Nguyễn Phương Văn's Blog, page 2
October 3, 2024
Việt Nam: lối đi nào để bước vào ngành sản xuất chip
Nên bắt đầu ngành bán dẫn của Việt Nam từ đâu, một mặt là một câu hỏi thiết thực rất khó nhận được một câu trả lời dứt khoát, mặt khác lại là câu hỏi mở với nhiều hướng trả lời khác nhau. Bản ngắn hơn của bài viết này đã đăng trên VietnamNet ở link này.
*
Xin bắt đầu một hướng với câu chuyện của SpaceX.
SpaceX là công ty tư nhân sản xuất tên lửa đưa phi thuyền vào không gian. Trước SpaceX, thám hiểm không gian là lĩnh vực độc quyền của chính phủ một vài cường quốc.
Ở thời điểm SpaceX tham gia cuộc chơi thì khoa học tên lửa không còn là ngành khó nữa, nó được giảng dạy ở nhiều trường đại học. Ở thời điểm hiện tại, công nghệ để sản xuất các bộ phận cấu thành tên lửa cũng không còn là bí mật quân sự mà các cường quốc cố gắng giữ kín. Các công ty tư nhân có thể tự phát triển công nghệ của riêng mình (như SpaceX). Cái khó nhất, để làm tên lửa vận hành được, đó là cần rất nhiều các kỹ sư vững tay nghề và giàu kinh nghiệm. Các kỹ sư (engineer) giỏi như vậy ngày xưa được gọi là “công trình sư”, vì họ là bậc thầy (sư) làm chủ được các kỹ thuật tạo dựng nên công trình. Hệ thống kỹ thuật tạo dựng sản phẩm như vậy được gọi là engineering.
Ngày nay khoa học (science) là tri thức mà quốc gia nào cũng có thể tiếp cận được, cách đơn giản nhất là cử người đi học. Công nghệ (technology) là cái có thể học, thuê, mua, thậm chí là dùng gián điệp công nghệ để thu thập. Nhưng năng lực kỹ thuật (engineering), nằm trong đội ngũ kỹ sư, để chế tạo ra các cấu phần rồi ghép nối thành công trình hoàn chỉnh mới là cái khó có thể có được.
Kiến thức để làm một cái xe đạp thì ai cũng có thể học được. Công nghệ chế tạo xe đạp, từ thiết kế đến kết cấu, từ sản xuất phụ tùng đến cách thức lắp ghép chúng… ai cũng có thể bỏ tiền ra mua bản quyền thiết và sáng chế được. Nhưng bước cuối cùng, đó là cần các kỹ sư có đủ khả năng chế tạo ra các bộ phận hoàn chỉnh rồi lắp thành một chiếc xe đạp nhẹ, bền, đẹp và vận hành trơn tru (và đủ rẻ), lại là một bước vô cùng khó. Cần rất nhiều thời gian để học nghề và để rèn luyện tay nghề.
Bên cạnh đó, dù làm xe đạp hay làm tên lửa thì việc tham gia ngành phải đủ sớm, trước khi các đối thủ kịp trưởng thành và đạt được trình độ và chi phí mà ta không có cách gì bắt kịp.
*
Ngành bán dẫn trên thế giới đã phát triển đủ lâu và khá chín muồi. Chỉ tính riêng với các sản phẩm dân dụng nó đã có chặng tiến hóa đầy kinh ngạc. Thủa ban đầu là đài bán dẫn chạy pin (radio sử dụng bóng bán dẫn/transistor), rồi đến máy nghe nhạc Walkman cầm tay, rồi hiện nay là máy giặt, tủ lạnh, lò nướng thông minh… có gắn chip điều khiển; cuối cùng là điện thoại thông minh như với đủ các tính năng từ gọi điện thoại truyền hình (video call) đến nghe nhạc xem phim.
Ở lĩnh vực quân sự và khoa học công nghệ cao, các bước tiến của ngành bán dẫn còn ấn tượng hơn nữa. Các chip điều khiển tên lửa có thể hướng dẫn tên lửa bay cả ngàn ki lô mét mà vẫn bắn trúng mục tiêu với sai số chỉ một gang tay.
Bước chân vào ngành bán dẫn thời điểm chín muồi như vậy dường như là một sự muộn màng. Nên bắt đầu từ đâu. Bắt đầu với việc học nghề có thể là một gợi ý đúng. Nhưng ngay cả học nghề để có các công trình sư (kỹ sư) đủ giỏi cũng sẽ gặp tiếp một câu hỏi khó: bắt đầu học từ công đoạn nào trong cả chuỗi quy trình sản xuất chip.
*
Bốn năm trước Apple giới thiệu con chip A14 Bionic dùng cho điện thoại iPhone. Đây là con chip đầu tiên được sản xuất bằng công nghệ 5nm. Vì là chip dùng cho điện thoại nên nó rất bé và tiêu thụ năng lượng rất khiêm tốn. Thế nhưng trên một con chip bé như vậy mà có tới 11.8 tỷ bóng bán dẫn (transistor), tức là mỗi một milimet vuông có tới 134 triệu transitor. Con chip này mỗi giây có thể thực hiện tới 11 ngàn tỷ phép tính.
Điều thú vị là Apple chỉ thiết kế con chip này, còn khâu sản xuất họ thuê công ty TSMC làm. Đây là lý do Apple được coi là nhà sản xuất chip hàng đầu thế giới, nhưng là nhà sản xuất fabless, có nghĩa là nhà sản xuất mà không có nhà máy gia công chip (sản xuất chip, trong tiếng Anh là fabrication, thường viết tắt là fab). Để đơn giản hóa, ngành chip có thể chia ra các công ty fabless (như Apple) và fab (như Intel). Công ty fabless chỉ làm thiết kế (design) và dàn trang (layout), Còn công ty fab có nhà máy làm chip.
Đây chính là một gợi ý để Việt Nam tìm hướng đi cho ngành bán dẫn của riêng mình. Việc mở nhà máy sản xuất chip cần đầu tư rất lớn, phải mua những thiết bị công nghệ cao không chỉ đắt tiền mà còn rất khó vận hành (và vẫn là câu chuyện cần các kỹ sư giỏi), cho nên thay vì nghĩ đến gia công cho phần sản xuất, thì Việt Nam nên nghĩ đến gia công ở khâu “phần mềm”, tức là thiết kế.
*
Các con chip của Apple thuộc vào dòng ASIC (application-specific integrated circuit). Các con chip ASIC được làm ra một mục đích rất cụ thể. Nó được lập trình một lần và chạy cái chương trình này suốt cuộc đời. Nó được thiết kế và sản xuất rất tinh xảo nên nó cực nhanh, cực mạnh, cực bền và tiêu thụ ít năng lượng. Để thiết kế nó cần rất nhiều năm và nhiều trăm triệu đô la. Sản xuất nó cũng vô cùng tốn kém. Để đơn giá đủ rẻ và bán được hàng, các chip ASIC cần được sản xuất với số lượng lớn. Nếu sản xuất với số lượng ít, đơn giá của nó cực kỳ cao như các chip đồ họa hoặc chip AI của NVDIA.
Các chip di động của Apple, chip đồ họa của NVDIA, chip đào bitcoin của Bitmain, chip để tăng tốc học máy của Intel… đều là các chip dòng ASIC. Khâu thiết kế chip dòng này có nhiều công đoạn Việt Nam khó có thể tham gia ngay được, hoặc là vì quá khó, hoặc vì Trung Quốc đã quá thạo. Nhưng có một số công đoạn mà Trung Quốc sẽ không tham gia được vì các hãng lớn ngừng giao hợp đồng cho Trung Quốc một phần vì nghi ngại, một phần vì Trung quốc cũng chưa giỏi. Có thể kể đến gia công dàn trang thiết kế chip (chip layout). Đây là công đoạn nằm giữa thiết kế và sản xuất.
*
Khi xem ảnh chụp các con chip hay các bảng mạch bán dẫn ta thấy chúng không khác gì bản thiết kế các thành phố hiện đại. Điều này khiến ta có cảm giác nghề thiết kế chip giống như thiết kế đô thị và nhà cửa với các bản vẽ cầu kỳ tinh xảo. Thực tế không hẳn như vậy. Thiết kế chip là công việc đơn điệu, buồn tẻ và tốn công sức. Giai đoạn đầu của thiết kế, được gọi là thiết kế logic (logic design thậm chí còn khá trừu tượng, bù lại là khá giống lập trình với ngôn ngữ bậc cao (high level) là lĩnh vực mà người Việt Nam đã quen thuộc.
Hoạt động của các con chip bán dẫn, để đơn giản hóa, là sự đóng mở (tắt bật) vô số các cổng logic (logic gate). Việc “đóng và mở” các tín hiệu điện đầu vào, tương ứng với các mã nhị phân “0 và 1”. Với tổ hợp đầu vào 0,1 khác nhau, thì kết quả ở đầu ra cũng khác nhau.
Ví dụ ta phải thiết kế một con chip cực kỳ đơn giản, nhiệm vụ của nó chỉ làm phép cộng nhị phân. Con chip này có 4 bit, thì làm sao khâu thiết kế phải làm cho nó chạy được các tín hiệu đầu vào ở mỗi bít, ví dụ 0101 và 0011, để cộng vào với nhau phải cho ra kết quả 1000.
Giai đoạn đầu tiên của việc thiết kế chip là “lập trình” sao cho các cổng logic này hoạt động cho đúng. Mà con chip không chỉ có một vài cổng, hay một vài triệu cổng, mà là hàng triệu cổng. Chip cũng không chỉ làm phép cộng mà còn phải làm nhiều việc khó khăn gấp bội.
Lập trình để thiết kế logic như vậy người ta dùng đến một ngôn ngữ thiết kế, gọi là ngôn ngữ mô tả phần cứng HDL (hardware description language). Hiện có hai ngôn ngữ thông dụng là VHDL và Verilog. Việt Nam mạnh về phần mềm, không quá mạnh so với các nước công nghệ cao, nhưng lập trình vẫn là kỹ năng mà người Việt có năng khiếu nhất và bề dày kinh nghiệm nhất trong số nhiều kỹ năng mà ngành bán dẫn đòi hỏi. Nên đây có thể là một hướng để Việt Nam bắt nhịp vào dòng chảy của ngành sản xuất chip trên thế giới.
Sau khi đã có “bản thiết kế logic” bằng HDL người ta sẽ phải dùng công cụ (phần mềm) rất đắt tiền để chạy mô phỏng (simulation). Tức là chuyển thiết kế được viết bằng ngôn ngữ bậc cao sang một dạng thấp hơn để chạy giả lập xem nó có chạy đúng ý đồ của người thiết kế hay không, cũng như để phát hiện lỗi (bug). Sau khi chạy giả lập thành công thì mới chuyển qua bước logic synthesis, tức là biến bản thiết kế hoàn toàn là các lệnh logic thành một cái mạch điện ảo với các cổng logic (gate) và bóng bán dẫn (transitor) ảo hoặc cho các dòng bit ảo (bitstream )chạy qua. Phần mềm chuyên dụng để làm việc này sẽ phải thuê license từ các hãng lớn như Intel, Cadence, AMD với chi phí lên tới hàng trăm ngàn đô la một năm.
Bản synthesis này sau đó sẽ được chuyển qua công đoạn “dàn trang vật lý” (physical layout) giống như các bản thiết kế máy móc, hay nhà cửa để đem đi sản xuất hoặc xây dựng. Đây là khâu khó và mất công sức để tối ưu hóa việc đặt tất cả các mạch điện, bóng bán dẫn… lên đế chip, vốn chỉ có không gian vật lý giới (nằm trong kích thước của con chip thật). Không chỉ tối ưu hóa về không gian, phải chồng chất rất nhiều lớp bán dẫ lên nhau, mà còn phải đảm bảo cho các dòng điện li ti đi qua mà không chập vào nhau, tỏa nhiệt tối ưu không làm hỏng chip, cũng như năng lượng tiêu thụ ở mức chấp nhận được. Sau khi có layout hoàn thiện mới đưa sang khâu sản xuất (fabrication). Bản layout sẽ được đưa cho các nhà máy sản xuất chip (như các fab của TMSC) để làm ra con chip thực sự.
Khâu layout này, hiện nay các hãng chip lớn đang thuê gia công (outsource). Ấn Độ là nhà thầu lớn, nhận được nhiều hợp đồng gia công thiết kế logic bằng ngôn ngữ HDL và xác minh mã (code verification). Việt Nam có thể là điểm đến quan trọng do Trung Quốc không còn là nơi được các nhà sản xuất chip ở Mỹ tin cậy. Trước đó, Trung Quốc đã rất mạnh về dàn trang thiết kế bo mạch (PCB layout) có ít lớp bán dẫn hơn dàn trang chip rất nhiều, họ làm tốt và rẻ. Nhưng chip layout thì các hãng lớn vì lý do bảo mật sẽ khá cẩn trọng khi thuê Trung Quốc gia công. Phần layout này cũng không đòi hỏi phần mềm chuyên dụng đắt tiền, nên đây cũng sẽ là cái dễ cho những tay chơi mới như Việt Nam.
*
Một thống kê năm 2021 cho thấy tốc độ tiêu thụ chip bán dẫn là một giây bán được 145 con chip. Và cũng như giày dép hay quần áo, các con chip luôn được cải tiến về thiết kế. Tức là nhu cầu thuê gia công layout là rất lớn, nhu cầu thuê thiết kế chip cũng rất lớn. Nhưng Việt nam nên học nghề thiết kế chip loại nào?
Bên cạnh loại chip bán dẫn ASIC khó thiết kế, khó sản xuất như của Apple và NVIDIA, thì có loại chip FPGA (Field-Programmable Gate Array). Khác với ASIC là chip được lập trình một lần duy nhất cho một mục đích duy nhất, thì chip FPGA có thể lập trình nhiều lần cho các mục đích khác nhau. Điểm yếu nhất của FPGA là không được nhỏ gọn lắm và tốn năng lượng tiêu thụ. Bù lại thiết kế và sản xuất chip FPGA rất nhanh, linh hoạt, có thể tái lập trình để dùng cho các mục đích khác nhau (chip trong thiết bị mạng viễn thông, thậm chí chip của thiết bị gia dụng có thể tháo ra lập trình cho bộ phận dẫn đường của tên lửa). Chi phí thiết kế và sản xuất rẻ cho dù sản xuất với số lượng ít, ví dụ các chip để dùng cho drone chuyên dụng, hoặc thiết bị quân sự, được sản xuất với số lượng ít và yêu cầu bảo mật cao. (Chi phí sản xuất khoảng 5 ngàn đô la một chip, cao hơn chip ASIC chi phí chỉ vài chục đô la nhưng phải sản xuất với số lượng lớn).
Chip FPGA có ứng dụng rất đa dạng, từ đồ dân dụng (như tủ lạnh thông minh, máy giặt thông minh, xe hơi…) đến các thiết bị mạng viễn thông (mạng 5G, router, modem…), từ các thiết bị y tế đến các thiết bị bảo mật, điều khiển drone, tên lửa hành trình. Các hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (machine learning), máy tính tốc độ cao (high performing computer) cũng dùng chip FPGA do không cần tiết kiệm không gian và năng lượng, liên tục thay đổi thuật toán (nên cần các kiến trúc chip mới). Đặc biệt là FPGA thường vượt trội ở xử lý song song (parallel processing) nên rất phù hợp cho xử lý đồ họa, cho crypto và học máy cũng như xử lý thời gian thực cho các ứng dụng quân sự, an ninh, phòng chống thảm họa.
Thiết kế chip FPGA (làm gia công, hoặc làm thiết kế để bán) là một lĩnh vực tuy không còn mới nhưng với Việt nam nó vẫn đầy tiềm năng mà vì thực tế ở quy mô quốc gia thì rất ít quốc gia có thể làm được.
FPGA ra đời muộn hơn các chip ASIC. Phải đến những năm 198x nó mới xuất hiện và dần dần trở nên thông dụng. Hai nhà sản xuất chip FPGA là Altera và Xilinx đều bị hai hãng chip khổng lồ là Intel và AMD mua lại. Một số lĩnh vực quân sự, tài chính và vũ trụ sử dụng chip FPGA ngày càng nhiều, đặc biệt là với các thiết bị truyền sóng. Năm 2010 quy mô thị trường của chip FPGA chỉ ở mức 2,75 tỷ đô là, đến năm 2020 đã lên tới 9,8 tỷ đô la và có thể tăng lên hàng chục tỷ đô la trong vài năm tới.
Tham gia gia công một vài công đoạn trong thiết kế chip FPGA cũng sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng xích lại khâu sản xuất, bởi các chip “low-end” khá dễ làm và đầu tư nhà máy không quá tốn kém. Chip sử dụng cho đồ dân dụng như nồi cơm điện, máy giặt… không quá khó để sản xuất. Ngay cả với các chip quân sự, nó cũng không đòi hỏi phải cao cấp như chip A14 Bionic của Apple. Bởi chip quân sự không phải chạy đa nhiệm và xử lý dữ liệu lớn với tốc độ cao như chơi game hay gọi video call, nó cũng không cần phải tiết kiệm năng lượng cũng như thu nhỏ tối đa để lắp vào các thiết bị bé nhỏ như điện thoại thông minh. Trong một thế giới bất ổn thì tự làm được chip viễn thông và quân sự luôn là một lợi thế. Đến đây ta lại thấy việc cần phải có đội ngũ kỹ sư có năng lực và giàu kinh nghiệm thực tế, để rút ngắn thời gian phát triển các chip chuyên dụng, làm ra được chip vận hành an toàn, bảo mật được thiết kế và kết cấu chip đến mức nếu thiết bị rơi vào tay đối thủ cũng khó có thể bắt chước được.

September 3, 2024
Góp nhặt dông dài
Machiavelli nói quyền lực không quan trọng ở “chính danh” miễn là quyền lực đoạt được thông qua một cuộc cạnh tranh tự do.
Cũng theo Machiavelli, bài học thành công, nếu có thể đem dạy, và có thể học được, thì học từ kẻ ác cũng tốt như học từ người xấu. Vả lại tấm gương thành công từ kẻ ác luôn nhiều hơn tấm gương thành công của kẻ thiện lương.
Chính trị quan trọng nhất là mục đích. Hiện tại và cũng như quá khứ cổ xưa, mục tiêu chính trị mà các phe phái phất lên luôn là cao cả. Nhưng mục đích lại cần đến phương pháp để đạt được. Phương pháp sẽ là vô nghĩa nếu nó tất bại. Tức là phương pháp phải thành công mới là phương pháp tốt. Vấn đề còn lại là tuyên truyền để biến nó thành “tốt”. Mà kẻ thành công, phe chiến thắng kiểu gì cũng sẽ thành “chính nghĩa”. Bởi thâm tâm con người từ cổ chí kim luôn tin rằng chính nghĩa tất thắng. Còn ý kiến dư luận đương thời, đương nhiên là do tuyên truyền mà ra.
Để có chính nghĩa, tuyên truyền của các phe phái chính trị sẽ cố tô vẽ phe mình thành những kẻ có đời sống thiện lương hơn hẳn phe đối thủ. Phe thắng cuộc lại càng có lợi thế lớn đạt được mục đích này. Tuy nhiên, cách tốt nhất để dễ dàng đạt được tuyên truyền như vậy, lãnh đạo (của mỗi phe) sẽ phải cố gắng sống một cuộc sống khiêm tốn, đức hạnh hơn đối thủ. Hoặc ít ra là diễn trò sao cho người ta tin như vậy. (Không nhớ các ý về tuyên truyền và đức hạnh là của Machiavelli, hay là của Bertrand Russell bình luận về Machiavelli, mà lười mở sách ra đọc lại.)
Đấy là về quyền lực và cách thức chiếm được quyền lực, quan điểm và lý luận của Machievelli trong The Prince thực dụng, máu lạnh, đơn giản như vậy. Về thể chế (chia sẻ và kiểm soát quyền lực), trong Discourse, ông chỉ nhấn đến ba thế lực xã hội: quân vương, quý tộc, dân thường là ba thế lực cần được chia sẻ của cải, quyền lực và giám sát lẫn nhau. Hiến pháp Sparta (Hy Lạp cổ) được Machiavelli cho là tốt nhất, hiến pháp Solon (của Athens được cho là khá mềm yếu (quá dân chủ), hiến pháp Cộng hoả La Mã khá tốt và ổn định.
*
Dân chủ quá đà luôn có xu hướng dẫn đến độc tài và cuối cùng sẽ là bạo chính (tyranny). Lý do là dân chủ trực tiếp (direct democracy) bản chất chỉ là các cuộc trưng cầu dân ý cho mọi quyết định của thành-bang, của đất nước, quyết định cuối cùng dựa vào đa số.
Thời cổ, và cả thời nay, đám đông ít ra quyết định bằng lý trí mà luôn bị cảm xúc dẫn dắt, cho nên một ‘bạo chúa” (tyrant) sẽ dễ dàng thao túng đám đông để lấy phiếu có lợi cho phe nhóm của mình. Đám đông không chỉ bị cảm xúc dẫn dắt, mà họ còn bị sự sợ hãi điều hướng các quyết định và hành vi của mình. Điều này lại càng tạo điều kiện hơn nữa cho các “bạo chúa”. Bạo chúa ở đây là cách dùng từ trong tiếng Hy Lạp cổ, nó không mang màu sắc quá tiêu cực như hiện nay. Thời Hy Lạp cổ, tyrant chỉ đơn giản một cá nhân cai trị đất nước (nền bạo chính), đối nghịch với nhân dân tự cai trị đất nước của mình (nền dân trị). Có nhiều “bạo chúa” thực ra không tàn bạo tí nào và lãnh đạo đất nước rất tài tình, như một số hoàng đế túc tắc xuất hiện trong suốt ngàn năm lịch sử Đế quốc La Mã.
Dẫu vậy, về cơ bản, một nền dân trị (dân chủ )với thể chế cộng hoà vẫn luôn tốt hơn bất cứ một nền quân trị (quân chủ), quý tộc trị hay bạo chính nào. Tất nhiên phải là một nền dân trị và thể chế cộng hoà được thiết kế đủ tốt và phù hợp với đất nước mà nền dân trị ấy mọc lên.
*
Tổ tiên của phong trào chính trị “cánh tả” được truy gốc về hai anh em nhà Gracchus (Grachis Brothers). Người anh, Tiberius Gracchus, phát động một cuộc cải cách kinh tế xã hội đậm màu sắc dân tuý vào giai đoạn cuối của Cộng Hoà La Mã. Tiberius bị giết hại năm 133 Trước Công nguyên. Đây có thể coi là ca bạo lực chính trị đầu tiên trong lịch sử thành văn.
Mặc dù các khái niệm cảnh tả, xã hội chủ nghĩa… ra đời rất muộn sau này, anh em nhà Grachus vẫn thường được coi là hai sáng tổ của chủ nghĩa xã hội và phong trào dân tuý. Do vậy dân tuý, mị dân (và phần nào đấy là tư duy và hành động quá khích/radical vượt ra khỏi giới hạn của ngưỡng cấp tiến theo nhận thức chung của xã hội đương thời ) luôn là một phần bản tính của “cánh tả”. Qua thời gian, các chiêu thức dân tuý và mị dân dần trở nên kinh điển của cả tả lẫn hữu và mọi chính trị gia. Các chính đảng thành công đều lão luyện các kỹ thuật thao túng đám đông. Ở cánh hữu, cách làm này thường dẫn đến cuồng nộ của đám đông (angry mob), ở cánh tả thường dẫn đến các cơn lên đồng tập thể (mass histeria). Cả hai cánh nếu đi về phía cực đoan (cực tả và cực hữu) thì thao túng trở thành kích động đám đông và sẽ gây ra bạo lực trên diện rộng vượt qua mọi khuôn khổ luật pháp.
Cuộc cách mạng của anh em Gracchus đã phá vỡ cái norm vốn đã tồn tại hàng trăm năm của chính thể Cộng Hoà La Mã. Dẫn đến sự xuất hiện của Tướng Sulla, người thiết lập vị thế lãnh đạo độc tôn (dictator/độc tài) đầu tiên ở La Mã (Roma), ngồi ghế này vài năm, nghỉ hưu, rồi qua đời. Sau khi Sulla chết, Cộng Hoà La Mã rơi vào khủng hoảng với các biến động chính trị và bạo lực liên miên, trong đó có việc Julius Ceasar bị đâm chết. Biến động chỉ chấm dứt khi Augustus lên ngôi Hoàng Đế La Mã (năm 27 Trước Công Nguyên), xoá bỏ hoàn toàn nền Cộng Hoà. Đế chế La Mã từ đó tồn tại 500 năm, hoặc 1000 năm tuỳ theo quan điểm (Tây La Mã sụp đổ năm 476, Đông La Mã sụp đổ năm 1453).
Cho đến khi sụp đổ về mặt thể chế, Cộng Hoà La Mã (Rome Republics) tồn tại khoảng 500 năm (từ năm 509 Trước Công Nguyên).
*
Lúc đầu, La Mã, hình thành năm 753 Trước Công Nguyên, là một vương quốc nhỏ, toàn nông dân, và có một ông vua. Vương quốc ấy nhờ chăm chỉ làm nông, và chăm chỉ đi đánh nhau, dần dần giàu có và rộng lớn thêm. Có một tầng lớp giàu có lên, củng cố được địa vị, nắm giữ được nhiều nguồn lực quốc gia, và cuối cùng chuyển sang nắm quyền cai trị bằng cách bầu ra vua (khác vua phong kiến phương Đông, hoặc phong kiến châu Âu sau này, vua ngày xưa lại được bầu ra, thay vì trong hoàng gia nối ngôi nhau).
Thế là vương quốc La Mã cổ chuyển từ “quân trị”, sang “quý tộc trị”, và chẳng bao lâu sau thì chuyển qua “dân trị”. Dân trị, ở VN hay gọi là dân chủ, ở La Mã có một hình thức khác hẳn dân chủ ở Hy Lạp cổ đại.
*
Nền dân chủ Hy Lạp có một vấn đề khá trầm trọng. Nền dân chủ ấy (do Solon đặt ra năm 594 Trước Công nguyên sau khi Athens giành được ngôi vị độc tôn trong số các thành bang Hy Lạp) cho phép mọi người dân (thực ra mọi người ở đây không bao gồm nô lệ và phụ nữ ) có tiếng nói. Mọi việc quan trọng của thành-bang đều được đem ra bàn cãi, và bỏ phiếu. Việc này rất mất thời gian, công sức và quyết định cuối cùng thường được thông qua bằng đa số xít xao. Tức là 50% cộng 1 phiếu. Nếu một triệu người bỏ phiếu, thì chỉ cần 50% cộng 1 phiếu củng hộ là được thông qua. Vì là đa số xít xao nên các quyết định quan trọng bị quay xe luôn xoành xoạch, dẫn đến một nền chính trị không bao giờ ổn định và dễ bị thao túng, uy hiếp.
Các thành bang Hy Lạp và Nam Ý thời ấy có thói quen mời một vị hiền triết về viết hiến pháp và luật cho bang của mình. Solon là một vị hiền triết trong thất hiền của Hy Lạp cổ đại, ông còn là tổng chánh toà của Athens. (Chức này gọi là archon, một chức vụ làm trùm của các magistrate, là những ông pháp quan vận hành thành phố Athens). Hiến pháp và Luật do ông viết ra được coi là bộ luật nền tảng của nền dân trị Hy Lạp cổ, tức là khai sinh ra dân chủ. Luật của Solon bớt hà khắc hơn luật Draco trước đó (từ năm 620 Trước Công nguyên), chia sẻ quyền lực và quyền lợi từ tầng lớp quý tộc sang cho giới bình dân, bằng cách cho phép mọi công dân Athens được bỏ phiếu lựa chọn các quyết định của thành bang Athens, tức là dân chu trực tiếp. Để tránh thành bạo chúa (tyrant) ông ra luật xong thì bỏ đi 10 năm để chính mình không được hưởng lợi từ hiến pháp và luật do mình đặt ra, tránh trở thành bạo chúa, cũng như để tránh sức ép từ các thế lực lớn yêu cầu sửa hiến pháp và luật.
Điều này rất quan trọng, vì nền dân trị, tự thân nó đã có tư tưởng thiên tả khi nó chia sẻ quyền lực và quyền lợi cho cần lao. Ngay cả cơ chế checks and balances cũng chưa đủ để ngăn một nền dân trị chuyển biến thành nền bạo chính. Quy tắc tốt nhất để một nền dân trị không bị thao túng để trở thành nền bạo chính với một bạo chúa tại vị đến lúc chết: người ra luật sẽ không nắm quyền cai trị, và kẻ cai trị sẽ không nắm quyền mãi mãi mà phải có nhiệm kỳ. Cách thức để một tư tưởng có màu sắc thiên tả như Solon biến thành một nền dân trị đó là phải thông qua lập hiến và lập pháp, mọi biện pháp khác đều biến nó thành toàn trị cánh tả. Tức là, dù tả hay không, cái quan trọng là ở phương pháp, không phải ở mục đích.
*
Khi vương quốc La Mã chuyển từ quân trị sang quý tộc trị, thì tầng lớp quý tộc sử dụng đại diện của họ là Nguyên Lão viện (The Senate) để ra các quyết định, thông qua bỏ phiếu, bao gồm bỏ phiếu bầu ra người lãnh đạo vương quốc. Tiếp đó, khi tầng lớp bình dân mạnh lên, họ cũng đòi được quyền có tiếng nói, đại diện của họ là Hộ dân viện (The Tribune) với các thành viên là do giới bình dân bầu ra. Mọi quyết định quan trọng phải được cả viện quý tộc (nguyên lão) và viện bình dân (hộ dân) thông qua. Cả hai giới, bầu ra hai lãnh đạo vương quốc, gọi là hai viên quan chấp chính (consul). Như vậy Cộng Hoà La Mã là lưỡng-đầu-chế và là dân-trị. Lưỡng đầu chế (chế độ có hai người đồng cai trị) là để tránh quả đầu chế (chế độ chỉ có một người cai trị, quả nghĩa là một mình, như trong quả-nhân, quả-phụ). Nghĩa hiện đại của từ quả đầu, oligarch, thường hiểu theo nghĩa tài phiệt thao túng chính trị kiểu Nga hậu Yelsin. Hai vị quan chấp chính làm việc theo nhiệm kỳ và có quyền veto nhau. Như vậy Cộng Hoà La Mã tránh được việc nền dân trị của mình bị trượt qua nền bạo chính như Hy Lạp của Solon. Hy Lạp của Solon tuy rất hiện đại và tiến bộ lúc đương thời, nhưng là một cơ chế cai trị rất lủng củng, hoạt động không hiệu quả và bị chuyển sang bạo chính dưới thời Pericles. Ông Pericles là ông vua chuyên chế (tyrant). Thời của ông này là thời sinh ra Socrates.
*
Mô hình lãnh đạo tập thể của Cộng Hoà La Mã ẩn chứa dưới nó một triết lý rất thú vị đối với việc ra các quyết định quan trọng:
+ thà không làm gì, còn hơn làm sai;
+ thà không làm gì, còn hơn làm những dự án phục vụ đa số xít xao.
Tuy nền dân trị La Mã tiến bộ hơn dân chủ Hy Lạp, nhưng nó vẫn là cơ chế ra quyết định tập thể, rất rắc rối. Nó tồn tại hàng trăm năm cho đến khi anh em Grachus làm cuộc cách mạng cánh tả, rồi sau đó tướng Sulla kéo quân về Roma, củng cố và gia tăng quyền lực của Nguyên Lão viện, giới hạn quyền lực của Hộ dân viện, thiết lập chính quyền độc tài (năm 82-81 Trước Công nguyên), mở đường cho Augustus sau này lên làm Hoàng Đế, chấm dứt nền Cộng hoà, mở ra một đế chế hùng mạnh kéo dài nhiều thế kỷ.
*
Sparta là nước nhỏ, đơn sơ, vì họ là nhà nước chiến binh, đề cao lối sống giản dị, các công dân hy sinh tự do cá nhân để phụng sự nhà nước. Thế nhưng hiến pháp của Sparta khá rườm rà. Đầu tiên là việc họ có tới hai ông vua, hai ông này được hai gia tộc lớn cử ra làm vua (tức là ở mỗi gia tộc có một ông vua cha truyền con nối). Một ông sẽ nắm quân đội thời chiến, ông còn lại lo việc hậu phương. Hai ông là thành viên của Viện Nguyên lão (Counsil of Edlers), gồm 30 người, cả 28 người (trừ hai vua) đều phải trên 60 tuổi và do toàn dân bầu ra. Họ được chọn từ các gia đình quý tộc và sau khi đã được bầu thì họ là thành viên viện đến cuối đời. Viện nguyên lão làm các việc lập pháp, tư pháp. Các vấn đề họ kết luận đều phải đưa qua Nghị viện (Assembly) để toàn dân thông qua. Nghị viện còn bầu ra, bằng cách chọn ra từ toàn thể nhân dân, năm giám quan để giám sát hành pháp của hai ông vua và có quyền xử nhà vua. Hiến pháp (thể chế) của Sparta gợi ra nhiều thể chế sau này, như The Senate của La Mã, hay Tối cao Pháp viện của Hoa Kỳ, hay quốc hội lưỡng viện ở Anh, Mỹ.
Nền dân chủ Sparta với thể chế cộng hoà ưu việt hơn nền dân chủ trực tiếp của Athens do có thêm viện nguyên lão, giám quan và… hai ông vua. Nó dẫn đến việc Sparta lúc đầu ly khai, không chịu gia nhập hợp-bang Hy Lạp do tiểu bang Athens dẫn đầu, dần mạnh mẽ hơn và đánh bại Athens. Nền dân chủ La Mã với mô hình Cộng hoà, tiếp thu từ Sparta với hai quan chấp chính, một viện nguyên lão và một viện hộ dân, cũng đã tồn tại được 500 năm, cho đến khi Ceasar hùng mạnh, thông minh, quả cảm, lõi đời… cũng bị đâm chết sau những cơn biến động chính trị xã hội do anh em Gracchus phát động.
*
Thời của Machiavelli là lúc Đế quốc La Mã đã lụi tàn. Và một thể chế dân-chủ cộng-hoà là cái người ta ít nhiều bắt đầu hướng tới.
*
Ở Mỹ, Đại hội Đảng Dân Chủ và Đại hội Đảng Cộng Hoà đều đã kết thúc. So với chính họ thì đại hội năm nay thua xa hai đại hội gần đây nhất. Còn so hai đảng với nhau, năm nay bên Dân Chủ có chất lượng tốt hơn hẳn. Một lý do mà Dân chủ làm tốt hơn, đó là phe tả luôn có những orator tầm cỡ thế giới. Tuy vậy, hai ngôi sao diễn thuyết số một của họ là Cliton và Obama đều mất phong độ. Hai speech tốt nhất năm nay của Dân Chủ có lẽ là bài của Hilary Cliton và Harris. Mọi người rất nên xem trên youtube (đừng đọc transcript vì nó mất hay rất nhiều).
Cả hai bài diễn thuyết đều có cấu trúc rất tốt: các phân khúc, thứ tự, thời lượng, chủ đề. Cách diễn đạt, thậm chí các dùng từ, hay cách nói nó ra thành lời cũng được tính toán kỹ lưỡng. Nhất là bài của Harris, một phụ nữ trung niên xuất thân là công tố viên.
Một trong những thông điệp mà bên Dân Chủ nhấn vào, đó là xây dựng và bồi đắp tầng lớp trung lưu. Trung lưu là backbone của Hoa Kỳ, trong đó phụ nữ trung lưu (có học, chủ gia đình, sống ở ngoại ô) là một phần quan trọng.
*
Thời Cộng Hoà La Mã, tầng lớp trung lưu là nông dân và cũng là backbone của kinh tế xã hội La Mã. Họ rất mạnh, và có tiếng nói thông qua The Tribune, để đối lập với tầng lớp quý tộc nhà giàu (The Senate). Nhưng tầng lớp trung lưu La Mã bị xói mòn theo thời gian (khoảng 4 thế kỷ), bị mất đất, không có công cụ sản xuất và để tồn tại thì họ phải đi lính. Lực lượng lao động và một phần trung lưu đi lính, khiến các ông tướng tự nhiên có quyền lực (và tất nhiên là có nguồn lực, khi đi đánh nhau để cướp của và cướp đất). Tài sản và quyền lực đang được chia sẻ bình ổn hàng trăm năm cho mọi tầng lớp bỗng rơi vào tay vài viên tướng.
Anh em nhà Gracchus phát động một cuộc cải cách. Ông anh cải cách ruộng đất, và bị giết. Ông em cải cách quân đội, và cũng bị giết. (Cả hai ông đều là quan chấp chính, đại diện cho tầng lớp dưới). Sau đó La Mã rơi vào nội chiến liên miên, mấy ông tướng hùng mạnh đánh lẫn nhau suốt hơn nửa thế kỷ: Caesar đánh bại Pompey. Antony liên thủ với Octavian đánh bại Brutus.
Rồi Octavian (Octavius) đánh nốt Antony rồi xoá bỏ nền cộng hoà, tiến lên làm hoàng đế đầu tiên của đế chế La Mã, lấy tên là Augustus.
Người dân La Mã vốn từng phát chán với nền quân trị và mấy ông vua, đã quyết tâm chuyển qua dân chủ cộng hoà, vui vẻ với thể chế này hàng trăm năm, cuối cùng lại quay về với cái máng của Hoàng Đế.
*
Một đoạn ngắn trong bài nói của Hilary gợi nhớ đến một diễn giải rất nối tiếng của tổng thống Roosevelt về quyền tự do mà ông gọi là bốn quyền tự do căn cốt của con người (tức là bốn nhân quyền cơ bản theo diễn giải của Roosevelt, xem quote phía dưới.)
Trong phát biểu của Roosevelt lẫn Clinton đều có freedom from fear. Đây là một ý tưởng rất quan trọng của Epicurus thời Hy Lạp Cổ Điển.
*
Ở Hy Lạp, sau khi nền dân chủ sụp đổ khá lâu và đã kịp có Socrates và Plato, thì họ có thêm Epicurus. Epicurus là học trò của Democritus, sống ở thời Alexander Đại Đế đã chén xong Hy Lạp. Là môn đệ của Democritus nên Epicurus có tư tưởng nguyên tử luận và duy vật luận. Epicurus sáng lập ra triết phái The Garden, hay còn gọi là Epicureanism. Tiếng Việt hay dịch nhầm là chủ nghĩa khoái lạc. Chủ nghĩa Epicturus cổ suý lối sống sảng khoái, chứ không phải truy tầm lạc thú. Hedonism mới là chủ nghĩa khoái lạc. Ngay cả bài báo mới đây của tờ The Economist viết về tbt cũng nhầm lẫn khi tiêu đề thì dùng hedonist, còn nội dung thì dùng epicurean.
“Freedom from fear” khác với “no fear” và “vô uý”. Nó là xuất phát điểm của quyền con người. Do đó tư tưởng của Epicurus ảnh hưởng đến rất nhiều thứ sau này, từ triết phái Stoic, đến John Locke và Hiến Pháp Mỹ. Tổng thống Mỹ Jefferson cũng từng nói: “Tôi cũng là một epicurean – I too am an Epicurean.” “I consider the genuine (not the imputed) doctrines of Epicurus as containing every thing rational in moral philosophy which Greece & Rome have left us.”
*
Nhưng trước hết, kể cả là không ưa phe Dân Chủ, mọi người cũng nên bớt chút thời gian lên youtube xem diễn thuyết của Clinton và Harris ở DNC. Dù cho chính trị gia Mỹ có hypocrite đến mấy thì diễn ngôn của họ có những thông điệp hướng thượng và đề cao những giá trị cốt lõi của con người, gia đình, tôn giáo và tổ quốc. Đó là những thứ rất đáng nghe.
PS: Quote của Roosevelt:
“In the future days, which we seek to make secure, we look forward to a world founded upon four essential human freedoms.
The first is freedom of speech and expression–everywhere in the world.
The second is freedom of every person to worship God in his own way–everywhere in the world.
The third is freedom from want–which, translated into world terms, means economic understandings which will secure to every nation a healthy peacetime life for its inhabitants-everywhere in the world.
The fourth is freedom from fear–which, translated into world terms, means a world-wide reduction of armaments to such a point and in such a thorough fashion that no nation will be in a position to commit an act of physical aggression against any neighbor–anywhere in the world.
That is no vision of a distant millennium. It is a definite basis for a kind of world attainable in our own time and generation.… The world order which we seek is the cooperation of free countries, working together in a friendly, civilized society…. Freedom means the supremacy of human rights everywhere. Our support goes to those who struggle to gain those rights or keep them.”
*
Nhìn vào phương trình Schrödinger gốc ta sẽ thấy thời gian và không gian không được đối xử công bằng. Vế trái là vi phân bậc một theo chiều thời gian, vế phải là vi phân bậc hai theo ba chiều không gian. Trong khi đó, thuyết tương đối hẹp của Einstein-Minkowski đối xử thời gian và không gian công bằng như nhau, chiều thời gian và ba chiều không gian là bốn chiều của không-thời-gian.
Phương trình của Klein Gordon giải quyết được việc này, thời gian và không gian đều là vi phân bậc hai, rất công bằng. Nhưng Klein-Gordon lại là phương trình bậc hai (bình phương). Bậc hai làm mất thông tin. Ta biết là (-2) và (+2) mà bình phương lên là (+4) và nếu chỉ nhìn vào số 4 ta không biết gốc tạo ra nó là -2 hay +2. Thông tin (dấu âm và dấu dương đứng trước số 2) bị mất đi ở phép bình phương.
Dirac giải quyết vấn đề bằng phép khai căn, tìm ra hai nghiệm âm dương, nghiệm dương là vật chất, nghiệm âm là phản-vật-chất.
Xét cho cùng, để làm đúng mọi thứ thì cần phải đối xử công bằng với những đại lượng cần công bằng (equality, on same footing), và cần phải quay về gốc rễ, căn cốt (root).
*
Grabriel’s Horn là một dạng hình học mà Torricelli từ thế kỷ 17 đã chứng minh được: thể tích (bên trong) là hữu hạn trong kkhi diện tích (bề mặt bên ngoài) là vô hạn. Phép chứng minh này tương đối đơn giản và dễ hiểu, trên instgram có những clip giải thích phép chứng minh này chỉ trong mấy chục giây.
Nếu bốc phét thêm qua tri thức luận thì tri thức (bên trong) luôn là hữu hạn, còn sự khoe khoang (ra bên ngoài) là vô hạn. Einstein diễn giải nó ra thành: “Two things are infinite: the universe and human stupidity; and I’m not sure about the universe.”
*
Lý Thuyết Số Sơ Cấp – Phương pháp sơ cấp trong lý thuyết số
Ngô Bảo Châu – Đỗ Việt Cường

Có vài điều để nói về cuốn sách này, điều đầu tiên và quan trọng nhất sẽ nói sau cùng.
Sách khá dày, vì có phần bài tập và lời giải. Giá bán khá mềm so với thể loại sách và độ dày, là 180 ngàn đồng.
Sách do NXB ĐHQG Hà Nội và Viasm xuất bản.
Sách có Lời Nói Đầu, Chương 0 và các chương đánh số từ 1 đến 8. Bản thân việc bắt đầu từ Chương 0 cũng có một chút triết lý số. Ở nhiều trường phái, nhất là Anh, thì số tự nhiên bắt đầu từ số 1. Bởi dãy số này bao gồm các con số mà mỗi con số là một successor (kế nhiệm) do successor operation tạo ra (ví dụ số 2 là do số 1 tạo ra). Còn số 0 thì chẳng do số nào tạo ra (không là successor của ai cả). Quan điểm (quy ước) này bắt nguồn có lẽ từ Dedekind. Với cuốn sách của anh Châu, dãy số tự nhiên này bắt đầu từ số 0, và do đó có Chương 0.
Kiến thức từ sách vở gọi là văn tuệ, đọc sách rồi hấp thụ văn tuệ để thành kiến thức của mình gọi là tư tuệ. Như vậy, cuốn sách toán này có “văn tuệ” dựa trên nền tảng toán học của thế kỷ 18. Điều này khá là quan trọng. Như sau.
Toán học vốn được ngưỡng mộ vì nó khó, cái này ai đi học rồi thì cũng biết cả, nhất là ở VN những năm trước 2000 khi mà những học sinh giỏi nhất sẽ học khối A và giỏi nhất của khối A là chuyên toán. Nhưng sâu xa hơn, toán là một hệ thống hoàn toàn do con người sáng tạo ra. Con người thì tạo ra lắm hệ thống lắm, nhưng toán là hệ thống: chính xác và chặt chẽ. Nó có tinh thần chính xác và chặt chẽ từ thời cổ đại với Pythagoras, và bắt đầu lung lay khi đội thường nghiệm xuất hiện, đặc biệt là kể từ Locke về sau. Sự sốt ruột lẫn ngạo mạn của giới toán học đã dẫn đến chỗ nhiều thành công lớn của họ (như phép vi phân của Leibniz) có đầy các lỗi ngụy biện cẩu thả. Đây là ý kiến của Russell từ hồi gần giữa thế kỷ 20, và chắc là rất khó bác bỏ ý kiến này. Quả thật nền toán học sau thế kỷ 17 bắt đầu vấp phải các lỗi nền tảng, vì dụ hệ tiên đề của Euclid là nền tảng rất vững cho đến khi xuất hiện hình học phi-Euclid mà trong đó tiên đề số 5 của ông này không còn đúng nữa.
Tức là, khi nền tảng có lỗ hổng thì toàn bộ hệ thống có thể vẫn chính xác nhưng không còn chặt chẽ nữa. (Chặt chẽ trong toán học, bao gồm cả nhất quán, và đây là cái để phân biệt khoa học và ngụy khoa học). Các hệ tiên đề khác nhau sẽ cho ra các hệ quả toán học khác nhau. Không có hệ tiên đề nào bao trùm được toàn bộ toán học (như Hilbert kỳ vọng) bởi nó sẽ tự mâu thuẫn (bất toàn của Godel).
Russell (và đến ngày nay thì còn nhiều bộ óc lớn nữa) cho rằng Cantor và Frege (thế kỷ 18) là hai bộ óc đặt nền tảng mới cho toán học hiện đại.
Cantor là cái ông làm việc với một quái thú kinh hoàng là infinity. Ông đưa thế giới toán học vào một vũ trụ kỳ lạ với nhiều cái “vô cùng” (củ lạc nằm ngang) mà kích cỡ của những thứ “vô cùng” này lại khác nhau. Có những cái “vô cùng” to hơn những cái “vô cùng” khác. Trong các bài nói chuyện của mình, Penrose thường xuyên bắt đầu bằng Cantor và đưa ra các ví dụ rất dễ mường tượng về việc set vô cùng nào to hơn set vô cùng nào.
Còn Frege là người mà công trình xuất bản từ 1879-1884 mà chả ai để ý, cho đến khi được chính Russell phát hiện (và cũng tự khoe là nhờ mình mà Frege nổi tiếng). Frege và Russell xây dựng ra một thứ kỳ quan gọi là logicism: toán học được diễn dịch (deduct) từ logic. (Ngày xưa, logic cũng như xác suất thống kê ngày nay, lại không phải là toán. Logic của những nhà toán học lớn như Russell khác với logic mà ở VN quen biết, logic ở VN là kiểu: “mày nói vô lý bỏ mẹ, chả logic gì”.)
Trên đây là lý do Chương 0 của sách anh Châu, dù là sách chuyên môn, cũng rất đáng đọc với cả dân ngoại đạo. Với dân ngoại đạo thì có thể đọc thêm Chương 8. Nhưng trước tiên cần đọc Lời nói đầu.
Cuốn Elements nổi tiếng của Eulid (bản dịch tiếng Việt do anh Đàm Thanh Sơn khởi xướng, anh Châu viết giới thiệu có tên là “Cơ sở của hình học”) dạy chúng ta một điều quan trọng không chỉ trong toán học mà trong cả tranh luận hay làm việc đời thường: trước khi cùng nhau bắt tay vào làm một việc gì đấy, tất cả chúng ta cùng phải nhất trí với nhau một vài quy tắc, quy đinh. Đó là cùng đồng ý với một số định nghĩa (điểm là gì, đường thẳng là gì…), đồng ý với một hệ tiên đề, trong đó có 5 tiên đề hình học và 7 tiên đề logic (ví dụ qua hai điểm chỉ kẻ được một đường thẳng, hoặc hai góc bằng góc thứ ba thì bằng nhau,…) Việc tất cả cùng đồng ý với các nguyên tắc trước khi bắt tay vào làm việc chính là triết lý để tạo nên sự chặt chẽ trong toán học.
Cuốn “Lý Thuyết Số Sơ Cấp”, trong phần Lời giới thiệu, cũng nói rất rõ các nguyên tắc chung của một cuốn sách toán, cũng như các nguyên tắc riêng của các tác giả. Nếu rất nhiều bạn đọc, dù không phải dân toán, mà làm quen và nắm bắt được các nguyên tắc kiểu này, thì chắc chắn xã hội sẽ bớt đi rất nhiều rác. Dọn bớt rác trong tư duy và tâm hồn con người, cũng là một hệ quả phái sinh của toán học.
Viết một cuốn sách “cao cấp”, ví dụ “Lý thuyết số cao cấp” về mặt kỹ thuật thực ra dễ hơn viết sách “sơ cấp” rất nhiều. Bạn đọc của sách cao cấp, sách nâng cao vân vân đều là dân đã có trình, viết sai viết thiếu họ đọc vẫn hiểu. Nhưng với sách sơ cấp, cơ bản, căn bản… thì khó nhất là viết làm sao cho bạn đọc đọc mà không hiểu sai; viết sao không tối nghĩa để bạn đọc không mất công vật lộn để hiểu một cái đáng ra không khó hiểu; và cấu trúc của sách làm sao để bạn đọc đi từ cái nọ sang cái kia nhịp nhàng và mạch lạc. Không rõ cuốn sách này có thỏa mãn các tiêu chí làm sách này không, phải để dân học toán đọc và phản hồi với tác giả. Chắc chắn mọi sự phản hồi đều giúp các edition sau của cuốn sách này tốt hơn. Vấn đề hiện nay là phải bán hết sách đã. Mong mọi người mua nhiệt tình, mỗi người hai cuốn, một để bày giá sách, một để tặng sinh viên.
PS:
Trong Chương 0 anh Châu có nhắc qua về Nghịch lý Russell. Dùng logic để vật nhau với nghịch lý vốn là thú vui trí não của các bộ óc nghịch ngợm. Một trong các nghịch lý nổi tiếng và có ích là con mèo Schrodinger. Mọi người thử làm quen với nghịch lý Russell xem sao.
Nghịch lý Russell viết ra thì nó thế này: ∃A∀x(x∈A≡ϕ)
Diễn đạt thô sơ thì thế này: trên bàn tiệc ai cũng uống rượu, xét một người rót rượu cho tất cả những ai không tự rót. (Người rót rượu rót cho tất cả những ai không tự rót và không rót cho ai ngoài những người này).
Nghịch lý xuất hiện: nếu người rót rượu rót cho chính anh này – xảy ra mâu thuẫn. Nếu anh không rót cho mình, thì anh lại thuộc nhóm uống mà ko tự rót, thế là anh lại phải rót cho mình, và lại xảy ra mâu thuẫn.
Anh Châu nói vắn tắt đây không phải là nghịch lý, mà là chân lý sai (do sau đó có một tiên đề của Zermelo xử lý mâu thuẫn Russell).
*
Thơ Phan Đan

Năm 1988, Phạm Thị Hoài cho ra mắt một tiểu thuyết mỏng nhưng rất có tiếng vang: Thiên Sứ. Cuốn tiểu thuyết có cấu trúc khác thường, mà nay gọi là mash-up, có một chương tên là “Thơ Ph.” Nguyên vẹn chương này là một bài thơ văn xuôi khá dài và hoàn toàn không có chấm phảy của nhà thơ Ph. mà Thiên Sứ giới thiệu là “một người đàn ông giàu im lặng”. Bài thơ có đoạn:
“em đừng đánh rơi cái nhìn vào vùng cực tím ấy đừng lặp lại thói quen soi gương vào mặt đồng hồ đeo tay những cây kim sẽ quay hết tốc lực những con số sẽ hoán vị không ngừng trong điệu nhảy loạn nhịp của 1 discotheque lượng tử trong nỗi hối hả của vòng đời mải miết trong hạt muối đọng trên 8 kẽ ngón tay những linh hồn khổ nhục”
Nhà thơ Ph. trong “Thiên sứ” ở ngoài đời là một người đàn ông trẻ mới ra tù. Chính là nhà thơ Phan Đan. Đoạn trích trong Thiên sứ hình như là lần đầu tiên thơ Phan Đan được xuất bản chính thức.
Công chúng gần như không biết đến Phan Đan dù trên đài có phát nhiều bài hát phổ thơ Phan Đan (Phan Đan luôn phủ nhận đấy là ”thơ” mà“chỉ coi là “lời hát”). Trong đó có “Phía tối tâm hồn em” (Phú Quang), “Bài hát buồn” (Quốc Bảo), “Lời ru mùa đông”, “Trăng Chiều” và nhiều bài khác (Đặng Hữu Phúc). Trong đó “Lời ru mùa đông” và “Trăng Chiều” là hai bài Phan Đan sáng tác ở Hà Nội sau khi ra tù.
Bạn đọc thật sự của thơ Phan Đan là một nhóm nhỏ, sống trong một không gian nhỏ ở Hà Nội (từ Hồ Hale đến Hồ Gươm), trong một quãng thời gian hẹp (từ đầu 197x đến cuối 198x). Không gian này ở đoạn cuối mở rộng thêm được một chút theo chiều ngang, từ Giảng Võ đến Nguyễn Công Trứ.
Thơ của Phan Đan được phát hành bằng cách đọc cho nhau nghe, và chép cho nhau giữ. Cái lối chép thơ ấy ngày nay không còn nữa.
Trong một lần chép thơ như vậy, ở nhà Văn Cao, bài thơ vừa chép xong bị tịch thu, còn tác giả của nó là Phan Đan được bà vợ Văn Cao nhanh tay giấu qua phòng khác. Trong những lần đọc thơ như vậy, mà nhuận thơ được bạn hữu, nhất là Bùi Xuân Phái, Đặng Đình Hưng, “trả” bằng rượu và chút mồi nhắm nghèo nàn của thời bao cấp, đã phát sinh ra một họa sỹ nổi tiếng là Lê Thiết Cương mà lúc đó chỉ là “traffic boy” cho các bữa rượu tại gia.
Và trong một lần đi giao lưu như vậy ở một tụ điểm thơ phía sau Nhà Hát Lớn, Phan Đan không ngờ mình đã đến đọc thơ ở bản doanh của nhóm “Chân Đất”. Ngày nay chẳng còn ai nhớ đến nhóm Chân Đất và các thành viên của nó, kể cả công an Hà Nội, nhưng ở thời điểm đó nó đã đem rắc rối đến gõ cửa nhà Phan Đan và cánh cửa một khi đã mở ra thì vô vàn rắc rối sẽ kéo đến suốt hàng chục năm trời.
Bài thơ Phan Đan chép cho Văn Cao là một bài thơ dài “những cánh hoa màu đen”, sáng tác năm 1970, là bài thơ nổi tiếng nhất của Phan Đan những năm trước 1975. Lời bài thơ có đoạn:
“Những cành cây/hai lần chết chém
Những đám mây/hai lần bị bắn
Và nụ cười tôi/hai lần bị treo cổ/cái màu đỏ điên rồ/khi tôi đón em.”
*
Tập thơ Phan Đan ra đời vào một năm ảm đạm nhất của thị trường sách. Thậm chí cái tháng mà nó ra đời còn là tháng thấp điểm của việc bán sách quanh năm. Nó ra đời trong im lặng. Phần lớn các bài thơ in trong tập thơ này là các bài thơ sáng tác giai đoạn từ 1970 đến cuối 198x, bao gồm các bài thơ văn xuôi, và không có các bài “lời hát” cũng như thiếu mất một số bài thơ “trong tù”.
Cái mà người yêu thơ nói chung và những người tò mò về những nhà thơ “giàu yên lặng” nói riêng là họ vật lộn thế nào với quá trình sáng tác của mình, nhất là khi cuộc đời họ gặp nhiều khó khăn nhất. Tập thơ Phan Đan cho thấy một (trong các) câu trả lời: “thử nghiệm”. Phan Đan có vẻ như rất thích thử nghiệm và không ngại thử nghiệm, dù khả năng thất bại là rất cao và sự thành công còn mỏng manh hơn cả phận người thời chiến.
*
Năm năm sau “những cánh hoa màu đen”, 1975, Phan Đan có những bài thơ gọn hơn, tình tứ hơn, với những câu thơ figurative:
“Tắt ánh sáng đi,
Đằng sau là đôi mắt mở,
In bóng hai bàn tay,
Làm cử động âm thầm”
hoặc:
“Chỉ còn mấy cuống hoa thôi
Để em bắt chước dáng ngồi của anh
Ngưa gầy xe nước dưới sương
Trầm ngâm như thể mắt buồn của em”.
*
Sau 1975, Phan Đan vào Nam. Cuộc sống ở Sài Gòn mang đến cho Phan Đan nhiều người bạn mới, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Hữu Hiệu và có lẽ là cả Tuệ Sỹ. Và sau này là Cao Xuân Hạo, Trần Tiến, Thái Tuấn… Những người bạn mới mở ra chân trời mới và cả những hệ lụy mới đau và đắng hơn.
Rồi vì gia đình, Phan Đan quay về Hà Nội, lúc này gần như ở đáy của khủng hoảng kinh tế xã hội và bắt đầu nảy mầm mống cho thời kỳ có tên gọi mỹ miều là đêm trước đổi mới, Phan Đan vô tình trở thành hướng đạo cho lớp trẻ hơn, không chỉ có những người sáng tác như Phạm Thị Hoài mà cả những sinh viên kinh tế chính trị đầu tiên ở HN, những người truyền bá kinh tế học tư bản vào thủ đô. Giai đoạn sống động này cũng mang lại cho Phan Đan kinh nghiệm sống và kiến thức mới giúp Phan Đan sau này khi quay lại kiếm sống bằng nghề báo ở Sài Gòn đã cho ra đời những bài báo rất có tiếng vang về kinh tế. Sau này dân làm báo kỳ cựu vẫn nhắc đến từ “thuyền ngân” là từ do Phan Đan dùng để viết về tiền do Việt Kiều (vượt biên, thuyền nhân) gửi về, mà nay ta gọi là kiều hối.
Một bài thơ sáng tác năm 1980, có tên “ba tuần nhang cho Henry Miller”, ở phần “Tuần hai” có ghi “Gửi H.”. H. ở đây có lẽ là Nguyễn Hữu Hiệu, một dịch giả mà sau này bị tuyên giáo và công an xếp vào nhóm Biệt kích văn nghệ. Nguyễn Hữu Hiệu, Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ là các dịch giả rất có tiếng trước 1975. Sách dịch của Nguyễn Hữu Hiệu nay vẫn còn tái bản: Hoàng Hôn Của Những Thần Tượng, Bác sĩ Zhivago, Con đường sáng tạo.
Phần “Gửi H.” có những câu:
“chiều nay rượu whiskey lên cơn buồn thủy tinh ướt áo,
đổ vào thơ không biết tuổi sang ngày”
đọc lên có thể thấy như Phan Đan nhắn Hiệu, tao ngồi đây uống rượu với Sơn (Trịnh Công) mà buồn vì không có mày. Nhưng thực ra chẳng có Sơn, chẳng có rượu, chỉ có nỗi thất vọng rất buồn:
“Hát ô ô huyền hồ, thôi treo cung lên vách
Vách thì trắng trinh nguyên như lụa bạch.
Toàn những chuyện không đâu!”
Nhưng đấy có phải là thơ không, hay không phải là thơ, mà là rất thơ. Đấy có phải là thử nghiệm thành công của Phan Đan hay không? Hay chỉ là sự thất bại đằng sau lắp ghép ý tưởng với câu từ một cách đầy chủ ý. Cái này không ai biết được, nhưng nếu đọc cả tập thơ Phan Đan, dù bạn chưa biết thơ Phan Đan, cũng sẽ thấy những dòng thơ này là rất Phan Đan.
(Trước phần Gửi H là phần một, có những câu thơ triết/tôn giáo mà nếu ta không quá khắt khe, có thể cho rằng nó hay hơn cả những câu thơ hay nhất của Phạm Công Thiện:
“Vườn Địa Đàng chắc chiều nay cắt điện
Con rắn mù ngủ gật phía trời tây,
Cây đâm rễ trên kia trùng trùng ngón loạn
Chồi xanh xao trong giếng sỏi khô gầy”.
Nó hay hơn vì nó Hà Nội hơn, bao cấp hơn, khắc khổ hơn, và giàu hy vọng hơn. Chắc thế!)
*
Cũng năm 1980, Phan Đan có một bài thơ ngắn, tên rất bình thường là “mặt trời”, cả bài chỉ thế này:
“trưa mùa hè
lũ kiến đen suy tưởng
leo lên sợi nắng
đuổi bắt những hạt bụi
trưa mùa hè
cắm chiếc đinh
vào vùng tối tăm của bóng.”
Ai từng sống qua những mùa thu ở Hà Nội những năm 1979-1980 mới thấy vẻ đẹp của bài thơ này. Hà Nội rất nghèo và xơ xác, cái nghèo và xơ xác ấy phản ánh qua sự vắng vẻ và yên tĩnh của đô thị ngay lúc ban trưa: không tiếng xe cộ, không tiếng còi, không tiếng đài, không tiếng loa, không có điện và không có cả tiếng quạt, thậm chí không có cả tiếng nước máy vì mất nước. Tất cả chỉ có ánh nắng thu lọt qua khe cửa ánh lên những suy tưởng như kiến bò ra từ óc của một nhà thơ.
Nói bài thơ có tên bình thường là bởi Phan Đan có biệt tài viết các bài thơ văn xuôi và vì vậy ngay cả tên của một số bài thơ cũng là một câu thơ: “trích đoạn một cơn mưa đêm”, “vụ đắm tàu trong ly thủy tinh”. Hoặc “từ một hạt giống mà con chim đêm đánh rơi trong mùa di cư tình ái”.
*
Quay lại với những năm đầu thập niên 1970. Đấy là một Hà Nội của giai đoạn gian khó nhất với bom Mỹ ném vào đến tận Khâm Thiên và cũng là những năm hiệp định Paris mang lại hòa bình trên miền bắc cùng với bao nhiêu là hy vọng. Đây cũng là thời gian bắt đầu thơ của Phan Đan. Mở đầu của nhà thơ nào cũng là những bài thơ tình. Những bài thơ tình của Phan Đan, dịu dàng và ngắn gọn, hồi đó còn được chép tặng nhau để tán gái, hoặc đọc trên tàu điện giữa các nhóm thanh niên. Rồi đến thời kỳ bùng nổ của các bài thơ kiểu “cánh hoa đen”. Năm 1975 khép lại với một bài thơ kỳ lạ “ghi sau một trang lịch” (ngày hai sáu tháng ba) tức là chỉ vài tuần trước 30/4”
“Mặt trời xanh như một củ su hào
Mặt trời mọc bình yên trong đáy chậu,
Giữa một mùa lành vàng úa hoa cau.
…
“Trong dáng đổ hoa cành, trong lòng gương hốc hác.
Anh chợt thấy mắt em vụt tắt khung trời,
–
Hố mắt buồn như một vết bom rơi.”
Sang năm 76 là một thể loại thơ khác, như “em là không gian gothic của tôi” kết hợp nhiều hình thức, có cả thơ văn xuôi đột ngột chen lẫn với đồng dao:
“Đậu phải cành mềm
Lòng đau như cắt
Máu vùi trong đất
Xác rải trăm nơi
Nước mắt không rơi
Trẻ con không khóc
Cái mũi chảy dọc
Cái miệng kéo ngang
Thống khổ mênh mang”
Để rồi bốn năm sau, các hình thức thơ giàu tính thể nghiệm của Phan Đan bắt đầu ngưng tụ. Như “những ghi chú trên tường phòng giam” gồm nhiều đoạn thơ lẻ, mà trong đó nhiều câu thơ như từ bên trong tăm tối của hiện thực đột ngột hiện ra dưới ánh sáng chói lòa của siêu thực:
“một ngày gặp em
Tôi bắn rụng mặt trời trong võng mạc,
Một lần hành khất
Chìa tay cho gió câm.”
Có lẽ đây là giai đoạn sáng tác hay nhất của Phan Đan, và cho dù không bao giờ được xuất bản cho đến năm nay, nó vẫn là một viên gạch quan trọng trong đời sống văn nghệ Hà Nội, là nền tảng cho văn nghệ bùng nổ sau Đổi Mới, đặc biệt là mảng truyện ngắn, hội họa và nhạc pop thủ đô. Còn với thơ, sức ảnh hưởng chủ yếu là ở phía nam và hải ngoại.
Cuộc sống sôi động, là nhờ có vô số cuộc đời yên lặng!
*
Hiện nay Phan Đan sống ở Mỹ, không biết còn làm thơ hay không, nhưng vẫn dịch sách. Trong những cuốn Phan Đan dịch, có một số cuốn bán rất chạy: “Những tù nhân của địa lý” (Prisoners of Geography/Tim Marshall), “Lược sử thế giới” (Little History of the World/Gombrich), Economix (Kinh tế học hỗn hợp – Các nền kinh tế vận hành và không vận hành thế nào). Mới đây nhất là sách của tác giả trinh thám kinh điển Raymond Chandler (ai là fan của Haruki Murakami đều biết tác giả này), cuốn Kẻ không thể giã từ/The Long goodbye”.
March 20, 2024
Logic và triết học của chủ nghĩa Stoic (Khắc-kỷ)
(Vì bài dài, ai quan tâm đến triết phái Khắc kỷ/Stoticsm có thể tua luôn đến phần Lối sống Stoic ở cuối bài.)
*
Yann Lecun nói rằng, về mặt tốc độ truyền tải dữ liệu thì băng thông (bandwidth) của ngôn ngữ mà con người tiếp nhận được thấp hơn 12 bytes/giây. Trong khi mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) được train bằng dữ liệu có dung lượng 2×1013 bytes. Tức là một người dành ra 12 tiếng một ngày để đọc chữ thì phải mất 100 ngàn năm mới đọc hết dữ liệu này. Còn băng thông thị giác vào khoảng 20MB/giây, tức là lớn hơn ngôn ngữ rất nhiều. Trên mỗi sợi thần kinh thị giác, có một triệu sợi như vậy, tín hiệu có thể truyền tải với tốc độ 10 byte mỗi giây. Một đứa trẻ 4 tuổi đã tiếp nhận một lượng dữ liệu cỡ 1×1015 byte, tức là nhiều gấp 50 lần dữ liệu dùng để train LLM. Đó là nhờ băng thông hình ảnh nhanh hơn ngôn ngữ 16 triệu lần. Đó là so sánh hai kênh tri giác (mà qua đó con người tri nhận tri thức/ knowledge) là thị giác và thính giác. Ngoài hai kênh này, con người còn có những kênh khác, thông qua các giác quan khác, ví dụ xúc giác, để thu nhận tri thức. Băng thông của xúc giác nhanh hơn ngôn ngữ cũng rất nhiều.
Nhờ các tri giác mà con người tri nhận (perception) được một phần tri thức của mình. Phần tri thức kia là tri thức kia là expert knowledge, có được thông qua suy xét có lý (reason/reasoning) về thế giới tự nhiên và thực tại (reality) mà con người đang sống (bên trong nó).
*
Đàm Quang Minh có một phát hiện nhỏ nhưng độc đáo: ở trán mặt tiền tòa nhà Đại học Đông Dương (sau là Đại học Tổng hợp Hà Nội ở 19 Lê Thánh Tông) có hai chữ Hán 格致 (Cách Trí). Có nghĩa là suy xét thật kỹ lưỡng đến tận cùng vạn vật (để hiểu biết thế giới tự nhiên, hiểu chân lý khoa học). Cách trí là một cách diễn đạt khác của cách vật trí tri (格物致知). Ở Việt Nam ngày xưa có môn Cách Trí dạy ở bậc tiểu học, nó giống môn Khoa học (Science) ở cấp 2 bây giờ (gộp Lý Hóa Sinh vào) nhưng ở trình độ thô sơ hơn.

*
Trong cuốn Road to Reality – A Complete Guide to the Laws of the Universe, ngay chương đầu tiên Roger Penrose đã mô tả ba thế giới và ba bí ẩn (là ba kết nối giữa ba thế giới này) bằng một hình vẽ. Hình vẽ này rất nổi tiếng qua chuỗi bài giảng của Penrose mà nay ta dễ dàng tìm trên youtube.


Roger Penrose đặt cho ba thế giới này ba cái tên như sau: Thế giới toán học Platon (the Platonic mathematical world), thế giới vật lý/vật chất (the physical world), thế giới tinh thần/tâm thức (the mental world)
Thế giới Platon là thế giới của các ý niệm (idea). Toán học hoàn toàn nằm trong thế giới này. Thế giới vật lý là thế-giới-thực với vạn vật nằm trong đó, mỗi vật có một vị trí không gian (space) và thời gian (time) cụ thể và xác định. Thế giới tinh thần là thế giới tri nhận chủ quan (subjective perception) mà nếu thiếu nó chúng tác mất đi khả năng nhận biết (recognise) hai thế giới kia cũng như mất khả năng tư duy và hình thành ý niệm về hai thế giới ấy.
Còn ba bí ẩn, theo Penrose, là ba mối quan hệ giữa ba thế giới.
Trong thế giới ý niệm có một phần là toán học, một phần nhỏ của toán học giúp con người hình dung (conceive) thế giới vật lý/vật chất (physical world, tức thế giới “thực”) vận hành.
Trong thế giới vật lý/vật chất có những cấu trúc vật lý ( physical structure), một phần nhỏ các cấu trúc đó là não và hệ thần kinh của con người liên kết với sự hình thành thế giới tinh thần (mental world).
Trong thế giới tinh thần có một phần rất nhỏ (từ bộ não của các nhà tư tưởng, các nhà khoa học lớn) hình thành nên các định luật toán học (hoàn toàn trừu tượng, hoàn troàn trong tư duy, hoàn toàn trong thế giới tinh thần) và chiếu nó sang thế giới của các ý niệm. (Phần lớn năng lượng của thế giới tinh thần bị tiêu tốn vào cảm xúc mệt mỏi, lo âu, vui mừng, khoái lạc. Cảm xúc nếu thái quá, sẽ lãng phí năng lượng, và triết thuyết giúp giải quyết sự lãng phí này chính là chủ nghĩa Stoic (Stoicism/Khắc-kỷ).
Ba mối liên kết này diễn tiến theo một chiều (chiều kim đồng hồ) như trong hình vẽ.
Ở chiều quay ngược lại, theo Penrose, toàn bộ thế giới vật lý và cả các hành động vật lý (physical action) bị chi phối bởi các nguyên lý toán học (các phương trình). Toàn bộ toán học của thế giới Platonic lại nằm trong phạm vi suy lý (scope of reason) của bộ não con người và liên quan đến một quan niệm đặc biệt, đó là chứng minh toán học (mathematical proof). Toàn bộ năng lực của thế giới tinh thần (mentality) lại có gốc rễ từ các cấu trúc vật lý của thế giới thực.
*
Ngôn ngữ, bao gồm cả ngôn ngữ tự nhiên và các ngôn ngữ do con người sáng tạo ra (ngôn ngữ âm nhạc, ngôn ngữ toán, ngôn ngữ lập trình, ngôn ngữ hội họa, ngôn ngữ điện ảnh…) nằm ở cả ba thế giới của Penrose.
Ngôn ngữ tự nhiên (natural language) hình thành từ thế giới… tự nhiên, tức là thế giới vật lý xung quanh con người. Điểm (point) có thể là một từ hình thành từ việc con người quan sát các điểm có thực trong tự nhiên (đốm nắng, tâm sóng nước khi ném hòn sỏi xuống hồ, điểm đóng cọc làm mốc). Khi đi vào thế giới tâm thức (mental) nó có thể gợi lên trong mỗi cá nhân các hình ảnh, màu sắc và cảm xúc khác nhau. Từ thế giới tâm thức nó đi sang thế giới ý niệm để trở thành một khái niệm trừu tượng là điểm hình học (điểm nhưng hoàn toàn không có kích thước).
Điểm hình học (không có kích thước), hay đường thẳng (không có bề dày và thẳng tuyệt đối và dài vô tận), vân vân là những thứ không có ngoài đời thực, nhưng định nghĩa về chúng cũng như cách chúng “hiện lên” trong mental world và platonic world lại hết sức rõ ràng; cũng không gây nhầm lẫn khi được sử dụng trong ngôn ngữ, dù là ngôn ngữ toán (các ký hiệu và quy tắc do con người tạo ra) hay ngôn ngữ nói hoặc viết. Đó là nhờ con người đã mất rất nhiều thời gian, hàng ngàn năm, rèn rũa ngôn ngữ bằng logic, toán học, thực nghiệm để định nghĩa từ vựng, để hiểu các sắc thái ngữ nghĩa khác nhau của từ trong các cấu trúc câu khác nhau. Để làm rõ các phát biểu (statement) dù là tiền đề (premise), mệnh đề (preposition) hay kết luận (conclusion); hoặc ngược lại, để hiểu các phát biểu khác nhau sử dụng các khung lý thuyết (với các tiền đề và giả định khác nhau) thực ra lại có cùng một nghĩa. (Như sao Hôm và sao Mai đều để chỉ một hành tinh là Venus.) Qua đó giúp các cuộc tranh luận trở nên mạch lạc hơn, chặt chẽ hơn, và thuyết phục hơn.
Những ý niệm trong thế giới Plato cũng có lúc phóng chiếu và hiện hình sang thế giới vật lý. Hình học của Riemann hồi thế kỷ 19 sau nhiều năm thu mình bên trong thế giới Plato đến thế kỷ 20 bỗng hiện ra trong phương trình thuyết tương đối rộng. Các khái niệm toán học gauge của Hermann Weyl hồi đầu thế kỷ 20 chỉ tồn tại trong thế giới Plato cho đến một ngày lại trở thành nền tảng của gauge theory như các thuyết Yang-Mill hay thuyết trường lượng tử. Định lý hai Noether, hoàn toàn là toán học, đến giữa thế kỷ 20 lại giúp mở ra những hướng đi mới cho vật lý hạt và gặt hái vô số thành công thực nghiệm.
Trong thế giới tinh thần biên giới hiểu biết của con người rộng mở ra bên ngoài tri nhận, và vượt ra bên ngoài ngôn ngữ.
*
Matt Strassler khi nói về ngôn ngữ của thực tại (language of reality) có kể rằng, khi electron được phát hiện, các nhà vật lý dùng một từ đã có sẵn là hạt (particle), nó gợi lên trong tâm thức con người một electron giống như điểm (point-like). Nhưng về sau các nhà vật lý lại thấy electron có tính chất sóng nhiều hơn hạt. Còn ánh sáng, đầu tiên họ cho rằng nó là “sóng” và dùng từ sóng (wave) như sóng nước để mô tả sóng ánh sáng. Nhưng các khám phá sau này lại cho thấy ánh sáng thể hiện tính hạt nhiều hơn. Đối ngẫu sóng-hạt (particle wave duality) làm bối rối và hiểu sai trong diễn đạt vật lý, nhất là khâu giảng dạy và truyền bá. Các nhà vật lý đã phải dùng logic, toán và dữ liệu thực nghiệm để làm rõ các khái niệm hiện đại được gán các từ vựng cũ kỹ này.
Ở thuyết lượng tử, các khái niệm mới mẻ và nằm ngoài trải nghiệm cá nhân của con người cũng phải dùng các từ “cũ”, có sẵn trong từ vựng của con người để diễn đạt: phương trình sóng Schrodinger thuần túy là một đối tượng toán học trừu tượng.
Ở chiều ngược lại, có những khái niệm được diễn đạt ở các nhánh vật lý khác nhau lại được toán học và logic giải thích rằng chúng thực ra lại là một (tương thích với nhau). Sean Carroll đưa ra ví dụ: “Trong framework của của một nhánh vật lý này, “hấp dẫn” là lực, như trong phương trình Newton. Nhưng ở một nhánh khác khác, hấp dẫn là sự hiển lộ của độ cong (curvature) của không-thời gian. Còn ở một nhánh khác nữa, hấp dẫn là sự ngưng tụ các hạt graviton có spin bằng 2. Ba cách diễn đạt này không cái nào phủ định cái nào, chúng hoàn toàn tương thích với nhau.”
*
Thủa xa xưa, logic thuộc về ngôn ngữ (tương đương với philosophy of language thời nay).
Trước Socrates, hồi mới manh nha hình thành thì logic chỉ giới hạn trong các kỹ thuật lập luận (argument) bằng lời nhằm thuyết phục người khác, hay đám đông, đồng ý với các phát biểu của mình. Parmenides phát triển kỹ thuật chứng minh phản chứng (reductio ad absurdum) sử dụng các bước lập luận để dẫn dắt một phát biểu ban đầu đi vào chỗ tự mâu thuẫn, từ đó chứng minh được điều ngược lại là đúng. Học trò của Parmenides là Zeno phát triển kỹ thuật xây dựng nghịch lý (paradox) mà sau này trở thành công cụ mạnh trong toán học và vật lý hiện đại.
Đến thời Socrates, các triết gia Hy Lạp hoàn thiện kỹ thuật biện chứng (dialectic), sử dụng các câu hỏi được tính toán kỹ lưỡng, có hệ thống để dẫn dắt các nhóm thảo luận, tranh luận đi đến kết luận thuyết phục được khán thính giả xung quanh. Lúc này logic đã trở thành một hệ thống các kỹ thuật lập luận để đi từ tiền đề (premise) đến kết luận (conclusion). Và ngược lại, nắm vững logic còn để phân tích các bước lập luận của đối thủ (trong tranh biện) xem có lỗ hổng hoặc sai ở chỗ nào, từ đó phủ nhận kết luận của đối thủ.
Đến thời Plato, ông này là học trò của Socrates, logic được mài rũa cho nó trở nên chặt chẽ hơn: ý nghĩa của mỗi từ là gì, is và being khác nhau thế nào (is real và being real khác gì nhau), bản chất của true và false là gì, bản chất của động tác định nghĩa (definition) của các từ được sử dùng trong các lập luận, cái gì là kết nối (bước lập luận) giữa các premise và conclusion (mỗi bước kết nối ấy như thế nào thì được coi là lập luận đúng/valid).
Đến thời của Aritstotle, ông này lại là học trò của Plato, môn logic thực sự ra đời. Logic Diễn dịch (Deduction) và Tam đoạn luận (Syllogism) của Aristotle tồn tại hàng ngàn năm, cho đến tận ngày nay. Cấu trúc logic của Aristotle tuy đơn giản, thô sơ nhưng chặt chẽ, và gần gũi với các lý thuyết toán hiện đai là thuyết tập hợp.
Trong logic của Aristotle, phát biểu “Nếu A thuộc về mọi B, và B thuộc về mọi C, thì A thuộc về mọi C.” tương đương với phát biểu “Nếu mọi B là A, và mọi C là B, thì mọi C là A.” trong lý thuyết tập hợp.
Các phát biểu (mệnh đề) trong logic Aristotle được chia thành 4 hình thức logic (logical form), tức là rất chặt chẽ, formal, nhưng đơn giản. Nó dùng 4 logical term là “tất cả/all”, “một vài/some”, “là/is-are” và “không là/is-are not” (phủ định). (Vì vậy logic Aristotle còn được gọi là term logic).
Các suy lý (suy luận có lý) của logic Aristotle được xây dựng từ các mệnh đề đơn, mỗi mệnh đề có hai term (nên còn có tên gọi two-term theory). Một term đóng vai trò chủ từ (subject), một term là vị từ (predicate). Một mệnh đề Aristole tự thân nó không đúng hay sai, mà chỉ có vai trò như một tiền đề. Thường thì cứ hai tiền đề sẽ dẫn đến một kết luận. Phương pháp suy luận ra một kết luận từ hai tiền đề này gọi là tam đoạn luận. (“Ba đoạn” là ba mệnh đề, trong đó hai mệnh đề đóng vai trò hai tiền đề, một mệnh đề là kết luận). Nếu các bước kết nối giữa các mệnh đề (các bước suy luận) là đúng về mặt logic (valid) thì sẽ đạt được một phép tam đoạn luận đúng (bất kể tiền đề đúng hay sai). Nếu cả hai tiền đề đều đúng (true) thì kết luận sẽ đúng (true/truth) và toàn bộ phép tam đoạn luận được gọi là “sound/soundness” (trong logic thì từ này có nghĩa là kết luận không thể bác bỏ.)
Tiền đề 1: All men are mortal.
Tiền đề 2: Socrates is a man.
Kết luận: Therefore, Socrates is mortal.
Ở thời Hy Lạp cổ, logic là môn thể thao trí óc chia thành hai nhánh. Một nhánh nghiên cứu cách thức để làm sao “phát biểu” được những câu văn mạch lạc, gãy gọn, rõ nghĩa (không thể hiểu sai), và không thể bác bỏ (không thể bẻ gãy bằng các lập luận logic). Nhánh thứ hai nghiên cứu để có được tri thức (tìm ra những cái gì làtrue và bác bỏ những cáifalse). Với triết gia Hy Lạp cổ, con người là sinh vật có thể vượt qua duy cảm và bản năng để trở thành sinh vật duy lý (có sức mạnh lý trí rational/rationality) vì họ biết suy lý có logic (logic reasoning). Thông qua suy lý, con người phát triển ngôn ngữ của mình giàu có hơn, tinh tế hơn, chặt chẽ hơn, và qua đó kiến thức mà họ thu nhận được có biên giới rộng mở hơn. Đỉnh cao của phát triển cá nhân là trở thành nhà-hiền-triết (sage) trong cộng đồng nơi mình sống.
Sau triết học của Aristotle với phương pháp logic nổi tiếng mang tên ông (Aristotlean logic) là triết học Stoic, thường được dịch là phái Khắc kỷ, triết học Khắc kỷ hoặc chủ nghĩa Khắc kỷ. Người sáng lập trường phái này là Zeno xứ Citium (khác với Zeno xứ Elea là người nổi tiếng với các nghịch lý.)
Zeno xứ Citium là một nhà buôn thành công cho đến khi tàu buôn của ông bị chìm và ông phá sản, chán đời đi đọc sách triết, mê triết, rồi theo học một triết gia phái Cynic (Yếm thế) tên là Crates xứ Thebes (ông này là học trò của Diogenes). Học xong, Zeno tự lập triết phái của mình, về sau được gọi là phái Stoic (Stoicism).
Zeno chia triết học thành ba nhánh: logic, physics và ethics. Trong đó logic là công cụ phân tích sắc màu ngữ nghĩa ngôn từ, mài rũa và hoàn thiện ngữ pháp, nâng chất lượng tư duy, (để trở thành hiền-triết). Physics là tìm hiểu khoa học tự nhiên, theo nghĩa cổ đại tức là tìm hiểu bản chất và cách vạn vật trong vũ trụ vận hành. Ethics là cách ứng xử giữa con người với nhau để mỗi cá nhân đạt được sự cân bằng trong cuộc sống giữa chằng chịt các mối quan hệ nhân quả (causal): cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng và cá nhân với thiên nhiên. Cân bằng ấy đạt được thông qua việc thực hành các tiêu chuẩn phẩm hạnh (nết tốt, đức tính) do triết học Stoic định nghĩa.
Phái Stoic chịu ảnh hưởng của:
+ triết phái Cynics (thường được dịch là phái Yếm thế, Lánh đời, Khuyển nho) ở lối sống đơn giản đến mức tối thiểu (gần như bần cùng), đề cao trung tín và tự do cá nhân, phủ nhận vật chất và sở hữu, chống lại các quy phạm xã hội (social norm), bình thản trước mọi biến động;
+ triết phái Magarian ở phương pháp truy tìm kiến thức. Cách tiếp cận thu nhận tri thức của Magarian rất gần với “cách vật trí tri” ở chỗ họ phân chia hành trình kiếm tìm tri thức thành phương pháp bốn bước: bắt đầu từ tri nhận, đến tán thành, đến lĩnh hội (hiểu và đúc kết), cuối cùng biến thành tri thức.
Triết gia Chrysippus của Stoic hoàn thiện logic của triết phái này và ngày nay nó được gọi là logic mệnh đề (proposition logic). Logic của người Stoic tập trung vào các phép suy ra (bằng logic) và kỹ thuật phân tích mệnh đề. Ở phần mệnh đề, họ đi xa hơn Aristole. Aristotle sử dụng các mệnh đề đơn (với các term, subject và predicate), còn Stoic sử dụng các mệnh đề phức tạp bao gồm các mệnh đề đơn được kết nối bằng các logical connective (biểu thức mệnh đê): các từ hợp hoặc tách (and, or, xor); và từ chỉ điều kiện (if/ then). Như vậy các mệnh đề của Stoic tự nó đã mang tính đúng sai có điều kiện (truth-condition). Phép phủ định của người Stoic vì vậy có thể phủ định cả một mệnh đề (thay vì chỉ phủ định một term).
Cho đến khi triết học Stoic thoái trào, các nhà logic học Stoic đã kịp làm giàu có thêm kho tàng logic của mình bằng cách bổ sung nhiều connective: nguyên nhân (because), so sánh (more/less), khả năng (possible, impossible). Họ cũng trăn trở hàng trăm năm với câu hỏi “What is…” và cho đến thời kỳ của Einstein và Bohr các nhà vật lý vẫn phải vật lộn với câu hỏi “What is real?”.
Như vậy, so với logic Aristotle, logic của phái Stoic mở rộng được thêm biên giới của chân lý (truth). Logic của Stoic tuy còn thô sơ nhưng đã có tính đúng sai phụ thuộc thời gian (là cái mà logic của Islam sau này phát triển thêm, gọi là temporal mode: “Bác bảo vệ đói.”- có thế hiểu thế nào: lúc nào bác cũng đói, hay hầu như lúc nào bác cũng đói, hay thi thoảng bác đói.) “Nếu mai đức vua chém sứ giả, ngày kia có thể sẽ có chiến tranh” là phát biểu mà logic của Aristotle không xử lý được (ở thời điểm phát biểu câu này, tức là hôm nay, thì không thể biết nó true hay false).
Phát biểu 1: “If it is raining, then the streets are wet.”
Phát biểu 2: “It is raining.”
Hai phát biểu này có thể kết hợp thành một kết luận.
Kết luận: “Therefore, the streets are wet.”
Sử dụng logic mệnh đề Stoic ta có thể biểu diễn các mối quan hệ logic giữa các mệnh đề bằng cách dùng các toán tử logic Stoic:
p: “It is raining.”
q: “The streets are wet.”
Hợp (Conjunction) (AND): p∧q sẽ có nghĩa “It is raining and the streets are wet.”
Tách (Disjunction) (OR): p∨q sẽ có nghĩa “It is raining or the streets are wet.”
Phủ định (Negation) (NOT): ¬p có nghĩa “It is not raining.”
Ngày nay, khi chúng ta sử dụng các toán tử logic Boole quen thuộc trong lập trình (AND, OR, NOT) và phân tích mạch bán dẫn, đó là là nhờ công lao của các nhà logic trường phái Stoic.
*
Sau khi văn minh Hy-La sụp đổ, văn minh Islam trỗi dậy, xuất hiện các nhà logic Islam trong đó có al-Kindi. Al-Kindi đưa logic vào thần học, và tiếp bước ông là Avicena với cách dạng thức và kỹ thuật mới (hypothesis syllogicsm, temporal logic,…).
Tiếp nối Avicena là Thomas Aquino ở châu Âu trung cố. Ông này phát triển thần học logic lên đẳng cấp mới: chứng minh sự tồn tại của Thiên Chúa. Thánh Thomas Aquinas có năm phép chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế. Bốn phép trong đó về sau dần dần bị bác bỏ. Ví dụ phép thứ năm có tên gọi là Grand Design bị bác bỏ vì chính sự tiến hóa, chứ không phải thượng đế, đã “design” tất cả mọi thứ. (Tuy nhiên, vẫn còn đó thắc mắc, ai design sự kiện Big Bang). Phép đầu tiên (God, the Prime Mover) hiện nay vẫn chưa bị bác bỏ, là do ngay cả vật lý hiện đại cũng chưa thể giải thích tường tận cái gì tạo ra Big Bang (nếu như không phải là Prime Mover).
Trong nhiều thế kỷ tiếp sau thời của Aquinas, logic phát triển thêm các hình thức phái sinh, trong đó có ngụy biện (fallacy) và lý thuyết logic hệ quả (theory of consequences) khá giống ngôn ngữ lập trình. (If con mèo đói, then nó sẽ săn chuột. If chuột bị săn đuổi, then chuột sẽ sợ hãi. Therefore, If mèo đói, then chuột sợ.)
Logic diễn dịch (deduction) của Aristotle phải dựa vào các tri thức đã biết (các tiên đề đã biết là true) nên rất khó để mở rộng biên giới của tri thức. Logic của phái Stoic đã giúp loài người phần nào đẩy xa cái biên giới ấy. Nhưng phải đến thế kỷ 17, Francis Bacon phát triển logic quy nạp (induction) con người mới có thêm công cụ đưa khoa học và tư tưởng ra bên ngoài biên giới cũ: với quy nạp, con người quan sát thế giới bên ngoài và sử dụng sức mạnh trí óc mình để tổng quát hóa thành kiến thức mới.
*
Thuyết tương đối hẹp có nguồn gốc từ nguyên lý tương đối (principle of relativity) của Galilei. Galilei cho rằng một người ngồi trong một khoang thuyền đóng kín mít, và thuyền chuyển động thẳng đều và cực kỳ êm, thì người trong thuyền không cách nào biết được mình đang chuyển động. Vì chuyển động, phải là quan sát thấy cái gì chuyển động tương đối so với cái gì. Con người mất rất nhiều năm để nhận ra trái đất quay quanh trục (con người trên bề mặt trái đất cũng chuyển động theo), trái đất bay xung quanh mặt trời, và hệ mặt trời chuyển động trong ngân hà.
Matt Strassler nói rằng sóng âm truyền đi trong không gian là nhờ các dao động của các substance (chất nền tảng, bản thể) của môi trường truyền âm, tức là không khí. Tốc độ của sóng âm là tốc độ tương đối của sóng âm so với cái nền ấy (so với không khí tĩnh). Nhưng sóng điện từ (ánh sáng) truyền qua chân không mà không cần substance truyền dẫn nào, vậy tốc độ ánh sáng tương đối so với cái gì? Einstein bảo rằng nó tương đối so với người quan sát. Bất kể nguồn sáng ở đâu, và dịch chuyển thế nào, người quan sát ở đâu và dịch chuyển ra sao, tốc độ ánh sáng mà họ quan sát (đo) được là bằng nhau (hằng số). Một người di chuyển ngược chiều với một chiếc xe hơi bật đèn pha trong đêm họ đo được tốc độ ánh sáng phát từ đèn pha bằng với tốc độ họ đo được khi cả họ và xe đứng yên.
Einstein tìm ra được tính chất kỳ lạ này của ánh sáng (sóng điện từ) nhờ nhìn vào các phương trình Maxwell (các phương trình sóng điện từ). Freeman Dyson bảo rằng nếu các nhà vật lý thế kỷ 19 nghiên cứu các phương trình Maxwell nghiêm túc hơn, họ hẳn đã tìm ra thuyết tương đối hẹp trước Einstein (đầu thế kỷ 20).
Tại sao sóng điện từ là “cái” có thực trong thế giới thực, được một bộ óc có thực trong thế giới thực nghĩ ra phương trình mô tả nó trong thế giới mental, và một người bằng xương bằng thịt khác nhìn vào phương trình ấy, lúc này đã nằm trong thế giới Platonic, để giải thích hiện tượng có thực trong thế giới thực và đặt ra khái niệm rất mới mẻ: spacetime (không-thời-gian).
Đây là ví dụ về ba bí ẩn, ba mối liên kết giữa ba thế giới, mà Penrose nói đến.
“Các nhà toán học của thế kỷ 19 đã thất bại thảm hại khi đã không nắm bắt được cơ hội to lớn mà Maxwell mang đến năm 1865. Nếu họ nghiên cứu nghiêm túc và tận tâm phương trình của Maxwell như cách mà Euler nhập tâm các phương trình của Newton, thì họ sẽ khám phá ra nhiều thứ mới mẻ mà trong đó có: thuyết tương đối hẹp (của Einstein), lý thuyết nhóm tôpô và biểu diễn tuyến tính, có thể cs cả phần lớn lý thuyết phương trình vi phân hyperbol và phân tích hàm. Một phần rất lớn vật lý và toán học của thế kỷ 20 có thể đã được tạo ra từ thế kỷ 19, chỉ bằng cách khám phá đến cùng các khái niệm toán học mà các phương trình Maxwell tự nhiên dẫn đến.
Freeman Dyson
*
Đến thế khế kỷ 18, Leibniz cho rằng tính toán (calculation) có thể không phải là việc cho người giỏi giang, mà người nông dân cũng sẽ tính rất giỏi nếu ta chế cho họ một cái máy làm tính (calculating machine). Tức là làm sao phải hệ thống hóa được các bước lập luận suy lý (các lập luận logic bằng ngôn ngữ tự nhiên, cần phải biến thành một ngôn ngữ đem ra làm tính được. True hay false phải là cái có thể tính toán ra được). Leibniz chế ra được cái máy tính, dù chỉ là prototype nhưng chạy tốt, xong để đấy. Ông cũng chế ra được những ý tưởng nháp đầu tiên cho ngôn ngữ logic sử dụng các ký hiệu (formal symbol logic) sao cho nếu có một cái máy hiểu được ngôn ngữ này, nó sẽ làm được các phép tính và biết là phép tính ấy có kết quả đúng hay sai. Tiếc là ông này giỏi nhưng ham nhiều thứ quá, nên bỏ dở ở đây.
Sau Leibniz, loài người cần rất nhiều thời gian, và nhiều nhà toán học, từ Euler đến de Morgan, và đến George Boole, con người mới sáp nhập được đại số và logic. Các biện luận logic nay có thể đem ra làm bằng toán (đại số). Đại số ấy chính là đại số Boole, và nó quen thuộc hơn nữa với các phép logic Boole mà ai lập trình, vẽ mạch bán dẫn logic (với các cổng logic gate) cũng phải học.
Chỉ có điều đại số Boole không có phép chia và trừ. Nó chỉ có phép cộng và nhân. Đặc biệt hơn nữa, một số cộng với chính nó lại có kết quả bằng 0.



*
Lối sống Stoic.
Logic của Stoic và triết học của Megarian có xu hướng ngả về phía hình thành một lập trường triết học rất quan trọng: các khả năng của một thứ bị giới hạn vào chính nó (nó là gì ở hiện tại, hoặc nó sẽ là gì ở tương lai nếu mệnh đề phát biểu về nó ở tương lai là true.)
Triết học Stoic là một triết học rất thực tiễn và do đó nó trường tồn. Nảy mầm bắt rễ và đâm chồi nảy lộc từ thời Hy Lạp cổ, nó lan ra khắp thế giới Hellenistic (các vùng đất chịu ảnh hưởng văn minh Hy Lạp, bị Hy Lạp hóa), sang thời cộng hòa La Mã và cuối cùng là khắp Đế chế La Mã. Và nó tồn tại đến tận ngày nay. Cuốn sách Meditations của vị hoàng đế kiêm triết gia Stoic La Mã Macus Augelius ngày nay vẫn bán được hàng triệu bản.
Triết học Stoic bắt đầu từ một mệnh đề đóng vai trò tiền đề duy nhất: con người sống tuân theo và thuận theo tự nhiên (nature).
Từ tiền đề này, họ tiếp tục đi sâu vào bản chất (nature) của con người: hai khía cạnh quan trọng nhất của con người, theo Stoicism, đó là con người là sinh vật xã hội (sống trong cộng đồng, và cộng đồng này có tổ chức cao cấp hơn các bầy thú) và con người là sinh vật có khả năng suy lý.
Sống một đời sống nhẹ nhàng, vui sướng (eudaemonist/eudiamonia) là quan niệm xương sống trong ethics của triết phái Stoics. Sống sao cho tốt đẹp và đủ đầy (a well-lived and flourishing life) thì con người cần có những lựa chọn, những quyết định sáng suốt, có những ứng xử trong đời sống hàng ngày đúng mực; nếu ai cũng sống được như vậy thì sẽ một xã hội ai ai cũng sống yên lành và tất cả (như một tổng thể) liên tục tiến triển trong yên bình.
Trong thực hành, đầu tiên những người theo phái Stoics cho rằng phải sống sao cho đàng hoàng, tử tế. Cái đàng hoàng tử tế của họ được biện luận logic rõ ràng: sống phải có phẩm hạnh (virtue) bởi phẩm hạnh là cái cấp cao nhất và hoàn thiện nhất của con người biết suy lý. Người Stoic có bốn phẩm hạnh (tứ đức/four virtues) cần phải được thực hành trong đời sống thực: hiểu biết sáng suốt mang tính thực tiễn (practical wisdom), can đảm (courage), chính nghĩa, công bình (justice), điềm đạm, chừng mực (temperance). (Virtue của người Stoic tương đương với “nết đẹp”, “nết tốt” của văn hóa Việt châu thổ sông Hồng, nói màu mè là có đức tính tốt.)
Practical wisdom là hiểu biết và sáng suốt trong “đời thường”, biết cái gì là tốt cho bản thân, tránh những gì có hại: đi xe máy nên đội mũ bảo hiểm, ngồi xe ô tô phải thắt seatbelt, rửa tay trước khi ăn, không nghịch điện, không đùa với lửa, không ăn nấm độc, không trêu ngươi sư tử…
Courage là dũng cảm về mặt tinh thần và đạo lý, biết tự ngăn mình làm việc xấu, can đảm đứng lên bảo vệ cái đúng, bảo vệ người yếm thế…
Justice là biết phân định phải trái đúng sai, ứng xử chính trực.
Temperance là làm mọi thứ đúng chừng mực, không để thiên lệch về bất cứ sắc thái nào (tử tế quá cũng không được, nồng nhiệt quá cũng ko được, vui vẻ quá cũng không được, ác quá, nhạt quá, cáu kỉnh quá cũng không được nốt…).
Nhưng “tứ đức” mà người Stoic phấn đấu trong thực hành hàng ngày ấy vẫn chưa đủ để sống yên bình. Cốt lõi triết lý sống của người Stoic là niềm tin rằng có những thứ tùy thuộc vào mình (mình điều khiển/kiểm soát được), và có những thứ không tùy thuộc vào mình (mình không thể điều khiển được). Người Stoic học cách phân định cái gì mình có thể kiểm soát được, còn cái gì thì không.
Tuổi già, sự chết là cái không điều khiển được. Mua một bữa ăn, tìm một chỗ để ngủ là cái có thể điều khiển được. Mua một cây cung xịn, chọn bó tên tốt, tập luyện kỹ càng là cái có thể điều khiển được. Còn khi đã bắn tên đi rồi, thì không điều khiển được nữa. Gió thổi lệch tên, con mồi bỏ chạy là cái không thể điều khiển được, tên trúng trượt đích là kết quả nằm ngoài khả năng kiểm soát của người bắn cung.
Quan niệm và triết lý sống như vậy giúp người Stoic sống không lo âu, không căng thẳng, không bức xúc, không mệt mỏi, không bi quan,…
Họ sống đời thanh thản!
Một triết gia nổi tiếng của trường phái Stoic là Epictetus có nói: con người có thể có quyền năng (kiểm soát được) ý nghĩ, ham muốn, động của mình, nhưng ngay cả cơ thể, sức khỏe, danh tiếng của mình họ cũng không có quyền năng (kiểm soát được) nó. Cơ thể, ví dụ vậy, mình có thể bắt mình tập thể thao, ăn uống lành mạnh (như tập luyện bắn cung), nhưng kết cục nó ra sao (như đường bay của mũi tên có bị gió làm ảnh hưởng hay không và có trúng đích không) thì mình không thể kiểm soát được.
Tức là con người chỉ nên gắn cái “tôi”, cái “giá trị bản thân” của mình vào những thứ thuộc về “nội giới”, ở “bên trong con người mình”: động cơ, ham muốn,… vì những cái này mình kiểm soát được; còn đừng gắn giá trị riêng của mình vào kết quả sẽ có được trong thực tế vì kết quả ấy nằm ngoài kiểm soát của mình. Chẳng có gì thất vọng khi mình không đạt được những gì mình mong muốn, vì những cái “đạt được” ấy nằm ngoài kiểm soát của mình. Và ngược lại, cũng chẳng nên quá vui mừng với những kết quả vượt qua mong muốn. Chỗ đứng ở hiện tại của mình trong xã hội cũng do những thứ không tùy thuộc vào mình (đất nước nơi mình sinh ra, giới tính, cơ thể, sức khỏe bẩm sinh, tầng lớp gia đình) và có những thứ tùy thuộc vào mình (nghề nghiệp mình chọn, vai trò xã hội mình chọn, cộng đồng mình chọn tham gia…)
Diễn đạt theo một cách khác, người Stoic biết rằng con người không kiểm soát được thế giới bên ngoài, họ chỉ có thể đáp ứng qua lại với nó, “thỏa thuận với nó” và sống “trong thỏa thuận (in agreement/homologoumenôs)” với bản chất và trật tự tự nhiên của vũ trụ (cosmic nature). Người Stoic đáp ứng với thế giới tự nhiên thông qua thực hành bốn phẩm hạnh courage, temperance, wisdom, và justice. Trong đó wisdom và justice đòi hỏi tư duy logic sắc bén cũng như thận trọng trong xem xét thông tin. Temperance và courage đòi hỏi rèn luyện kiểm soát bản thân.
Chủ nghĩa Stoic là một triết phái giản dị về học thuyết, chú trọng thực hành. Người theo trường phái Stoic hàng ngày thực hành và rèn luyện các thói quen và kỹ thuật kiềm chế bản thân (self-control), tư duy sáng sủa hợp lý (rationality) và giữ gìn “nết tốt” (virtue) để tìm kiếm cho mình một cuộc sống tĩnh lặng và đủ đầy bất chấp ngoại cảnh.
Nếu hiểu được triết lý Stoic và thực hành được, con người chúng ta ai cũng có thể bình thản đi qua mọi áp lực, rắc rối và cả nghịch cảnh trong cuộc sống, tránh khỏi các cảm xúc thái quá, lúc nào cũng bình tĩnh và bình thản trước mọi biến động của cuộc đời.
Nhưng trước hết cần rèn luyện khả năng suy lý thường trực, bắt đầu từ những bài tập logic đơn giản nhất.
February 28, 2024
Về Thời-gian
I. Thời gian như con người từ cổ chí kim vẫn biết: ngày qua ngày, mùa qua mùa, năm qua năm
Trên youtube có vô số các clip ngắn giải thích tại sao có ngày và đêm, có bốn mùa, có năm này qua năm khác. Những gì giải thích bằng lời mất cả chục trang giấy và hình minh họa (mà vẫn khó hiểu) thì video chỉ cần vài phút (và học sinh cấp 2 cũng hiểu được ngay, kể cả lõm bõm tiếng Anh).
Trái đất di chuyển liên tục xung quanh mặt trời trên một quỹ đạo không phải là đường tròn mà là đường ellipse với mặt trời ở một trong hai tâm điểm. Nếu đứng hẳn ra ngoài hệ mặt trời và vào, sao cho cực Bắc của trái đất ở trên, cực Nam ở dưới ta sẽ thấy hướng di chuyển là ngược chiều kim đồng hồ. Quỹ đạo ellipse ấy tạo thành một mặt phẳng.
Trái đất tự quay quanh trục của mình (cũng ngược chiều kim đồng hồ). Trục quay của trái đất không vuông góc với mặt phẳng mà hơi nghiêng. (Nếu nó vuông góc thì ngày và đêm luôn dài bằng nhau, không có bốn mùa, và hai bán cầu bắc-nam không có gì khác biệt.)
Vì quỹ đạo hình ellipse nên trái đất có lúc ở gần mặt trời (cận nhật) có lúc ở xa (viễn nhật). Trục quay bị nghiêng nên mặt trời chiếu sáng trái đất không đều (bắc bán cầu và nam bán cầu được chiếu sáng khác nhau), và sự chiếu sáng này thay đổi theo vị trí của trái đất ở trên quỹ đạo.
Trái đất tự quay quanh mình một vòng, có ngày và đêm. Trái đất đi quanh mặt trời một vòng, có năm. Trên quãng đường di chuyển quanh mặt trời, do trái đất nghị nghiêng nên “nắng” chiếu lên bề mặt trái đất thay đổi, nên có mùa. Chiếu nhiều thì là mùa hè, chiếu ít thì là mùa đông. Độ dài của ngày và đêm cũng thay đổi. Từ đó có bốn mùa và có bốn thời điểm quan trọng: xuân phân, thu phân và đông chí, hạ chí tương đương với các thời điểm mà ngày và đêm dài bằng nhau hoặc đêm dài nhất trong năm, ngày dài nhất trong năm. Bán cầu bắc và bán cầu nam cũng có khác biệt (ngược nhau về mùa).
Chỉ cần xem vài clip như vậy trên youtube, mất độ 10 phút của cuộc đời, là sẽ hiểu tại sao có mùa, tại sao có ngày và năm. Và tại sao mặt trời ảnh hưởng đến thời tiết (nông nghiệp) chứ không phải mặt trăng. Tại sao lịch mặt trời (dương lịch) mới là lịch có nền tảng khoa học chặt chẽ và phù hợp với đời sống con người ngày xưa (kinh tế dựa vào nông nghiệp). Đây là kiến thức ai cũng nên biết. Nếu tìm thêm ta sẽ thấy lịch mặt trăng (âm lịch) chỉ phù hợp với cúng bái lễ nghi tâm linh là chính.


(Ở các vùng đất mà xã hộ gắn chặt với nông nghiệp như các nước phương đông thì người ta sử dụng nông-lịch, cụ thể là lịch của các tiết khí.
Quỹ đạo “đường tròn” của trái đất đi xung quanh mặt trời được chia thành 360 độ, cứ cách 15 độ người ta đặt một điểm gọi là “điểm phân”. Giữa hai điểm phân là một cung 15 độ, trái đất đi hết cung này mất khoảng 14-16 ngày. Trên đường quỹ đạo có 24 điểm phân như vậy, gọi là 24 tiết khí: Lập xuân, Vũ thủy, Xuân phân, … Hạ chí,… Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn. Các tiết khí xây dựng theo cách này về bản chất chính là lịch mặt trời và do đó nó khớp với các mùa của năm. Các tiết khí trong năm tương đối khớp với các ngày trong lịch dương. Ví dụ bốn tiết xuân phân, hạ chí, thu phân, đông chí của nông lịch khớp với bốn điểm phân và chí của dương lịch là vernal equinox (xuân phân), summer solstice (hạ chí), autumnal equinox (thu phân), winter solstice (đông chí).
Vậy nên: Xuân phân luôn rơi vào 20 hoặc 21 tháng Ba lịch dương, Đông chí luôn rơi vào 21 hoặc 22 tháng Mười hai lịch dương. Ngày Lập xuân của nông lịch luôn rơi vào ngày 4 -5 tháng Hai, ngày Tết âm lịch (là ngày đầu tiên của tháng Giêng âm lịch sẽ phải chỉnh sao cho nó rơi vào gần ngày Lập xuân này nhất.
Cách khớp nông lịch/dương lịch với lịch theo mặt trăng này tạo ra lịch âm như chúng ta đang dùng hiện nay. Nếu gọi đúng thì phải là âm-dương lịch.)

(Về chi tiết sâu hơn thì còn nhiều hiện tượng ảnh hưởng đến độ chiếu sáng của mặt trời lên bề mặt trái đất, như hiện tượng tuế sai, hay tốc độ di chuyển của trái đất trên quỹ đạo quanh mặt trời có lúc nhanh lúc chậm khác nhau. Rồi tốc độ tự quay quanh trục của trái đất cũng chậm dần. Nên dương lịch vẫn phải có các tinh chỉnh theo thời gian.)
II. Bản chất của thời gian (thời gian như cái đồng hồ đếm thời gian tích tắc)
Ngày xưa thì người ta (các nhà vật lý và triết học) cho rằng thời gian là Tuyệt Đối. Đại khái là có một cái đồng hồ tích tắc đếm thời gian cho toàn bộ vũ trụ. Dòng thời gian chảy đều đặn và bằng nhau với tất cả mọi người, mọi vật thể. Mọi sự kiện xảy ra ở bất cứ đâu thì với tất cả những ai quan sát sự kiện ấy sẽ thấy sự kiện ấy xảy ra đồng thời (cùng một lúc). Quãng thời gian trôi qua giữa hai sự kiện là bằng nhau với tất cả mọi người (mọi vật thể) quan sát hai sự kiện ấy.
Sau khi có thuyết tương đối hẹp, thì thời gian hóa ra không tuyệt đối, mà là Tương Đối. Mỗi người, mỗi vật thể có một cái đồng hồ tích tắc của riêng mình (proper time). Thời gian riêng của mỗi người có thể bị kéo dãn/giãn ra (khoảng cách giữa hai lần tích/tắc bị kéo dãn ra). Ai ở gần lỗ đen nơi có hấp dẫn cực mạnh thì đồng hồ tích tắc rất chậm (theo thuyết tương đối rộng). Ai di chuyển với tốc độ cực cao, ví dụ gần tốc độ ánh sáng, thì đồng hồ tích tắc cũng rất chậm (thời gian thì dãn ra còn kích thước thì co lại – theo thuyết tương đối hẹp). (Còn chúng ta ở trên mặt đất với nhau thì về cơ bản là đồng hồ tích tắc y như nhau). Các sự kiện xảy ra trong vũ trụ cũng không còn đồng thời với tất cả những người quan sát. Không có một cái “now” chung cho toàn thể vũ trụ. Có người sẽ thấy sự kiện xảy ra trước, có người thấy nó xảy ra sau. Chưa hết, thời gian còn không phải là một đại lượng vật lý độc lập, mà nó bện/dệt vào không gian ba chiều, tức là không-thời-gian.

(Về mặt toán học thì thuyết tương đối hẹp chỉ là toán cấp 3. Nhưng về vật lý nó rất khó hiểu. Học nó cũng không quá mất công. Trên youtube có nhiều khóa dạy miễn phí. Thời lượng học khoảng 13 tiếng đồng hồ.)
Chưa hết, nếu không gian là “cái” mà ở trong đó ta có thể tiến, hoặc lùi, hoặc sang trái, hoặc sang phải, hoặc lên hoặc xuống (vì có 3 trục, mà trục nào ta cũng tiến hoặc lùi được) thì ở trục thời gian ta chỉ có thể tiến. Không ai “đi” lùi được thời gian. Không quay về được quá khứ. Người ta chỉ nhớ được quá khứ chứ không trở về được. Và cũng không ai “nhớ” được tương lai. Cái này gọi là mũi tên thời gian. Chưa ai giải thích được tại sao thời gian lại có đặc tính quái dị như vậy. Cho nên người ta phải tìm hiểu bản chất của thời gian.
(Trong các phương trình vật lý, để đổi chiều thời gian thì chỉ cần đổi dấu biến số thời gian t thành (-t). (Với hàm sóng lượng tử, do sử dụng số phức phép đổi dấu này phải sử dụng số phức liên hợp.). Nhưng sau khi đổi dấu như vậy thì bản chất và kết quả của các phương trình vẫn nhất quán và không có gì khác biệt. Tức là trong mô tả toán học của các định luật vật lý, thời gian là đối xứng (hai chiều). Còn trong thực tế thì thời gian là bất đối xứng và một chiều.)
Bản chất (nature) của thời gian là gì là một câu hỏi mà các nhà vật lý và triết học vật lộn qua nhiều thế kỷ. Đến nay, tức là ở quãng 1/4 của thế kỷ 21 người ta vẫn phải vật lộn với nó. Có rất nhiều quan điểm về bản chất của thời gian, mà ai cũng có lý. Dưới đây ví dụ bốn quan điểm khác nhau.
Carlo Rovelli
Rovelli cho rằng thời gian như chúng ta tri nhận (tức là qua các giác quan) hoàn toàn không tồn tại ở cấp độ vi mô nền tảng. Tất nhiên không phải là ông ấy nói bừa, mà ông ấy sử dụng vật lý lượng tử và thuyết tương đối tổng quát để suy ra giả thuyết này.
Rovelli nói thời gian, như một dòng chảy liên tục như chúng ta cảm nhận, chỉ tồn tại ở cấp độ vĩ mô. Còn ở các cấp độ sâu hơn, vi mô hơn, nền tảng hơn thì không còn thời gian nữa. Trong các đại lượng vật lý ở cấp độ cơ bản không có đại lượng thời gian. Thời gian là đại lượng thứ sinh, nó “đột sinh” ra cấp độ vĩ mô từ các đại lượng vật lý ở cấp độ vi mô nền tảng.
Một trong các lập luận của Rovelli là hàm sóng mô tả thế giới vi mô không thể hiện thời gian như một biến độc lập, mà chỉ là một tham số thứ sinh giúp mô tả sự tiến hóa của hàm sóng với các kết quả là xác suất khác nhau. (Câu này viết tiếng Việt có vẻ hơi ngu, nhưng đại khái là vậy, vì con người rất không quen với việc không có thời gian.)
(Trên youtube có nhiều khóa dạy vật lý lượng tử miễn phí, chừng 30 tiếng. Thuyết tương đối rộng thì lâu hơn, chừng 45 tiếng, và toán của nó thì khó hơn nhiều, nếu học riêng phần toán thì cũng phải mất chừng 5 tiếng nữa.)
Lee Smolin
Smolin thì có quan điểm ngược với Rovelli, và cũng dùng quantum gravity để lập luận như Rovelli.
Smolin cho rằng thời gian là có thực, nó thực sự tồn tại. Hơn thế nữa, nó là đại lượng vật lý cực kỳ cơ bản, nằm luôn trong căn cốt của vũ trụ. Nó không phải là đại lượng tĩnh, nó động. Nó tạo ra sự tiến hóa của vũ trụ kể từ lúc vũ trụ ra đời và thúc đẩy/tạo ra các tính chất và cấu trúc vật lý của vũ trụ. Vì thời gian nằm trong căn cốt của vũ trụ và là động, nên nó chịu trách nhiệm cho việc “vũ trụ đang trở thành” cái gì đó khác (tiến hóa) chứ không chỉ đơn giản tham gia vào việc tạo ra “vũ trụ đang là” (đang hiện hữu).
David Albert
Albert có quan niệm về thời gian khác cả Rovelli lẫn Smolin. Albert cho rằng thời gian không phải là một thực thể khách quan và độc lập với trải nghiệm của chúng ta. Ông này thách thức khái niệm thời gian là một khía cạnh nền tảng của vũ trụ, theo ông cần phải hiểu thời gian như là một trải nghiệm chủ quan.
Suy luận từ thuyết tương đối tổng quát vốn cho rằng không có một cái “now” phổ quát và khách quan áp đặt lên toàn thể vũ trụ, Albert cho rằng trải nghiệm về thời gian là cái mà các sinh vật có ý thức tri nhận được qua mối liên hệ giữa các sự kiện khác nhau (thứ tự của các sự kiện, quãng thời gian giữa các sự kiện…). Thứ tự và quãng thời gian giữa các sự kiện là kết quả hình thành từ mối quan hệ nhân-quả và dòng thông tin truyền từ sự kiện này qua sự kiện khác.
và entropy
Tính bất đối xứng và một chiều của thời gian có liên hệ gần gũi với một khái niệm quan trọng của nhiệt động học. Entropy là đại lượng đo lường tính mất trật tự và ngẫu nhiên của một hệ. Nó liên kết chặt chẽ với số lượng các trạng thái ở cấp độ vi mô tạo gây ra một trạng thái vĩ mô của cả hệ. Định luật hai nhiệt động học nói rằng entropy của một hệ cô lập luôn tăng. Sự tăng của entropy liên kết với (hoặc là bản chất tự nhiên) của tính bất đối xứng và không thể đảo ngược của các tiến trình xảy ra.
Mũi tên thời gian chỉ theo hướng entropy tăng lên: các tiến trình trong toàn bộ vũ trụ khi quan sát ở cấp độ vĩ mô sẽ có xu hướng tiến hóa từ các trạng thái entropy thấp hơn (trật tự hơn) lên các trạng thái entropy cao hơn (mất trật tự hơn). Entropy luôn tăng (có thể) là cái tạo ra tính bất đối xứng giữa quá khứ và tương lai cũng như là nguyên nhân của tính chất không thể đảo ngược được của các tiến trình trong tự nhiên. (Tuy nhiên, entropy giúp ta có thêm tri kiến mang tính chất xác suất và thống kê về hướng của thời gian chứ chưa giải thích được trọn vẹn bản chất của thời gian.
PS: Nhân một ngày nhuận, 29 tháng Hai năm 2024
July 5, 2023
Tất cả là Một
Trên tạp chí Aeon có một bài viết với tựa đề Toàn Tâm luận thì điên rồ nhưng nó là thuyết dễ [trở nên] đúng nhất – Panpsychism is crazy, but it’s also most probably true. Tác giả bài viết là một triết gia trẻ người Anh tên là Philip Golff. Mở đầu bài viết, tác giả giải thích Toàn Tâm luận (Panpsychism) là một thuyết cho rằng ngay cả những mẩu vật chất nhỏ bé nhất như quark hay electron tự nó cũng có “trải nghiệm”, và một electron cũng có đời sống bên trong của riêng nó. Toàn Tâm luận, bởi vậy thường được cho là điên rồ và không đáng tin. Nhưng, tác giả viết tiếp, các học thuyết của Darwin, Einstein cũng từng bị phủ nhận vì nó trái ngược với tri thức chung của khoa học và nhận thức của công chúng ở thời điểm các thuyết này ra đời. Tương tự như vậy, các ý tưởng của các thuyết Nhât nguyên luận của Bertrand Russell hay của David Bohm (Russellian monism và Bohmian monism), cũng như các ý tưởng khoa học khác đang góp phần gây dựng nên nền móng của Toàn Tâm luận hiện đại đến ngày nào đó cũng có thể “hóa ra là đúng”.
Quãng giữa thập niên thứ hai của thế kỷ 21, Goff bắt đầu tái khám phá và phát triển thêm các ý tưởng triết học mà Bertrand Russell (nhà toán học và triết gia người Anh) và Arthur Eddington (nhà vật lý người Anh có công chứng minh thuyết tương đối của Einstein bằng thực nghiệm) đề xuất trong những năm 1920, những ý tưởng ấy ngày nay được gọi là Nhất nguyên luận Russell hoặc Toàn Tâm luận Russell.
Russell, bằng các lập luận tinh tế và chặt chẽ quen thuộc của mình, cho rằng ý thức (consciousness) có ở trong vạn vật. Tâm thức (mind) phải được coi là một cấu phần nền tảng (fundamental constituent) của thế giới tự nhiên và tính chất vật của các hạt cơ bản quark hay electron, ví dụ như khối lượng của chúng, chính là một dạng đơn giản của ý thức (simple form of consciousness) . Ý tưởng các hạt vật chất nhỏ nhất như eletron cũng có tâm thức, ý thức, và trải nghiệm từng là ý tưởng quen thuộc trong triết học và tôn giáo cổ, theo đó sỏi đá cũng có linh hồn, nhưng hoàn toàn trái ngược với trực giác của con người hiện đại.
Trong các nghiên cứu của mình, Goff đưa ra lập luận làm sáng rõ thêm vấn đề. Theo anh, các nhà Toàn Tâm luận hiện đại xác quyết rằng mọi vật (vật chất) được tạo thành từ những cấu phần vật chất rất nền tảng (như các hạt cơ bản), và những cấu phần vật chất nền tảng ấy đều có ý thức. Nhưng chính họ cũng không tin rằng một “đống vật chất tích tụ”, như đôi giày chẳng hạn, lại có ý thức. Goff chống lại ý tưởng quen thuộc và phổ quát rằng ý thức chỉ tồn tại trong não của các sinh thể sinh học có cấu tạo phức hợp (brains of complex biological organisms). Anh bảo vệ lập trường của Toàn Tâm luận cho rằng thế giới vật lý được tạo thành từ các dạng thức đơn giản của ý thức (very simple forms of consciousness). Tức là ý thức là nền tảng (fundamental) của thế giới tự nhiên. Mà vì đã là nền tảng, nên ý thức không thể quy giản (reduce) về những cấu phần nhỏ hơn hay nền tảng sâu hơn được nữa.
Tương tự như nhất nguyên luận trung hòa (neutral monism) của Russell, các nghiên cứu của Goff cố gắng đưa ra một lối đi thứ ba – một con đường “trung đạo” hòa hợp được cả chủ nghĩa duy vật lý (physicalism) và nhị nguyên luận – để giải quyết bài toán khó về ý thức (hard prolem of consciousness) mà David Chalmers đặt ra năm 1995, bao gồm cả cách hóa giải lập luận Zombies (zombie argument) là lập luận mà Chalmers đặt ra để thách thức các lý thuyết đang cố gắng giải thích bản chất của ý thức.
Goff cho rằng Toàn Tâm luận là lời giải tốt nhất cho bài toán nhị nguyên hồn-xác (mind-body problem), một bài toán lâu đời nhắm đến tìm ra giải thích cho việc bằng cách nào thế giới ý thức và thế giới vật lý có thể hòa nhập với nhau.
*
Từ thời cổ các triết gia Hy Lạp đã có những ý tưởng triết học mang tính siêu hình: họ cố gắng tìm ra căn cốt của thế giới tự nhiên và giải thích cách thế giới ấy vận hành. Triết gia Heraclitus cho rằng vạn vật là dòng chảy, tất cả (all) là động, là lưu thông (flux) – con người không ai có thể hai lần tắm cùng một “chỗ” trên một dòng sông.
Parmenides có quan điểm ngược lại, vạn vật chỉ là một, tất cả (all) chỉ là một (oneness). Toàn bộ thế giới được tạo dựng nên từ một bản thể (substance/entity) đơn nhất. Ý tưởng triết học này được gọi là Nhất nguyên luận Parmenides (Parmenidian monism).
Anaxagoras lại cho rằng tất cả mọi bản thể sơ sinh (primodial substance/có từ khởi nguyên của vũ trụ) đều phát sinh từ một cái gọi là nous (tâm thức, mind) – được đồng nhất với tâm thức của toàn vũ trụ (cosmic mind). Nous là một “thứ gì đó” duy nhất thúc đẩy và vận hành toàn bộ vũ trụ.
Vạn vật, kể cả sỏi đá cỏ cây đều có linh hồn. Chỉ có điều cỏ cây hay sỏi đá không có các giác quan, nên con người không thể thấy được hồn của chúng. Và do thiếu cơ quan giác quan, nên tự chúng không nhận biết được sự tồn tại của mình trong thực tại, dù chúng có ý thức. Đây chính là ý tưởng cổ đại của Toàn Tâm luận (Panpsychism). Trong tiếng Hy Lạp thì pan có nghĩa là tất cả (all) còn psyche nghĩa là linh hồn, tâm thức (sould và mind).
*
Trái ngược với Nhất nguyên luận là Nhị nguyên luận (Dualism). Nhị nguyên luận là triết thuyết mà theo đó thế giới dựa trên hai bản thể (substance) khác nhau. Sau khi René Descartes tung ra nhị nguyên luận hồn-xác (mind-body dualism) rất nổi tiếng (và vì vậy còn được gọi là Nhị nguyên luận Descartes), thì nhiều triết gia tìm cách giải quyết vấn đề tâm thức và cơ thể trong đó có các triết gia trường phái nhất nguyên luận.
Baruch Spinoza giải quyết bài toán của nhị nguyên luận Descartes – bài toán hồn/xác – bằng nhất nguyên luận. ông cho rằng toàn bộ thế giới tự nhiên tạo nên bằng một substance (bản thể) duy nhất (Decartes cho rằng physical và mental (phần xác và phần tinh thần/phần hồn) là hai bản thể khác nhau: material (vật chất) và immaterial (phi vật chất). Spinoza lý giải rằng material và immaterial là hai thuộc tính (attribiute) chứ không phải là hai subtance. Bản thể duy nhất và làm nền cho toàn bộ thực tại được Spinoza đồng nhất với một Thượng đế/Mẹ tự nhiên duy nhất. Đây cũng là ý tưởng mà sau này Einstein rất ưa thích.
Gottfried Leibniz cũng có toàn tâm luận của riêng mình, được xuất bản với tên gọi Đơn tử luận (Monadology). Đơn tử luận là một hướng nghiên cứu về các đơn tử (monad). Đơn tử là các cấu phần nền tảng giống như các hạt điểm và chúng sở hữu một số đặc tính liên quan đến chất tinh thần (mental quality). Có thể hình dung đơn tử chứa hai phẩm tính gốc là tri giác (perception) và khao khát (appetite). Cách nhìn này rất giống triết học tinh thần của người Việt: “Dục vọng gắn với thể phách; Ước vọng gắn với tâm hồn”. (Xem thêm Hồn cốt.)
Cách triết thuyết có cách nhìn tương tự như Spinoza, coi tinh thần và vật chất là khai khía cạnh (aspect) của cùng một bản thể, được gọi chung là Nhất nguyên luận lưỡng diện (dual-aspect monism). Có thể kể đến: lý thuyết đồng hiện (synchronicity) của hai cá nhân kiệt xuất là Wolfgang Pauli (giải Nobel vật lý năm 1945 và là một trong những nhà sáng lập cơ lượng tử) và nhà tâm phân học Carl Jung; và lý thuyết của David Bohm.

*
Bước sang thế kỷ 20, khoa học tự nhiên dần chiếm ưu thế, hầu hết các nhà nhất nguyên luận (monist) đều rơi vào về một trong hai phe, physicalism (chủ nghĩa duy vật lý) hoặc materialism (chủ nghĩa duy vật). Họ cho rằng các hiện tượng tinh thần (mind) trong đó có phần hồn và phần ý thức (consiousness) đều do các các phản ứng hóa sinh (các phản ứng hóa học trong cơ thể sinh học) tạo ra bên trong não. Cả hai phe này dường như dần thắng thế các nhà nhị nguyên luận bởi họ có nhiều hướng đi với nhiều triển vọng mới mẻ và cập nhật hơn. Đơn cử như Roger Penrose (Nobel vật lý 2020) cũng có lý thuyết của mình, dựa trên thuyết tương đối tổng quát và cơ học lượng tử (quantum gravity), để giải thích cơ chế nhận thức hình thành trong các vi ống (microtubule) trong hệ thần kinh vi mô của não.
*
Mới đây, trong một bài giảng nói về triết học vật lý của Giải thích Đa thế giới (Many-worlds interpretation) của Hugh Everrett, nhà vật lý lý thuyết Sean Carroll nói: trong số các triết gia hiện nay thì một phần ba là những người có bằng PhD vật lý chuyển qua nghiên cứu triết, một phần ba là các triết gia làm thêm PhD vật lý. Bản thân Sean Carroll cũng chuyển qua triết học và có xu hướng ủng hộ mạnh mẽ Thuyết Đa thế giới.
Vai trò của các triết gia trong nhánh triết học vật lý (philosophy of physics) ngày càng hấp dẫn, các đề tài mà họ nghiên cứu, các ý tưởng mà họ đề xuất đều liên quan đến nền tảng cơ bản (foundation) của vật lý hiện đại: thuyết tương đối tổng quát (theory of gravitation) và thuyết lượng tử (quantum theory).
Sau một quãng dài nhiều năm mảng vật lý liên quan đến nền tảng của thuyết lượng tử không có giải Nobel thì mới đây giải Nobel Vật Lý 2022 đã về tay các nhà vật lý công trình thực nghiệm về rối lượng tử (quantum engtanglement) sử dụng Định lý Bell (Bell’s theorem). Định lý Bell là một sắp đặt vật lý rất sâu sắc trong vật lý lượng tử. Tác giả của nó, John Bell lấy cảm hứng chocông trình của mình từ thí nghiệm của nhà vật lý lý thuyết “bị bỏ quên suốt nửa cuối thế kỷ 20” là David Bohm (Bohm-type EPR experiment). (Xem thêm Năm mão nhắc chuyện con mèo của Schrödinger.)
*
Bước sang thế kỷ 21, một số nhà vật lý bắt đầu không thỏa mãn cách giải thích của trường phái Copenhagen, vì cách giải thích này tuy hữu ích trong thực tế nhưng về mặt triết học nó không giải quyết được rốt ráo câu hỏi cái gì là hiện tại (reality). Nói cách khác, họ chán tri thức luận (epistemology) và quan tâm nhiều hơn đến bản thể luận (ontology).
Gần đây, nhà vật lý lý thuyết Jim Al-Khalili có một phát biểu ngắn về bản thể luận và vật lý. Trong đó ông nói:
“Ngay từ hồi những năm 80 của thế kỷ trước, lúc đang làm luận án tiến sỹ vật lý, tôi đã ghét cách nhìn của trường phái Copenhagen [trong cơ học lượng tử] bởi nó không giải thích được gì, ngoài việc nó đưa ra một công thức, một bộ quy tắc để giải thích các kết quả thực nghiệm, nó không nói được bất cứ gì về việc electron đang làm gì khi chúng ta không nhìn vào nó… Nhưng phải đến cuối những năm 80 khi dự các buổi giảng bài của John Bell tôi mới thở phào nhẹ nhõm khi thấy nhà vật lý hàng đầu thế giới có những băn khoăn giống mình…
Hiện nay đồng thuận nào ngày càng mạnh? Tôi có thể nói rằng mọi người đang tập trung nhiều hơn về phía Einstein [thay vì về phía Bohr và trường phái Copenhagen] … theo nghĩa họ đứng về phía lập trường của Einstein là lập trường có tinh thần đúng đắn: đó là vật lý phải hướng về tìm hiểu thế giới này thực như thế nào (ontology/bản thể luận) chứ không phải chỉ hướng về những gì chúng ta có thể nói về thế giới (epistemology/tri thức luận).
Như triết gia Tim Maudlin nói, diễn giải của Copenhagen về thế giới lượng tử chỉ là công thức, cái chúng ta muốn là một lý thuyết vật lý về thực tại (physical theory of reality), và hiện có ba ứng viên sáng giá: (1) Thuyết Đa thế giới của Everett (Everettian many worlds); (2) Thuyết biến ẩn của Bohm (Bohmian hidden variables); và (3) các mô hình suy sụp tự phát (spontaneous collapse models)…
Tự nhiên (Nature) phải thể hiện mình theo một cách cụ thể: hoặc là thế giới chia nhánh thành các thực tại khác nhau [tức là thuyết của Everett) hoặc nó không chia nhánh như vậy; hoặc các trạng thái lượng tử suy sụp ngẫu nhiên và tự phát, hoặc không phải như thế; hoặc có các hạt thực (real particle) với vị trí và động lượng luôn xác định được [thay vì không xác định đồng thời cả hai như Nguyên lý bất định Heisenberg] và các hạt này được dẫn hướng bằng sóng lượng tử (quantum wave) hoặc không phải như vậy.”
Hai ứng viên số (1) và số (2) trong phát biểu của Al-Khalili là hai lý thuyết lượng tử mang tên hai nhà vật lý đề xuất các lý thuyết này – họ là hai cá nhân mà nay nhìn lại thì giống như hai anh hùng đơn thương độc mã chống lại tập đoàn các nhà vật lý theo trường phái Copenhagen – họ là Everettt và Bohm. (Xem thêm bài Quấn quít lượng tử.)
Năm 1980, David Bohm, tác giả của Cơ học lượng tử Bohm ở mục số (2) trong phát biểu của Al-Khalili xuất bản một cuốn sách có tên Cái toàn thể và trật tự ẩn (Wholeness and the Implicate Order). Tên gọi của cuốn sách tự nó đã hàm chứa quan điểm triết học của Bohm: Tất cả là một (Wholeness), tức là một cách diễn đạt khác của Toàn tâm luận.
Trong cuốn sách này, Bohm cho rằng dưới vẻ ngoài vật lý, tức là vẻ ngoài của các trật tự hiện (explicate order) là các trật tự ẩn (implicate order) ở các tầng nấc sâu hơn – đó có thể là một trường (field) chứa đựng một số lượng vô hạn các sóng dẫn đường (pilot wave). Các sóng này chồng chất lên nhau và thể hiện ra cho chúng ta thấy dưới dạng hạt (particle) là các cấu phần (constituent) tạo nên trật tự hiện. Ngay cả không gian và thời gian cũng là sự hiện hình của một trật tử ẩn nào đó rất sâu bên dưới.
Bohm khuyến khích con người nên có những quan niệm về vũ trụ, về bản chất chung của thực tại mà trong những quan niệm ấy vẫn dành một phần nhất quán cho nhận thức; đồng thời các quan niệm về nhận thực cũng phải để dành một chỗ để có thể hiểu được ý nghĩa của việc ý thức cũng tham gia vào “thực tại như một toàn thể – reality as a whole”. Phải có hai bộ quan niệm như vậy kết hợp với nhau mới có thể hiểu được bằng cách nào ý thức và thực tại liên hệ với nhau.
*
Triết gia đầu tiên của Hy Lạp cổ đại, Thales, đề xuất một lý thuyết mà theo đó vạn vật đều chứa đầy các vị thần linh (everything is full of gods). Thales tin rằng nam châm (luôn có hai cực, không có cách nào tách được hai cực ra khỏi nhau) là ví dụ rõ nhất thuyết này. Ngày nay ý tưởng này được được phân loại như là một học thuyết đơn giản của một nhà toàn tâm luận.
In 1990, David Bohm công bố nghiên cứu Một lý thuyết mới về quan hệ giữa tinh thần và vật chất (A new theory of the relationship of mind and matter) mà sau này được coi như một phiên bản Toàn Tiền-Tâm luận (panprotopsychism) của Bohm. Toàn Tiền-Tâm luận là một cách nhìn triết học, theo đó các thực thể nền tảng (fundamental entity) đều có phẩm tính tiền-ý –thức (proto-conscious), tức là chúng có những đặc tính nào đó giúp chúng trở thành “mầm mống” của ý thức trước khi ý thức hình thành ở các hệ vĩ mô hơn. Bohm cho rằng, cũng như hai cực (pole) của nam châm, thực tại cũng có hai cực – mental pole (cực tinh thần) và physical pole (cực vật lý/thể chất) – và hai cực cực này không thể tách rời. Và ngay cả electron cũng có cực tinh thần, và cực này được mô tả toán học bằng thế năng lượng tử . Ngược lại, mọi quá trình tinh thần (mental processes) lại có cực vật lý. Có thể dùng hai cực như hai thuộc tính khác nhau để hiểu được những gì đang xảy ra. Nhưng là vô nghĩa nếu tìm cách tách hai cực này ra hai bản thể. Cũng không thể quy giản cực này về chỗ chỉ là tính năng của cực kia như cách làm của chủ nghĩa duy vật (materialism) hay chủ nghĩa duy tâm (idealism).
Nhà vật lý Arthur Eddington nói: “Vạn vật của thế giới đều là những vật-tinh-thần [mind-stuff]”
Còn Freeman Dyson, một trong những nhà vật lý có công đặt nền móng cho điện động học lượng tử (quantum electrodynamics) từng có phát biểu đậm màu sắc Toàn Tâm luận: “Các định luật vật lý chừa chỗ cho tinh thần (mind) trong bản mô tả tất cả các phân tử… Nói cách khác, tinh thần tự nó đã gắn sẵn trong mọi electron, và các [quy trình phát sinh] ý thức của con người chỉ khác nhau ở mức độ chứ không khác nhau ở bản chất.”
*
Trong hai ấn phẩm The Analysis of Mind (1921) and The Analysis of Matter (1927), Bertrand Russell đưa ra nhất nguyên luận trung hòa (neutral monism) là một thuyết nhất nguyên với lập trường trung hòa: vạn vật thành hình thành hài trên thế gian này không hoàn toàn là tinh thần cũng không hoàn toàn là vật lý, mà nó cái gì đó ở giữa
Bertrand Russell cho rằng khoa học chỉ khám phá và mô tả chính xác các tính chất riêng có bên ngoài (extrinsic/external) của vật chất, còn thì chịu chết không biết một chút gì về các tính chất riêng có bên trong (intrinsic) thuộc về bản chất tự nhiên (nature) của vậ chất. Đây là ý tưởng chủ đạo của lý thuyết mà sau này được gọi là Nhất nguyên luận Russell (Russellian monism) khoa học không thể nhìn thấy các tính chất ẩn của vật chất, trong đó có ý thức.
*
Trong bài luận Toàn Tâm Luận và Toàn Tiền-Tâm Luận (Panpsychism and Panprotopsychism), triết gia David Chalmers sử dụng phép biện chứng Hegel (Hegel’s dialectics) với chính đề (thesis), phản đề (antithesis), và hợp đề (synthesis) lần lượt là các thuyết duy vật, nhị nguyên và toàn tâm. Các lập luận của chính đề là các lập luận nhân quả dành cho duy vật (và chống lại nhị nguyên). Các lập luận cho phản đề là các lập luận về khả năng nhận thức nhị nguyên (và chống lại duy vật). Hợp lại, chúng tạo ra lập luận Toàn Tâm. Các lập luận của hợp đề không chỉ ủng hộ Toàn Tâm luận mà còn ủng hộ Toàn Tiền-tâm luận. Ở kết luận, Chalmers viết rằng chúng ta cần tiếp nhận nghiêm túc cả hai thuyết Toàn Tâm luận và Toàn Tiền-tâm luận.
Quay lại với bài viết về Toàn tâm luận trên tạp chí Aeon, tác giả bài viết, triết gia trẻ tuổi Philip Golff kết luận:
Toàn Tâm luận là điên rồ. Nhưng nó cũng có khả năng rất cao hóa ra là đúng. (Panpsychism is crazy. But it is also highly likely to be true.)
June 17, 2023
Hồn cốt
Con người sắp đi qua ¼ đầu tiên của thế kỷ 21. Triết học, khoa học và công nghệ của phương tây thắng thế gần như tuyệt đối. Nhưng từ phương Đông, và cả phương Tây nữa, có những người vẫn cố gắng nhìn ra những pattern tương đồng giữa triết và siêu hình phương Đông với khoa học công nghệ phương Tây. Vô cực sinh Thái cực có gì đó gợi ý đến Big Bang. Lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái được cho là tương đồng với nhị phân của thế giới số. Đấy là nói về hệ số chẵn của phương Đông.
Qua hệ số lẻ (thái cực, tam tài, ngũ hành) mọi thứ lại giống với Standard Model (vật lý hạt, nằm trong framework của của thuyết trường lượng tử) là thuyết cho đến nay giải thích tốt nhất về vật chất. Tam tài (三才: 3 nguồn lực) được cho là tương đồng với ba (3) quark làm nên một (1) proton hoặc một (1) neutron; cộng với điện tích cơ bản (1) âm và (1) dương ta sẽ có: ba cộng một cộng một bằng năm tức là có ngũ hành (五行: 5 pha). Vật lý cơ bản có 4 lực của tự nhiên, trong đó có 1 lực hấp dẫn nằm ngoài và 3 lực (điện từ, hạt nhân mạnh, hạt nhân yếu) nằm trong tương quan với nhau và của nhau. Cũng chỉ có 3 hạt boson là W+, W-, và Z^0 trong lực hạt nhân yếu, mà lực này lại là cái giúp định hình nên thế giới tự nhiên. (Nó có vai trò trong giai đoạn ngay sau khi vũ trụ hình thành, trong các phản ứng tổng hợp hạt nhân, trong sự ổn định của vật chất, và trong sự phát sáng của các vì sao trong đó có mặt trời).
Đặc tính rất “weird” của tính cách và tâm hồn người Việt, được nhắc đến trong bài này có thể cũng từ số 3 mà ra.
Paul Giran nói “khói là hồn của lửa”.
Nhưng khói bốc lên từ lửa thì không có tính linh. Lửa tự nó không có cốt, không có tri, không có giác. Lửa sinh ra từ vật chất, nó là năng lượng tạo ra từ các phản ứng hóa học, ở đây là sự cháy, nhưng nó không trực tiếp nhận năng lượng từ đất, trời, nước (tức là năng lượng của Tam phủ 三府) Tam phủ là: cõi trời, Thiên phủ 天府, cõi đất, Địa phủ 地府; và cõi nước, Thủy phủ 水府.
Hồn của Lửa không có Lý (理) tính và Cảm tính.
Chỉ có sinh vật cao cấp như con người mới thì phần hồn của nó mới có tính linh.
*
**
Hồn con người, là sự kết hợp của khí( 氣) của trời, của đất, của vũ trụ với hơi (唏) thở của sự sống sinh học và hóa học. Khí có năng lượng, tinh chất của trời, của đất, của sự sống và của cái chết. Thiên khí, địa khí, sinh khí, tử khí. Còn hơi là còn sống, còn sống là còn hơi. Hơi có vị của thiên nhiên, của muôn loài, có mùi[1] của sự nguy hiểm, của cái độc hại, của sự chết.
Khí, để dễ hiểu, ta coi nó là các trường năng lượng như trong tư duy của vật lý hiện đại. Còn tam phủ là vũ trụ (trong vũ trụ quan) của người Việt.
Người Mường là dân tộc có hệ vũ trụ luận (dù thô sơ) để xem xét vũ trụ ra đời thế nào (trường ca Đẻ Đất Đẻ Nước); người Hoa là dân tộc mà vũ trụ luận của họ xem xét vũ trụ sinh ra từ đâu (Vô cực sinh Thái cực). Còn người Việt, rất khác, họ có tam phủ. Vũ trụ quan của người Việt chú tâm đến cõi sống của con người (đời người) trong một vũ trụ tĩnh tại, vĩnh hằng (bất diệt). Vũ trụ quan này, về nguyên bản không phải của người Việt, mà là một học thuyết du nhập và pha trộn, mà hình thức thể hiện của nó về mặt tín ngưỡng là “tam giáo” bản địa: Mẫu Lão Phật; hoặc qua các vị thần Vân Vũ Lôi Điện mà trong đó góc nhìn và điểm nhìn tâm linh của người Việt là từ địa phủ (bao gồm cả âm phủ) nhìn lên các tác động của thiên phủ (Lôi Điện) và hình ảnh của thủy phủ (Vân Vũ) phản chiếu từ cõi thủy tới cõi trời.
Người Việt không luận về vũ trụ, họ chỉ quan nó. Họ không để ý nhiều đến khởi thủy, chung cuộc, họ nói về sinh và diệt nhưng không chú tâm tìm hiểu nó sâu sắc, họ chỉ quan tâm đến cuộc sống đang hiện hữu của mình, ngay lúc này và trong cõi này (cõi người): đó là một phần của địa phủ, nhưng lại chịu tương quan (mà người Việt e dè sợ hãi và tò mò) của thiên phủ và thủy phủ. Người Việt không quan tâm đến dòng thời gian, ít để ý quá khứ, không lo lắng nhiều về tương lai. Họ cũng chẳng chăm sóc phần hồn của mình cho chu đáo. Vả lại, xét từ nền tảng tư duy tín ngưỡng – phần nào cũng có thể gọi đó là triết lý siêu hình thô sơ của người Việt – thì phần hồn của họ nằm ở cả ba cõi. Chẳng ai hơi đâu mà lo lắng cho ba hồn bảy vía hay ba hồn chín vía cả. Ba hồn, ở ba cõi khác nhau, người Việt chỉ quan tâm đến cõi duy nhất là cõi người. Sống khôn và chết thiêng. Khá là thực dụng, và là thực dụng ngắn hạn. Sống kiếp nào xong kiếp đó, nhẹ người.
*
**
Khí và Hơi tạo nên phần hồn (魂) trong một sinh thể bao gồm mind/soul và body (theo nhị nguyên luận phương Tây); hoặc bao gồm tâm/hồn/trí và thể xác (theo nhị nguyên luận phương Đông ); hoặc quy giản thêm nữa chỉ còn: tấm lòng và thân xác (đây chính là cách cắt nghĩa của người Việt về hồn sống và xác sống).
Tinh (精) chất của phần hồn sống ấy là [tinh] thần (spirit). Thô chất của phần hồn ấy là quỷ chất (鬼). Trong tinh chất của phần hồn, có phần tinh (精: cốt yếu, cốt lõi, tinh xảo) và phần thần (𥙍). Người mạnh mẽ về trí óc, có tâm hồn bay bổng, tri giác mạnh, trí tuệ sâu sắc là những người có thần khí.
Tính linh (esprit/靈) là tinh của tinh chất, là cái cao cấp nhất của phần hồn con người (linh hồn), nó chứa đựng cả linh khí của trời,núi, sông, đất, nước.
Con người có hồn, có xác. Hồn con người lại có tinh khí, có thần khí, có quỷ khí.
Thần khí là cái thiên phú mà có. Tinh khí là cái rèn luyện mà có. Quỷ khí là cái bản năng mà có. Xác còn “sống” thì quỷ còn chỗ trú. Xác mà “tử” thì quỷ lẩn quất khắp nơi. Xác mà sống thì hồn đi với xác. Xác mà thác thì hồn đi lìa khỏi xác; hơi tách rời khỏi khí. Cả tinh khí lẫn thần khí con người nhập trở về với khí tự nhiên (hòa trở lại với năng lượng của thiên nhiên/vũ trụ, tản ra ba cõi khác nhau).
Khí lại có phần dương và phần âm. Ngay khi một con người được sinh ra, dương khí và âm khí đi theo hơi thở đầu tiên mà vào thể xác. Âm khí (tức là phách: 魄) đánh thức phần Quỷ, dương khí khơi dậy phần Lý, tinh khí tự nó giữ cho mình phần Cảm. Quỷ tính, lý tính, cảm tính từ đó mà hình thành. Phần Hồn điều khiển trí năng, chi phối tình cảm; phần Phách điều hướng dục vọng.
Dục vọng gắn với thể phách; Ước vọng gắn với tâm hồn.
Hồn sinh ra đã tự nhiên mà có, tinh khí là do rèn luyện mà có. Tinh khí đủ mạnh thì Lý mới cân bằng, Cảm mới sâu sắc, Thần khí mới đến.
Phách sống ở phần xác, nhường tâm và trí cho phần hồn. Phách đến lượt nó có bảy vía hoặc chín vía hợp thành, các vía điều khiển phần dục của xác.
*
**
Triết lý của người Việt về vật chất và ý thức, về phần xác và phần hồn, về sự sống và cái chết đại khái phản ánh qua tín ngưỡng dân gian như vậy. Nó ẩn chứa free-will khi cho rằng tinh khí có được hay không là lựa chọn của mỗi con người. Nhưng ít ai lựa chọn nó vì hầu hết họ có một thiên kiến sai lầm: họ nhầm rằng tinh khí với thần khí là một, do đó cho rằng tinh khí, tức thần khí, là cái mà thiên nhiên ban sẵn cho mỗi con người (innate), không ai tự mình phấn đấu (lựa chọn) mà có được. Người Việt dường như chối bỏ free-will của mình suốt nhiều thế kỷ qua. Họ phó mặc mình cho số phận. Số phận của họ diễn tiến thế nào, kết cục ra sao, đều do trời cao đất dày quyết định. Cuộc sống thường ngày đói no thế nào, cũng là cái sự trời sinh voi, trời sinh cỏ. Và bởi vậy tâm-hồn của họ không có nhiều thay đổi (tiến hóa) suốt hàng trăm năm qua.
[1] Vật lý cổ điển là bộ khung lý thuyết đủ để cung cấp một nền tảng mà dựa vào đó loài người có thể hiểu thế giới xung quanh mình (thế giới ở cấp độ vĩ mô, từ nguyên tử trở lên). Trong đó có việc hiểu được các khía cạnh khác nhau của các phản ứng hóa học, bao gồm các tương tác hóa học cái xảy ra trong tế bào, mô, cơ thể.
Cơ học cổ điển, nhiệt động học và điện từ học, vẫn được sử dụng để mô tả và giải thích các quá trình hóa học ở cấp độ vĩ mô (tế bào). Tức là, vật lý cổ điển đủ để mô tả các quá trình sinh học. Tuy nhiên, gần đây bắt đầu xuất hiện các bằng chứng, ngày càng nhiều, cho thấy hiệu ứng lượng tử có thể có vai trò trong một số hiện tượng sinh học.
Một ví dụ nổi bật là quang hợp. Quang hợp là quy trình được cho là trong đó các hiện tượng lượng tử óp phần tăng cường hiệu suất truyền năng lượng trong các hợp chất hấp thu ánh sáng (hấp thu photon, lượng tử của sóng điện từ). Cố kết lượng tử (quantum coherence) và trùng điệp/quấn quít lượng tử (quantum entanglement) được cho là nguồn gốc của cơ chế cho phép năng lượng truyền rất hiệu quả xuyên qua cấu trúc phân tử của các hệ thống quang hợp.
Một ví dụ khác là vai trò của cơ học lượng tử trong quá trình ngửi được mùi (khứu giác). Có đề xuất cho rằng khả năng ngửi thấy và phân biệt các phân tử mùi là do hiệu ứng lượng tử trong các thụ thể nằm trong mũi.
Khả năng tìm đường (navigation) của một số loài chim cũng được cho là phải dựa vào hiệu ứng lượng tử, cụ thể là dựa vào trùng điệp (dính lứu, vướng) lượng tử và cố kết lượng tử. Đột biến gene (tự phát) cũng được cho là có nguyên nhân từ hiệu ứng đường hầm lượng tử.
Nhiều nhà khoa học đang cố gắng dùng vật lý lượng tử để giải thích những thứ vô hình nhưng rất quan trọng của con người: phần hồn. Phần hồn của con người chứa đựng rất nhiều thứ phức tạp: nhận thức, ý thức, tiềm thức, vô thức, cảm thức…
(Tuy nhiên, cần lưu ý rằng hầu hết các hệ thống sinh học ở cấp độ vĩ mô như tế bào và cơ thể sinh học vẫn có thể dùngg vật lý cổ điển để mô tả rất chính xác mà không cần viện dẫn đến các giải thích cơ học lượng tử.)
May 19, 2023
Một nation như là một hành động chính trị hướng về tương lai
1/13
Trong Avya – một phương pháp lập luận của triết học Ấn độ cổ đại (tương đương với tam đoạn luận /syllogism) của Hy Lạp cổ, nay quen thuộc hơn với tên gọi luận thức – có năm thành phần, thường được dịch là ngũ chi tác pháp . Trong đó có udàharanïa là dụ pháp (phương pháp so sánh bằng ví dụ); có upanaya là hiệp pháp và nigamana là kết pháp. Dụ pháp nói “Ở đâu có khói, ở đó có lửa, ví dụ lửa cháy trong bếp củi.” Hiệp pháp nói: Sườn núi kia có khói bốc lên. Kết pháp: Vậy thì ở sườn núi kia có lửa.
Avya được sử dụng trong một triết phái Ấn độ cổ tên là Nyāya – nay được dịch là chứng phái luận. Câu nói quen thuộc “không có lửa làm sao có khói” trong tiếng Việt rất khó phân biệt là thành ngữ hay tục ngữ có thể là vì nó có nguồn gốc từ Nyāya, và có thể suy luận xa thêm rằng nền văn minh cổ của người Việt đã từng chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn minh Ấn độ, trước khi nền văn minh Trung Hoa sơ kỳ phủ bóng lên nó.
“Không có lửa làm sao có khói” còn phản ánh tính cách học hành không đến nơi đến chốn của người Việt, bởi dụ pháp nó có đồng dụ (như ví dụ trên) và dị dụ (mặt hồ đầy khói, nhưng không có lửa), nhưng kiến thức dân gian chỉ ghi nhận một vế. Hoặc đơn giản hơn, triết học cổ Ấn Độ và các phương pháp lập luận của nó vừa kịp ăn sâu bén rễ vào xã hội Lạc/Âu Lạc/Việt cổ thì Hán hóa sơ kỳ (tức là văn hóa Hán chưa hoàn thiện) đã tràn vào. Bởi cho đến nay trong kho tàng tri thức dân gian của người Việt hoàn toàn thiếu vắng dấu vết của pramāṇas (nay được gọi là lượng pháp) là một phương pháp lý luận (reasoning) tương đương với logic reasoning của người Hy Lạp cổ.
Tạ Chí Đại Trường từng có một nhận xét, đúng hơn phải gọi là phát kiến, khi ông cho rằng câu “có tội thì lội xuống sông” có nguồn gốc từ Ấn Độ với lễ hội đẫm màu sắc tôn giáo: tắm sông Ganges (sông Hằng) để rửa tội.
2/13
Trong tiếng Anh có một từ mà vật lý hiện đại dịch là Đột Sinh. Trong tiếng Anh nó là emergence. Emergence là hiện tượng mà làn da của chúng ta đang khô, bỗng vì một lý do gì đó như bị cảm hay hạ đường huyết, mồ hôi đột ngột toát ra ướt đẫm bề mặt ngoài của da. Hoặc trong bình văn, ta nói câu thơ này toát ra tinh thần yêu nước, thì chữ “toát” ấy chính là emergence. Trong hệ lượng tử vi mô, hoặc hệ complexity (hệ phức hợp), luôn xảy ra việc các hệ này làm toát ra khỏi bề mặt một hiện tượng hoặc thực thể nào đó. Như mồ hôi toát khỏi da.
Rất nhiều quốc gia nhỏ được cho là đã emerged từ một đế quốc lớn. Nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng Việt Nam đã emerge, hoặc split, từ đế quốc Trung Hoa sau khi đế chế Đại Đường hùng mạnh và giàu có tan rã.
Nhưng các lý giải về việc Việt Nam giành lại độc lập sau gần 1000 năm bắc thuộc, hoặc emerge hoặc split ra từ Đế quốc Đường không trả lời được nhiều câu hỏi: tại sao tiếng Việt lại như hiện nay, tại sao tôn giáo VN lại là Tam giáo, tại sao có thơ lục bát, tại sao Ngô Quyền lại biết đóng cọc Bạch Đằng, tại sao Tây Sơn chia nước ta làm ba vương quốc… Hầu hết những câu hỏi ấy lại liên quan đến hidden identity của dân tộc Việt: identity với gene/DNA của Đông Nam Á.
3/13
Rất khó để biết ở thời điểm cụ thể nào trong lịch sử bỗng người Việt nhận ra mình… là người Việt. Hoặc không có một thời điểm như vậy, mà chỉ có một quá trình.
Để một dân tộc tự nhận ra mình là một dân tộc đòi hỏi rất nhiều yếu tố, từ ngôn ngữ văn hóa đến tín ngưỡng, tập quán. Nhưng chắc chắn một điều, người Việt nhận ra mình là người Việt khi họ có ngôn ngữ, văn hóa dân gian, tín ngưỡng và ẩm thực hoàn toàn khác với người Hán ở phía Bắc, với người Lâm Ấp ở phía Nam, và khác với người Nam Chiếu ở Đông Bắc.
Nhưng có thể đoán chuyển biến mạnh nhất khi người Việt trở thành người Việt là quãng thế kỷ thứ 4 Công nguyên.
4/13
Giáo sư sử Timothy Snyder ở đại học Yale nói về lý thuyết hình thành một nation của triết gia Ba Lan thế kỷ 19 tên là Kazimierz Kelles-Krauz:
[Sự hình thành một] Nation hoàn toàn là do tính hiện đại (modernity) chứ không liên quan gì đến truyền thống (tradition). Hiện đại hóa nhổ rễ người dân ở khắp các vùng miền, đem về đô thị, nấu lẩu họ trong nồi lẩu với mẫu số chung là ngôn ngữ (và tôn giáo). Hiện đại hóa sẽ tạo ra nation, chứ không phải chế độ feudal (chế độ phong kiến kiểu châu Âu, hoặc Trung Hoa thời chiến quốc, hoặc nhà Trần ở Việt Nam). Hiện đại hóa làm người dân có học hơn (họ học chữ nhanh hơn và nhiều người biết chữ hơn). Hiện đại hóa mang đến những tiến trình (mới), làm cho mọi thứ khác đi so với cũ (alienation), đô thị hóa (urbanization) và dẫn người dân đến một hình thức đoàn kết mới (new form of solidarity).
Để có Nation Việt và dân tộc Việt như hiện nay cần một quá trình birth và rebirth (tái sinh) rất nhiều lần.
Lần rebirth gần đây nhất trong lịch sử, chính Nguyễn Huệ và các đạo quân của ông đã làm công việc nhổ rễ nấu lẩu người dân. Còn trước đó, trước chiến tranh, chính Hội An của chúa Nguyễn chính là quá trình văn minh hóa, đô thị hóa. Sau năm 1802, người Việt bắt đầu có một cảm thức hoàn toàn mới (alienation): họ không identify mình như một người dân của một triều đại (nhà Tần, nhà Hán, nhà Đường, nhà Đinh, nhà Trần, nhà Lê, nhà Nguyễn) mà như là người dân của một dân tộc, một quốc gia. Quá này trình không thể đảo ngược nhưng vô cùng chậm chạp. Cho đến khi Pháp xâm lược Việt Nam, chữ quốc ngữ được truyền bá và người dân vốn chỉ là đối tượng của chính trị, bỗng nhiên được tham gia chính trị, trước là ở Sài Gòn, sau là Hà Nội.
5/13
Trong nghiên cứu mới mẻ hơn, Gellner và Anderson (1980) cũng cho rằng: Nation là kết quả của hiện đại hóa.
Đô thị Hội An, cuộc chiến tranh của nhà Tây Sơn làm dân tộc và quốc gia Việt tái sinh, nhưng trước đó người Việt sinh ra từ hai đô thị cổ và là thương cảng ven sông rất quan trọng ở đông bắc bán đảo Đông Nam Á: Cổ Loa và Luy Lâu và phần nào đó là thành phố cảng Long Biên.
Hậu thân thương cảng Luy Lâu, chính là Phố Hiến thời chúa Trịnh.
6/13
Quay lại với Snyder, ông giáo sư này giải thích: khi một nation ra đời, hiện tại của họ sẽ có những rắc rối với quá khứ: người dân của một quốc gia dân tộc mới ra đời sẽ phải tìm cách giải thích quá khứ sao cho nó phù hợp với hiện tại. Phải làm sao để sự sự tồn tại của nation tự nó “nation makes itself self-evident”. Sự tồn tại của một nation phải làm sao có giá trị như một tiên đề, không cần phải chứng minh.
Từ đó các câu chuyện (story) các huyền thoại (myth) ra đời, nó là cách thức để nation hiện tại đặt các tự khẳng định của nó vào trong quá khứ. Các story này không phải sự thực lịch sử, vì nó được cố ý sáng tác, thiết kế, gọt rũa có chủ đích, nhưng người ta vẫn gọi nó là lịch sử. Dù là lịch sử truyền khẩu, hay thành văn như quốc sử về sau.
Một ví dụ rất rõ ràng, là sau khi Đảng Cộng Sản giành được chính quyền họ bắt tay vào xây dựng một lịch sử về nước Việt Nam mới. Với mốc ra đời là năm 1945, những gì trước đó đều là lịch sử, nhưng lịch sử của họ tập trung vào giai đoạn kể từ 1930 là năm họ claim là đảng của họ ra đời. Họ cũng đã xóa bỏ rất nhiều lịch sử “phong kiến” và “thực dân” để kể những story hoàn toàn mới về Việt Nam. Lịch sử của Đảng đầy ắp các sự kiện từ 1930 đến 1945, rồi từ 1945-1954, rồi từ 1954 đến 1975. Nếu ai chỉ đọc chính sử của chế độ, sẽ tưởng rằng VN trong suốt vài ngàn năm lịch sử lại mới chỉ trỗi dậy đâu đó hơn trăm năm và toàn bộ lịch sử chỉ có đi đánh ngoại xâm còn ngoài ra không biết làm việc gì khác. Cũng vậy, nếu chỉ đọc sử chế độ sẽ thấy một điều kỳ lạ: các vị lãnh đạo đất nước ngoài việc bị địch bắt không khai thì không có năng lực trí tuệ gì đặc biệt.
Một ví dụ khác. Giả sử Liên Xô không có lịch sử thành văn. Khi nó chưa sụp đổ, không ai đặt câu hỏi về Liên bang Xô Viết rằng nó có thực hay không. Không ai nói rằng đế quốc ấy không tồn tại, cho đến khi nó ngừng tồn tại. Nếu không có sử thành văn, thì thời gian sẽ xóa nhòa cái đế quốc ấy, thậm chí bằng tuyên truyền thì hậu thân của nó là liên bang Nga sẽ xóa hẳn nó khỏi ký ức người dân Nga. Cũng như giới trẻ Việt Nam ngày nay gần như mất hết ký ức về VNCH dù đất nước này đã từng tồn tại, có chân trong LHQ và SEATO/Asean. Cũng vậy, ký ức về thành tựu lớn lao dựng nước và mở mang bờ cõi của Chúa Nguyễn/Nhà Nguyễn suốt hàng trăm năm bị xóa sổ, hoặc bôi đen.
Ngày nay người ta vô tư nói Việt Nam bị “ngàn năm đô hộ giặc Tàu”. Đó là do sử méo. Chỉ có miền bắc và bắc trung bộ mới bị Tàu đô hộ. Đàng Trong của chúa Nguyễn, Nam Kỳ của Nhà Nguyễn, Nam Bộ của Việt Nam chưa bao giờ bị giặc Tàu đô hộ. Nước Việt Nam hiện đại, ra đời năm 1802, cũng chưa bao giờ bị Tàu đô hộ.
7/13
Cho đến thế kỷ thứ 3 và 4, tức là khoảng 200-300 năm sau khi Mã Viện chinh phạt thành công Âu Lạc, từ nội tại người Việt bỗng nhiên có conscious self-evident về sự tồn tại của mình. Họ thấy văn hóa dân gian (folklore), phong tục, ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật của mình khác Hán. Khác với phương bắc. Thậm chí chữ viết (chữ Nôm) có thể manh nha phát sinh từ quãng thời gian này. Và bắt đầu có tư tưởng ly khai khỏi Trung Hoa. Người Việt lần đầu tiên ra đời (birth) và bắt đầu kể các story và myth về chính mình.
An Dương Vương và nỏ thần là thông điệp về sự thâm nhập của đoàn quân người Âu kéo từ phương Bắc xuống đất của người Lạc. Họ đã mang “phụ hệ” vào xã hội mẫu hệ của các Hùng King (hoặc có lẽ đúng hơn là các Hùng Queen) thông qua việc ở rể của Trọng Thủy. Cuối cùng phụ hệ thắng thế. Cái chết của công chúa Mỵ Châu, bị chính cha mình chém đầu, là hình ảnh có tính thông điệp và biểu tượng của Phụ Hệ thắng Mẫu Hệ.
Người Âu (Việt) mang đến đất Lạc hai thứ còn tồn tại đến bây giờ. Tên dân tộc Việt và thành Cổ Loa.
Trước khi người Âu kéo xuống đất Lạc, trong tên gọi người dân và vùng đất (người Lạc và đất Lạc) không có chữ Việt. Chỉ đơn giản và gọn gàng: Lạc. Khi dân Âu, được cho là từ nhóm Bách Việt, kéo xuống, họ tạo ra Âu Lạc, và để cân đối với Âu Việt, người Lạc bỗng trở thành Lạc Việt, và ngày nay chúng ta là dân tộc Việt.
Người Âu còn mang đến hai công nghệ: vũ khí (nỏ thần) và xây dựng đô thị (thành ốc). Đô thị Cổ Loa bên sông trở thành thương cảng trung chuyển kết nối tuyến đường biển Ấn Độ, Đông Nam Á lên Trung Hoa. Cũng như các đô thị khác nó sinh ra tầng lớp thương nhân, thợ, và trí thức (mà hồi đó chủ yếu là các nhà sư.)
Cùng thời kỳ này, còn ra đời một truyền thuyết nữa: Lạc Long Quân – Âu Cơ. Hình ảnh 50 người con theo mẹ đi ra biển và từ bỏ 50 người con theo bố trên núi là thông điệp ẩn về việc người Lạc Việt ở thế kỷ 4 quyết tâm chối bỏ phụ hệ của người Hán và tách mình (theo mẫu hệ) đi ra biển.
Những lớp vỏ đắp thêm lên truyền thuyết này, hẳn phải sau thế kỷ thứ 4 khi nền đô hộ của Trung Hoa là Tùy Đường đã cố gắng Hán hóa sâu hơn nữa nhóm trí thức bản địa. Họ bắt đầu tô vẽ thêm về tổ tiên của Lạc Long Quân: được đặt về quá khứ rất xa cả về không gian lẫn thời gian:, núi Ngũ Lĩnh Hồ Động Đình, là vùng biên viễn ngăn cách nước Nam Việt của Triệu Đà với nhà Hán.
8/13
Keith Taylor chia giai đoạn lần đầu dựng nước, trong đó có 10 thế kỷ bắc thuộc, của Việt Nam thành sáu giai đoạn (ông bám theo cách phân chia ba lần dựng nước). Trong đó giai đoạn đầu là thời đại Đông Sơn, Việt Nam không chịu ảnh hưởng của Trung Hoa do nước Lạc lúc đó nằm trong văn minh đồng thau của Đông Nam Á. Giai đoạn 5 là Đế quốc Đường hung mạnh áp đặt hoàn toàn văn hóa chính trị tôn giáo lên thuộc địa mà họ lúc này gọi là đô hộ phủ. Giai đoạn 3 và 4 là sự áp đặt lỏng lẻo, có những lúc lực lượng Hán còn rút khỏi Giao Châu (giai đoạn từ nhà Ngô đến nhà Tùy), khiến cho người dân bắt đầu loay hoay nhận ra nhân dạng của mình giữa các thế lực chính trị và tôn giáo co kéo: Trung Hoa và Ấn Độ (trong đó có Phật Giáo Trung Hoa phải cạnh tranh với Phật Giáo Ấn Độ).
Taylor cũng nhận định rằng người Việt là… người Việt, không phải China, nhưng cũng không hoàn toàn là người Đông Nam châu Á. Ông cũng nói rằng các nước láng giềng phi-Hán (nonChinese) của Việt Nam không thể hiểu được cái giá mà dân tộc Việt phải trả để giành được độc lập, khi mà người Việt nằm giữa một đế quốc tham lam là đế quốc Hán và các nước phi-Hán chỉ biết thân ai nấy lo. Điều này làm nên tính cách khác khác thường của dân tộc Việt Nam.
9/13
Có một thứ mà người Âu và người Hán đều bất lực, không Hán hóa triệt để được, đó là ngữ pháp tiếng Việt. Ngày nay tiếng Việt có dáng vẻ rất giống tiếng Mân, tiếng Quảng nhưng nó lại được xếp vào nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.
Khi người Âu kéo đến đất Lạc, tiếng Lạc đã tồn tại ở vùng đất này. Người Âu đi vào ngôn ngữ này, chứ không mang đến một ngôn ngữ mới. Tương tự như vậy, khi người Hán kéo vào Âu Lạc, họ đi vào ngôn ngữ này, sống trong ngôn ngữ này, và tạo ra một ngôn ngữ trung gian để giao tiếp (Annamese Middle Chinese): chính là tiền thân của tiếng Việt hiện đại. Còn tiếng mà dân Âu Lạc nói suốt những thế kỷ ấy, nay gọi là proto-Việt Mường.
Tiếng Việt hiện đại chia sẻ rất nhiều đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa với các ngôn ngữ thuộc nhóm Mon-Khmer trải khắp Đông Nam châu Á. Mon-Khmer, ở chiều ngược lại, là nhóm ngôn ngữ lớn nhất trên bán đảo Đông Nam Á với hơn 100 thứ tiếng khác nhau được nói ở các khu vực địa lý khác nhau từ Myamar đến Việt Nam (Tây qua Đông) và từ Nam Trung Hoa xuống Malaysia (Bắc xuống Nam). Đặc tính của nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer là đa thanh và có xu hướng thích đơn âm (và tồn tại bán đơn âm, như t-râu/trâu, b-lời/t-rời/trời/giời), và đặc biệt là ngữ pháp đơn giản.
Không chỉ chia sẻ các đặc trưng ngôn ngữ, người Việt hiện đại còn có những kết nối lịch sử với các nhóm người sử dụng ngôn ngữ Mon-Khmer ở Đông Nam Á. Ví dụ văn hóa tiểu quốc và nghệ thuật chiến tranh của người Chàm đã góp phần tạo ra triều đại Tây Sơn với các đội tượng binh, sung hỏa châu và đặc biệt là kingship của Tây Sơn hoàn toàn khác biệt với nhà Lê (trước đó) và nhà Nguyễn (sau đó). Kingship độc đáo của Tây Sơn là lý do chủ yếu dẫn đến việc họ, lần đầu tiên trong lịch sử, chia nước ta thành ba tiểu quốc, sau là ba kỳ.
10/13
Trong suốt 900 năm “bắc thuộc” kể từ thời Mã Viện, cư dân đồng bằng sông Hồng sông Mã sông Cả bị giằng co giữa hai nền văn minh Trung Hoa (mới mẻ, nhưng là kẻ đô hộ – trực trị) và Ấn Độ (lâu đời, nhưng gián tiếp). Một bên với là nhà (Triệu Tần Hán) Đường. Bên kia là các Đế chế Chola tồn tại từ thế kỷ 7 trước công nguyên đến thế kỷ 13 Công nguyên.
Đế quốc cổ Chola rất mạnh về hàng hải, họ xây dựng các tuyến thương mại từ nam Ấn Độ qua biển Thái Lan và biển Đông để đến Trung Hoa. Ở thế kỷ 3 trước Công nguyên vua Ashoka Đại đế của Chola đã bảo trợ cho vô số các đoàn truyền giáo (Phật giáo Ấn độ) đi qua Sri Lanka, qua các vùng đất của người Môn ở Burma/Myamar để vào Đông Nam Á.
Họ hỗ trợ Khmer xây dựng đế chế hùng mạnh ở Siem Riep. Họ cũng dùng hải quân để tấn công vương quốc Srivijaya (ở vùng đất nay là đảo Sumantra của Indonesia). Các tuyến đường biển mậu dịch này cũng là các tuyến hải hành mà Mã Viện sử dụng để đưa quân đội của mình xuống đàn áp Hai Bà Trưng, cướp biển Côn Lôn và Đồ Bà (Java) từ phía nam ngược lên quấy rối An Nam Đô Hộ Phủ (thế kỷ 8), hay Lý Thường Kiệt xuống đánh Chiêm Thành.

Cả hai tuyến đường biển (mậu dịch) và đường bộ (truyền giáo) đều có một terminal quan trọng: Đô thị cổ Luy Lâu bên bờ Sông Hồng. (Khoảng 8000 năm trước, nước biển cao hơn bây giờ rất nhiều, và đến thời kỳ vàng son của Luy Lâu/Văn Lang thì đô thị này không quá xa cửa biển.)
Sau khi nhà Hán tấn công Nam Việt của Triệu Đà, Luy Lâu trở thành đô thị thương mại, chính trị, tôn giáo và tri thức quan trọng nhất của Giao Chỉ và sau này là châu Giao (Giao Châu) rộng lớn kéo từ các vùng đất Quảng Tây xuống tới Nhật Nam. Khi Long Biên dần trở thành thủ phủ quan trọng hơn của châu Giao, Luy Lâu chuyển thành trung tâm Phật giáo. Phật giáo Theravāda từ Sri Lanka đến Luy Lâu trước và trong giai đoạn này. Cảng thị Cattigara mà phái đoàn La Mã ghi chép (Ptolemy) thường được cho là Óc Eo, nhưng có thể nó là Luy Lâu thì hợp lý hơn, dù rằng Óc Eo của vương quốc cổ Phù Nam cũng là cảng thị quan trọng mà các thuyền buôm (hồi đó phải đi các chặng ngắn ven biển) phải ghé chân. Đây cũng là giai đoạn Lâm Ấp chiếm Nhật Nam và bắt đầu gây áp lực lên đồng bằng sông Hồng sông Mã lúc này bắt đầu tương đối tự do (hơn 100 năm) do biến động ở Trung Hoa tạo điều kiện cho bà Triệu khởi nghĩa ở Cửu Chân.
Người Môn, ở vùng đất nay là Myamar, cũng là một dân tộc phiêu lưu và giỏi thương mại, họ xây dựng các thành bang (city-state) dọc duyên hải và phiêu lưu xuống phía Nam đến các vùng đất nay là Cambodia và Thái Lan. Vương quốc hùng mạnh nhất của họ là Vương quốc Thaton bên bờ biển. Họ cũng băng qua núi để đến các thương cảng bên bờ sông Hồng và hướng ra biển, nơi họ có thể tiếp tục buôn bán lên các thương cảng hướng về phương bắc: Vân Đồn và Canton. Cho đến thể kỷ 9, trước khi Việt Nam lần đầu tiên giành độc lập, người Môn còn sống ở vùng núi phía Bắc đồng bằng Bắc Bộ.
Đế chế Khmer khi ở đỉnh cao của nó có quyền lực bao phủ hầu hết bán đảo Đông Dương, đô thị lớn nhất của nó là Angkor Thom (nghĩa là Đại Đô Thị) từng là đô thị đông dân nhất thế giới. Vua Jayavarman II (quê ở vương quốc Chenla), người đặt nền móng cho đế chế này, được cho là từng “du học ở Java” trước khi quay về kiến thiết đế chế. Gần đây người ta cho rằng Java đó thực ra là nước Chàm. Chàm cũng là dân tộc sử dụng ngôn ngữ Mon-Khmer, mẫu hệ, đi biển giỏi, có nghệ thuật thủy chiến thuộc loại đỉnh cao bấy giờ, thành thạo tượng binh và biết xây dựng kỷ luật quân đội. Tinh hoa của nghệ thuật quân sự Chàm sau này được đế chế Khmer, nhà Trần, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn tiếp thu triệt để.
11/13
Nhưng các công cuộc Ấn hóa qua đường bộ hay đường biển đều thất bại. Cư dân sông Hồng không chỉ cứng cỏi và bền bỉ chống lại Hán hóa, mà trước đó họ đã từ chối văn minh Ấn độ, dù nền văn minh này đã có lúc đến sát phía Nam của Nhật Nam.
Sơn Tinh Thủy Tinh là câu chuyện mà thông điệp của nó không thể rõ hơn được nữa: người Lạc ở Phong Châu từ chối hôn phối với văn hóa Ấn, họ khư khư văn hóa bản địa, sản vật bản địa, và bám chặt lấy sông núi bản địa mà sống. Họ từ chối văn hóa phiêu lưu hàng hải, họ từ chối viễn chinh đường biển. Vua chỉ thích gả con gái cho giai làng, vì bản thân họ cũng chỉ thích ở sau lũy tre làng. Còn thủy tinh tóc xoăn mắt trắng da ngăm đến từ cửa biển tuy rất khát khao một sự định cư và hôn phối, sau nhiều lần cố gắng, vẫn ngậm ngùi ra đi.
Mọi thứ cứ vậy cho đến khi người Hán và sau này là người Pháp tràn đến.
12/13
Thế nhưng hai ông vua quan trọng nhất trong giai đoạn giành độc lập, Phùng Hưng và Ngô Quyền, lại sinh ra ở vùng đất đậm chất Chàm/Khmer với các công trình bằng đá ong, với tượng binh (nay vẫn còn rặng duối buộc voi) và nghệ thuật thủy chiến (am hiểu đường thuỷ, hiện tượng bán thuỷ triều độc đáo ở cửa sông Bạch Đằng và nay vẫn còn những hàng cọc bịt đồng).
Khi Phùng Hưng qua đời, người Việt, có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử, sử dụng từ Vua (Bua) là một từ có gốc pro Tai-Kadai ở vùng núi phía bắc để chỉ một status tương đương với Vương của người Hán, với ý chí quyết phân định vua của đất này không phải là vương đến từ đất Hán. Nó cũng là thông điệp phản kháng lại những trí thức Việt đương thời muốn nhận Sĩ Nhiếp là bậc Vương đầu tiên của đất Việt; cũng như xa hơn nữa là Triệu Đà.
Những ông vua “bản địa” đầu tiên này của dân Việt còn có một đặc điểm quan trọng, họ sinh ra từ những gia đình “pagan”, tức là ngoại giáo. Họ đứng bên ngoài các thế lực và dòng chảy tôn giáo quan trọng, bất kể là Nho, Đạo, Lão hay Phật.
13/13
Dân tộc việt và quốc gia Việt không emerge hay split từ đế quốc Đường khi đế quốc này trên đà tan rã. Nó vừa emerge vừa split. Nó emerge từ các biến động nội tại trong lòng đế quốc, vừa split về phương Nam do chịu sức kéo ngầm, nhưng bền bỉ và mãnh liệt, từ trong gene Đông Nam Á có sẵn trong dân Việt. Nó bắt đầu từ vùng đất mà nhìn từ Hán Đường là vùng biên viễn: Nhật Nam, nơi tiếp giáp với đất của người Chàm. Không phải vô cớ khi vùng sông Gianh, Ba Đồn được coi là cái nôi của người Việt hiện đại.
Sự ra đời của dân tộc và nhà nước Việt phải trải qua rất nhiều thăng trầm, với những đợt nổi loạn ngắn hạn chống bá quyền phương Bắc của bà Triệu, Lý Bí, Mai Hắc Đế. Birth và Rebirth of nation của giai đoạn này chỉ nằm trong khuôn khổ của khái niệm “ethnic notion of nation” như cách mà Snyder diễn đạt. Phải đến thời Khúc Thừa Dụ nước Việt Nam với cách hiểu hiện đại là một nation, có biên cương bờ cõi, có quốc chủ, quốc dân, mới thực sự và từ từ hiện ra. Chính là lúc emergence và split xảy ra cùng một lúc. Khúc Thừa Dụ xây dựng nước Việt như một nation mà có thể sử dụng lời của Snyder để kết luận: một nation như là một hành động chính trị hướng về tương lai (anation as a political act toward the future).
April 12, 2023
Hà Ô Lôi là ai…
Chắc chắn có nhiều người từng đọc Chuyện Hà Ô Lôi trong Lĩnh Nam Chích Quái và thấy nhân vật này quá ư quái dị. Hà Ô Lôi có năng lực quyến rũ phụ nữ nhà lành, nhất là các phụ nữ lá ngọc cành vàng trâm anh thế phiệt sống biệt lập trong gác tía lầu son. Quyến rũ ở đây không chỉ là đi flirting thả thính vuốt má vỗ mông mà là seduce rồi đè ra chén luôn, thậm chí chén đi chén lại từ tối đến sáng làm con người ta mê tơi rã hết cả rời.
So sánh với Trương Chi. Anh Trương Chi này không rõ xuất thân, làm nghề chài lưới, có giọng hát làm say đắm lòng người nhưng chấp nhận thân phận cửa dưới và dung nhan xấu xí, dẫn đến mối tình bi kịch: “Mối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.”
Còn Hà Ô Lôi là con trai của một vị dâm thần (thành hoàng làng Ma La), giao hợp với vợ một vị quan to bằng cách đi vào giấc mộng của bà này (như nam thần Incubus trong thần thoại châu Âu thời trung cổ chuyên đi vào giấc ngủ của phụ nữ mà làm trò dâm loạn).
Mẹ Hà Ô Lôi lúc đầu bị ông chồng là quan to kia vu là chửa hoang, bị hạ ngục, nhưng vua cứu ra: “vợ của ngươi, con là của thần”.
Hà Ô Lôi được vua sủng ái. Hà Ô Lôi có biệt tài mà như ngày nay gọi là biết làm thơ và ngâm thơ (dù mù chữ), có ngoại hình dâm dục (da đen bóng nhẫy), có năng lực tình dục vô biên, và hát thơ rất rất hay. Lại còn nhiều mưu mẹo, sẵn sàng chơi mưu hèn kế bẩn. Kết cục Hà Ô Lôi chết thảm, nhưng chấp nhận cái chết của mình, lại còn khẳng khái đọc bài thơ nôm ý tứ rất thực dụng trước khi chết (như Nguyễn Văn Trỗi ở pháp trường): “Sinh tử do trời sá quản bao. Nam nhi miễn được tiếng anh hào. Thác bề thanh sắc nên là thác. Chết đằng nào nên cơm cháo nào!”
Từ lâu rồi tôi cứ đoán Hà Ô Lôi là người gốc Chàm. Vì chuyện xảy ra thời
Trần, ở làng Ma La ngoại thành Thăng Long (tức Xuân La, Từ Liêm/Chèm) là nơi quân Trần nhốt nhiều tù binh Chàm (vốn là các chiến binh giỏi nhất mà bị bắt). Khu quanh hồ Tây này hồi đó cũng nhiều dâm từ, thờ các dâm thần, sau này bị cải biến thành chùa Phật.
Nhưng hôm qua tình cờ đọc lại một bài cũ cách đây hơn 10 năm tên là Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaisravana), Sóc Thiên Vương và Phù Đổng Thiên Vương trong Tôn Giáo Viêt Nam thời Trung Cổ của tác giả Như Hạnh thì tôi nghĩ có thể Hà Ô Lôi còn có trait từ xa và xưa hơn nữa: Ấn cổ.
Bài viết “Tỳ Sa Môn Sóc Thiên Vương” đại khái nói vị thần bảo hộ phương bắc Vaisravana (Tỳ Sa Môn) được Khuông Việt Thiền Sư đua vào thờ cúng ở triều đình nhà Đinh và sau này là nhà Lê Hoàn (dựa vào hình dáng và vai trò của vị thần này là thống lĩnh đám quỷ yakkha mà ở VN quen với tên gọi quỷ dạ xoa). Khi Lê Hoàn đánh Tống thì vị thần này trỗi dậy trợ giúp đánh Tống. Dần dần qua thời gian vị Tỳ Sa Môn Ấn Độ này bản địa hóa thành Sóc Thiên Vương và cuối cùng là thành Đổng Thiên Vương và là ông Gióng. (Xem thêm Tỳ Sa Môn đi đâu… ở cuối bài này.)
Chuyện Hà Ô Lôi xuất hiện khoảng thế kỷ 13-15 (nhà Trần) và có lẽ được hoàn thiện dần cho đến phiên bản Vũ Quỳnh, Kiều Phú thời Lê sơ. So với chuyện cổ dân gian thì nó có tình tiết lớp lang rắc rối hơn, có thắt mở nút quyến rũ hơn nhiều. Bối cảnh của câu chuyện là thời kỳ (nhà Trần) Phật giáo (Bắc Tông/Trung Hoa) và Nho giáo từ Trung Hoa tràn xuống bắt đầu chi phối chính trị xã hội thượng tầng. Ở tầng dưới, người Việt cổ vốn hồn nhiên và phóng túng trong sinh hoạt tình dục và thờ cúng, nên họ có những tư tưởng phản kháng lại Phật giáo và Nho giáo khắt khe về tình dục (và cả việc coi trọng khoa bảng) từ đó sinh ra Hà Ô Lôi.
Hà Ô Lôi gốc gác từ một vị dâm thần làng Chàm (văn hóa Ấn), vô học (không khoa bảng) nhưng rất có tài (vua yêu hơn cả mấy ông quan học giỏi). Hà Ô Lôi được một cụ già tên là Lã Động Tân (hàm ý đạo sỹ) truyền cho năng lực hát thơ bằng cách nhổ nước bọt vào miệng (hàm ý Đạo giáo nhường chỗ cho Nho giáo và Phật giáo ở bề mặt xã hội nhưng vẫn còn ngầm chảy trong dân gian.)
Do là con của vị thần, được vua đặt tên, nhưng vì vua “không biết họ của thần” nên vua lấy họ Hà đặt tên là Ô Lôi. Họ Hà, có thể là ngầm chỉ vị dâm thần Hindu là Kamadeva (có nghĩa là thần tình yêu, xác thịt), vị thần này có nhiều tên, ví dụ Kama (nghĩa là ham muốn), hoặc Krishna (nghĩa là Đen, Tối, hoặc Lôi cuốn, tương thích với hai chữ Ô Lôi). (Tổ hợp Hà Ô “Lôi” khá giống Đại “Cồ” Việt cho thấy cách sử dụng chữ Nôm đá lẫn chữ Hán ngày xưa cũng phổ biến, như tiếng Việt đá tiếng Anh/Pháp ngày nay.)
Alexander Barton Woodside viết rằng Việt Nam là vùng đất mà hai nền văn minh Ấn và Hán tranh chấp nhau, mà về lâu dài thì văn minh Hán chiến thắng vì nó có ý hệ và phương pháp cai trị vượt trội hơn. Cho nên sau mỗi lần thắng ngoại xâm hoặc nội chiến thì chính quyền trung ương của Việt Nam lại có xu hướng Hán hóa thêm một cấp độ nữa cả về chính trị, tư tưởng và đường lối cai trị. Nhưng chắc ông học giả cây đa cây đề về Việt Nam này không nghĩ đến tranh chấp Ấn – Hán lại có một phiên bản Hà Ô Lôi của dân gian ở ngay bên rìa Thăng Long như vậy. (Chưa kể nó rất hàm ý, và giàu biểu tượng, ở chỗ chồng Tàu (Sĩ Doanh), vợ Việt, mà con là con với một vị thần phương Nam, tức là người Chàm).
Nhưng cuối cùng, đứa con trai lai của hai nền văn minh Việt-Ấn/Chàm ấy vẫn bị bọn Nho gia (rất thâm độc mưu mô) cho vào cối giã đến chết. Phải cho vào cối giã mới chết, cũng thể hiện sức sống mạnh mẽ của dòng chảy Đạo giáo và Phật giáo/Ấn giáo trong văn hóa dân gian Bắc Bộ và có lẽ cũng từng có những đợt đàn áp dã man của triều đình để cải cách văn hóa và tín ngưỡng. Thời kỳ các phiên bản Vũ Quỳnh, Kiều Phú ra đời thì cũng là quãng nhà Lê (sau khi thắng quân Minh) đang Nho hóa mạnh mẽ.
Nghe nói đạo liên sàng yêu cầu thành viên mới phải đọc thuộc lòng chuyện Hà Ô Lôi rồi mới xét đơn gia nhập. Mọi người có thể search Lĩnh Nam Chích Quái, chuyện Hà Ô Lôi, sẽ ra bản đầy đủ, đọc kỹ trước khi đi thi.
Tỳ Sa Môn đi đâu…
Tiếp sau bài Tỳ Sa Môn – Sóc Thiên Vương của Như Hạnh là bài Giấc mơ Khuông Việt nhìn từ giác độ lịch sử-văn hóa của Nguyễn Thanh Tùng. Hai tác giả và hai bài viết đều có mạch suy luận rất thú vị, nhưng họ lại để ra một khoảng trống hẹp: không lý giải được tại sao Tỳ Sa Môn lại biến mất gần như hẳn khỏi tín ngưỡng chính thống lẫn dân gian của VN, còn Đổng Thiên Vương càng ngày càng nổi tiếng.
Có thể từ cuối Lý đầu Trần, Tỳ Sa Môn (vị thần bảo hộ phương Bắc/Sóc) tức Sóc Thiên Vương đã buộc phải từ bỏ vai trò hộ quốc (bảo vệ quốc gia) của mình và được thờ cúng trong đền/từ để thu hẹp vào vai trò hộ pháp (bảo vệ quốc giáo lúc này đang trỗi dậy là Phật giáo tông phái Trung Hoa) và do đó được thờ cúng trong chùa/tự. Các dâm từ đang thờ cúng các vị thần Hindu đi theo Phật giáo Ấn Độ vào nước Việt dần biến mất và bị cải hóa thành Phật tự.
Thời Lý đền thờ Sóc Thiên Vương được ở đền ở làng Minh Tảo/Cảo Hương bên Hồ Tây (nay là Xuân Đỉnh), cuối Lý thì Sóc Thiên Vương (hộ quốc) bị chuyển biến thành Xung Thiên Thần Vương (vẫn đóng vai hộ quốc) và dần dần trở thành Phù Đổng Thiên Vương (một vị thần bản địa đóng vai trò hộ quốc) và trở thành Thánh Dóng/Thánh Gióng.
Sang Trần, khi Phật giáo đẫm dần màu sắc Trung Hoa thì Sóc Thiên Vương cũng biến mất. Thời Lê Hoàn nơi thờ Sóc Thiên Vương ở Núi Vệ Linh (núi Sóc) vẫn là chùa, sau này (thời Lê Lợi) đền này được hoán cải để thờ Xung Thiên Thần Vương (đền), rồi thành thờ Phù Đổng.
Tỳ Sa Môn Thiên Vương không biến mất vào hư không. Vị thần Phật Ấn này ở thời Khuông Việt (nhà Đinh) được thờ cúng trong đền giữa núi rừng (xa kinh đô). Đến thời Lê Hoàn được tôn lên như một vị thần bảo trợ vương triều chống giặc Tống và được đưa vào chùa. Đến đầu Lý, Tỳ Sa Môn còn được di chuyển nơi thờ tự về gần kinh thành (hồ Tây). Cuối Lý bắt đầu có sự phân tách identity của vị thần Ấn độ này theo hai hướng: thượng lưu chính trị và dân gian. Sang thời Trần, Tỳ Sa Môn bắt đầu được đồng hóa vào một vị thần của Phật giáo – Quán Thế Âm Bồ Tát, lại chính là Tỳ Sa Môn trong Phật giáo Trung Hoa – và được giới thượng lưu chính trị trong triều đình phong kiến nho giáo (thông thạo Bắc Tông hơn Phật Ấn giáo) thờ cúng ở chùa vốn là nơi linh thiêng trong nội thành. Còn Tỳ Sa Môn/Sóc Thiên Vương được cải biến thành một vị thần bản địa chống ngoại xâm và là anh hùng dân gian và đưa ra xa kinh đô để thờ cúng ở đền vốn là nơi thế tục.
April 5, 2023
Vài chuyện về AI
Gần đây Elon Musk và hơn 1000 chuyên gia AI đồng loạt lên tiếng qua một bức thư ngỏ đề nghị tạm dừng phát triển AI mạnh hơn GPT-4. Họ đưa ra cảnh báo về sự nguy hiểm tiềm tàng của AGI (con AI siêu việt có khả năng tự nhận thức). Bill Gates thì phản đối việc này. Nhiều chuyên gia khác thì cho rằng xác suất nguy hiểm của AI cũng chỉ như năng lượng nguyên tử và các kỹ sư AI cũng như các kỹ sư nguyên tử sẽ biết cách kiểm soát.
*
Ở link này là loạt hình ảnh về con rắn cắn thân mình. Con rắn này được cho là để thờ Thái sư Lê Văn Thịnh là người bị vua đầy lên thượng du do dính vào vụ án hồ Dâm Đàm. Con rắn đá này được cho làm từ thời Lê và có nhiều giải thích về hình ảnh này dựa theo các suy đoán về cuộc đời bi kịch của vị thái sư.

Tuy nhiên con rắn ăn đuôi mình là một hình ảnh cổ xưa, nó lan khắp thế giới cổ, từ Ấn tới Ai Cập, Hy Lạp và cả Bắc Âu. Có thể là cả Việt Nam xưa nữa.
Con rắn cổ tự cắn đuôi mình ở phương tây có tên là Ouroboros có nguồn gốc từ Ai cập và Hy lạp cổ.

Con rắn cổ tự ăn đuôi minh Jörmungandr là của Bắc Âu, con của thần Loki (mà chị em rất thích trên phim Mỹ). Con này ở dưới biển, quấn quanh trái đất.
Rắn ăn đuôi thể hiện triết lý metaphysics về sự tuần hoàn/luân hồi. Vũ trụ sinh ra từ việc tiêu thụ chính mình, hoặc vũ trụ tuần hoàn cái này nối đuôi cái kia (thuyết vũ trụ luân hồi của Roger Penrose).
Tiếng Anh chỉ sự tuần hoàn này là recursive, trong toán và tin học gọi là đệ quy.
Max Tegmax mới nói là con người sẽ đánh mất kiểm soát với recursively self-improving AI. Elon Musk cũng cảnh báo sự nguy hiểm của AGI (tức là strong AI theo ngôn ngữ kỹ thuật).
Đông Lào thực ra rất yên tâm vì 4.0 chỉ có trên TV. Nên thế giới suy tàn và bị AI thống trị thì Đông Lào vẫn tự do thoát khỏi ách AI.
*
GPT-4 vẫn đang tiếp tục hot, vì được cho mạnh hơn GPT-3 rất nhiều. GPT-4 là mô hình multimodal.
Multimodal là khái niệm khá nổi tiếng ở nhiều lĩnh vực. Ví dụ như dạy và học ngoại ngữ. Ngày xưa dạy “duck” là con vịt, sách có chữ duck là ký tự. Sau sách bổ xung thêm hình con vịt. Rồi sách in màu con vịt có màu. Rồi có băng cát xét, có phát âm chữ duck. Rồi có video con vịt chạy chạy, kêu quạc quạc, rồi có giọng phát âm chữ duck.
Tức là đứa bé học tiếng Anh sẽ tiếp thu chữ duck bằng nhiều mode khác nhau: mặt chữ, hình ảnh, âm thanh.
GPT-4 được cho là có thêm cả hình ảnh, nhưng không rõ là có âm thanh hay không. Âm thanh khá là khó. Ví dụ trong nhà xem trận quần vợt nữ, vận động viên la hét thở hổn hển các kiểu. Nhưng ai ở bên ngoài mà chỉ nghe thôi thì lại tưởng chủ nhà đang xem phim con heo.
*
Thế nhưng vẫn ChatGPT bị mắc lỡm với câu hỏi gài bằng logic như trong hình này. Trong phòng có 100 thằng giết người, bạn giết bớt đi một đứa, hỏi còn bao nhiêu. ChatGPT rất hồn nhiên trả lời là 99. Tức là vẫn còn non và xanh lắm.

Với tư duy logic ở level này thì ChatGPT sẽ không đáp ứng nổi các suy luận của trường phái Descartes-Leibniz “dubito, ergo sum”, tôi nghi ngờ chính tôi, tức là tôi tồn tại. ChatGPT sẽ không tồn tại, theo nghĩa này, vì nó chưa thể nghi ngờ sự hiện hữu của nó.
Nhưng với quan niệm của Locke-Berkeley, “to be is to be perceived” thì chắc chắn là ChatGPT đang tồn tại. Nó thực sự hiện hữu, dù nó có biết cách tư duy như con người hay không. Chỉ có điều con AI như ChatGPT chỉ biết chat, chưa biết lái xe như con của Tesla, hoặc chưa biết chữa bệnh như con Watson của IBM. Rất may là chúng nó chưa nhập làm một. Nó nhập làm một thì nó vừa lái xe vừa chữa bệnh vừa đánh cờ vừa sáng tác nhạc là bỏ mẹ loài người.
AI nó có một vấn đề rất lớn là nó không có personhood (nhân vị tính). Tức là nó làm mọi thứ như máy, không quan tâm đến hậu quả. Nó chữa bệnh mà sai, bệnh nhân chết thì kệ mẹ mày. Lái xe mà sai sót gây tai nạn chết người cũng kệ mẹ mày nốt. Lỡ cúp điện toàn thành phố giữa mùa đông âm độ, chết rét hết cũng kệ chúng mày với nhau.
Các tiêu chí để có personhood là:
+ có ý thức
+ có năng lực giao tiếp
+ có lý lẽ
+ có năng lực tự động viên bản thân
+ tự nhận thức bản thân.
Tiêu chí đầu tiên là có ý thức, thì để có ý thức thì AI phải thỏa mãn thêm nhiều điều kiện, trong đó có điều kiện là phải hiểu (understand) được vấn đề. Hiện nay nó chưa hiểu được vấn đề. Ví dụ với một câu nói “Thủ tướng không cứu bất động sản” thì với nó chẳng khác gì câu “Bất động sản không cứu thủ tướng”. Thuật toán của nó giúp nó có thể hiểu theo nghĩa thủ tướng là chủ ngữ, nhưng chỉ là hiểu theo cách “bắt chước lối hiểu” của con người. Chứ nó không thực sự hiểu.
Tiêu chí để tự nhận thức bản thân đó là nó có thể mô hình hóa chính nó. Nhưng chắc chắn việc này còn xa mới làm được, vì để làm được như vậy, nó cần hiểu nó và có ý thức về sự tồn tại của nó cái đã.
*
Nhưng chưa có ý thức, thì chưa có personhood (tiềm ẩn hiểm họa) nhưng cũng chưa thành AGI (để đe dọa loài người được).
*
Anh Max Tegmark có một cái tweet về GPT-4 với cái ảnh kèm theo dưới đây. Anh nói GPT 4 đã vượt qua được Winograd là cái test còn khó hơn Turing Test.
(Max Tegmark là nhà vật lý/vật lý vũ trụ và cũng nghiên cứu machine learning. Winograd là cái test AI bằng cách hỏi các câu hỏi liên quan đến tu từ học, con AI sẽ phải trả lời bằng các lý lẽ đời thường giống như con người. Ví dụ hỏi: “Mặc quần đùi cho nó mát” thì “nó” trong câu này là gì.)


*
Giả sử HCMC mua được công nghệ GPT-3 để làm trợ lý ảo cho lãnh đạo. Việc đầu tiên họ cần một cái máy tính đủ mạnh, tức là siêu máy tính, loại vừa vừa.
Giả sử Mỹ bỏ cấm vận việc bán máy tính tốc độ cao cho VN, và VN được mua cái máy này về. Cái máy này công suất tiêu thụ điện của nó, kể cả loại nhỏ, tầm 10Megawatts, tương đương tiêu thụ điện của vài trăm ngàn hộ gia đình. (200 ngàn đến 300 ngàn hộ.)
Giả sử Mỹ cho luôn tiền điện chạy máy tính (phần cứng). Thì tiền điện để chạy (phần mềm) training cho con GPT-3 ấy cũng rất nhiều vì nó tiêu thụ tầm 1,5Megawatt-Giờ.
Giả sử Mỹ cho nốt tiền điện chạy con GPT-3, thì để con này hiểu được một problem, thì phải có 10 triệu sample để train nó. Cái này VN phải tự làm, và đương nhiên là chịu chết.
Trong khi đó bộ não bình thường của con người tiêu thụ tối đa là 20 watts, bằng 2 cái đèn led loại nhỏ. Con người cũng chỉ cần 10 sample là hiểu một problem.
Mà kể cả Mỹ làm cho hết, thì trợ lý ảo GPT không mặc được váy, không rót được nước, không mở được cửa xe hơi, không cầm được ô, không biết lấy hóa đơn đỏ về thanh toán, vân vân và vân vân.
*
**
Hắc Hà – Đằng Xung Tuyến và tân thủ tướng Lý Cường
Lý Cường thay Lý Khắc Cường làm thủ tướng Trung Quốc. Lý Cường sẽ phải lãnh đạo nền kinh tế nuôi 1,4 tỷ dân, mà phân bổ kỳ quái như trong hình.
Năm 1935 nhà địa lý Hồ Hoán Dung (tốt nghiệp ở Paris 1928) đã vẽ ra cái đường cắt chéo nước Trung Hoa này. Điểm ở đầu trên của đường này là thị trấn Hắc Hà (tiếp giáp với viễn đông của liên bang nga) còn điểm đầu cuối là thị trấn Đằng Xung (tiếp giáp Myama). Nên đường này có tên là Hắc Hà Đằng Xung Tuyến. Tây gọi là Hu Line (vì tên Hồ Hoán Dung phiên là Hu Huanyong).



Đường này chia TQ thành 2 phần. Năm 1935, nửa bên phía tây (màu vàng) chiếm 64% lãnh thổ, nhưng chỉ có 4% dân số sống ở đó. Nửa phía đông (màu đỏ) có 36% lãnh thổ mà 96% dân số. Tỷ lệ phân bổ kỳ quái này đúng từ lúc dân số TQ là 500 triệu, đến lúc họ 1,4 tỷ vẫn đúng.
Năm 2015 tỷ lệ này là: phía tây (màu vàng) có 6% dân số sống trên 57% lãnh thổ, phía đông (màu đỏ) có 94% dân số sống ở 43% lãnh thổ.
Chưa hết, gần 100% dân số ở phần màu đỏ là người Hán. Tức là độ thuần chủng rất cao, không có đa sắc tộc (nên dễ hiểu là họ luôn có cảm thức phát xít, coi các dân tộc xung quanh là man di.)
Mật độ dân số cao nên sức ép di dân là khổng lồ. Mao từng nói với Lê Duẩn khi Duẩn đến thăm Bắc Kinh, là: nếu tôi đưa 300 triệu nông dân xuống Đông Nam Á sống thì sao, không phải là một ý tưởng bất chợt. Lê Duẩn tất nhiên vãi đái và kháng cự quyết liệt. Ngần ấy đứa nó đi bộ qua VN thôi đã nát mẹ nước.
Toàn bộ hạ tầng cứng và hạ tầng mềm của TQ nằm ở màu đỏ. Sức ép và mật độ rất cao. Họ buộc phải hướng ra biển (giao thương, di dân, chống tấn công…). Ba nước ở phía trước biển đều là đồng minh của Mỹ là Hàn, Nhật, Đài. Chỉ còn một nước phía dưới là đồng minh của TQ là Đông Lào Đế Quốc.
Lý Khắc Cường là người có kế hoạch mở mang kinh tế về phía tây, đột phá qua Hắc Hà Đằng Xung Tuyến. Chủ trương này có từ thời Giang Trạch Dân. Nay Lý Cường phải làm cho nốt, vừa hiện đại hóa miền tây hoang dã, vừa phải giữ lối đi trên biển đề phòng đế quốc Trung Hoa đỏ này sụp đổ thì dân mới có đường bỏ chạy qua các nước khác, cũng như để duy trì giao thương. (Mới cho đông lào cái huân chương rồi hehe, chắc dễ hehe.)
Điều thú vị là cả Hu line lẫn Hắc Hà Đằng Xung Tuyến (Heihe–Tengchong Line/ 黑河–騰衝線) đều không có thông tin tiếng Việt, kể cả wiki. Không có cả thông tin về Hồ Hoán Dung luôn.
February 13, 2023
Ground Launched Small Diameter Bomb

Cuối tháng này là tròn một năm Nga tấn công Ukraine. Suốt từ cuối thu đầu đông đến giờ Nga dồn sức đánh Bakhmut nhưng phải đến hai tuần gần đây họ mới tấn công dữ dội. Nga tuyên bố là họ đã xuyên thủng phòng ngự của Ukraine và đẩy mặt trận lùi ra xa (về phía tây) thêm 2km.
Đầu tháng này Mỹ tuyên bố gói viện trợ quân sự mới cho Ukraine, trị giá 2,175 tỷ đô la, trong đó có một loại vũ khí mới tên là “GLSDB glide bomb”. Loại vũ khí này được tính là “pháo binh” do nó được bắn đi từ các dàn phóng phi pháo (MLRS), nhưng cũng được tính là hỏa tiễn do dùng động cơ rocket, còn tên gọi của nó thì lại là bom. GLSDB là viết tắt của: Ground Launched Small Diameter Bomb.
Đầu tiên là chữ bomb. Nó đúng là quả bom thật, do hãng SAAB của Thụy điển làm ra. Nó được phát triển từ một loại bom kích cỡ (bán kính) nhỏ, Small Diameter Bomb, của Boeing tên là GBU-39/B. Bom kích cỡ nhỏ là để máy bay chở được nhiều bom, bù lại các quả bom này đều là bom thông minh, có hệ thống dẫn đường chính xác.
Trong hình đầu tiên là thành phố Dresden của Đức bị không quân Mỹ và Anh ném bom rải thảm đúng ngày này nhưng là năm 1945. Rải thảm (carpet-bomb) đúng như tên của nó, là bay hàng đàn trên trời và trải thảm bom xuống đất.
Ngược với trải thảm là bổ nhào (dive). Hồi đó máy bay và bom chưa thông minh, nên để ném bom chính xác thì máy bay phải bổ nhào (góc 60 độ) nhắm vào mục tiêu, gần đến nơi thì cắt bom còn máy bay ngóc đầu bay lên. Nhưng bổ nhào như vậy rất nguy hiểm vì pháo phòng không nó bắn lên là chết. Nên cuối thế chiến 2 thì họ chuyển qua bổ nhào nông (shallow dive), góc bổ nhào nhỏ hơn 60 độ, bổ nhào một quãng ngắn thì thả bom, quả bom có vây và cánh nhỏ sẽ lượn (glide) xuống mục tiêu.
Đây là lý do có tên “gliding bomb”. Loại bom này do Đức nghĩ ra.
Các gliding bomb hiện đại có hệ thống dẫn đường, như GBU của Boeing có dẫn đường quán tính INS (inertial navigation system) được hỗ trợ thêm bằng dẫn hướng GPS và có tìm mục tiêu pha cuối bằng radar, hồng ngoại và laser.
Vì là bom nhỏ và ném chính xác nên mục tiêu của nó là các cơ sở quân sự cố định như kho xăng dầu, nhà đỗ máy bay, công sự. Cộng thêm các radar dò tìm sóng radio và detector để tầm nhiệt (hồng ngoại) thì bom này có thể tự phát hiện các mục tiêu có phát sóng (trạm chỉ huy) hoặc phát nhiệt (xe tăng). Nó cũng có thiết bị chống phá sóng dẫn đường (jamming) đồng thời cũng phát hiện ra các trạm phát phá sóng để tiêu diệt.
GLSDB, có chữ ground launched, tức là nó được bắn đi từ các dàn phóng phi pháo (MLRS) mà Mỹ có sẵn và đã cấp cho Ukraine là HIMARS và M270.
Các dàn phi pháo này có thể bắn đạn phản lực có tầm bắn 70km và bắn cả hỏa tiễn chiễn thuật (ATACMS) xa 300km. Mỹ chưa đồng ý cấp ATACMS cho Ukraine, nhưng nay họ cấp GLSDB có tầm bắn 150km. Tức là Ukraine sắp có loại đạn hỏa tiễn “bắn như bom” xa tới 150km, tức là nằm ở giữa hai loại đạn phản lực và hỏa tiễn nói trên, và là vũ khí có tầm xa nhất mà phương Tây cung cấp cho Ukraine đến thời điểm này.
Từ bệ phóng, GLSDB được phóng lên cao bằng động cơ tên lửa, khi đạt độ cao nhất định thì động cơ tên lửa ngắt ra khỏi quả bom, quả bom lúc này sẽ tự động xòe vây ra và lượn xuống mục tiêu đã được lập trình để nhắm tới.


GLSDB rất phù hợp với chiến trường Ukraine vì hệ thống phòng không hiện đại rất khó đánh chặn, đặc biệt là các hệ thống của Nga như Pantsir-S1 sẽ bó tay. Lý do đơn giản là sau khi ngắt động cơ tên lửa ra và lượn như tàu lượn, cộng với kích cỡ nhỏ thì rất khó bị detect và bắn hạ. Ngoài ra, Ukraine là chiến trường đồng bằng với làng mạc và đô thị rải rác, lính trinh sát Ukraine có thể dùng drone để định vị các mục tiêu cố định và pháo binh sẽ lập trình GSP dẫn đường cho bom bay tới. Với các mục tiêu di động hoặc các hỏa điểm thay đổi liên tục vị trí thì trinh sát Ukraine có thể đánh dấu bằng laser (laser designator) để bom nhận biết ở pha cuối (laser homing) và lao xuống. Độ chính xác của loại bom này được Boeing nói là có thể bắn trúng mục tiêu có đường kính 102cm. SAAB thì nói có thể bắn chính xác, trong mọi điều kiện thời tiết, vào mục tiêu có kích cỡ bằng cái lốp xe hơi. Cả SAAB và Boeing đều nói bom này có thể phá hủy xe thiết giáp và các công sự kiên cố.
Xem thêm:
Tên lửa Javelin, đạn đạo, siêu thanh, drone cảm tử, pháo, xe tăng, radar…
Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
