không nghĩ thế. Tâm hồn Nga là một khái niệm lãng mạn. Rất có thể nó có nguồn gốc vào thế kỷ XIX, khi nước Nga trở nên nổi tiếng không chỉ vì những khẩu pháo của nó, mà khi văn hóa Nga bắt đầu có ý nghĩa nào đó. Khái niệm “tâm hồn Nga” trở thành một nhu cầu khi người ta cần dùng nó để giải thích làm thế nào mà những kẻ mọi rợ này lại có một nền văn hóa như thế.


Phóng viên: Solzhenitsyn viết về nước Nga như một đất nước không có đường biên giới phía Đông. Tâm hồn Nga có liên quan gì đến sự đa dạng hoặc sự mù mờ của bản sắc – khi cả Mikhail Bulgakov và những người nghiện rượu hết thuốc chữa, lẫn những người Hồi giáo và dân của nền văn hóa Tây Âu đều được coi là người Nga?


Alexei Varlamov: Tất nhiên là lãnh thổ rộng lớn của chúng ta có vai trò ở đây. Nga luôn là đất nước có lịch sử bùng nổ, đứt quãng. Chúng ta liên tục bị đe dọa chia cắt. Đấy là lý do vì sao xã hội Nga luôn cần những ràng buộc để giữ nó thành một khối. Những mối ràng buộc đó là nhà nước, giáo hội và văn hóa. Ở mức độ nào, có lẽ có thể nói về tâm hồn Nga như một mối ràng buộc như thế, nhưng là mối ràng buộc mang tính huyền thoại, có thể giúp chúng ta nói rằng Bulgakov và những kẻ nát rượu hạng bét cùng thuộc về một dân tộc.


Nhưng tôi luôn luôn thận trọng trước các khái niệm về đặc thù dân tộc, trước hết là vì tôi không biết rõ các quốc gia khác thế nào. Tôi chỉ nghĩ rằng với sự bành trướng và sự phân cực của chúng ta, những mối ràng buộc vẫn giữ chúng ta lại với nhau là quá rõ ràng. Nhưng tôi chưa bao giờ nghiên cứu những vấn đề này.


Phóng viên: Ông đã viết một cuốn tiểu sử Grigory Rasputin. Xin hãy nói về Rasputin như một biểu hiện cực đoan của tâm hồn Nga. Một người của dân chúng, một nhân vật thần bí, một tên côn đồ, một Kitô hữu, một thày thuốc, một người đàn ông đam mê, một người bạn của Nga hoàng và một kẻ chống giới quyền uy, tất cả trong cùng một con người!


Alexei Varlamov: Các huyền thoại về Rasputin rõ ràng là đã làm lu mờ con người thực sự của ông ta. Nếu chúng ta cố gắng tổng hợp các dữ liệu tương đối đáng tin cậy về Rasputin thì rõ ràng ông ta là một người cực kỳ tài năng, một sản phẩm độc đáo của tầng lớp nông dân.


Đối với tôi, một trong những nguồn đáng tin cậy nhất về Rasputin là cuốn hồi ký của Tổng Giám mục Veniamin Fedchenkov, người đã gặp Rasputin khi ông ta vừa đến St Petersburg, lúc đó Veniamin là nghiên cứu sinh. Rasputin đã gây ấn tượng rất tốt với ông này bằng lòng mộ đạo và lòng nhiệt tình đối với tôn giáo của mình. St Petersburg là một thành phố đã già yếu về mặt tinh thần, và ông ta đã “căng như một cây cung,” Veniamin viết. Tôi tin những lời này: Rasputin đến St Petersburg như là một hiện tượng tâm linh. Nhưng có thể ông ta đã không giữ được chiều cao tâm linh đó. Ông ta là sự kết hợp của những đặc điểm rất khác nhau. Chúng ta biết chắc chắn rằng ông ta là một người rất mộ đạo, nhưng không chắc chắn liệu ông ta có là một kẻ ngoại tình hay không. Có lẽ chỗ này có chuyện gì đó, nhưng ở chỗ này truyền thuyết chắc chắn là vượt quá thực tế.


Có lẽ, Rasputin là một Anh hề Thánh thiện đã thất bại – một người tìm cách thực hiện cái kì tích là trở thành anh hề có chủ tâm của Chúa Kitô, và vì một số nguyên nhân nào đó đã không thể chịu đựng được chuyện này.


Phóng viên: Nhưng có thể đây chính là một biểu hiện của tâm hồn Nga? Có thể ông ta nghĩ rằng hai việc – cầu nguyện và ngoại tình, tội lỗi và thánh thiện – trên thực tế có thể kết hợp được với nhau? Như người ta thường nói, nếu không phạm tội thì sẽ không có sám hối. Chúng ta thấy cả trong văn chương nữa. Như nhà văn Valery Popov nói về một trong những nhân vật của mình, “ông đã giết sáu người, nhưng linh hồn ông ta trong sạch…”


Alexei Varlamov: Chúng ta lại đoán mò rồi. Tôi cũng có thể thấy anh em nhà Karamazov trong Rasputin, bởi vì rõ ràng ông ta là sự kết hợp giữa lòng mộ đạo của Alexei, niềm đam mê của Dmitry, sự hóm hỉnh của Ivan và lòng ham muốn của Fyodor Pavlovich. Nhưng, như một nhà sử học, tôi không thể nói chắc chắn rằng chính xác là như vậy. Tuy nhiên, chắc chắn ông ta có một tính cách rất phong phú, đáng tiếc là ông ta đã không hoàn tất được vai mà ông ta muốn đóng. Chắc chắn là ông ta không muốn làm điều xấu đối với hoàng gia hay điều xấu cho đất nước mình. Vào thời điểm, khi mà nhiều người đã phản bội Nga hoàng thì ông ta vẫn trung thành với hoàng gia cho đến cuối cùng. Người ta có thể nói nhiều điều tốt về ông ta hơn là những điều xấu. Nhưng không may là, vai trò mà ông ta đã đóng trong lịch sử nước Nga xét một các khách quan thì lại khác – ông ta đã khiến Nga hoàng chống lại tất cả những gì có thể chống – từ Duma, nhà thờ, quân đội, xã hội, đến các thành viên khác của hoàng gia.


Có hai chị em được phong thánh – Hoàng hậu Alexandra và Đại Công nương Elizabeth: một người hoan nghênh kẻ giết Rasputin và gửi điện chúc mừng tới tên sát nhân Felix Yusupov, người kia khóc than về cái chết của bạn mình. Chẳng bao lâu sau cả hai đã tử đạo và đều được phong thánh. Có thể trên thiên đường họ đã hòa giải với nhau, nhưng ở trần thế thì có lẽ không. Vì vậy mà chúng ta đang nói về một sự đổ vỡ lớn trong lịch sử nước Nga.


Phóng viên: Có lí thuyết cho rằng lịch sử nước Nga được tạo thành từ những vụ đổ vỡ, đứt đoạn – Thời kì rắc rối trong những năm đầu thế kỷ XVII, năm 1917 và năm 1991. Ông có thấy nhiều điểm chung giữa năm 1917 và 1991 hay không?


Alexei Varlamov: Tôi nghĩ rằng có rất ít sự tương đồng, có chăng thì chỉ là hời hợt và ảo tưởng. Cuộc cách mạng năm 1917 chắc chắn là một thảm kịch, nó đã phá vỡ con đường phát triển tự nhiên của nước Nga và dẫn đến những thiệt hại to lớn về con người, máu đổ, huynh đệ tương tàn và cuối cùng là ngõ cụt. Những sự kiện của năm 1991, dù chúng ta có thể phê phán như thế nào một số khía cạnh và hậu quả của chúng, thì vẫn có một số thứ mà tôi coi là sự phát triển tích cực. Chúng ta không nên chối bỏ tất cả những vụ đổ máu ở ngoại vi của đế chế Nga. Nhưng nó không phải là một hệ quả trực tiếp của tháng Tám năm 1991. Nó là hậu quả của tất cả những mâu thuẫn đã tích lũy được trong 70 năm của thời kỳ Xô-viết. Tôi nghĩ rằng cuối cùng chúng ta đã tìm cách thoát ra được với ít máu hơn là số máu có thể đổ.


Nhà thờ Chính thống giáo Nga thường bị cáo buộc là không làm được bất cứ chuyện gì trong suốt 20 năm tự do vừa qua. Tôi nghĩ rằng đó là một tuyên bố rất hời hợt. Nhà thờ không hứa hẹn bất cứ điều gì. Nhưng trong những năm 1990 – khi mà tất cả các giáo phái, sự phân li và xung đột nội bộ đang xé đất nước thành từng mảnh, đang đe dọa một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn – Nhà thờ đã giữ cho đất nước gắn kết. Tôi nghĩ rằng một phần là nhờ Nhà thờ mà chúng ta đã giữ được đất nước. Khác hẳn tình hình cách mạng năm 1917, đấy là lúc Nhà thờ bị nhục mạ và bị đẩy ra rìa. Tôi có thể rất phê phán Tổng thống Boris Yeltsin và không thích chính sách của ông ta, nhưng tôi sẽ không đánh đồng Vladimir Lenin với Yeltsin.


Chúng ta thường nghe nói về Mikhail Gorbachev xấu xa, về Yeltsin xấu xa, Putin xấu xa. Tôi nói rằng chúng ta phải là những người thực tế về mặt lịch sử. Đất nước do Lenin, Stalin, Nikita Khrushchev, Leonid Brezhnev hay Konstantin Chernenko cai trị không thể sinh ra được tướng Charles De Gaulle hay Franklin Delano Roosevelt. Không thể tìm đâu ra những người như thế! Chúng ta phải là những người thực tế và xét cho cùng, chúng ta phải cảm ơn Gorbachev, cảm ơn Yeltsin, cảm ơn Putin. Nga đang bò dần lên từ một cái hố và chúng ta không nên chờ đợi bất kỳ phép lạ nào ở đây hết.


Phóng viên: Anh vừa nói đến nhà nước, nhà thờ và văn hóa như ba sợi dây ràng buộc nước Nga lại với nhau. Có thể nói gì về tình trạng và thái độ của tâm hồn Nga đối với chính quyền? Nhiều người tin rằng một mặt, người Nga dễ mắc vào chủ nghĩa độc đoán, và mặt khác, có xu hướng nổi loạn mang tính phá hoại không kiểm soát được. Người Nga có quan hệ như thế nào với nhà nước?


Alexei Varlamov: Tôi không biết trong thế kỷ XIX thì như thế nào, nhưng trong thế kỷ XX, tôi nghĩ người Nga không tin nhà nước. Đồng thời, những nhà văn Nga thế kỷ XX mà tôi nghiên cứu – Mikhail Prishvin, Alexei Tolstoy và Mikhail Bulgakov – tất cả đều là những người ủng hộ nhà nước.


Prishvin là một trường hợp thú vị. Năm 1918 ông là kẻ thù không đội trời chung với những người Bolshevik. Trong những năm đầu tiên sau cách mạng, từ năm 1919 đến năm 1921, ông về sống ở nông thôn và bắt đầu chuyển dần sang phía những người Bolshevik, vì ông sợ tính chất không thể kiểm soát được của cuộc bạo loạn của dân chúng. Cuối cùng, ông đi đến kết luận rằng trong cách mạng, dân chúng trở thành những kẻ dã man, mà chỉ có một lực lượng tàn bạo và khát máu như những người Bolshevik mới có khả năng làm cho họ tỉnh ngộ. Ông không chấp nhận Lenin, đối với ông, Lenin là lực lượng cách mạng mang tính phá hoại, nhưng ông chấp nhận Stalin, coi ông này lực lượng nhà nước mang tính xây dựng.


Thật thú vị là, Alexei Tolstoi, một người có quan điểm hoàn toàn khác, cả về mặt xã hội lẫn văn chương, lại cũng có logic tư duy hệt như thế. Tại sao ông ghét Nga hoàng Nicholas II? Vì ông cho rằng Nicholas II là một nhà cầm quyền yếu kém, đã làm nước Nga thua trong Thế chiến I và làm cho Bolshevik phải bán đất của Nga. Nhưng khi thấy những người Bolshevik bắt đầu thu hồi lại những vùng đất của Nga thì ông đứng về phía họ, bởi vì, trong mắt ông, họ đang trở thành những người hữu ích cho nhà nước Nga. Họ là những người nhận thức được rằng một nhà nước mạnh là có lợi cho đất nước rộng lớn và đông dân này, làm khác đi là tự sát.


Sứ mệnh của nền văn học Nga là cố gắng làm cho nhà nước này trở thành nhân từ nhất trong khả năng cho phép. Tôi nghĩ rằng đây là tư tưởng của tác phẩm Con gái viên đại úy của Alexander Pushkin, trong đó có câu: “Lạy trời để các bạn không phải trông thấy vụ bạo loạn của người Nga – thật vô nghĩa và tàn nhẫn.” Yemelyan Pugachyov được thể hiện như một con tin của cuộc nổi loạn này của người Nga. Cuối cùng, chúng ta thấy Nữ hoàng Catherine đã được lý tưởng hóa thành một người nhân từ. Trong tác phẩn Kỵ sĩ đồng, Pushkin còn chỉ ra mâu thuẫn giữa cá nhân và nhà nước, và ông không đứng về bên nào.


Nói cách khác, đây là bi kịch chủ yếu trong cuộc sống của người Nga, bởi vì nhà nước sẽ luôn luôn xâm phạm vào quyền cá nhân, còn cá nhân thì luôn luôn hoài nghi nhà nước. Ở đây sẽ không bao giờ là một bản giao hưởng lý tưởng. Người ta phải cố gắng để giữ cho hệ thống này trong một kiểu cân bằng nào đó, bởi vì khác đi sẽ là máu và khói lửa, hoặc khủng bố tàn bạo hoặc nổi loạn hoang dã.


Là người Nga, tôi có một thái độ lưỡng lự đối với những việc diễn ra tại Moscow vào ngày 31 hàng tháng. Tôi không đi biểu tình. Tôi không phải là người trung thành với Putin và không phải là người hâm mộ nhiệt tình của phe đối lập để có thể tham gia biểu tình. Nhưng khi thấy hình ảnh cảnh sát đánh người trên Internet, tôi kinh sợ, tôi bị sốc và khinh bỉ. Một mặt, tôi hiểu rằng cảnh sát là “người của Nga hoàng” và họ phải làm công việc được giao. Tôi rất không thích là những sự kiện này đang cung cấp dưỡng chất cho lòng hận thù giữa hai bên. Theo một nghĩa nào đó, cả hai bên đều thân thiết với tôi. Cả hai bên đều là người Nga, cả hai bên đều là đồng bào của tôi. Nhưng lòng thù hận thì đang gia tăng. Giống như lòng thù hận đang gia tăng giữa cảnh sát giao thông và những người lái xe vậy. Là người lái xe, tôi cảm thấy nó. Nhưng nếu bạn nghĩ về nó, bạn sẽ nhận ra rằng nếu bỏ cảnh sát giao thông thì tình hình sẽ chỉ tồi tệ thêm mà thôi, dù họ có là những kẻ ăn hối lộ đến đâu thì cũng thế.


Những vụ va chạm này làm tôi sợ. Tôi nghĩ rằng reo rắc tình trạng thù địch này là chính quyền đang hành xử cực kì bất hợp lý. Họ cần phải làm ngược lại – chữa những cơn đau này, thiết lập một cuộc đối thoại trong xã hội, văn minh hóa nó. Nhưng họ hành xử đầy ngạo mạn, họ không thèm quan tâm.


Phóng viên: Người ta thường nói rằng dân Nga là những người thích huyền bí hoặc theo thuyết định mệnh. Rằng họ thiếu lý trí hay như Aristotle nói là thiếu “tính chừng mực.”


Alexei Varlamov: Tôi nghĩ người Nga đầu thế kỷ XX khác xa người Nga đầu thế kỷ XXI. Và một câu hỏi lớn đặt ra là thời kỳ Xô-viết đã làm méo mó chúng ta đến mức nào. Hiện nay chúng ta có bao nhiêu phần Nga và bao nhiêu phần Xô-viết? Tôi không nghĩ rằng nhân dân Nga hiện nay là những người đặc biệt thần bí. Chúng ta đã bị đẩy về phía tham lam, về phía chủ nghĩa thực dụng và kiếm thật nhiều tiền đến mức không có chỗ cho chủ nghĩa thần bí nữa. Trong những năm 1990 đã từng có một sự ám ảnh nào đó với thần bí, nhưng tôi cảm thấy điều đó cũng đã qua rồi. Đối với tôi, người Nga hiện đại là người cứng rắn, biết mình muốn gì. Nhưng không phải là người phương Tây. Dự định của một người Nga, tốt xấu không biết, đều phụ thuộc rất nhiều vào diễn biến của hoàn cảnh. Nhưng, chúng ta là những người không thể dự đoán trước và là có thể làm người khác ngạc nhiên. Đấy dường như là điều quan trọng nhất.


Nguồn: Alexei Varlamov, “A Superfluous Instrument“, Russia Profile 07/7/2010


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 07, 2014 13:26

May 2, 2014

Bí ẩn tâm hồn Nga (Bài 5) – Đòi hỏi phép màu

Andrei Zolotov Jr.


Phạm Nguyên Trường dịch


Bài 1: Dmitry Babich – Các chuyên gia phá hoại


Bài 2: Elena Rubinova – Sự tiến hóa của con người Xô-viết


Bài 3:   Roland Oliphant – Tập hoài nghi


Bài 4: Tom Balmforth – Thiên tài khoa học rởm


Cần một tín ngưỡng là đặc điểm chính của tâm hồn Nga.


Tôn giáo – có ảnh hưởng đáng kể đối với tâm hồn Nga – vẫn còn sống tốt giữa những người Nga đương đại.


Buổi chiều một ngày làm việc trong tuần vào giữa tháng Sáu mà tôi phải đứng yên lặng xếp hàng mất đúng một tiếng bên cạnh Tu viện ở trung tâm Moscow thì mới vào được điện thờ nổi tiếng nhất của thủ đô Nga – nơi thờ di hài của Matrona Thánh thiện của Moscow. Cuối tuần và ngày lễ thì có thể mất vài giờ mới có thể vào được.


“Tất cả, tất cả các con hãy đến với ta và nói cho ta biết, như thể ta vẫn còn sống, về những khổ đau của các con. Ta sẽ thấy, sẽ nghe và sẽ giúp các con”, đấy là hàng chữ bằng vàng được viết trên nền dát bạc ở tầng một điện thờ được xây theo kiều tân-baroque nói trên. Trong điện thờ này có xác của người thấu thị mù chữ là Matrona Nikonova, bị mù ngay từ khi mới sinh vào năm 1881 trong một gia đình nông dân ở khu vực Tula. Bà bắt đầu làm phép lạ ngay từ khi còn bé, đến năm tuổi 16 thì bà bị liệt và từ năm 1925 cho đến khi qua đời vào năm 1952, bà đi từ nhà nọ đến nhà kia ở Moscow để nói cho dân chúng nghe những ẩn ngữ và theo lời đồn thì bà còn chữa bệnh và giúp người ta tìm vợ, tìm chồng, tránh bị tù đày và đôi khi là bảo vệ luận án nữa.


Năm 1998, khi những cuộc hành hương đến ngôi mộ của bà đã trở thành phổ biến hơn và những cuốn sách về phép lạ của bà đã được xuất bản, ban lãnh đạo nhà thờ cho khai quật xác bà. Năm sau, Matrona được Giáo trưởng Alexy II phong thánh theo một thủ tục nhanh gọn, bất chấp sự tức giận có phần rụt rè của các trí thức trong Giáo hội, trong khi những tình tiết huyền bí và đặc biệt đáng ngờ được đưa ra khỏi tiểu sử chính thức của bà.


Hàng ngàn người đến đây mỗi ngày – đa số mang theo những bó hoa tươi vì theo lời đồn thì Matrona muốn như thế. Chì cần nhìn vào dòng người là có thể nhận ra rằng hầu hết không phải là những người thường xuyên đi nhà thờ. Khoảng bốn phần năm là phụ nữ, và hầu hết trong số đó mặc quần và đội những chiếc khăn trùm đầu không thích hợp. Người ta làm dấu thánh giá, hôn quan tài, và nhặt những cánh hoa đã bị cắt nhỏ, đem về. Để làm gì? Trả lời: “Đặt dưới gối, để chữa bệnh mất ngủ.”


Cho dù người ta có tán thành khái niệm về tâm hồn Nga hay không thì tôn giáo, được xem là yếu tố đáng kể của tâm hồn đó, vẫn còn sống tốt giữa những người Nga đương đại. Nó chủ yếu được hình thành bởi Nhà thờ Chính thống giáo. Nhưng không chỉ có vậy, như thấy rõ từ những tôn giáo không-Chính thống và không-Công giáo của Nga, từ những hiện tượng của “Thời đại Mới”, xu hướng vô thần rõ ràng và tàn dư của ngoại đạo hiển hiện khắp nơi. “Nước Nga không biết đến cả công cuộc Cải cách Tôn giáo lẫn Phản Cải cách Tôn giáo với những lí giải, những diễn dịch biểu tượng và việc đào thải tục thờ ngẫu tượng thời Trung cổ,” ông George Fedotov, một học giả Công giáo nổi tiếng người Nga đã viết trong tác phẩm kinh điển Tâm hồn tôn giáo Nga, xuất bản năm 1946 như thế. “Người nông dân Nga, thậm chí ở thế kỷ XIX, vẫn sống như trong thời Trung cổ. Nhiều người nước ngoài đã viết rằng đây là những người mộ đạo nhất ở châu Âu. Nhưng thực chất, điều đó nói lên những mức độ trưởng thành khác nhau hơn là những đặc trưng cốt lõi của tinh thần và văn hóa. Vẫn những nhân tố lịch sử đó đã bảo tồn năng lực cảm thụ tôn giáo của người Nga trong thời đại của chủ nghĩa duy lý, nhưng lại không chạm tới nhiều phong tục, hiện tượng thờ cúng ngoại đạo và thậm chí cả thế giới quan ngoại đạo, bên trong cũng như bên ngoài nhà thờ.”


Trong thế kỷ XX, bi kịch của cuộc cách mạng dẫn đến sự hồi sinh của tôn giáo trong một thời gian ngắn, sự hồi sinh bị dìm trong biển máu tử đạo chẳng khác gì ở những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo. Tư tưởng tôn giáo phát triển mạnh mẽ trong những nhóm người lưu vong. Nhưng trong quần chúng ở Nga, việc nhổ gần như bật gốc tổ chức giáo hội và hệ thống giáo dục, cũng như việc cưỡng bức thúc đẩy đô thị hóa đã dẫn đến việc duy trì cái mớ hỗn hợp Trung cổ giữa Kitô giáo và ngoại đạo – tình huống đặc biệt khó khắc phục trong thời hậu hiện đại với chủ nghĩa đa nguyên và triết thuyết hổ lốn của những hệ thống giá trị rời rạc. Lời tuyên bố của Nikolai Leskov, một nhà văn của thế kỷ XIX, rằng: “Nước Nga đã được rửa tội nhưng chưa được khai sáng”, tiếp tục được các giới trong nhà thờ trích dẫn nhằm mô tả lòng mộ đạo của quần chúng, bất chấp sự tiến bộ rõ ràng trong phát triển giáo dục tôn giáo, tiếp cận xã hội và sự xuất hiện những nhóm ngoại đạo hoạt động tích cực ở những tầng lớp dân cư khác nhau trong 20 năm tự do tôn giáo vừa qua.


Trong chính trị học và báo chí người ta thường nói rằng tôn giáo đã “lấp đầy khoảng trống” mà ý thức hệ cộng sản bỏ lại. Nhưng tiếp theo các nhà triết học tôn giáo Nga nửa đầu thế kỷ XX như Nikolai Berdyaev hay Sergei Bulgakov, người ta có thể khẳng định tương tự rằng chủ nghĩa cộng sản đã bắt rễ ở Nga vì những cố gắng mang tính tôn giáo của người Nga nhằm hướng tới cái tuyệt đối, hướng tới Vương quốc Thần thánh mà họ đã cố gắng xây dựng trên trái đất, nhưng vô vọng. Với những đoàn diễu hành mang cờ đỏ kéo tới các “thánh tích” của Lenin và “Phòng truyền thống” trong tất cả các trường học, các văn phòng và nhà máy, Liên Xô đã trở thành một trong những xã hội nghi thức nhất trên thế giới. “Người dân Liên Xô đã sống trong nền văn hóa của các hình thức tôn giáo,” nhà thần học hiện đại và triết học xã hội Alexander Kyrlezhev nhận định trong một cuộc phỏng vấn.


Nhà thờ lớn hơn


Người ta thường trích dẫn một cuộc thăm dò cho thấy một khoảng cách lớn giữa số lượng từ 60 đến 80% người Nga đồng nhất mình với Chính thống giáo và con số rất nhỏ, chỉ một chữ số, những người đang “có đạo”, tức là cố gắng tuân theo cách sống của người Công giáo mà Giáo hội Chính thống đề ra. Có vài nơi như Tu viện ở Pokrovsky (Convent of the Protection) cho thấy hình ảnh “nhà thờ lớn hơn” 60 đến 80%, và có lẽ còn lớn hơn nữa. “Tôi là người Hồi giáo, nhưng tuần nào tôi cũng đến đây,” Ravil Subkhangulov, 31 tuổi, ngồi trên một chiếc ghế trong sân của tu viện nói . “Tôi không đến bất kỳ nhà thờ nào khác, vì với một người Hồi giáo, làm như thế là có tội.” Ravil nói rằng trong mười năm qua bà vợ theo Kitô giáo của anh không thể thụ thai, và không có bác sĩ nào giúp được. Tháng Tám vừa qua hai vợ chồng đã đến đây, sau khi nghe một đồng nghiệp nói rằng Matrona giúp những hoàn cảnh như vậy, và đã phải xếp hàng suốt 12 tiếng đồng hồ. “Tháng Mười Một vừa rồi, những điều chúng tôi háo hức chờ đợi như thế đã xảy ra rồi,” anh nói. Bây giờ anh sẽ mua tượng Matrona và tặng cho người thân và bạn bè. “Tôi làm việc ở Lubyanka,” anh nói, ám chỉ trụ sở của Cơ quan An ninh Liên bang, “và sau tất cả những cơn ác mộng tại nơi làm việc, tôi lại đến đây, và tâm hồn được thanh thản, tôi ra về với những giọt nước mắt lăn trên gò má.”


Sức khỏe sinh sản dường như là một trong những vấn đề chính kéo mọi người đến với Matrona Thánh thiện. Angelina Zvereva, một bác sĩ phẫu thuật, cho biết cô đến với Matrona lần đầu tiên sau khi một người bạn được chữa lành, không còn sảy thai liên tục nữa. “Người ta không thể sống mà không có đức tin,” Zvereva nói. “Người ta tin đủ thứ, một số tin vào Đảng [Cộng sản], số khác tin vào Chúa.”


Một người phụ nữ trung niên ăn mặc trang nghiêm, theo đúng nghi thức của nhà thờ – một chiếc váy dài và khăn trùm thanh lịch – đang nhấm nháp trà trong một quán cà phê nhỏ bên ngoài bức tường tu viện cùng với Anna Suloeva, một cô gái nhỏ nhắn, mặc quần jeans, móng chân móng tay sơn màu sặc sỡ. Suloeva cho biết bốn năm qua tháng nào cô cũng đến đây một lần. “Người ta tới với Matrona khi họ bị đẩy vào chân tường, không còn nơi nào để đi nữa và không còn tin vào sức mình nữa,” cô nói. Lần cuối cùng cô tham gia lễ ban thánh thể – buổi lễ có tầm quan trọng bậc nhất của đức tin và hoạt động Chính thống giáo – từ bao giờ?” “Không bao giờ,” cô trả lời. “Bạn biết đấy, không phải chỉ đến đây là đủ, mà phải có mặt suốt các buổi lễ, phải thú tội, phải hiệp thông”, Zvereva – người dường như là đang tư vấn cho Suloeva về những vấn đề của nhà thờ – nói. “Em biết, nhưng em không thích tham gia các buổi lễ”, Anna đáp.


Sáu động cơ


Trong bài báo “Tại sao người ta đi nhà thờ?” công bố năm 2004, nhà triết học xã hội Alexander Morozov chỉ ra sáu động cơ. Một nhóm được ông gọi là “lòng trung thành.” “Quan chức chính phủ đi nhà thờ, giống như họ đi dự buổi hòa nhạc với danh ca Luciano Pavarotti, vì đấy là biểu hiện của lòng trung thành với hệ thống của họ,” ông viết. Những người này không liên kết thế giới quan của họ với nhà thờ, nhưng họ chứng tỏ – thông qua Giáo hội – “lòng trung thành với công ty,” như thời trước cách mạng ở Nga vậy. Động cơ thứ hai là chỗ giao lưu. Giáo dân, chủ yếu là đàn bà, “uống trà” với nhau, tương tự như cách họ thường làm ở cơ quan thời Liên Xô. Thứ ba là dành cho những người mà “giữ được truyền thống lịch sử lâu dài” là vấn đề quan trọng. Những người này, chủ yếu là đàn ông, có nhiều khả năng là biết suy tư về những vấn đề mang tính trí tuệ về giáo lý và lịch sử, và hầu hết những người dân tộc chủ nghĩa theo tôn giáo ở Nga thuộc về nhóm này. Đây là “cốt lõi của Giáo hội” – những người mà “cứu rỗi và nhận lãnh Thánh linh” là mục đích duy nhất. Cuối cùng, là những người “làm việc trong Giáo hội”.


Một trong những nhóm lớn nhất là những người đến nhà thờ để tìm phép lạ. “Sau một giai đoạn dài của chủ nghĩa vô thần, khi tất cả mọi điều kỳ diệu đều đã bị loại bỏ khỏi đời sống của người dân và chỉ được biểu hiện dưới dạng các các đĩa bay và người ngoài hành tinh, thì đến thời kì mở ra triển vọng cho sự tồn tại hợp pháp của một ‘thực tế thứ hai’”, Morozov viết. “Hàng ngàn người tham quan các địa điểm linh thiêng, những thánh tích có thể chữa bệnh, những bức tượng khóc, và lời chứng về phép lạ cứ thế gia tăng. Tức là có một số lượng lớn những người tham gia vào sinh hoạt nhà thờ chỉ vì phép lạ đã hiện ra với họ dưới những hình thức khác nhau: hoặc họ từng chứng kiến, hoặc nghe nói về nó, hoặc chưa bao giờ nhìn thấy, nhưng mong đợi được nhìn thấy nó.” Morozov nói nhóm này là “có vấn đề,” vì ở đó, trải nghiệm tôn giáo đích thực cùng tồn tại với “sự biến dạng nguy hiểm của tôn giáo”- lừa đảo, bệnh hoạn tâm thần và những vụ đầu cơ về ý thức hệ.


Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng việc tìm kiếm phép lạ, và tôn thờ thánh tích và địa điểm linh thiêng là hai đặc điểm nổi bật nhất của lòng mộ đạo của nước Nga thời hiện đại. Kyrlezhev nói “chủ nghĩa duy vật tôn giáo” là một trong những đặc điểm chính của Chính thống giáo – với tất cả những nước thánh, dầu, đèn, nến và cát từ mộ của các vị thánh. Tổng linh mục Maxim Kozlov, giáo sư Học viện Thần học Moscow và linh mục tại Thánh đường St. Tatiana Chapel của trường Đại học Tổng hợp Moscow, coi “mê tín dị đoan” như mặt tiêu cực của sức mạnh – khả năng thánh hóa toàn bộ cuộc sống hàng ngày. “Tiêu cực ở chỗ, thay vì Phúc âm thì  vật chất và những hoạt động cận tôn giáo lại trở thành trung tâm”, ông nói.


Nhưng nhà sử học, chuyên về lịch sử Giáo hội, ông Alexei Beglov, tin rằng sự kết hợp này là đặc trưng của các tôn giáo truyền thống nửa đầu của thế kỷ XX – thời của Matrona Thánh thiện, khi hàng triệu nông dân Nga di chuyển vào thành phố. Tôn giáo đại chúng trong đô thị hiện đại, Beglov nói, “còn biến đổi hơn nữa, có thêm tính chất của xã hội tiêu thụ – chỉ cần tới, thắp nến – và được kết quả mà không cần bất kỳ nỗ lực nào.”


Một biểu hiện cực đoan của thái độ này là việc chủ tịch của một nhóm bảo vệ người tiêu dùng ở Yekaterinburg, ông Alexei Konev, năm 2008 đã tìm cách kiện giáo phận địa phương vì đã tổ chức đám tang cho người thân của ông không đúng cách. Nhà thờ trở thành nhà cung cấp dịch vụ, “tương tự như xưởng giặt ủi hay một phòng khám nha khoa vậy,” Lenta.ru dẫn lời Konev.


Việc chuyển từ nông thôn ra thành thị cũng tương tự cuộc chuyển hóa vĩ đại đang diễn ra trong Giáo hội Chính thống Nga. Về mặt tích cực, quá trình đô thị hóa dẫn đến sự xuất hiện của nhóm người có học có thể nhìn thấy ngay trong Giáo hội, đấy cũng chính là nhóm tích cực hoạt động. Xu hướng chung là: thành phố càng lớn thì càng nhiều trường đại học hơn và hoạt động tôn giáo cũng tích cực hơn.


Nhà thờ nhỏ hơn


Không có gì ngạc nhiên là trong lễ nhậm chức hồi năm ngoái, Giáo trưởng Kirill đã nói rằng truyền giáo và giáo dục là mục tiêu chính của mình. Nhưng đây là nhiệm vụ không dễ dàng và không chỉ vì thiếu nguồn lực. Trong Giáo hội đang có phong trào biệt lập đầy sức mạnh, tức là phong trào coi việc giữ nguyên các hình thức tôn giáo hiện có và ngăn chặn mọi cuộc đối thoại với thế giới bên ngoài là mục tiêu chính của nó. Một phong trào lan rộng trong những năm 1990 đòi phong thánh cho Nga hoàng Nicholas II và gia đình hoàng gia (bị giết sau Cách mạng Tháng  Mười – ND) phản ánh không chỉ sự ăn năn cho thời kỳ Xô-viết, mà lớn hơn thế là tiếc nuối đế chế đã mất. Hiện nay cũng không khó gặp những người kính trọng vị Nga hoàng đó và ca ngợi thời kì Liên Xô và đôi khi ca ngợi luôn cá nhân nhà độc tài Xô-viết Joseph Stalin nữa. Một số trong nhóm này có khả năng là những người ở mức độ nào đó sẵn sàng tuyên bố “Chính thống chống toàn cầu hóa,” – không chấp nhận mã số thuế, không chấp nhận hộ chiếu mới, thẻ ngân hàng và điện thoại di động.


Tôn giáo đã “lấp đầy khoảng trống” mà ý thức hệ cộng sản bỏ lại


Nhưng ngay cả bên ngoài những nhóm chính thống thực sự cũng thường thấy những cộng đồng “có đạo” lý tưởng hóa một số giai đoạn trong quá khứ hoặc tìm kiếm lý tưởng của họ ở đâu đó. Trong khi việc lý tưởng hóa thế kỷ XIX là hiện tượng phổ biến nhất thì một số cộng đồng lại tìm cách bắt chước những hoạt động ở Muscovy thế kỉ XIV hay hoạt động của người Hy Lạp hiện nay. “Có một xu hướng tìm lý tưởng ở bên ngoài,” Beglov nói.


Giai đoạn cuối những năm 1980 và đầu 1990, việc giải phóng Giáo hội, cũng như các tôn giáo khác, khỏi các khu ổ chuột của Liên Xô được tiến hành dưới khẩu hiệu cho rằng Giáo hội sẽ “thiết lập đạo đức” trong dân chúng. Điều đó đã không xảy ra – chắc chắn không xảy ra ở cấp độ tôn giáo đại chúng, mà thậm chí cũng ít xảy ra cả trong giới “có đạo”. “Nhà thờ chỉ ra một cách sống đầy vấn đề, chứ không phải đâu là tốt và đâu là xấu,” Kyrlezhev nói. Nhưng Kozlov phản đối, ông cho rằng qui giản Kitô giáo về đạo đức là sai, nhưng “khi nó không vươn tới được đạo đức thì là xấu.”


Khi phân tích tính tôn giáo của người Nga nửa đầu của thế kỷ XX, các nhà tư tưởng tôn giáo Nga – hầu hết đều là những người Marxist cải đạo sang Kitô giáo – đã dành rất nhiều thời gian để tách tư tưởng cứu thế và tình yêu đối với công lí của người Nga ra khỏi Kitô giáo và coi đó là một trong những thành phần chủ chốt của tôn giáo Nga. Đáng ngạc nhiên là, rất khó tìm thấy điều đó khi quan sát tính tôn giáo của người Nga hiện nay. Nhiều khả năng là cuộc thí nghiệm cộng sản thất bại đã có tác dụng làm giảm xu hướng này và đưa tình yêu công lí ra khỏi Giáo hội.


Nhưng Beglov nói rằng điều đó có thể trở lại. “Rất khó nói khía cạnh xã hội sẽ phát triển như thế nào – bằng con đường chính trị hay con đường thần bí,” ông nói. “Nhưng câu hỏi vẫn còn đó.”


Nguồn: “Demanding a Miracle”, Russia Profile 07/7/2010


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 02, 2014 17:30

April 29, 2014

Hơn mười ngày nay

Cao Trần


Còn non còn nước còn người

Thắng giặc Mỹ ta xây dựng hơn mười ngày nay.”


Câu lục bát trên không nhớ rõ là của ai, và thấy cũng không cần thiết để google tác giả, vì của ai không quan trọng bằng chuyện câu lục bát đó cho thấy cái gì.


“Thắng giặc Mỹ.” Tại sao phải thắng giặc Mỹ (và Ngụy nữa, cố nhiên), hay nói cách khác, tại sao phải chiến tranh thì mới có thể “hơn mười,” trong khi ai cũng hiểu chiến tranh là hao tổn máu xương (nhân lực), tiền của (tư bản), hai thứ tối quan trọng cho công cuộc “hơn mười”? Đặt vấn đề như vậy mới thấy, với những kẻ kêu gọi (hoặc hứa hẹn) “thắng giặc Mỹ ta xây dựng hơn mười ngày nay,” máu xương và tiền của không phải là một hao tổn xót xa, bi tráng, mà là một giá phí lạnh lùng nhất thiết phải bỏ ra cho một thương vụ được quảng cáo là một vốn mười lời. Có thể là tham lời hoặc cũng có thể đang lâm vô cảnh khốn cùng, nhiều người nô nức gia nhập công ty cổ phần chiến tranh với hy vọng đây là thương vụ đổi đời. Nghiệt ở chỗ đa phần kẻ góp vốn vô công ty cổ phần ấy cứ ngỡ rằng mình là cổ đông, trong khi, dưới cái nhìn ma mãnh của hội đồng quản trị, họ chỉ là đồng vốn không hơn không kém. Và đồng vốn, dù có được xưng tụng  là “vốn quý của xã hội,” vẫn chỉ là công cụ dùng để kiếm lời.  Đến năm 1975, họ đã thành công trong thương vụ một vốn mười lời đó, một cách thần thánh, như chính họ vẫn thường ca tụng. Không thần thánh sao được, khi mà một vốn bốn lời đã được coi là kỳ diệu.


Vầng hào quang thần thánh trong cuộc kinh doanh xương máu thời chiến tiếp tục chói sáng trong thời hậu chiến. Chân lý “hơn mười ngày nay” được cụ thể hóa bằng hình ảnh những chuyến xe tấp nập chở chiến lợi phẩm từ Nam ra Bắc những năm cuối thập kỷ 1970, và càng sống động hơn nữa qua những cuộc cướp đoạt – núp dưới các mỹ từ cải tạo tư sản và hợp tác hóa nông nghiệp – nhà cửa, vốn liếng  của người miền Nam. Ba mươi chín năm qua quả nhiên là ba mươi chín năm TA “xây dựng hơn mười ngày nay”, chỉ có điều TA, cũng như thời chiến, là một đại từ nhân xưng rất… thiêng, số ít chứ không phải số nhiều.


Trong chiến tranh, cái Ta-số-ít đã kiên định mục tiêu đánh chiếm miền Nam bằng mọi giá, theo kiểu “còn non còn nước còn người” là còn chơi, thì không lý gì ở thời bình lại phải… nhát tay. Con người và non nước, một lần nữa, vẫn chỉ là đồng vốn cho cuộc sát phạt trong canh bạc chia chác máu xương, mà ở đó kẻ cầm cái và các tay con đều lăm le bịp bợm lẫn nhau để tính chuyện “hơn mười” cho riêng mình. Từ đó, mỗi lá bài buông xuống là một nhát dao:  nhát rớm máu Dương Nội, nhát đầu rơi Thái Bình, nhát Điếu Cày, Văn Vươn, nhát Minh Hạnh, Phong Tần…


Chơi như vậy liệu có “còn non còn nước còn người” không?


Tháng Tư 2014


__________


Ảnh: Một phụ nữ bên xác chồng, chôn cùng 47 thi thể tại Huế, tháng 4.1969. Ảnh AP – Horst Faas


© 2014 Cao Trần & pro&contra


 







 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 29, 2014 08:55

April 25, 2014

Ưu tư diễn nghĩa

Nam Đan


Giờ là những ngày cuối của tháng Tư. Năm nào cũng vậy, càng đến gần ngày 30 tháng Tư tôi lại có cảm giác bất thường, ngột ngạt, bực bội. Mà không phải chỉ riêng mình có cảm giác đó. Nhìn quanh, tôi thấy bạn bè, người thân cũng vậy, và cả đời sống quanh tôi cũng vậy.


Mở ti-vi lên là thấy xe tăng, bom đạn, cờ hoa. Báo chí cũng vậy, có vơi đi phần nào, nhưng cũng vậy. Hò hét, hoan hô. Đứng trên vũng máu hát ca, nhảy múa lăng xăng mãi nếu không thấy trơ trẽn, thì cũng phải mệt và nhàm!


Năm nay là năm thứ 39 kể từ ngày 30/04/1975, cái biến cố làm thay đổi vận mệnh của từng số phận và của cả dân tộc. Tôi nghĩ, cái ngày bất thường trong ký ức ấy sẽ chẳng bao giờ trở nên bình thường. Ở bên này vĩ tuyến 17 cũng như bên kia. Với người Việt ở trong nước cũng như người Việt ở hải ngoại.


Tôi vừa đọc bài “Ưu tư ngày 30-4” của tác giả Nguyễn Minh Hòa, ở blog Quê Choa. Theo như nội dung của bài viết, thì tác giả là một sĩ quan trong quân đội Bắc Việt có mặt trong đoàn quân tấn công và chiếm giữ Sài Gòn vào thời điểm 30/04/1975. Với nhiều người, thì đây là những suy nghĩ chân thực, cấp tiến trong lúc này.  Tôi thấy có những chi tiết rất thú vị trong bài khi ông nói về “chiến lợi phẩm”, xin trích lại nguyên văn như sau:


“Lễ kỷ niệm ngày chiến thắng năm nào cũng diễn ra trong không khí tưng bừng, cờ hoa rợp trời, mọi người hân hoan, nhưng nhìn kỹ lại hình như không có mấy ai trong số những người lính giải phóng thành phố ngày ấy có mặt trên lễ đài, hay trong khối quần chúng tay vẫy cờ hoa. Những người lính còn sót lại qua những mùa chiến dịch ấy, sau chiến tranh đã lặng lẽ trở về với đời thường, với cày cuốc, với bò gà, với kìm búa. Nhiều người đã mất, nhiều người sống với những thương tích, bị bệnh tật giày vò đau đớn, có một sự thực là đa phần họ sống rất cơ cực. Thỉnh thoảng về quê hương gặp lại những người đồng đội xưa mà muốn rơi nước mắt. Trở về quê sau những ngày hừng hực chiến thắng ấy, hầu hết trong số họ gắn đời với mảnh ruộng, chẳng bao giờ có dịp nào trở lại thăm thành phố này nữa, mà có muốn thì cũng chả đào đâu ra tiền, bởi tiền ăn còn còn chả có, nói chi đến một chuyến đi xa. Sau 1975, chả hiểu sao, bề trên vội vàng cho hàng triệu quân nhân về quê càng nhanh càng tốt. Họ về nhà với những con búp bê mắt nhắm mắt mở bằng nhựa tái chế đen thui, người khá hơn thì có thêm cái khung xe đạp đểu làm bằng tôn mỏng. Họ để lại sau lưng những nhà cao cửa rộng, biệt thự xe hơi, vàng bạc hột xoàn, đất đai mênh mông, những thứ có được do máu của chính họ đổ ra, và rồi thế vào đó là những người tiếp quản, những người “xây dựng, phát triển” từ hậu phương, các hạt giống đỏ từ các nước xã hội chủ nghĩa tràn về tiếp nhận, sử dụng. Họ chẳng màng, ngày ấy các sĩ quan dạy lính tráng rằng ai lấy chiến lợi phẩm trước sau cũng bị chết, hay nói đúng hơn có màng cũng không đến lượt, những chủ nhân mới tiếp quản cơ ngơi đồ sộ ấy cũng chẳng cần biết ai mang lại cho họ những thứ đó, bởi đơn giản là họ hiểu đó là tiêu chuẩn, chế độ được hưởng, vậy thôi. Rất, rất nhiều người trong số chủ nhân mới ấy, trước đó chỉ là những tay làng nhàng, vớ vẩn, thậm chí cực hèn nhát, bỏ ngũ, cơ hội, bị kỷ luật nay tự nhiên có ghế, được biếu không một đống của cải, vào thời sốt đất có nhiều anh bán được cả nghìn cây vàng, xem ra làm cách mạng cũng có số. Khi còn sống, danh tướng, Thượng tướng Trần Văn Trà có một câu nói nổi tiếng mà có quá nhiều vị không thích đó là “nói cho cùng thì tất cả những chiến công hiển hách đều thuộc về những người lính bình thường nhất”, nhưng có một vế sau không ai nói đến là “nhưng lợi ích và chiến lợi phẩm mà cuộc chiến đó mang lại thì không thuộc về những người bình thường nhất”.


Đọc đến đây tôi khựng lại, lưu ý ở chỗ “Họ để lại sau lưng những nhà cao cửa rộng, biệt thự xe hơi, vàng bạc hột xoàn, đất đai mênh mông mông, những thứ có được do máu của chính họ đổ ra.”


À, thì ra lý do để đổ máu là thế! Là “những nhà cao cửa rộng, biệt thự xe hơi, vàng bạc hột xoàn, đất đai mênh mông mông,” của Miền Nam.


Và theo suy nghĩ của ông Hòa thì “những thứ có được” đó không phải là tài sản, là mồ hôi nước mắt của người Miền Nam, kẻ thua cuộc trong cuộc chiến, mà là từ “máu” của đồng đội ông, những thành viên của đội quân Miền Bắc, kẻ thắng cuộc.


Đọc xong đoạn này, tôi không khỏi có ý nghĩ rằng cái “ưu tư ngày 30-04” này là ưu tư của một kẻ cướp không được đồng bọn chia chác đồng đều, bị chơi cha, chơi gác, sau mẻ cướp.


Lâu nay, tôi thấy những “ưu tư”, “phản tỉnh” nhuốm màu cay đắng kiểu này xuất hiện rất nhiều, ngày càng nhiều. Chúng được nhiều người từng là chiến binh của lực lượng quân đội miền Bắc, và nhất là những người trong Mặt trận Giải phóng Miền Nam, đã tham dự vào cuộc chiến, bộc bạch trong lúc họ nói thật lòng. Chính những ý nghĩ trung thực (mà ngô nghê) này đã xóa sạch ý nghĩa “cuộc chiến tranh thần thánh; chống Mỹ cứu nước; giải phóng, bảo vệ đất nước” mà phía cộng sản miền Bắc tuyên truyền với họ.


Sự thật ở đâu?


Chính đây là những sự thật nhỏ, góp lại thành sự thật lớn: cuộc chiến tàn bạo, phi nghĩa, xuất phát từ một bên; để lại hậu quả là một vết thương chẳng thể nào lành, và vắt kiệt sinh lực của dân tộc!


***


Còn tôi, tôi thấy ngày tàn của cuộc chiến đó như thế nào ư? Tôi thấy nó qua tấm ảnh này:


Ngày 23/04/1975, đúng 39 năm trước, một người cha gánh đứa con nhỏ và một mớ đồ ít ỏi, từ Trảng Bom, chạy về hướng Sài Gòn. Tôi tự hỏi cậu bé trên lưng cha, hiện nay đã là một người trung niên trên 40 tuổi, còn sống hay không? Giờ này cậu như thế nào? Trong hôm đó mẹ cậu ở đâu?


Và, quý ông Hòa kia ơi, ngoài những thứ chiến lợi phẩm: những nhà cao cửa rộng, biệt thự xe hơi, vàng bạc hột xoàn, đất đai mênh mông mông như ông vừa kể, thì Miền Nam còn có thứ tài sản trên đầu đòn gánh của người cha trong tấm hình này mà các ông đã bỏ quên.


Nó là: số phận của những con người!


Sài Gòn, 23/04/2014


© 2014 Nam Đan & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 25, 2014 15:38

April 24, 2014

Bí ẩn tâm hồn Nga (Bài 4) – Thiên tài khoa học rởm

Tom Balmforth


Phạm Nguyên Trường dịch


Bài 1: Dmitry Babich – Các chuyên gia phá hoại


Bài 2:   Elena Rubinova – Sự tiến hóa của con người Xô-viết


Bài 3: Roland Oliphant – Tập hoài nghi


Người Nga dường như là một trong những dân tộc dễ lừa nhất.


Trong vòng 20 năm, những điều dường như cho người ta một tia hy vọng trong giai đoạn khó khăn sau khi Liên bang Xô-viết tan rã đã chuyển hóa thành một sự gian lận toàn diện ở qui mô công nghiệp.


Các nhà khoa học Nga đã làm thế giới kinh ngạc suốt nhiều năm trời. Tháng 3 vừa qua (năm 2010 – ND) Grigori Perelman, một nhà toán học Nga khổ hạnh đơn độc đã giải được câu đố làm bối rối các nhà toán học suốt một thế kỷ – và sau đó lại làm dân ngoại đạo thế giới ngạc nhiên khi từ chối giải thưởng 1 triệu USD. Nhưng đằng sau danh tiếng của nước Nga về thiên tài khoa học lại sừng sững một bóng ma giả khoa học.


Ngày nay nước Nga có những kẻ lừa đảo nổi tiếng, những kẻ tự gọi mình là Chúa Kitô tái thế, hay thần thánh đã phú cho họ khả năng chữa bệnh siêu phàm mà họ sẽ hào phóng chia sẻ nếu bạn có nhiều tiền. Tệ hơn nữa, nhận được tiền là họ chuồn liền. Đấy có thể là ông pháp sư “chữa bệnh bằng phân tâm học” trên truyền hình hoàn toàn theo kiểu Nga, Anatoly Kashpirovsky, người chữa lành một cách thần kì những ai trả tiền để được gặp anh ta, hay Grigori Grabovoi, kẻ từng bóng gió về chức vụ tổng thống, thề cấm thần chết bén mảng; những kẻ lừa đảo huyền bí đó có khá nhiều đệ tử. Nhưng câu hỏi là: Vì sao? Có phải người Nga là những người theo thuyết định mệnh vô tư lự với một thiên hướng thích những thứ thần bí, sẵn sàng mang tiền tiết kiệm của mình cho những ông thày thuốc với những cách chữa bệnh giả mạo? Hay chỉ đơn giản là những điều kiện đó phù hợp với những kẻ trục lợi bất lương nhằm tống tiền tầng lớp dễ bị tổn thương nhất trong xã hội Nga – những nhân vật nông dân thất học từng được nhà văn Liên Xô Vasily Shukshin ca ngợi?


Nói qua về những kẻ lừa đảo


Khi Liên Xô sụp đổ cách đây hai thập kỷ, huyền bí và giả khoa học bắt đầu phát triển mạnh, nhưng đấy không phải là lần đầu tiên. Vào đầu thế kỷ XIX, cùng với sự vỡ mộng của nhiều người về triết lý duy lý đã định hình thời đại, chủ nghĩa thần bí ở Nga phát triển rất mạnh. Tâm trạng phản động của thời đại được sinh ra từ “Thời đại bạc” mang tính tâm linh sâu sắc của tư tưởng Nga, được các nhà tư tưởng như Vladimir Solovyov và Dmitry Merezhkovsky ghi nhận một cách dễ nhớ nhất. Trong khi Dmitry Mendeleyev, nhà hóa học người Nga nổi tiếng nhất với bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, đã lên tiếng trách cứ nhà nước và nền khoa học Nga là không đấu tranh với mối đe dọa của chủ nghĩa thần bí, đang xâm nhập vào các cấp cao nhất của chính quyền.


Tuy nhiên, thần bí ngày càng trở nên phổ biến hơn, khi Grigory Rasputin, ông Thày Tu Điên của Nga, năm 1905 luồn lách vào giới thân cận nhất của Nga hoàng Nicholas II. Ban đầu, sau khi chữa bệnh máu loãng khó đông cho Hoàng tử Alexei, người hành hương bí ẩn này được ca ngợi như một đạo sĩ “chính cống”. Nhưng khi lối sống của ông ta ngày càng trở thành đồi trụy hơn và Thế chiến I bùng nổ, ông ta càng có thêm nhiều kẻ thù có chức vụ cao hơn. Cuối cùng, khi kẻ lừa đảo bị cuốn vào một cuộc tranh giành quyền lực năm 1916, ông đã phải trả giá bằng mạng sống của mình. Cho đến ngày nay, huyền thoại về Rasputin nổi tiếng thậm chí còn vượt ra ngoài biên giới của Nga, và các âm mưu và bí ẩn xung quanh vụ hạ sát ông ta là minh chứng cho huyền thoại mà “người thày thuốc” trụy lạc này xây dựng xung quanh hình ảnh của mình. Người ta đồn rằng Rasputin đã tìm cách tháo được dây trói sau khi đã bị còng tay, bị đầu độc, bị bắn vào đầu, và sau đó bị vứt xuống đáy sông Neva ở St Petersburg  - tất cả những điều này cho thấy mức độ thành công của ông ta trong việc lừa dân chúng bằng những chuyện tào lao mang vẻ huyền bí.


Thày Tu Điên và các đệ tử của ông ta


Nhưng, ngày hôm nay dường như linh hồn của ông Thày Tu Điên lại một lần nữa đã thoát ra ngoài. “Hiện nay chúng ta có một Rasputin mới – đó là cách xuất hiện của Grigori Grabovoi”, Eduard Kruglyakov, người đứng đầu Ủy ban Giả Khoa học tại Viện Hàn lâm Khoa học Nga nói. Năm 2005, sau khi hứa với thân nhân rằng ông ta có thể làm các nạn nhân của cuộc bao vây trường học ở Beslan sống lại nếu họ chịu chi tiền, Grabovoi trở thành tiêu đề của báo chí toàn cầu. Ba trăm ba mươi mốt người chết, quá nửa là trẻ em, khi lực lượng đặc nhiệm của Nga giành lại ngôi trường ở Bắc Kavkaz từ tay những kẻ khủng bố, thảm kịch này đã hằn sâu vào ý thức dân tộc.


Nhưng Grabovoi không thành công bằng kẻ lừa đảo tiền nhiệm của ông ta (ý nói Grigory Rasputin – ND). Năm 2008, Grabovoi bị kết án 11 năm tù sau khi một nhà báo ở Moskva là Vladimir Vorsobin giả vờ tin vào “dịch vụ” của ông thày thuốc này và đã bắt ông ta trong một phi vụ đặc biệt. Vorsobin đề nghị Grabovoi làm người thân sống lại với giá 1.500 USD, sau khi nhận được tiền Grabovoi nói với Vorsobin rằng người thân của ông hiện đang sống và khỏe mạnh ở St Petersburg, sau đó Grabovoi đã bị bắt giữ.


Nhưng, mặc dù bị kết án với 11 tội danh, vị chúa cứu thế tự xưng này hiện đã được thả sau khi ngồi tù chưa đến một nửa thời hạn. Một ngày trước khi được tha, Grabovoi còn trâng tráo nói sẽ giúp những người chết ở mỏ than Raspadskaya trong vùng Siberia hồi sinh, nơi một loạt các vụ nổ trong tháng 5 đã làm nhiều người thợ mỏ thiệt mạng. Sau đó vợ ông ta xoa dịu những nhà bình luận đầy giận dữ bằng cách thông báo rằng sau khi được tha, chồng bà ta không chạy từ thảm kịch này sang thảm kịch khác nhằm bóc lột các tang quyến bằng cách hứa làm cho người chết sống lại nữa. Cho đến nay chưa thấy có báo cáo về hành vi vi phạm pháp luật của ông ta. Nhưng Kruglyakov ngờ rằng Grabovoi sẽ không được ở ngoài nhà tù lâu. “Tôi nghĩ anh ta sẽ lại đi tù thôi. Hoàn toàn không được phép thả những tên lang băm như thế này. Nó còn là tín hiệu cho những kẻ khác trong nước – đi tù, rồi sẽ được ra ngay thôi.”


Chữa bệnh bằng dầu cù là


Anatoly Kashpirovsky là người nổi tiếng hơn hẳn trong lĩnh vực pháp sư ở Nga, khi Liên Xô tan rã ông này đã dùng chương trình “chữa bệnh hàng loạt” trên truyền hình để mê hoặc cả nước. Như một lang băm chuyên dùng tà thuật trên truyền hình, Kashpirovsky bảo người xem để nồi và chảo đầy nước bên cạnh TV khi xem chương trình của mình, để cho nước được nạp các tính chất chữa bệnh khi tiếp xúc với sóng của năng lượng thần giao cách cảm. Lúc đó, Kashpirovsky và đối thủ của ông ta, Allan Chumak, thôi miên cả nước bằng chủ nghĩa thần bí hoang dã và vô căn cứ, và cứ nhìn chằm chằm vào khán giả truyền hình suốt mấy năm trời. Theo một cuộc thăm dò do Trung tâm Levada tiến hành năm 1990, khi được hỏi họ có nghĩ là “liệu pháp tâm lí” kiểu Kashpirovsky có thể giúp bệnh chữa bệnh hay không, thật đáng kinh ngạc là 52,3% người được hỏi nói “có”.


“Hiện tượng Kashpirovsky chủ yếu liên quan tới sự sụp đổ của  Liên Xô, mặc dù ở nhiều nước khác cũng có những người thích ông ta. Tuy nhiên, tôi nói rằng tỉ lệ ở Nga cao hơn các nước khác. Nó liên quan đến sự rối trí và hoảng loạn của người dân”, Kruglyakov nói.


Năm 1995, Kashpirovsky bỏ trốn khỏi nước Nga và bỏ lỡ một vụ bùng nổ các loại thuốc giả và các dịch vụ chữa bệnh rởm không bị ai ngăn chặn, vì đã lợi dụng được tình trạng hỗn loạn của quốc gia đang trải qua quá trình biến đổi xã hội một cách vội vã, với lực lượng kiểm tra và đối trọng còn non trẻ. “Ở Liên Xô, lương và triển vọng nói chung là thấp, nhưng dù sao mọi người đều được chăm sóc. Khi nhà nước mới thành lập, rất nhiều người đã bị bỏ rơi và hoàn toàn không được giúp đỡ. Họ không có công ăn việc làm, không có phương tiện sống. Trước đây, nhà nước đã cho họ nhà ở miễn phí. Đúng là họ phải xếp hàng chờ đợi, v.v., nhưng họ có thể có được một chỗ để sống. Bây giờ bạn có thể mua một căn hộ, nhưng bạn không có tiền, và bạn sẽ không bao giờ có bất kỳ chỗ nào để sống và phần lớn gặp hoàn cảnh như thế. Đó là lý do vì sao tôi nghĩ rằng rất nhiều người có tâm trạng bị bỏ rơi hoàn toàn. Trong tình hình như thế, những kẻ lừa đảo này giống như dầu cù là để xoa dịu tâm hồn vậy,” Kruglyakov nói.


Thích âm mưu


Cùng với sự nổi tiếng của những nhân vật có quyền lực một cách thần bí, phi chính thức như Kashpirovsky, người Nga thường nghi ngờ các nhân vật có quyền lực một cách chính thức, ví dụ như các chính trị gia và các chủ ngân hàng. Người phương Tây thường chế giễu người Nga vì họ giữ tiền trong một hộp giày dưới gầm giường chứ không gửi vào ngân hàng – một thói quen đã nhanh chóng kẹt lại sau khi cả một thế hệ thấy mình bị hất ra đường khi những món tiền của họ gửi trong ngân hàng trở thành vô giá trị.


Trong khi đó, thói quen ở đâu cũng ngửi thấy âm mưu của người Nga lại được củng cố bởi sự nghi ngờ của họ đối với quyền lực chính trị, có xuất xứ từ hàng thế kỷ nằm dưới sự cai trị của chính thể độc đoán. Trong một bài báo trên tờ Moscow Times ra trong tháng này, một giáo sư nổi tiếng người Nga viết rằng ông đã rất ngạc nhiên khi phần lớn sinh viên chính trị của ông tin rằng các cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng Chín năm 2001 là “tác vụ tay trong”. Còn ở trong nước, 14 % người Nga nói với Trung tâm nghiên cứu Levada rằng họ nghĩ là FSB – cơ quan mật vụ Nga – trước đó đã nghe nói về vụ đánh bom tàu điện ngầm ngày 29 tháng 3, nhưng đã không làm bất cứ điều gì để ngăn chặn.


Dối trá chồng chất


Nhưng sau khi Liên Xô sụp đổ, người dân dễ bị tổn thương và lầm lẫn là vì vụ sụp đổ đã tạo điều kiện thuận lợi cho những kẻ lừa đảo tự tin. Khó có thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi một trong những chương trình bán hàng đa cấp lớn chưa từng có trên thế giới bị giết chết ở Nga vào đầu những năm 1990. Năm 1994 chương trình Ponzi do công ty MMM thực hiện đã kiếm được 10 tỷ USD bằng cách thuyết phục từ 5 tới 40 triệu người Nga khiêm tốn rằng tiền đầu tư vào công ty sẽ có lợi tức không ít hơn 1.000%. Vụ lừa đảo thành công là do quảng cáo và ngay lập được một loạt các công ty khác bắt chước, lợi nhuận cao đến mức ngớ ngẩn như thế liên quan đến siêu lạm phát ở Nga lúc đó.


Cuối cùng, Tổng thống lúc đó, ông Boris Yeltsin, đã làm cho việc công bố lợi nhuận “dự kiến” trở thành bất hợp pháp, đưa bọn lừa đảo vào vòng kiểm soát bằng cách đánh gục các kênh quảng cáo huyết mạch của nó. Nhưng bọn lừa đảo vẫn phát triển, ngay cả khi chúng thu được ít lợi nhuận hơn. Bốn mươi thành viên của một băng đảng bị bắt trong tháng này vì đã lừa các cựu chiến binh Thế chiến II bằng cách bảo họ trả trước cho chúng 18 % “thuế” cho những tấm huy chương mà băng đảng nói là sẽ thưởng cho họ nhân ngày 9 tháng 5, tức là Ngày Chiến thắng ở Nga. Bọn lừa đảo đã thu lợi nhuận ròng là 47.000 USD mỗi ngày, nhưng băng đảng này sẽ thu được nhiều hơn từ việc bán thuốc giả.


Nhưng giả khoa học và thuốc giả là những kẻ thù khó đánh, những kẻ bán hàng tháo vát có thể đơn giản là trả cho hàng trăm trong số hàng ngàn “chuyên gia” khoa học Nga để họ cam đoan về chất lượng của những loại thảo dược đáng ngờ là xong. Dưới thời Xô-viết, lúc đó chỉ có các cơ quan khoa học chính thống, chuyện này chưa bao giờ trở thành vấn đề. Nhưng cùng với sự sụp đổ của Liên Xô, những viện hàn lâm khoa học “xã hội” đầu tiên đã xuất hiện. Đã có trên 200 viện hàn lâm như thế, làm gia tăng đáng kể các nguồn “có thẩm quyền” có thể bảo đảm cho các loại thuốc hoặc các khóa chữa bệnh. “Bây giờ bạn có thể mua tên của ‘viện sĩ’,” Kruglyakov nói. Từ đó đến nay pháp luật đã thay đổi, làm cho các thiết chế nhất định chỉ được công nhận một phần, nhưng người Nga bình thường không biết những khác biệt như thế, có nghĩa là họ vẫn dễ bị quảng cáo vô đạo đức tấn công.


Năm 2003, Viện Hàn lâm Khoa học Nga gặp Viện Hàn lâm Y khoa để bàn về ảnh hưởng đáng báo động của giả khoa học ở Nga. Kết quả là người ta đã đưa ra dự thảo bộ luật để trình Quốc hội nhằm giải quyết tận gốc rễ của vấn đề – nạn quảng cáo. Nhưng khi luật được thông qua thì hình phạt đối với quảng cáo gian lận chỉ là phạt tiền – chỉ mạnh hơn đập vào cổ tay những kẻ đã kiếm được những món lợi nhuận lớn. Kruglyakov nói rằng đáng lẽ những kẻ phạm tội phải đối mặt với nguy cơ bị những án tù dài hạn.


Nhưng vấn đề là trò chơi mà các  ông đồng, bà cốt và lang băm tự xưng lại nằm trong các phương tiện truyền thông đại chúng. “Rất nhiều người cả tin. Tin vào sách báo, tin vào những thứ được nói trên truyền hình. Những người có học biết rằng tất cả chỉ là dối trá -  mọi người đang bị lừa một cách có hệ thống. Những người này tin tưởng và mua bất cứ thứ gì người ta bảo họ. Và không phải ai cũng hiểu rằng có những kẻ lừa đảo như thế. Tôi đã nói chuyện với những người làm việc trong truyền hình và họ nói rằng cần phải làm tất cả những thứ có thể giúp làm tăng vị trí trong bảng xếp hạng của họ. Và cái gì làm tăng vị trí trong bảng xếp hạng? Tất cả những điều ngu xuẩn và giật gân,” Kruglyakov nói.


Chắt lọc sự thật


Sự xâm nhập theo kiểu Rasputin vào những tầng lớp cao cấp của chính quyền vẫn là vấn đề ngay cả  ở nước Nga thời hậu Xô-viết. “Trong điện Kremlin có cả một nhóm – tôi chưa dám gọi họ là lang băm – những kẻ thần bí, các chiêm tinh gia. Đấy là những người lỗi lạc – những viên tướng. Những năm 1990 cũng tương tự như thời Rasputin,” Kruglyakov nói. Một số các cuộc hẹn của Boris Yeltsin làm cho người ta nghĩ rằng ông đã tìm kiếm lời khuyên từ những con người kì quặc. Ví dụ, Yeltsin chỉ định tướng Georgi Rogozin, một sĩ quan cũ của KGB và là một nhà chiêm tinh, làm phó giám đốc Cục An ninh của Tổng thống. Rogozin chỉ huy một nhóm các chiêm tinh gia gồm 12 người chuyên dựa vào kinh nghiệm của của họ nhằm tư vấn Tổng thống.


Thậm chí hiện nay cũng có những mối liên hệ rõ ràng giữa các khoa học gia giả hiệu và chính quyền. Tháng ba vừa qua, Chủ tịch Hạ viện, ông Boris Gryzlov, lao vào bảo vệ nhà phát minh Nga, Viktor Petrik, người tuyên bố đã làm được bộ lọc, lọc nước bị ô nhiễm phóng xạ thành nước uống được. Petrik đã dán logo của đảng cầm quyền, Đảng Nước Nga Thống nhất, lên những phát minh của mình nhằm tăng uy tín cho chúng, nhưng ở chỗ khác, những chiếc máy đã bị các nhà khoa học đáng kính đả kích kịch liệt là giả khoa học.


Tháng trước Kashpirovsky đã tung ra chương trình quay trở lại Nga và bắt đầu với lịch trình dày đặc những buổi chữa bệnh bằng tâm linh. Và linh hồn của ông Thày Tu Điên lại một lần nữa được tự do khi Grabovoi được ra khỏi nhà tù. Sự ngóc đầu dậy của giả khoa học còn xa mới là vấn đề của riêng nước Nga. Nhưng những thứ được bắt đầu như là dầu cù là xoa cho những tâm hồn không yên trong những năm 1990 hỗn loạn cũng có thể làm cho danh tiếng về thiên tài khoa học của Nga phải đầu hàng, đấy là nói nếu nó tiếp tục không bị ngăn chặn.


Nguồn: Tom Balmforth,  ”Pseudoscientific Genius“, Russia Profile 07-7-2010


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 24, 2014 06:49

April 21, 2014

Cờ đỏ lại bay, hay sự hồi sinh của Liên Xô

Svetlana Alexievich


Phạm Thị Hoài dịch


Tôi đã mất nhiều bạn bè người Nga. Tôi không thể chịu nổi sự phấn khích trong mắt họ khi nhắc tới vụ “gia nhập” hay “sáp nhập”, hay bọn Ukraine “sắp đói nhăn răng, rồi sẽ tự ngửa tay xin hợp nhất với Nga cho mà xem”. Ở Moskva, người ta đắc chí thuê thợ Ukraine làm những công việc hạ đẳng nhất. Một phong trào yêu nước rầm rộ bùng phát.


Không nhà hàng nào còn sâm-panh Krym nữa, tất cả đã dốc cạn để ăn mừng chiến thắng. Chỗ nào cũng thấy nói rằng không gánh vác sứ mệnh đặc tuyển do Chúa, không bá đạo thì chúng ta không còn là dân tộc Nga. Trai tráng chen nhau đến các ủy ban tuyển quân xin tự nguyện nhập ngũ, để cho “bè lũ Bandera”[1] phen này biết tay.


Tôi ngạc nhiên vì Gorbachev. Đến ông ấy cũng bị cuốn vào làn sóng dân tộc chủ nghĩa và phát biểu rằng lẽ ra phải đưa Krym về cố hương từ lâu. Rằng công lí của lịch sử vậy là đã được khôi phục. Cơn cuồng loạn bài phương Tây nổi lên khắp nơi, nên cả ông ấy cũng thôi không nói về con đường châu Âu, về hợp tác với châu Âu, về những giá trị phổ quát.


Ai không hân hoan, đích thị là một kẻ thù của nhân dân. Là thuộc về đội quân thứ năm, là đứng trong hàng ngũ hắc ám phục vụ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Vốn từ vựng thời Stalin đã hoàn toàn sống lại: bọn Nga gian, bọn phản bội, bọn nối giáo cho bè lũ phát xít. Khác duy nhất ở một điểm: bây giờ những kẻ Stalinist theo chính giáo. Trong một buổi liên hoan cơ quan ở Kaluga, một nhân viên ngân hàng đã giết một đồng nghiệp. Chỉ vì cãi nhau về Ukraine.


Bị ghét nhất bây giờ là những người cổ xúy cho tự do. Những năm đáng nguyền rủa của thập niên chín mươi là lỗi tại họ, sự tiêu vong của đế chế Nga là lỗi tại họ. Bây giờ nhân dân đòi tịch thu nhà cửa của họ, tống họ vào tù, đem họ ra xử tử. Cái nhân dân của một dân tộc được Chúa Trời đặc tuyển! Truyền hình trình ra những kẻ thù của nhân dân. Chẳng hạn ca sĩ nhạc rock nổi tiếng Andrey Makarevich, phải đè cổ ông này ra mà tước hết các giải thưởng và cả Huân chương Vì Tổ quốc. Nhà sử học Andrey Zubov thì phải bị đuổi khỏi Viện Quan hệ Quốc tế (quyết định đó may thay đã bị hủy). Những người đó đã bôi xấu đất nước. Ai không theo ta, đích thị là chống ta.


Đã bắt đầu có những lời kêu gọi ngừng mua vũ khí từ Hoa Kỳ. Để đáp lại các biện pháp trừng phạt của phương Tây, một hình nộm Obama bị đem ra đốt ở thành phố Ufa. Tôi đã trò chuyện với hàng chục người. Không ai lo ngại các biện pháp đó, không ai sợ “Bức màn sắt”. Người ta nhắc nhở nhau rằng thời Xô-viết mình cũng từng sống cô lập với thế giới rồi mà. Có sao đâu? Bù vào đó, bây giờ cuộc sống có một ý nghĩa: giúp những người anh em Ukraine, cái đó quan trọng hơn là khúc xúc xích trong tủ lạnh.


Cảm giác như đất nước này đang sống trong thời chiến rất rõ. Tất cả đều háo hức có thêm chiến thắng. “Bao giờ thì đến lượt Alaska?” Bật ti vi lên mà thấy ghê người. Trên truyền hình, người ta dọa biến nước Mỹ thành một nhúm tro nguyên tử và tính toán khả năng chiếm đóng toàn bộ châu Âu.


Phần còn lại của nước Nga, những người có lí trí bình thường, thì nín thinh. Chỉ cần ho he một tiếng là có thể bị tố giác, thậm chí bị tống giam. Một người quen kể cho tôi nghe chuyện con gái mình vừa đến một trường đại học nhận việc. Cô ấy dạy môn toán. Đầu tiên người ta muốn biết quan điểm của cô về vấn đề Krym. Cô nói: “Tôi không ủng hộ chính sách Krym của Nga. Nga đã hiếu chiến và vi phạm luật quốc tế.” “À, tức là cô muốn Mỹ cũng kích động một cuộc cách mạng mầu ở nước ta chứ gì!”


Rồi không lâu nữa, người ta sẽ vặn hỏi, vì sao ai đó không chọn Sochi mà lại đi nghỉ ở Ai Cập hay Thổ Nhĩ Kỳ? Sao không chọn nhạc Nga mà lại nghe nhạc ngoại quốc? Không, không phải Krym, cái chúng tôi được nhận lại là Liên bang Xô-viết.


Ngôn ngữ bạo lực thấm đẫm toàn bộ cuộc sống. Mỗi sáng bật computer lên và tin tức hôm nào cũng thế: người Nga đang đến, người Nga đã vùng lên. Nơi nào cũng thế, khi bạo lực lại trở thành lí tưởng thì sẽ có một kẻ như Karadžić dễ dàng thuyết phục người ta rằng súng máy có thể làm việc thiện.


Cờ đỏ lại bay, con người đỏ lại xuất hiện. Tất cả đều sống hơn hớn. Putin đã nỗ lực mười lăm năm cho công cuộc ấy. Ngày lại ngày, truyền hình thổi cho những ý tưởng Xô-viết sống lại. Thế mà chúng tôi đã tưởng những thứ ấy chết hẳn rồi.


Nước Nga tỏ rõ là không có khả năng tiếp nhận những giá trị phương Tây và Thiên chúa giáo phương Tây. Nhà thờ rao giảng rằng: “Chúng áp đặt cho ta một mô hình phát triển xa lạ, khiến ta đánh mất tâm linh mình.” Tôi hỏi một linh mục, bản chất tâm linh của người Nga chúng ta là gì. Ông ta đáp: “Tập trung tất cả bọn đồng tính về một chỗ rồi đem ra bắn tuốt!” Ngoài ra, phải tập hợp mọi người Nga vào một thiết chế nhà nước quân chủ. Bây giờ chúng ta đã mạnh trở lại và đủ sức bảo vệ người của chúng ta ở Baltic hay ở Tajikistan.


Nước Nga đi về đâu? Thay vì cải cách, chúng ta chọn chiến tranh. Nỗi khát thu hồi lãnh thổ xưa có thể khiến hàng triệu con người mất trí. Mà đó là những con người biết nghĩ, mới hôm qua còn mơ ước một nước Nga mang tinh thần châu Âu. Hôm nay họ đã đồng thanh tuyên bố: “Vì Krym, chúng ta tha thứ cho Putin tất cả!”. Sách báo của nhà thờ chính giáo gọi Putin là Thánh, hoàn toàn nghiêm túc. Té ra ở kiếp trước ông ta chính là Vương công Vladimir, người đã làm phép rửa tội cho nước Nga. Có tin đồn rằng dầu một dược rỏ ra từ thánh tượng Putin ở một số nhà thờ. Một vị thánh! Người ban phát phép màu! Sống khắc khổ như một nhà tu. Không vợ, bởi ông ta đã kết hôn với nước Nga.


Nhà thờ, đó không chỉ là kinh, nến và thánh tượng. Nhà thờ ở Nga là một trong những lực lượng hậu bị của tổng tư lệnh quân đội.


Truyền thông bị thanh lọc theo luật của thời chiến. Mọi nguồn thông tin độc lập, cho phép một cái nhìn khác, bị triệt tiêu. Mỗi phát ngôn chân thực đều bị đánh đồng với một lời kêu gọi lật đổ chế độ. Những trang mạng không vừa ý bị chặn. Mới đây, tổng biên tập của Lenta, cổng thông tin lớn nhất, bị mất chức. Bốn mươi thành viên khác trong ban biên tập cũng từ chức để phản đối. Chỗ trống ở các cơ quan truyền thông bị thanh lọc được Putin lấp đầy bằng những người lãnh đạo trung thành với Điện Kreml và bằng nền báo chí của riêng ông ta, do ông ta dựng nên.


Trên mạng đầy những sáng kiến để tồn tại. Ở đó, kinh nghiệm thời Xô-viết cũng tỏ ra đắc dụng. Tôi cũng phòng trước và ghi lại sẵn vài công thức Xô-viết: làm thân với những bà già hay ngồi trước cửa nhà, hay với tài xế taxi, họ là mạng lưới thông tin hữu hiệu. In truyền đơn (mọi người đều đi mua máy quét và máy in), tham gia một câu lạc bộ – chẳng hạn một hội thể thao hay cờ vua – để mở rộng diện giao lưu. Facebook và Twitter cũng còn chưa bị chặn. Và tin nhắn đi động cũng là một cách truyền thông tin tốt.


__________


Svetlana Alexievich (1948), nhà văn Bạch Nga, hiện sống tại Minsk, nổi tiếng từ tác phẩm Chiến tranh không mang bộ mặt đàn bà (1983). Tác phẩm gần đây nhất: Thời Second-hand (2013). Tháng 10 năm ngoái, bà được trao Giải Hòa bình của Hiệp hội Sách Đức.


Nguồn: FAZ 15-4-2014


Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra






[1] Stepan Bandera (1909-1959): Nhà chính trị dân tộc chủ nghĩa Ukraine, bị mật vụ Xô-viết (KGB) ám sát tại Đức. Đảng dân tộc chủ nghĩa Svoboda hiện nay tại Ukraine lấy Bandara làm điểm tựa tư tưởng.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 21, 2014 15:56

April 19, 2014

Nhận thức tháng Tư

Dạ Ngân


Tháng Tư đến rồi đó. Không phải từ một câu hát nào. Không phải sắp rợp trời hoa phượng mùa thi. Chỉ vì đó là thời điểm lịch sử, nhức nhối nhiều hơn là sướng vui. Ngày càng xa, thời gian ở đây không làm lành lòng người, như đất đã lành.


39 năm trước, số đông nói thời điểm ấy chói sáng, nổ trời, thế giới ngả nghiêng. Dần dần những người từng hoan ca ấy hạ nhiệt. Bắt đầu có hoài nghi. Cũng bắt đầu xuất hiện những tiếng nói khẽ khàng của phe “giải phóng”: gọi là kết thúc chứ đừng gọi là chiến thắng; ừ thì ai thống nhất cũng đáng khen đi, không thì dân miền Bắc chắc phải ăn cỏ như dân Bắc Triều Tiên rồi!


Giá như hậu chiến được xử lý minh bạch, khoan hòa, thấu đáo hơn. Có lúc những người của phe buông súng đã ao ước như vậy. Giờ thì không ít những người của phe thắng cuộc cũng nghĩ như vậy. Sự nghĩ gặp nhau, sao bao nhiêu năm bị khoét sâu thêm hào hố cách ngăn. Nhưng không vì vậy mà người ViệtNamcủa hai bên dễ nhìn vào mắt nhau. Hình như càng lúc càng khó có ngôn ngữ chung mặc dù kiều hối càng ngày càng dồn dập hơn.


Chỉ mấy ngày nữa thôi thì lại trống giong cờ mở. Cả một trời đỏ lòe băng rôn, áp phích và mọi thứ. Năm nào cũng hừng hực như vậy. Để làm gì? Trong khi rất đông người của phe thắng cuộc đã thấy thấm đau. Trong khi nhiều người muốn có cách diễn giải khác. Trong khi nhiều người muốn một lễ tưởng niệm chung. Trong khi đa số đã hiểu “có triệu người vui thì cũng có triệu người buồn”.


Thực sự không ai có thể xem mãi một vở diễn trong khi chiến tranh chưa bao giờ là một vở cả. Có thể có cách tránh đi, hoặc nhẹ hơn, hoặc ngắn hơn, kết thúc sớm hơn. Nhưng cuộc chiến thứ hai quá dài, núi xương sông máu. Nó dài đến mức cả hai bên đều dễ đồng lòng với Trịnh Công Sơn. Vì vậy mà đề cập mãi về chuyện chiến tranh là khơi lại vết thương. Và hãy nói nó được kết thúc chứ đừng nói rằng chúng ta đã chiến thắng.


Trịnh Công Sơn đã được những người kháng chiến lén nghe nếu sở hữu một chiếc radio. Sau “Bảy Lăm” thì miền Bắc tràn ngập ca khúc nhạc Trịnh dù còn phải nghe kín, nghe khẽ. Thời nhạc Trịnh đã được cất lên bởi giọng rền của Khánh Ly thì đúng là âm nhạc đã thiêng liêng hơn ở sứ mệnh an ủi, nâng đỡ.


Thích Trịnh Công Sơn và Khánh Ly là một chuyện. Nhưng có lẽ ấy là thường dân và trí thức, hai đối tượng đều nhiều tổn thương vì cách hành xử của những người nắm quyền sinh sát họ. Duy nhất nhạc Trịnh được xuất hiện ở những ngày lễ đỏ hoặc sinh hoạt của đoàn thể đỏ, ấy là khi người ta cần “Nối vòng tay lớn”.


Rồi sẽ có lúc tất cả mọi người của phe thắng cuộc, từ người chí cao đến người sát đất muốn ngân nga, muốn cất lên những câu hát kinh kệ về cuộc chiến thứ hai đã xa. Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ một nước Việt buồn…


Vâng, phải nhìn nhận ấy là cuộc nội chiến thì người ta sẽ có cách xử sự khác và nếu đã được vậy, thì chắc hiện tình quốc gia giờ cũng đã khác.


© 2014 Dạ Ngân & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 19, 2014 16:29

April 17, 2014

Bí ẩn tâm hồn Nga (Bài 3) – Tập hoài nghi

Roland Oliphant


Phạm Nguyên Trường dịch


Bài liên quan:


Bài 1:   Dmitry Babich – Các chuyên gia phá hoại


Bài 2: Elena Rubinova – Sự tiến hóa của con người Xô-viết


Khái niệm “Tâm hồn Nga” không nói lên điều gì.


Một cuộc khảo sát toàn diện di sản văn chương vĩ đại của nước Nga không đưa ra được một lời giải thích rõ ràng cái gọi là tâm hồn bí ẩn của Nga là gì và nó khác với tâm hồn của các dân tộc khác như thế nào.


Có nhiều lí do để nghi ngờ những ai sử dụng cụm từ “tâm hồn Nga”, và đấy không chỉ là vì nó thường xuyên bị những kẻ bán bưu ảnh, sách du lịch và những chuyến du hành trọn gói xuôi sông Volga đem ra quảng cáo. Thuật ngữ nào cũng có thể bị sử dụng không đúng chỗ, bị lạm dụng, trở thành câu nói cửa miệng, cho đến khi đánh mất ý nghĩa ban đầu. Và mời người ta tìm hiểu tâm hồn Nga trong khách sạn sang trọng 250 USD một đêm với bữa ăn sáng, hay quan sát nó qua những bộ ảnh đen trắng ra vẻ nghệ thuật chụp nhà thờ mái vòm củ hành, Đại lộ Nevsky hoặc nhà gỗ của nông dân không bóp méo hay làm giảm những lời khẳng định về tâm hồn Nga. Nó chỉ làm người ta mệt mỏi khi nghe nói về nó mà thôi.


Nhưng khảo sát một cách kĩ lưỡng ta sẽ nhanh chóng phát hiện ra rằng đây là một thuật ngữ rỗng tuếch ngay từ đầu. Có thể nó đã được những con người tuyệt vời nhất (mà đấy là những ai! Những người tuyên truyền cho huyền thoại này là những cây đa cây đề của Thời đại Vàng son của nền văn chương Nga, như Alexander Pushkin, Leo Tolstoy và Fyodor Dostoevsky) đưa vào sử dụng với những ý định tốt đẹp nhất, nhưng sự thật là thuật ngữ “tâm hồn Nga” luôn luôn là chìa khóa để tìm hiểu một cái gì đó mà những người sáng tạo ra nó không hiểu và cũng không có. Quan điểm lãng mạn của tác giả của nó về thế giới đã dẫn đến việc sử dụng một cách quá lãng mạn thuật ngữ này, dùng nó như một cái la bàn để tìm hiểu nước Nga ngày hôm nay, trong quá khứ hay trong thế kỷ tới, là việc làm vô ích vậy. Không có gì ngạc nhiên là nó luôn đi kèm với tính từ “bí ẩn” – không ai biết có ý nghĩa gì.


Những khi người ngoại quốc cảm thấy chán nản với thuật ngữ này, anh ta có thể muốn vứt hết mọi thứ, coi đó chỉ là trò bịa đặt của văn chương thế kỉ XIX. Tương tự như những trò bịa đặt của các nhà văn Nga khác – ví dụ như Biên bản của những Người Thông thái Do Thái (Protocols of the Elders of Zion) – thuật ngữ này đã làm méo mó quan niệm của thế giới về cả một dân tộc. Nhưng, khác với “Biên bản”, huyền thoại về tâm hồn Nga không có gì ác ý. Trên thực tế, đấy dường như là phản ứng trước sự khủng hoảng bản sắc dân tộc quá sâu sắc, cuộc khủng hoảng đã thấm đẫm trong tác phẩm của các nhà văn, nghệ sĩ và tư tưởng gia thời đó. Vì lí do đó mà khi khảo sát cái ý tưởng rõ ràng giả tạo này ta sẽ thấy rằng động cơ của nó, ít nhất trong một số ý nghĩa, là cao quý.


Mênh mông bát ngát


Vấn đề cốt yếu nhất của “tâm hồn Nga” – hay thực ra với bất kì một thứ gì được mệnh danh là đặc tính dân tộc – là gần như không thể nói có thể áp dụng nó cho người nào. Nước Nga rộng bao la, cả về địa lý, xã hội và dân tộc. Bên cạnh người Nga (dù họ có là ai), đây còn là quê hương của người Belarus và Ukraine, của người Finno-Ugric Mari, người Mordvin, người Chuvash và người Tatar – từng làm chủ vùng đất này trong nhiều thế kỷ – cũng như người Do Thái, người Digan, người Đức vùng Volga và rất nhiều sắc dân và ngôn ngữ ở vùng Bắc Kavkaz. Và đấy mới chỉ là phía Tây dãy Ural.


Vâng, tất cả họ đều là công dân Nga, và chúng ta đang nói về “tâm hồn Nga” (Russkaya dusha) – một tâm hồn được cho là có mục đích đoàn kết tất cả các sắc dân Nga. Nhưng xin hãy tách người Nga ra khỏi đám này. Và trong số những danh nhân văn hóa thế kỷ XIX mà cuộc chiến đấu của họ với vấn đề bản sắc dân tộc Nga đã dẫn tới khái niệm về tâm hồn bí ẩn của người Nga thì một phần tư máu trong huyết quản của Pushkin thuộc về châu Phi, một nửa Dostoevsky thuộc về Ba Lan, và tổ tiên của Mikhail Lermontov được coi là người Scotland. Nikolai Gogol là người Ukraine và họa sĩ nổi tiếng Isaac Levitan là người Lithuania gốc Do Thái. Nhưng điều đó không ngăn được họ phát biểu nhân danh “tính Nga chính cống”.


Alexander Pushkin có thể không phải là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “tâm hồn Nga”, nhưng ông là cha đẻ của văn chương Nga, ông là một thiên tài không thể sai và quan trọng nhất, ông đã không làm độc giả rối trí với tính từ đáng nguyền rủa: “bí ẩn”. Tatyana Larina, nhân vật nữ chính trong tác phẩm Onegin, là một trong những nhân vật văn học Nga đầu tiên có “tâm hồn Nga” và là một trong những hình mẫu rõ ràng nhất về những phẩm chất của tâm hồn đó. Tatyana (“một tâm hồn cực kì Nga, mà chính mình không biết như thế nào và tại sao”), có thể ít nói tiếng Nga, nhưng đủ hồn nhiên để trải lòng với người đàn ông mà cô yêu, bất chấp những quy ước của xã hội thượng lưu, và đủ trung thành để từ chối bỏ chồng, ngay cả khi tình yêu đích thực của mình đòi hỏi như thế.


Tâm hồn Nga ở đây cởi mở đến hồn nhiên, cực kì trung thành và không chấp nhận giả dối. Nó vượt qua sự giả tạo bằng cách để Tatyana phụ thuộc đơn ngữ vào tiếng Pháp, và thất bại trước giả dối qua những quy ước hôn nhân mà cô vi phạm. Tâm hồn cô cũng “rộng mở” (tính từ chỉ đứng thứ hai sau “bí ẩn”, thường gắn với tâm hồn Nga), một tính từ thường được cố đưa ra để phần nào đề cao không gian mênh mông của nước Nga, nhưng trong thực tế nó liên quan đến một kiểu hào phóng vô độ, khiến người Nga vung tay “chơi đẹp”, nhất là khi họ uống rượu. Nhưng việc sẵn sàng trả tiền cho tất cả mọi người, niềm vui khi mời cả làng ăn cỗ lại trái ngược hẳn với sự thiếu cần cù trong lao động và quá kém cỏi trong việc đánh giá giá trị vật chất. “Chúng ta là những người lười biếng và không ham học hỏi”, Pushkin viết như thế trong lúc chán nản.


Có lẽ đó là lý do vì sao người Nga thích nghĩ rằng toàn bộ bọn đầu sỏ chính trị đều là Do Thái, trong khi người Nga thì trung thành và cởi mở, không chấp nhận lừa dối, vị tha và rộng lượng, nhưng đồng thời lại lười biếng và không quan tâm đến thế giới xung quanh. Đấy chính là cốt lõi, huyền thoại về tâm hồn Nga “bí ẩn” và “rộng mở” được thêu dệt xung quanh cái trục này. Các chủ đề khác cũng lớn dần cùng với thời gian. Năm 1880 trong bài phát biểu tại lễ khánh thành tượng đài Pushkin ở Moscow, Dostoevsky nâng ly chúc một loại khổ dâm: Tatyana không chịu ngã vào vòng tay Onegin “như một người phụ nữ Nga”, vì “một tâm hồn Nga đích thực quyết định như sau: buông tôi ra, buông ra, hãy để tôi là người bất hạnh.” Còn nhà văn Liên Xô Vasily Grossman (gốc Do Thái) gọi hiện tượng tương tự là “tinh thần nô lệ”, và nhà triết học thế kỷ XIX, Nikolai Berdyaev phàn nàn rằng nó là “sự thụ động của đàn bà.” “Nga là đất nước đầy những mâu thuẫn, đầy những xung đột”, Berdyaev viết năm 1915.


Và tiếng lành đồn xa


Có những định nghĩa khác, nhưng hầu hết đều là vật trang trí trên cái lõi này và không định nghĩa nào được sử dụng nhiều. Nước Nga có khá nhiều người khéo léo, biết né tránh, tư lợi và đầy tham vọng (xin dẫn ra đây: tờ The Moscow Times ngày 18 tháng 6 đăng bài “Tầng lớp người Nga ham việc đang gia tăng”), cũng như những người mạnh mẽ, nam tính và áp đảo. Tất cả những người mang hộ chiếu Nga, nói tiếng Nga – họ không chỉ là các công dân Nga (Rossiysky) mà còn là người Nga (Russky) nữa. Có nghĩa, hoặc là không có linh hồn nào như thế, hoặc nó không là riêng của người Nga, hoặc không phải tất cả người Nga đều có tâm hồn như thế.


Như vậy, câu hỏi quan trọng không phải là liệu có tồn tại cái cốt lõi của tính cách Nga này hay không – thực ra là không – mà là vì sao những lí thuyết hão huyền đó lại được người ta, trong đó có những bộ óc vĩ đại, tuyên truyền một cách nhiệt tình như thế và trong thời gian dài như thế.


Có một cách giải thích phù hợp. Tatyana và Yevgeny Onegin là Adam và Eve – ông tổ, bà tổ của những nhân vật văn học, phát triển rầm rộ cả một thế kỷ trong khi các nghệ sĩ và các nhà tư tưởng Nga nỗ lực xác định tính cách Nga thường trái ngược với hầu hết mọi thứ khác của họ. Vì vậy mà có sự ám ảnh với cái xa lạ – tâm hồn Nga cởi mở của cô Tatyana tuy mơ ngủ nhưng vẫn sống động mặc dù được giáo dục theo lối Pháp, nó vượt qua và thất bại nơi những qui ước xã hội giả tạo, nhập khẩu từ nước ngoài – và cuộc tìm kiếm vô vọng một liên đới gắn kết tất cả các thành tố của một quốc gia bị chia rẽ đến cùng cực. Vì vậy mà trong Chiến tranh và Hòa bình của Tolstoy, Natasha Rostova, một phụ nữ thượng lưu ở St Petersburg và một trong những hậu duệ văn học của Tatyana, nhận thấy trong mình một số kiến ​​thức bẩm sinh “thấm đẫm không khí Nga” để biết nhảy theo một điệu nhạc của nông dân “Nga” mà cô chưa nghe bao giờ.


Để hiểu được việc này có bao nhiêu phần hoàn toàn mang tính văn chương và các văn nhân thời đó hiểu nó như thế nào, cần phải đọc bài diễn văn nổi tiếng của Dostoevsky năm 1880, tức là bài diễn văn đã biến tác phẩm này thành “thiên tài.” Pushkin, ông nói với đám đông, đã xuất hiện “đúng vào lúc chúng ta bắt đầu tự ý thức về chính mình”, ông lập tức thể hiện được “một tư tưởng sâu sắc và hoàn toàn Nga” và đã chỉ ra số phận mang tính cứu chuộc của nước Nga và nhân dân Nga”, một dân tộc mà “trong tâm hồn mình có tình huynh đệ đối với tất cả những người anh em của chúng ta, và đằng sau nó, có thể là, tiếng nói quyết định trong việc tạo dựng sự hài hòa vĩ đại cho tất cả mọi người, tạo dựng sự hiệp thông mang tình huynh đệ của tất cả các dân tộc phù hợp với luật pháp của Kinh Phúc âm của Chúa Kitô của chúng ta.” Tự nó, lời tuyên bố ấy là một nỗ lực nhằm tìm cho ra mối liên kết thần bí giữa những người thân Slav và những người thân phương Tây, theo cách mà Tolstoy đã cố gắng đặt sợi dây liên lạc giữa những nhà quí tộc như Natasha với những người nông dân.


Tất cả đều rất đẹp, rất lãng mạn và thậm chí là tạo cho người ta cảm hứng nữa. Cuộc tìm kiếm nước Nga kéo dài cả thế kỷ – trong đó tiểu thuyết đóng vai trò của chính đề, của tuyên ngôn và phòng thí nghiệm tư tưởng – đã tạo được một số cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất từng được viết ra, và người ta có quyền tự hào. Nhưng tất cả những điều mà người ta tìm kiếm đều là giả tạo. Thí dụ như Konstantin Levin – ngài địa chủ đầy đức hạnh trong tác phẩm Anna Karenina, mà có lẽ Tolstoy đã lồng vào nhân vật này phần lớn tính cách của chính mình – đã nhận thấy rằng hầu như không thể vượt qua hố sâu ngăn cách giữa tầng lớp quý tộc và nông dân. Dù có nghiên cứu, bắt chước bao lâu và thần tượng người nông dân đến mức nào, ông vẫn là người ngoài cuộc. Và nông dân là khoảng 80% dân số. Có lẽ nông dân là người bảo vệ những cách sống tinh khiết hơn và thánh thiện hơn của nước Nga, nhưng cả Tolstoy lẫn những người bạn văn vĩ đại của ông đều không tiếp cận hoặc không hiểu được.


Như vậy là, các dự án nhằm tìm cho ra hạt nhân của tâm hồn gắn bó nhân dân Nga thành một khối đã bị thất bại ngay từ đầu, và cái lí thuyết mà những con người khổng lồ của nền văn học Nga dựa vào là đáng ngờ. Nhưng có một lý do nữa khiến người ngoại quốc tò mò thích thú với những câu chuyện về “tâm hồn Nga”. Vấn đề là chẳng có người Nga nào tin vào nó. Trong một cuộc khảo sát không hẳn theo tiêu chí khoa học do website Russia Profile thực hiện, một luật sư nổi tiếng người Moscow nói ngay rằng “không làm gì có một tâm hồn như vậy”, và sau đó ông này đã thảo luận rất tỉ mỉ về sự cởi mở, lòng trung thành, sự lười biếng và thiếu óc tò mò. Khi được hỏi liệu như vậy có nghĩa là Pushkin sai, ông nói, “Pushkin không thể sai được. Ông ấy là một thiên tài!”


Một nhà quản lý cấp cao của một ngân hàng ở Moskva, người đã nghiền ngẫm câu hỏi này trong một thời gian, tuyên bố rằng tâm hồn Nga chỉ là cách mà thế kỷ XIX giải thích những sự khác biệt giữa Nga và phương Tây lúc đó, và đúc kết lại thì chỉ là một bảng liệt kê những điều trái ngược nhau mà thôi. Nhưng, ông đồng ý rằng sự “rộng mở” của “tâm hồn Nga” thể hiện rất rõ khi họ nhậu nhẹt – và tâm hồn đó – kèm theo một lượng rượu khổng lồ – là thành phần vô cùng quí giá trong việc xây dựng đội ngũ (team building) của công ty. Một kế toán viên cho rằng, tâm hồn Nga là lòng yêu nước và tinh thần cộng đồng, và đã gần như đã mất hết – “mười năm nữa là nó vĩnh viễn biến mất”. Một nghệ sĩ piano tuyên bố bà chỉ sử dụng cụm từ này theo lối mỉa mai, và rất ít khi theo nghĩa tích cực. “Tâm hồn Nga ư? Tâm hồn Nga là khi bạn tôi đưa tiền cho chồng đi mua thực phẩm và phải ba ngày sau hắn mới về, nồng nặc mùi rượu, máu me bê bết và trên người chẳng còn mảnh vải che thân nào. Đó là tâm hồn Nga”, bà nói. Một người lái taxi thân thiện cho biết “tâm hồn Nga không chứa chấp hận thù”; ngưng một chút, ông nói thêm: “Nhưng con trai tôi bị thằng em họ ám sát. Tôi mà tìm được nó thì… Thằng đó không đáng sống.”


Vậy bây giờ ta có thể nói, thành tố thiết yếu của tâm hồn Nga là gì: người Nga là những người đầy mâu thuẫn và không thể lường trước. Nhưng khái quát hóa như thế thì có khác gì sử dụng tính từ “bí ẩn” khi nói về tâm hồn Nga.


________


Roland Oliphant sinh ra và lớn lên ở East Sussex, Anh. Năm 2002 tới Hungary, khởi sự một mối quan hệ lâu dài với Đông Âu. Năm 2006 nhận bằng M.A. in Philosophy tại đại học University of Edinburgh và sang Moskva dạy tiếng Anh và biên tập cho hãng RIA Novosti. Trở thành thành viên của Russia Profile tháng 8 năm 2008.


Nguồn:  “An Exercise in Disbelief“, Russia Profie 07/8/2010


Bản tiếng Việt © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 17, 2014 03:02

April 14, 2014

Mãnh long quá giang: NGO Trung Quốc

The Economist


Phan Trinh dịch


Đảng Cộng sản đang nới rộng tự do cho một ý tưởng cách mạng


Với các lãnh tụ Trung Quốc, lịch sử thường có tính nước đôi. Một danh ngôn đại ý nói rằng: giang sơn phân rã mãi ắt sẽ về một mối; giang sơn một mối mãi ắt rồi sẽ phân rã. Hôm nay, dưới quyền cai trị của Đảng Cộng sản, nỗi sợ phân rã đang thật nặng ký. Quyết không đi vào vết xe đổ của Liên Xô ngày trước, các lãnh tụ Đảng đang ra sức giữ cho Trung Quốc đoàn kết chặt chẽ.


Nhưng giang sơn giờ đây không còn là một thiên đường xã hội chủ nghĩa, nơi Đảng ra lệnh và muôn dân răm rắp tuân theo nữa. Giai cấp trung lưu với khoảng 300 triệu người đã xuất hiện – và họ biết rõ họ muốn Trung Quốc của họ trở nên như thế nào. Cùng lúc đó, Đảng cũng đã rút lui, không can thiệp sâu vào mọi ngõ ngách cuộc sống đời thường nữa, cũng chẳng giả vờ chăm sóc cho thần dân từ thuở nằm nôi đến lúc mồ yên mả đẹp. Trong bối cảnh đó, nhiều thành viên thất thế và nghèo nàn của xã hội đang phải chịu khổ.


Và thế là NGO xuất hiện. Một số lượng khổng lồ các tổ chức phi chính phủ (NGO) đang tìm cách đáp ứng nhu cầu tham dự việc xã hội của giai cấp trung lưu, và đáp ứng các dịch vụ xã hội khác. Khoảng 500.000 NGO đã được đăng ký trong 25 năm qua, con số mà có người cho rằng sẽ tăng gấp đôi trong vài năm tới khi luật lệ đăng ký nới lỏng hơn. Thực ra, nhiều tổ chức trong đó là những hội đoàn nhà nước bán chính thức, như các đoàn thanh niên hoặc các doanh nghiệp mượn danh tư nhân (ví dụ các trường tư), nhưng những hội đoàn tư nhân thực thụ cũng đang phát triển mạnh. Bên cạnh đó, còn có khoảng 1.500.000 NGO hoạt động không đăng ký, bao gồm tất cả các hội đoàn khác, từ những nhóm tương trợ giúp đỡ cha mẹ trẻ tự kỷ, đến những hội bảo vệ quyền công nhân nhập cư, đến các nhóm từ thiện thôn xóm chăm sóc người già neo đơn. Trong số có cả một số hội đoàn mà Đảng Cộng sản e ngại là quá độc lập và có tính chống đối.


Nhiều hội đoàn tuy bất hợp pháp nhưng lại được chấp nhận và thậm chí khuyến khích hoạt động ở cấp độ địa phương. Điều hết sức đáng chú ý là giờ đây, chính quyền Trung Quốc đang muốn chính thức công nhận rất nhiều trong số: luật lệ cấp quốc gia về việc lập hội được cho là sẽ ra đời trong vài tháng nữa.


Nhưng, cũng như trước đây, điều này làm khó Đảng. Vì một bên thì vẫn còn các cán bộ Đảng lúc nào cũng tru tréo chống lại “diễn biến hòa bình” – một cụm từ trong tai người bình dân nghe rất bình thường, nhưng trong ngôn ngữ Đảng lại là con ngựa thành Troie chứa đầy ý tưởng tự do từ phương Tây, nhằm phá hoại và lật đổ chế độ. Nhưng cùng lúc, cũng có những quan chức thực dụng hơn tin rằng NGO sẽ có thể giúp Đảng xả xú báp những giận dữ xã hội và cung cấp các dịch vụ chăm sóc y tế, giáo dục cùng những dịch vụ khác mà Đảng khó có thể đáp ứng hiệu quả.


Công quả công dân


Kế hoạch của Đảng dường như là lách khỏi thế khó bằng cách cho phép NGO hoạt động, nhưng với sợi dây buộc chặt, giữ cho các hội đoàn ở mức nhỏ và chỉ có tính địa phương. Đến nay, kế hoạch này là có hiệu quả. Hầu hết các NGO, ngay cả những hội đoàn tôn giáo, không phải đâu cũng đầy những thành phần cách mạng chống Đảng, và chính quyền Trung Quốc cũng rất khéo léo để tạo cuộc cộng sinh: cứ nhìn vào thành công của các doanh nhân trong nước là rõ. Và mặc dù có một số hội đoàn tuy độc lập hơn (không kể những hội được phương Tây hỗ trợ) và còn giữ khoảng cách với chính quyền, Trung Quốc vẫn có lợi khi hợp tác với họ.


Đối với tầng lớp quần chúng thiệt thòi nhất tại Trung Quốc hiện nay – người nghèo, người già, người bị loại trừ – hẳn chính quyền còn phải đi xa hơn nhiều. Biết rằng quần chúng tin cậy các NGO hơn là tin cậy Đảng, nhưng để hoạt động hiệu quả, NGO cần các luật lệ liên quan đến họ được quy định chi tiết hơn, được thượng tôn và được luật pháp ràng buộc, thi hành. Những biện pháp nhất thời – như lệ thuộc vào thiện chí của những cá nhân làm việc trong các NGO – sẽ không tồn tại lâu dài.


Bên cạnh đó, hiện còn quá nhiều lĩnh vực mà chính quyền vẫn còn mơ hồ, cấm đoán và cần điều chỉnh.


Trước hết, chính quyền Trung Quốc nên nới lỏng thể loại NGO được phép đăng ký. Hiện nay việc đăng ký chỉ dành cho các hội đoàn cung cấp dịch vụ xã hội. Rất ít những nhóm phản biện được phép hoạt động. Thế nhưng các nghiệp đoàn công nhân và tổ chức tôn giáo, thông qua các hoạt động – thường là trái phép – hỗ trợ người thiệt thòi trong xã hội cũng đã góp phần mang lại một xã hội ổn định, hài hòa mà Đảng rất muốn có.


Một vấn đề khác là ngân sách. Đảng hiện không cho phép gây quỹ độc lập, nên rất khó cho NGO, ngay cả khi đã đăng ký, trong việc gây quỹ mà không được chính thức giúp đỡ. Chính quyền nên để cho họ tự do làm công việc gây quỹ này.


Cùng lúc, Đảng cũng nên làm cho việc phân bổ ngân sách NGO trở nên minh bạch hơn. Đã có quá nhiều tiền được trao cho các quan chức có quan hệ tay trong và những NGO trá hình do quan chức điều hành, thay vì vào tay các NGO thực sự hoạt động và biết họ cần gì.


Tất cả những biện pháp vừa kể sẽ mang lại lợi ích. Nhưng, những cải cách thiết thực nhất để hỗ trợ xã hội công dân đang phôi thai ở Trung Quốc cũng chính là những cải cách mà cả Trung Quốc đang cần: đó là một nền tư pháp mạnh, một quốc hội biết phản ứng nhanh nhạy hơn, và một nền báo chí độc lập hơn. Những điều này sẽ mang lại tính minh bạch và lòng tin cậy.


Những lời vừa nói, hẳn nhiên, sẽ vẫn làm các thành phần bảo thủ trong chế độ giật mình sợ hãi. Nhưng, rõ là hệ thống cũ đã không thể đảm đương tình hình mới. Rõ là nếu chế độ muốn giữ cho Trung Quốc đoàn kết chặt chẽ, thì một xã hội công dân sinh động sẽ là cầu nối đến tương lai, trao quyền cho những cá nhân và các định chế để khi tiếng nứt gẫy phân rã nổ ra, và chắc chắn sẽ nổ ra, thì lịch sử nước đôi của Trung Quốc sẽ không đến nỗi cứ phải xàng xê giữa hai bờ tụ-tán.



Nguồn: The Economist, “Enter the Chinese NGO” ngày 12/4/2014


(Cũng trong số báo ra ngày 12/4/2014, The Economist có một bài chi tiết hơn về sự phát triển của xã hội công dân tại Trung Quốc. Xem “Beneath the Glacier”.)


Bản tiếng Việt © 2014 Phan Trinh & pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 14, 2014 04:54

April 12, 2014

Bệnh tự hào dân tộc của người Nga

Natalja Kljutcharjova


Phạm Thị Hoài dịch


Tôi là nhà văn, và các liên tưởng tôi thường dính líu tới văn học. Sau các sự kiện ở Krym, cuối cùng tôi đã hiểu ra rằng dân nước tôi và vị Tổng thống do “toàn dân” bầu nên của đất nước này khiến tôi liên tưởng đến ai.


Họ giống các nhân vật của Dostoevsky, ông gọi họ là “những kẻ ở xó hầm”. Đó là những con người sống rất lâu, thường là suốt đời, trong trạng thái bị hạ nhục, khiến tâm lí họ hoàn toàn bị méo mó. Cả cuộc đời họ, toàn bộ những ước mơ và nguyện vọng của họ chỉ rút gọn vào một mục tiêu: trả thù, rửa nhục. Nỗi khao khát trả thù bệnh hoạn ấy phần lớn không nhằm cụ thể vào những kẻ nào đó đã làm nhục họ, mà chĩa vào toàn thế giới. Dostoevsky đã miêu tả nhiều giai đoạn phát triển của căn bệnh mà giới tâm lí học hiện đại chắc sẽ gọi là một “chấn thương bỏ ngỏ” này. Nó đặc biệt ăn sâu ở những người không bao giờ ra khỏi trạng thái bị hạ nhục.


Ở Nga ngày nay cũng hệt như ở thời Dostoevsky, cả cuộc đời người ta thường là sự hạ nhục: từ khi sinh ra trong một bệnh viện bình dân (một chi nhánh thực thụ của địa ngục) đến lúc say xỉn ở góc đường mà chết. Những con người sống một cuộc đời như thế thường hình thành một lòng tự hào bệnh hoạn. Để phục hồi sự cân bằng nội tâm vốn liên tục bị những hoàn cảnh ê chề bên ngoài tàn phá, muốn sống còn thì họ buộc phải có một điều gì đó để tự hào.


Cơ sở để tự hào có thể hoàn toàn ngớ ngẩn và viển vông, nhiều khi đơn giản là bịa đặt và hầu như bao giờ cũng phi lí, khiến người có tư duy bình thường, lành mạnh phải bật cười hoặc nhún vai cho qua. Nhưng những kẻ bị hạ nhục kinh niên thì bám chặt lấy những ảo ảnh ấy, đầy đức tin, cuồng tín, nhiệt thành và trong thâm tâm càng bất mãn thì càng hăng say phụng sự chúng.


Từ góc nhìn này, tôi thấy tất cả những gì đang được bộ máy tuyên truyền ở Nga mệnh danh là “làn sóng yêu nước”, “tinh thần yêu nước” v.v. là biểu hiện của một căn bệnh tâm hồn trầm trọng mà không ai buồn chạy chữa.


Bao giờ cũng vậy: hiện thực ngay trước mắt càng tồi tệ, đất nước càng ngập ngụa những vấn đề không được giải quyết thì những tiếng “Hura” trong các cuộc biểu tình càng to, dân chúng càng cuồng nhiệt hân hoan khi lãnh tụ xuất hiện trên khán đài trước Lăng Lenin.


Nếu không được “xả hơi” đều đặn, một kẻ bị hạ nhục sớm hay muộn sẽ nổ tung, khi đó hắn sẽ giết một bà già và làm một cuộc cách mạng, như nhân vật Raskolnikov của Dostoevsky trong tiểu thuyết Tội ác và Hình phạt. Chế độ Nga hoàng đã không thèm đếm xỉa đến tình cảnh đó và vì thế mà tiêu vong.


Nhà cầm quyền hiện nay biết chọn một đường lối an toàn để dân chúng quy phục, bằng cách đều đặn cấp cho dân chúng những dịp tốt để tự hào và hô “Hura” thật to. Với hệ thống truyền hình do nhà nước triệt để định hướng thì việc đó không khó khăn gì. Điều này khiến tôi nhớ đến những bệnh viện tâm thần ở Nga, tại đó bệnh nhân không được điều trị, mà được bình trị bằng uống thuốc an thần và diệt mọi khả năng nhận thức.


Tất nhiên người dân Nga không nên tự hào về bản thân mình như những cá nhân độc đáo (vì các cá nhân thì khó chăn dắt hơn một bầy đàn), mà tự hào về mình như một bộ phận của cộng đồng, họ thuộc về cộng đồng không nhờ những cống hiến nào đó mà chỉ nhờ huyết thống. Lòng “tự hào dân tộc” thật đắc dụng cho việc này.


Nhưng cứ nghe những tiếng như “lòng yêu nước” và “ý niệm dân tộc” là trong tâm trí tôi hiện lên cảnh sau đây: Tôi còn nhớ một người đàn ông đầu cạo trọc, xăm trổ đầy mình, bẩn thỉu, tuyệt đối méo mó và bệ rạc, chân vòng kiềng, lảo đảo giữa một thành phố tỉnh lẻ buồn thiu. Ông ta mặc một chiếc áo phông mới tinh, có in dòng chữ kiêu hãnh: “Tôi là người Nga!”


Người ta tự hào, chẳng hạn về Thế vận hội Olympic hoành tráng và nhắm mắt trước thực tế là cái sự kiện rùm beng đó đã ngốn một khoản khổng lồ trong ngân sách quốc gia (một phần lớn vì tệ quan chức ăn cắp của công đã đạt tới những kích thước cực đại). Không lâu nữa chúng ta sẽ được ngấm mùi hậu quả của sự phung phí ngân sách khủng khiếp này. Nhưng phần lớn người Nga không nhìn ra tương quan giữa những hình ảnh rực rỡ từ Sochi và những đợt tăng giá, những khoản nợ công và thâm hụt ngân sách sắp tới.


Họ lại ru mình một lúc lâu trong giấc mơ ngọt ngào đẹp đẽ về một “cường quốc”, trong đó đời sống mỗi ngày một “vui tươi và khấm khá”, như Stalin từng nói. Họ quên mất rằng cái gọi là cường quốc ấy không có tiền cho những nhu cầu thiết yếu nhất của người dân. Rằng trường học thì cũ nát, đổ sập và con cái họ sẽ vùi xác ở đó. Rằng người già, cả đời lao động cho nhà nước để rồi phải đi ăn xin vì lương hưu không trả nổi tiền nhà. Có thể kể vô tận những ví dụ như vậy.


Hoặc họ tự hào về một điều mà lẽ ra người ta nên hoảng sợ, chẳng hạn về vụ sáp nhập Krym, khiến nước Nga rơi vào vị trí không mấy hay ho là bị cô lập trên trường quốc tế và dấn sâu vào một cuộc chiến với lân bang… Một chân dung thế lực thù địch, thật dễ dàng và tiện lợi để trút mọi cảm xúc của một dân tộc bị hạ nhục vào đó, như trút xuống cống nước thải.


Hình ảnh đại diện cho thế lực thù địch Chechnya, một kẻ khủng bố đeo bom tự sát, đã quá nhàm chán, cả những người mà truyền hình nói gì đều tin hết cũng không còn tin vào đó nữa. Sau những vụ khủng bố mới đây trong ga tàu điện ngầm ở Moskva, thậm chí cả những người về hưu và các bà nội trợ cũng bảo nhau rằng Chechnya chẳng liên quan gì hết, đó chỉ là trò mở màn cho chiến dịch tranh cử mà thôi.


Một hình ảnh khác của thế lực thù địch, kẻ tranh đấu cho tự do, tham gia các cuộc tuần hành của những phần tử phẫn nộ và mang cách mạng ra đe đất nước, cũng đã hết thời: người ta lấy đó làm ngáo ộp để dọa dân chúng và nhân tiện đả thông luôn, rằng chỉ có Putin mới cứu nổi đất nước này khỏi nguy cơ hỗn loạn. Và vị “cứu tinh” duy nhất ấy lại được nhất trí bầu thêm một nhiệm kì phi pháp nữa, nhiệm kì thứ ba. Bầu xong thì những phần tử phẫn nộ bị vứt luôn, như vứt những quân bài đã hạ, biểu tình bị dẹp, người biểu tình bị tống vào nhà tù, những cơ quan truyền thông độc lập cuối cùng còn sót lại bị đóng cửa.


Bây giờ chúng ta có một chân dung thế lực thù địch mới: những người anh em Ukraine và “bọn Mỹ xấu xa”, khui ra thật nhanh từ kho đạn dược của bộ máy tuyên truyền Xô-viết.


Vậy là những kẻ bị hạ nhục có việc để bận tâm: họ tự hào về đất nước (vì cuối cùng thì “sự công bằng của lịch sử đã được khôi phục”!) và giơ nắm đấm lên dọa thế lực thù địch nóng hổi vừa ra lò. Vậy là họ, những kẻ bị hạ nhục, không nguy hiểm. Trong một thời gian nhất định. Sau đó người ta sẽ dành cho họ một chân dung thế lực thù địch mới. Tất nhiên người ta sẽ lo sao để chiến tranh thực sự không xảy ra (nếu tình hình không đến nỗi mất kiểm soát). Vì chiến tranh, với hậu quả của nó là chết chóc và đau thương, tất yếu khiến dân chúng tỉnh ra và trở về với hiện thực. Nhưng chính quyền cần những cái đầu mụ mị, dễ lái về hướng cần lái hơn.


“Tự hào dân tộc” thật là tiện. Nó chỉ bất tiện ở một điểm: phải liên tục tăng liều lượng, nếu không thì nó hết tác dụng. Hiện tại, chính quyền Nga đã phải dùng đến những chất rất dễ tuột khỏi tầm kiểm soát. Như một kẻ nấu rượu đang tâm dụ cho dân uống, để rồi chính mình rơi dần vào vòng ma men và đánh mất khả năng tỉnh táo trước hiện thực.


Bất kì ai biết tư duy lành mạnh đều thấy không thể cứ như vậy mãi được. Nhưng ở Nga, những người còn có khả năng đánh giá đúng tình hình thật ít ỏi. Phải thắp đuốc lên đi tìm họ. Người thì đã bỏ nước mà đi, trước khi quá muộn. Người thì ngồi trong tù. Người thì đã khiếp nhược, rút về an phận nhà cửa ruộng vườn.


Cả trong hàng ngũ chính quyền lẫn trong dân chúng đều không có những người biết tư duy lành mạnh như vậy. Ở Nga, những nhân vật nêu trên của Dostoevsky cũng có mặt trong chính quyền, những kẻ bị đè nén và vì thế mà méo mó đến vô vọng do mặc cảm. Và khi một kẻ bị đè nén leo được lên đến đỉnh quyền lực thì điều gì sẽ xảy ra? Dostoevsky cũng đã viết rất nhiều về chuyện đó, chẳng hạn trong tiểu thuyết Làng và dân Stepanchikovo. Điều gì sẽ xảy ra? Không có gì là tốt đẹp. Kết quả là một bạo chúa cỡ nhỏ và một nhà độc tài hèn nhát.


________


Natalja Kljutcharjova (1981) sống ở ngoại ô Moskva, là tác giả của hai cuốn tiểu thuyết Nước Nga – Ga cuốiLàng dân ngu.


Nguồn: Welt, 09-4-2014


Bản tiếng Việt © 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 12, 2014 16:57

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.