Nguyễn Phương Văn's Blog, page 7
March 6, 2020
Từ chức đi
Việc chống dịch nên để những người có chuyên môn y tế dẫn dắt. Các chính trị gia đang lãnh đạo việc chống dịch nên từ chức, lùi xuống làm supporting thôi.
Việc lấy lại Hoàng Sa có thể đùn đẩy cho thế hệ con cháu. Trả nợ công có thể bắt cháu con trả thay. Còn chống dịch thì không làm thế được đâu. Nếu còn lương tâm, xin dừng việc làm màu lại.
January 11, 2020
Mẹ sầu bi
Sáng sớm nay đang lơ mơ nghe mọi người hát một bài hát du dương, bỗng giật mình vì lời bài hát. Mở mắt ra lật đật tìm lời.
Mẹ ơi! Đoái thương xem nước Việt Nam. Trời u ám bất công lan tràn. Mẹ hãy giơ tay ban phúc bình an. Đưa Việt Nam qua phút nguy nan.
*
Quyền lực tuyệt đối là quyền lực không ai dám kiểm soát. Một nửa lời nói ra bằng miệng còn hơn cả một pháp lệnh. Không ai dám trái ý, kể cả lực lượng thực thi pháp luật, vốn luôn phải đặt pháp luật lên trên.
Cái tha hoá tuyệt đối đáng sợ nhất của quyền lực tuyệt đối chính là như vậy.
Kẻ có quyền lực nửa mùa là kẻ lên giọng “mày biết tao là ai không!”. Kẻ có quyền lực tuyệt đối là kẻ ra lệnh “cho nó biết tay tao!”.
Một khi mày phải biết tay tao, thì mày có trốn ở trời tây, cũng có lực lượng thực thi pháp luật bắt mày lôi về. Một khi mày phải biết tay tao, thì mày có đang nửa đêm cố thủ ở nhà mày sau luỹ tre làng, lực lượng thực thi pháp luật cũng xông vào mà tiêu diệt.
Tất cả đều nhẫn nhịn nhắm mắt thực thi. Cái giá phải trả thật là đau xót.
*
Bài hát du dương mà buồn đau, có lời kết:
Mẹ ơi! Đoái thương dân chúng sầu đau. Tổ quốc thân yêu qua lúc bể dâu. Nước Việt Nam giông bão tan mau.
November 29, 2019
Bầu trời chiều ẩn giấu 2019
[image error]
Mời mọi người download (miễn phí) phiên bản 2019 của Bầu trời chiều ẩn giấu ở link này (bản light dùng cho mobile) và ở link này (bản để in ra giấy). Cám ơn trước, vì sẽ download và sẽ …đọc.
Với ai chưa biết đến cuốn sáhc Bầu trời chiều ẩn giấu, có thể đọc lời giới thiệu ở link này.
Mục Lục của version 2019
Chương 1: Từ Địa tâm đến Nhật tâm
Chương 2: Từ Tất định đến bất định và hành trình đi tìm sự khởi đầu của vũ trụ
Chương 3: Tiếng vọng từ Sáng Thế
Chương 4: Bầu trời chiều ẩn giấu
Chương 5: Bức xạ của Hawking
Chương 6: Quấn quít lượng tử
Chương 7: Những kẻ săn lỗ đen vũ trụ
Chương 8: Tại sao thứ hai, thứ ba, thứ tư?
Chương 9: Học thêm một ngôn ngữ
Chương 10: Và đây là Elon Musk
Chương 11: Đằng sau bản kế hoạch Sao Hỏa của Elon Musk.
November 21, 2019
Tuổi 20 ở PolyU – Hồng Công
[image error]
Ảnh trên và bài viết ngắn dưới đây là của cô Laurel Cho, một nhà báo và nhiếp ảnh gia tự do ở Hồng Công. Cô chụp ảnh và viết cho NatGeo, Guardian, Wall Street Journal, AFP, Newt York Times …
*
Tôi đã trải qua quãng thời gian nặng nề mỗi khi đăng tin từ Đại học Bách Khoa Hồng Công (PolyU). Ngày nào tôi cũng ở đây kể từ thứ bảy, và ngủ ở đây từ Chủ nhật – tôi nghĩ một phần là vì tôi không biết làm thế nào để kể một câu chuyện mà tình tiết vẫn đang dần hé mở.
Tuần qua tôi đã chứng kiến những câu chuyện đáng kinh ngạc nhất, ý tôi là kinh ngạc theo nghĩa đen: thật khó có thể tin được một số chuyện đã thực sự xảy ra.
Cuối cùng tôi cũng đến được với những em sinh viên ở PolyU, nhưng lúc này đây tôi muốn kể về những sinh viên biểu tình đã rời đi vào ngày thứ sáu của cuộc bao vây.
Từ tối chủ nhật, các em bắt đầu [chiếm giữ đai học] với gần 1.500 người. Hầu hết là ở tuổi teen hoặc chỉ mới bước vào tuổi hai mươi. Còn ngay lúc này, 6 giờ sáng thứ Sáu, tôi đoán chừng chỉ còn lại khoảng 50 em. Những em khác đã bị bắt, đã trốn thoát, hoặc đã đầu hàng.
Vừa mới đây thôi, tôi chứng kiến nhóm sinh viên đầu tiên thực sự đầu hàng. Các em bước ra khỏi khuôn viên đại học, nắm vai nhau, được các nhân viên xã hội (social worker) hộ tống. Trước đó, các giảng viên được phép vào khuôn viên và thuyết phục những em dưới 18 tuổi rời đi, mặc dù một số em đã chọn ở lại.
Nhiều em khác đã “đầu hàng” bằng cách yêu cầu trợ giúp y tế, các em muốn được đưa ra bởi các nhân viên y tế hơn là cảnh sát, ngay cả khi điều đó có nghĩa là các em kiểu gì cũng sẽ bị bắt giữ – các em sợ cảnh sát hơn.
Tất cả các em có thể bị buộc tội bạo loạn, có thể mang bản án 10 năm.
Trường đại học trông giống như sau ngày Tận thế. Nhuệ khí mất hết và ai cũng hoang tưởng. Có những báo cáo về những người biểu tình đơn độc núp mình vào những góc ẩn náu.
Có cảm giác rằng cuối cùng thì cuộc bao vây cũng kết thúc.
*
Xem thêm về câu chuyện Hồng Công ở đây.
November 18, 2019
Bài thơ Hồng Công
[image error]
Ảnh trên là Prince Luna (黃子悅), một cô gái người Hồng Công sinh năm 1997. Cô là thành viên nổi bật của phong trào dù vàng 2014. Hiện cô là sinh viên nghệ thuật.
Trong những ngày này ở Hồng Công, không chỉ tham gia biểu tình, mà lúc căng thẳng nhất ở PolyU, cô đột ngột đưa lên twitter của mình một “bài thơ” bằng tiếng Anh (thực ra là trích từ lời một bài hát Hàn Quốc tên là Downpour/Mưa rào), rất hợp tình hợp cảnh.
Dưới đây là bản dịch “bài thơ” bằng google translate (có sửa bằng tay vài chỗ, và có đính chính của HHN).
Em không còn sức để giương ô
Em đang ướt
Lúc này đây
Bây giờ
Là lúc em dựa vào mưa
Để khóc
Òa lên trong tích tắc
Để chẳng ai thấy
Nước mắt buồn của tụi em
Một ngày nào đó, cơn mưa lạnh
Sẽ trở thành những giọt nước mắt ấm áp
Và dù có ngã xuống, thì vẫn ổn
Chỉ là một trận mưa như trút, phải không?
*
I’m getting all wet right now
I don’t even have the strength to open an umbrella
Let me just cry for a moment
As I lean on the rain
So you won’t see our sad tears
Some day, the cold rain
Will become warm tears
And fall down, It’s alright
It’s just a passing downpour, right?
*
Cô đăng bài này ở twitter, nhiều người vào trả lời.
Có người viết:
“Right
When sunlight comes again
Rainbow will shine in our tears”
hoặc viết:
“A thousand thoughts in my mind… yet can’t pick up a single word what can I say when a girl like you in front-line while me just online.”
*
Xem thêm các bài viết cũ về Hồng Công ở “Tự do cái lờ”
November 10, 2019
Kỷ nguyên Phùng Hưng
I
Long mạch của Châu thổ sông Hồng (Bắc Việt Nam)
Long mạch của đồng bằng Bắc Bộ nằm dọc theo trục [Gia Ninh] – [Long Biên-Cổ Loa-Luy Lâu] – [Chu Diên], tức là trục chính của đất Lạc cổ. Đất Âu Lạc cổ sau này hình thành nên ba miếng ghép lớn Phong Châu -Lục Châu -Giao Châu (châu Phong, châu Lục, châu Giao). Tam giác vàng với đỉnh hướng Nam (▼) của Giao Châu là Ô Diên – Long Biên – Luy Lâu. Trọng tâm của tam giác này là Cổ Loa. (Các địa danh và địa giới ngày xưa không hoàn toàn khớp với bản đồ hành chính hiện nay).
Nước Việt cổ, tiền thân của Bắc Việt Nam hiện đại, dần hình thành cả về cương vực và dân tộc khi các địa giới hành chính dần dần đi vào tâm thức của người Việt cổ (thấm nhuần văn hóa và hệ thống cai trị kiểu Hán).
Ở cực Nam của đồng bằng sông Hồng và sông Mã, phía bên kia dãy Hoành Sơn, là thành Khu Túc (gần Huế) của Lâm Ấp.
Năm 471, sau chiến thắng Lâm Ấp (447), nhà Tống thành lập một châu mới, Việt Châu, ở cực phía Bắc mạch đất Việt cổ. Việt Châu bao gồm quận Hợp Phố và các vùng lục địa cách xa duyên hải (vốn sẵn kết nối xuống Trường Hải) nằm giữa Quảng Châu và Giao Châu. Biên giới phía Bắc của Giao Châu vốn là vòng cung cực lớn đã bị hu hẹp lại và nằm dưới Hợp Phố. Đến năm 507, thêm Quế Châu được thành lập trên vùng đất vốn từng thần phục Sĩ Nhiếp ở Giao Chỉ. Châu Quế và châu Việt vô hình chung tách châu Giao (nay là Bắc Bộ) ra khỏi ảnh hưởng trực tiếp của chính trị và quân sự Trung Hoa, nhưng vẫn kết nối sâu về thương mại qua châu Lục (Lục Châu)
Phía Nam của mạch đất Giao Châu là Trường Châu rồi tiếp đến Ái Châu. Ái Châu hình thành nhờ sáp nhập Cửu Chân và Cửu Đức, hai quận được tách khỏi Giao Châu năm 523. Rồi tiếp nối Ái Châu lần lượt là Minh Châu, Lý Châu, Đức Châu.
Đây là giai đoạn lịch sử giúp Giao Châu tự nhiên bị tách ra khỏi triều đình Trung Hoa cả về địa lý và hành chính. Đồng thời việc này cũng tạo điều kiện để Giao Châu dễ dàng tiếp nhận các tư tưởng và sóng ly khai (khỏi chế độ “bắc thuộc”) từ phương nam thâm nhập lên. Kể từ đó các cuộc khởi nghĩa dành độc lập bắt đầu nổ ra.
Lý Phật Tử là người đầu trấn tam giác chiến lược ở châu thổ sông Hồng bằng cách đóng quân ở Ô Diên – Cổ Loa – Long Biên. Bên này sông Hồng (khu vực quận Cầu Giấy hiện nay) là một thành lũy do Lý Bí dựng tạm năm 545 để chống cự Trần Bá Tiên (nhà Lương).
Năm 618, thời An Nam Đô Hộ phủ, Thái thú Giao Chỉ của nhà Tùy tên là Khâu Hòa xây một tòa thành mới trên đất tòa thành tạm của Lý Bí và gọi là Tử thành.
Đến đời Đường, quan đô hộ là Trương Bá Nghi bỏ Tử thành để xây thành mới bên cạnh, hào luỹ bao quanh. Từ đó có tên La thành. Từ đó dần dần có đê La Thành, rồi có Hà Nội ngày nay. (Xem thêm Hà Nội Duyên Khởi.)
Chỗ Lý Bí đi thuyền từ sông Hồng vào Tử thành, chính là cửa sông Tô Lịch thần thánh, có lẽ gần chỗ phố Chợ Gạo bây giờ. Phù sa bồi cửa sông, sau này thành Place du Commerce. Dòng chảy sông Tô, khúc đi từ sông Hồng men theo vùng đất sau này là Thăng Long, nay là các phố Cầu Gỗ, Hàng Lược, Phan Đình Phùng.
Khu Thủ Lệ có thể chính là đất Tử thành thời nhà Tùy. Đây cũng là khúc ngoặt của dòng chảy sông Tô, từ Đông sang Tây, trở thành Bắc Nam và là nơi Phạm Tu hy sinh năm 545 để bảo vệ Vạn Xuân trước quân binh của Trần Bá Tiên. Dấu vết địa lý nay vẫn còn trong dân gian:
Nhị Hà quanh Bắc sang Đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
II
Giao Châu nhà Đường
Thái thú Giao Chỉ trở thành Tổng quản Giao Châu (Giao châu tổng quản chủ). Rồi nâng cấp lên thành Đại tổng quản. Rồi lại đổi tên thành Đại Đô đốc phủ. Giao Châu tổng quản phủ đổi tên thành Giao Châu đô đốc phủ. Rồi từ đây mới có An Đông đô hộ phủ (Bình Nhưỡng), An bắc đô hộ phủ (nay là Nội Mông và Mông Cổ), An tây đô hộ phủ (nay là Tân Cương), và Giao Châu trở thành An nam đô hộ phủ.
Cuộc khởi nghĩa đầu tiên trên đất Đường, do một người Giao Chỉ khởi lên: “Năm 687 một người Giao Chỉ tên là Lý Tự Tiên giết (An Nam đô hộ) Lưu Diên Hựu và chiếm lấy Giao Châu. Nhà Đường cử Tư mã Quế Châu (Tào Huyền Tĩnh) sang đánh dẹp.” Khoảng 30 năm sau nổ ra cuộc khởi nghĩa thứ hai: Mai Thúc Loan. Đây là quãng thời gian từ cuối thế kỷ 7 và đầu thế kỷ 8.
Cuối thế kỷ 8 nhà Đường đại loạn (loạn An Lộc Sơn – Sử Tư Minh), nhà Đường áp dụng trở lại chế độ quản lý quân sự (Tiết độ sứ quản lý phiên trấn). An Nam cũng loạn, lại còn xa xôi. Nhà Đường đổi An Nam thành Trấn Nam, đặt dưới sự quản lý của Tiết độ sứ Lĩnh Nam đạo, tức là không còn chịu sự quản lý trực tiếp của triều đình trung ương (Trường An). Đây là giai đoạn quan trọng của nước ta, với sự xuất hiện của Trương Bá Nghi, Cao Chính Bình và cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng (xem cuối bài này).
Nhà Đường áp dụng chế độ quân điền, nhắm giới hạn điền sản của các đại gia người Việt. Các đại gia một mặt cho con cháu ăn học để chui vào cơ quan nhà nước (nhà Đường), một mặt lách luật bằng cách xây dựng chùa (chùa sở hữu đất) rồi cài sư là người nhà vào. Nhà Đường lập tức đưa các siêu nhà sư qua thao túng ngược, bởi không chỉ đất đai, mà cả ý thức hệ phật giáo bản địa (thiền Tì ni đa lưu chi). Bởi phật giáo bản địa (Luy Lâu – châu thổ sông Hồng) mới là cái nhà Đường sợ.
Kết quả là nhà nước đô hộ hình thành bên hữu sông Hồng (La Thành), còn thế lực bản địa nằm rải rác ở bên kia sông. Xã hội Việt chia phe: theo Đường và chống Đường. Thế rồi quân Nam Chiếu tràn xuống, chiếm La thành. Tàn sát các nhóm thân Đường bên hữu sông, rồi và đuổi luôn phe chống Đường bên kia sông dạt lên trung du.
Cao Biền được cử đến An Nam đô hộ phủ, dẹp được nạn Nam Chiếu. Còn dân Việt bỗng hiểu ra rằng, họ chỉ có một con đường: Thoát Đường (nay gọi là thoát Trung).
Cao Biền đánh Đại La, chém giết quân Nam Chiếu, tàn sát luôn cả và quân dân Việt chống Đường mà theo Nam Chiếu. Các thủ lĩnh chống Đường và quân của họ rút chạy lên rừng núi, từ đó hình thành người Mường (người Việt cổ từ chối Hán hoá) tách hẳn người Kinh.
Còn Lục Châu (bao gồm Hồng Công hiện nay), có thủ phủ là Phiên Ngung (nay là Quảng Đông). Lục Châu thời Đường (năm 622) là một châu nằm dọc biển Hoa Nam và biển Trường Hải (nay là Vịnh Bắc Bộ), nó bao quát vùng duyên hải đồng bằng (cổ) của sông Hồng đổ lên vùng biển nay là Hồng Công – Ma Cao – Chu Hải. Điều này lý giải phần nào dòng máu chống Bắc Kinh vẫn còn rất mạnh trong người Hồng Công giống người Việt. (Xem thêm Tượng thủy nhất dạng.)
III
Con gà chọi
Trong những năm 1960 thuộc thế kỷ trước, một nhà nghiên cứu ở Đại học British Columbia đề xuất một lý thuyết mà theo đó Việt Nam một mặt nằm ở miền biên viễn Trung Hoa và chịu ảnh hưởng từ đất nước khổng lồ này, mặt khác lại có kết nối không thể chia rẽ được với tiểu lục địa Đông Nam Á.
Chịu sự giằng co giữa hai nền văn hóa lớn Trung Hoa và Ấn Độ trong nhiều thế kỷ đã làm nên hình hài Việt Nam hiện đại. Trong đó một thể chế tập quyền sao chép từ Trung Hoa đã và sẽ giúp thiểu số cai trị cai quản tương đối hiệu quả đất nước Việt rất phức tạp về địa lý và con người; còn nghệ thuật, nhất là nghệ thuật quân sự, vay mượn từ Đông Nam Á đã và sẽ giúp đa số nhân dân Việt Nam chống lại sự thôn tính, nhất là thôn tính bằng quân sự của Trung Hoa. Tượng binh và hỏa hổ của Quang Trung là một ví dụ về nghệ thuật quân sự phương nam (xem thêm Long Nhương Tướng Quân).
Binh biến loạn lạc thời trẻ của Nguyễn Ánh cũng là một nguyên nhân, vẫn theo học giả trên, đưa Việt Nam lần đầu tiên hội nhập sâu vào Đông Nam Á. Hậu quả là đến thời Gia Long, Việt Nam trở thành một thế lực chính trị và quân sự có sức ảnh hưởng lớn trong khu vực, đủ sức tranh chấp với hai thế lực đương thời là Xiêm và Miến.
Kể từ đó Cam Bốt phải đi dây giữa Xiêm và Việt, còn Lào được nhà Nguyễn sử dụng như hậu cứ nuôi dưỡng và cung cấp voi cho quân đội và triều đình nhà Nguyễn.
Trong cuộc nội chiến đẫm máu giữa Nguyễn Ánh và ba anh em Tây Sơn, ta thấy nổi lên… con gà chọi.
Bên phe ba anh em họ Nguyễn có Nguyễn Lữ mê chọi gà, từ đó sáng tạo ra Hùng Kê Quyền, thứ võ chiến đấu thực dụng của người nhỏ con, nhanh nhẹn và tàn nhẫn dùng để giết kẻ địch to lớn trong chớp mắt bằng những đòn đánh tàn bạo nhất.
Bên phe Nguyễn Ánh có Lê Văn Duyệt, mê đá gà quên cả đi họp bộ chính trị, viết bài “Kê Kinh” nổi tiếng về các ngón luyện gà nòi. Đọc Kê Kinh, có thể cảm nhận được thời Lê Văn Duyệt vẫn chưa cho gà đá đeo cựa sắt.
*
Trong bài dụ nổi tiếng Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ), món gà chọi được Trần Hưng Đạo ưu ái dành hẳn cho nửa câu: hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp. Hẳn lúc đó chư tướng nhà Trần rất mê món gà chọi, mà theo dân gian được tướng sĩ của Lý Thường Kiệt du nhập từ Chiêm Thành về sau chiến thắng 1061.
Cùng với “chọi người” tức đấu võ đấu vật ở hội làng, “chọi cá”, “chọi dế” là thú vui của trẻ em, thì “chọi gà” có thể là thú chơi phổ biến trong quân đội ngày xưa. Giống “chọi trâu” là thú chơi của quan lại và đội nhà giàu địa phương, “chọi voi chọi hổ” là thú vui vua chúa triều đình, tức là những thú chơi không mang tính tuổi tác, địa phương mà là thú chơi theo giới, thì “chọi gà” là thú chơi của giới nhà binh. Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Lữ, Lê Văn Duyệt là các danh tướng mê đá gà. Nguyễn Cao Kỳ cũng là ông tướng đắm đuối với gà chọi. Không rõ tướng tá của quân đội Việt Nam có chơi gà không. Nhưng chơi đất chơi đai thì chắc là có, kể cả tướng hải quân.
*
Thú chơi chọi gà nhất quán khắp cả nước với các thuật ngữ như “om”, “xổ”, “chạy lồng”; hay chữ “gà nòi” mà ngày nay còn được dùng để chỉ cả các em học trường chuyên. Thế nhưng thì nó lại có những điểm khác hẳn nhau ở hai miền Nam Bắc. Ngoài Bắc gọi là “gà chọi”, trong Nam là “gà đá”. Con gà chọi ngoài Bắc cơ bắp, trụi lông, mặt mũi đỏ gay đỏ gắt. Con gà đá trong Nam nhỏ con, lông mướt, thậm chí còn hơi diêm dúa. Sân thi đấu ngoài Bắc gọi “sới gà”, trong Nam kêu “trường gà”. Ngoài Bắc gà chọi chân trơn (gà đòn), thi đấu rất lâu. Trong Nam gà đá chân đeo cựa sắt, đá chớp nhoáng là đối thủ lăn ra giãy chết rất thảm.
Ở miền nam Việt Nam, nơi các trường gà không chỉ chọi và mà còn cá độ nên bị vây bắt liên tục, thì đá cựa sắt chớp nhoáng rồi giải tán là một lựa chọn phù hợp nhất trong các hẻm nhỏ Sài Gòn.
[image error]
Gà chọi ở Philippinnes, chân trái có đeo cựa kim loại
Lối đá đeo cựa sắt ngày nay vẫn rất phổ biến ở các trường gà bên Philippines nơi môn đá gà ăn tiền được coi là hợp pháp. Người Philippines có thành ngữ ningas cogon, nghĩa đen là cỏ cháy rực (ningas là cháy, cogon là một loại cỏ cháy rất bén và nhanh), thường để chỉ những người làm gì cũng tốt lúc bắt đầu, nhưng sau đó thì hỏng việc. Ningas cogon rất hợp với đá gà dùng cựa sắt, trận đấu kết thúc đẫm máu gần như sau khi mới bắt đầu. Thông lệ thì gà chỉ đeo cựa chân trái, nhưng tùy theo thỏa thuận của chủ gà, có thể đeo chân phải, hoặc đeo cả hai chân. Cựa bằng kim loại, có một hoặc hai lưỡi, độ dài khác nhau. Cách đeo cựa cho gà đá, có lẽ du nhập từ Châu Âu vào Philippines.
[image error]
Cựa gà bằng bạc cổ, của Pháp
Điều này cho thấy giả thuyết lính hải quân tagal là những người truyền cách chơi gà cựa sắt cho dân miền Nam là có cơ sở.
*
Với quân đội viễn chinh, chọi gà là thú chơi đi cùng họ khắp thế giới. Lính La Mã mang chọi gà lan tỏa khắp châu Âu. Lính Tây Ban Nha du nhập món chọi gà này qua thuộc địa của họ ở Nam Mỹ.
[image error]
Tranh ghép khảm tường mosaic, khai quật từ một ngôi nhà cổ ở Pompei vẽ cảnh chọi gà của người La Mã cổ, khoảng thế kỷ 1 trước Công Nguyên
Nhà tiểu sử học Plutarch tả chọi gà ở La Mã cổ đại trong cuốn Cuộc đời Antony: “Họ thường đấu gà, và cũng thường chọi chim và gà của Ceasar thường thắng gà [của Antony]”
[image error]
Sới gà hoàng gia ở Anh
Từ năm 1858 đến 1861, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đánh chiếm Sài Gòn. Hải quân Tây Ban Nha có rất nhiều lính tagal (lính có gốc gác từ một thuộc địa của Tây Ban Nha là Phillipines mà người Việt nhầm thành lính da đen). Sau chiến thắng, người Tây Ban Nha (thực ra là người Phillipines) được cắt cho khu đất nay nằm giữa các con đường Pasteur, Lý Tự Trọng, Nam Kỳ, Nguyễn Du (hoặc có thể kéo đến tận Hàn Thuyên). Tên “Tây Ban Nha” cũng được đặt cho một con đường, đường “d’Espagne”, nay là Lê Thánh Tôn.
Những người lính Phillipines trong quân đội Tây Ban Nha được cho là đã truyền món đá gà cựa sắt cho các hậu duệ chơi đá gà của Nguyễn Lữ và Lê Văn Duyệt ở Gia Định. Món cựa sắt ấy tồn tại đến ngày nay, như một kết nối nghệ thuật quân sự dân gian giữa Việt Nam và Đông Nam Á.
IV
Ấn vs Hoa và biển Trường Hải
Cuối thập kỷ 1970 ở thế kỷ trước và đầu thập kỷ 2010 ở thế kỷ này, một nhà nghiên cứu khác ở Đại học Cornell túc tắc đưa ra những lý giải quan trọng về tư duy của Trung Hoa muốn kiểm soát tuyến hàng hải đi qua Biển Trường Hải (nay là Vịnh Bắc Bộ) và tiếp đó là kiểm soát Biển Đông. Ông cũng giải thích các thời điểm nổ ra các chạm văn hóa Ấn- Hoa, trên vùng đất miền biên viễn của nước Việt cổ (nay là miền trung Việt Nam). Trong đó xung đột quân sự là biểu hiện rõ rệt nhất.
*
Ở đô thị thương mại quốc tế Óc Eo của vương quốc cổ Phù Nam (nay thuộc An Giang) người ta khai quật được những đồng tiền khắc hình hoàng đế La Mã Antoninus Pius. Người ta cho rằng hoàng đế Marcus Aurelius sau khi chinh phục vùng Thượng Lưỡng Hà (Upper Mesopotamia: vùng đất nay thuộc Iraq, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ) vào quãng thời gian 162- 165 đã phát triển tuyến đường biển thương mại nối Đông La Mã – Tây Á – Ấn Độ và Trung Hoa. Đoạn cuối tuyến đường ấy đi dọc qua bờ biển Việt Nam ngày nay rồi ngược lên Hợp Phố lúc đó thuộc Giao Châu.
Năm 166 một đoàn thương gia xưng đại sứ của hoàng đế La Mã Marcus Aurelius đã ghé Giao Chỉ (đồng bằng sông Hồng sông Mã) trước khi đi tiếp đến triều đình nhà Hán.
Tuyến đường biển kết nối Tây Á và Trung Hoa này hẳn rất nhộn nhịp, mang lại sự giàu có cho các thương cảng cổ nằm dọc bờ biển Việt Nam, mà di sản cuối cùng của nó là Phố Hiến và Hội An. Một di sản nữa là hải tặc và nghệ thuật quân sự trên biển của họ.
*
Tuyến hàng hải thương mại mang văn hóa Ấn từ các vương quốc Đông Nam Á đi dọc duyên hải Việt Nam đi dần lên phía bắc. Điểm cuối của nó là huyện Tượng Lâm (nay là Hà Tĩnh – Quảng Bình), đây cũng là huyện biên giới cực nam thuộc quận Nhật Nam. Ở vùng đất này mầm mống của các cuộc phán kháng (để ly khai) triều đình Trung Hoa xuất hiện.
Năm 100, dân huyện Tượng Lâm cướp phá các cơ sở hành chính của nhà Hán trong huyện. Từ đó nhà Hán thiết lập một độ quân đồn trú (biên phòng và cai trị) ở ngay Tượng Lâm để kiểm soát vùng đất có nguy cơ nổi loạn này.
Năm 136 quân Khu Liên (區連) (hoặc chính là Âu Liên) từ vùng đất phía nam, bên ngoài biên giới cực nam của nhà Hán (ngoài Tượng Lâm) tấn công xâm lược các đô thị Hán, bắt đầu từ Tượng Lâm đổ ngược lên phía bắc, chiếm luôn cả Nhật Nam, và chỉ dừng bước trước đạo quân của Giao Chỉ và Cửu Chân do thứ sử Giao Chỉ là Phàn Diễn chỉ huy.
Năm 157, Chu Đạt ở Cự Phong nổi loạn giết quan huyện lệnh rồi đánh phá lên phía bắc giết thái thú Cửu Chân là Nghê Thức .
Năm 192, Âu Liên (có thể là Âu Khuê, Âu Đại, hoặc chính là Khâu Liên), con trai một quan chức nhà Hán ở Tượng Lâm đã nổi dậy giết huyện lệnh và xưng vương. Ông ta lập một vương quốc, đặt tên là Lâm Ấp. Mặc dù các cuộc tấn công cướp bóc từ Lâm Ấp vào các đô thị đồng bằng sông Mã và sông Hồng lúc này đang chịu sự cai trị của nhà Hán đều bị dập tắt, nhưng từ đây bắt đầu hình thành sự kết hợp văn hóa lai Hoa -Ấn.
*
Khoảng thập niên 180 Sĩ Nhiếp được bổ nhiệm làm thái thú Giao Chỉ. Năm 195, người ta cho rằng Sĩ Nhiếp đã dùng sát thủ giết chết thứ sử Giao Chỉ là Chu Phù. Sau khi đối thủ chính trị của mình bị loại bỏ, Sĩ Nhiệp nắm toàn quyền cai trị Giao Chỉ.
Sĩ Nhiếp cai quản Giao Chỉ thông các anh em ruột của mình (Sĩ Nhất, Sĩ Vĩ, Sĩ Vũ) là thái thú Hợp Phố, Cửu Chân, Nam Hải. Đây cũng là quãng thời gian nhà Hán đang trên đà suy tàn và triều đình trung ương không mấy để ý đến Giao Chỉ. Là người mưu lược và thức thời, Sĩ Nhiếp đợi cho chia rẽ quyền lực ở Trung Hoa ngã ngũ, ông mới nhẹ nhàng trao thân mình cho Tôn Quyền nhà Ngô, kẻ giành thắng lợi ở miền Nam nơi Giao Chỉ phụ thuộc. Sĩ Nhiếp được phong tước Long Biên hầu. Ông rời đô từ Long Biên về Luy Lâu.
Lúc này giao thương qua tuyến hàng hải ven biển đang bùng nổ. Hàng hóa, văn hóa và tăng lữ từ Trung Á và Bắc Ấn tập trung ở Kushana (Ấn Độ) rồi theo thương thuyền mà đổ vào Giao Chỉ. Trong các tăng lữ có Khương Tăng Hội và Khâu Đà La.
Năm 226 Sĩ Nhiếp chết, con trai là Sĩ Huy lên thay. Lúc này Trung Hoa chia thành “tam quốc”. Nền ngoại thương của nhà Ngô thiệt hại nặng nề do bị ngắt khỏi con đường tơ lụa nối với Trung Á. Nhà Ngô quyết định chiếm đoạt chặng cuối của tuyến thương mại đường biển vốn đang nằm trong tay gia đình họ Sĩ.
Nhà Ngô sai Lữ Đại khởi binh từ Hợp Phố tiến đánh Giao Chỉ, chiếm Luy Lâu và chém hết các anh em Sĩ Huy.
Sau khi chiếm Luy Lâu, cũng năm 226 này khi một đoàn thương gia kiêm sứ giả từ La Mã đến Luy Lâu, Lữ Đại đã bắt họ đi thẳng đến triều đình nhà Ngô. Đây là phát nắn dòng đầu tiên, đưa dòng chảy lợi nhuận ngoại thương đang đổ vào Giao Chỉ chảy sang Trung Hoa.
Năm 229, nhà Ngô cử nhiều các đoàn phái đoàn ngoại giao và thương mại đến Phù Nam gặp các thương nhân Ấn Độ ở đây để định hình tuyến thương mại Phù Nam – Quảng Đông và bỏ qua các cửa biển đồng bằng Bắc Bộ.
Cũng kể từ đó, tham vọng khống chế Miền Bắc Việt Nam và Biển Đông hình thành trong não trạng giới cầm quyền Trung Hoa.
*
Lâm Ấp có lẽ là một vương quốc nhỏ (nay là Thừa Thiên – Huế) nhưng sở hữu thương cảng sầm uất nên rất giàu. Tùy Văn Đế (Dương Kiên – nhà Tùy) sai Lưu Phương từ Giao Châu đi đánh Lâm Ấp. Năm 605, Phương mang quân đánh Lâm Ấp và thu về một lượng khổng lồ chiến lợi phẩm đắt tiền, trong đó có 1300 bộ kinh sách.
V
Kỷ nguyên Phùng Hưng
Nhưng kể từ cuộc tấn công của người Khu Liên vào Tượng Lâm, giết hết quan chức Hán ở đó, thì phải đến cuối thế kỷ 8 thì triều đình trung ương Trung Hoa mới để ý đến Lâm Ấp và một thế kỷ sau họ nhớ đến Chiêm Thành (Champapura). Xung đột Ấn – Hoa chính thức hiện hình qua xung đột quân sự Chàm và nhà Đường trên đất châu Hoan.
Thế kỷ thứ 8 cũng là thời gian các vương quốc đảo Java và Sumatra nổi lên như một thế lực hải quân lớn trong khu vực, họ tước đoạt quyền kiểm soát tuyến hàng hàng hải vốn thuộc Lâm Ấp và Chân Lạp, rồi bắt đầu tấn công lên vùng đất cực nam nhà Đường là Trấn Nam Đô hộ phủ.
Năm 722, Mai Thúc Loan người quận Cửu Chân huy động một đội quân nông dân rất lớn từ Lâm Ấp, Chân Lạp và Kim Lân rồi xưng đế. Mai Hắc Đế kéo quân đánh lên phía bắc và chiếm Đô hộ phủ. Tuy Mai Mắc Đế bị Dương Tư Húc giết chết, nhưng cuộc khởi nghĩa nông dân từ miền nam mà ngược ra tận bắc, chiếm được đô hộ phủ của nhà Đường, đã gợi ý tưởng người phương nam (Cửu Chân) ra bắc đánh đuổi giặc Tàu tới Phùng Hưng và Ngô Quyền, hai vị vua gốc Cửu Chân (không phải Sơn Tây như chính sử XHCN).
Năm 758, đô thị thương mại lớn nhất Trung Hoa là Quảng Đông bị các nhà buôn Iran và Arap tẩy chay do quan lại tham lam bóc lột thuyền buôn. Vì một lý do nào đó một nhân vật ở rất xa về địa lý với Quảng Đông là Phùng Hưng ở Cửu Chân biết được điều này.
Năm 767, hải quân của Java (quân Đồ Bà) cùng hải tặc Malay (quân Côn Lôn) từ phía Nam tiến đánh đồng bằng Bắc bộ, tấn công Đô hộ phủ, chiếm Tử thành (nay là Thủ Lệ) để làm bàn đạp cướp bóc đồng bằng bắc bộ. Sau khi đánh đuổi được quân Đồ Bà và Côn Lôn, Trương Bá Nghi – người lúc này đang cai trị Đô hộ phủ – phải bỏ Tử thành để xây thành mới, sau là thành Đại La. Trấn Nam đô hộ phủ cũng được đổi thành An Nam Đô hộ phủ.
Người cầm quân đánh Đồ Bà và Côn Lôn giúp Trương Bá Nghi là Cao Chính Bình. Cao Chính Bình được phong Đô hộ sứ. Năm 791 tướng của Phùng Hưng là Đỗ Anh Hàn đánh thắng Cao Chính Bình rồi vây thành Đại La. Cao Chính Bình uất quá ốm chết. Phùng Hưng vào thành Đại La rồi xưng vương.
Biết quân sự An Nam không địch nổi Trung Hoa, Phùng Hưng tìm cách phục hưng ngoại thương và ý thức hệ (Phật giáo)*, mở ra “Kỷ nguyên Phùng Hưng”. Trong kỷ nguyên Phùng Hưng, thương mại hàng hải bùng nổ trở lại ở An Nam, làm lu mờ Quảng Đông, và trở thành “chợ đầu mối quốc tế” trung gian giữa Đông Nam Á và Trung Hoa. Phùng Hưng mở ra thời kỳ ngắn ngủi nhưng thịnh vượng ở An Nam cho tất cả các bên có liên quan.
Sau khi Phùng Hưng qua đời năm 791, nhà Đường ra lệnh đóng cửa các chợ quốc tế ở An Nam, nhờ đó Quảng Đông mới phục hồi được vị thế đô thị thương mại quốc tế của mình. Đô thị này tồn tại đến tận ngày nay. Sau khi Đặng Tiểu Bình tự do hóa kinh tế vùng duyên hải và “đón” Hồng Công “trở về”, đô thị này trở nên giàu có bậc nhất thế giới.
*
Kỷ nguyên Phùng Hưng cho thấy phục hưng kinh tế thông qua ngoại thương và hàng hải chỉ có thể thực hiện được khi Việt Nam thoát khỏi sự kiểm soát chính trị của thiên triều và cố gắng xác lập mình như một quốc gia độc lập nằm cao nhất trên tiểu lục địa Đông Nam Á, thay vì một quốc gia phụ thuộc nằm ở tận cùng vùng đất dưới bóng Trung Hoa; đồng thời xác lập mình như một quốc gia hướng xuống vùng nước ấm và tự do của biển miền nam, thay vì chấp nhận mình như vùng đất trũng có đường ra biển bị bó lại trong vùng biển lạnh lẽo và tù túng phương bắc.
* Trong chiến tranh Đông Dương (đánh Pháp/Mỹ), chế độ thân Tàu sử dụng chiêu bài chống ngoại xâm để xúi Phật giáo miền Nam chống phương Tây (đồng thời làm chia rẽ lòng người Việt). Đây là sai lầm rất lớn của một số lãnh đạo Phật giáo miền Nam Việt Nam trước 1975. Phật giáo nằm rất sâu trong essence của dân tộc Việt Nam là để chống sự chủ nghĩa Đai Hán kéo dàng hàng ngàn năm, luôn muốn thôn tính, đô hộ và thao túng Việt Nam, chứ không phải là chống các tôn giáo khác (Đạo giáo, Kitô giáo …), lại càng không chống phương Tây. Sai lầm từ gốc rễ của các vị, cộng với sự ngạo mạn quyền lực của các vị, đã biến các vị thành gà chọi, góp phần làm hỏng vị thế tốt đẹp của Việt Nam trên tiểu lục địa Đông Nam Á, dần dần rước “quốc tặc” vào nhà, thế mà đến lúc chết các vị cũng không nhận ra.
* Đọc thêm Viện Dân Biểu, Pháp quyền pháp trị pháp gì, Con Đường Của Rồng …
Con gà chọi
[image error]
Gà chọi ở Philippinnes, chân trái có đeo cựa kim loại
Trong những năm 1960 thuộc thế kỷ trước, một nhà nghiên cứu ở Đại học British Columbia đề xuất một lý thuyết mà theo đó Việt Nam một mặt nằm ở miền biên viễn Trung Hoa và chịu ảnh hưởng từ đất nước khổng lồ này, mặt khác lại có kết nối không thể chia rẽ được với tiểu lục địa Đông Nam Á.
Chịu sự giằng co giữa hai nền văn hóa lớn Trung Hoa và Ấn Độ trong nhiều thế kỷ đã làm nên hình hài Việt Nam hiện đại. Trong đó một thể chế tập quyền sao chép từ Trung Hoa đã và sẽ giúp thiểu số cai trị cai quản tương đối hiệu quả đất nước Việt rất phức tạp về địa lý và con người; còn nghệ thuật, nhất là nghệ thuật quân sự, vay mượn từ Đông Nam Á đã và sẽ giúp đa số nhân dân Việt Nam chống lại sự thôn tính, nhất là thôn tính bằng quân sự của Trung Hoa. Tượng binh và hỏa hổ của Quang Trung là một ví dụ về nghệ thuật quân sự phương nam (xem thêm ở đây).
Binh biến loạn lạc thời trẻ của Nguyễn Ánh cũng là một nguyên nhân, vẫn theo học giả trên, đưa Việt Nam lần đầu tiên hội nhập sâu vào Đông Nam Á. Hậu quả là đến thời Gia Long, Việt Nam trở thành một thế lực chính trị và quân sự có sức ảnh hưởng lớn trong khu vực, đủ sức tranh chấp với hai thế lực đương thời là Xiêm và Miến.
Kể từ đó Cam Bốt phải đi dây giữa Xiêm và Việt, còn Lào được nhà Nguyễn sử dụng như hậu cứ nuôi dưỡng và cung cấp voi cho quân đội và triều đình nhà Nguyễn.
Trong cuộc nội chiến đẫm máu giữa Nguyễn Ánh và ba anh em Tây Sơn, ta thấy nổi lên… con gà chọi.
Bên phe ba anh em họ Nguyễn có Nguyễn Lữ mê chọi gà, từ đó sáng tạo ra Hùng Kê Quyền, thứ võ chiến đấu thực dụng của người nhỏ con, nhanh nhẹn và tàn nhẫn dùng để giết kẻ địch to lớn trong chớp mắt bằng những đòn đánh tàn bạo nhất.
Bên phe Nguyễn Ánh có Lê Văn Duyệt, mê đá gà quên cả đi họp bộ chính trị, viết bài “Kê Kinh” nổi tiếng về các ngón luyện gà nòi. Đọc Kê Kinh, có thể cảm nhận được thời Lê Văn Duyệt vẫn chưa cho gà đá đeo cựa sắt.
*
Trong bài dụ nổi tiếng Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ), món gà chọi được Trần Hưng Đạo ưu ái dành hẳn cho nửa câu: hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp. Hẳn lúc đó chư tướng nhà Trần rất mê món gà chọi, mà theo dân gian được tướng sĩ của Lý Thường Kiệt du nhập từ Chiêm Thành về sau chiến thắng 1061.
Cùng với “chọi người” tức đấu võ đấu vật ở hội làng, “chọi cá”, “chọi dế” là thú vui của trẻ em, thì “chọi gà” có thể là thú chơi phổ biến trong quân đội ngày xưa. Giống “chọi trâu” là thú chơi của quan lại và đội nhà giàu địa phương, “chọi voi chọi hổ” là thú vui vua chúa triều đình, tức là những thú chơi không mang tính tuổi tác, địa phương mà là thú chơi theo giới, thì “chọi gà” là thú chơi của giới nhà binh. Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Lữ, Lê Văn Duyệt là các danh tướng mê đá gà. Nguyễn Cao Kỳ cũng là ông tướng đắm đuối với gà chọi. Không rõ tướng tá của quân đội Việt Nam có chơi gà không. Nhưng chơi đất chơi đai thì chắc là có, kể cả tướng hải quân.
*
Thú chơi chọi gà nhất quán khắp cả nước với các thuật ngữ như “om”, “xổ”, “chạy lồng”; hay chữ “gà nòi” mà ngày nay còn được dùng để chỉ cả các em học trường chuyên. Thế nhưng thì nó lại có những điểm khác hẳn nhau ở hai miền Nam Bắc. Ngoài Bắc gọi là “gà chọi”, trong Nam là “gà đá”. Con gà chọi ngoài Bắc cơ bắp, trụi lông, mặt mũi đỏ gay đỏ gắt. Con gà đá trong Nam nhỏ con, lông mướt, thậm chí còn hơi diêm dúa. Sân thi đấu ngoài Bắc gọi “sới gà”, trong Nam kêu “trường gà”. Ngoài Bắc gà chọi chân trơn (gà đòn), thi đấu rất lâu. Trong Nam gà đá chân đeo cựa sắt, đá chớp nhoáng là đối thủ lăn ra giãy chết rất thảm.
Ở miền nam Việt Nam, nơi các trường gà không chỉ chọi và mà còn cá độ nên bị vây bắt liên tục, thì đá cựa sắt chớp nhoáng rồi giải tán là một lựa chọn phù hợp nhất trong các hẻm nhỏ Sài Gòn.
Lối đá đeo cựa sắt ngày nay vẫn rất phổ biến ở các trường gà bên Philippines nơi môn đá gà ăn tiền được coi là hợp pháp. Người Philippines có thành ngữ ningas cogon, nghĩa đen là cỏ cháy rực (ningas là cháy, cogon là một loại cỏ cháy rất bén và nhanh), thường để chỉ những người làm gì cũng tốt lúc bắt đầu, nhưng sau đó thì hỏng việc. Ningas cogon rất hợp với đá gà dùng cựa sắt, trận đấu kết thúc đẫm máu gần như sau khi mới bắt đầu. Thông lệ thì gà chỉ đeo cựa chân trái, nhưng tùy theo thỏa thuận của chủ gà, có thể đeo chân phải, hoặc đeo cả hai chân. Cựa bằng kim loại, có một hoặc hai lưỡi, độ dài khác nhau. Cách đeo cựa cho gà đá, có lẽ du nhập từ Châu Âu vào Philippines.
[image error]
Cựa gà bằng bạc cổ, của Pháp
Điều này cho thấy giả thuyết lính hải quân tagal là những người truyền cách chơi gà cựa sắt cho dân miền Nam là có cơ sở.
*
Với quân đội viễn chinh, chọi gà là thú chơi đi cùng họ khắp thế giới. Lính La Mã mang chọi gà lan tỏa khắp châu Âu. Lính Tây Ban Nha du nhập món chọi gà này qua thuộc địa của họ ở Nam Mỹ.
[image error]
Tranh ghép khảm tường mosaic, khai quật từ một ngôi nhà cổ ở Pompei vẽ cảnh chọi gà của người La Mã cổ, khoảng thế kỷ 1 trước Công Nguyên
Nhà tiểu sử học Plutarch tả chọi gà ở La Mã cổ đại trong cuốn Cuộc đời Antony: “Họ thường đấu gà, và cũng thường chọi chim và gà của Ceasar thường thắng gà [của Antony]”
[image error]
Sới gà hoàng gia ở Anh
Từ năm 1858 đến 1861, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đánh chiếm Sài Gòn. Hải quân Tây Ban Nha có rất nhiều lính tagal (lính có gốc gác từ một thuộc địa của Tây Ban Nha là Phillipines mà người Việt nhầm thành lính da đen). Sau chiến thắng, người Tây Ban Nha (thực ra là người Phillipines) được cắt cho khu đất nay nằm giữa các con đường Pasteur, Lý Tự Trọng, Nam Kỳ, Nguyễn Du (hoặc có thể kéo đến tận Hàn Thuyên). Tên “Tây Ban Nha” cũng được đặt cho một con đường, đường “d’Espagne”, nay là Lê Thánh Tôn.
Những người lính Phillipines trong quân đội Tây Ban Nha được cho là đã truyền món đá gà cựa sắt cho các hậu duệ chơi đá gà của Nguyễn Lữ và Lê Văn Duyệt ở Gia Định. Món cựa sắt ấy tồn tại đến ngày nay, như một kết nối nghệ thuật quân sự dân gian giữa Việt Nam và Đông Nam Á.
*
Cuối thập kỷ 1970 ở thế kỷ trước và đầu thập kỷ 2010 ở thế kỷ này, một nhà nghiên cứu khác ở Đại học Cornell túc tắc đưa ra những lý giải quan trọng về tư duy của Trung Hoa muốn kiểm soát tuyến hàng hải đi qua Biển Đông, cũng như thời điểm nổ ra các chạm văn hóa Ấn- Hoa, trên vùng đất miền biên viễn của nước Việt cổ (nay là miền trung Việt Nam). Trong đó xung đột quân sự là biểu hiện rõ rệt nhất.
*
Ở đô thị thương mại quốc tế Óc Eo của vương quốc cổ Phù Nam (nay thuộc An Giang) người ta khai quật được những đồng tiền khắc hình hoàng đế La Mã Antoninus Pius. Người ta cho rằng hoàng đế Marcus Aurelius sau khi chinh phục vùng Thượng Lưỡng Hà (Upper Mesopotamia: vùng đất nay thuộc Iraq, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ) vào quãng thời gian 162- 165 đã phát triển tuyến đường biển thương mại nối Đông La Mã – Tây Á – Ấn Độ và Trung Hoa. Đoạn cuối tuyến đường ấy đi dọc qua bờ biển Việt Nam ngày nay rồi ngược lên Hợp Phố lúc đó thuộc Giao Châu.
Năm 166 một đoàn thương gia xưng đại sứ của hoàng đế La Mã Marcus Aurelius đã ghé Giao Chỉ (đồng bằng sông Hồng sông Mã) trước khi đi tiếp đến triều đình nhà Hán.
Tuyến đường biển kết nối Tây Á và Trung Hoa này hẳn rất nhộn nhịp, mang lại sự giàu có cho các thương cảng cổ nằm dọc bờ biển Việt Nam, mà di sản cuối cùng của nó là Phố Hiến và Hội An. Một di sản nữa là hải tặc và nghệ thuật quân sự trên biển của họ.
*
Tuyến hàng hải thương mại mang văn hóa Ấn từ các vương quốc Đông Nam Á đi dọc duyên hải Việt Nam đi dần lên phía bắc. Điểm cuối của nó là huyện Tượng Lâm (nay là Hà Tĩnh – Quảng Bình), đây cũng là huyện biên giới cực nam thuộc quận Nhật Nam. Ở vùng đất này mầm mống của các cuộc phán kháng (để ly khai) triều đình Trung Hoa xuất hiện.
Năm 100, dân huyện Tượng Lâm cướp phá các cơ sở hành chính của nhà Hán trong huyện. Từ đó nhà Hán thiết lập một độ quân đồn trú (biên phòng và cai trị) ở ngay Tượng Lâm để kiểm soát vùng đất có nguy cơ nổi loạn này.
Năm 136 quân Khu Liên (區連) (hoặc chính là Âu Liên) từ vùng đất phía nam, bên ngoài biên giới cực nam của nhà Hán (ngoài Tượng Lâm) tấn công xâm lược các đô thị Hán, bắt đầu từ Tượng Lâm đổ ngược lên phía bắc, chiếm luôn cả Nhật Nam, và chỉ dừng bước trước đạo quân của Giao Chỉ và Cửu Chân do thứ sử Giao Chỉ là Phàn Diễn chỉ huy.
Năm 157, Chu Đạt ở Cự Phong nổi loạn giết quan huyện lệnh rồi đánh phá lên phía bắc giết thái thú Cửu Chân là Nghê Thức .
Năm 192, Âu Liên (có thể là Âu Khuê, Âu Đại, hoặc chính là Khâu Liên), con trai một quan chức nhà Hán ở Tượng Lâm đã nổi dậy giết huyện lệnh và xưng vương. Ông ta lập một vương quốc, đặt tên là Lâm Ấp. Mặc dù các cuộc tấn công cướp bóc từ Lâm Ấp vào các đô thị đồng bằng sông Mã và sông Hồng lúc này đang chịu sự cai trị của nhà Hán đều bị dập tắt, nhưng từ đây bắt đầu hình thành sự kết hợp văn hóa lai Hoa -Ấn.
*
Khoảng thập niên 180 Sĩ Nhiếp được bổ nhiệm làm thái thú Giao Chỉ. Năm 195, người ta cho rằng Sĩ Nhiếp đã dùng sát thủ giết chết thứ sử Giao Chỉ là Chu Phù. Sau khi đối thủ chính trị của mình bị loại bỏ, Sĩ Nhiệp nắm toàn quyền cai trị Giao Chỉ.
Sĩ Nhiếp cai quản Giao Chỉ thông các anh em ruột của mình (Sĩ Nhất, Sĩ Vĩ, Sĩ Vũ) là thái thú Hợp Phố, Cửu Chân, Nam Hải. Đây cũng là quãng thời gian nhà Hán đang trên đà suy tàn và triều đình trung ương không mấy để ý đến Giao Chỉ. Là người mưu lược và thức thời, Sĩ Nhiếp đợi cho chia rẽ quyền lực ở Trung Hoa ngã ngũ, ông mới nhẹ nhàng trao thân mình cho Tôn Quyền nhà Ngô, kẻ giành thắng lợi ở miền Nam nơi Giao Chỉ phụ thuộc. Sĩ Nhiếp được phong tước Long Biên hầu. Ông rời đô từ Long Biên về Luy Lâu.
Lúc này giao thương qua tuyến hàng hải ven biển đang bùng nổ. Hàng hóa, văn hóa và tăng lữ từ Trung Á và Bắc Ấn tập trung ở Kushana (Ấn Độ) rồi theo thương thuyền mà đổ vào Giao Chỉ. Trong các tăng lữ có Khương Tăng Hội và Khâu Đà La.
Năm 226 Sĩ Nhiếp chết, con trai là Sĩ Huy lên thay. Lúc này Trung Hoa chia thành “tam quốc”. Nền ngoại thương của nhà Ngô thiệt hại nặng nề do bị ngắt khỏi con đường tơ lụa nối với Trung Á. Nhà Ngô quyết định chiếm đoạt chặng cuối của tuyến thương mại đường biển vốn đang nằm trong tay gia đình họ Sĩ.
Nhà Ngô sai Lữ Đại khởi binh từ Hợp Phố tiến đánh Giao Chỉ, chiếm Luy Lâu và chém hết các anh em Sĩ Huy.
Sau khi chiếm Luy Lâu, cũng năm 226 này khi một đoàn thương gia kiêm sứ giả từ La Mã đến Luy Lâu, Lữ Đại đã bắt họ đi thẳng đến triều đình nhà Ngô. Đây là phát nắn dòng đầu tiên, đưa dòng chảy lợi nhuận ngoại thương đang đổ vào Giao Chỉ chảy sang Trung Hoa.
Năm 229, nhà Ngô cử nhiều các đoàn phái đoàn ngoại giao và thương mại đến Phù Nam gặp các thương nhân Ấn Độ ở đây để định hình tuyến thương mại Phù Nam – Quảng Đông và bỏ qua các cửa biển đồng bằng Bắc Bộ.
Cũng kể từ đó, tham vọng khống chế Miền Bắc Việt Nam và Biển Đông hình thành trong não trạng giới cầm quyền Trung Hoa.
*
Lâm Ấp có lẽ là một vương quốc nhỏ (nay là Thừa Thiên – Huế) nhưng sở hữu thương cảng sầm uất nên rất giàu. Tùy Văn Đế (Dương Kiên – nhà Tùy) sai Lưu Phương từ Giao Châu đi đánh Lâm Ấp. Năm 605, Phương mang quân đánh Lâm Ấp và thu về một lượng khổng lồ chiến lợi phẩm đắt tiền, trong đó có 1300 bộ kinh sách.
Nhưng kể từ cuộc tấn công của người Khu Liên vào Tượng Lâm, giết hết quan chức Hán ở đó, thì phải đến cuối thế kỷ 8 thì triều đình trung ương Trung Hoa mới để ý đến Lâm Ấp và một thế kỷ sau họ nhớ đến Chiêm Thành (Champapura). Xung đột Ấn – Hoa chính thức hiện hình qua xung đột quân sự Chàm và nhà Đường trên đất châu Hoan.
Thế kỷ thứ 8 cũng là thời gian các vương quốc đảo Java và Sumatra nổi lên như một thế lực hải quân lớn trong khu vực, họ tước đoạt quyền kiểm soát tuyến hàng hàng hải vốn thuộc Lâm Ấp và Chân Lạp, rồi bắt đầu tấn công lên vùng đất cực nam nhà Đường là Trấn Nam Đô hộ phủ.
Năm 722, Mai Thúc Loan người quận Cửu Chân huy động một đội quân nông dân rất lớn từ Lâm Ấp, Chân Lạp và Kim Lân rồi xưng đế. Mai Hắc Đế kéo quân đánh lên phía bắc và chiếm Đô hộ phủ. Tuy Mai Mắc Đế bị Dương Tư Húc giết chết, nhưng cuộc khởi nghĩa nông dân từ miền nam mà ngược ra tận bắc, chiếm được đô hộ phủ của nhà Đường, đã gợi ý tưởng người phương nam (Cửu Chân) ra bắc đánh đuổi giặc Tàu tới Phùng Hưng và Ngô Quyền, hai vị vua gốc Cửu Chân (không phải Sơn Tây như chính sử XHCN).
Năm 758, đô thị thương mại lớn nhất Trung Hoa là Quảng Đông bị các nhà buôn Iran và Arap tẩy chay do quan lại tham lam bóc lột thuyền buôn. Vì một lý do nào đó một nhân vật ở rất xa về địa lý với Quảng Đông là Phùng Hưng ở Cửu Chân biết được điều này.
Năm 767, hải quân của Java (quân Đồ Bà) cùng hải tặc Malay (quân Côn Lôn) từ phía Nam tiến đánh đồng bằng Bắc bộ, tấn công Đô hộ phủ, chiếm Tử thành (nay là Thủ Lệ) để làm bàn đạp cướp bóc đồng bằng bắc bộ. Sau khi đánh đuổi được quân Đồ Bà và Côn Lôn, Trương Bá Nghi – người lúc này đang cai trị Đô hộ phủ – phải bỏ Tử thành để xây thành mới, sau là thành Đại La. Trấn Nam đô hộ phủ cũng được đổi thành An Nam Đô hộ phủ.
Người cầm quân đánh Đồ Bà và Côn Lôn giúp Trương Bá Nghi là Cao Chính Bình. Cao Chính Bình được phong Đô hộ sứ. Năm 791 tướng của Phùng Hưng là Đỗ Anh Hàn đánh thắng Cao Chính Bình rồi vây thành Đại La. Cao Chính Bình uất quá ốm chết. Phùng Hưng vào thành Đại La rồi xưng vương.
Biết quân sự An Nam không địch nổi Trung Hoa, Phùng Hưng tìm cách phục hưng ngoại thương và ý thức hệ (Phật giáo), mở ra “Kỷ nguyên Phùng Hưng”. Trong kỷ nguyên Phùng Hưng, thương mại hàng hải bùng nổ trở lại ở An Nam, làm lu mờ Quảng Đông, và trở thành “chợ đầu mối quốc tế” trung gian giữa Đông Nam Á và Trung Hoa. Phùng Hưng mở ra thời kỳ ngắn ngủi nhưng thịnh vượng ở An Nam cho tất cả các bên có liên quan.
Sau khi Phùng Hưng qua đời năm 791, nhà Đường ra lệnh đóng cửa các chợ quốc tế ở An Nam, nhờ đó Quảng Đông mới phục hồi được vị thế đô thị thương mại quốc tế của mình. Đô thị này tồn tại đến tận ngày nay. Sau khi Đặng Tiểu Bình tự do hóa kinh tế vùng duyên hải và đón Hồng Công trở về đô thị này trở nên giàu có bậc nhất thế giới.
*
Kỷ nguyên Phùng Hưng cho thấy phục hưng kinh tế thông qua ngoại thương và hàng hải chỉ có thể thực hiện được khi Việt Nam thoát khỏi sự kiểm soát chính trị của thiên triều và cố gắng xác lập mình như một quốc gia độc lập nằm cao nhất trên tiểu lục địa Đông Nam Á, thay vì một quốc gia phụ thuộc nằm ở tận cùng vùng đất dưới bóng Trung Hoa; đồng thời xác lập mình như một quốc gia hướng xuống vùng nước ấm và tự do của biển miền nam, thay vì chấp nhận mình như vùng đất trũng có đường ra biển bị bó lại trong vùng biển lạnh lẽo và tù túng phương bắc.
October 25, 2019
Quấn quít lượng tử
Năm 1935, Schrödinger viết thư trao đổi với Einstein về bài báo khoa học ERP mà Einstein là một trong ba tác giả.
Trong thư viết bằng tiếng Đức, Schrödinger dùng chữ “verschränkung” để gọi mối tương quan giữa hai hạt bị chia ly sau khi đã có tương tác với nhau. Chữ verschränkung được chính Schrödinger dịch sang tiếng Anh là entanglement. Có lẽ ông chỉ thay đổi một chút để biến “romantic entanglement” thành “quantum entanglement”.
Schrödinger là một người lãng mạn, hàm sóng lượng tử mang tên ông, được ông phát minh trong một kỳ đi nghỉ với người tình (xem thêm cuối bài này). Bởi vậy, khi dịch entanglement sang tiếng Việt, có lẽ ta nên dùng “gian díu”, “luyến ái” hoặc “vấn vít”, “quấn quít”, ý nói một mối quan hệ “ẩn giấu” được “sắp đặt sẵn” trước khi hai hạt bị buộc phải rời xa nhau.
Nghiệm của hàm sóng Schrödinger còn mang đến cho thế giới lượng tử một đặc tính được gọi là superposition trong tiếng Anh. Nếu dịch từ này sang tiếng Việt theo tinh thần của Schrödinger ta sẽ có trùng điệp lượng tử.
Mỗi trạng thái lượng tử là một tổ hợp trùng trùng điệp điệp những trạng thái lượng tử khác. Tơ hồng trùng điệp duyên kiếp nhân gian.
(Bài viết dưới đây có ba cái tên nhìn hơi hơi giống nhau: Bohr, Born và Bohm)
1. Bohr, Heisenberg
Lấy cảm hứng khoa học từ thí nghiệm của Rutherfort, năm 1913 Bohr đề xuất mô hình nguyên tử dạng hành tinh trong đó các điện tử (electron) bay trên một số quỹ đạo nhất định xung quanh một hạt nhân rất nặng nhưng bé tí ti. Điện tử có thể “nhảy” từ quỹ đạo của mình sang một quỹ đạo khác, mỗi quỹ đạo tương ứng với một mức năng lượng khác nhau, bởi vậy khi nhảy nó sẽ hấp thụ hoặc bức xạ năng lượng dưới dạng ánh sáng (sóng điện từ).
Mô hình nguyên tử Bohr ăn sâu vào nhận thức chung của nhân loại. Khi nghe đến chữ nguyên tử, trong đầu chúng ta kiểu gì cũng nảy ra hình ảnh các điện tử bay quanh hạt nhân.
Mô hình nguyên tử Bohr giải thích được hiện tượng quang phổ của nguyên tử đơn giản nhất là hydro (một điện tử bay quanh một proton); nhưng thất bại trong tính toán quang phổ của các nguyên tử khác, kể cả heli là nguyên tử đơn giản gần bằng hydro. Mô hình Bohr cũng không giải thích được các biến đổi quang phố của nguyên tử hydro dưới tác động của điện trường hoặc từ trường. Trong thế giới vi mô của các hạt hạ nguyên tử (subatomic, các hạt tạo thành nguyên tử), thực ra không có quỹ đạo nào quay quay quanh hạt nhân một cách đơn giản như vậy.
Năm 1925, do bị sốt cỏ, nhà vật lý trẻ Heisenberg đi nghỉ hai tuần ở một hòn đảo nhỏ vùng Biển Bắc, đảo Heligoland. Ngồi trên đảo, những lúc ngớt sốt, Heisenberg mang toán ra làm vật lý. Và còn hơn cả một cơn sốt, Heisenberg đã có một ý tưởng cách mạng, anh vứt bỏ mô hình quỹ đạo của Bohr.
Rất lâu sau này người ta mới lờ mờ hiểu ra, là một người theo chủ nghĩa “thao tác luận” (operationism), Heisenberg chỉ tập trung vào những gì khoa học quan sát được: quang phố bức xạ ra từ các bước nhảy năng lượng bên trong nguyên tử. Từ đây anh lóe ra một ý tưởng đột phá. Bằng cách sử dụng một thứ toán học rất khó nhằn để tính toán và dự đoán quang phổ của một giao động ký lượng tử, từ đó Heisenberg có thể dự đoán được quang phổ của một nguyên tử biến đổi dưới tác động của từ trường.
Thần đồng Pauli, bạn thân của Heisenberg, và Born, người thầy của vô số các nhà vật lý vĩ đại, nồng nhiệt đón nhận mô hình toán mới mẻ của Heiseberg. Born thậm chí còn nghĩ ra tên cho lý thuyết mới mẻ của Heiseinberg, ông gọi nó là “cơ học ma trận”. Lúc này, Heisenberg mới khoảng 24 tuổi.
2. Einstein và Heisenberg
Đúng 20 năm trước, năm 1905, có một thanh niên 25 tuổi tên là Einstein tung ra một loạt bài báo làm thay đổi tận gốc khoa học hiện đại: một bài báo chứng minh phân tử là có thật; một bài báo đặt nền tảng cho vật lý lượng tử mà trong đó Einstein giải thích hiện tượng quang điện và đề xuất ra thứ mà ngày nay mang tên gọi photon (hạt ánh sáng); và một bài báo ngày nay được biết đến với tên gọi Thuyết tương đối hẹp.
Theo Thuyết tương đối hẹp, vận tốc ánh sáng là vận tốc nhanh nhất mà các vật thể trong vũ trụ của chúng ta có thể đạt được. Không vật thể nào, hay tín hiệu nào, có thể di chuyển nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Tốc độ lan truyền của tín hiệu là hữu hạn.
Ngay khi nghe đến ý tưởng cách mạng của Heisenber, Einstein gặp riêng Heisenberg để hỏi cho ra nhẽ: Heisenberg chấp nhận nguyên tử, tuy đã rất vi mô, nhưng vẫn có những thành phần vi mô còn bé hơn nữa cấu thành nên nguyên tử; thế nhưng Heisenberg từ chối chấp nhận mô hình “quỹ đạo” mà các thành phần vi mô này vận hành. Tại sao lại như vậy.
Câu trả lời của Heisenberg mang đậm màu sắc của chủ nghĩa Mach, chủ nghĩa mà Einstein chịu ảnh hưởng để từ đó tìm ra Thuyết tương đối hẹp: Chúng ta không thể quan sát các quỹ đạo điện tử ở bên trong nguyên tử, thứ duy nhất mà ta có thể thực sự quan sát đó là quang phố ánh sáng của nguyên tử. (Xem thêm về Mach và Einstein ở đây)
Câu trả lời của Heisenberg nhất quán với phát biểu của Mach: Lý thuyết tốt phải dựa trên biên độ/cấp độ (magnitude) của [tín hiệu] mà ta có thể quan sát trực tiếp.
Einstein phản biện lại Heisenberg, ông cho rằng “dựa vào biên độ của tín hiệu mà ta quan sát được để xây dựng một lý thuyết là chưa đủ. Bởi nhiều khi chính cái lý thuyết ấy lại quyết định cái mà ta có thể quan sát. Suy nghĩ sâu sắc này của Einstein, phải rất rất lâu sau này các nhà vật lý lượng tử mới thấu hiểu rằng nó sâu sắc đến thế nào.
Còn Einstein, vào buổi bình minh huy hoàng của vật lý lượng tử, đã không tranh luận nổi với Bohr và các môn đồ. Trong mắt công chúng phổ thông, Einstein bỗng trở thành một nhà vật lý già nua và tụt hậu. Vinh quang chói lọi dường như chỉ thuộc về Bohr và trường phái Copenhagen mà ông lãnh đạo.
Nhưng trong lượng tử, sự thắng thua hóa ra cũng là bất định, mà phần thắng cuối cùng dường như nghiêng về phía Einstein. Nhưng đấy là câu chuyện mãi về sau này, lúc cả Bohr và Einstein đều khuất núi. Còn bây giờ ta trở lại với cơ học ma trận của Heisenberg.
3. Heisenberg và Schrödinger
Sau cuộc nói chuyện, Einstein khuyên Heisenberg đến Copenhagen để làm việc với Bohr, một người bạn thân của Einsten; thay vì đến Leipzig để nhận chức giáo sư.
Ở Copenhagen, Heisenberg hoàn thành luận văn tiến sỹ và hoàn thiện cơ học ma trận của mình.
“Cơ học ma trận” của Heisenberg không chỉ giải thích được các hiện tượng quang phổ mà còn mở ra lối đi mới vào một thế giới mới: thế giới lượng tử.
Thế nhưng “cơ học” Heisenberg rất khó về mặt kỹ thuật, ở đây là toán, mà cái khó nhất là nó ngăn các nhà vật lý “hình dung” ra “bức tranh” về thế giới lượng tử và cách nó vận hành.
Cơ học ma trận của Heisenberg ở đỉnh vinh quang được có sáu tháng.
Schrödinger, một nhà vật lý người Áo, quyết tâm tìm ra một hướng đi khác về mặt toán học cho “cơ học lượng tử”. Ông đến một biệt thự nghỉ mát trên núi Alps ở Thụy Sỹ, mang theo một cô bồ (đến nay vẫn còn là bí ẩn) và hai viên ngọc trai để bịt tai. Trong hai tuần ở biệt thự ấy, Schrödinger đã tìm ra phương trình sóng lượng tử mà ngày nay chúng ta quen với tên gọi Phương trình Schrödinger.
So với toán của “cơ học ma trận”, toán trong lý thuyết “cơ học sóng” của Schrödinger dễ sử dụng hơn, và quan trọng hơn đó là nó giúp các nhà vật lý dễ hình dung ra một bức tranh lượng tử, bởi nó dùng ngôn ngữ toán của hàm sóng, vốn rất quen thuộc với các nhà vật lý.
“Cơ học sóng” của Schrödinger hoàn toàn tương đồng với “cơ học ma trận” của Heisenberg. Hai cơ học này dùng các công cụ toán học khác nhau để mô tả chỉ một lý thuyết duy nhất: “cơ học lượng tử”. Nhưng công cụ mà Schrödinger tạo ra dễ sử dụng hơn, và quan trọng hơn: nó giúp các nhà vật lý giải quyết các vấn đề tồn đọng cả chục năm.
Pauli, vốn giỏi toán chẳng kém gì Heisenberg, nếu như không nói còn giỏi hơn, cố gắng sử dụng cơ học ma trận để giải quyết bài toán độ sáng của các vạch quang phố hydro, một bài toán tồn đọng 17 năm, nhưng vẫn bó tay không giải nổi. Thế nhưng khi chuyển sang dùng “cơ học sóng”, anh lập tức giải ngay được bài toán này.
Summerfeld, thầy của Heisenberg cũng nói: “Không có gì để nghi ngờ “cơ học ma trận”, nhưng cách vận dụng toán học của nó cực kỳ rắc rối và trừu tượng một cách đáng sợ, may quá Schrödinger xuất hiện và cứu rỗi chúng ta.”
Born thì mô tả cơ học sóng của Schrödinger là “hình thái sâu sắc nhất của các định luật lượng tử.”
4. Nguyên lý bất định Heisenberg
Tương đồng về toán học, nhưng lại khác nhau về bản chất, và dẫn đến hai cách giải thích hoàn toàn khác nhau về các hiện tượng thuộc thế giới lượng tử. Theo “cơ học sóng” của Schrödinger, mọi hiện tượng đều chuyển động liên tục và trơn tru như sóng. Còn theo cơ học ma trận của Heisenberg, các hiện tượng phải rời rạc, nó cần phải có các bước nhảy lượng tử.
Ở ngoài đời, các nhà vật lý vĩ đại đều lịch thiệp, tỏa sáng với công chúng và quyến rũ với phụ nữ. Họ cũng lịch sự với nhau, hữu nghị và thân ái. Nhưng trong học thuật, họ cãi nhau, và cả miệt thị ý tưởng của nhau, như những kẻ mang nặng hận thù. Va chạm nảy ra ngay lập tức giữa cá nhân Schrödinger và nhóm Copenhagen của Bohr và Heiseinberg. Bất đồng tưởng đâu không thể hàn gắn được, và vật lý lượng tử sẽ không biết phải đi về đâu, thì Born lần nữa xuất hiện.
Born phát biểu rằng: hàm sóng của một hạt ở một vị trí sẽ cho ra kết quả chính là xác suất đo lường được hạt ở vị trí ấy – và ngay khi phép đo xảy ra, hàm sóng sụp đổ (collapse). Phát biểu này, ngày nay được biết đến với tên Quy tắc Born. (Xem thêm về phương trình Schrödinger và Born Rule ở đây.)
Quy tắc Born dường như đặt thế giới lượng tử bị chi phối bởi hàm sóng, trơn tru và liên tục của Schrödinger, vào một trật tự dễ đoán định.
Vòng hào quang mà Heisenberg mới đón nhận bỗng nhiên mờ hẳn. Thế nhưng với thiên tài trẻ tuổi này, mất hào quang này làm nảy ra tri kiến khác, một tri kiến cực kỳ sâu sắc về một trật tự bất khả của thế giới lượng tử. Trở lại với câu hỏi của Einstein, Heisenberg bắt đầu suy nghĩ về việc xác định vị trí chính xác của một hạt cơ bản, ví dụ hạt electron.
Để “nhìn” thấy một hạt cực kỳ bé, ta phải “chiếu” ánh sáng vào nó. Nếu bước sóng quá dài, “dài” hơn kích cỡ của electron, ta sẽ không quan sát được nó. Để quan sát được, bước sóng phải đủ ngắn. Bước sóng càng ngắn, năng lượng ánh sáng càng cao. Khi bước sóng đủ ngắn, giúp ta nhìn thấy vị trí của electron, biết chính xác vị trí của nó, thì cũng là lúc năng lượng của ánh sáng “đá” một cú mạnh vào electron, khiến hạt này “văng” đi. Ta không thể biết chính xác vận tốc và hướng mà hạt văng đi. Tức là ta không thể biết được chính xác động lượng (vector vận tốc nhân với khối lượng) của hạt. Đây chính là Nguyên lý bất định Heisenberg.
Về mặt toán học, các toán tử (ma trận) Heisenber có sự đẹp đẽ kỳ quặc riêng của nó: 3×2 lại không bằng 2×3. Đây chính là toán tử giao hoán, công thức toán nằm sau Nguyên lý bất định Heisenberg: người ta không có cách nào xác định chính xác được cả vị trí và động lượng (vận tốc) của một hạt. (Xem thêm toán tử giao hoán và nguyên lý bất định ở bài này)
5. Giải thích Copenhagen
Những năm 1920 và 1930 ở Áo và Đức, tức là cùng thời gian và không gian với cuộc cách mạng lượng tử, xuất hiện Vienna Circle và Berlin Circle, hai nhóm hoạt động triết học, chính trị và khoa học. Họ đề xuất chủ nghĩa “thực chứng lô gích” (logical positivism). Học thuyết của họ có một đặc điểm quan trọng: ý niệm về thế giới [thực tại] khoa học phải là empiricist và positivist; chỉ có [một] tri thức, đó là tri thức đến từ trải nghiệm (experience). Ý niệm về thế giới [thực tại] khoa học phải được đóng dấu bằng các ứng dụng của một phương pháp cụ thể có tên gọi là logical analysis.
Từ đây, để chống lại siêu việt vật lý (metaphysics: siêu hình/hình nhi thượng học/形而上学), các nhà positivist đề cao xác thực (verification): hiểu một phát biểu [vật lý] cũng tương đương với hiểu cách xác thực [verify] phát biểu ấy bằng cách sử dụng các giác quan của mình.
Các nhà vật lý quy tụ dưới bóng của Bohr có những cách hiểu khá khác nhau về lượng tử. Nhưng họ đồng thuận một điều: họ chấp nhận tư tưởng của logical positivism. Với họ, các câu hỏi về những gì đang “thực sự” xảy ra ở thế giới lượng tử là những câu hỏi vô nghĩa; tính toán và dự đoán được kết quả phép đo đạc [giác quan nối dài của con người] trên một hệ lượng tử là quá đủ với họ.
Thế giới lượng tử (quantum world) là thế giới của nguyên tửu (atom) và các hạt hạ nguyên tử (subatom particle). Giải thích Copenhagen phát biểu rằng vật lý lượng tử chỉ đơn thuần là công cụ tính toán các xác suất của các kết quả khác nhau của thực nghiệm.
Heisenberg là người đầu tiên nắm bắt được hình thái toán học đầy đủ của vật lý lượng tử. Nhưng cũng như Bohr, Heisenberg rất mập mờ về mặt triết học giữa thế giới thực khách quan quen thuộc của con người và thế giới thực khách quan của các hạt hạ nguyên tử.
Theo Bohr, chỉ có một mô tả (a description) mang tính chất vật lý, lượng tử và trừu tượng về thế giới lượng tử: “không có quantum world”. Các hạt vật chất bị cô lập (trong nguyên tử) chỉ là sự trừu tượng hóa; các tính chất của chúng, xét theo thuyết lượng tử, chỉ có thể định nghĩa và quan sát được thông qua việc [chúng] tương tác với các hệ [vật lý] khác”.
Heisenberg giải thích: “Một ý tưởng về một thế giới thực và khách quan, thế giới mà các cấu phần nhỏ bé nhất của nó tồn tại khách quan theo cùng nghĩa với [sự tồn tại] của đất đá hay cỏ cây, độc lập với việc chúng ta có quan sát chúng hay không – đây là một ý tưởng bất khả”.
Còn với Bohr, ông đặt ra ranh giới cho thế giới vật lý, hiện thực khách quan, của con người: ranh giới ở ngưỡng nguyên tử. Ta không nên đặt ra câu hỏi về những gì “đang xảy ra bên trong nguyên tử” khi ta không thể “nhìn vào trong” nó.
Để nhìn vào bên trong nguyên tử, các nhà vật lý xây dựng một quy trình đo lường có thực, dựa trên hàm sóng, để tìm ra vị trí của electron, kết quả đo được là “thực”. Jordan nói rằng “electron bị ép buộc tuân theo một kết luận [tức là nghiệm xác suất của hàm sóng]. Chúng ta cưỡng bức electron phải giả định về vị trí chính xác của nó trước khi ta thực hiện phép đo [tức electron phải là hạt]; trước khi thực hiện phép đo, tổng quát mà nói, electron không ở chỗ này cũng chẳng ở chỗ kia [ta chỉ biết xác suất electron xuất hiện ở những chỗ đó]. Chính chúng ta, tự bản thân mình, sản xuất ra kết quả của các phép đo.”
Nếu electron, photon là “hạt”, ta phải xác định được vị trí và vận tốc của chúng, đây lại là các đại lượng mà sóng không có. Nếu chúng là “sóng”, chúg sẽ phải có tần số và bước sóng, đây là những tính chất mà hạt không có.
Từ đây Bohr đề xuất “nguyên lý bổ sung” mà về sau này trở thành tư tưởng cốt lõi của Giải thích Copenhagen. Nguyên lý bổ sung cho rằng “hạt” và “sóng” không mâu thuẫn với nhau, mà bổ sung cho nhau.
Giao thoa electron qua thí nghiệm khe hẹp chính là sự “hiện hình” từ sóng của một hệ lượng tử mà ta có thể quan sát được về mặt vật lý. Electron là hạt, khi đi qua khe hẹp lại tạo ra vân giao thoa giống như giao thoa sóng cổ điển.
Electron khi bắn ra khỏi cathode của buồng chân không, nó là hạt.Trong lúc “bay” đến màn hình phosphor, nó là sóng. Khi va vào màn hình nó lại là hạt.
Theo triết lý của Bohr, khi ta “quan sát” một hệ lượng tử, theo nguyên lý bất định, cũng là lúc ta đã tác động nào hệ, và ta chỉ xác định được chính xác hoặc là vị trí hoặc là động lượng (tốc độ và hướng chuyển động) của hạt. “Vị trí” và “động lượng” “bổ sung” cho nhau, bởi ta cần biết cả hai để có bản mô tả đầy đủ một trạng thái lượng tử.
Từ đây đã hình thành Giải thích Copenhagen của Bohr và các đệ tử lừng danh của mình như Heiseinberg, Pauli, Born.
Giải thích Copenhagen nói rằng một hệ lượng tử giữ nguyên trạng thái “trùng điệp lượng tử” (quantum superposition) cho đến khi nó tương tác với thế giới bên ngoài hoặc bị thế giới bên ngoài quan sát. Khi tương tác này xảy ra, superposition sụp đổ về một trạng thái xác định khả dĩ nào đó, không trạng thái này thì trạng thái khác.
“Quantum superposition” là một nguyên lý cốt lõi khác của vật lý lượng tử, nó cho rằng bất cứ hai hoặc nhiều hơn hai các trạng thái (state) lượng tử có thể “cộng” vào với nhau trùng trùng điệp điệp (superposed) để tạo ra một trạng thái lượng tử. Về mặt toán học nó liên quan đến nghiệm của phương trình sóng Schrödinger, tổ hợp của các nghiệm của phương trình này cũng sẽ là một nghiệm khác.
Rất ít người dám nghi ngờ Bohr và Giải thích Copenhagen. Dirac thắc mắc thoáng qua, rằng nguyên lý bất định không đưa ra “một phương trình” mới mẻ nào. Những người hiểu giá trị sâu sắc của “một phương trình vật lý mới” như Dirac không có nhiều. Những người như thế, dám chống lại Bohr, còn ít hơn nữa. Họ chính là Einstein và Schrödinger.
6. Einstein và Copenhagen
Einstein tin vào vật lý lượng tử, nhưng niềm tin của ông không mù quáng và tuyệt đối. Từ sâu xa trong tri kiến vật lý của mình, ông nhìn thấy sự khiếm khuyết của vật lý lượng tử. Ông không thực sự tin vào Giải thích Copenhagen. Ông gọi cách giải thích này là một thứ tôn giáo, hay triết học, ru ngủ; là tiệc tùng hội hè ngập trong tri thức luận.
Câu nói nổi tiếng của Einstein nhằm chỉ trích tư tưởng của Bohr: “Chúa không quăng hạt xúc sắc”, hàm ý rằng thế giới hiện thực khách quan phải tất định, chứ không bất định và phụ thuộc vào người quan sát. Ông cho rằng “nguyên lý bổ sung” của Bohr là chưa trọn vẹn, và nó không giúp hoàn thiện và hoàn mỹ thuyết lượng tử.
Tất nhiên Bohr không nghĩ như vậy. Với Bohr, vật lý lượng tử đã hoàn tất.
Các cuộc tranh luận nảy lửa giữa Bohr và Einstein rất sâu sắc và tinh tế về cả triết học, vật lý. Vẻ ngoài của nó khiến cho người ta có cảm giác rằng cuối cùng thì Bohr thắng thế, còn Einstein thua cuộc và tụt lại đằng sau cuộc cách mạng lượng tử trẻ trung và đầy hứa hẹn.
7. De Broglie và sóng hoa tiêu (pilot-wave)
Einstein thích một cách giải thích vật lý lượng tử có “cố kết” (coherence) chặt chẽ hơn, sâu hơn, đi xuống những tầng vi mô sâu nhất của thế giới thực. Một cách giải thích mà các câu hỏi sẽ được trả lời mà không phải phụ thuộc vào xác suất tiềm ẩn trong các kết quả đo.
Một cách giải thích như vậy được de Broglie đưa ra năm 1927. De Broglie cho rằng trong thuyết lượng tử có cả “hạt” và “sóng”. Trong thế giới lượng tử của de Broglie tồn tại cả hạt và sóng. Sóng lượng tử của Broglie, có tên gọi “sóng hoa tiêu”(pilot-wave), sẽ dẫn đường cho hạt “lướt” trên con sóng ấy. Chuyển động của hạt là tất định, nhưng quỹ đạo của nó bị ẩn giấu. Không thí nghiệm nào có thể quan sát được đầy đủ quỹ đạo của hạt. Điều này dẫn đến việc lý thuyết của de Broglie vẫn thỏa mãn nguyên lý bất định Heisenberg, là lý thuyết cực kỳ khớp với thực nghiệm.
Tuy nhiên, cách giải thích của Broglie bị che phủ hoàn toàn bởi cách giải thích Copenhagen vốn đang tuyệt đối thắng thế ở cùng thời điểm.
8. Phép chứng minh của von Neumann
Von Neumann được đồng nghiệp ở Princeton nói đùa là người “có thể chứng minh bất cứ thứ gì, và bất cứ thứ gì von Neumann chứng minh đều là phép chứng minh đúng”.
Năm 1932, trong cuốn sách giáo khoa về vật lý lượng tử của mình von Neumann đã chứng minh giải thích Copenhagen là cách giải thích khả dĩ duy nhất, còn các cách giải thích “biến ẩn” (hidden-variable) là bất khả.
Năm 1935, Greta Hermann (học trò của Emmy Noether) xuất bản một bài báo trong đó cô chỉ ra một bước trong chứng minh của Neumann sai sót nghiêm trọng, và cả phép chứng minh vì thế mà bị hổng hoàn toàn. Nhưng không một ai lắng nghe nhà toán học này. Vì cô là … nữ, và không làm vật lý. (Có thể đọc thêm về Emmy Noether ở đây.)
Nhiều nhà vật lý đơn thuần chấp nhận chứng minh của von Neumann, nhắm mắt bỏ qua những lỗ hổng ngay trong trái tim của vật lý lượng tử. Nhất là khi các thành công của vật lý lượng sau thế chiến thứ hai quá khổng lồ: từ giải thích các hiện tượng quang học (tại sao mặt trời phát sáng, và tại sao mắt chúng ta nhìn thấy ánh áng), đến bom nguyên tử, chip bán dẫn trong quân sự (các vệ tinh dẫn đường tên lửa đạn đạo) và dân dụng (đầu DVD và smartphone), và các thiết bị y tế tân kỳ cứu sống vô số nhân mạng.
9. ERP và Con mèo Schrödinger
Từ năm 1927 đến năm 1935, Einstein mài rũa một số thí nghiệm tư duy, vốn là một tuyệt chiêu của Einstein. Các thí nghiệm tư duy của Einstein đều cực kỳ lô gisch, đơn giản và tinh xảo. Chúng nhắm thẳng vào tính không trọn vẹn (inadequate) của thuyết lượng tử.
Đầu tiên, Einstein tung ra một thí nghiệm liên quan đến electron, khe hẹp và màn phosphor (là màn hình TV hoặc máy tính CRT: cathode ray tube kiểu cũ). Thí nghiệm cho thấy khi electron va vào màn phosphor, thì toàn bộ hàm sóng đồng thời suy sụp. Tức là, khi electron tương tác với màn, nó “phát” đi một “tín hiệu” mà khắp “không gian” hàm sóng sẽ nhận được “cùng một lúc”. Việc này vi phạm thuyết tương đối hẹp (tín hiệu truyền nhanh hơn tốc độ ánh sáng).
Vấn đề Einstein đưa ra trong thí nghiệm này về sau được biết với tên gọi locality (“địa phương tính”). Locality là nguyên lý quan trọng của vật lý, nó cho rằng một biến cố xảy ra chỉ có tác động (nhân-quả: causal) tới vùng lân cận (địa phương), và không thể có tác động tức thời tới một biến cố khác ở xa.
Năm 1935, Einstein và hai cộng sự tung ra bài báo EPR (Einstein-Podolsky-Rosen). Đây là một thí nghiệm tư duy, có dáng vẻ bề ngoài sử dụng Nguyên lý bất định để làm lộ ra khiếm khuyết của thuyết lượng tử, còn ở sâu trong bản chất, nó cho thấy thuyết lượng tử vi phạm nguyên lý “địa phương tính”.
Thí nghiệm EPR làm bật ra một nghịch lý rất tinh tế. Trong thí nghiệm này, Einstein và cộng sự sắp đặp sao cho hai hạt cơ bản (ví dụ electron hoặc photon) tương tác với nhau theo một cách đặc biệt rồi sau đó, và nhờ đó, đo được chính xác cả vị trí và động lượng của hạt. Điều này vi phạm Nguyên lý bất định. Nếu không chấp nhận việc các hạt vi phạm nguyên lý bất định, thì đúng vào lúc thực hiện phép đo, hẳn hai hạt phải “thông tin” cho nhau theo một cách nào đó tức thời (tốc độ nhanh hơn ánh sáng) và bởi vậy vi phạm “địa phương tính”. Hay nói cách khác, các hạt có tính phi địa phương (non-locality: phi – địa phương tính).
Ví dụ một hạt hạ nguyên tử (hạt mẹ) phân ra thành hai hạt (hạt con). Hai hạt con này là một cặp hạt có “tương quan” lượng tử với nhau. Do các định luật bảo toàn, nếu thiết lập một phép đo để đo một hạt, thì kết quả đo được của hạt này sẽ có tương quan rất mạnh với kết quả đo của hạt kia. Ví dụ một hạt có spin-zero phân ra thành một cặp hạt có spin-½ (spin bán nguyên). Do định luật bảo toàn mômen động lượng tổng spin trước và sau phân ra vẫn phải bằng zero, nên khi đo spin (dọc theo một trục) của hạt này ra spin-up, thì đo hạt kia (dọc theo cũng trục ấy) sẽ phải ra spin-down. Nghịch lý ở đây là, làm sao khi phép đo tác động lên hạt (con) này, làm hàm sóng sụp đổ, và tín hiệu (sụp đổ) này “báo hiệu” tức thời cho hạt (con) kia.
Trong các thư từ trao đổi với Einstein, Schrödinger chỉ ra một hiện tượng độc đáo: hai hạt sau khi tương tác bỗng trở nên kết nối với nhau, chia sẻ với nhau cùng một hàm sóng. Schordinger đặt cho hiện tượng này một cái tên rất hấp dẫn: quấn quít lượng tử.
Nếu hai hạt hạ nguyên tử (particle) va chạm (collide) với nhau, ngay sau khi tương tác chúng sẽ luôn “quấn quít” (entangled) với nhau. Nếu một nhóm các đối tượng/vật thể lượng tử, bất kể là các hạt cơ bản trong nguyên tử, hay các nguyên tử trong phân tử, hợp với nhau để tạo thành một đối tượng lớn hơn, chúng đều trở nên “quấn quít”. Gần như tất cả các hạt, sau khi tương tác với nhau, chúng đều bị “quấn quít” và chia sẻ với nhau một hàm sóng đơn duy nhất, giống y như trong thí nghiệm tư duy của Einstein.
Thí nghiệm EPR làm nổi bật bản chất tự nhiên (rất trái với trực giác thông thường) của “quantum superposition” lượng tử. Từ đây Schrödinger nghĩ ra thí nghiệm tư duy nổi tiếng: Con mèo Schordinger, một con mèo cùng một lúc tồn tại ở cả hai trạng thái khác nhau: đang sống hoặc đang chết. Khi người quan sát, mở cửa buồng để quan sát con mèo thì đồng thời anh ta cũng làm sụp đổ một hàm sóng, mà hàm sóng này (có xác suất như tung đồng xu), hoặc bật lẫy cái búa gõ chết con mèo, hoặc không bật lẫy. Ở thời điểm quan sát ấy người quan sát xác định được số phận của con mèo: sống hoặc chết. Nhưng trước đó, con mèo vừa đang sống lại vừa đang chết.
10. Chiến tranh thế giới thứ hai
Năm 1937, Hitler xuất hiện trên vũ đài chính trị thế giới. Thế giới nói chung và giới vật lý nói riêng bắt đầu đảo lộn.
Einstein nhìn ra trông rộng, sớm nhận bóng đen của chủ nghĩa quốc xã, nhanh chân đào thoát khỏi nước Đức và cuối cùng định cư ở Mỹ.
Wigner và von Neumann đi theo Einstein sang Mỹ.
Born chạy qua Anh và cuối cùng định cư ở Scotland.
Schordinger có vợ là người Do Thái, bỏ chạy tới Ireland.
Gia đình Fermi ở Itali còn khó khăn hơn dưới thời Mussolini. Bohr phải lén thông báo với Fermi rằng ông sẽ được giải Nobel để Fermi yên tâm mình sẽ có tiền giải thưởng và có sự danh giá của giải thưởng để làm giấy tờ định cư ở Mỹ. Đi Stockom để nhận giải, Fermi và gia đình đi thẳng tới Mỹ.
Bohr an toàn ở Đan Mạch cho đến gần cuối thế chiến. Năm 1943c mật vụ SS bắt đầu bố ráp người Do Thái ở Copenhagen. Bohr đào thoát qua Stockholm bằng tàu của ngư dân. Ở Stockholm cũng đầy rẫy điệp viên Đức, nên Không quân Hoàng Gia Anh sử dụng máy bay ném bom Mosquito để đưa Bohr tới Anh. Đây là máy bay ném bom được thiết kế bay rất cao để tránh pháo phòng không. Trên đó Bohr được phi công ra lệnh phải đeo mặt nạ dưỡng khí. Nhưng do tai nghe quá bé, Bohr không nghe được chỉ dẫn của phi công và suýt toi mạng.
Heisenberg ở lại Đức và lãnh đạo nhóm nghiên cứu bom nguyên tử cho nhà nước Quốc xã. Năm 1945, Heisenberg bị biệt kích Mỹ bắt và đem tới Anh cùng các nhà vật lý nguyên tử khác. Bị nhốt trong một lâu đài sang trọng vài tuần, họ nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật ở đây. Kiến trúc sư của quả bom Mỹ ném xuống Nhật bản chính là Fermi.
Chiến tranh thế giới kết thúc. Năng lượng nguyên tử là thành tựu khoa học tối tân và là biểu tượng sức mạnh vô địch của nước Mỹ. Vật lý lượng tử, lý thuyết đằng sau năng lượng nguyên tử, lên ngôi và tỏa sáng chói lọi. Thành tựu nối tiếp thành tựu. Từ các con chip bán dẫn để sản xuất radio, rồi đầu DVD và nay là smartphone đến các nghiên cứu về hoạt động của mặt trời, tất cả đều dựa vào vật lý lượng tử. Hay nói đúng hơn là dựa vào giải thích Copenhagen của vât lý lượng tử.
Tiếng Anh bắt đầu thay tiếng Đức (và các thuật ngữ gốc Hy Lạp) để trở thành ngôn ngữ chính thức của vật lý hiện đại. Nhờ đó chúng ta có Big Bang, Worm-Hole, Inflation, Blach-Hole…
Các thắc mắc sâu sắc, của Einstein và Schrödinger, về bản chất của thế giới lượng tử có vẻ như đi dần vào quên lãng.
11. Bohm
Sau khi tốt nghiệp đại học vào năm 1939, Bohm được nhận làm PhD ở Caltech. Phát hiện ra Caltech không phù hợp với sở trường và sở thích của mình là nghiên cứu vật lý cơ bản, Bohm bỏ qua Berkeley để làm việc với Oppenheimer.
Oppenheimer là học trò của Born, là bạn của Pauli và bởi vậy tuy không đến Copenhagen ông vẫn là môn đồ của Bohr. Năm 1941 lúc Bohm đến Berkeley, Oppenheimer đã được biết đến qua câu nói: “Bohr là thiên chúa còn Oppenheimer là thánh tông đồ của ngài.”
Ở Berkeley, Bohm nghiên cứu các vấn đề nền tảng của vật lý lượng tử, viết luận văn về năng lượng nguyên tử, và bất ngờ có cảm tình với chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa của đất nước Xô Viết đang chống lại chủ nghĩa Phát Xít ở Châu Âu. Bohm ra nhập chi bộ đảng cộng sản, rồi rời bỏ nó chỉ sau vài tháng vì nhận ra bản chất thật của đảng. Nhưng đã quá muộn.
Oppenheimer chuyển Bohm qua làm việc ở dự án Manhattan, dự án bí mật sản xuất bom nguyên tử của Mỹ (sau được ném xuống Nhật). Bohm, vì dính líu tới đảng cộng sản, đã không vượt qua được vòng kiểm tra an ninh. Không những vậy, sổ sách ghi chép và các tính toán làm luận văn của Bohm bị tịch thu (và chuyển cho dự án Manhattan). Bohm bị cấm viết ra luận văn của mình. Tuy nhiên Oppenheimer vẫn dàn xếp để Bohm nhận bằng PhD.
Năm 1947, Bohm chuyển tới Princeton. Ở đây Bohm dạy cơ lượng tử, lấy vợ, và làm quen với Einstein. Rắc rối của đời Bohm cũng nổ ra ở nơi này. Bohm bị Ủy ban điều tra hoạt động chống Mỹ của quốc hội (trong đó có Nixon) gọi ra điều trần. Anh từ chối trả lời một số câu hỏi, để bảo vệ bạn bè, vì vậy anh bị bắt giữ và vợ và bạn bè phải bảo lãnh tại ngoại.
Năm 1951, trong lúc tại ngoại, cuốn sách Bohm viết về vật lý lượng tử, chủ yếu đi theo quan điểm của Bohr được xuất bản. Einstein gọi Bohm đến gặp, khen cuốn sách, rồi nói rằng hàm sóng không phải là một mô tả hoàn chỉnh của thực tại (reality), phải có gì đó nhiều hơn thế. Einstein cũng nói rằng ông nhận ra khiếm khuyết của thuyết lượng tử từ 25 năm trước, và thuyết lượng tử, bất chấp các thành công rực rỡ của nó, vẫn lì lợm câm lặng trước câu hỏi “cái gì là thực” của ông.
Với hạt mầm được Einstein reo vào trong não, vài tuần sau Bohm tìm ra một cách giải thích khác, đơn giản hơn, về thế giới lượng tử. Về mặt toán học, giải thích của Bohm tương đương với giải thích Copenhagen, cả hai đưa ra các kết quả tính toán và dự báo giống nhau. Nhưng “bức tranh” lượng tử mà Bohm đưa ra lại hoàn toàn khác. Trong thế giới của Bohm, các hạt hạ nguyên tử tồn tại ngay cả khi không có ai quan sát, bất cứ lúc nào vị trí của chúng cũng xác định. Chuyển động của các hạt, được quyết định (tất định) bởi một sóng hoa tiêu (bị ẩn giấu đi) và sóng này biến đổi có trật tự và có thể dự báo được.
Bohm viết ý tưởng của mình thành bài nghiên cứu và gửi đi xuất bản ở Physical Review. Cùng lúc này Bohm bị đuổi khỏi Princeton: không bị tòa án kết tội, nhưng chắc chắn Bohm đã rơi vào blacklist. Đây là giai đoạn cao trào của chủ nghĩa bài cộng McCarthy. Cả Einstein lẫn Oppenheimer đều tìm cách xin việc giúp Bohm, nhưng không thành công. Bohm phải đến làm việc ở Brazil, khi mà cả đời anh chưa từng đi nước ngoài và không biết tiếng Bồ Đào Nha.
Tới Brazil, sứ quán Mỹ gọi Bohm tới và đóng vào hộ chiếu của anh dòng chữ: chỉ được nhập cảnh vào Mỹ. Bohm mắc kẹt ở Brazil, bởi nếu trở về Mỹ anh có thể bị bắt.
Bài báo của Bohm được công bố. Nó bị tẩy chay ngay tại Princeton, ngay cả Oppenheimer cũng không bảo vệ ý tưởng này của Bohm. Rất điềm tĩnh và kiên cường, ngồi ở một nơi xa cách với các trung tâm vật lý đỉnh cao, Bohm viết những lá thư bảo vệ đề tài của mình, gửi đi khắp các nhà vật lý trên thế giới, kể cả các nhà vật lý Xô Viết, những người về ý thức hệ lẽ ra sẽ phải ủng hộ một cách giải thích lượng tử đậm chất “duy vật” như của Bohm. Nhưng rất ít người trả lời. Số ủng hộ Bohm còn ít hơn nữa, trong đó có de Broglie và học trò của ông.
Cuộc đời của Bohm rất gian truân, thậm chí cái chết của ông cũng không an lành. Nhưng di sản khoa học ông để lại thật lớn lao. Cách giải thích lượng tử của ông, lúc đầu không được quan tâm nhiều vì tính “phi địa phương”. Phải đến những năm 1990 nó được quan tâm trở lại. Ngày nay nó có tên Cơ học Bohm (Bohmian mechanics), hoặc lý thuyết Bohm – de Broglie (de Broglie-Bohm theory), hoặc lý thuyết biến ẩn của Bohm (Bohm’s hidden-variable theory).
12. Everett và thuyết Many-Worlds (Đa-Thế-Giới/Đa-Vũ-Trụ)
Năm 1954 ở Princeton, Einstein đứng bục giảng lần cuối cùng. Giảng viên khách mời của ông là Wheeler, thiên tài không giải Nobel của nước Mỹ. Hôm đó là seminar về Thuyết tương đối. Nhưng cuối cùng Einstein quay trở lại với chủ đề người quan sát và thuyết lượng tử. Các sinh viên, đều là học trò của Wheeler, nên họ phát biểu theo hướng bảo vệ quan điểm Bohr. Einstein kiên nhẫn đáp trả. Cuối cùng ông nói: Khi một con chuột nhắt quan sát, thì trạng thái của vũ trụ có thay đổi không?”
Trong số các nghiên cứu sinh tiến sỹ ngồi nghe giảng có Everett. Giống như Bohm, ngày hôm đó Everett đã bị Einstein reo vào trí óc một hạt giống phản kháng lượng tử.
Từ khi còn là một cậu bé Everett đã thể hiện năng khiếu và đam mê của mình với logic và thần học. Năm 12 tuổi cậu viết thư cho Einstein để trình bày cách cậu giải quyết vấn đề “một vật không ai dịch chuyển nổi nếu gặp một kẻ có thể dịch chuyển tất cả mọi thứ”. Eistein viết thư trả lời cậu, trong thư ông tử tế giải thích một cách rõ ràng vấn đề cậu bé đang muốn giải quyết. [Ông bảo vấn đề mà cậu đang đương đầu, vấn đề ấy không có thực].
Nicolas Bourbanki nói rằng các nghịch lý lớn tạo ra thực phẩm cho tư duy lô gích trong nhiều thập niên, thậm chí nhiều thế kỷ.
Lô gích là thứ đã trau truốt vô vàn các thí nghiệm vật lý giả tưởng trong óc các nhà vật lý hàng đầu thế giới. Các “nghịch lý” phát sinh ra nhờ suy luận lô gích của các thí nghiệm tư duy kiểu Nghịch lý “Achilles và con Rùa rùa” (Nghịch lý Zeno) đã thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học.
Nghịch lý ERP của Einstein Podsky, Rosen, Nghịch lý Con Mèo của Schrödinger là hai thí nghiêm tư duy đậm chất logical analysis đã kiên trì mở đường cho những cách giải thích lượng tử khác với cách giải thích chính thống Copenhagen.
Là một sinh viên xuất sắc về toán và logic, Everett tốt nghiệp đại học và nhận học bổng đến Princeton làm PhD. Everett xuất sắc đến nỗi anh nộp đơn chậm sáu tuần mà vẫn được nhận.
Ở Princeton anh tiếp tục nổi bật ở nhiều lĩnh vực, kể cả thể thao và ăn chơi. Bạn bè của anh cũng là những người xuất sắc nhất, trong đó có Misner.
Everett thích ăn chơi hơn là làm một nhà khoa học tháp ngà. Anh quen thuộc với rượu bia, thuốc lá, những cô gái đẹp và các quầy bar hơn là giảng đường. Sau khi tốt nghiệp anh đi làm cho các dự án quốc phòng. Lúc rảnh rỗi anh viết dăm thuật toán lẻ tẻ nhưng bán cho quân đội lại ra tiền. Anh sống vui vẻ và sa ngã như thế cho đến lúc chết bất ngờ vì đau tim ở tuổi 51.
Thế nhưng luận văn tiến sỹ của anh lại có số phận khác hẳn. Everett nghiên cứu vật lý lượng tử, anh đọc von Neumann, rồi đọc Bohm. Anh nhận ra lỗ hổng bị che khuất ngay nơi trái tim của vật lý lượng tử. Anh quyết định làm giống như Bohm: sử dụng toán học để đưa ra một cách giải thích khác về lượng tử.
Einstein phản đối việc cơ học lượng tử có bản chất “bất định”, (tức là có tính xác suất): “I am convinced God does not play dice”. Trong điều kiện bình thường, khi không bị ai quan sát, hàm sóng lượng tử chuyển động liên tục và trơn tru tuân theo một định luật đơn giản và tất định là phương trình Schrödinger. Nhưng ngay khi bị quan sát (bị đo lường), hàm sóng lập tức sụp đổ, còn kết quả (nghiệm của hàm sóng) là [mật độ] xác suất tìm thấy hạt vi mô mà hàm sóng đang chi phối. Đây cũng chính là vấn đề nóng bỏng của vật lý lượng tử hiện đại: đo lường lượng tử.
“Đo lường lượng tử”, hay “vấn đề trắc lượng” (measurement problem), là cái làm cho thế giới lượng tử khác biệt với thế giới vĩ mô mà con người quen thuộc (thế giới cổ điển). Bohr từ chối sự hiện diện của thế giới vĩ mô trước khi thế giới này bị quan sát. Tức là ông từ chối coi lượng tử như một lý thuyết mô tả một thế giới đầy đủ và trọn vẹn: bao gồm từ các thành phần nhỏ bé nhất cấu thành nên thế giới, tới thế giới vĩ mô chứa đựng từ vi trùng đến các thiên hà.
Einstein muốn tìm một lý thuyết thống nhất, kết nối thuyết tương đối (vĩ mô) và thuyết lượng tử (vi mô).
Bohm và Everett muốn giải thích lượng tử theo một cách, sao cho vật lý lượng tử tự nó có thể mô tả được thế giới đầy đủ, có cả vi mô lẫn vĩ mô.
Cũng giống như Bohm, Everett cho rằng hàm sóng không sụp đổ.
Bohm cho hạt với vị trí xác định vào thuyết của mình, để hạt này chịu trách nhiệm tạo ra kết quả phép đo, thay vì bắt hàm sóng sụp đổ.
Còn Everett cho rằng có một hàm sóng cho “toàn thể vũ trụ”. Hàm sóng này là một đối tượng toán học mô tả trạng thái lượng tử của tất cả các đối tượng có trong vũ trụ. Hàm sóng này liên tục tuân theo phương trình Schrödinger và không bao giờ sụp đổ. Thay vào việc sụp đổ đó nó chia tách thành các nhánh. Mỗi một phép đo lường, một quan sát, một biến cố lượng tử đều làm hàm sóng vũ trụ tách ra (split) các nhánh (branch) mới, tạo ra vô số vũ trụ tương ứng với mọi kết quả khả dĩ (tạo ra bởi phép đo, hay quan sát). Mỗi nhánh sau khi chia tách lại tiến hóa độc lập với các nhánh khác, và tiếp tục chia tách, tất nhiên. Con mèo của Schrödinger thay vì có một số phận mập mờ bất định, vừa đang sống lại vừa đang chết, sẽ có đa số phận với vô số các copy của nó, trong đa vũ trụ mà mỗi vụ trụ lại tồn độc lập với nhau. Ở vũ trụ này con mèo đang sống, còn ở vũ trụ khác thì con mèo lại chết. Đây chính là thuyết đa vũ trụ (many-worlds theory) của Everett.
[image error]
Không ai tin vào thuyết nghe như tiểu thuyết viễn tưởng này này lúc nó ra đời năm 1956. Wheeler không tin. Bohr lại càng không tin. Còn Everett, anh chàng này lại không có nhu cầu thuyết phục người khác phải tin mình. Ngay cả khi có cơ hội gặp Bohr để giải thích kỹ hơn thuyết của mình, Everett cũng không cố gắng thuyết phục Bohr.
Là người tinh đời, anh không có nhu cầu thuyết phục giáo chủ tin vào một giáo lý khác. Cảm thấy không thoải mái bên giáo chủ Bohr, anh ra quán bar làm vài chai, rồi ngồi ngay ở đó viết luôn mấy thuật toán ứng dụng cho quân đội, đem đăng ký bản quyền và sau này kiếm một mớ tiền từ đó.
Trong những năm 1960, deWitt là người đặt cho lý thuyết của Everret cái tên “many-worlds”. Ngày nay cách giải thích lượng tử của Everett được biết đến với cái tên viết tắt MWI (many-worlds interpretation)
13. Bell và von Neumann
Khi còn là sinh viên, Bell đã va chạm với toán học của vật lý lượng tử và anh cảm thấy lượng tử có gì đó mơ hồ và rối rắm. Có lẽ từ trực giác của một nhà vật lý vĩ đại, anh cảm nhận được vật lý lượng tử không sai, nhưng như sau này anh kể lại: Tôi biết nó có vấn đề [rotten]. John Bell tốt nghiệp đại học năm 1949 và chuyển sang học tiến sỹ. Anh đọc sách của Born, trong đó có nói rằng von Neumann đã chứng minh bằng toán học rằng giải thích Copenhagen là phương thức khả dĩ duy nhất để hiểu vật lý lượng tử; tức là hoặc giải thích Copenhagen là đúng cách [correct] hoặc vật lý lượng tử là sai lầm Please view this post in your web browser to complete the quiz.. Lúc này anh chưa đọc được sách của von Neumann vốn được viết bằng tiếng Đức.
Ba năm sau, khi Bell đang làm việc ở một viện nghiên cứu năng lượng nguyên tử ở Anh, anh đọc sách giáo khoa lượng tử của Bohm, và rồi đọc thuyết “sóng hoa tiêu” của Bohm, anh nhận ra rằng von Neumann có thể sai. Nhưng phải vài năm sau anh mới được đọc chứng minh của von Neumann khi nó được dịch sang tiếng Anh.
Ý tưởng của Bohm dính với Bell suốt phần còn lại của cuộc đời. Nó cũng làm thay đổi cuộc sống thường nhật của anh: anh là nhà vật lý lý thuyết part-time, làm việc vào mỗi cuối tuần.
Việc đầu tiên mà Bell làm, đó là chứng minh von Neumann sai. Bell tìm ra được một giả định không chắc chắn trong phép chứng minh của Neumann, và do vậy phép chứng minh là vô nghĩa. Anh nói: Phép chứng minh của von Neumann không chỉ hổng, mà còn ngớ ngẩn. Nó không chỉ sai, mà còn sai một cách rất trì độn.
Phép chứng minh (sai) của von Neumann phủ nhận tất cả các cách giải thích lượng tử có sử dụng biến ẩn. Cách giải thích biến ẩn gán cho đối tượng/vật thể lượng tử một số tính chất, ví dụ như vị trí xác định, trước khi đối tượng/vật thể này được quan sát, nhưng các tính chất này lại không thể tính toán được bằng chính lý thuyết của cách giải thích biến ẩn. Các biến ẩn này không thể nhìn thấy bằng toán học của vật lý lượng tử: nó như bị ẩn giấu đi vậy.
Bell không chỉ chứng minh “không có thuyết biến ẩn” của von Neumann sai, mà anh còn cho thấy phép chứng minh này gợi ý ra một bản chất sâu sắc khác của vật lý lượng tử: quantum contextuality – tính ngữ cảnh lượng tử.
“Ngữ cảnh lượng tử” tức là ý nghĩa của một “từ” (một hệ lượng tử) trong một câu phụ thuộc vào ngữ cảnh lượng tử mà “câu” chứa “từ” ấy xuất hiện. Kết quả phép đo thực hiện trên một hệ lượng tử phụ thuộc vào những “thứ khác” mà phép đo đồng thời thực hiện cũng trên hệ lượng tử ấy. Trong thế giới lượng tử, kết quả phép đo đồng thời spin và động lượng của một electron sẽ khác hoàn toàn kết quả phép đo đồng thời spin và vị trí của electron ấy.
Bell nhìn ra bản chất sâu sắc của phép đo lượng tử, cách chúng ta thiết lập phép đo sẽ tác động đến kết quả phép đo. Y như Jordan đã nói: “Chính chúng ta sản xuất ra các kết quả của phép đo.”
Các “hạt” trong lý thuyết của Bohm có vị trí xác định, nhưng vị trí này bị các cách thiết lập phép đo của người quan sát làm thay đổi. Một chút thay đổi trong cách thiết lập các câu hỏi (tức phép đo) sẽ tạo ra vô số các câu trả lời (tức kết quả của phép đo).
Cuộc cách mạng mà Bell khởi phát không chỉ có vậy, anh còn đi xa hơn một bước nữa.
14. Bell và Entanglement
Sau khi chứng minh bằng toán học được lý thuyết biến ẩn kiểu Bohm là có thể (chứ không phải là bất khả như quan điểm của von Neumann và Copenhagen), Bell bắt đầu thắc mắc về tính phi địa phương ẩn giấu (hideously non-local) trong lý thuyết của Bohm.
Trong vật lý, nguyên lý “địa phương tính” phát biểu rằng một vật thể chỉ chịu ảnh hưởng từ những gì xung quanh nó. Để một “tác động” ở điểm bất kỳ có thể gây ảnh hưởng lên một điểm khác thì phải có gì đó trong không gian giữa hai điểm, ví dụ như có một trường, để làm phương tiện truyền đi “tác động” Để gây ra một ảnh hưởng, sóng và hạt, phải di chuyển qua không gian giữa hai điểm, và truyền đi ảnh hưởng. Thuyết tượng đối hẹp đã giới hạn tốc độ truyền tối đa: vận tốc ánh sáng. Các lý thuyết vật lý đúng đắn, theo quan điểm chính thống, không được vi phạm thuyết tương đối hẹp. Tức là nó phải có có tính “địa phương tính”.
Nếu bản chất của tự nhiên là “địa phương tính”, thí nghiệm EPR với hai photon hành xử y như nhau, và đồng thời, với cùng một phép đo, chỉ có thể giải thích bằng cách hai photon này đã có “hẹn ước lên kế hoạch trước với nhau” đúng vào lúc chúng tương tác, và trước khi chúng rời xa nhau. Nhưng hàm sóng mà chúng chia sẻ, lại không cho phép có một sự “hẹn ước” như thế. Chỉ khi phép đo được thiết lập giống nhau, hai photon sẽ hành xử giống nhau (như là có hẹn ước). Tức là hàm sóng chưa phải là “tất cả”. Ắt phải còn có những “biến ẩn” nào đó mà chưa ai biết. Từ chỗ này, Einstein ép người ta phải lựa chọn: hoặc là thuyết lượng tử còn khiếm khuyết, hoặc tự nhiên có tính chất phi địa phương.
Bell phát hiện ra trong sách giáo khoa lượng tử mà Bohm viết có đưa ra một phiên bản EPR đơn giản hơn, và bởi vậy cũng dễ đem ra nghịch ngợm ở trong đầu hơn: EPR sử dụng một cặp photon có phân cực hóa “quấn quít”. Thí nghiệm tư duy với photon này và lý thuyết do Bell đề xuất, sau này được Clauser và Apsect thực hiện trong thế giới thực.
So Enstein và Bohm, Bell đi xa hơn một chút. Các lý thuyết của anh khá khó hiểu về bản chất, kết luận của nó rất mập mờ: a) Einstein có lý khi trăn trở về lý thuyết lượng tử, nhưng cách mà ông trăn trở lại chưa đầy đủ lý lẽ; b) thuyết lượng tử có lẽ “phi địa phương tính” theo một cách sắp đặt quan sát nào đấy; c) nhưng cũng có thể chúng ta đang sống trong many-world để khỏi vi phạm Thuyết tương đối hẹp; d) nhưng cũng có thể thuyết lượng tử thất bại trong dự đoán một kết cục khả dĩ nào đó của một sắp đặt quan sát nào đó.
15. Lại là Many-Worlds
Nhưng điều quan trọng nhất, sau Bell, người ta bắt đầu chấp nhận many-worlds của Everett. Với hàm sóng Schrödinger, tất cả vũ trụ này chỉ là một đối tượng đơn nhất để nó chi phối. Một tương tác lượng tử, như một ánh mắt, một nụ cười, cũng tạo ra một quấn quít ẩn giấu, và từ đó vũ trụ tách ra theo nhánh khác. Có hằng hà sa số vũ trụ như vậy, với hằng hà sa số bản sao của mỗi con người, với hằng hà sa số các số phận đau khổ, hạnh phúc, giàu nghèo, thành công, thất bại … khác nhau.
October 20, 2019
Diễn đạt
Hai câu dưới đây copy từ wiki, nội dung lãng mạn:
Câu 1:
Câu này đọc là: Với từng cô gái (trong tất cả các cô gái) sẽ tương ứng (có) vài chàng trai (là bất cứ ai trong các chàng trai) là người mà cô gái đã hôn.
Câu 2:
Câu này đọc là: Có vài chàng trai (cụ thể) nào đó mà tất cả các cô gái đã hôn.
*
Còn hai câu phát biểu dưới đây, tôi chép lại của ông Penrose, là hai cách phát biểu khác nhau của Định lý Fermat.
Câu 3: ~
Câu 4:
Hai câu này nếu đọc thành tiếng người, ở đây là tiếng Việt, sẽ là:
Câu 3: Không tồn tại các số tự nhiên w,x,y,z sao cho x cộng một lũy thừa lên w cộng ba rồi cộng với y cộng một lũy thừa lên w cộng ba bằng với z cộng một lũy thừa w cộng ba.
Câu 4: Với mọi số tự nhiên w,x,y,z không tồn tại các số sao cho x cộng một lũy thừa lên w cộng ba rồi cộng với y cộng một lũy thừa lên w cộng ba bằng với z cộng một lũy thừa w cộng ba.
*
Còn câu này:
Câu 5: chính là Nghịch lý Russel.
Phiên bản giản dị của nó như sau: Giả sử có một anh thợ cắt tóc, anh này cắt tóc cho tất cả những người đàn ông không tự cắt tóc cho mình, và chỉ cắt tóc những người đàn ông không tự cắt cho mình. Khi ta hỏi, anh thợ cắt tóc này có nên tự cắt cho chính mình hay không, thì nghịch lý bắt đầu lộ diện.
Có thể anh đạo diễn phim Parasite, anh Bong Joon-ho, có học về logic, nên các tình tiết trong phim của anh như “Mother”, “Memories of Murder” cứ gài người xem buộc phải “động não”. Và rồi các “nghịch lý” từ từ xuất hiện, tạo ra sức hấp dẫn của bộ phim, cho đến tận phút cuối cùng.
October 10, 2019
Giúp Đoan Trang
[image error]
Ảnh của Chan One, đoạt giải IPA Int’l Photography
*
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tùy cùng chung giống nhưng không cùng trường
Hôm nay tôi có thử làm một cuộc vận động nhỏ: kêu gọi các bạn bè là cựu học sinh các trường Chuyên Tổng hợp, Chu Văn An … cùng tham gia giúp đỡ một cựu học sinh trường Ams là bạn Đoan Trang.
Cuộc vận động thành công phết. Nên tôi mạo muội đưa đường link kêu gọi giúp đỡ Đoan Trang lên đây để mọi người có thể tự tham gia:
https://www.gofundme.com/f/tu-amser-den-pham-doan-trang
Đường link này, do một người bạn của Trang, là cựu học sinh trường Ams tạo ra.
*
Tôi mới gặp Đoan Trang có một lần. Nói chuyện chat chit trên mạng độ hai lần. Tôi không hiểu lắm cách thức đấu tranh của Trang. Tôi cũng có cảm giác cách hoạt động của Trang không hiệu quả lắm, hoặc có hiệu quả thì cũng rất giới hạn.
Nhưng tôi biết chắc một điều, Trang đấu tranh không phải cho mình, không phải chỉ cho các thế hệ đàn em học Ams, mà cho các thế hệ đàn em học dưới mọi mái trường trên đất nước này. Ý nghĩa của cuộc đấu tranh tương đối đơn độc của Trang quan trọng hơn hiệu quả.
Cũng giống như cuộc đấu tranh của giới trẻ Hồng Công, có người hỏi rằng làm sao mà thắng được Bắc Kinh. Câu trả lời là: giới trẻ Hồng Công đấu tranh không phải để chiến thắng, mà họ đấu tranh vì chính nghĩa.
Vì thế, từ góc độ cá nhân, tôi cực kỳ khâm phục lựa chọn sống của Trang.
PS: Liên quan đến ảnh trên. Cách đây độ hơn chục năm có một từ tiếng Anh là Kong Girl (Kong là Hong Kong), tiếng Quảng đọc là Gong Nui (港女), Hán Việt là Cảng Nữ. Đó là các cô gái ham vui, đam mê vật chất, vô cảm với chính trị xã hội, hay đòi hỏi (đi ăn, đi xem, đi sốp pinh, đi du lịch).
Thế nhưng trong những ngày này ở Hồng Công, nhiều “Cảng Nữ” xuất hiện ở tuyến đầu, đối diện với cảnh sát, bạo lực, và các trò quấy rối bỉ ổi tình dục. Đội mũ bảo hiểm, deo kính bảo hộ và mặt nạ phòng khí độc, họ chỉ để lộ chân dài thò ra dưới quần ngắn.
Ở dưới lớp mặt nạ phòng độc, họ vẫn trang điểm, vì họ vẫn muốn mình đẹp trong lúc chiến đấu cho Hồng Công.
Xem thêm về Hồng Công ở đây.
[image error]
Lam Yik Fei chụp cho tờ NYT
Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
