Nguyễn Phương Văn's Blog, page 24

July 17, 2012

Thỗn Thện (5,6,7)

5.

Cả Thỗn: Ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn của Hoa Kỳ người ta có hẳn một phố gọi là Phố K, các công ty và chuyên gia lobby chính phủ đặt văn phòng ở đây.


Cả Thện: Ở thủ đô Hà Nội của Việt Nam, dân làm nghề lobby mà hiện ra, thì Bệnh viện K phải mở rộng kín cả các quận nội thành cũng không đủ chỗ chứa bệnh nhân.


6.

Cả Thỗn: Dạo này hay thấy nói Đồng Thuận. Tôi sợ họ nói lái từ đồng thuẫn là cái khiên bằng đồng mà ra. Tầm này, ai chả nấp sau cái khiên đồng to tướng cho an toàn.


Cả Thện: Có thuẫn đồng thì ắt có kẻ mài mâu thép, cụ Cả Thỗn ạ.


7.

Cả Thỗn: Các chuyên gia kinh tế dạo này phán là kinh tế đến đáy rồi ông ạ, tất cả sắp ngóc đầu lên rồi.


Cả Thện: Phán cứ như Viagra ấy nhỉ. Họ chưa bao giờ nghe từ Phá Đáy?



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 17, 2012 07:57

July 16, 2012

Thỗn và Thện

1.

Cả Thỗn: Tôi thấy các cụ lãnh đạo về hưu, nguyên nọ nguyên kia, lên đài báo phát biểu mạnh mẽ, sáng suốt lắm ông ạ. Chắc lúc tại chức bề bộn công việc nên đầu óc rối beng tối mò.


Cả Thện: Thế thì có khi phải sửa đổi luật, cho lãnh đạo về hưu từ 40 tuổi, để còn 20 năm mà sáng suốt.


2.

Cả Thỗn: Này, bọn thượng lưu hoặc giả thượng lưu, hay nói về thẩm mỹ “đơn giản và thanh lịch”. Bọn thị dân chúng mình thấy khó hiểu quá chú Cả Thện ạ.


Cả Thện: Có gì mà khó hiểu. Đơn giản và Thanh lịch, chính là món canh sấu nấu thịt ông vẫn ăn những trưa hè thứ bảy đấy thôi.


3.

Cả Thỗn: Từ ngày các lãnh đạo lên TV vung tay chém gió, thấm thoắt chỉ mấy năm phong trào chém gió lan ra toàn quốc, từ trẻ đến già, từ thành thị đến nông thôn. Giá mà lãnh đạo lên TV tập thể dục thì tốt.


Cả Thện: Không, tôi nghĩ các bác lãnh đạo lên TV đừng chém gió mà vung tay sờ gáy thì nước mình có phong trào mới, hữu ích hơn.


4.

Cả Thỗn: Ngày xưa ông Cụ kêu gọi: chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Ngày nay chả ông nào kêu gọi: chúng ta càng nhẫn nhịn, bành trướng Khựa càng lấn tới nhỉ???


Cả Thện: Ngày xưa nhân dân chăm chỉ lao động nên ai cũng có cuốc thì đều dùng cuốc. Ngày nay nhân dân toàn buôn đầu chợ bán cuối chợ, buôn quan bán chức, buôn thần bán thánh, buôn đất bán cát, buôn cổ bá cánh, buôn xổi bán thì,… Công cụ lao động toàn nước bọt. Giờ mà kêu gọi chẳng hóa ra ai có lưỡi dùng lưỡi à?



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 16, 2012 22:16

May 30, 2012

Sách tây về ta

Trong entry trước tôi giới thiệu sách VN dành cho người nước ngoài, không ngờ các bạn cũng rất thích và tuần vừa rồi phải đi giao hàng chóng cả mặt. Chỉ hơi tiếc là ai cũng bận nên toàn gặp chớp chớp nhoáng nhoáng chứ không cà phê buôn dưa lê với nhau được nhiều.


Hôm nay tôi giới thiệu thêm vài cuốn đặc sản mà Tây làm về Ta. Các cuốn này trên amazon đều có nhưng đắt. Ai quan tâm xin email về anhxubeo@gmail.com


8) Vietnamese Ceramics: A Separate Tradition.

Cuốn này cực hay, trên Amazon bán 125 USD và không thèm giảm giá. Tôi có thể bán cuốn này ở sgn cho các bạn cần mua với giá chưa đến một nửa giá của Amazon. Tuy nhiên bạn nào quan tâm cũng nên vào Amazon để xem description về cuốn sách này. Còn ảnh của cuốn này tôi sẽ để ở phía dưới.


9) Vietnam: History, Art and Archeology (có version tiếng Anh và tiếng Pháp).


10) Vietnam Panorama (Sách ảnh về VN).


11) Tranh Thờ: Cuốn này bạn nào sưu tầm hoặc nghiên cứu thì sẽ rất thích.


Hình ảnh cuốn Vietnamese Ceramics: A Separate Tradition




Hình ảnh cuốn Vietnam: History, Art and Archeology 




Hình ảnh cuốn Vietnam Panorama 



Hình ảnh cuốn Tranh Thờ




Và các loại sách khác













 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 30, 2012 22:55

May 25, 2012

Bán sách


Tôi đang bán các cuốn sách sau (xem ảnh), bác nào quan tâm thì email cho tôi ở anhxubeo@gmail.com. Các sách này phù hợp với mua để …tặng cho người ở nước ngoài. Giá bán thì yên tâm vì đây là nghề ruột của tôi. Nếu các bác ở Sài gòn, tôi sẽ đi xe máy đến tận nơi để giao sách:

1) Life Behind The Front Line – Viet Nam 1964-1975 (sách ảnh về cuộc sống đằng sau chiến tuyến).

2) Saigon Traces of the Old Days (Sách ảnh về Sgn xưa, nhiều ảnh đẹp và độc)

3) Hanoi Traces of the Old Days

4) Vietnam Posters and Billboards (sách sưu tập tranh cổ động)

5) Journey  through Ho Chi Minh City (Hình ảnh về cuộc sống Sgn ngày nay)

6) A farmer’s home in middle of Hanoi

7) Calendar 2013 (tranh cổ động in trên giấy dó)


Các ảnh về Life behind the Front Line





Các hình ảnh về Saigon/Hanoi Traces of Old Days





Các hình ảnh cuốn Vietnam Posters and Billboards






Các hình ảnh về cuốn A farmer’s home




Cuốn Calendar 2013 (giấy dó rất đẹp)



Và vài cuốn nhập khẩu:




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 25, 2012 05:07

May 19, 2012

Giang hồ và Giai nhân

Giang hồ và Giai nhân là các status trên FB của 5xu. Nay copy về đây để cất.


***

Có cảm giác như suy thoái đã ảnh hưởng mạnh đến Hà Nội trong bốn tháng vừa qua. Trong lúc Sài Gòn chấp nhận suy thoái một cách tự nhiên, hay nói ngược lại là người và cuộc sống Sài Gòn dễ dàng adapt với sự suy giảm về kinh tế, thì Hà Nội vẫn lảng tránh nó khiến cho đặc điểm nhận dạng duy nhất về ảnh hưởng của suy thoái kinh tế lên cuộc sống và con người HN là: mọi thứ nhạt đi, đuội đi, mỗi ngày một tí, không ai nhận ra, trừ người ở nơi khác đến.


Nền kinh tế có khả năng sẽ không crash vào tháng 6 như một số chuyên gia dự đoán. Cũng không crash vào tháng 10 như tôi dự đoán. Các vụ bắt bớ (án kinh tế) cũng không om xòm như thiên hạ dự đoán. Mọi thứ chắc sẽ xuôi dần, đuội dần, xỉu dần. Cứ thế từ giờ đến tận mùa hè sang năm (2013), thậm chí đến hết năm 2013.


Trộm cắp, cướp giật, đĩ điếm, cờ bạc và …bói toán chắc chắn sẽ gia tăng. Một số ít có cơ hội sẽ tăng cường cướp bóc hoặc buôn lậu tài nguyên, làm quả hụi chót rồi về hưởng thụ.


Nhưng về lâu dài, suy thoái thế này sẽ là tốt. Giấc mộng hóa rồng sẽ tự nhiên trở thành buồn cười. Các cơ hội đớp hít vơ vét sẽ chỉ là dĩ vãng mộng mơ.

Nhân dân sẽ quay về các giá trị truyền thống, chăm chỉ lao động hơn, bớt chém gió đi, quan tâm đến gia đình hơn và bỏ dần mối quan tâm chính trị vỉa hè, bớt dòm ngó ghen tỵ người có danh có của.


Quan chức cũng sẽ nhận ra là đớp hít mãi thì cuối cùng cũng nuôi con cái du học hoặc đi vũ trường hút lắc cá độ. Đớp hơn nữa cũng chả để làm gì.


Doanh nhân còn bi đát hơn, giàu thế chứ giàu nữa muốn mua cái du thuyền cũng chả có chỗ để. Có một đống kim cương trong cái máng lợn, xét cho cùng cũng đếch để làm gì.


Suy thoái kéo dài độ chục năm có khi nhân dân Vina trở nên thuần hơn, chăm hơn, bớt ảo tưởng, đỡ thủ dâm, yêu thương nhau hơn, bớt hiếu chiến, bớt tham lam, bớt keo bẩn, bớt ghanh ghét.


Đến năm 2014 đường phố sẽ tự nhiên hết tắc, đô thị sẽ bớt nhộn nhạo, rất nhiều lao động sẽ không bám trụ ở thành phố mà trở về quê làm nông hoặc làm nghề truyền thống. Các tệ nạn như chạy trường cho con và mua bằng thạc sỹ cho bố cũng sẽ hết mặc dù y tế giáo dục vẫn là hai lĩnh vực tồn tại và tăng trưởng bất chấp suy giảm kinh tế.


Nói chung với dân tộc này, nghèo nàn có khi lại là cái may mắn.


***

Giang hồ rất hiểm khó lường

Giai nhân hơi hiểm có lường được đâu


***


Giang hồ bắt bướm hai tay

Giai nhân bắn súng một tay tóm nòng


***


Thậm Dị Đai tắm kiếm dưới trăng non. Đi lại trên giang hồ mấy chục năm kiếm mòn bao nhiêu, cái danh Đại Mâu nổi bấy nhiêu. Đã là trượng phu hiếu sắc, có mấy giang hồ thỏa mãn với án mạng sau lưng. Kiếm mòn theo thời gian, mỗi lần rút ra thật là vất vả, Thậm Dị Đai quay về u cốc, nhắm mắt ti hí nhìn tiên nữ tắm suối mà luyện Thậm Di nội công lực, kiếm ý rút ra đâm tưởng nữ nhân dưới suối.


Bất chợt gã nhớ đến Hồng Thuẫn Vâm Đô Dzộ, nữ hào kiệt chưa bao giờ mệt mỏi trên bất cứ võ giường nào, từ vương kích giường đến tiểu chiếu cói. Không biết cuộc đời nàng đã hạ gập bao nhiêu kiếm của lũ tiểu anh hùng húc dậu đến đại cự hiệp nhậu minh mạng thang. Nàng tự hào bất cứ tay kiếm nào gặp nàng, cũng phải rút kiếm ra cho cứng, để rồi nàng ung dung bế súng cho mềm.


(Tình hình là đọc lẫn lộn cả Ôn Nhu Nhất Đao lẫn Lolita nên ngôn ngữ ngày càng bí hiểm)


***


Giang hồ trăm bó đuốc

Giai nhân một xáo voi


***


Giang hồ quyện với giai nhân

Đam mê quấn quít từ chân lên đầu

Giai nhân ôm xiết ghì sâu

Giang hồ thả lỏng mong lâu…cướp cò


***

Giang hồ nhìn cuốc hóa gà

Giai nhân tính quá tưởng già hóa non


***


Mở ra:


Mưa chiều quận nhất trời hơi lạnh

Mây phủ quận ba mộng trái mùa

Rốn rùa ngoài đấy nồm ngưng tụ

Nặng sóng hồ tây gió phất quanh.


Đóng vào:


Giang hồ vắt trán hàng dô lẹ

Giai nhân mơ màng nhân dai xanh

Giai nhân thèm lắm nhân dai

Giang hồ luôn khát hàng dô dài dài


***

Giai nhân phố cổ gió nồm

Giang hồ quận nhất ngứa mồm cả đêm


***

Giang hồ thả đỉa ba ba

Giai nhân thả bướm bắt hoa đồng tiền


***

Giang hồ bún chả thêm nem rán

Giai nhân nước chấm cộng rau thơm


***

Giai nhân đài các, lan tâm huệ chất

Giang hồ thanh thoát, chặt tuyết chém băng


***


Dâm quang ánh mắt giai nhân liếc

Tiếu ý môi mềm giang hồ say


***

Giang hồ bấm bụng giai nhân

Giai nhân cáu tiết bóp gân giang hồ

Giang hồ vốn tính hồ đồ

Tưởng gân mình cứng tuốt đồ trườn lên

Giai nhân tưởng chỉ biết rên

Bất ngờ la toáng …hỡi ôi cái kèn

Giang hồ lẫm lẫm hóa hèn

Thu đồ vào háng rồi …bèn rút quân


***

Giang hồ chạm trán giai nhân

Giai nhân dạng háng bứt gân giang hồ


***

Giang hồ trưa nắng vàng cả mắt

Mắt nắng vàng khè giang hồ trưa


***

Giang hồ băng đảng đi ngang dọc

Giang hồ cô độc phải đi xiên


***

Giang hồ nóng quá chơi hàng lạnh


***


Giang hồ phở sáng

Chợt nhớ nem tai

Chiều giang hồ rượu

Thèm cháo sớm mai


***


Giang hồ ngồi bệt

Thở ngắn thở dài

Giang hồ đứng dậy

Thở bằng hai tai


***


Đi lại ngang dọc trên giang hồ một hồi bỗng nhận ra trên giang hồ toàn người đi lại.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 19, 2012 00:11

May 1, 2012

Phong tục của tình yêu

Từ lúc mở mắt thức giấc đến lúc tắt đèn kéo chăn lăn quay ra ngủ, mỗi ngày ta làm bao nhiêu việc, trong đấy có những việc thuộc về nếp quen. Những nếp quen có ích dần lan tỏa từ người này qua người khác, từ cộng đồng này qua cộng đồng khác. Nề nếp lan truyền rộng rãi từ vùng này qua vùng khác, được gọi là Phong.


Trong một năm ta thực hiện bao nhiêu lễ nghi, bao nhiêu thủ tục phép tắc, những việc ấy cha mẹ ông bà đã từng làm y như thế, từ bao đời nay. Những thói quen truyền qua nhiều đời, gọi là Tục.


Phong tục, một từ quen thuộc gần gũi, gắn bó với cuộc sống thường ngày, vậy mà cũng vẻ như ẩn chứa bên trong hai yếu tố: không gian và thời gian.


Có phải chăng là bởi con người đã sống tức là tồn tại trong lòng vũ trụ, và một phần của Vũ Trụ chính là Con Người.


***

Đứng trước một bức tường khổng lồ, rộng mênh mông và cao vô tận, ta bất chợt nhận ra trước mặt mình một cánh cửa. Bên kia cánh cửa là gì?


Bức tường có bề dày, bằng bề dày của hàng gạch, nhưng so với bề mặt khổng lồ thì bề dày này coi như  mỏng dính. Mở cửa và đặt chân lên ngưỡng, ta như hòa mình vào cái mặt phẳng mênh mông của bức tường, chỉ cần nhích lên một chút là dường như ta sẽ “thoát” sang một không gian xa lạ.


Bắt chước Carl Sagan, ta giả định ở mặt tường bên kia là những con người-bò-sát cả đời chỉ bò ngang dọc trên mặt bức tường và chỉ nhìn thấy những gì nằm mặt phẳng ấy. Đối với họ thế gian này chỉ là mặt phẳng có hai chiều và họ chỉ nhìn được tất cả những gì xuất hiện cái mặt phẳng mênh mông ấy


Thế rồi ta, sau một lúc ngập ngừng trên ngưỡng cửa, đã dũng cảm nhích một chút, và thế là từ bên không gian bên này tường, ta đột ngột xuất hiện ở mặt phẳng tường phía bên kia. Với ta, đây chỉ là sự dịch chuyển nhỏ trong không gian ba chiều quen thuộc của mình. Còn với những người-bò-sát bên kia, sự xuất hiện của ta tựa như từ trên trời rơi xuống. Những con người bò-sát chỉ biết đến không gian hai chiều ấy sẽ không thể nào hiểu được tại sao ta đột ngột xuất hiện trước mặt họ. Thậm chí ta có thể xuất hiện bất cứ chỗ nào trên mặt phẳng ấy nếu như bức tường tồn tại vô số cánh cửa. Hoặc giả ta có cũng có thể bất ngờ biến mất ngay trước mũi họ như tan biến vào khí quyển vậy.


Ta có thể giải thích với họ: Chúng tôi đến từ chiều không gian thứ ba.


Tất nhiên họ sẽ rất hoài nghi về cái chiều không gian thứ ba ấy. Chiều thứ ba của không gian hoàn toàn nằm ngoài nhận thức của những con người-bò-sát.


Với con người bình thường, tức là chúng ta, chiều không gian thứ tư cũng bí hiểm và không thể làm chủ được, y như chiều thứ ba của không gian đối với mấy ông người-bò-sát.


Thượng Đế cho con người cảm nhận được không gian ba chiều và sống ở trong không gian ấy. Thậm chí Thượng Đế còn cho loài người mặc sức di chuyển trong cái không gian: xuống đáy đại dương, lên cung trăng thăm chú Cuội. Con người có thể đến chỗ mình muốn, ví như một hòn đảo thơ mộng, cả chục lần ở các thời điểm khác nhau trong đời. Thậm chí con người có thể quay trở về để sống ở nơi mình đã từng sống, ví như thị trấn của tuổi ấu thơ nhiều năm trước đó.


Nhưng Thượng Đế không cho con người chiều thứ tư của không gian. Bởi nếu có chiều thứ tư như vậy, mỗi khi cuộc sống nặng trĩu mệt mỏi hay khổ đau, con người sẽ vứt tất cả ở lại để mở cánh cửa bất kỳ mà bước qua không gian khác.

Nếu nắm được chiều thứ tư của không gian, con người sẽ để lại phía sau một không gian ba chiều bê bết hỗn loạn và đầy dang dở.


***


Trong các sinh vật sống trên trái đất, thậm chí tính cả toàn vũ trụ, chỉ duy nhất con người được Thượng Đế cho khả năng đặc biệt: nhận thức được thời gian.

Con người nhận thức được thời gian, chấp nhận sự trôi đi lặng lẽ và vô tình của nó, bên cạnh và trong suốt cuộc đời mình.


Cùng với sự trôi đi đều tăm tắp và không thể chạm vào được của thời gian là tất cả hạnh phúc và khổ đau, bình an và lo lắng, bay bổng vô ưu hay nặng trĩu lo toan.


Nhận thức được, nhưng con người không có cách tác động được vào thời gian. Không làm nó chạy nhanh về tương lai, sớm đến cái thời điểm mình mong chờ. Lại càng không quay ngược quá khứ để sống một lần nữa những khoảng thời gian mình thấy lòng bình yên.


Con người tự do bao nhiêu trong không gian thì bó buộc bấy nhiêu với thời gian. Con người chỉ có thể làm chủ được những khoảnh khắc của hiện tại. Những khoảnh khắc ấy tồn tại rất nhanh, lướt qua nhận thức và tri giác, chỉ trong một phần ngàn của tia chớp, rồi trôi về phía sau và trở thành quá khứ.

Thời gian hình thành một sợi dây vô hình ghi lại lịch sử của mỗi con người.


Và ghi lại lịch sử của cả vũ trụ.


Vì con người là môt phần của vũ trụ.


***


Cuối thế kỷ thứ ba có một thanh niên da đen sống đời trác táng ở xứ Hippo Châu Phi thuộc La Mã. Chàng thanh niên này sau đó rũ bỏ cuộc sống đời thường, qua Roma học tập, cải đạo và trở thành một nhà thần học nổi tiếng. Sau này anh được phong thánh. Đó là Thánh Augustine.


Thánh Augustine nghiên cứu sách Sáng Thế Ký, rồi viết hẳn một cuốn sách về Thời gian và Sự vĩnh hằng (thuộc bộ sách Confessions). Trong cuốn sách này ông viết suy nghĩ của mình xung quanh câu hỏi: “Nếu Thượng Đế sáng tạo ra vũ trụ, thì trước khi sáng tạo ra vũ trụ, ông Thượng Đế ấy làm gì?”.


Thánh Augustine lập luận về việc: “Liệu thời gian, như là một đại lượng mà con người nhận thức được, có phải là một phần nằm trong việc sáng tạo ra vũ trụ của Thượng Đế hay không?”. Augustine không đưa ra câu trả lời, nhưng ông viết rằng Thượng Đế đã quyết định, ở bên ngoài thời gian, việc sáng tạo ra Vũ Trụ. Cái “khởi thủy” để bắt đầu cả vũ trụ ấy là một điểm cố định nằm bên ngoài thời gian. Đấy là điểm bắt đầu của vạn vật, và cũng là điểm vạn vật sẽ quay về. Điểm cố định ấy cũng chính là Thượng Đế.


Suy nghĩ này của Thánh Augustine rất giống với quan điểm của vũ trụ hiện đại, về điểm khởi đầu Big Bang, thời gian và sự dãn nở cũng như co lại của Vũ Trụ. Stephen Hawking cũng đã viết một ý, rằng trước Big Bang, không tồn tại thời gian. Và sau này khi vũ trụ co lại và sụp đổ về một điểm (Big Crunch), thời gian cũng sẽ chấm dứt.


Thời gian của vũ trụ có điểm bắt đầu và kết thúc. Có Thủy có Chung.


Thế là vũ trụ cũng giống như con người vậy. Thời gian của con người có thủy có chung. Thời gian của con người bắt đầu khi họ là mầm sống trong bụng mẹ và kết thúc khi nhắm mắt xuôi tay. Thời gian của con người có sinh có diệt. Đời mỗi con người tự có diệt có sinh.


Phải chăng cuộc đời của mỗi con người là hình bóng của Vũ trụ?.


***


Thượng Đế, tức là Tạo Hóa, cho sinh-vật-người khả năng nhận thức thời gian thì Thượng Đế cũng cho con người ưu việt về mặt sinh học hơn tất cả các sinh vật khác. Ngay cả với loài vượn, là loài gần gũi với con người nhất về sinh học nhất, cũng vẫn thua xa con người.


Nhà động vật học Desmond Morris cho chúng ta biết con người là sinh vật duy nhất là quá trình hoàn thiện bộ não và nhận thức kết thúc sau khi dậy thì. Các sinh vật khác, như vượn, bộ óc hoàn thiện rất nhanh, chỉ trong vài năm, trước khi con vượn phát dục rất lâu. Với con người bộ não vẫn tiếp tục được hoàn thiện trong nhiều năm sau khi họ dậy thì.


Phải chăng là do Tạo Hóa biết rằng: để con người nhận thức được thời gian vô hình thì con người phải thấy được lịch sử của chính mình ghi trên sợi chỉ vô hình thời gian ấy.


Con người luôn như “mắc kẹt” ở hiện tại. Con người không thể du hành ngược về quá khứ. Cũng không thể chạy nhanh vào tương lai. Nhưng con người biết ngắm nhìn ký ức phía sau và mong chờ tương lai phía trước.


Để nhìn được ký ức phía sau và mong chờ tương lai phía trước, con người cần một thời gian rất dài để trưởng thành, để học cách cảm nhận thời gian trôi đi trong không gian, để con người hiểu rằng thời gian chỉ tồn tại với từng cá nhân bằng những sự kiện và những sự kiện này lần hồi sẽ trở thành ký ức: Lần đầu tiên được bố dẫn đi uống cà phê, lần đầu tiên đi học, rung động đầu tiên với những thiếu nữ , nụ hôn đầu tiên và những vấp ngã, những đau khổ non dại.


Bằng cách nhìn vào những sự kiện trong quá khứ mà con người đứng ở hiện tại và cảm nhận được có thời gian đã đi qua cũng như biết chắc rằng có thời gian khác đang đến.


Một con người sinh ra, lớn lên mà các sự kiện trong đời là những con big zero, liệu con người ấy có cảm nhận được thời gian.


***


Thượng Đế sắp đặt tất cả như vậy. Rồi Thượng Để bỏ lại vũ trụ ở trong miền thời gian còn mình thì ở bên ngoài và không làm gì cả: một sự lười nhác và thờ ơ của vĩnh hằng. Sau khi làm ra vũ trụ, có lẽ ông Thượng Đế của sáng tạo tuyệt đối ấy chỉ làm một việc duy nhất là chờ đợi. Một sự chờ đợi vĩnh cửu: từ điểm bắt đầu Big Bang khởi sinh Vũ Trụ, đến lúc Vũ trụ bao la sụp đổ về điểm kết thúc.


Trong khoảng thời gian dường như là vô tận ấy, Vũ trụ ấy tự biết cách tung con xúc sắc của Feynman để lựa chọn cho chính mình một lịch sử. Vũ trụ với con xúc sắc trong tay chính là Trời Đất trong lời Lão Tử: “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu”.


Hawking cũng đã viết về một Vũ trụ chơi xúc sắc từ ngay sau khi có Big Bang, để gián tiếp bênh vực Einstein khi ông này cứ nhất định không chịu công nhận có một Thượng Đế chơi xúc sắc.


Còn cái ông Einstein ấy lại chính là kẻ đầu tiên cho cả loài người biết rằng: Có một cái không thời gian bốn chiều và thời gian thực là chiều thứ tư bên cạnh ba cái chiều của không gian mà ai cũng có thể nhận thức được.


***


Thượng Đế không cho Con Người nhận thức được chiều không gian thứ tư. Để họ không thể mở cánh cửa bất kỳ để bước đi và thoát khỏi không gian của hiện tại mà họ, vì lí do gì đó, đã cảm thấy mệt nhoài hay chán ngán.


Thượng Đế cũng biết trước loài người sinh ra là để …thiếu chín chắn và phạm vô số sai lầm. Trục thời gian ông Thượng Đế trao cho loài người bởi vậy chỉ có một chiều bất biến. Những sự kiện làm nên lịch sử của mỗi cá nhân, là những sự kiện không thể đổi thay.


Con người nhận thức nhưng không làm chủ được  chiều thời gian. Họ không thể quay lại quá khứ để sửa chữa lỗi lầm; hoặc quay lại chỉ để tìm những khoảnh khắc bình yên của cái thời con tim chưa bao giờ thương tổn.


Một cái cười khẩy của Vũ trụ và Thời gian sẽ là bao nhiêu biến cố của loài người: chiến tranh và dịch bệnh, thịnh vượng và suy vi. Con người thật là bé nhỏ như cát bụi trong biết bao nhiêu cuộc bể dâu, trong sự trỗi dậy và suy tàn của biết bao đế chế.


***


Câu thơ Xuân Diệu, “Tôi của phút trước sang tôi phút này”, không biết vô tình hay hữu ý đã thể hiện được sự biến đổi của vạn vật theo thời gian. Chỉ thoáng qua một cái là mọi sự đã khác. Đã ở trong thời gian là phải chịu sự biến đổi.


Muốn vĩnh hằng bất diệt, phải tìm cách ở bên ngoài của thời gian. Bởi thế đến nay người ta mới chỉ biết có ông Thượng Đế, tức là Đại Ngã hay còn gọi là Đấng Tạo Hóa, là có khả năng như vậy. Còn con người cũng như vũ trụ, có sinh ra rồi có lúc chết đi. Ở giữa hai cực ấy và vô số các đổi thay diễn ra liên tục, từ tôi phút trước của quá khứ qua tôi phút này của hiện tại. Hiện hữu ở hiện tại ấy, chỉ có ta mới biết được quá khứ khác biệt của chính mình một giây trước đó trong quá khứ.


Thánh Augustine cho rằng có ba thực tại trong trí óc: “Sự hiện diện của quá khứ, đó là ký ức; sự hiện diện của hiện tại, đó là sự chú ý quan tâm; sự hiện diện của tương lai, đó là sự kỳ vọng”. Trong một khoảnh khắc rất mỏng của hiện tại, cả ba thực tại ấy cùng tồn tại, như một sát-na của Phật giáo: trong hiện tại có cả quá khứ lẫn vị lai.


Ông cũng viết về sự Vĩnh Hằng: “Nếu hiện tại luôn luôn ở cái ngưỡng mà quá khứ vừa kết thúc còn tương lai chưa tồn tại, luôn luôn có một hiện tại mà không bao giờ bị trượt vào quá khứ, thì hiện tại đó không còn là thời gian nữa, mà là sự vĩnh hằng”.


***


Các nhà vật lý dựa vào Einstein mà giả thuyết rằng: Nếu du hành vào vũ trụ bằng con tàu đi với vận tốc ánh sáng, thì ở trên con tàu đấy thời gian sẽ đứng lại, hiện tại của nhà du hành sẽ là thời gian đứng yên, là thời gian của vĩnh cửu.


Con người âm mưu lợi dụng khả năng làm chủ không gian, để đi vào vũ trụ, bằng vận tốc của ánh sáng để rồi họ như đứng yên trong ánh sáng tĩnh lặng và bắt hiện tại kéo dài mãi mãi. Trong lúc di chuyển với vận tốc ánh sáng ấy, sợi chỉ thời gian của nhà du hành không ghi được một sự kiện nào của họ, lịch sử cá nhân của họ bị dừng lại. Để đến khi quay trở về nơi họ đã ra đi thì họ vẫn con trẻ như xưa mà thế giới đã đổi thay, bố mẹ đã qua đời, vợ đã già nua còn những đứa con đã lớn, triều đình cũng đã đổi ngôi tới mấy lần.


Có những người khác du hành bằng thiền định. Họ không di chuyển bằng vận tốc ánh sáng. Họ ngồi yên và để ánh sáng đi qua. Họ nhắm mắt nhìn vào vách đá. Mặc kệ thời gian. Tâm trí họ mở toang ra cho sự “trống rỗng”của không gian vũ trụ.


Khác những ai đó mở cánh cửa bước vào căn phòng kín để rồi loay hoay trong căn phòng ấy mà bỏ phí hiện tại cứ cứ trôi đi mà thành quá khứ, người thiền định mở cánh cửa bước vào căn phòng không-có-một-bức-tường, một căn phòng chứa cả vũ trụ. Sợi chỉ thời gian của họ cũng không ghi một sự kiện nào. Lịch sử cá nhân của họ trong thời gian nhập định là trống không. Hiện tại như bị kéo dài vĩnh viễn và tâm trí mở đến tận vô cùng. Khi xuất định bước trở lại cuộc đời, ngoài kia bao cây cầu đã được xây, bao đứa trẻ đã trưởng thành, bao vụ mùa đã đi qua, người thiền định như khẽ dịch ra khỏi hiện tại một khoảng mỏng như làn khói mà đã thấy cả vũ trụ tương lai.


Nếu ta chia nhỏ hiện tại thành các khe thời gian mỏng dính, để mà sống-như-thiền-định trong các khe thời gian ấy, tức là sống-thiền trong từng sát na Bát Nhã: Quá khứ và vị lai cùng lúc về cái sát-na của hiện tại mà an trú.


Mỗi không gian ứng với một sát na là một mặt phẳng thời-gian-ảo cắt vuông góc trục thời-gian-thực, như mặt phẳng vĩ tuyến cắt ngang kinh tuyến. Trong mặt phẳng ấy không có sự kiện, không có cái gì sinh ra, không có cái gì mất đi, không cái gì đến, chẳng cái gì đi. Trên mặt phẳng ấy, trong khoảnh khắc một sát na lững thững trôi qua như tia chớp, mọi ý niệm của con người đều bị rũ bỏ: không còn hữu, vô, sinh, diệt, không còn giống nhau khác nhau, không còn thường hằng, không đoạn diệt, không còn quá khứ, không có tương lai.


Sống-thiền được trong mỗi khoảnh khắc ấy con người sẽ trở thành “sự trống rỗng”, mỗi người sẽ không-là-ai cả, không-cả-sự-là ai, là vô thủy vô chung, là vô tận.


Trong cái khoảnh khắc ấy, nhận thức của con người hòa với “tánh không” của vạn vật. Mà vạn vật chính là vũ trụ bao la.


***

Trên đây là những dòng chữ rối rắm và nhàm chán, không có một từ nói đến tình yêu.


Tình yêu ở đâu?


Tình yêu có lẽ giống như Thượng Đế, ở bên ngoài thời gian, nhưng lại là cái “sự trống rỗng” ở bên trong vũ trụ, mà bắt cuộc sống  xoay vần.


Tình yêu là điểm để mọi thứ bắt đầu, cũng là điểm đón chờ mọi kết thúc.


Tình yêu là điểm sinh, cũng là điểm diệt. Đấy cũng là sự vi diệu của cuộc sống nhỏ bé ngắn ngủi trong không gian và thời gian tưởng chừng như bất tận.


Tất cả những gì thuộc về “tình yêu” mà con người nhận thức được, chỉ là phong tục của tình yêu.


***


Đây là bài viết thứ 6 trong loạt bài về Thời Gian. 


1) Deus Sive Natura

2) Con mèo Schrodinger

3) Buổi sáng Heisenberg

4) Hoa hồng nở trong đêm

5) Manifold

6) Phong tục của tình yêu



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 01, 2012 22:17

April 11, 2012

Mặt trời xuống biển trăng lên núi

1.


Đứng trên cầu Tô Châu bắc ngang khu đầm biển duyên hải rộng lớn, chúng tôi quay mặt nhìn ra cửa biển lấp lánh sáng dưới ánh trăng rằm tháng ba. Đấy là phía tây, hằng ngày mặt trời đi xuống biển, là vùng đất liền hiếm hoi ở Việt Nam mà ta có thể chiêm ngưỡng biển xanh dưới ánh tà dương.


Phía sau chúng tôi là trăng rằm tỏa ánh sáng trong vắt xuống phần ăn sâu vào đất liền của biển. Khu đầm ấy phong cảnh hữu tình như hồ nước ngọt rộng lớn, nên người xưa gọi là Đông Hồ. Còn Mạc Thiên Tích, vị đại đô đốc yêu tiếng Việt, gọi là Đông Hồ Ấn Nguyệt chắc cũng vì những đêm trăng soi bóng nước yên bình.


2.


Vùng đất Hà Tiên hoang dã ngày xưa, tự mình thu dưỡng người dân phiêu bạt về đây dựng đất và giữ nước. Trong chưa đầy một trăm năm đầu tiên lập đất, Hà Tiên đã chịu đựng và anh dũng chống trả vô số các cuộc cướp bóc, xâm lăng của cả người Cao Miên, Xiêm La lẫn bọn hải tặc Khmer trộn cùng người Hán.


Có một đảo đá nhỏ, đứng trơ trọi trên cửa biển, vừa là trạm quan sát vừa làm cánh cửa kiên cường chắn sóng, bảo vệ vùng đất nhỏ Hà Tiên. Hòn đảo đấy được Mạc Thiên Tích đặt tên là Kim Dữ Lan Đào (Đảo vàng – Cửa chắn sóng). Nó giống như chính vùng đất Hà Tiên bé nhỏ, từ cuối thế kỷ 17 hoang sơ đã bắt làm cánh cửa che chắn chongười dân khai phá những vùng đất mới, từ Rạch Giá đến Cà Mau, để rồi cùng cái bóng bảo hộ của các chúa Nguyễn thế kỷ 18, đã mở rộng đất đai bờ cõi Việt Nam từ vùng biển cực tây ngược lên đến tận Gò Công, rồi tất cả cùng hòa mình vào trấn Gia Định, thủ phủ của chúa Nguyễn thời tiền Nguyễn Ánh.


Kim Dữ Lan Đào, bây giờ được biết đến với tên Pháo Đài, do vua Minh Mạng xây pháo đài cửa biển trên hòn đảo này, là nơi ta có thể ngồi nhìn ra biển mỗi sáng sớm, khi có thể uống trà với ánh hừng đông phản chiếu mặt hồ, đến khi chiều về lại có thể đối ẩm cùng tà dương hạ dần xuống mặt biển trong lúc trăng ló mặt đầu non.


3.


Cách trung tâm Hà Tiên chưa đến chục cây số là một ngọn núi đá nhỏ cô độc nhô lên trên cánh đồng rộng lớn. Dân ở đây gọi hòn núi đá này là Đá Dựng. Đá Dựng có những hàng đa cổ thụ khổng lồ, rễ chùm lên vách đá. Dưới những chùm rễ đấy ẩn giấu một miệng hang đá, gọi là hang Biệt Động, do thời chiến tranh, biệt động dùng miệng hang này làm trạm quan sát nhìn về thị trấn.


Tên cũ của hang là Cội Hàng Da (gốc cây đa), truyền thuyết là nơi ở của con chằn tinh hung ác bị Thạch Sanh chém. Rồi cũng hang đá này trở thành nơi trú ẩn của Thạch Sanh sau khi bị Lý Thông lừa dối đến nỗi phải trốn vào rừng.

Từ cửa hang này, một ngày kia, Thạch Sanh nhìn thấy đại bàng cắp công chúa Quỳnh Nga bay qua bầu trời, chàng đã giương cung bắn. Con đại bàng xã cánh rơi xuống hòn núi đá Thạch Động, cách Đá Dựng hơn một cây số cánh đồng, là nơi Thạch Sanh lội bộ dò theo vết máu mà tìm đến.


Trong hang đá của Thạch Động vẫn còn giếng đá sâu, tương truyền ăn thông ra biển, nơi Thạch Sanh bám dây leo xuống cứu công chúa và bị Lý Thông hãm hại bằng cách bỏ rơi dưới đáy hang. Cũng chính dưới đáy giếng này, Thạch Sanh đã cứu được thái tử con vua nước Cần Một bị giam trong cũi sắt, để rồi được vua cha tặng cho cây đàn để trả ơn.


Có lẽ Thạch Sanh là truyền thuyết giàu hành động và kịch tính nhất trong kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam. So với các chuyện cổ khác, các nhân vật trong Thạch Sanh có họ tên, còn bản thân chuyện cổ tích này được người ta cho rằng xuất hiện trong dân gian tương đối muộn, vào thế kỷ 18, tương ứng với thời kỳ người Hà Tiên bắt đầu dựng đất và giữ nước.


Nếu Thạch Sanh quả thực phát sinh từ vùng đất này, thì ẩn chứa dưới các lớp vỏ truyền thuyết có thể sẽ là bóng dáng của lịch sử.


Con chằn tinh ăn thịt người có thể là phóng chiếu tiềm thức phản kháng của người dân đất Hà Tiên thủa hoang sơ, chống lại không chỉ sự cướp bóc tàn ác của quân lính Cao Miên và còn như muốn thoát ra khỏi cái bóng văn hóa Khmer mà biểu tượng là truyền thuyết rắn thần Naga. Nó cũng lờ mờ lý giải được tại sao trong tiếng Nam người ta nói “dữ như bà chằn” còn tiếng Bắc không có sự so sánh như vậy.


Lý Thông có thể là hình ảnh tượng trưng cho những thương nhân người Hoa ở vùng Vịnh Xiêm La (từ Phú Quốc vào Hà tiên, Rạch Giá) , quanh năm xoay sở kiếm lời bằng cách tổ chức sòng bài và buôn bán mọi cách ở vùng đất mới Hà Tiên đang manh nha trù phú, thường xuyên bị áp lực của các tiểu vương cai trị các xứ Chân Lạp, Cao Miên và Xiêm La.


Ngay cả tình tiết Thạch Sanh cứu thái tử dưới hang, cũng có nét tương đồng với việc Mạc Thiên Tích nhiều lần cưu mang thái tử của quốc vương Chân Lạp, hay Xiêm La, mỗi lần các xứ này có nội loạn hoặc bị quân Miến Điện đánh chiếm. Như vua cha trong chuyện cổ tích mang đàn quý để trả ơn Thạch Sanh, những vị thái tử sau này lên ngôi, đều thông qua Mạc Thiên Tích, dâng đất để trả ơn chúa Nguyễn, từ mảnh đất rộng lớn Tầm Phong Long (An Giang đến Vĩnh Long), từ Cần Thơ ra đến Bạc Liêu (Ba Thắc), từ Trà Vinh ngược tới Gò Công.


Mạc Thiên Tích có mẹ và vợ là người Việt. Ông yêu tiếng Việt đến nỗi khi làm chủ soái Tao Đàn Chiêu Anh Các chiêu hiền đãi sỹ, ông đã tả cảnh đẹp Hà Tiên bằng những bài thơ tiếng Việt thể song thất lục bát mà hai trăm năm sau thi sỹ Đông Hồ phải thốt lên: “… làm những câu thơ tiếng Việt lọc lõi đến như vậy”.


Được chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chức Tổng Binh Đại Đô Đốc để kế tục sự nghiệp của cha mình là Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích không chỉ xây dựng Hà Tiên thành hải cảng đô hội trù phú, có trường học và thi đàn phát triển, mà ông còn cùng với quân đội của chúa Nguyễn kiên cường chống quân xâm lăng đến từ Cao Miên và Xiêm La; đồng thời mở rộng bờ cõi, chiêu dân lập ấp. Lúc đầu Mạc Thiên Tích trụ ở Hà Tiên để cai quản vùng đất từ Rạch Giá qua Cà Mau, sau ông rời qua Cần Thơ để cai quản miền đất rộng lớn, từ An Giang tới Bạc Liêu, từ Cần Thơ lên hết Trà Vinh.


Chỉ trong một thời gian ngắn, chưa đầy ba thập kỷ (1708-1735), từ lúc Mạc Cửu xoay theo thời thế, lúc dựa vào vua Chân Lạp, lúc ngả theo triều đình Xiêm La, để rồi cuối cùng dựa hẳn vào sự che chở của chúa Nguyễn Phúc Chu, mảnh đất Hà Tiên dần hình thành trên mảnh đất duyên hải nhỏ bé phía nam của tổ quốc. Để rồi trong ba thập kỷ tiếp theo (1735-1776), Hà Tiên của Mạc Cửu, chỉ là hải cảng của các sòng bài và hải tặc, dưới sự cai quản của Mạc Thiên Tứ và người vợ Nguyễn Thị Hiếu Túc đã phát triển lên tới cực thịnh, làm tiền đề mở mang bờ cõi cho nhà Nguyễn sau này.


Chịu ơn chúa Nguyễn, phò nhà Nguyễn đến cùng, Mạc Thiên Tích bị quân Tây Sơn truy sát, phải chạy qua lưu vong dưới trướng vua Xiêm lúc bấy giờ là Taksin (Trịnh Quốc Anh). Vua Xiêm nghi ngờ ông là nội gián của chúa Nguyễn. Giống như Thạch Sanh bị hạ ngục vì Lý Thông vu oan lấy vàng của vua. Trong ngục tối Thạch Sanh có cây đàn làm bạn, cất lên lời ca bi oán: “Đàn kêu tích tịch tình tang. Ai mang công chúa dưới hang trở về”. Còn Mạc Thiên Tích chọn lối quyên sinh. Ông chết nhưng bờ cõi của nhà Nguyễn vẫn còn. Và Hà Tiên, giống như Kim Dữ Lan Đào, vẫn tiếp tục làm cửa chắn sóng bảo vệ bờ cõi phía nam tổ quốc.


Ngăn ngừa nước dữ khôn vùng vẫy

Che chở dân lành khỏi ngửa nghiêng.

Thế cả vững vàng trên Bắc hải,

Công cao đồ sộ giữa Nam thiên.


(Kim Dữ Lan Đào trong Hà Tiên Thập Cảnh Vịnh của Mạc Thiên Tích, bản dịch của Đông Hồ).


4.


Những năm 20 thế kỷ trước, có một người thanh niên tên là Kỳ Phác, dòng họ nhiều đời sống ven Đông Hồ Ấn Nguyệt. Hà Tiên lúc đó đã suy tàn, chỉ còn là cái bóng mờ so với quá khứ và không thể cạnh tranh nổi với Sài Gòn Gia Định phồn hoa. Người thanh niên ấy đêm ngắm trăng tỏa sáng trên mặt nước Đông Hồ, ngày ngóng đợi tạp chí Nam Phong gửi vào từ xứ Bắc xa xôi lúc đó còn là thủ phủ của Liên bang Đông dương thuộc Pháp.


Tạp chí Nam Phong của Phạm Quỳnh, vô tình khơi dậy tình yêu chữ quốc ngữ bên trong con người trẻ tuổi xứ Hà Tiên, lại vừa làm cầu nối giữa anh với văn nhân xứ Bắc. Người thanh niên ấy sau này nổi tiếng với bút danh Đông Hồ. Ảnh hưởng của tiếng Việt và chữ quốc ngữ đến mảnh đất cực nam khi ấy còn mờ nhạt, với sự mẫn cảm kỳ lạ của một thi nhân trẻ tuổi, Đông Hồ không chỉ hồ hởi đón nhận mà còn nỗ lực bỏ công quảng bá tiếng Việt. Năm 1926, khi mới hai mươi tuổi, Đông Hồ mở Trí Đức Học Xã bên Đông Hồ Ấn Nguyệt với chủ trương chỉ dạy và truyền bá tiếng Việt. Cùng lúc ấy, Đông Hồ chăm chỉ viết bài cho Nam Phong, trong đó có các bài khảo cứu quan trọng về Hà Tiên.


Khi hoàng tử trẻ Nguyễn Phúc Ánh thoát chết chạy từ Huế về Gia Định, rồi lên ngôi vương ở đất Sài Gòn năm 1780, người dân Nam Bộ, lúc đấy còn được gọi chung là Gia Định mới bắt đầu sử dụng tiếng Việt. Tiếng Việt và phong tục Việt chỉ trở nên phổ biến ở vùng đất này, lúc đó gọi là Nam Kỳ, kể từ sau năm năm 1835 là năm Minh Mạng bình định quân khởi nghĩa Lê Văn Khôi và sáp nhập nốt vương quốc Chân Lạp rồi bắt đầu chính sách mạnh mẽ để giáo hóa người Việt miền Nam và đồng hóa người Chăm, Khmer và người Hoa  cũng trên mảnh đất này.


Một trăm năm sau,  năm 1935, khi Nam Phong đình bản, Đông Hồ lên Sài Gòn mở ra tuần báo Sống, là tờ báo đầu tiên ở phía nam tuân thủ nghiêm ngặt cách bỏ dấu theo chính tả tiếng Việt. Rồi ông mở nhà xuất bản Bốn Phương, mở nhà sách Yiễm Yiễm Thư Quán. Tất cả chỉ để truyền bá quốc ngữ. Hoài Thanh và Hoài Chân viết về ông: “Yêu quốc văn đến như Đông Hồ, kể cũng ít …”.


Trí Đức Học Xá và Sống của Đông Hồ, như những giọt mồ hôi cuối cùng của người Việt từ Gia Định đi mở cõi từ trăm năm trước rơi trở về đất Trấn Biên.


5.


Chúng tôi rời Hà Tiên bằng chuyến xe đêm. Trước khi chia tay Hà Tiên, chúng tôi đến ven bờ Đông Hồ Ấn Nguyệt, phía trước Trí Đức Học Xá, để ngắm trăng mười sáu tỏa ánh sáng vĩnh cửu của mình xuống mặt biển bình yên, trong tiếng sóng êm ả vỗ bờ.


Trong tiếng sóng ấy là  khí phách của những người mở cõi: nhân hậu, bền bỉ và bất diệt.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 11, 2012 00:40

March 25, 2012

Góp Chữ Thành Sách

Xin giới thiệu với mọi người trang Facebook của Góp Chữ. Ở đây.


Trang mạng Góp Chữ đang được xây dựng và sẽ sớm kết nối với Amazon Payment Inc. để làm platform cho việc quyên tiền.


Các dự án dịch thuật đầu tiên cũng đang được chuẩn bị. Hy vọng các bạn sẽ ủng hộ từ tất cả các phía: dịch thuật, đóng góp tài chính, công sức, … và cuối cùng là sử dụng thành quả của Góp Chữ.


Nhưng trước hết, hãy nhiệt tình quảng bá cho Góp Chữ.


Các thông tin thêm về Góp Chữ được mô tả ngắn gọn dưới đây (một số thông tin sẽ được điều chỉnh dần theo thực tế hoạt động của Góp Chữ):


I. Góp Chữ Là Gì


Góp Chữ (GC) là trang mạng phi vụ lợi và phi chính trị đóng vai trò trung gian quyên góp gây quỹ để tài trợ cho các dự án dịch thuật phục vụ cộng đồng bằng cách tạo ra các bản sách dịch chất lượng cao qua tiếng Việt, có bản quyền, được xuất bản và phát hành miễn phí bằng định dạng điện tử (ebook) cho bạn đọc.


II. Hoạt Động Chính


GC sử dụng hình thức tài trợ đám đông (crowd funding) để quyên góp từ các cá nhân hảo tâm khắp thế giới cho các dự án dịch của các dịch giả/nhóm dịch giả ở Việt Nam (sau đây gọi chung là "dịch giả").


Dịch giả tự đề xuất các dự án dịch thuật của mình lên trang mạng GC cùng với các thông tin về tác phẩm, lý do tại sao nên dịch tác phẩm này sang tiếng Việt, trình độ và kinh nghiệm của dịch giả, thời gian và chi phí cần có để hoàn thành dịch phẩm.


Từ các thông tin của dự án, các nhà hảo tâm sẽ lựa chọn dự án để tài trợ; sau đó thông qua công cụ thanh toán Amazon Payment, họ sẽ cam kết tài trợ một khoản tiền cho dự án. Chỉ khi tổng mức tài trợ cam kết bằng với chi phí cần có để thực hiện dự án thì Amazon Payment mới thu các khoản tài trợ mà người hảo tâm đã cam kết và chuyển vào tài khoản do GC quản lý. Lúc đó dự án được coi là đã bắt đầu. Nếu vì bất kỳ lý do gì mà dự án không được hoàn thành như dự định thì nhà hảo tâm sẽ quyết định là sẽ nhận lại tiền (đã trừ các chi phí giao dịch của hãng thanh toán) hay tài trợ tiếp cho một dự án khác.


Sử dụng ngân quỹ quyên góp được cho dự án, GC sẽ thay mặt dịch giả thương thảo và mua bản quyền dịch nếu dịch phẩm phải có bản quyền. Giải ngân cho dự án (trả tiền cho dịch giả) sẽ được thực hiện theo tiến độ nghiệm thu bản dịch.


Ngoại trừ việc thu một khoản phí dưới 15% để chi trả cho các khoản phí thanh toán/chuyển tiền và duy trì trang, GC sẽ không sở hữu bất cứ tài sản nào hình thành từ quá trình gây quỹ và dịch thuật như bản quyền sách, bản quyền dịch và các chế bản. Quyền nhân thân thuộc về dịch giả.


GC tạo điều kiện thuận lợi để các nhà tài trợ để lại dấu ấn trên dịch phẩm bằng tên, lời nhắn gửi, lời đề tặng, logo của công ty hay tổ chức nếu họ là một nhà tài trợ chính cho một dự án (tài trợ nhiều hơn 30% chi phí dự án).


Dịch phẩm được phát hành miễn phí bằng định dạng ebook để công chúng sử dụng tự do.


III. Quyên Góp và Sử Dụng Tài Trợ


Là một công cụ gây quỹ trực tuyến (fundraising platform), GC hy vọng sẽ gây quỹ qua ba phương thức sau đây:


1. Tài trợ của các nhà hảo tâm cho từng dự án cụ thể thông qua các công cụ thanh toán trực tuyến.


2. Tài trợ của người hảo tâm, thông qua các công cụ thanh toán trực tuyến, cho các dự án đăng trên GC nhưng không bó buộc vào dự án cụ thể nào.


3. Tài trợ của người hảo tâm không thông qua các công cụ thanh toán trực tuyến.


Trong đó phương thức thứ nhất sẽ là phương thức chính. GC xin bảo lưu quyền sử dụng các ngân khoản thu được qua các phương thức 2 và 3 cho các dự án dịch sách mà GC thấy là phù hợp.


GC cam kết phát hành chứng từ đã nhận tài trợ của người hảo tâm và chủ động công khai mọi khoản thu chi của trang. Ngoại trừ nhân viên kỹ thuật quản trị trang nhận được thù lao, mọi cá nhân khác đều tham gia như một tình nguyện viên đóng góp công sức miễn phí.


IV. Đề Xuất Dự Án Lên Trang Mạng Góp Chữ


Qua giao diện trực tuyến của GC, bất kỳ ai đã đăng ký làm thành viên của trang cũng có thể đề xuất một tác phẩm để cộng đồng xem xét tài trợ cho việc dịch tác phẩm đó sang tiếng Việt.


Dịch giả có thể chọn từ các tác phẩm mà cộng đồng đề xuất hoặc tự đề xuất một tác phẩm để dịch. Trong trường hợp này, dịch giả cần cung cấp các thông tin như được đề cập trong phần II.


GC ưu tiên dịch các tác phẩm phi hư cấu (non-fiction) từ các ngôn ngữ chính như Anh – Pháp, hoặc các tác phẩm hư cấu có hàm lượng tri thức cao từ các ngôn ngữ hoặc quốc gia mà độc giả Việt Nam chưa quen thuộc. GC không khuyến khích gây quỹ cho các dự án dịch tác phẩm văn học chỉ có tính giải trí.


Với mức thù lao tham khảo là US$8 cho mỗi 500 từ gốc (20% thấp hơn cho các ngôn ngữ đơn âm), GC hy vọng tạo ra nguồn dịch phẩm và nguồn tài trợ liên tục và bền vững để đảm bảo mức thu nhập cao theo tiêu chuẩn Việt Nam cho các dịch giả trình độ cao với hy vọng họ sẽ an tâm làm việc để tạo ra tác phẩm chất lượng cao tương ứng cho cộng đồng và xây dựng danh tiếng cho chính họ.


GC khuyến khích hình thức làm việc nhóm dịch giả đa thế hệ để các dịch giả có thể bổ khuyết cho nhau bằng các lợi thế của mỗi người.


V. Thực Hiện Dự Án


Ngay sau khi quyên góp đủ ngân sách, dự án sẽ được thực hiện.


Dịch giả đưa các phần dịch của mình lên trang riêng của dự án trên trang GC. GC sẽ có công cụ và phương thức để cộng đồng cùng biên tập và góp ý cho bản dịch.


Khi 30% dịch phẩm đã được hoàn thành và biên tập xong, GC sẽ chuyển 40% tổng chi phí dự án cho dịch giả.


Tương tự, khi 70% còn lại của tác phẩm được hoàn thành, bao gồm cả biên tập, GC sẽ chuyển 60% còn lại của tổng chi phí dự án cho dịch giả.


Dịch giả cam kết cung cấp bản dịch chất lượng cao và đúng tiến độ. Dịch giả cũng cam kết tuân thủ các chỉ dẫn biên tập và định dạng văn bản của GC, cập nhật bản dịch liên tục lên trang riêng của dự án trên trang mạng GC. Việc này cho phép cộng đồng theo dõi được tiến độ và gửi phản hồi về chất lượng bản dịch cho dịch giả.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 25, 2012 20:48

March 23, 2012

Lan man dắt sách qua đường

Các đây mấy hôm, nhân các bác ở trên facebook làm ầm ĩ trong cảnh yên lặng về một vụ ngã ngựa dịch thuật, tôi đã viết một cái note ngắn trên facebook của mình để bênh vực các bạn tư nhân làm công tác xuất bản một chút.


Bài viết ấy, ngoài một số lập luận thuần lý, còn lại là vô số các ý kiến cảm tính của tôi. Cảm tính, bởi tôi luôn cố gắng nhìn mọi việc, dù tệ đến đâu, bằng cái nhìn thiện cảm.


Để có thể thiện cảm với mọi việc, không chỉ đơn giản là tâm niệm trong lòng, mà phải rèn luyện, thực hành cái cách nhìn thiện cảm ấy.


***


Tôi không biết nhiều lắm về Aristotle, tôi chỉ biết mang máng là ông này làm chủ nô, và có quan điểm rất đặc biệt về đạo đức. Đạo đức theo quan điểm của Aristotle, là phải thực hành, có lẽ phải thực hành từ tấm bé.


Nó hơi khác với cái "nhân chi sơ tính bản thiện", nghe thì rất sướng tai, nhưng mà ẩn chứa sự lười nhác và phó mặc.


Trong cuốn SuperFreakonomics, các tác giả cũng cho rằng con người sinh ra là trung hòa, không thiện không ác. Thiện ác là do thực hành mà nên.


Hồ Chí Minh, trong năm lời dạy nổi tiếng của mình, cũng có ý thực hành: "Giữ gìn vệ sinh thật tốt".


Suy từ chính mình, biết rằng "dẫn bà cụ già đi qua đường đông" là một việc tốt, nhưng khi còn đi học mấy ai thực sự thực hành việc này.


Nếu thực hành, ta sẽ thấy, không phải dẫn cụ bà băng qua đường bất cứ chỗ nào cũng tốt, mà cần phải qua đúng chỗ có vạch sơn đi bộ.


Và đầu tiên là phải dắt đúng cụ bà muốn băng qua đường, chứ không phải cụ bà chỉ đứng ven vỉa hè nhìn người qua lại để đến mức cả lớp xúm lại cưỡng bức cụ qua đường, rồi sớm mai lên báo cô giáo chúng em đã làm việc tốt.


***


Bởi vậy, có lẽ, văn hóa đọc cũng cần thực hành.


Thực hành đọc những cuốn sách dễ đọc hoặc cần phải đọc.


Thực hành việc đi ra hiệu sách, tự chọn sách cho mình.


Thực hành động tác lấy ví, rút tiền ra, mua sách.


***


Mấy hôm trước ngồi với các anh chị làm sách, ở quán cà phê trong hội sách, có nói với các anh chị, rằng để lĩnh vực xuất bản tốt hơn, thì cần:


- trước hết làm sao chi phí phát hành giảm xuống, giảm không phải để giảm giá bán, mà giảm % phát hành, dùng số tiền đấy để làm cuốn sách tốt hơn, từ dịch đến biên tập, vẽ bìa.


- sau hết, là làm sao thị trường lớn lên, tức là cái văn hóa đọc phình to lên, để tất cả cùng có lợi, từ tác giả đến người làm sách, từ kênh phân phối đến cộng đồng mua sách.


Nhiều anh chị lắc đầu kêu khó, vượt quá khả năng của nhà xuất bản, nhất là làm sao văn hóa đọc phát triển, thị trường sách lớn lên.


Có anh chị lẳng lặng làm ngay. Họ thích hành động. Bởi họ biết rằng thị trường còn bé tức là tiềm năng còn lớn. Nếu làm được những cuốn sách mà những người chưa mua sách bao giờ cũng muốn mua để đọc, thì chắc chắn là thị trường sẽ mở rộng đối tượng của mình thông qua văn hóa đọc.


Như ngày xưa những cô hàng nước đọc truyện chưởng gáy nát bét thuê từ tiệm sách cũ, lúc trưa hè vắng khách.


Hay những chị buôn vải chợ đầu mối gối đầu lên sạp hàng mà đọc tiểu thuyết diễm tình in chữ to như hạt đỗ đen.


***


Tôi rất hãi những ý kiến cho rằng văn hóa đọc đi xuống một phần là do ảnh hưởng của hệ thống thư viện yếu kém và giá sách quá đắt.


Không riêng gì văn hóa đọc, mà văn hóa nào cũng vậy, chẳng thể nào tốt được nếu chỉ thích dùng dịch vụ miễn phí và sản phẩm rẻ mạt.


Thực tế, sách ở Việt Nam không hề đắt, so với các nước xung quanh. Chẳng qua văn hóa đọc vốn càng ngày càng lởm, lại thêm bạn đọc hay ngoạc mồm ra đòi sách rẻ, nên nhà xuất bản phải chiều theo.


Kể ra không chiều theo, thì biết đâu tốt hơn. Văn hóa đọc nên thực hành bằng việc mua sách, nhất là sách không rẻ, để quyết định rút tiền ra mua sách phải là một quyết định đáng trân trọng.


Thời bao cấp, việc sách được in theo kế hoạch, được phát hành về tận các hiệu sách nhân dân cấp quận huyện, được các thư viện cấp huyện mang về cho nhân dân đọc, đã giết chết không chỉ thị trường sách cần cạnh tranh để có tác phẩm tốt, mà giết luôn cả việc thực hành mua sách.


Rất nhiều bậc phụ huynh bây giờ không muốn phải đi xe máy, hoặc xe bus, cả chục cây số để đến hiệu sách lớn. Lại càng không nghĩ được rằng mình sẽ phải chọn sách cho mình từ hàng ngàn đầu sách trên kệ. Lại càng không thực hành việc rút ra khỏi ví một số tiền, tương đương một ly cà phê hoặc bao thuốc lá, để mua cho con mình một cuốn sách.


Đấy là chưa nói thư viện mua sách bằng tiền thuế của nhân dân. Tôi chẳng tin tiền thuế mang ra mua sách dịch của Murakami, hay Tào Đình, sách về Steve Jobs, thậm chí sách về Aristotle, Lenin, Einstein … cho dân các huyện trên cả nước đọc, lại là một cách tiêu tiền thuế có ích.


Thư viện cho cộng đồng là tốt, nhưng chỉ tốt khi chính cộng đồng dựng nên.


***


Hơn mười năm, lúc nhập sách, lúc bán sách, lúc in sách, lúc làm tác giả.


Có mấy suy nghĩ về sách và văn hóa đọc như vậy.


In ra giấy, nắm lại, không chặt một bàn tay.


Post lên trên net, giống như đổ sương lên băng giá.


Thật đúng là gây sự chú ý trong cảnh thờ ơ.


***

Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không?

Chưa chắc đã nhờ vào việc đọc sách.


(Câu in nghiêng ở đầu bài viết, hình như là từ một truyện ngắn của Lê Đạt về thơ Hai Ku).



Cái note ở Facebook:


Như trên đã nói việc dịch sai hay đúng thì nên giới hạn trong "chuyên môn", tuy rằng chuyên môn dịch dọt lại là cái dân đọc sách nói chung đều có thể chĩa mồm vào được.


Các bác cần phải hiểu là làm xuất bản ở Vina rất mệt. Đặc biệt là xuất bản tư nhân, bị chèn ép các kiểu. Không phải chuyện kiểm duyệt. Riêng kiểm duyệt em thấy ở Vina mình như thế kể ra cũng được. Có những nước, ví dụ (hình như là Iran), sách và phim mà có vấn đề, họ vẫn cho phát hành, nhưng tác giả và chủ xuất bản họ cho mẹ nó vào tù. Như thế thì vô hình chung là giết chết tác giả, thậm chí giết luôn cả publisher. Ở Vina những năm 60-80 thế kỷ trước, rất nhiều mầm mống tài năng bị giết chết bằng cách bỏ vào trại lao động như thế. Còn bây giờ, cùng lắm là tịch thu sách, phạt vi cảnh này nọ. Cũng là vô nhân đạo, nhưng ít ra là tác phẩm vẫn ra đời. 


Nếu các bác để ý, thị trường sách, ở đây em nói là market size, suốt mấy chục năm qua, thậm chí tính cả ngành xuất bản ở miền nam trước 1975, gần như không lớn lên (về size) và tha hóa đi về thẩm mỹ, chất lượng đọc (có lẽ vấn đề chất lượng độc giả ở nước ngoài cũng bị như vậy, do toàn cầu hóa, pop hóa?). Các đầu sách hiện nay bán chỉ lanh quanh 2000 đến 3000 copies cho một tựa (trung bình). Tức là sách mà không ăn khách chỉ bán dưới 1000 (có cuốn em biết bán vài trăm là mừng). Sách bán tốt thì lanh quanh 2000 cuốn. Sách ăn khách thì độ 4000 đến 6000. Sách bán chạy thì thường là sách teen, sách bình dân, thì độ 8000. Cuốn nào cực ăn khách kiểu này, thì độ 15 đến 30 ngàn. Mỗi năm có độ ba bốn đầu sách ăn khách (trên 10 ngàn), độ hai chục đầu sách kha khá (6000 đến 8000). Còn lại thì nói chung chỉ 2000.


Các nhà xuất bản nhà nước thì có sẵn mọi thứ, kiểu gì cũng sống được. Bí quá thì liên kết, "bán giấy phép". Béo bở nhất là in lịch, in tài liệu đoàn đội, in mấy thứ tuyên truyền. Siêu béo thì là sách giáo khoa, cái này các bác biết rồi, 80% thị phần (tính theo doanh thu) là sách của NXB Giáo dục.


Tư nhân thì thiên hình vạn trạng. Béo nhất là sách luộc. Các bác cứ nghĩ là có những ông "làm sách" bây giờ cứ luộc các cuốn như Bố già, như Thạch Lam, … rồi bán. Vừa nhàn lại vừa giàu. Rồi luộc sách của các ông làm xuất bản tử tế.

Những ông như Nhã Nam, Alpha Books rất khổ. Các bác có biết là cuốn Mật Mã Tây Tạng là cuốn ăn khách của Nhã Nam, vừa ra hôm trước, hôm sau trên mạng đã có bản mềm, download miễn phí. Sách lậu thì đầy vỉa hè đã đành, lại còn chui vào cả hệ thống nhà sách chính thức.


Làm sách, các bác biết rồi, vừa phải là thích sách, mê sách, vừa phải bán được sách để có lãi. Bị chèn ép tứ bề như vậy, mà doanh thu trên đầu mỗi cuốn sách bị giới hạn ở con số 2000 như vậy, họ phải làm gì.


Cách duy nhất là họ phải ra sách liên tục. Liên tục ra sách mới để có doanh thu. Như Alpha Books một năm họ ra gần 200 đầu sách. Nhã Nam thì hơn 300. (Nghĩa là chỉ tính Nhã Nam và Alpha Books, cứ 2 ngày họ lại đưa vào hệ thống 3 đầu sách mới).


Tức là trung bình hơn một ngày là ra một cuốn sách mới. Một cuộc chạy đua tàn nhẫn, không thể nào mà có được chất lượng sách tốt được. Ai chả muốn làm một cuốn sách kỹ càng, chỉn chu. Nhưng ai sẽ bỏ tiền ra nuôi cái kỹ càng, chỉn chu ấy.


Nếu nhìn vào cái thực trạng như vậy, các bác sẽ vẫn ngạc nhiên, khi các nhà xuất bản tư nhân vẫn cho ra những cuốn sách giá trị mặc dù biết chắc là không bán được. Ví dụ như Alpha Books có cuốn Ba Mươi Năm Sóng Gió của Ngô Hiểu Ba. Nhã Nam có cuốn Vũ Trụ (Cosmos) của Carl Sagan. Hai cuốn này đều rất giá trị (em đọc rồi các bác). Và đều không bán được. Vậy độc giả Vina có xứng đáng được đọc sách tốt không? Theo em thì có, nhưng cái thiểu số xứng đáng ấy rất bé, bé tí, và không thể nào nuôi được các bạn xuất bản tư nhân. Nếu kể nữa, thì cả Alpha và Nhã Nam đều có cả chục, đến vài chục, các cuốn tốt mà không ai mua như vậy. Cuốn Galilei của B.Brecht thậm chí chỉ dám in có 900 bản (đương nhiên lỗ).


Vậy nên việc các bác mổ xẻ tác phẩm là tốt, nhưng chỉ nên mổ xẻ chuyên môn. Và có cái nhìn thiện cảm hơn, ủng hộ hơn với các nhà xuất bản tư nhân như Nhã Nam, Alpha Books, … Nhất là các nhà xuất bản làm tử tế.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 23, 2012 01:13

February 29, 2012

Mất lốp

Săm và Lốp là từ miền bắc. Trong nam gọi là vỏ và ruột.


Thời bao cấp, được tiêu chuẩn mua một cái xe đạp là cả một sự kỳ diệu. Kỳ diệu đến mức có khi những tập thể thân thiết trong cùng một cơ quan còn nhường "suất mua xe đạp" lần tới cho ai đó sắp lấy vợ.


Mua được xe là một chuyện, duy trì cái sự hoạt động của nó lại là chuyện khác. Các phụ tùng cho xe, như săm, lốp, xích, líp … cũng phải đợi được phân phối. Trong lúc đợi, nếu có bộ phận nào hỏng thì phải cố khắc phục. Như xích thì phải …lộn. Nên có câu nói đùa nghề nghiệp là "lộn xích xe tăng, cân vành tàu điện".


Lốp cũ đi rách lòi cả săm ra ngoài, cũng phải lấy dây cao su mà quấn lại cho khỏi phòi ruột mà đi tiếp. Vì thế có từ: đi xe cố vấn.


Có anh cán bộ kia được phân phối cái lốp xe hiệu Sao Vàng mới cứng, treo tong teng ở ghi đông xe, rất hãnh diện, đi từ cơ quan về nhà.


Trên đường về anh ghé qua chợ, mua tí thịt tí cá, để gia đình "ăn tươi" mừng có lốp xe mới.


Anh xuống xe, cúi xuống rổ cá để chọn. Thằng ăn cắp ngay lập tức xuất hiện, lấy luôn cái lốp sao vàng mới coóng, rồi treo vào cổ mình.


Trong tích tắc, anh cán bộ phát hiện ra cái lốp xe bị mất, la toáng lên.


Thằng ăn cắp bình thản quay qua anh, lên mặt: "Ông để cái lốp hớ hênh thế mất là phải, ông phải treo vào cổ như tôi đây này, mới không bị mất".



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 29, 2012 05:04

Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.