Phạm Thị Hoài's Blog, page 15

August 7, 2014

Sự thật về sự thật rẻ tiền

Phạm Thị Hoài


1.


Đầu tiên là một bài đăng ngày 25/7/2014 trên Die Allgemeine Morgenpost Rundschau, một trong hàng triệu hay hàng chục triệu trang cá nhân ở Đức: “Phi công Ukraine thú nhận bắn rơi MH17“. Chủ nhân trang này ghi rõ: “Die Allgemeine Morgenpost Rundschau là một trang châm biếm. Tất cả những nội dung mà bạn đọc được ở đây đều hoàn toàn là hư cấu và đôi khi thậm chí là bịa trắng trợn. Trong trường hợp có bài này hay bài khác kéo theo nguy cơ nhầm với hiện thực thì xin đừng ghè đầu chúng tôi, mà hãy ghè đầu hiện thực.” Song khó mà có nguy cơ nhầm. Phương châm “Liêm chính và bán mình, phiến diện và độc lập, công bằng và cơ hội” ghi ngay trên đầu trang, cùng những cái tít kiểu “tin khó tin” như “Mỹ không thể trưng bày bằng chứng vì Colin Powell còn đi nghỉ“… báo hiệu hơi quá rõ rằng chúng tôi đang đùa, bạn chuẩn bị cười dần đi là vừa. Mẫu mực của những trang trào phúng như vậy, trang Củ hành của Mỹ, vẫn là đỉnh cao chưa ai vượt qua.


Nhưng khi ồ ạt đăng cái tin “phi công Ukraine thú nhận bắn rơi MH17″ ấy thì truyền thông Việt Nam – không chỉ những tờ lá cải mà cả hàng loạt cơ quan truyền thông chính thức, từ  Đài Tiếng nói Việt Nam đến báo Công an, thậm chí cả tờ Tuổi Trẻ – lại trưng ra một nguồn tin khác, được gọi là “tờ báo Đức” mang tên Wahrheit für Deutschland (Sự thật cho nước Đức). Đã chọn một cái tên như thế thì chủ nhân trang ấy dĩ nhiên không biết đùa, ông ta đăng uỵch cái “tin khó tin” kia lên như một sự thật sâu sắc. Rồi đến lượt những tờ báo Nga của Putin khuếch trương sự thật ấy. Truyền thông Việt Nam hồ hởi ăn theo. Cho đến tận bây giờ, trừ tờ Tuổi Trẻ đã lẳng lặng rút bài nhưng để lại dấu vết trên đường link, câu chuyện có phần củ chuối thay vì củ hành này vẫn hiện diện nguyên vẹn trên rất nhiều trang báo trong nước, như một sự thật. Một sự thật rẻ tiền.


2.


Một tờ báo khác, cũng mang tên Sự thật, tờ Комсомольская правда (Sự thật Komsomol), sáu năm trước đã thực hiện một đoạn phim phóng sự về một cựu chuyên gia Liên Xô ở Việt Nam, ông Yury Trushyekin, người cho biết rằng mình đã đích thân bắn rơi máy bay của viên phi công Mỹ John McCain ngày 26/10/1967, nay đang sống nghèo khổ và bị lãng quên. Tin này cũng được Hãng Thông tấn Nga RIA Novosti loan tải. Nhân vụ ông Phạm Quang Nghị mang “quà độc” sang Mỹ tặng ông Thượng Nghị sĩ John McCain, một bài viết trên trang Dân Làm Báo, được nhiều website tiếng Việt ở hải ngoại chia sẻ, lại dẫn tin này để đưa ra những kết luận rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam bị bẽ mặt vì cố tình giấu diếm việc Liên Xô Trung Quốc trực tiếp tham gia chiến tranh, nay bị chính các nước này nói thẳng toẹt ra sự thật đó; vậy là Đảng nói láo; Quân đội Nhân dân Việt Nam kém cỏi, phải nhờ đến ngoại bang Liên Xô Trung Quốc mới thắng, vì thế phải mang ơn mà dâng đất, dâng biển đảo cho ngoại bang.


Sự thật Komsomol tránh được số phận của tờ báo Đảng Sự thật (Правда), bắt đầu chuyển sang hướng lá cải từ thời hậu Xô-viết và trở thành tờ báo rẻ tiền kinh hoàng và nhiều thế lực nhất ở nước Nga dưới thời Putin, từ lâu do đồng chí Vladimir Sungorkin phụ trách, người vừa được vị Tổng thống này thưởng Huân chương Tổ quốc vì những đóng góp xuất sắc trong Chiến dịch sáp nhập Krym. Cá nhân tôi sẽ xấu hổ nếu phải dẫn tờ báo này ra làm nguồn tin. Báo chí rẻ tiền thường lòi đẳng cấp của mình ngay trong những tiểu tiết. Theo tờ báo ấy, ông cựu sĩ quan Xô-viết bắn rơi chiếc F-4 Con Ma. Nhưng máy bay của “tên Jchn Sney Macan” mà chúng ta rất biết lại là Chim Ưng A-4. Tấm huy chương “Đoàn kết chiến thắng giặc Mỹ” đề tên ông là có thật, nhưng hàng trăm cựu chuyên gia Liên Xô từng giúp Hà Nội trong chiến tranh cũng có, họ có thể bắn rơi Jchn Sney Macan hàng trăm lần. Tìm ông Yury Trushyekin trên mạng, tôi có được vỏn vẹn 59 kết quả, trong đó 90 % từ các trang tiếng Việt.


Vì sao một phóng sự cẩu thả trên một tờ báo lá cải, chiếc loa tuyên truyền khổng lồ của một hệ thống chính trị càng ngày càng xích lại gần quá khứ Xô-viết chuyên chế, lại được một tờ báo tiếng Việt ở hải ngoại đang phấn đấu chống một chế độ cũng chuyên chế, cũng đầy gắn bó với Liên Xô, nghiễm nhiên coi là sự thật? Chiến tranh thông tin trên thế giới ngày nay đang khiến cả những cơ quan truyền thông uy tín ở phương Tây có nguy cơ sa bẫy tuyên truyền, song dù thế nào tôi vẫn có đủ lí do để tin BBC hơn truyền thông Nga. Ở đâu các nhà báo dám đương đầu với quyền lực cũng gặp rắc rối, song ở Nga họ bị bỏ tù, đầu độc hay ám sát là chuyện bình thường. Vâng, ở Nga, cách đây vài ngày, blogger độc lập Timur Kuashev chỉ còn là một cái xác bị quẳng trong rừng. Mới đầu tháng Sáu vừa rồi, hãng truyền hình Nga LifeNews, rất thân thiết với Putin, đăng tin quân Kiev ném bom phốt-pho xuống làng Semenovka, song đoạn video làm bằng chứng lại nguyên là của CNN trong Chiến tranh Iraq từ năm 2004, như trang stopfake.org của một nhóm nhà báo Ukraine, mới ra đời từ tháng Ba năm nay, chỉ rõ. Cảnh một vụ tai nạn đường sắt ở Quebec City, Canada, thì bị truyền thông Nga giả mạo thành hình ảnh thành phố Sloviansk của quân li khai chìm trong khói lửa. RIA Novosti thì lấy ngay bức hình một người Hồi giáo bị lính Nga hành hình trong chiến tranh Chechnya để biến hóa thành một trong 300 nạn nhân bị “mổ bụng moi gan” tại Ukraine những ngày này… Vụ “phi công Ukraine thú nhận bắn rơi MH17″ kể trên dĩ nhiên cũng nằm trong bộ sưu tập của stopfake.


Trở lại với bài viết trên trang Dân Làm Báo: Ngay cả khi cái phóng sự rẻ tiền nói trên có cho biết sự thật thì tôi vẫn không hiểu, từ một ông Liên Xô bắn rơi máy bay Mỹ làm cách nào có thể suy ra chuyện Đảng Cộng sản Việt Nam “dâng đất, dâng biển cho ngoại bang”. Liên Xô hình như không phải là Trung Quốc. Last but not least, hàng năm cứ đến ngày 5/8, ngày truyền thống đánh thắng trận đầu của Hải quân và Bộ đội Phòng không Việt Nam, Đại sứ quán Việt Nam tại CHLB Nga đều tổ chức gặp mặt những cựu chuyên gia Liên Xô từng chung chiến hào chống Mỹ, trong tinh thầnNgắm những cụ ông cụ bà cựu công dân Liên Xô, ngực nặng huân huy chương ngồi nghe kể chuyện ngày xưa đánh giặc ở một xứ sở lạ hoắc, thưởng thức văn nghệ cây nhà lá vườn từ một sinh viên Việt Nam để kiểu tóc kết hợp giữa Kim Chính Ân và Kim Chính Nhật, ngoan ngoãn xếp hàng ăn buffet lèo tèo vài món cơm rang nem rán, rồi đứng nghiêm chụp hình lưu niệm để sang năm lại như thế, tôi chỉ thấy một cảnh thác ngộ thời đại, nửa gợi thương cảm, nửa gây cười. Không có gì chứng tỏ phía Việt Nam muốn giấu diếm hay thậm chí chối bỏ công lao của các bạn Xô-viết.


3.


Nếu tránh tất cả những gì có hai chữ sự thật, có lẽ chẳng còn gì nhiều trên báo chí tiếng Việt bây giờ để đọc, từ báo chí quốc doanh đến báo chí ngoài luồng, từ báo chí kế hoạch đến báo chí tự phát, từ trong nước đến hải ngoại. Thông tin sự thật về một cái gì đó chưa đủ, truyền thông tiếng Việt còn phải bổ sung rằng đó là những sự thật đáng buồn, sự thật trần trụi, sự thật bất ngờ, sự thật kinh hoàng; liên tục đặt câu hỏi đâu là sự thật rồi bận rộn hé lộ, hé mở bật mí sự thật, vạch trần lột trần sự thật cũng như thường xuyên giật mình, sốc, choáng với sự thật… Chỉ còn thiếu những sự thật về sự thật.


Sự thật lũy thừa bao nhiêu bậc thì hết rẻ tiền, nếu cả hai phía, báo chí của chính quyền và báo chí tự do, đều thản nhiên dùng bừa những nguồn tin đáng ngờ, chưa nói đến dùng cho những mục đích agitprop? Tôi thật ghen tị với các bạn Ukraine. Thay vì lập ra hàng trăm trang mạng để rút cục cũng chỉ đăng đi đăng lại bài vở của lẫn nhau, không khác nhiều lắm 700 tờ báo trong nước cùng chung một tổng biên tập, sao chúng ta, các nhà báo tự do, không có nổi một trang hữu ích như stopfake.org?


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 07, 2014 15:20

August 3, 2014

Báo cáo vệ sinh của thành phố Hà Nội

Phạm Thị Hoài


Thời “Ngoại giao Tháp Rùa“, như trong chuyến thăm châu Âu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đầu năm ngoái mà tôi đã có dịp miêu tả, tuy nhạt nhẽo rẻ tiền nhưng “không chết thằng Tây nào”, đã kết thúc và Việt Nam đang bước vào kỉ nguyên mới với “Ngoại giao bắt sống giặc lái” mà ông Bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị vừa mở đầu trong chuyến thăm Hoa Kì chăng?


Cục Lễ tân Nhà nước đã chuyển định hướng khai thác, từ thủ công mĩ nghệ sang một vốn liếng vô tận khác: lịch sử dày đặc cả nỗi nhục mất nước lẫn chiến công giữ nước và thành tích xâm lược của người Việt chăng? Sang Pháp thì tặng ảnh chụp Tượng đài kỉ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ? Sang Thái tặng ảnh chụp Tượng đài kỉ niệm Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút? Sang Campuchia tặng một công trình nghiên cứu về công cuộc Nam tiến vĩ đại của dân tộc Việt Nam? Sang Nhật tặng bản sao bức ảnh nổi tiếng của cụ Võ An Ninh chụp đống sọ người chết đói năm Ất Dậu ở trại Giáp Bát? Sang Đức tặng tranh cổ động “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc”? Sang Vatican tặng chỉ dụ cấm đạo Tây dương của vua Minh Mạng? Sang Trung Quốc tặng cọc Bạch Đằng? Và một lần nữa Hoa Kì, hợp tác quân sự mở ra, có dịp thăm Học viện West Point, nơi có mộ tướng Westmoreland trong nghĩa trang quân đội nổi tiếng thì sẽ tặng bản chụp bản thảo viết tay bài báo của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 13/6/1968 – kí bút danh “Chiến sĩ” – nhan đề “(Đại) bại tướng Vét Mỡ Lợn đã cút về nước mẹ Hoa Kỳ“? So với bài báo này, lời lẽ trên tấm bia “Bắt sống giặc lái” còn có thể coi là rất nhã nhặn. Chiến tranh mà. Chiến tranh không nói lời lịch sự.


Song trước những bàn luận xôn xao, ông Phạm Quang Nghị đã trả lời phỏng vấn của báo Tiền phong, giải thích thêm, rất giản dị, về món quà đặc biệt đó: “Ngoài ra, trước khi sang Mỹ, tôi được biết, ngài John McCain từng gặp nhiều quan chức Việt và nhắn nhủ nhờ thành phố Hà Nội giữ gìn vệ sinh cho khu vực xung quanh tấm bia ở hồ Trúc Bạch. Và đó cũng là lý do tôi muốn tặng ông ấy tấm ảnh.”


Thưa nước Mỹ, thưa ngài Thượng Nghị sĩ John McCain trước đây là tên giặc lái Jchn Sney Macan bị chúng tôi bắt sống, Hà Nội xin báo cáo là theo nguyện vọng của ngài, tình hình vệ sinh ở khu vực xung quanh chỗ ngài giơ tay đầu hàng được chúng tôi ngày đêm đảm bảo. Ảnh chụp đây làm chứng.


Hình như nhà văn trào phúng Mỹ Mark Twain từng định kể câu chuyện này, song cuối cùng bỏ cuộc vì không dám tin rằng nó còn thuộc sở trường của mình.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 03, 2014 13:03

Báo cáo vệ sinh của thành phố Hà Nội

Phạm Thị Hoài


[image error]Thời “Ngoại giao Tháp Rùa“, như trong chuyến thăm châu Âu cá»§a Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đầu năm ngoái mà tôi đã có dịp miêu tả, tuy nhạt nhẽo rẻ tiền nhưng “không chết thằng Tây nào”, đã kết thúc và Việt Nam đang bước vào kỉ nguyên mới với “Ngoại giao bắt sống giặc lái” mà ông Bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị vừa mở đầu trong chuyến thăm Hoa Kì chăng?


Cục Lễ tân Nhà nước đã chuyển định hướng khai thác, từ thá»§ công mÄ© nghệ sang một vốn liếng vô tận khác: lịch sá»­ dày đặc cả nỗi nhục mất nước lẫn chiến công giữ nước và thành tích xâm lược cá»§a người Việt chăng? Sang Pháp thì tặng ảnh chụp Tượng đài kỉ niệm Chiến thắng Điện Biên Phá»§? Sang Thái tặng ảnh chụp Tượng đài kỉ niệm Chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút? Sang Campuchia tặng một công trình nghiên cứu về công cuộc Nam tiến vÄ© đại cá»§a dân tộc Việt Nam? [image error]Sang Nhật tặng bản sao bức ảnh nổi tiếng cá»§a cụ Võ An Ninh chụp đống sọ người chết đói năm Ất Dậu ở trại Giáp Bát? Sang Đức tặng tranh cổ động “Rồng Nam phun bạc, đánh đuổi Đức tặc”? Sang Vatican tặng chỉ dụ cấm đạo Tây dương cá»§a vua Minh Mạng? Sang Trung Quốc tặng cọc Bạch Đằng? Và một lần nữa Hoa Kì, hợp tác quân sá»± mở ra, có dịp thăm Học viện West Point, nÆ¡i có mộ tướng Westmoreland trong nghÄ©a trang quân đội nổi tiếng thì sẽ tặng bản chụp bản thảo viết tay bài báo cá»§a cố Chá»§ tịch Hồ Chí Minh ngày 13/6/1968 – kí bút danh “Chiến sÄ©” – nhan đề “(Đại) bại tướng Vét Mỡ Lợn đã cút về nước mẹ Hoa Kỳ“? So với bài báo này, lời lẽ trên tấm bia “Bắt sống giặc lái” còn có thể coi là rất nhã nhặn. Chiến tranh mà. Chiến tranh không nói lời lịch sá»±.


Song trước những bàn luận xôn xao, ông Phạm Quang Nghị đã trả lời phỏng vấn cá»§a báo Tiền phong, giải thích thêm, rất giản dị, về món quà đặc biệt đó: “Ngoài ra, trước khi sang Mỹ, tôi được biết, ngài John McCain từng gặp nhiều quan chức Việt và nhắn nhá»§ nhờ thành phố Hà Nội giữ gìn vệ sinh cho khu vá»±c xung quanh tấm bia ở hồ Trúc Bạch. Và đó cÅ©ng là lý do tôi muốn tặng ông ấy tấm ảnh.”


[image error]Thưa nước Mỹ, thưa ngài Thượng Nghị sĩ John McCain trước đây là tên giặc lái Jchn Sney Macan bị chúng tôi bắt sống, Hà Nội xin báo cáo là theo nguyện vọng của ngài, tình hình vệ sinh ở khu vực xung quanh chỗ ngài giơ tay đầu hàng được chúng tôi ngày đêm đảm bảo. Ảnh chụp đây làm chứng.


Hình như nhà văn trào phúng Mỹ Mark Twain từng định kể câu chuyện này, song cuối cùng bỏ cuộc vì không dám tin rằng nó còn thuộc sở trường của mình.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 03, 2014 13:03

July 28, 2014

Vì một tiền đồ dân tộc còn đứng trên hai chân

Phạm Thị Hoài


Theo báo cáo mới nhất của WHO, lượng tiêu thụ đồ uống có cồn ở Việt Nam thời điểm 2008- 2010 với 6,6 lít (độ cồn tuyệt đối) thuộc nhóm trung bình trên thế giới, thậm chí thấp hơn một chút so với mức trung bình trong khu vực (6,8 lít), kém xa Nga (15,1 lít) và hầu hết các nước châu Âu (10,0 – 12,4 lít). Tửu thần không nhất thiết kìm hãm sự phát triển của một quốc gia. Các nước uống ít nhất tập trung ở Ả-rập và châu Phi (dưới 5,0 lít), trong khi châu Âu vẫn tiếp tục truyền thống dẫn đầu thế giới. Hai nước thịnh vượng bậc nhất trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương uống khỏe gấp đôi Việt Nam, Hàn quốc: 12,3 lít; Úc: 12,2 lít.


Tửu lượng của một quốc gia cũng không nhất thiết tương quan với số tai nạn giao thông. Ả-rập Saudi gần như trong trắng với 0.2 lít, song có tỉ lệ thương vong trên đường không thua gì Việt Nam. Năm 2012, 70 triệu người Đức từ 15 tuổi với trung bình 11,8 lít gây gần 7.000 vụ thương vong, trong đó 3.600 người chết. Con số tương đương của Việt Nam là 67 triệu người, trung bình uống ít hơn gần một nửa, gây 40.000 vụ thương vong, trong đó gần 10.000 người chết; đó là chưa tính đến yếu tố tốc độ và số lượng xe cơ giới lưu thông tại Đức chắc chắn cao hơn và nhiều hơn tại Việt Nam. Gần 40 % tai nạn giao thông tại Việt Nam là do chất cồn, tỉ lệ đó tại Đức là 17%, tại Ả-rập Saudi là 0%.


Có lẽ vì thế mà một “chuyên gia trong ngành” còn trấn an rằng Việt Nam mới chỉ ở mức tương đương với các nước đạo Hồi. Đèn còn xanh lắm. Song xem xét kĩ hơn thì các con số cho thấy một bức tranh khác. Số người (từ 15 tuổi) cả đời không rượu bia tại Việt Nam là gần 50%, trong khi ở Đức vỏn vẹn 5,5 %, khiến lượng tiêu thụ thực tế chia đều cho mỗi người thực sự uống ở Việt Nam cao hơn hẳn, trung bình là 17,2 lít so với 14,7 lít tại Đức, tính gộp cả hai giới. Tính riêng nam giới thì đàn ông Đức uống trung bình 20,4 lít, con số ấy ở đàn ông Việt Nam là 27,4 lít, không ít hơn ở đàn ông Nga nhiều lắm (32,0 lít), đó là chưa tính yếu tố cơ thể ảnh hưởng đến tửu lượng: trọng lượng của đàn ông Việt thường chỉ bằng 2/3 đàn ông phương Tây. 97% lượng đồ uống có cồn ở Việt Nam là bia. Nếu tính theo công thức 1 lít = 0,789 kg (độ cồn tuyệt đối) thì đàn ông Việt Nam thực sự uống 1702 lon bia 333 nồng độ 4,8, tức đều đặn mỗi ngày gần 5 lon. Nếu chiều hướng này tiếp tục tăng, trong vòng chậm nhất 5 năm tới họ sẽ nốc một lượng cồn vào người như đàn ông Nga hiện tại, để hưởng tuổi thọ trung bình là 64, trong đó 25% chết trước 55 tuổi, vì rượu. Ở Việt Nam, tửu thần là anh em ruột thịt của tử thần.


Nếu được quyền quyết định, tôi sẽ cấm, không phải chỉ cấm bán rượu bia sau 22 giờ tối như Bộ Y tế đang đề xuất mà cấm tiệt, 24/24 giờ, trừ đúng 3 ngày Tết phân phối theo khẩu phần người lớn, ít nhất trong vòng hai mươi năm. Tôi thà mang tiếng là một nhà độc tài – điều chẳng mới mẻ gì ở Việt Nam -, một nhà quản lí cổ hủ, bất lực – cũng không có gì mới mẻ -, còn hơn nhìn một tiền đồ dân tộc mỗi ngày một lảo đảo bởi gần 70 % đàn ông Việt Nam ngày ngày chuếnh choáng.


Hai mươi năm nữa, chỉ hình dung đã thấy ngây ngất: đàn ông Việt Nam sẽ định nghĩa mình qua những chất kích thích khác. Họ sẽ trở nên thông minh, khỏe mạnh, lương thiện, can đảm, lịch lãm, đỏm dáng, sẽ metrosexual thay vì hùng hục lùng sục phong độ giống đực bên đĩa mực và vại bia; sẽ thơm tho thay vì sặc mùi cồn chua; sẽ có bụng sáu múi thay vì sáu lon; sẽ chứng minh đẳng cấp qua tài thuyết trình trước đám đông thay vì lảm nhảm luận anh hùng bên bàn nhậu; sẽ tôn trọng đồ ăn thức uống thay vì tọng vào ọe ra; sẽ trân trọng một tình bạn chân thành thay vì lấy mấy lần “dzô” đo lòng chiến hữu; sẽ quý trọng đồng tiền mồ hôi nước mắt thay vì dốc túi mình và túi nhà nước cho bệnh xơ gan; sẽ biết tiếc thời gian thay vì quên ngày tháng trên vỉa hè; sẽ thực sự tự đọc một cuốn sách thay vì hóng hớt từ bạn rượu; sẽ yêu phụ nữ thay vì hoặc bất lực hoặc hiếp dâm; sẽ không cầm dao đâm người thân vì bị chê kém tửu lượng; sẽ không leo lên xe để giết thiên hạ và giết mình; sẽ xắn tay lên mà làm việc… Chỉ chừng ấy, đơn giản chỉ chừng ấy đã đủ để tiền đồ dân tộc và đất nước họ còn tỉnh táo đứng trên hai chân thay vì say bét nhè ngã xuống ở đâu không cần biết.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 28, 2014 15:05

Vì một tiền đồ dân tộc còn đứng trên hai chân

Phạm Thị Hoài


Theo báo cáo mới nhất của WHO, lượng tiêu thụ đồ uống có cồn ở Việt Nam thời điểm 2008- 2010 với 6,6 lít (độ cồn tuyệt đối) thuộc nhóm trung bình trên thế giới, thậm chí thấp hơn một chút so với mức trung bình trong khu vực (6,8 lít), kém xa Nga (15,1 lít) và hầu hết các nước châu Âu (10,0 – 12,4 lít). Tửu thần không nhất thiết kìm hãm sự phát triển của một quốc gia. Các nước uống ít nhất tập trung ở Ả-rập và châu Phi (dưới 5,0 lít), trong khi châu Âu vẫn tiếp tục truyền thống dẫn đầu thế giới. Hai nước thịnh vượng bậc nhất trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương uống khỏe gấp đôi Việt Nam, Hàn quốc: 12,3 lít; Úc: 12,2 lít.


Tửu lượng của một quốc gia cũng không nhất thiết tương quan với số tai nạn giao thông. Ả-rập Saudi gần như trong trắng với 0.2 lít, song có tỉ lệ thương vong trên đường không thua gì Việt Nam. Năm 2012, 70 triệu người Đức từ 15 tuổi với trung bình 11,8 lít gây gần 7.000 vụ thương vong, trong đó 3.600 người chết. Con số tương đương của Việt Nam là 67 triệu người, trung bình uống ít hơn gần một nửa, gây 40.000 vụ thương vong, trong đó gần 10.000 người chết; đó là chưa tính đến yếu tố tốc độ và số lượng xe cơ giới lưu thông tại Đức chắc chắn cao hơn và nhiều hơn tại Việt Nam. Gần 40 % tai nạn giao thông tại Việt Nam là do chất cồn, tỉ lệ đó tại Đức là 17%, tại Ả-rập Saudi là 0%.


Có lẽ vì thế mà một “chuyên gia trong ngành” còn trấn an rằng Việt Nam mới chỉ ở mức tương đương với các nước đạo Hồi. Đèn còn xanh lắm. Song xem xét kĩ hơn thì các con số cho thấy một bức tranh khác. Số người (từ 15 tuổi) cả đời không rượu bia tại Việt Nam là gần 50%, trong khi ở Đức vỏn vẹn 5,5 %, khiến lượng tiêu thụ thực tế chia đều cho mỗi người thực sự uống ở Việt Nam cao hơn hẳn, trung bình là 17,2 lít so với 14,7 lít tại Đức, tính gộp cả hai giới. Tính riêng nam giới thì đàn ông Đức uống trung bình 20,4 lít, con số ấy ở đàn ông Việt Nam là 27,4 lít, không ít hơn ở đàn ông Nga nhiều lắm (32,0 lít), đó là chưa tính yếu tố cơ thể ảnh hưởng đến tửu lượng: trọng lượng của đàn ông Việt thường chỉ bằng 2/3 đàn ông phương Tây. 97% lượng đồ uống có cồn ở Việt Nam là bia. Nếu tính theo công thức 1 lít = 0,789 kg (độ cồn tuyệt đối) thì đàn ông Việt Nam thực sự uống 1702 lon bia 333 nồng độ 4,8, tức đều đặn mỗi ngày gần 5 lon. Nếu chiều hướng này tiếp tục tăng, trong vòng chậm nhất 5 năm tới họ sẽ nốc một lượng cồn vào người như đàn ông Nga hiện tại, để hưởng tuổi thọ trung bình là 64, trong đó 25% chết trước 55 tuổi, vì rượu. Ở Việt Nam, tửu thần là anh em ruột thịt của tử thần.


Nếu được quyền quyết định, tôi sẽ cấm, không phải chỉ cấm bán rượu bia sau 22 giờ tối như Bộ Y tế đang đề xuất mà cấm tiệt, 24/24 giờ, trừ đúng 3 ngày Tết phân phối theo khẩu phần người lớn, ít nhất trong vòng hai mươi năm. Tôi thà mang tiếng là một nhà độc tài – điều chẳng mới mẻ gì ở Việt Nam -, một nhà quản lí cổ hủ, bất lực – cũng không có gì mới mẻ -, còn hơn nhìn một tiền đồ dân tộc mỗi ngày một lảo đảo bởi gần 70 % đàn ông Việt Nam ngày ngày chuếnh choáng.


Hai mươi năm nữa, chỉ hình dung đã thấy ngây ngất: đàn ông Việt Nam sẽ định nghĩa mình qua những chất kích thích khác. Họ sẽ trở nên thông minh, khỏe mạnh, lương thiện, can đảm, lịch lãm, đỏm dáng, sẽ metrosexual thay vì hùng hục lùng sục phong độ giống đực bên đĩa mực và vại bia; sẽ thơm tho thay vì sặc mùi cồn chua; sẽ có bụng sáu múi thay vì sáu lon; sẽ chứng minh đẳng cấp qua tài thuyết trình trước đám đông thay vì lảm nhảm luận anh hùng bên bàn nhậu; sẽ tôn trọng đồ ăn thức uống thay vì tọng vào ọe ra; sẽ trân trọng một tình bạn chân thành thay vì lấy mấy lần “dzô” đo lòng chiến hữu; sẽ quý trọng đồng tiền mồ hôi nước mắt thay vì dốc túi mình và túi nhà nước cho bệnh xơ gan; sẽ biết tiếc thời gian thay vì quên ngày tháng trên vỉa hè; sẽ thực sự tự đọc một cuốn sách thay vì hóng hớt từ bạn rượu; sẽ yêu phụ nữ thay vì hoặc bất lực hoặc hiếp dâm; sẽ không cầm dao đâm người thân vì bị chê kém tửu lượng; sẽ không leo lên xe để giết thiên hạ và giết mình; sẽ xắn tay lên mà làm việc… Chỉ chừng ấy, đơn giản chỉ chừng ấy đã đủ để tiền đồ dân tộc và đất nước họ còn tỉnh táo đứng trên hai chân thay vì say bét nhè ngã xuống ở đâu không cần biết.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 28, 2014 15:05

July 24, 2014

Bao nhiêu bản đồ thì đủ?

Phạm Thị Hoài


Người ngoại đạo như tôi, sống ở thời Google Map, đứng trước những tấm bản đồ cổ phương Tây, chữ Latinh hẳn hoi, thường chỉ ngắm chứ không thực sự hiểu. Giống như xem những chiếc răng, hộp sọ, lưỡi rìu mấy ngàn năm gì đó trong bảo tàng. Còn bản đồ cổ, châu Á, lại chữ Hán, trông như tranh của Hans Hartung đè lên Tề Bạch Thạch trong tinh thần “Phẳng chung thủy, thì chịu, hoàn toàn phải nhờ giới chuyên môn thuyết trình.


Từ nhiều năm nay cứ thỉnh thoảng lại có một tấm bản đồ cổ chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam được phát hiện. Tôi vốn nghĩ sơ sài rằng mọi bản đồ trong lịch sử đều chỉ có hiệu lực đến một thời điểm lịch sử nhất định. Có lẽ không một nước nào ngày nay trên trái đất còn giữ đúng lãnh thổ được vẽ vào thế kỉ 18, huống gì ở thuở nhân loại chưa biết đến các khái niệm quốc gia dân tộcchủ quyền quốc gia theo nghĩa chúng ta đang dùng. Đảng của ông Sam Rainsy không thể mang bản đồ của Vương quốc Khmer ra đòi Việt Nam và Thái Lan trả đất. Tôi không biết Dải Gaza từng được đưa vào bản đồ của bao nhiêu nước khiến số phận nó phải long đong khốn khổ thế, song tôi chắc chắn rằng nếu Putin cho phát hành toàn thế giới bản đồ Đại Nga bao gồm cả Sao Hỏa thì một trăm năm sau chủ quyền của nước Nga trong vũ trụ vẫn không hề được chứng minh. Nếu Công hàm Phạm Văn Đồng có hiệu lực pháp lí thì mọi bản đồ trong lịch sử đều chỉ còn giá trị nghiên cứu.


Nhưng thật lạ là tôi vẫn mừng, mỗi lần các nhà nghiên cứu Việt Nam đưa ra một bản đồ làm bằng chứng. Không phải vì tôi yêu nước. Tôi xa lạ với tinh thần ái quốc. Nếu phải có tinh thần ấy, thậm chí tôi không chắc chắn rằng Tổ quốc của tôi hiện là đâu, cố hương Việt Nam hay nước Đức, nơi tôi sống hạnh phúc và đồng thời là công dân. Tôi mừng, có lẽ chủ yếu vì thiện cảm và sự ủng hộ đương nhiên dành cho một nước nhỏ, yếu về hầu hết mọi phương diện, gần như vô vọng trong cuộc đương đầu với một đại cường quốc đầy ắp tham vọng bá quyền. Nếu hải quân Việt Nam không thể thắng trên biển thì vẫn còn một an ủi là trên giấy, học giả Việt Nam không thua.


Song mừng không dễ. Năm năm trước, một cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra trên trang talawas xung quanh một tấm bản đồ từ đời Minh mới được phát hiện, An Nam đồ. Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân đã dội một gáo nước lạnh vào sự hoan hỉ về bằng chứng lịch sử “đanh thép” đó. Ông vạch ra nhiều nhầm lẫn trong việc đọc và thẩm định tấm bản đồ này, đồng thời cảnh báo rằng “việc thừa nhận giá trị bức An Nam đ hoặc các bức đồng dạng và sử dụng chúng như một phần chứng lý chủ quyền lịch sử Hoàng Sa-Trường Sa sẽ di họa khôn lường vì đã đi vào đúng hướng lý luận của học giới Trung Quốc” mà ông bác bỏ. Tôi hoàn toàn được học giả độc lập này thuyết phục. Vụ An Nam đồ lắng xuống.


Đầu tháng Sáu vừa rồi, cuốn sách đồ sộ Mt s tư liu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông của Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam ra mắt, kết quả làm việc 5 năm của 50 nhà nghiên cứu. Không một cơ quan học thuật nào của Việt Nam có thể có nhiều phương tiện và chức năng nghiệp vụ hơn. Truyền thông lại hân hoan. Song một bài “Góp ý bổ cứu” của nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh trên một tạp chí nhỏ rất ít người đọc của Sở Khoa học  Công nghệ Thừa Thiên-Huế và nhất là bài phê bình của ông Phạm Hoàng Quân trên trang Diễn Đàn (Paris) khiến vụ An Nam đồ dường như sống lại toàn tập. Tất cả những điều nhà nghiên cứu này từng cảnh báo 5 năm trước vẫn còn nguyên. Sự não nề đặc trưng của các câu chuyện Việt Nam là: muôn thuở không có gì thay đổi. Căn cứ vào hai bài viết rất thuyết phục nhưng chỉ có thể xuất hiện bên lề đó, giới chuyên môn đứng đầu quốc gia hiện ra như những nhà nghiên cứu quan liêu, lười biếng, tùy tiện, bất cẩn, phản khoa học, thiếu trung thực, thậm chí thiếu cả năng lực dịch thuật, và có vẻ khá dốt nát. Ông Quân đề nghị rút hẳn 10 trong 25 đơn vị bản đồ khỏi tập sách, 15 đơn vị còn lại cũng thiếu độ tin cậy vững chắc để có thể phục vụ hồ sơ chứng lí vô điều kiện.


Bao nhiêu bản đồ thì đủ bảo vệ Hoàng Sa-Trường Sa? Câu trả lời của giới học thuật quan phương dường như là: càng nhiều càng tốt, bất chấp độ khả tín và bất chấp nguy cơ phản tác dụng vì rơi đúng vào cái bẫy luận điểm ngụy biện của phía Trung Quốc.


Trừ ông Nguyễn Xuân Diện thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm có một lời trần tình về sự tham gia tương đối hạn chế của mình vào thành tích bảo vệ chủ quyền nêu trên, những người chịu trách nhiệm công trình không hề lên tiếng.


© 2014 pro&contra


_____________


Bài liên quan:


Phạm Hoàng Quân: “Di họa của việc sử dụng sai mục đích An Nam đồ đối với việc nghiên cứu Hoàng Sa-Trường Sa”, talawas 22/3/2009


Trần Đại Vinh: “Góp ý bổ cứu cho công trình Một số tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông“, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 3-4 (110-111) 2014


Phạm Hoàng Quân: “Một cuốn sách cần phải xem lại”, Diễn Đàn 20/7/2014

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 24, 2014 08:21

Bao nhiêu bản đồ thì đủ?

Phạm Thị Hoài


Người ngoại đạo như tôi, sống ở thời Google Map, đứng trước những tấm bản đồ cổ phương Tây, chữ Latinh hẳn hoi, thường chỉ ngắm chứ không thá»±c sá»± hiểu. Giống như xem những chiếc răng, hộp sọ, lưỡi rìu mấy ngàn năm gì đó trong bảo tàng. Còn bản đồ cổ, châu Á, lại chữ Hán, trông như tranh cá»§a Hans Hartung đè lên Tề Bạch Thạch trong tinh thần “Phẳng chung thá»§y, thì chịu, hoàn toàn phải nhờ giới chuyên môn thuyết trình.


Từ nhiều năm nay cứ thỉnh thoảng lại có một tấm bản đồ cổ chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa-Trường Sa của Việt Nam được phát hiện. Tôi vốn nghĩ sơ sài rằng mọi bản đồ trong lịch sử đều chỉ có hiệu lực đến một thời điểm lịch sử nhất định. Có lẽ không một nước nào ngày nay trên trái đất còn giữ đúng lãnh thổ được vẽ vào thế kỉ 18, huống gì ở thuở nhân loại chưa biết đến các khái niệm quốc gia dân tộc và chủ quyền quốc gia theo nghĩa chúng ta đang dùng. Đảng của ông Sam Rainsy không thể mang bản đồ của Vương quốc Khmer ra đòi Việt Nam và Thái Lan trả đất. Tôi không biết Dải Gaza từng được đưa vào bản đồ của bao nhiêu nước khiến số phận nó phải long đong khốn khổ thế, song tôi chắc chắn rằng nếu Putin cho phát hành toàn thế giới bản đồ Đại Nga bao gồm cả Sao Hỏa thì một trăm năm sau chủ quyền của nước Nga trong vũ trụ vẫn không hề được chứng minh. Nếu Công hàm Phạm Văn Đồng có hiệu lực pháp lí thì mọi bản đồ trong lịch sử đều chỉ còn giá trị nghiên cứu.


Nhưng thật lạ là tôi vẫn mừng, mỗi lần các nhà nghiên cứu Việt Nam đưa ra một bản đồ làm bằng chứng. Không phải vì tôi yêu nước. Tôi xa lạ với tinh thần ái quốc. Nếu phải có tinh thần ấy, thậm chí tôi không chắc chắn rằng Tổ quốc của tôi hiện là đâu, cố hương Việt Nam hay nước Đức, nơi tôi sống hạnh phúc và đồng thời là công dân. Tôi mừng, có lẽ chủ yếu vì thiện cảm và sự ủng hộ đương nhiên dành cho một nước nhỏ, yếu về hầu hết mọi phương diện, gần như vô vọng trong cuộc đương đầu với một đại cường quốc đầy ắp tham vọng bá quyền. Nếu hải quân Việt Nam không thể thắng trên biển thì vẫn còn một an ủi là trên giấy, học giả Việt Nam không thua.


Song mừng không dễ. Năm năm trước, một cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra trên trang talawas xung quanh một tấm bản đồ từ đời Minh mới được phát hiện, An Nam đồ. Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân đã dội một gáo nước lạnh vào sá»± hoan hỉ về bằng chứng lịch sá»­ “đanh thép” đó. Ông vạch ra nhiều nhầm lẫn trong việc đọc và thẩm định tấm bản đồ này, đồng thời cảnh báo rằng “việc thừa nhận giá trị bức An Nam đồ hoặc các bức đồng dạng và sá»­ dụng chúng như một phần chứng lý chá»§ quyền lịch sá»­ Hoàng Sa-Trường Sa sẽ di họa khôn lường vì đã đi vào đúng hướng lý luận cá»§a học giới Trung Quốc” mà ông bác bỏ. Tôi hoàn toàn được học giả độc lập này thuyết phục. Vụ An Nam đồ lắng xuống.


Đầu tháng Sáu vừa rồi, cuốn sách đồ sộ Một số tư liệu Hán Nôm về chá»§ quyền cá»§a Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển cá»§a Việt Nam ở Biển Đông cá»§a Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam ra mắt, kết quả làm việc 5 năm cá»§a 50 nhà nghiên cứu. Không một cÆ¡ quan học thuật nào cá»§a Việt Nam có thể có nhiều phương tiện và chức năng nghiệp vụ hÆ¡n. Truyền thông lại hân hoan. Song một bài “Góp ý bổ cứu” cá»§a nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh trên một tạp chí nhỏ rất ít người đọc cá»§a Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên-Huế và nhất là bài phê bình cá»§a ông Phạm Hoàng Quân trên trang Diễn Đàn (Paris) khiến vụ An Nam đồ dường như sống lại toàn tập. Tất cả những điều nhà nghiên cứu này từng cảnh báo 5 năm trước vẫn còn nguyên. Sá»± não nề đặc trưng cá»§a các câu chuyện Việt Nam là: muôn thuở không có gì thay đổi. Căn cứ vào hai bài viết rất thuyết phục nhưng chỉ có thể xuất hiện bên lề đó, giới chuyên môn đứng đầu quốc gia hiện ra như những nhà nghiên cứu quan liêu, lười biếng, tùy tiện, bất cẩn, phản khoa học, thiếu trung thá»±c, thậm chí thiếu cả năng lá»±c dịch thuật, và có vẻ khá dốt nát. Ông Quân đề nghị rút hẳn 10 trong 25 đơn vị bản đồ khỏi tập sách, 15 đơn vị còn lại cÅ©ng thiếu độ tin cậy vững chắc để có thể phục vụ hồ sÆ¡ chứng lí vô điều kiện.


Bao nhiêu bản đồ thì đủ bảo vệ Hoàng Sa-Trường Sa? Câu trả lời của giới học thuật quan phương dường như là: càng nhiều càng tốt, bất chấp độ khả tín và bất chấp nguy cơ phản tác dụng vì rơi đúng vào cái bẫy luận điểm ngụy biện của phía Trung Quốc.


Trừ ông Nguyễn Xuân Diện thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm có một lời trần tình về sự tham gia tương đối hạn chế của mình vào thành tích bảo vệ chủ quyền nêu trên, những người chịu trách nhiệm công trình không hề lên tiếng.


© 2014 pro&contra


_____________


Bài liên quan:


Phạm Hoàng Quân: “Di họa cá»§a việc sá»­ dụng sai mục đích An Nam đồ đối với việc nghiên cứu Hoàng Sa-Trường Sa”, talawas 22/3/2009


Trần Đại Vinh: “Góp ý bổ cứu cho công trình Một số tư liệu Hán Nôm về chá»§ quyền cá»§a Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển cá»§a Việt Nam ở Biển Đông“, tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 3-4 (110-111) 2014


Phạm Hoàng Quân: “Một cuốn sách cần phải xem lại”, Diễn Đàn 20/7/2014

 •  1 comment  •  flag
Share on Twitter
Published on July 24, 2014 08:21

July 20, 2014

Ngụ ngôn gửi người mất ngủ

Từ Linh


Có lẽ, khi trầm ngâm trước bàn thờ, hoặc khi trằn trọc mất ngủ, người ta không tư duy bằng thông tin, dữ liệu hay lập luận, mà bằng ngôn ngữ gần với ngụ ngôn. Nếu thông tin là lúa mạch, nho, gạo, nước, men, thì ngụ ngôn có lẽ là rượu.


Những bài ngụ ngôn của Kahlil Gibran (1883-1931) trong tập Người điên (The Madman)[i] đầy tính thời sự, nhiều bài dữ dội như rượu mạnh, hoặc đắng chát lòng, như thuốc. Người đọc ngụ ngôn của Gibran, thời nào hay nơi nào, đều có thể liên tưởng đến chuyện nước mình. Trong những ngày ‘giàn khoan’ mất ngủ vì đau biển, đau nước, đau đất và đau đầu này, người Việt cũng thấy dường ông nói chuyện nước Việt.


Xin phép dịch thoáng ý 10 ngụ ngôn của Gibran và ghi lại vài ngẫm nghĩ sau mỗi bài. Thứ tự các bài là của người viết.


*


NGỤ NGÔN THỨ NHẤT


MỘNG DU


Ở nơi tôi sinh ra có một bà kia sống với cô con gái, cả hai đều mắc chứng mộng du.


Vào một đêm kia, khi đó đây im ắng, bà và cô con gái bỗng cùng lúc mộng du. Họ vừa đi vừa ngủ giữa khu vườn sương trắng phủ.


Giữa vườn, mẹ và con gặp nhau.


Người mẹ nói: “Cuối cùng, cuối cùng, mày chính là kẻ thù của tao! Chỉ vì mày mà tuổi xuân tao mất trắng! Chỉ vì mày sống bám phổng phao lớn lên mà đời tao tàn! Phải chi tao giết mày!”


Người con gái nói: “Mụ già gian ác hẹp hòi! Mụ chứ ai, mụ ngăn không cho tôi tự do làm người! Mụ chứ ai, mụ chỉ muốn đời tôi là bản sao cuộc đời vứt đi của mụ. Phải chi mụ chết đi!”


Đúng lúc đó, gà cất tiếng gáy, và cả hai tỉnh dậy.


Người mẹ nói, âu yếm, nhẹ nhàng: “Phải con đấy không, con yêu?” Và người con gái đáp nhỏ nhẹ: “Dạ vâng ạ, thưa mẹ.”



Ngẫm nghĩ:


Trong các sinh vật thì giống cái thường dữ dội hơn giống đực (xin lỗi quý bà). Muỗi cái, cọp cái, mèo cái, gà mái đều là những con chăm chỉ làm ăn, săn mồi, chăm con, giữ con. Trong khi đó, tuy được cho là “chủ của loài”, nhưng muỗi đực, sư tử đực, mèo đực, gà trống chỉ thích hút mật, khoe lông, đạp mái, và gáy (xin lỗi quý ông). Ngay trong ngôn ngữ tục tĩu, người ta cũng nhắc tới mẹ, ít nhắc đến ba (nói “mother f..ker”, “đ. mẹ” ít ai nói “father f..ker”, “đ. ba”) (xin lỗi quý ông bà). Dông dài vài dòng chỉ để nói: Quan hệ Việt-Tàu hiện nay thực ra là quan hệ có tính sinh tồn, dữ tợn, giả trá, cay đắng, ai cũng nước đôi và chẳng ai thật lòng, mặt ngoài thì vô cùng hữu nghị (cùng là mặt ngọt của nữ tính), nhưng trong bụng lại tua tủa dao găm, xe tăng, tên lửa, giàn khoan, tàu chiến.


Tuy mẹ Tàu (cộng) và gái Việt (cộng) chẳng ai vừa, nhưng xét cho kỹ thì thực ra mẹ rất cần con, trong khi con có thể bỏ mẹ bất kỳ lúc nào. Nhưng tại sao đứa con gái đang ngậm đắng nuốt cay kia cứ phải ở mãi trong khu vườn mụ mị sương phủ? Hay Việt là mẹ, Tàu là con? Hay Việt là Tàu, Tàu là Việt? Hay cả hai hại đời nhau nhưng không dứt ra được vì không chơi với ai được?


*


NGỤ NGÔN THỨ HAI


THÀNH PHỐ THÁNH THIỆN


Khi tôi trẻ, người ta bảo tôi rằng ở một thành phố nọ, mọi người đều sống đúng như lời Kinh thánh.


Tôi nói: “Vậy tôi sẽ tìm cho được thành phố kia và những con người đầy ân sủng nơi ấy.”


Đường xa lắm. Tôi chuẩn bị đủ mọi sự cho hành trình. Sau 40 ngày đêm, tôi đến được thành phố. Qua ngày thứ 41, tôi bước vào thành phố.


Nhưng, hỡi ơi! Tất cả mọi cư dân tôi gặp ở đây đều chỉ còn mỗi một con mắt và một bàn tay.


Kinh hoàng, tôi tự hỏi: “Chẳng lẽ thành phố thánh thiện này chỉ toàn người cụt chột, chỉ còn một mắt, một tay?”


Họ cũng kinh ngạc và hoang mang khi thấy tôi còn đủ hai tay, hai mắt. Trong lúc họ bàn tán xôn xao, tôi cất tiếng hỏi: “Thưa, đây có phải là Thành phố Thánh thiện, nơi ai nấy đều sống đúng như lời Kinh thánh?” Họ trả lời: “Không sai! Đây là thành thánh.”


Tôi lại hỏi: “Điều gì đã xảy ra vậy, mắt phải và bàn tay phải của mọi người đâu rồi?”


Nghe hỏi, họ đều xúc động. Họ bảo: “Hãy đến và xem.”


Họ đưa tôi đến đền thờ ở trung tâm thành phố. Trong đền thờ, tôi thấy một đụn lớn đầy những bàn tay và con mắt, tất cả đều đã khô héo.


Tôi hoảng hốt kêu lên: “Ôi trời! Kẻ thắng trận nào đã làm điều ghê rợn này với mọi người?”


Họ thì thào bàn tán. Rồi một bô lão bước lên nói: “Chúng tôi tự làm đấy! Chúa đã biến chúng tôi thành những kẻ thắng trận, đánh bại bầy quỷ dữ cư ngụ trong lòng.”


Nói đoạn, ông dẫn tôi đến trước một bàn thờ cao. Ai nấy đi theo.


Bô lão chỉ cho tôi thấy dòng chữ khắc phía trên bàn thờ, dòng chữ viết:


“Nếu mắt phải của ngươi khiến ngươi phạm tôi, hãy móc mắt vất đi, vì thà mất một phần thân thể còn hơn toàn thân sa hỏa ngục. Nếu tay phải của ngươi khiến ngươi phạm tội, hảy cắt bỏ nó đi, vì thà mất một phần thân thể còn hơn toàn thân sa hỏa ngục.”


Tôi hiểu ra mọi chuyện. Tôi quay lại hỏi mọi người: “Vậy có ai ở đây còn đủ hai tay, hai mắt không?”


Họ trả lời: “Không, không một ai, trừ các em còn quá trẻ chưa biết đọc Kinh thánh, chưa hiểu điều răn kia.”


Thế là vừa ra khỏi đền thờ, tôi đi thẳng một mạch rời thành thánh, vì tôi không còn trẻ, và tôi có thể hiểu Kinh thánh.



Ngẫm nghĩ:


Không tín đồ nào áp dụng cực đoan từng chữ Kinh thánh dạy như trong ngụ ngôn. Nhưng lại có những kẻ vô thần suy tôn chữ đến tận cùng mê tín.


Phía trên bàn thờ cao nhất nước tôi, trong đền thờ quyền lực nhất nước tôi, cũng có khắc mười sáu chữ vàng và bốn tốt linh thiêng.


Không, không phải “bốn tốt”, mà là “bốn ngoan”: Bạn bè ngoan, láng giềng ngoan, đối tác ngoan, đồng chí ngoan. Vâng, với “phụ mẫu”, ta phải “ngoan”, không được làm “con hoang”. Và để được xem là ngoan, người ta đã tự móc mắt phải cho mù, cắt tay phải cho bất lực, tự làm cho cụt chột mà không cần ai chặt chọc.


*


NGỤ NGÔN THỨ BA


BIỂN LỚN


1.


Một hôm, tôi và hồn tôi cùng ra biển chơi.


Đến nơi, chúng tôi đi quanh, tìm cho mình một bãi tắm riêng tư, im ắng.


Đang đi, chúng tôi gặp một người ngồi trên bãi đá đen, ông đưa tay bốc trong túi ra từng nắm muối rồi ném xuống biển.


Hồn tôi bảo: Đó là người bi quan. Ta đi thôi, không nên tắm nơi này.


2.


Đến một lạch nước, chúng tôi thấy có người đứng trên tảng đá trắng, tay ôm hộp nạm ngọc. Anh bốc từ hộp ra từng nắm đường rồi ném xuống biển.


Hồn lại bảo: Đây là người lạc quan. Đừng để y thấy ta trần truồng tắm lúc này.


3.


Chúng tôi đi xa nữa, thấy có người ngồi ở mép biển, anh nhặt từng con cá chết rồi nhẹ nhàng thả cá về với nước.


Hồn tôi bảo: Cũng không tắm ở đây được, y là kẻ theo chủ nghĩa nhân đạo.


4.


Chúng tôi lại đi, gặp một người đang lom khom vẽ viền cái bóng của mình trên cát. Các đợt sóng ùa đến xóa sạch mọi đường nét, nhưng hắn vẫn chăm chỉ lom khom vẽ rồi vẽ.


Hồn bảo tôi: Y là tay thần bí, không chơi được, đi thôi.


5.


Đến một trảng nước yên tĩnh, chúng tôi gặp một người cứ vốc bọt biển cho vào chiếc bát sành.


Hồn tôi nói: Hắn là tay lý tưởng, đừng cho hắn thấy ta tắm truồng.


6.


Chúng tôi lại đi, bỗng nghe tiếng la to: “Đây chính là biển, biểu sâu, biển rộng, biển hùng vĩ.”


Thì ra đấy là một người đang xoay lưng lại biển, anh ta kê sát bên tai một vỏ ốc lớn và đang chăm chú nghe tiếng kêu từ vỏ ốc.


Hồn tôi bảo: Đi thôi, hắn là kẻ xoay lưng với những gì hắn không nắm bắt được, và chỉ nhìn biển bằng cách nghe mảnh vụn.


7.


Và cứ thế chúng tôi đi, đến một bãi đá cỏ mọc, chúng tôi thấy một người đang vùi đầu trong cát.


Tôi bảo hồn rằng: Ta có thể tắm ở đây vì hắn không thấy gì hết.


Hồn tôi đáp: Không! Hắn mới là kẻ gây chết chóc nhiều hơn hết thẩy. Hắn là tay giáo điều thuần túy.


Chợt một nỗi buồn sâu phủ xuống mặt hồn tôi, thấm vào giọng nói, hồn tôi thổn thức:


Chúng ta đi thôi, ở đây không có chỗ nào riêng tư tĩnh lặng để đắm mình. Ta không muốn gió nơi này thổi bồng tóc mình, không muốn không khí nơi này lọt vào buồng phổi lồng ngực mình, không muốn phơi mình trần trụi giữa thứ ánh sáng này.


Thế là chúng tôi lại đi, đi tìm một vùng biển lớn hơn.



Ngẫm nghĩ:


Phải chăng, khi đứng trước biển (Đông), có ba tội nhẹ và bốn tội nặng?


Ba tội nhẹ:


Ném muối xuống biển: Ném thù oán vào người yêu nước, vào cả phương Tây, thay vì oán kẻ thù.


Ném đường xuống biển: Liếm láp đại cục bồ hòn làm ngọt, khởi đi từ cú liếm Thành Đô, quyết không cho ai bênh, cứ để chúng đánh, không đỡ.


Thả cá chết về biển: Thúc giục ngư dân bám biển rồi lại ú ớ khi ngư dân bị giặc bắt.


Bốn tội nặng:


Vẽ lại bóng của mình trên cát: Bảo vệ Đảng bằng mọi giá, bám víu quá khứ “giành độc lập” trong tư thế quỳ.


Vốc bọt biển cho vào bát: Nói mà không làm. Bảo kiện mà chẳng kiện. Nhưng dù chịu nhục vẫn vô ích.


Xoay lưng với biển nghe vỏ ốc: Nhìn thực tại bằng cách xoay lưng bịt tai với dân, nhưng ngoan ngoãn nghe ‘đường dây nóng’, nghe chúng  dậy cho bài “bốn không được”, không chỉ mụ nội Bắc Kinh khinh bỉ dạy bảo, mà mụ ngoại Quảng Đông cũng hống hách ra lệnh.


Vùi đầu xuống cát: Chỗ của người lãnh đạo là đầu sóng ngọn gió. Vùi đầu xuống cát là dấu hiệu gần đất xa trời.


Tạm kết: Nhật có phim Bảy Võ sĩ đạo (The Seven Samurai) lừng danh, nói về bảy tay kiếm áo vải giúp dân làng chống cướp, tuy năm tay kiếm hy sinh nhưng họ được dân yêu quý suốt đời. Nay, nước ta lại lồ lộ “bảy anh ngớ ngẩn” với “bảy tệ nạn chính trị” rước cướp vào nhà. Chẳng trách dân bỏ nước mà đi, bỏ hết những niềm tin đổ bể, và rất có thể rồi đây sẽ có 700, hay 7.000 Đảng viên bỏ Đảng.


*


NGỤ NGÔN THỨ TƯ


THẦN THIỆN THẦN ÁC


Thần Thiện và Thần Ác gặp nhau trên đỉnh núi.


Thần Thiện nói: “Chào người anh em, dạo này vui vẻ chứ?”


Thần Ác im không nói.


Thần Thiện hỏi: “Sao, bác hôm nay không vui?”


Thần Ác đáp: “Vui thế nào được! Gần đây chúng cứ tưởng tôi là bác, gọi tên tôi bằng tên bác, đối xử với tôi y như đối xử với bác, buồn chết đi được!”


Thần Thiện bảo: “Thì tôi cũng thế thôi, cũng bị nhận vơ là bác, bị gọi bằng tên bác!”


Thần Ác bỏ đi, nguyền rủa loài người ngu xuẩn.



Ngẫm nghĩ:


Dân gặp Giặc tại hội nghị thượng đỉnh.


Giặc than: Buồn chết đi được! Chúng gọi Giặc là Dân, xem Giặc như Dân, đối xử với Giặc như với Dân, không biết đâu mà lần!


Dân nói: Tớ cũng thế thôi. Chúng xem Dân là Giặc, đối xử với Dân như với Giặc!


Rút cuộc, cả hai cùng quay qua nguyền rủa… Đảng!


*


NGỤ NGÔN THỨ NĂM


THAM VỌNG


Ba người nhậu chung quán. Một thợ dệt, một thợ mộc và một thợ đào huyệt.


Thợ dệt nói: Tớ mới bán được tấm khăn liệm bằng vải lanh, được trả đến hai cây vàng. Ta tha hồ uống rượu!


Thợ mộc nói: Tớ vừa bán được cái quan tài siêu hạng. Không uống chay, ta có thể tha hồ kêu thịt các loại!


Thợ đào huyệt nói: Tớ thì chỉ đào một cái huyệt thôi mà chủ trả công gấp đôi! Rượu thịt xong ta có thể bánh trái tăng hai!


Thế là cả buổi tối, quán bận suốt vì ba vị khách luôn miệng gọi rượu thịt bánh trái. Ai nấy hả hê. Chủ quán cũng hỉ hả xoa tay cười khoái trá vì những vị khách vung tay tiêu xài.


Họ rời quán khi trăng đã lên cao, vừa đi vừa hò hét.


Ngoài cửa, chủ quán đứng cạnh vợ nhìn theo. Người vợ nói:


Thật là những vị khách phong lưu vui vẻ! Ước gì ngày nào họ cũng mang may mắn đến nhà ta như thế! Ừ nhỉ, thế thì con trai mình lớn lên bán quán vất vả làm gì nữa? Cứ dạy nó theo nghề thầy cúng là đủ bộ!



Ngẫm nghĩ:


Cả ba thượng khách vung vít kia đều là những kẻ kiếm sống trên cái chết của kẻ khác và hôm nay được thưởng gấp đôi. Rõ ràng kẻ thưởng lớn phải là tay mưu đồ. Đọc bỗng liên tưởng ngay đến những kẻ đang tẩm liệm, đóng quan tài, đào huyệt chôn dân tộc này, để mua lấy vàng bạc, quyền lực và bảo bọc từ bọn gian hùng phương Bắc.


Điều lạ nhất là cái tung tiền vung vít của họ lại làm cho nhiều kẻ thèm khát, muốn đứng chung chiếu, làm chung nghề, nhập chung nhóm lợi ích. Chẳng lạ gì khi người ta nhắc đến cái sổ hưu, muốn cho con cháu “vào biên chế nhà nước”. Lại cũng có ông Tổng tích cực tìm cách bổ sung kịch bản mai táng khăn-liệm-quan-tài-huyệt-mộ kia bằng màn hô hoán “bài chòi tư tưởng” nhảm nhí, như thày cúng nhảy múa trước xác chết.


*


NGỤ NGÔN THỨ SÁU


BÙ NHÌN


Có lần tôi bảo một ông bù nhìn rằng: “Chắc bác mệt lắm nhỉ, cứ đứng suốt chỗ đồng không mông quạnh này!”


Bù nhìn đáp: “Niềm vui dọa nạt người khác là niềm vui rất sâu và tồn tại rất lâu, tôi không hề thấy mệt!”


Tôi ngẫm nghĩ giây lát rồi nói: “Ừ nhỉ, đúng đấy, tôi cũng từng biết niềm vui ấy.”


Bù nhìn lại nói: “Chỉ những ai bụng đầy rơm khô mới biết niềm vui ấy thế nào.”


Tôi đi rồi, cứ thắc mắc không hiểu bù nhìn khen tôi hay xem thường tôi với câu vừa nói.


Một năm trôi qua. Thời gian đó, bù nhìn hóa thành triết gia.


Nhưng khi đi qua chỗ ấy lần nữa, tôi thấy có hai con quạ làm tổ ngay dưới nón bù nhìn.



Ngẫm nghĩ:


Bài này xin được dịch để tặng riêng cụ Tổng nay đã hóa triết gia.


*


NGỤ NGÔN THỨ BẢY


CHIẾN TRANH


Một đêm kia, hoàng cung mở tiệc linh đình. Bỗng có một người đến sấp mình trước mặt nhà vua. Mọi người dự tiệc quay nhìn, họ thấy hắn mất một mắt và hố mắt trống rỉ máu.


Vua hỏi hắn: “Điều gì đã xảy ra cho ngươi?”


Hắn đáp: “Thưa ngài, tôi sống bằng nghề trộm cướp. Đêm nay, tôi toan đến trộm một tiệm đổi tiền. Nhưng vì trời không trăng, nên khi trèo qua cửa sổ vào tiệm đổi tiền, tôi lại vào nhầm tiệm dệt. Tối quá, tôi chạy vấp phải khung cửi và khung cửi móc mất của tôi con mắt. Bây giờ, thưa ngài, tôi muốn tên thợ dệt phải trả lại sự công bằng cho tôi!”


Vua cho gọi người thợ dệt. Khi ông đến nơi, vua ra lệnh móc một mắt của thợ dệt đền cho tên trộm cướp.


Người thợ dệt phân bua: “Ôi thưa ngài, phán quyết của ngài thì đúng. Thật công bằng khi ngài cho móc một mắt tôi để đền tội. Nhưng tôi cần hai mắt để nhìn thấy cả hai mặt vải dệt. Tôi biết một anh láng giềng là thợ giày còn hai mắt, nhưng trong công việc thì hắn không cần cả hai mắt làm gì!”


Thế là vua cho gọi thợ giày đến. Ông đến nơi, và họ móc lấy một mắt của thợ giày.


Và thế là công lý được thực hiện!



Ngẫm nghĩ:


Không phải vô tình mà tựa ngụ ngôn này là “Chiến tranh”. Quả thực, một khi kẻ trộm cướp lộng hành muốn đòi gì thì đòi, một khi kẻ cầm cán cân công lý chỉ lo ăn uống, côn đồ bảo gì nghe nấy, và một khi kẻ bị lôi đến công đường biết dẻo miệng ngụy biện thì cuối cùng người vô tội sẽ bị hại, côn đồ thắng thế, và chiến tranh dứt khoát sẽ xảy ra.


Sao giống chuyện giàn khoan đến vậy? Cướp Tàu leo vào nhà Việt cắm giàn khoan lộng hành, rồi lu loa bảo Việt đánh Tàu, đòi bồi thường, đòi móc mắt. Trong khi đó, kẻ giữ trật tự quốc tế thì về vườn ẩm ương, chủ nhà Việt thì ươn hèn không dám nói, chịu nhục, chịu chặn họng, móc mắt. Hậu quả là họ hóa đui chột sứt mẻ trước toàn dân và cả thế giới.


*


NGỤ NGÔN THỨ TÁM


THƯỢNG ĐẾ


Thuở hồng hoang, khi miệng tôi bập bẹ tiếng người, tôi lên đỉnh núi thiêng thưa chuyện cùng Thượng đế. Tôi thưa ngài rằng: “Lạy ông chủ, con là tôi tớ của ông. Ý ông là điều răn con nằm lòng, kể cả những ý thầm kín, và con sẽ vâng lời ông suốt đời con.”


Thượng đế không trả lời, ngài bỏ đi như một trận cuồng phong dữ dội.


*


Một ngàn năm sau, tôi lại lên đỉnh núi thiêng thưa chuyện cùng Thượng đế. Tôi thưa ngài rằng: “Kính lạy Đấng Sáng tạo. Con là tạo vật của ngài. Ngài dùng đất sét nắn thành con, và con nợ ngài cả cuộc đời con.”


Thượng đế không trả lời, ngài bỏ đi như ngàn cánh chim bay vút qua bầu trời.


*


Một ngàn năm sau nữa, tôi lên đỉnh núi thiêng thưa chuyện cùng Thượng đế. Tôi thưa ngài rằng: “Cha ơi, con là con cha đây. Vì lòng xót thương và yêu mến, cha đã sinh ra con, và với tình yêu và thờ phụng, con sẽ kế thừa đất nước của Cha.


Thượng đế vẫn không trả lời, ngài bỏ đi như màn sương mù kéo ngang chân trời, che phủ núi đồi xa.


*


Lại một ngàn năm nữa, tôi lên đỉnh núi thiêng thưa chuyện cùng Thượng đế. Tôi thưa ngài rằng: ”Thượng đế của tôi, mục đích của tôi, sự viên mãn của tôi. Tôi là hôm qua của ngài, ngài là ngày mai của tôi. Tôi là rễ của ngài trong đất và ngài là hoa của tôi trên trời. Và chúng ta cùng lớn lên trước mặt trời.”


Thượng đế cúi xuống bên tôi, thì thầm vào tai tôi lời ngọt ngào. Và như biển lớn đón nhận dòng suối vào lòng thế nào thì ngài cũng ôm lấy tôi như vậy.


Và khi tôi rời núi xuống thung lũng và đồng bằng, Thượng đế ở bên tôi.



Ngẫm nghĩ:


Có lẽ, Thượng đế không xa lạ, ngài là Người, là Bụt, là Phật, là sự Thật, là sự Sống, là Con Đường. Không phải vô tình mà Thánh kinh kể chuyện Jesus con Thượng đế “hóa thành người và ở giữa chúng ta” (emmanuel). Nhưng để con người trở nên bình đẳng với chủ mình, cha mình, chúa mình, phải mất đến 3.000 năm.


Không chỉ con người cá nhân cần trưởng thành để bình đẳng với những gì được xem là tối cao, một đất nước cũng cần quan hệ ngang hàng với mọi đối tác. Bằng không sẽ chỉ có bão tố kéo qua, chiến đấu cơ ùa tới và sương mù ngu muội phủ đầu.


Quan hệ Việt-Tàu mất 4.000 năm rồi, nhưng vẫn cứ lụi đụi ở vị trí chủ-tớ với tên đầy tớ chỉ biết ngoan ngoãn vâng lời cả đời, hoặc ở vị trí vật-chủ với tay chủ muốn nắn đồ vật kiểu gì thì nắn. Vị trí cha-con thì sao? Việt là “con” thật, nhưng Tàu chỉ xem là “con hoang”.


*


NGỤ NGÔN THỨ CHÍN


THẤT BẠI


1.


Thất bại, thất bại của tôi, nỗi cô đơn và lạc loài của tôi! Bạn thân thiết với tôi hơn vạn ngàn chiến thắng, bạn ngọt ngào với tim tôi hơn mọi vinh quang trần gian.


2.


Thất bại, thất bại của tôi! Nhờ bạn, tôi hiểu được mình và nhận ra tôi phản kháng! Nhờ bạn, tôi biết mình không còn trẻ nữa, biết chân mình không còn nhanh nữa, biết tỉnh táo để không bị trói chặt trong cạm bẫy của những vòng nguyệt quế tàn úa. Cũng nhờ bạn, tôi biết mình cô độc, biết cả niềm vui của một người bị ai nấy lẩn tránh chê cười.


3.


Thất bại, thất bại của tôi, thanh gươm và lá chắn sáng chói của tôi! Qua đôi mắt bạn, tôi đọc được rằng: Được tấn phong là trở thành nô lệ. Được thấu hiểu là bị cào bằng. Được giữ chặt là đã đến cuối hạn, như trái cây chín mọng, không rụng cũng bị hái xuống ăn.


4.


Thất bại, thất bại của tôi, bạn đồng hành dũng cảm của tôi! Bạn đã nghe khúc ca của tôi, tiếng khóc của tôi, im lặng của tôi, nhưng chỉ mình bạn kể tôi nghe ngàn cánh vỗ thế nào, biển thôi thúc thế nào, núi hực lửa trong đêm ra sao, và cũng chỉ mình bạn chịu vất vả leo lên dốc núi lởm chởm đá hồn tôi.


5.


Thất bại, thất bại của tôi, lòng dũng cảm bất tử của tôi! Bạn và tôi sẽ cùng cười vang trong giông bão, cùng đào huyệt chôn hết những gì cần chết trong mình, rồi ta sẽ cùng đứng thẳng giữa thanh thiên bạch nhật với ý chí bất khuất, và ta sẽ cùng hóa đáng gờm.



Ngẫm nghĩ:


Nhìn đúng góc, thất bại có thể là bạn, không hẳn là thù. Thất bại có khi là tai nạn, là hậu quả của sai lầm, cũng có khi đó là chọn lựa có ý thức.


Khi dịch bài này, tôi nghĩ đến với lòng kính trọng những tù nhân lương tâm, những người đang bị trù dập, bị người đời xem như “thất bại” vì mải mê làm việc “trời ơi”, dù việc ấy là dấn thân, chấp nhận mọi khổ đau cho bản thân, vì quyền con người, tự do, độc lập và dân chủ. Họ tham dự vào một cuộc đối đầu khốc liệt giữa một bên là hiểu biết để tiến bộ, và một bên là ngu dốt gây biến thái. Họ thà “thất bại” vì yêu thương con người, hơn được “tấn phong” vì hèn và ích kỷ.


*


NGỤ NGÔN THỨ MƯỜI


CON GÁI SƯ TỬ


Bốn tên nô lệ đứng quạt hầu cho mụ nữ hoàng đang ngủ ngồi trên ngai vàng. Mụ già ngáy khò khò. Và trên đùi mụ có con mèo lười nằm rên hừ hừ liếc mắt nhìn bốn tên nô lệ.


Tên nô lệ thứ nhất nói: “Mụ già ngủ xấu quá đi mất. Nhìn miệng mụ ấy trễ xuống kìa, mụ thở khò khè cứ như đang bị ma quỷ đè!”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Mụ ngủ xấu thì xấu nhưng chỉ xấu bằng nửa bọn nô lệ đang thức chúng mày!”


Tên nô lệ thứ hai nói: ”Tớ cứ tưởng khi ngủ mặt mụ sẽ bớt nhăn, ai ngờ còn nhăn nhúm tợn! Chắc mụ đang gặp ác mộng gì khủng khiếp lắm.”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Chúng mày cũng nhăn nhúm thế thôi khi gặp ác mộng của chúng mày là tự do!”


Tên nô lệ thứ ba nói: “Chắc mụ mơ thấy tất cả những kẻ mụ đã giết đang diễu hành rần rần.”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Có gì đâu, đấy là đám diễu hành của tổ tiên chúng mày và cả con cháu chúng mày đấy!”


Tên nô lệ thứ tư nói: “Nói xấu về mụ nghe thì cũng hay hay, nhưng chẳng làm ta bớt mệt mỏi tí nào, vì ta cứ phải đứng đây quạt hầu cho mụ!”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: Hừm! Chúng mày sẽ cứ thế mà quạt cho đến mãn kiếp mãn đời, ở dưới đất cũng như trên trời!”


Đúng lúc này, cái đầu nữ hoàng đang ngủ bỗng gục xuống, vương miện của mụ rớt xuống đất.


Một tên trong đám nô lệ thốt lên: “Ồ, điềm gở!”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Điềm gở của đứa này lại là điềm lành của đứa khác!”


Tên nô lệ thứ hai nói: “Mụ mà thức dậy, thấy vương miện rớt mất, thế nào mụ cũng giết bọn mình chết tươi.”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Mụ đã giết chúng mày mỗi ngày, từ khi chúng mày sinh ra, nhưng chúng mày nào có biết gì!”


Tên nô lệ thứ ba nói: “Đúng, mụ sẽ giết hết chúng ta rồi bảo là để cúng các vị thần.”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Chỉ những kẻ yếu đuối mới là đồ cúng thần.”


Tên nô lệ thứ tư bảo mấy tên kia im lặng, rồi nhẹ nhàng nhặt vương miện lên, đặt nó vào chỗ cũ, trên đầu mụ nữ hoàng, rất nhẹ, sao cho không làm mụ thức giấc.


Con mèo lười thấy thế, hừ hừ trong miệng rằng:”Hừm! Chỉ bọn nô lệ chính hiệu mới trả vương miện đã rớt về chỗ cũ!”


Sau đó một lúc, nữ hoàng tỉnh giấc, nhìn quanh, ngáp vặt, rồi mụ nói: “Ta vừa mơ giấc mơ kỳ dị. Ta thấy bốn con sâu bị một con bò cạp rượt quanh thân cây sồi già ngàn tuổi. Ta không thích giấc mơ này chút nào!”


Rồi mụ nhắm mắt ngủ tiếp. Mụ lại ngáy khò khò. Và bốn tên nô lệ tiếp tục quạt hầu.


Con mèo lười thấy thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Cứ quạt tiếp, quạt tiếp đi, bọn ngu xuẩn! Chúng mày đang quạt lửa thiêu đốt chúng mày đấy!”


*


Ghi chú: Ngụ ngôn “Con gái sư tử” không nằm trong tập Người điên, mà trích dịch từ tập Người Dọn đường, Ngụ ngôn và Thơ của Người (“The Forerunner, His Parables and Poems” của Gibran, xuất bản năm 1920 tại Mỹ.)[ii]


Ngẫm nghĩ:


Bốn tên nô lệ có thể là “tứ trụ”, cũng có thể là chính chúng ta, những người đang “quạt hầu” chế độ, đang nhặt vương miện đã rớt của chế độ đặt vào chỗ cũ. Giàn khoan 981 đã là cú rung lắc cực mạnh làm vương miện Đảng rớt tõm xuống đất, móp méo tệ hại. Phải chăng đang có kẻ nhặt nó lên, mông má, rồi đặt lại trên đầu Đảng, để Đảng tiếp tục cưỡi đầu dân, như cũ? Nếu vậy thì lời “đế” cuối cùng của con mèo lười rất đúng, và cái chết của kẻ nô lệ sẽ được gọi là “chết vì ngu” (death by stupidity).



Tên bản dịch và bản gốc:


1. MỘNG DU (The Sleep-Walkers); 2. THÀNH PHỐ THÁNH THIỆN (The Blessed City); 3. BIỂN LỚN (The Greater Sea); 4. THẦN THIỆN THẦN ÁC (The Good God and the Evil God); 5. THAM VỌNG (Ambition); 6. BÙ NHÌN (The Scarecrow); 7. CHIẾN TRANH (War); 8. THƯỢNG ĐẾ (God); 9. THẤT BẠI (Defeat); 10. CON GÁI SƯ TỬ (The Lion’s Daughter).


© 2014 Từ Linh & pro&contra




[i] “THE MAD MAN” (Người điên)


http://www.holybooks.com/the-madmankahlil-gibran/


[ii] “THE FORERUNNER, HIS PARABLES AND POEMS” (Người Dọn đường, Ngụ ngôn và Thơ của Người) https://archive.org/details/forerunnerhispa00gibrgoog

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 20, 2014 15:57

Ngụ ngôn gửi người mất ngủ

Từ Linh


Có lẽ, khi trầm ngâm trước bàn thờ, hoặc khi trằn trọc mất ngủ, người ta không tư duy bằng thông tin, dữ liệu hay lập luận, mà bằng ngôn ngữ gần với ngụ ngôn. Nếu thông tin là lúa mạch, nho, gạo, nước, men, thì ngụ ngôn có lẽ là rượu.


Những bài ngụ ngôn của Kahlil Gibran (1883-1931) trong tập Người điên (The Madman)[i] đầy tính thời sự, nhiều bài dữ dội như rượu mạnh, hoặc đắng chát lòng, như thuốc. Người đọc ngụ ngôn của Gibran, thời nào hay nơi nào, đều có thể liên tưởng đến chuyện nước mình. Trong những ngày ‘giàn khoan’ mất ngủ vì đau biển, đau nước, đau đất và đau đầu này, người Việt cũng thấy dường ông nói chuyện nước Việt.


Xin phép dịch thoáng ý 10 ngụ ngôn của Gibran và ghi lại vài ngẫm nghĩ sau mỗi bài. Thứ tự các bài là của người viết.


*


NGỤ NGÔN THỨ NHẤT


MỘNG DU


Ở nơi tôi sinh ra có một bà kia sống với cô con gái, cả hai đều mắc chứng mộng du.


Vào một đêm kia, khi đó đây im ắng, bà và cô con gái bỗng cùng lúc mộng du. Họ vừa đi vừa ngủ giữa khu vườn sương trắng phủ.


Giữa vườn, mẹ và con gặp nhau.


Người mẹ nói: “Cuối cùng, cuối cùng, mày chính là kẻ thù của tao! Chỉ vì mày mà tuổi xuân tao mất trắng! Chỉ vì mày sống bám phổng phao lớn lên mà đời tao tàn! Phải chi tao giết mày!”


Người con gái nói: “Mụ già gian ác hẹp hòi! Mụ chứ ai, mụ ngăn không cho tôi tự do làm người! Mụ chứ ai, mụ chỉ muốn đời tôi là bản sao cuộc đời vứt đi của mụ. Phải chi mụ chết đi!”


Đúng lúc đó, gà cất tiếng gáy, và cả hai tỉnh dậy.


Người mẹ nói, âu yếm, nhẹ nhàng: “Phải con đấy không, con yêu?” Và người con gái đáp nhỏ nhẹ: “Dạ vâng ạ, thưa mẹ.”



Ngẫm nghĩ:


Trong các sinh vật thì giống cái thường dữ dội hơn giống đực (xin lỗi quý bà). Muỗi cái, cọp cái, mèo cái, gà mái đều là những con chăm chỉ làm ăn, săn mồi, chăm con, giữ con. Trong khi đó, tuy được cho là “chủ của loài”, nhưng muỗi đực, sư tử đực, mèo đực, gà trống chỉ thích hút mật, khoe lông, đạp mái, và gáy (xin lỗi quý ông). Ngay trong ngôn ngữ tục tĩu, người ta cũng nhắc tới mẹ, ít nhắc đến ba (nói “mother f..ker”, “đ. mẹ” ít ai nói “father f..ker”, “đ. ba”) (xin lỗi quý ông bà). Dông dài vài dòng chỉ để nói: Quan hệ Việt-Tàu hiện nay thực ra là quan hệ có tính sinh tồn, dữ tợn, giả trá, cay đắng, ai cũng nước đôi và chẳng ai thật lòng, mặt ngoài thì vô cùng hữu nghị (cùng là mặt ngọt của nữ tính), nhưng trong bụng lại tua tủa dao găm, xe tăng, tên lửa, giàn khoan, tàu chiến.


Tuy mẹ Tàu (cộng) và gái Việt (cộng) chẳng ai vừa, nhưng xét cho kỹ thì thực ra mẹ rất cần con, trong khi con có thể bỏ mẹ bất kỳ lúc nào. Nhưng tại sao đứa con gái đang ngậm đắng nuốt cay kia cứ phải ở mãi trong khu vườn mụ mị sương phủ? Hay Việt là mẹ, Tàu là con? Hay Việt là Tàu, Tàu là Việt? Hay cả hai hại đời nhau nhưng không dứt ra được vì không chơi với ai được?


*


NGỤ NGÔN THỨ HAI


THÀNH PHỐ THÁNH THIỆN


Khi tôi trẻ, người ta bảo tôi rằng ở một thành phố nọ, mọi người đều sống đúng như lời Kinh thánh.


Tôi nói: “Vậy tôi sẽ tìm cho được thành phố kia và những con người đầy ân sủng nơi ấy.”


Đường xa lắm. Tôi chuẩn bị đủ mọi sự cho hành trình. Sau 40 ngày đêm, tôi đến được thành phố. Qua ngày thứ 41, tôi bước vào thành phố.


Nhưng, hỡi ơi! Tất cả mọi cư dân tôi gặp ở đây đều chỉ còn mỗi một con mắt và một bàn tay.


Kinh hoàng, tôi tự hỏi: “Chẳng lẽ thành phố thánh thiện này chỉ toàn người cụt chột, chỉ còn một mắt, một tay?”


Họ cũng kinh ngạc và hoang mang khi thấy tôi còn đủ hai tay, hai mắt. Trong lúc họ bàn tán xôn xao, tôi cất tiếng hỏi: “Thưa, đây có phải là Thành phố Thánh thiện, nơi ai nấy đều sống đúng như lời Kinh thánh?” Họ trả lời: “Không sai! Đây là thành thánh.”


Tôi lại hỏi: “Điều gì đã xảy ra vậy, mắt phải và bàn tay phải của mọi người đâu rồi?”


Nghe hỏi, họ đều xúc động. Họ bảo: “Hãy đến và xem.”


Họ đưa tôi đến đền thờ ở trung tâm thành phố. Trong đền thờ, tôi thấy một đụn lớn đầy những bàn tay và con mắt, tất cả đều đã khô héo.


Tôi hoảng hốt kêu lên: “Ôi trời! Kẻ thắng trận nào đã làm điều ghê rợn này với mọi người?”


Họ thì thào bàn tán. Rồi một bô lão bước lên nói: “Chúng tôi tự làm đấy! Chúa đã biến chúng tôi thành những kẻ thắng trận, đánh bại bầy quỷ dữ cư ngụ trong lòng.”


Nói đoạn, ông dẫn tôi đến trước một bàn thờ cao. Ai nấy đi theo.


Bô lão chỉ cho tôi thấy dòng chữ khắc phía trên bàn thờ, dòng chữ viết:


“Nếu mắt phải của ngươi khiến ngươi phạm tôi, hãy móc mắt vất đi, vì thà mất một phần thân thể còn hơn toàn thân sa hỏa ngục. Nếu tay phải của ngươi khiến ngươi phạm tội, hảy cắt bỏ nó đi, vì thà mất một phần thân thể còn hơn toàn thân sa hỏa ngục.”


Tôi hiểu ra mọi chuyện. Tôi quay lại hỏi mọi người: “Vậy có ai ở đây còn đủ hai tay, hai mắt không?”


Họ trả lời: “Không, không một ai, trừ các em còn quá trẻ chưa biết đọc Kinh thánh, chưa hiểu điều răn kia.”


Thế là vừa ra khỏi đền thờ, tôi đi thẳng một mạch rời thành thánh, vì tôi không còn trẻ, và tôi có thể hiểu Kinh thánh.



Ngẫm nghĩ:


Không tín đồ nào áp dụng cực đoan từng chữ Kinh thánh dạy như trong ngụ ngôn. Nhưng lại có những kẻ vô thần suy tôn chữ đến tận cùng mê tín.


Phía trên bàn thờ cao nhất nước tôi, trong đền thờ quyền lực nhất nước tôi, cũng có khắc mười sáu chữ vàng và bốn tốt linh thiêng.


Không, không phải “bốn tốt”, mà là “bốn ngoan”: Bạn bè ngoan, láng giềng ngoan, đối tác ngoan, đồng chí ngoan. Vâng, với “phụ mẫu”, ta phải “ngoan”, không được làm “con hoang”. Và để được xem là ngoan, người ta đã tự móc mắt phải cho mù, cắt tay phải cho bất lực, tự làm cho cụt chột mà không cần ai chặt chọc.


*


NGỤ NGÔN THỨ BA


BIỂN LỚN


1.


Một hôm, tôi và hồn tôi cùng ra biển chơi.


Đến nơi, chúng tôi đi quanh, tìm cho mình một bãi tắm riêng tư, im ắng.


Đang đi, chúng tôi gặp một người ngồi trên bãi đá đen, ông đưa tay bốc trong túi ra từng nắm muối rồi ném xuống biển.


Hồn tôi bảo: Đó là người bi quan. Ta đi thôi, không nên tắm nơi này.


2.


Đến một lạch nước, chúng tôi thấy có người đứng trên tảng đá trắng, tay ôm hộp nạm ngọc. Anh bốc từ hộp ra từng nắm đường rồi ném xuống biển.


Hồn lại bảo: Đây là người lạc quan. Đừng để y thấy ta trần truồng tắm lúc này.


3.


Chúng tôi đi xa nữa, thấy có người ngồi ở mép biển, anh nhặt từng con cá chết rồi nhẹ nhàng thả cá về với nước.


Hồn tôi bảo: Cũng không tắm ở đây được, y là kẻ theo chủ nghĩa nhân đạo.


4.


Chúng tôi lại đi, gặp một người đang lom khom vẽ viền cái bóng của mình trên cát. Các đợt sóng ùa đến xóa sạch mọi đường nét, nhưng hắn vẫn chăm chỉ lom khom vẽ rồi vẽ.


Hồn bảo tôi: Y là tay thần bí, không chơi được, đi thôi.


5.


Đến một trảng nước yên tĩnh, chúng tôi gặp một người cứ vốc bọt biển cho vào chiếc bát sành.


Hồn tôi nói: Hắn là tay lý tưởng, đừng cho hắn thấy ta tắm truồng.


6.


Chúng tôi lại đi, bỗng nghe tiếng la to: “Đây chính là biển, biểu sâu, biển rộng, biển hùng vĩ.”


Thì ra đấy là một người đang xoay lưng lại biển, anh ta kê sát bên tai một vỏ ốc lớn và đang chăm chú nghe tiếng kêu từ vỏ ốc.


Hồn tôi bảo: Đi thôi, hắn là kẻ xoay lưng với những gì hắn không nắm bắt được, và chỉ nhìn biển bằng cách nghe mảnh vụn.


7.


Và cứ thế chúng tôi đi, đến một bãi đá cỏ mọc, chúng tôi thấy một người đang vùi đầu trong cát.


Tôi bảo hồn rằng: Ta có thể tắm ở đây vì hắn không thấy gì hết.


Hồn tôi đáp: Không! Hắn mới là kẻ gây chết chóc nhiều hơn hết thẩy. Hắn là tay giáo điều thuần túy.


Chợt một nỗi buồn sâu phủ xuống mặt hồn tôi, thấm vào giọng nói, hồn tôi thổn thức:


Chúng ta đi thôi, ở đây không có chỗ nào riêng tư tĩnh lặng để đắm mình. Ta không muốn gió nơi này thổi bồng tóc mình, không muốn không khí nơi này lọt vào buồng phổi lồng ngực mình, không muốn phơi mình trần trụi giữa thứ ánh sáng này.


Thế là chúng tôi lại đi, đi tìm một vùng biển lớn hơn.



Ngẫm nghĩ:


Phải chăng, khi đứng trước biển (Đông), có ba tội nhẹ và bốn tội nặng?


Ba tội nhẹ:


Ném muối xuống biển: Ném thù oán vào người yêu nước, vào cả phương Tây, thay vì oán kẻ thù.


Ném đường xuống biển: Liếm láp đại cục bồ hòn làm ngọt, khởi đi từ cú liếm Thành Đô, quyết không cho ai bênh, cứ để chúng đánh, không đỡ.


Thả cá chết về biển: Thúc giục ngư dân bám biển rồi lại ú ớ khi ngư dân bị giặc bắt.


Bốn tội nặng:


Vẽ lại bóng của mình trên cát: Bảo vệ Đảng bằng mọi giá, bám víu quá khứ “giành độc lập” trong tư thế quỳ.


Vốc bọt biển cho vào bát: Nói mà không làm. Bảo kiện mà chẳng kiện. Nhưng dù chịu nhục vẫn vô ích.


Xoay lưng với biển nghe vỏ ốc: Nhìn thực tại bằng cách xoay lưng bịt tai với dân, nhưng ngoan ngoãn nghe ‘đường dây nóng’, nghe chúng  dậy cho bài “bốn không được”, không chỉ mụ nội Bắc Kinh khinh bỉ dạy bảo, mà mụ ngoại Quảng Đông cũng hống hách ra lệnh.


Vùi đầu xuống cát: Chỗ của người lãnh đạo là đầu sóng ngọn gió. Vùi đầu xuống cát là dấu hiệu gần đất xa trời.


Tạm kết: Nhật có phim Bảy Võ sĩ đạo (The Seven Samurai) lừng danh, nói về bảy tay kiếm áo vải giúp dân làng chống cướp, tuy năm tay kiếm hy sinh nhưng họ được dân yêu quý suốt đời. Nay, nước ta lại lồ lộ “bảy anh ngớ ngẩn” với “bảy tệ nạn chính trị” rước cướp vào nhà. Chẳng trách dân bỏ nước mà đi, bỏ hết những niềm tin đổ bể, và rất có thể rồi đây sẽ có 700, hay 7.000 Đảng viên bỏ Đảng.


*


NGỤ NGÔN THỨ TƯ


THẦN THIỆN THẦN ÁC


Thần Thiện và Thần Ác gặp nhau trên đỉnh núi.


Thần Thiện nói: “Chào người anh em, dạo này vui vẻ chứ?”


Thần Ác im không nói.


Thần Thiện hỏi: “Sao, bác hôm nay không vui?”


Thần Ác đáp: “Vui thế nào được! Gần đây chúng cứ tưởng tôi là bác, gọi tên tôi bằng tên bác, đối xử với tôi y như đối xử với bác, buồn chết đi được!”


Thần Thiện bảo: “Thì tôi cũng thế thôi, cũng bị nhận vơ là bác, bị gọi bằng tên bác!”


Thần Ác bỏ đi, nguyền rủa loài người ngu xuẩn.



Ngẫm nghĩ:


Dân gặp Giặc tại hội nghị thượng đỉnh.


Giặc than: Buồn chết đi được! Chúng gọi Giặc là Dân, xem Giặc như Dân, đối xử với Giặc như với Dân, không biết đâu mà lần!


Dân nói: Tớ cũng thế thôi. Chúng xem Dân là Giặc, đối xử với Dân như với Giặc!


Rút cuộc, cả hai cùng quay qua nguyền rủa… Đảng!


*


NGỤ NGÔN THỨ NĂM


THAM VỌNG


Ba người nhậu chung quán. Một thợ dệt, một thợ mộc và một thợ đào huyệt.


Thợ dệt nói: Tớ mới bán được tấm khăn liệm bằng vải lanh, được trả đến hai cây vàng. Ta tha hồ uống rượu!


Thợ mộc nói: Tớ vừa bán được cái quan tài siêu hạng. Không uống chay, ta có thể tha hồ kêu thịt các loại!


Thợ đào huyệt nói: Tớ thì chỉ đào một cái huyệt thôi mà chủ trả công gấp đôi! Rượu thịt xong ta có thể bánh trái tăng hai!


Thế là cả buổi tối, quán bận suốt vì ba vị khách luôn miệng gọi rượu thịt bánh trái. Ai nấy hả hê. Chủ quán cũng hỉ hả xoa tay cười khoái trá vì những vị khách vung tay tiêu xài.


Họ rời quán khi trăng đã lên cao, vừa đi vừa hò hét.


Ngoài cửa, chủ quán đứng cạnh vợ nhìn theo. Người vợ nói:


Thật là những vị khách phong lưu vui vẻ! Ước gì ngày nào họ cũng mang may mắn đến nhà ta như thế! Ừ nhỉ, thế thì con trai mình lớn lên bán quán vất vả làm gì nữa? Cứ dạy nó theo nghề thầy cúng là đủ bộ!



Ngẫm nghĩ:


Cả ba thượng khách vung vít kia đều là những kẻ kiếm sống trên cái chết của kẻ khác và hôm nay được thưởng gấp đôi. Rõ ràng kẻ thưởng lớn phải là tay mưu đồ. Đọc bỗng liên tưởng ngay đến những kẻ đang tẩm liệm, đóng quan tài, đào huyệt chôn dân tộc này, để mua lấy vàng bạc, quyền lực và bảo bọc từ bọn gian hùng phương Bắc.


Điều lạ nhất là cái tung tiền vung vít của họ lại làm cho nhiều kẻ thèm khát, muốn đứng chung chiếu, làm chung nghề, nhập chung nhóm lợi ích. Chẳng lạ gì khi người ta nhắc đến cái sổ hưu, muốn cho con cháu “vào biên chế nhà nước”. Lại cũng có ông Tổng tích cực tìm cách bổ sung kịch bản mai táng khăn-liệm-quan-tài-huyệt-mộ kia bằng màn hô hoán “bài chòi tư tưởng” nhảm nhí, như thày cúng nhảy múa trước xác chết.


*


NGỤ NGÔN THỨ SÁU


BÙ NHÌN


Có lần tôi bảo một ông bù nhìn rằng: “Chắc bác mệt lắm nhỉ, cứ đứng suốt chỗ đồng không mông quạnh này!”


Bù nhìn đáp: “Niềm vui dọa nạt người khác là niềm vui rất sâu và tồn tại rất lâu, tôi không hề thấy mệt!”


Tôi ngẫm nghĩ giây lát rồi nói: “Ừ nhỉ, đúng đấy, tôi cũng từng biết niềm vui ấy.”


Bù nhìn lại nói: “Chỉ những ai bụng đầy rơm khô mới biết niềm vui ấy thế nào.”


Tôi đi rồi, cứ thắc mắc không hiểu bù nhìn khen tôi hay xem thường tôi với câu vừa nói.


Một năm trôi qua. Thời gian đó, bù nhìn hóa thành triết gia.


Nhưng khi đi qua chỗ ấy lần nữa, tôi thấy có hai con quạ làm tổ ngay dưới nón bù nhìn.



Ngẫm nghĩ:


Bài này xin được dịch để tặng riêng cụ Tổng nay đã hóa triết gia.


*


NGỤ NGÔN THỨ BẢY


CHIẾN TRANH


Một đêm kia, hoàng cung mở tiệc linh đình. Bỗng có một người đến sấp mình trước mặt nhà vua. Mọi người dự tiệc quay nhìn, họ thấy hắn mất một mắt và hố mắt trống rỉ máu.


Vua hỏi hắn: “Điều gì đã xảy ra cho ngươi?”


Hắn đáp: “Thưa ngài, tôi sống bằng nghề trộm cướp. Đêm nay, tôi toan đến trộm một tiệm đổi tiền. Nhưng vì trời không trăng, nên khi trèo qua cửa sổ vào tiệm đổi tiền, tôi lại vào nhầm tiệm dệt. Tối quá, tôi chạy vấp phải khung cửi và khung cửi móc mất của tôi con mắt. Bây giờ, thưa ngài, tôi muốn tên thợ dệt phải trả lại sự công bằng cho tôi!”


Vua cho gọi người thợ dệt. Khi ông đến nơi, vua ra lệnh móc một mắt của thợ dệt đền cho tên trộm cướp.


Người thợ dệt phân bua: “Ôi thưa ngài, phán quyết của ngài thì đúng. Thật công bằng khi ngài cho móc một mắt tôi để đền tội. Nhưng tôi cần hai mắt để nhìn thấy cả hai mặt vải dệt. Tôi biết một anh láng giềng là thợ giày còn hai mắt, nhưng trong công việc thì hắn không cần cả hai mắt làm gì!”


Thế là vua cho gọi thợ giày đến. Ông đến nơi, và họ móc lấy một mắt của thợ giày.


Và thế là công lý được thực hiện!



Ngẫm nghĩ:


Không phải vô tình mà tựa ngụ ngôn này là “Chiến tranh”. Quả thực, một khi kẻ trộm cướp lộng hành muốn đòi gì thì đòi, một khi kẻ cầm cán cân công lý chỉ lo ăn uống, côn đồ bảo gì nghe nấy, và một khi kẻ bị lôi đến công đường biết dẻo miệng ngụy biện thì cuối cùng người vô tội sẽ bị hại, côn đồ thắng thế, và chiến tranh dứt khoát sẽ xảy ra.


Sao giống chuyện giàn khoan đến vậy? Cướp Tàu leo vào nhà Việt cắm giàn khoan lộng hành, rồi lu loa bảo Việt đánh Tàu, đòi bồi thường, đòi móc mắt. Trong khi đó, kẻ giữ trật tự quốc tế thì về vườn ẩm ương, chủ nhà Việt thì ươn hèn không dám nói, chịu nhục, chịu chặn họng, móc mắt. Hậu quả là họ hóa đui chột sứt mẻ trước toàn dân và cả thế giới.


*


NGỤ NGÔN THỨ TÁM


THƯỢNG ĐẾ


Thuở hồng hoang, khi miệng tôi bập bẹ tiếng người, tôi lên đỉnh núi thiêng thưa chuyện cùng Thượng đế. Tôi thưa ngài rằng: “Lạy ông chủ, con là tôi tớ của ông. Ý ông là điều răn con nằm lòng, kể cả những ý thầm kín, và con sẽ vâng lời ông suốt đời con.”


Thượng đế không trả lời, ngài bỏ đi như một trận cuồng phong dữ dội.


*


Một ngàn năm sau, tôi lại lên đỉnh núi thiêng thưa chuyện cùng Thượng đế. Tôi thưa ngài rằng: “Kính lạy Đấng Sáng tạo. Con là tạo vật của ngài. Ngài dùng đất sét nắn thành con, và con nợ ngài cả cuộc đời con.”


Thượng đế không trả lời, ngài bỏ đi như ngàn cánh chim bay vút qua bầu trời.


*


Một ngàn năm sau nữa, tôi lên đỉnh núi thiêng thưa chuyện cùng Thượng đế. Tôi thưa ngài rằng: “Cha ơi, con là con cha đây. Vì lòng xót thương và yêu mến, cha đã sinh ra con, và với tình yêu và thờ phụng, con sẽ kế thừa đất nước của Cha.


Thượng đế vẫn không trả lời, ngài bỏ đi như màn sương mù kéo ngang chân trời, che phủ núi đồi xa.


*


Lại một ngàn năm nữa, tôi lên đỉnh núi thiêng thưa chuyện cùng Thượng đế. Tôi thưa ngài rằng: ”Thượng đế của tôi, mục đích của tôi, sự viên mãn của tôi. Tôi là hôm qua của ngài, ngài là ngày mai của tôi. Tôi là rễ của ngài trong đất và ngài là hoa của tôi trên trời. Và chúng ta cùng lớn lên trước mặt trời.”


Thượng đế cúi xuống bên tôi, thì thầm vào tai tôi lời ngọt ngào. Và như biển lớn đón nhận dòng suối vào lòng thế nào thì ngài cũng ôm lấy tôi như vậy.


Và khi tôi rời núi xuống thung lũng và đồng bằng, Thượng đế ở bên tôi.



Ngẫm nghĩ:


Có lẽ, Thượng đế không xa lạ, ngài là Người, là Bụt, là Phật, là sự Thật, là sự Sống, là Con Đường. Không phải vô tình mà Thánh kinh kể chuyện Jesus con Thượng đế “hóa thành người và ở giữa chúng ta” (emmanuel). Nhưng để con người trở nên bình đẳng với chủ mình, cha mình, chúa mình, phải mất đến 3.000 năm.


Không chỉ con người cá nhân cần trưởng thành để bình đẳng với những gì được xem là tối cao, một đất nước cũng cần quan hệ ngang hàng với mọi đối tác. Bằng không sẽ chỉ có bão tố kéo qua, chiến đấu cơ ùa tới và sương mù ngu muội phủ đầu.


Quan hệ Việt-Tàu mất 4.000 năm rồi, nhưng vẫn cứ lụi đụi ở vị trí chủ-tớ với tên đầy tớ chỉ biết ngoan ngoãn vâng lời cả đời, hoặc ở vị trí vật-chủ với tay chủ muốn nắn đồ vật kiểu gì thì nắn. Vị trí cha-con thì sao? Việt là “con” thật, nhưng Tàu chỉ xem là “con hoang”.


*


NGỤ NGÔN THỨ CHÍN


THẤT BẠI


1.


Thất bại, thất bại của tôi, nỗi cô đơn và lạc loài của tôi! Bạn thân thiết với tôi hơn vạn ngàn chiến thắng, bạn ngọt ngào với tim tôi hơn mọi vinh quang trần gian.


2.


Thất bại, thất bại của tôi! Nhờ bạn, tôi hiểu được mình và nhận ra tôi phản kháng! Nhờ bạn, tôi biết mình không còn trẻ nữa, biết chân mình không còn nhanh nữa, biết tỉnh táo để không bị trói chặt trong cạm bẫy của những vòng nguyệt quế tàn úa. Cũng nhờ bạn, tôi biết mình cô độc, biết cả niềm vui của một người bị ai nấy lẩn tránh chê cười.


3.


Thất bại, thất bại của tôi, thanh gươm và lá chắn sáng chói của tôi! Qua đôi mắt bạn, tôi đọc được rằng: Được tấn phong là trở thành nô lệ. Được thấu hiểu là bị cào bằng. Được giữ chặt là đã đến cuối hạn, như trái cây chín mọng, không rụng cũng bị hái xuống ăn.


4.


Thất bại, thất bại của tôi, bạn đồng hành dũng cảm của tôi! Bạn đã nghe khúc ca của tôi, tiếng khóc của tôi, im lặng của tôi, nhưng chỉ mình bạn kể tôi nghe ngàn cánh vỗ thế nào, biển thôi thúc thế nào, núi hực lửa trong đêm ra sao, và cũng chỉ mình bạn chịu vất vả leo lên dốc núi lởm chởm đá hồn tôi.


5.


Thất bại, thất bại của tôi, lòng dũng cảm bất tử của tôi! Bạn và tôi sẽ cùng cười vang trong giông bão, cùng đào huyệt chôn hết những gì cần chết trong mình, rồi ta sẽ cùng đứng thẳng giữa thanh thiên bạch nhật với ý chí bất khuất, và ta sẽ cùng hóa đáng gờm.



Ngẫm nghĩ:


Nhìn đúng góc, thất bại có thể là bạn, không hẳn là thù. Thất bại có khi là tai nạn, là hậu quả của sai lầm, cũng có khi đó là chọn lựa có ý thức.


Khi dịch bài này, tôi nghĩ đến với lòng kính trọng những tù nhân lương tâm, những người đang bị trù dập, bị người đời xem như “thất bại” vì mải mê làm việc “trời ơi”, dù việc ấy là dấn thân, chấp nhận mọi khổ đau cho bản thân, vì quyền con người, tự do, độc lập và dân chủ. Họ tham dự vào một cuộc đối đầu khốc liệt giữa một bên là hiểu biết để tiến bộ, và một bên là ngu dốt gây biến thái. Họ thà “thất bại” vì yêu thương con người, hơn được “tấn phong” vì hèn và ích kỷ.


*


NGỤ NGÔN THỨ MƯỜI


CON GÁI SƯ TỬ


Bốn tên nô lệ đứng quạt hầu cho mụ nữ hoàng đang ngủ ngồi trên ngai vàng. Mụ già ngáy khò khò. Và trên đùi mụ có con mèo lười nằm rên hừ hừ liếc mắt nhìn bốn tên nô lệ.


Tên nô lệ thứ nhất nói: “Mụ già ngủ xấu quá đi mất. Nhìn miệng mụ ấy trễ xuống kìa, mụ thở khò khè cứ như đang bị ma quỷ đè!”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Mụ ngủ xấu thì xấu nhưng chỉ xấu bằng nửa bọn nô lệ đang thức chúng mày!”


Tên nô lệ thứ hai nói: ”Tớ cứ tưởng khi ngủ mặt mụ sẽ bớt nhăn, ai ngờ còn nhăn nhúm tợn! Chắc mụ đang gặp ác mộng gì khủng khiếp lắm.”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Chúng mày cũng nhăn nhúm thế thôi khi gặp ác mộng của chúng mày là tự do!”


Tên nô lệ thứ ba nói: “Chắc mụ mơ thấy tất cả những kẻ mụ đã giết đang diễu hành rần rần.”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Có gì đâu, đấy là đám diễu hành của tổ tiên chúng mày và cả con cháu chúng mày đấy!”


Tên nô lệ thứ tư nói: “Nói xấu về mụ nghe thì cũng hay hay, nhưng chẳng làm ta bớt mệt mỏi tí nào, vì ta cứ phải đứng đây quạt hầu cho mụ!”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: Hừm! Chúng mày sẽ cứ thế mà quạt cho đến mãn kiếp mãn đời, ở dưới đất cũng như trên trời!”


Đúng lúc này, cái đầu nữ hoàng đang ngủ bỗng gục xuống, vương miện của mụ rớt xuống đất.


Một tên trong đám nô lệ thốt lên: “Ồ, điềm gở!”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Điềm gở của đứa này lại là điềm lành của đứa khác!”


Tên nô lệ thứ hai nói: “Mụ mà thức dậy, thấy vương miện rớt mất, thế nào mụ cũng giết bọn mình chết tươi.”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Mụ đã giết chúng mày mỗi ngày, từ khi chúng mày sinh ra, nhưng chúng mày nào có biết gì!”


Tên nô lệ thứ ba nói: “Đúng, mụ sẽ giết hết chúng ta rồi bảo là để cúng các vị thần.”


Con mèo lười nghe thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Chỉ những kẻ yếu đuối mới là đồ cúng thần.”


Tên nô lệ thứ tư bảo mấy tên kia im lặng, rồi nhẹ nhàng nhặt vương miện lên, đặt nó vào chỗ cũ, trên đầu mụ nữ hoàng, rất nhẹ, sao cho không làm mụ thức giấc.


Con mèo lười thấy thế, hừ hừ trong miệng rằng:”Hừm! Chỉ bọn nô lệ chính hiệu mới trả vương miện đã rớt về chỗ cũ!”


Sau đó một lúc, nữ hoàng tỉnh giấc, nhìn quanh, ngáp vặt, rồi mụ nói: “Ta vừa mơ giấc mơ kỳ dị. Ta thấy bốn con sâu bị một con bò cạp rượt quanh thân cây sồi già ngàn tuổi. Ta không thích giấc mơ này chút nào!”


Rồi mụ nhắm mắt ngủ tiếp. Mụ lại ngáy khò khò. Và bốn tên nô lệ tiếp tục quạt hầu.


Con mèo lười thấy thế, hừ hừ trong miệng rằng: “Hừm! Cứ quạt tiếp, quạt tiếp đi, bọn ngu xuẩn! Chúng mày đang quạt lửa thiêu đốt chúng mày đấy!”


*


Ghi chú: Ngụ ngôn “Con gái sư tử” không nằm trong tập Người điên, mà trích dịch từ tập Người Dọn đường, Ngụ ngôn và Thơ của Người (“The Forerunner, His Parables and Poems” của Gibran, xuất bản năm 1920 tại Mỹ.)[ii]


Ngẫm nghĩ:


Bốn tên nô lệ có thể là “tứ trụ”, cũng có thể là chính chúng ta, những người đang “quạt hầu” chế độ, đang nhặt vương miện đã rớt của chế độ đặt vào chỗ cũ. Giàn khoan 981 đã là cú rung lắc cực mạnh làm vương miện Đảng rớt tõm xuống đất, móp méo tệ hại. Phải chăng đang có kẻ nhặt nó lên, mông má, rồi đặt lại trên đầu Đảng, để Đảng tiếp tục cưỡi đầu dân, như cũ? Nếu vậy thì lời “đế” cuối cùng của con mèo lười rất đúng, và cái chết của kẻ nô lệ sẽ được gọi là “chết vì ngu” (death by stupidity).



Tên bản dịch và bản gốc:


1. MỘNG DU (The Sleep-Walkers); 2. THÀNH PHỐ THÁNH THIỆN (The Blessed City); 3. BIỂN LỚN (The Greater Sea); 4. THẦN THIỆN THẦN ÁC (The Good God and the Evil God); 5. THAM VỌNG (Ambition); 6. BÙ NHÌN (The Scarecrow); 7. CHIẾN TRANH (War); 8. THƯỢNG ĐẾ (God); 9. THẤT BẠI (Defeat); 10. CON GÁI SƯ TỬ (The Lion’s Daughter).


© 2014 Từ Linh & pro&contra




[i] “THE MAD MAN” (Người điên)


http://www.holybooks.com/the-madmankahlil-gibran/


[ii] “THE FORERUNNER, HIS PARABLES AND POEMS” (Người Dọn đường, Ngụ ngôn và Thơ của Người) https://archive.org/details/forerunnerhispa00gibrgoog

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 20, 2014 15:57

July 18, 2014

Lorca Nguyễn Văn Trỗi

Phạm Thị Hoài


Bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” của Thanh Thảo được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn lớp 12 tập 1 năm học 2008/2009 và từ đó hay được chọn làm đề thi tốt nghiệp, thi thử đại học và thi đại học. Năm nay cũng như vậy.


Tôi không có gì phản đối. Mọi thứ đều tốt hơn ngủ vùi trong thời đại muôn thuở Vợ chồng A Phủ. Thực tình tôi đã ngại nó lại một lần nữa được chiếu cố, như một nén nhang cho cụ Tô Hoài, chúng ta thường thích những cử chỉ nghĩa tình và đa cảm. May rằng không phải như thế. Nhưng tôi đoán Thời đại Đàn ghi ta của Lorca cũng sẽ kéo dài vài thập kỉ. Mấy dòng sau đây là một lời an ủi cho những sĩ tử năm nay chống bút than “nếu em rớt, hãy chôn em với đề thi này”.


Ở hoàn cảnh của các em, tôi cũng sẽ chống bút. Không phải vì đó là một bài thơ khó hiểu. Truyện Kiều khó hiểu hơn nhiều, và khó hiểu nhất là những bài thơ không có gì để hiểu. Thứ này chúng ta có bạt ngàn, đọc chúng thực sự điên đầu vì thần kinh của chúng ta bị tra tấn kinh khủng bởi sự vô nghĩa. Cái bẫy giăng ra cho các em trong đề thi Lorca năm nay lẽ ra nên sập vào người ra đề, người bảo các em lên chuyến tầu nối thi ca với hiện thực nhưng bắt các em xuống nhầm ga. Lorca trong bài thơ của Thanh Thảo và Lorca có thật trong lịch sử chỉ giống nhau như một hình chữ S vẽ trên giấy và nước Việt Nam cũng hình chữ S ngoài đời, như cặp mắt sáng “như sao” với chòm “râu hơi dài” của một nhân vật được gọi là “Bác” trong một bài hát với Hồ Chủ tịch trong hiện thực. Bài thơ ấy khóc thương một chàng nghệ sĩ ghi ta xứ Tây Ban Nha tên là Lorca đột ngột bị giết hại dã man. Chấm hết. Tuyệt không đề cập điều gì hơn. Hình tượng Lorca trong bài thơ ấy không gánh vác câu chuyện gì về chàng, nó chỉ chở cảm xúc của Thanh Thảo trước cái chết đau thương của một nghệ sĩ tài năng, bằng một ngôn ngữ thơ mà nền thi ca hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở thời điểm ấy còn lạ lẫm.


Chỉ có chừng ấy, song đề thi yêu cầu như sau: “Về hình tượng Lor-ca trong bài thơ ’Đàn ghi ta của Lor-ca’ của Thanh Thảo, có ý kiến cho rằng: Đó là mẫu nghệ sĩ-chiến sĩ, vì dấn thân tranh đấu cho dân chủ và tự do nên bị bọn phát xít hành hình. Ý kiến khác thì khẳng định: Đó là mẫu nghệ sĩ thuần túy chỉ đam mê cái đẹp và sáng tạo nghệ thuật, nhưng bị giết hại oan khuất. Bằng cảm nhận về hình tượng Lor-ca, anh/chị hãy bình luận các ý kiến trên.”


Những thứ ầm ĩ đó ở đâu ra nhỉ? Bọn phát xít nấp ở chỗ gieo vần trúc trắc nào mà tôi không thấy? Tôi cũng không phát hiện được chiến sĩ nào dấn thân tranh đấu cho dân chủ tự do trong bài thơ của Thanh Thảo. Nếu có thì nó đã không vào được sách giáo khoa trong nhà trường Việt Nam, vì về nguyên tắc tiêu diệt người khác chính kiến thì các nhà nước cộng sản không cần phải hổ thẹn sánh vai với các nhà nước phát xít. Các tác giả Nhân văn-Giai phẩm bị ai “hành hình”? Đó là chưa kể lối bình giảng mà đúng ra nên gọi là “mớm lời” đầy tinh thần giáo án: nghệ sĩ nên là một chiến sĩ vị nhân sinh hay nên thuần túy vị nghệ thuật. Tôi xin cược toàn bộ tài sản tinh thần của mình vào cửa này, rằng câu trả lời chiết trung vô tận sẽ là: phải dung hòa cả hai. Thật là một nhận thức lay động thế giới!


Thi sĩ Tây Ban Nha Federico García Lorca quả thật bị lực lượng dân binh cực hữu dưới trướng tướng phát xít Franco hành hình ngày 19.8.1936. Song cuộc đời và cái chết của ông nằm ngoài bài thơ của Thanh Thảo. Ông không là một chiến sĩ tranh đấu, không trực tiếp tham gia các phong trào chính trị, thậm chí có nhiều bạn bè và cả người bảo trợ trong giới thuộc hạ Franco. Ông bị bắt khi nương náu trong chính một gia đình thân phát xít. Ông cũng không là một thiên tài cô đơn, trước khi bị giết ông đang ở đỉnh cao của danh tiếng. Ông là cái gai trong mắt giới cực hữu thủ cựu vì tư tưởng thiên tả, vì lối sống phóng túng, vì tài năng và sự nổi tiếng. Quá nổi tiếng. Một bài thơ, một vở kịch của ông có tác động hơn ngàn khẩu súng, những kẻ muốn trừ khử ông nghĩ thế. Song còn một chi tiết nữa, có thể là chi tiết quan trọng nhất: ông là người đồng tính luyến ái. Trong chế độ phát xít, đó là án tử hình. Một trong những đao phủ giết ông đã khoe bắn thêm hai phát vào mông “thằng đồng cô”. Cho đến bây giờ cái chết của ông vẫn chưa hoàn toàn sáng tỏ và xác ông chôn ở đâu không rõ.


Tôi không nghĩ rằng câu chuyện thực về Lorca không thể kể trong nhà trường Việt Nam. Bảo thủ và lạc hậu trong rất nhiều lĩnh vực, song chính quyền Việt Nam cởi mở và tiến bộ đến bất ngờ trong vấn đề đồng tính luyến ái. Khi cuốn Lorca y el mundo gay của nhà viết tiểu sử Lorca uy tín Ian Gibson ra mắt mấy năm trước, chính là Thông tấn xã Việt Nam đã thông tin đầu tiên. Gần đây hơn, một số tờ báo chính thống khác cũng không ngần ngại thông tin về người tình đồng tính cuối cùng của Lorca, soi thêm vào một góc còn khuất về những ngày cuối cùng của ông. Song ào ào giảng và tán, rồi ào ào ra đề thi về chiến sĩ nghệ sĩ chống phát xít hi sinh gì đó thì dễ hơn. Tôi thật thông cảm nếu có em nào quá tuyệt vọng, miêu tả chàng Lorca cầm cả đàn lẫn súng ra trận đánh Franco trong Nội chiến Tây Ban Nha, để rồi bị địch bịt mắt bắt ra pháp trường như Nguyễn Văn Trỗi.


© 2014 pro&contra

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 18, 2014 16:11

Phạm Thị Hoài's Blog

Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Phạm Thị Hoài's blog with rss.