Nguyễn Phương Văn's Blog, page 6
November 17, 2020
Chống tả khuynh
Trí thức, văn nghệ sĩ và báo chí thiên tả có những tài năng không thể phủ nhận được.
1. Họ có siêu năng lực trong việc tô vẽ các lý tưởng cao đẹp, hầu hết là các lý tưởng ở tầm vóc nhân loại, toàn cầu.
2. Họ có biệt tài trong việc khơi gợi ở đám đông vô danh các tình cảm cao quý, hầu hết các tình cảm này gắn liền với các từ kiểu như nồng nàn, nhiệt huyết, đấu tranh, bình quyền, đoàn kết, sức mạnh…
3. Họ có năng khiếu viết lách và diễn thuyết; văn hay chữ tốt và lý luận cao cường, dù là đổi trắng thay đen hay tiêu chuẩn kép, họ đều diễn đạt trơn tru đi vào lòng người.
Cách duy nhất để chống lại luận điệu của các nhà lý luận thiên tả, không phải là bịt tai, mà ngược lại: nghe họ cho kỹ; và luôn tâm niệm rằng hai chân mình đang đứng trên mặt đất và mình phải lao động hằng ngày để có cơm ăn áo mặc.
Thói giả nhân giả nghĩa (hypocrisy, nhất là liberal hypocripsy) kiểu gì cũng có lỗ hổng trong lập luận hoặc tự mâu thuẫn lời nói việc làm, chắc chắn sẽ có lúc tòi ra.
Ví dụ: hô hào chống phát thải carbon nhưng lại đi private jet; hô hào người dân sử dụng phương tiện giao thông công cộng nhưng bản thân toàn đi bằng xe hơi (thậm chí xe hơi được mua và vận hành bằng tiền ngân sách), hô hào chống phá rừng nhưng nhà toàn đồ gỗ từ rừng nguyên sinh…
Mỹ cũng có từ limousine liberal (https://en.wikipedia.org/wiki/Limousine_liberal)
November 8, 2020
Trông người lại nghĩ đến xưa
Cuộc bầu cử lần này ở Mỹ (có thể giúp) chính quyền Hà Nội, lần đầu tiên kể từ 1954, có thể hiểu và cảm thông với chính quyền Sài Gòn (nhất là thời ông Thiệu) ở chỗ: việc chính sự đảo lộn ở Mỹ có thể ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại, và cả đối nội của Việt Nam.
Cũng như lần đầu tiên kể từ 1945, Hà Nội cảm nhận đươc việc nguội đi của đường lối đối ngoại của một cường quốc tít ở xa, lại có thể làm nóng lên hơi thở của con quái vật đang phả vào biển đảo của mình. Bài học mất Hoàng Sa của chính quyền Sài Gòn, không phải là bài học cho chính quyền ấy, bởi họ không kịp tồn tại đủ lâu để học. Ai tiếp quản họ thì phải học thôi. Nhanh lên kẻo muộn.
October 10, 2020
Nobel vật lý cho Roger Penrose
Bài này đã đăng trên Zing News ở đây với tên Nobel muộn cho người chỉ ra “Chúa không thích điểm kỳ dị khỏa thân.
“Định lý của Penrose đã chứng minh được bất cứ ngôi sao nào bị suy sụp vào trong sẽ phải tạo thành một điểm kỳ dị; lập luận ngược lại sẽ chứng minh được bất cứ vũ trụ đang giãn nở nào mà giống như mô hình Friedmann cũng phải bắt đầu từ một điểm kỳ dị.”
Stephen Hawking
Giải Nobel vật lý 2020, tuy hơi muộn màng, đã có tên giáo sư Roger Penrose, một giáo sư vật lý gạo cội năm nay bước vào tuổi chín mươi. Sách và các bài giảng của của ông về thuyết tương đối, thuyết lượng tử, mô hình vũ trụ, trí thông minh nhân tạo, bản chất vật lý của trí óc con người… đều cuốn hút, gợi mở, nhất là những phần kiến thức nền phải viện dẫn đến toán học.
Điểm kỳ dị (singularity), mà Hawking nhắc đến phía trên, là một từ có gốc latin “singularitatem” có nghĩa là “tồn tại một mình”, “có tính chất khác mọi thứ khác”. Cuối thế kỷ 19, từ này được sử dụng trong toán học với ý nghĩa “là ở điểm mà ở đó giá trị của hàm số nhảy vọt lên giá trị vô cực. Nôm na giống như bị chia cho zero vậy. Đến năm 1965, singularity được du nhập vào vật lý thiên văn. Đây là năm Roger Penrose công bố bài nghiên cứu về lỗ đen, và đến năm nay nó mang lại cho ông giải Nobel vật lý.
*
Sir Roger Penrose có một cuốn sách tên là The Emperor’ New Mind (Bộ tâm trí mới của hoàng đế), viết về “vật lý của tâm trí và nhận thức”, trong đó ông bàn luận nhiều đến trí thông minh nhân tạo và hoạt động của bộ não con người. Trong cuốn sách này, Penrose chia các lý thuyết vật lý thành ba cấp: superb (siêu đẳng), useful (hữu dụng) và tentative (chưa chắc chắn).
Có rất ít thuyết được Penrose xếp vào hạng superb, đó là thuyết tương đối hẹp, thuyết tương đối tổng quát (đều của Einstein) và thuyết điện động học lượng tử (do Dirac xây dựng trên các phát kiến của Heisenberg, Pauli, Jordan).
Thuyết mô hình chuẩn được Penrose xếp vào hạng mục userful.
Còn phần nhiều các lý thuyết khác, như thuyết vũ trụ lạm phát, Penrose xếp vào tentative.
*
Suốt hơn ba chục năm qua, Penrose kiên cường “chống” thuyết dây và thuyết vũ trụ lạm phát. Các lập luận phản biện string theory và inflation theory của Penrose rất hay, tuy hơi đau não.
Thời gian đầu, Penrose hơi đơn độc trong cuộc chiến đấu này, gần đây ông có thêm Neil Turok và Paul Steinhardt gia nhập hàng ngũ của mình trong cuộc chiến chống lại thuyết vũ trụ lạm phát. Gân đây có thêm một lý thuyết cạnh tranh với thuyết dây, tên là loop quantum gravity (hấp dẫn lượng tử vòng lặp); thuyết này đặt trên nền tảng là spin network – một phát kiến của Penrose.
[image error]
Ví dụ đơn giản của spin network trong loop quantum gravity.
Bản thân Penrose cũng đề xuất một thuyết cạnh tranh với thuyết dây, đó là twistor theory.
Thuyết Twistor là một hướng đi gần như chỉ có mình Sir Roger Penrose đơn thương độc mã. Dẫu vậy, ông rất tự tin twistor của mình sẽ chiến thắng và thay thế thuyết dây. Trong cuốn sách ông viết về vật lý hiện đại có tên Fashion, Faith and Fantasy, Sir Roger Penrose kể lại lần ông gặp Edward Witten, nhà vật lý trụ cột của thuyết dây. Ông rất ngại vì mình có nhiều ý kiến chống đối thuyết dây. Ngờ đâu Witten đánh giá cao các ý kiến chỉ trích ấy, ở khía cạnh khoa học. Witten còn xây dựng mô hình kết hợp một số ý tưởng của string theory với một số ý tưởng của twistor theory. Và Sir Roger có vẻ hài lòng với việc này, nhất là mô hình của Witten lần này chỉ hoạt động trong không-thời-gian 4 chiều kinh điển. (Penrose luôn phê phán việc thuyết dây sử dụng không-thời-gian với số chiều nhiều hơn 4.)
*
Roger Penrose sinh năm 1931 trong một gia đình khá đặc biệt. Anh trai ông sau này là giáo sư toán, còn em trai ông là tài năng cờ vua hàng đầu nước Anh với nhiều lần vô địch cờ vua. Mẹ ông là bác sĩ, bố ông là nhà di truyền học. Thủa nhỏ ông sống chủ yếu ở Canada do bố mẹ ông nhận công việc ở đây. Ông học không được giỏi lắm trong mắt các thầy giáo, bù lại hai bố con ông cùng nhau nghiên cứu hình học như một thú vui riêng. Năm 1945, sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, bố ông quay về Anh nhận chức giáo sư di truyền học con người tại một đại học ở London. Roger Penrose, theo chân anh trai mình đi học ngành toán. Suốt thời gian đại học, sau đại học và tiến sỹ ông chỉ tập trung làm toán. Luận văn tiến sỹ của ông thuộc chuyên ngành đại số và hình học.
Thế nhưng cơ duyên đã kéo Penrose đến với vật lý. Năm học đầu tiên của bậc sau đại học, ông chọn học ba khóa học mà sau này tạo ra niềm cảm hứng của ông với vật lý và trí thông minh nhân tạo. Một khóa là thuyết tương đối, người dạy là Hermann Bondi, một khóa là vật lý lượng tử với người dạy là nhà vật lý vĩ đại Paul Dirac. Còn khóa học thứ ba ông học về toán logic, ở đó ông biết đến Turing machine và định lý bất toàn của Gödel.
*
Trong quãng thời gian từ năm 1958 khi bắt đầu đi làm với vai trò trợ giảng môn toán tới năm 1964 khi được bổ nhiệm làm giáo sư toán ở Birkbeck College (London), Penrose viết một loạt bài nghiên cứu về cosmology (vũ trụ học) và toán học, trong đó ông dùng lý thuyết hình học Riemann để giải thích các công cụ toán học sử dụng trong thuyết tương đối.
Năm 1965, dùng topology, Penrose chứng minh được một định lý quan trọng, chính là định lý mang đến cho ông giải Nobel vật lý 2020: trong các điều kiện cụ thể, sụp đổ hấp dẫn xảy ra, ắt phải có một điểm kỳ dị (singularity); về cơ bản trong, những điều kiện này không-thời-gian không thể tiếp tục tồn tại và thuyết tương đối tổng quát cổ điển bị phá vỡ. Từ đây, Penrose tìm kiếm một lý thuyết thống nhất: kết hợp thuyết tương đối và lý thuyết lượng tử vì lúc này ở điểm kỳ dị các hiệu ứng lượng tử trở nên thống trị.
Đột phá tiếp theo của Penrose là việc ông đưa ra thuyết twistor, sử dụng cả đại số và hình học, để cố gắng hợp nhất thuyết tương đối và thuyết lượng tử.
*
Để giải thích tính chất bảo giác của hình học hyperbol, là hình học đóng góp vào nền tảng của thuyết tương đối, Penrose, thường dùng các hình in từ bản khắc gỗ của M.C. Escher.
[image error]Circle Limit của M.C. Escher mô tả không gian và sự vô hạn trên một hình tròn phẳng và hữu hạn: các con dơi trên hình đều bằng nhau về kích thước, về thị giác, các con dơi càng ở xa nhìn càng bé, xa tít ngoài cùng chính là vô tận.
Các hình vẽ của Escher gợi cảm hứng để Penrose sáng tạo ra nhiều ý tưởng thú vị. Hình ảnh cầu thang Penrose, hay tam giác Penrose, quả thực là những hình ảnh “kỳ ảo” được vẽ ra từ tư duy toán học.
[image error]Cầu thang Penrose: vòng lặp (loop) vô tận và bất khả của một cái cầu thang vừa leo lên lại vừa leo xuống.
[image error]Tam giác Penrose: một vật thể bất khả, trên thực tế chỉ nối được hai góc với nhau, góc thứ ba là bất khả.
Roger Penrose còn phát minh ra một công cụ rất hữu ích dùng trong thuyết tương đối tổng quát. Công cụ này có tên gọi giản đồ Penrose, dùng để thể hiện tính chất bảo giác vô tận (conformal infinity) của không-thời-gian lên mặt phẳng hai chiều.
[image error]Giản đồ Penrose

*
Giáo sư Roger Penrose có khá nhiều fan thầm lặng ở Việt Nam. Nhưng có những fan không thầm lặng lắm. Các cơ sở của đại học FPT sử dụng Penrose tiling (phương pháp lát gạch bất tuần hoàn Penrose) để lát sàn nhà. Công việc “lát sàn nhà” này mới chỉ nghĩ thôi, đã thấy khó khăn đến chóng mặt như thế nào.
[image error]Penrose tiling
[image error]
[image error]
Không chỉ lát sàn nhé! Kiến trúc toàn bộ của campus Cần Thơ được công ty thiết kế Huni của Pháp thiết kế dựa trên ý tưởng của Penrose tiling. Toàn bộ hệ thống lam che nắng các tòa nhà và hình dạng tòa nhà nữa. Mỗi tội đôi khi khổ trong việc ngăn phòng và bố trí đồ đạc với các góc nhà 72 và 108 độ -;)
Xuân Phong – Đại học FPT
*
Trong vô số những sáng tạo của Penrose, công trình mà ông công bố năm 1965 mang lại cho ông giải Nobel vật lý 2020.
Roger Penrose chứng minh được rằng khi một ngôi sao có khối lượng khổng lồ bị đổ sụp vào trong do lực hấp dẫn của chính nó, toàn bộ vật chất của ngôi sao sẽ bị nhốt trong một vùng mà kích thước bề mặt của vùng này sẽ bị co về bằng không. Vì bề mặt có kích thước bằng không nên thể tích cũng bằng không.Toàn bộ vật chất của ngôi sao bị nén vào một thể tích bằng không, thì mật độ vật chất và độ cong của không-thời gian trở nên vô hạn và vô cực. Đây chính là cái được các nhà vật lý gọi là một điểm kỳ dị (singularity). Điểm kỳ dị này được chứa ở bên trong một vùng không gian kỳ ảo mà ngày nay quen thuộc với tên gọi lỗ đen. (Tên gọi lỗ đen/black hole) do nhà vật lý người Mỹ John Wheeler đặt năm 1969.)
Công trình của Penrose được Stephen Hawkig nối tiếp, và năm 1968 định lý điểm kỳ dị Penrose-Hawking ra đời.
*
Giả thuyết Kiểm duyệt vũ trụ
Penrose phát triển giả thuyết có tên gọi “kiểm duyệt của vũ trụ”. Ở phương tây thời đó, các đoạn bị kiểm duyệt bỏ trên các bài báo in sẽ bị bôi đen, bạn đọc biết đó là đoạn bị kiểm duyệt nhưng chịu không biết nội dung bị kiểm duyệt là gì. Các chỗ bị kiểm duyệt bị bôi đen như vậy thường là bộ phận nhạy cảm trên các hình ảnh cơ thể con người. Giả thuyết của Penrose được Hawking tóm tắt một cách hài hước: “Chúa không thích điểm kỳ dị khỏa thân.” Tức là điểm kỳ dị hình thành do suy sụp vì lực hấp dẫn chỉ xuất hiện bên trong những nơi như lỗ đen, là nơi mà các điểm kì dị bị giấu kín khỏi sự quan sát của những ai nằm bên ngoài đường chân trời sự kiện.”
Mô hình vũ trụ học chu kỳ bảo giác (conformal cyclic cosmology)
Một lỗ đen có khối lượng gấp vài lần khối lượng mặt trời sẽ có nhiệt độ khoảng 1 phần 10 triệu độ trên độ không tuyệt đối (tức là 0 độ Kelvin). Nhiệt độ bức xạ nền của vũ trụ khoảng 2,7 độ Kelvin, cao hơn nhiệt độ lỗ đen khá nhiều. Vậy nên lỗ đen sẽ hút vào nhiều hơn bức xạ ra. Nhưng do vũ trụ giãn nở nên nhiệt độ nền của vũ trụ sẽ giảm dần xuống, đến một lúc nào đó sự bay hơi của lỗ đen sẽ xảy ra. Sẽ cần một khoảng thời gian rất dài, hàng rất nhiều triệu triệu năm (1064 năm hoặc lâu hơn nữa), thì lỗ đen mới bay hơi hoàn toàn.
Roger Penrose gọi quãng thời gian này là “kỷ nguyên nhàm chán”. Từ đây Penrose đề xuất một giả thuyết khá là điên rồ. Mỗi lần nói về thuyết này ông phải rào trước đón sau, rằng các nhà vật lý khác khi nghe đến thuyết này đều bảo rằng ông Penrose này già và lẩm cẩm quá rồi. Thuyết của Penrose có tên gọi “Mô hình vũ trụ học chu kỳ bảo giác (conformal cyclic cosmology), viết tắt là CCC. Trong sách ông còn tự diễu mình khi thay chữ cyclic bằng chữ crazy. Theo đó vũ trụ có cuộc sống luân hồi. Vũ trụ như hiện nay sẽ trưởng thành và đến một lúc nào đó toàn bộ vật vật chất hiện đang rải rác khắp vũ trụ sẽ co cụm vào các lỗ đen. Lúc này entropy vũ trụ tăng đến cực đại và được chứa trong các lỗ đen (lỗ đen là nơi có entropy cực kỳ cao). Sau “kỷ nguyên dài nhàm chán”, các lỗ đen lần lượt bay hơi hết. Lúc đó vũ trụ chỉ toàn hạt ánh sáng, nó kết thúc để rồi tái sinh qua một điểm kỳ dị của Big Bang tiếp theo. Rồi cứ thế lặp lại. Mỗi một cuộc đời vũ trụ như vậy, Penrose gọi là một aeon.Ở thời khắc cuối của aeon trước, và thời khắc khai sinh của aeon tiếp sau (Big Bang), vũ trụ chỉ có photon, không có vật chất, tức không có khối lượng, không có thời gian, và không có khoảng cách của không gian. Bên cạnh công cụ hình học Minkowski, mô hình CCC của Penrose sử dụng các giả thuyết và công cụ hình học phức tạp do chính ông đề xuất (Weyl curvature hypothesis)
[image error] Penrose Tiling
September 5, 2020
Chống cát cứ
Bản chất của bất cứ nhà nước chuyên chế nào cũng là tập quyền. Tức là tập trung toàn bộ quyền lực vào người đứng đầu nhà nước ấy, xưa là hoàng đế, sau này là đảng trưởng, quốc trưởng. Đồng thời quyền lực nhà nước chỉ chuyển giao và kế thừa trong giới “tinh hoa chính trị” cầm quyền, ngày xưa là “hoàng gia”, nay là nhóm nhỏ các đảng viên chóp bu của đảng cầm quyền.
Ở mức độ nào đó, chế độ tập quyền chấp nhận tản quyền. Tức là một phần nhỏ quyền lực được phân bổ xuống triều đình (nay là chính phủ) và các địa phương.
Nhưng khi quyền lực ở các bộ ban ngành, quân đội, công an hoặc các địa phương trở nên quá mạnh, hình thành “cát cứ”, thì bản năng sinh tồn của chế độ sẽ trỗi dậy và “ông vua” sẽ tuyên bố quyền lãnh đạo “trực tiếp và toàn diện” của mình trước khi mở chiến dịch “chống cát cứ” từ địa phương tới trung ương. Chiến dịch chống cát cứ xưa nay chỉ có một cách: làm nhục các viên quan dám lấn át “hoàng gia”, bắt các quan đại thần về “xưởng vệ”, tịch thu tài sản.
*
Chu Nguyên Chương xuất thân nghèo khó, trưởng thành từ khố rách áo ôm, vào chùa đi khất thực, rồi theo quân khởi nghĩa, cuối cùng lật đổ nhà Nguyên mà làm vua, sáng lập ra nhà Minh ở bên Trung Quốc.
Để xây dựng nền chính trị chuyên chế nhà Minh, Chu Nguyên Chương phát minh ra “Đình Trượng” và “Cẩm Y Vệ”.
“Đình trượng” là hình phạt: lột trần và đánh ngay trước triều đình các quan đại thần, thường có xuất thân quý tộc hoặc trí thức. Kiểu: thế có đau không, nhục không.
“Cẩm y vệ”, nghĩa đen là đội quân cận vệ mặc áo gấm, là thân binh, tức là trực thuộc quyền điều khiển của nhà vua. Nhưng dù có chữ “vệ”, cơ quan này không bảo vệ mà là mật vụ đi dò la tin tức các quan đại thần và nghe ngóng dư luận thủ đô. Các viên mật vụ này được gọi là “kiểm hiệu”. Đứng đầu được gọi là “chỉ huy sứ”. Cơ quan Cẩm y vệ ngoài bộ phận hành chính, còn có bộ phận đặc biệt gọi là Trấn Phủ Ty, bộ phận này làm nhiệm vụ giam giữ, tra tấn, xét hỏi.
Cẩm y vệ được quyền report thẳng cho hoàng đế và nhận lệnh trực tiếp từ nhà độc tài này. Nó cũng có công đường (đơn vị xét xử) riêng nằm ngay trong nhà tù, gọi là “Chiếu Ngục”. Như vậy Cẩm y vệ xét xử mà không cần đến Bộ Hình bên triều đình. Và do Chu Nguyên Chương có xu hướng xét xử vượt ra ngoài luật nên Cẩm y vệ về cơ bản là nằm ngoài tư pháp.
Trước nhà Minh, Trung Hoa có ba cơ quan (ty) phụ trách tư pháp, gọi là “tam pháp ty”, bao gồm: Hình Bộ, Đô Sát Viện, Đại Lý Tư. Hình bộ thì lo việc bắt bớ xử án hình sự. Đô sát viện làm công tác thanh tra chính phủ, giám sát kỷ luật quan chức. Đại lý tư là cơ quan xét xử các án oan, ai kêu oan thì đến đây.
Việc lập Cẩm y vệ về thực chất là xóa bỏ tư pháp, tư pháp tồn tại chỉ để làm vì. Vua bận nhiều việc, Cẩm y vệ tự mình làm hết. Oan sai rất nhiều, vì bọn này toàn bắt bớ theo ác ý của mình rồi dùng nhục hình để ép cung. Đưa người ta vào chỗ tan tành, sau mới đưa qua Tam pháp ty để kết án cho hợp thức hóa. Gần đây chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của Tập cũng dùng cẩm y vệ của đảng là ủy ban kiểm tra để bắt bớ (song quy) quan chức, hãm vào chỗ chết rồi mới đưa qua công an và tòa xét xử.
Đến thời của Chu Đệ (hoàng đế Vĩnh Lạc), ông này lại cải tiến Cẩm y vệ lên một tầm mới. Ông vua này đặc biệt tin cậy các quan thái giám (Trịnh Hòa là một ví dụ) nên cử thái giám đi nắm các vị trí quan trọng. Một mặt ông ta củng cố chế độ tra tấn và giam giữ ở Trấn phủ ty; mặt khác rút các cán bộ giỏi nhất (và cũng nhẫn tâm nhất, hắc ám nhất) của Cẩm y vệ ra để thành lập một cơ quan mới nằm trong Cẩm y vệ: gọi là “Xưởng vệ”. Cơ quan này do một thái giám đứng đầu, chức thấp hơn chỉ huy sứ của Cẩm y vệ, nhưng quyền lực lại lớn hơn nhiều. Xưởng vệ có chức năng dò la tin tức và bắt bớ. Họ dò la và bắt giam cả quan chức trong triều lẫn dân thường. Dần dà họ mở rộng xuống quan chức địa phương cũng như thăm dò dư luận xã hội, kể cả ghi chép báo cáo giá cả các mặt hàng thiết yếu của thị trường. Sớ của Xưởng vệ truyền về, kể cả nửa đêm mới tới cung cấm, cũng được đưa tới ngay tay nhà vua. Vua ở cung cấm mà biết hết tình hình thiên hạ là nhờ bộ máy tỏa khắp nơi của Xưởng vệ. Chu Đệ, tức Minh Thành Tổ, tức Hoàng đế Vĩnh Lạc chính là người xâm lược Việt Nam, dẫn đến khởi nghĩa của thủ lĩnh Mường Lê Lợi. Nguyễn Trãi gọi giặc Minh là “cuồng Minh” thừa cơ gây họa.
Tức là, ngay cả thời phong kiến, quyền lực của vua cực lớn, bao trùm cả thiên hạ, nhưng vì đi lên từ khởi nghĩa, từ cướp chính quyền[1], nên nỗi lo sợ cát cứ, mất tập quyền vẫn dẫn họ đến một tâm lý quái đản về “siêu quyền lực”. Họ thành lập một công cụ đặc biệt hắc ám là Cẩm y vệ, qua đó nắm bắt kìm kẹp sai bảo tất tần tật các quan chức trong triều đình và dưới địa phương. Ông hoàng đế chỉ trở thành chuyên chế (hoàng đế chuyên chế) khi ông ta nắm trong tay mình một cơ quan mật vụ hoàng gia có quyền lực vượt qua tư pháp. Hay nói ngược lại, khi một hoàng đế, một quốc trưởng … nắm trong tay một cơ quan như Cẩm Y Vệ, Gestapo, Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD, tiền thân của KGB), … đều có “siêu quyền lực” của một nhà chuyên chế.
[1] Trước nhà Minh là nhà Nguyên. Nhà Nguyên bản chất là đế chế Mông Cổ. Đây là đế chế cực lớn và cực kỳ cởi mở. Nhờ đế chế này mà văn minh phương Đông và văn minh phương Tây gặp nhau. Đế chế Mông Cổ rất rộng lớn, bên phía Tây bắt đầu từ vịnh Ba Tư của vùng biển Arap, với dải Lưỡng Hà nổi tiếng, băng ngang bề mặt trái đất đến bên phía Đông là Triều tiên và biển Nhật Bản. Tuyến đường bộ được bảo đảm an ninh rất cao, cùng hệ thống bưu trạm dùng ngựa rất tốt, nên lưu thông từ Đông qua Tây rất thuận tiện cho các nhà buôn, khách du lịch, bưu chính và quân đội.
[image error]Ta có thể thấy Con đường tơ lụa (Silk Road) nổi tiếng hiện rõ trên bản đồ. Nó là tuyến đường bộ băng ngang đế quốc Mông Cổ. Điểm bắt đầu là từ thành phố Tyre trên bờ biển Địa Trung Hải và kết thúc ở thành phố Hàng Châu trên biển Hoa Đông. Tyre là thành phố rất cổ, xưa thuộc nước Phoencia, nổi tiếng nhờ trận hãm thành của Alexander Đại Đế. Ngày nay Tyre là thành phố thuộc nước Liban. Marco Polo đã đi một mạch từ Venice bên bờ Tây sang Hàng Châu. Đây chính là thời kỳ Pax Mongolica mà thế giới được hưởng lợi nhờ trao đổi thương mại, văn hóa giữa Đông và Tây vô cùng nhộn nhịp.
[image error]Khi đế quốc Mông Cổ hình thành, phát triển lên đỉnh cao, hòa bình và thịnh vượng, quân đội Mông Cổ kiểm soát các tuyến đường giống như hệ thống bưu chính hiện nay mà họ gọi là Yam. Họ đặt các trạm bưu chính cách nhau vài chục km, mỗi trạm có ngựa, thức ăn và chỗ nghỉ. Sao cho các kỵ sĩ truyền tin chạy liên tục và tiếp sức nhau có thể đưa thư với tốc độ 200-300km/ngày. Quân đội của họ tiến quân rất nhanh, nhưng quân bưu của họ còn nhanh hơn. Hệ thống này về sau được Nga Hoàng (ở Nga) và Minh Mạng (Việt Nam) áp dụng. Tiếc rằng quan lại Việt Nam tham nhũng, chuyên lấy ngựa công ở trạm để chở vợ con đi chùa và ăn cưới, nên hệ thống bưu trạm của Minh Mạng sụp đổ.
Thể chế chính trị nhà Nguyên khá là lỏng lẻo, họ có một ông Đại Hãn (Great Khan) đứng đầu (ví dụ Hốt Tất Liệt, ở Bắc Kinh) và các ông Hãn khác đứng đầu các Hãn quốc (các Khanate, như trong hình trên). Các Khanate này coi như tương đương các tiểu bang ở mô hình liên banng hiện nay.
Ở các vùng đất của người Hán, các vị Đại Hãn kể từ Kublai (Hốt Tất Liệt) đặt các chức quan chính trị-quân sự để cai trị. Chức quan này tiếng Hán phiên âm từ Mông sang là quan “Đại Đoán Sự”, nhưng do chế độ chính trị song ngữ nên chức quan này có thêm một tên Hán hoàn toàn là “Hành tỉnh thừa tướng”, gọi tắt là thừa tướng. Còn cơ quan hành chính do ông quan này quản lý gọi là “Hành thượng thư tỉnh sự”, gọi tắt là “Hành tỉnh”. Khi Chu Nguyên Chương mới lên ngôi, ông ta cũng có vị Thừa tướng vốn là liên minh của mình. Sau đó ông chém hàng vạn người liên quan đến vị thừa tướng này, xóa bỏ chức thừa tướng, rồi phân bổ quyền lực của vị chí này xuống lục bộ trong triều đình. Bước tiếp theo mới là việc thành lập Cẩm y vệ.
Giới quý tộc Mông Cổ là tầng lớp cao nhất, nắm quân sự. Tầng lớp thứ hai là Sắc Mục, một từ để chi chung những người Ba Tư, Ả rập, Nữ Chân, Duy Ngô Nhĩ và châu Âu làm trong chính quyền Mông Cổ thì nắm thương mại, tài chính và tri thức. Người Hán đứng thứ ba, là các chức thư lại. Cuối cùng là người phương Nam là những người từ vùng phía nam sau khi Hốt Tất Liệt chinh phục xong Nam Tống.
Có một chi tiết nhỏ , đó là Vân Nam, một vùng đất giáp Đại Lý, Nam Chiếu và An Nam, tuy đã bị Hán hóa nhưng ngôn ngữ vẫn rất địa phương (Choang, Môn-Khmer, Miến Tạng, … tức là các ngôn ngữ khá gần tiếng Việt cổ), và vẫn rất “thiếu văn minh”. Trước khi bị nhà Đại Nguyên (Đại Mông Cổ) xâm lược, họ hoàn toàn không biết đến Khổng Tử, họ chỉ biết đến … Vương Hy Chi. Quân Mông tràn xuống mang theo văn minh Hán vào Vân Nam. Học thuyết Khổng Mạnh lúc này mới đến Vân Nam, Khổng tử được coi là Hán phật. Mật tông Tây tạng vốn dominate toàn bộ Đại Lý, Nam Chiếu, Vân Nam bắt đầu nhường chỗ cho Thiên tông. Như vậy, không chỉ kết nối văn minh Đông Tây, đế quốc Mông Cổ còn kết nối văn minh Nam Bắc (Trung Hoa) thông qua các chiến dịch chinh phục phương Nam.
Tôn giáo ở đế quốc Mông Cổ cũng tự do, các nhánh của Kitô giáo và Phật giáo được tự do phát triển. Tháp Mật Tông đầu tiên được xây ở Đại Đô (Bắc Kinh) là ở thời này, do một kỹ sư Nepal thực hiện. Kitô giáo ở đế chế Mông Cổ có tên gọi (phiên âm từ tiếng Mông qua tiếng Hán) là đạo “Dã lý khả ôn”, nghĩa đen là đạo của những người được ban phước lành.
Trong một thể chế đa nguyên về tôn giáo, sắc tộc, quốc tịch, và tản quyền (nhưng thống nhất về hành chính và tập quyền về quân sự), đế quốc Mông Cổ (nhà Nguyên) phát triển cực kỳ mạnh. Về tri thức, họ dịch rất nhiều tác phẩm khoa học lớn từ tiếng Arap qua tiếng Hoa, đặc biệt là sách về thiên văn, y học, dược, bản đồ, hình học và số học và ti tỉ các sách xem tướng, bói họa xem phúc. Sách hình học Euclid được dịch vào thời này, tên của Euclid phiên qua âm Arap (Uqlidis) trở thành “Ngột Hốt Liệt” trong Hán tự.
Trong thời nhà Nguyên, ở Thượng Đô (nay thuộc Nội Mông ở Trung quốc), nhà nước đã cho xây đài thiên văn (Khâm thiên giám) dựa trên khoa học và công nghệ Muslim, gọi là Hồi Hồi Khâm Thiên Giám. Tuy nhiên kiến thức khoa học của thế giới Hồi giáo (là đỉnh cao lúc bấy giờ, mà ứng dụng nổi tiếng nhất là chế ra đại bác) đã không đi vào được nền văn minh Hán. Sau này các học giả Trung Quốc gọi giai đoạn Pax Mongolica này là Làn sóng văn minh phương Tây lần thứ nhất, và cho rằng, làn sóng này “thất bại”, nền văn minh Hán đã từ chối tiếp thu.
Các lều trướng của các vị Hãn đều quay về phương Nam. Nên bên tả của họ tức là phương Đông, còn bên hữu là phía Tây. Anh em nhà Genghish Khan (Thành cát tư Hãn) được cấp đất phong vương bên phía Đông gọi là Tả Vương, bên phía Tây gọi là Hữu Vương. Tức là, có thể thấy trình độ thiên văn học của đế quốc Đại Mông rất cao. Đứng trên thảo nguyên bằng phẳng, mênh mông cỏ xanh, trên đầu là vòm trời sao rộng lớn, họ không chỉ biếtmặt trời mọc đằng đông, lên đỉnh vào trưa, và lặn về tây; mà còn biết con đường mặt trời đi mỗi mùa mỗi khác, mỗi ngày mỗi khác, mặt trời chỉ mọc chính đông và chính tây vào ngày “phân”, và vào buổi trưa mặt trời ở cao nhất cũng vẫn ở phía trước mặt nếu đứng quay mặt về phía nam. Ngày mà vào buổi trưa mặt trời lên cao nhất là ngày “hạ chí”.
[image error]Đứng trên mặt đất bằng phẳng và rộng lớn, ta có cảm giác mình đứng trên mặt đất phẳng hình vuông, và vòm trời hình cầu úp lên mặt phẳng đất. Quay lưng về Bắc, mặt nhìn về Nam, bên trái là Đông, bên phải là Tây, hằng ngày sẽ thấy mặt trời mọc lên bên trái (AM), đi qua vòm trời, lặn về bên phải (PM). Nhưng chỉ có ngày “xuân phân” và “thu phân” (equimox) là mặt trời mọc lên ở “chính đông” rồi lặn ở “chính tây”. Vào giữa trưa (noon) mặt trời lên cao nhất (trong ngày). So các điểm cao nhất của noon, thì ngày “đông chi” (Winter solstice) là thấp nhất, ngày “hạ chí” (Summer solstice) là cao nhất. Nếu là dân ở bán cầu bắc (như Mông Cổ, Trung Hoa), ngay cả vào “chính ngọ” họ sẽ luôn thấy mặt trời ở phương Nam. Đây là lý do cung điện, nhà cửa đều quay về phương Nam. La bàn cũng gọi là “kim chỉ nam”. Nhưng ở phương Nam, chính trị, văn hóa, thậm chí cả thủ đoạn, người ta vẫn (kỳ quặc) sùng bái và copy phương Bắc, trong đó có Cẩm y vệ.
[image error]
August 7, 2020
Dân vận 4.0
Nhân đọc cựu tuyên giáo Ngọc Hoàng bị ngáo đất do overdose A5152 và muốn đi khai hóa dân tộc, nhớ ra là còn bài viết này, viết hơn 4 năm rồi mà chưa post.
Mới gần đây, trong các poll khác nhau, tháng Sáu và tháng Bảy vừa qua ông Biden đều dẫn điểm trước ông Trump, và khoảng cách xa dần. Ví dụ như survey của WSJ cho thấy tháng Sáu ông Biden dẫn trước 7 điểm phần trăm, đến tháng Bảy ông dẫn 11 điểm phần trăm.
Nhưng lịch sử gần nhất cho thấy, việc dẫn trước không đảm bảo một thắng lợi chắc chắn nào cả. Ngày 4 tháng Tám năm 2016, bà Clinton dẫn trước ông Trump 7 điểm phần trăm trong một poll ở quy mô toàn quốc (RealClearPolitics); với cùng một phương pháp đo này thì Biden dẫn Trump 7.4 điểm phần trăm.
Lần bầu cử trước, trong vòng chưa đến 3 tháng trước ngày bỏ phiếu, Trump tung ra một chiến dịch “dân vận 4.0” cực kỳ đặc sắc với các chiến thuật vốn được Việt Cộng (Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam) sử dụng cực kỳ hiệu quả ở Nam Việt Nam: binh vận, địch vận, trí thức vận, tôn giáo vận. VC dùng mồm và dùng súng, và mất đúng 10 năm (1965 đến 1975) để thành công. Trump dùng mồm và internet mất vài tháng.
Bài viết dưới đây được viết sau khi Trump trúng cử, nay mới lôi ra đăng, sau khi xóa đi vài đoạn lúc đó bốc phét giờ sai toét.
*
Kellyanne Fitzpatrick là một cô gái “ngoại ô”. Cha bỏ nhà đi khi cô chừng 3 tuổi. Từ đó, cô lớn lên trong một gia đình có mẹ, bà ngoại và hai người dì. Những người phụ nữ nuôi nấng Kellyanne lớn lên ở New Jersey đều là những người mộ đạo.
Kellyanne đi làm thêm để kiếm tiền từ lúc còn là thiếu nữ. Vào mùa hè, cô đi hái dâu tây. Cô nhận ra rằng, hái càng nhanh, càng có tiền. Có năm cô còn đạt danh hiệu Hoa khôi hái dâu tây.
Kellyanne sau này vào đời với nghề polling (thăm dò dư luận). Cô làm việc cho các hãng polling uy tín, chuyên phục vụ các chính trị gia gạo cội của Đảng Cộng Hòa. Cô nhanh chóng nhận ra đây là một lĩnh vực toàn đàn ông, và rất thượng lưu. Sau khi đủ lông đủ cánh, cô lập một công ty polling riêng của mình.
*
Donald Trump quen Kellyanne, lúc này đã lấy chồng và mang họ Conway, khi cô sống trong một căn hộ thuộc tòa nhà của Trump. Cô Conway, khi được biết Trump đang có ý định tranh cử chức thị trưởng New York và sẵn sàng chi hàng trăm triệu cho chiến dịch tranh cử, đã tự làm một bản thăm dò dư luận và gửi cho Trump, như một bảng chào hàng dịch vụ của công ty cô.
Báo cáo của Conway giấu đi những tín hiệu tiêu cực, và chỉ khoe ra những tín hiệu tích cực cho Trump. Đọc báo cáo xong, các cố vấn của Trump nói : Nếu ông tính tranh cử chức thị trưởng, thì sao không tranh cử luôn chức tổng thống Mỹ.
Trump đã thể hiện phẩm chất khởi nghiệp ngay lập tức, ông quyết định chạy đua vào chức tổng thống Hoa Kỳ.
*
Tại sao ta có thể nhìn quyết định ấy như là một quyết định khởi nghiệp. Bởi tranh cử tổng thống Mỹ là một chiến dịch dài, cực kỳ gian nan và tốn kém. Nếu thắng cuộc, người thắng không được nghỉ ngơi, mà đấy mới là sự khởi đầu, sau đấy là 4 năm gánh vác sơn hà trên vai.
Ở tuổi 70, thành đạt, Trump quyết định tham gia một cuộc chơi như thế. Gọi là cuộc chơi, vì tinh thần và ý chí của ông có thể gói gọn trong một câu đầy tính khởi nghiệp: tôi yêu việc tôi làm. [Đến nay có thể thấy Trump đã chơi Kim Un, Tập Cận Bình các kiểu như chong chóng, chơi cả truyền thông chính thống, chơi người tiền nhiệm, chơi láng tất cả; và bị chơi cũng chóng hết cả mặt, cánh hẩu của Trump còn đi cả vào nhà tù.]
Tất cả các doanh nhân khởi nghiệp thành đạt họ đều rất yêu (hoặc mê, hoặc đắm say mù quáng) với công việc họ làm, dù việc ấy gian nan và rủi ro đến mấy. Họ không chỉ làm cái họ yêu, mà họ yêu cả cái việc mà họ sẽ quyết tâm phải làm ấy.
*
Khởi động chiến dịch tranh cử, với tinh thần start-up chính trị, Donald Trump vốn có sẵn trong máu của mình năng lực lãnh đạo (leadership) của một doanh chủ (entreupreneur) ít nhiều đã có thành tựu. Trong cuốn Crippled America (Nước Mỹ Nhìn Từ Bên Trong, Nhã Nam) tác giả Donald Trump rất nhấn mạnh đến năng lực lãnh đạo.
Năng lực lãnh đạo có rất nhiều khía cạnh. Một trong những khía cạnh ấy là đưa cái tôi vào các quyết định của mình, biến hóa trong chiến thuật, khôn ngoan và lọc lõi trong dùng người và thay người. [Và tàn nhẫn nữa, hãy xem phiên bản gốc của Lê Lai chết vì Lê Lợi. Và thực dụng, như cách Trung Hoa ve vuốt cả Mạc lẫn Lê của An Nam.]
Trong Bố Già (Mario Puzzo viết kịch bản), có phân tích kỹ năng lãnh đạo của các ông trùm, bất kể là trùm chính trị hay trùm băng đảng, mọi cuộc chiến dù là băng nhóm đánh nhau, hay chiến tranh giữa các quốc gia, những lãnh đạo nổi bật nhất luôn đặt cá nhân mình vào trong trận chiến.
Donald Trump quyết định tham gia “cuộc chiến” khi cá nhân bị sỉ nhục công khai trong bữa tiệc ở Nhà Trắng. Trump đưa “cá nhân” vào các quyết định quan trọng, nhưng không phải đưa một cách cảm tính, bản năng [mù quáng], mà còn dựa vào các báo cáo như báo cáo của Kellyanne.
Ở khía cạnh dùng người, Trump dựa vào [một số ít] consigliere mà ông tin cậy nhất, anh con rể Jared Kushner. Nhưng Trump không cho phép anh này công khai và chính thức vận hành chiến dịch. Thay vào đó, Trump và quân sư của mình liên tục chọn những người phù hợp nhất cho từng giai đoạn cụ thể.
Mike Pence và Kellyanne Conway đã được chọn như thế.
*
Kellyanne Conway được tuyển dụng vào vị trí quản lý chiến dịch khá muộn. Lúc đó Clinton đã vượt khá xa Trump. Nhưng cô đã làm được việc mà cô giỏi nhất: lôi kéo người tiêu dùng và phụ nữ đi bỏ phiếu cho Trump.
Doanh chủ thành đạt, kiêm tài năng khởi nghiệp chính trị mới nổi, Donald Trump, đã rất sáng suốt trong việc mang về đội của mình một nhân vật không chỉ có tài “bán hàng” mà còn phù hợp với tình hình thực tế và liên tục thay đổi các chiến thuật “dân vận” phục vụ tranh cử.
[Jared được cho là người đứng sau việc tìm ra và chia nhỏ các nhóm cử tri theo đặc tính và địa lý. Việc đầu tiên anh này thực hiện là lên máy bay đi gặp bạn bè cũ, tìm ra và tập hợp các thiên tài internet trong bóng tối, gom thành một đội phân tích dự liệu, phân tích đặc tính hành vi và thói quen của từng nhóm cử tri cũng như định vị ra họ ở từng khu vực địa lý với văn hóa, đời sống, sắc tộc khác nhau. Từ đó Kellyanne chỉ việc tung các chiến dịch “dân vận 4.0” của mình vào; chủ yếu qua các kênh online, rất tiết kiệm chi phí mà hiệu quả cao.]
Kellyanne Conway, một người mẹ của bốn đứa con nhỏ, đã làm được nhiều hơn Trump kỳ vọng. Cô không chỉ “dân vận”, lôi kéo thêm cử tri bên phe Cộng Hòa, vốn đang còn lưỡng lự, đi ra ngoài và bỏ phiếu cho Trump. Mà cô còn “địch vận”, xúi được cử tri bên phe Dân Chủ, chán nản về Clinton mà ở nhà không đi bỏ phiếu. Hơn thế nữa, cô còn làm việc ấy một cách có phương pháp, tấn công trúng đích vào các “thị trường” ngách hoặc chiến lược, mà không để nguồn lực bị phân tán lan man.
*
Nhưng cũng như ở Việt Nam, công cụ tuyên truyền, dù là 0.4 như VC hay 4.0 như Trump chỉ có tác dụng trong ngắn hạn. Ngắn hạn ở đây có tính tương đối. Với xã hội đóng, bưng bít thông tin, vùi dập tự do biểu đạt thì tuyên truyền có thể có tác dụng một hai chục năm; với xã hội dân chủ, mở và dày đặc thông tin trên internet thì tuyên truyền có tác dụng một hai năm. Một trong những lý do tuyên truyền không có tác dụng bền vững, bởi từ bản chất nó đã là một cơ chế ngụy biện sớm muộn gì tự nó cũng tạo ra các các hồng vệ binh bò đỏ, fakenews, hatespeech, thậm chí pseudoscience. Theo dòng thời gian, chính những thứ này sẽ quay trở về tàn phá cơ chế sinh ra nó.
July 30, 2020
Bình thường mới
Thực ra bây giờ Việt Nam mới bước vào “bình thường mới”.
Dịch bùng phát ở một thành phố biển, tuy phải “không vận” giải cứu rất nhiều du khách, nhưng vẫn là may mắn cho Việt Nam. Ít ra thì “chỉ phải” cách ly hai thành phố thiên về du lịch.
Hà Nội và HCMC chắc sẽ không cách ly như cách đây mấy tháng, vì cái giá phải trả về kinh tế quá đắt, và bất ổn xã hội sẽ không còn là tiềm ẩn nếu một lần nữa cách ly. Tuy vị chủ tịch Hà Nội trong một cơn trầm cảm nào đó không còn máu lửa “dập dịch” như đã từng ra tay và cứu được Hà Nội (vùng lõi và phụ cận), nhưng hy vọng lần này không có ổ dịch lớn nào phải dập. Cùng lắm là phong tỏa một chung cư, hay một dãy phố để cách ly.
Thời tiết mùa này không đứng về phía dịch, mà đứng về phía chính quyền địa phương. Ý thức của tự giác của người dân cũng thế. Lòng ái quốc cũng đã có thay đổi, mới mấy tháng trước đi đón công dân về là ngạo nghễ Việt Nam; còn mới hôm qua có ông tướng quân đội còn bảo đón thế là “rước bệnh về nhà”.
Với tốc độ mỗi ngày vài ca dương tính, chủ yếu là ở ĐN và QN và tập trung trong các bệnh viện nay đã thành ổ dịch, thì tâm lý bất ổn vì dịch sẽ qua trong vài ngày. Tất nhiên là đừng có ùm phát 1000 ông đi du lịch ĐN quay về HN (hoặc HCMC) đồng thời dương tính. Cái này thì đúng là phải nín thở đợi hết tuần sau.
Nhưng hết tuần sau mà không ùm, thì cả nước mới thực sự bắt đầu “bình thường mới” với khẩu trang, đứng xa nhau, nước rửa tay và không tụ tập đông người. Quán xá vẫn đón khách, phòng nha vẫn mở cửa, các câu lạc bộ thể thao vẫn đón người tập, sách báo vẫn phát hành, lương tuy thấp, thưởng tuy mất, nhưng việc vẫn còn, thêm cái khẩu trang nơi công cộng, thế là thành “bình thường mới”, “nghèo mà không bất an”, thế là ổn rồi, kệ mẹ bọn sinh hoạt đảng.
May 18, 2020
Những cái tên khác
Cái tên quan trọng nhất là cái tên lúc sinh ra đời: có Khiêm thì sẽ có Cung.
Sau đó là hai cái tên Thành và Paul. Hai tên ghép thành một, như chỉ dấu ngầm về một sự bảo trợ, mà người thanh niên An Nam thuộc địa dùng để đi ra thế giới tự do: Paul Thành.
Trước khi trở thành nhân vật cách mạng thuộc loại thành công nhất lịch sử nước nhà, là cái tên Hồ Quang. Tên này gắn với giai đoạn xây dựng lực lượng.
Tiếp đó, là cái tên Lucius, khi hợp tác với OSS, cái tên dẫn lực lượng của mình đến ngày 2 tháng Chín.
Cuối cùng là C.B. Cái tên xuất hiện sau khi nhà cách mạng đã trở thành lãnh tụ. Đây là cái tên cho thấy mặt bên kia của quyền lực.
Có những việc Hitler dư sức làm, nhưng không làm, vì đã có Goebbels làm thay. Còn đằng này, lại phải tự tay.
April 5, 2020
Hậu đại dịch
Bất kể đại dịch sẽ kết thúc thế nào, và bao giờ nó kết thúc, thì sau đại dịch sẽ có một việc ai cũng phải làm: kiếm sống và ổn định lại cuộc sống.
“Thế giới sau đại dịch sẽ ra sao” tiếp tục là một câu hỏi ngỏ chưa có lời đáp. Nhưng có một thứ ở Việt Nam ai cũng sẽ phải đối diện, dù là người dân, doanh nghiệp, hay chính phủ: kinh tế khó khăn, hoặc cực kỳ khó khăn; kéo dài 12 tháng, 18 tháng, hoặc lâu hơn nữa.
Chính phủ hiện tại đang ở năm cuối nhiệm kỳ. Tôi có cảm giác họ hy sinh kinh tế (và chấp nhận tiềm ẩn bất ổn xã hội) để chống dịch. Chống dịch mà thất bại, lãnh đạo nhiệm kỳ này sẽ mất hết uy tín (trong và ngoài đảng). Chống dịch thành công thì hậu quả kinh tế xã hội có tồi tệ thế nào, ngân sách có thâm hụt ra sao, đó là việc của lãnh đạo …nhiệm kỳ sau.
Nhưng điều đó không quan trọng lắm, bởi ai rồi cũng sẽ phải kiếm sống và ổn định cuộc sống của mình. Điều quan trọng là chính phủ (dù lãnh đạo mới hay cũ) sẽ đưa ra những chính sách gì để thúc đẩy kinh tế xã hội hậu đại dịch. Chính sách tốt sẽ rút ngắn thời gian vật lộn, chính sách tồi sẽ đẩy nền kinh tế Việt Nam vào suy thoái.
Tôi có cảm giác các chính sách “cứu doanh nghiệp” không phải là chính sách tốt lắm vì nó rối rắm, khó thực hiện, hiệu quả không rõ ràng. Bên cạnh đó, chính sách vung tiền ra với các “gói” giải cứu cũng không hay ho gì cho lắm, bên cạnh chuyện tham nhũng, xin cho, thì còn là chuyện muôn thủa: ngân sách rất eo hẹp, và ngày càng eo hẹp.
Thay vào đó chính sách cứu ngành có thể đơn giản hơn, dễ thực thi hơn, và nhanh có tác dụng hơn. Ngành ở đây, xin lưu ý, không phải là gái ngành. Tất nhiên khi một số ngành khác được giải cứu, gái ngành cũng sẽ được cứu theo.
Ngành đầu tiên cần cứu chính là du lịch inbound. Bởi, thứ nhất, nó là ngành mang lại ngoại tệ nhanh nhất (xuất khẩu tại chỗ). Và, thứ hai, nó bao trùm rất nhiều lĩnh vực dịch vụ: vận tải hành khách (bao gồm cả hàng không), khách sạn, nhà hàng, quán bar… (Cũng xin lưu ý là so với các ngành khác, ngành du lịch là ngành khá là năng động và đủ năng lực cạnh tranh ở tầm khu vực để có thể kéo khách quốc tế trở lại Việt Nam.)
Cách cứu cũng không cần quá phức tạp, chỉ cần: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp (24 tháng), miễn thuế thu nhập cá nhân cho tất cả những lao động nhận lương từ các doanh nghiệp này (cũng 24 tháng).
Ngành thứ hai cần cứu, là giáo dục từ mầm non đến hết tiểu học (cấp 1). Cách cứu cũng đơn giản là miễn hoàn toàn thuế như trên; cộng thêm miễn phí tiền điện, nước, internet… Khi trẻ con được chăm sóc tốt, phụ huynh sẽ yên tâm lao động kiếm tiền.
Ngành thứ ba cần cứu, đó là các ngành sản xuất thâm dụng lao động và phục vụ xuất khẩu, ví dụ dệt may, da giày, phần mềm. Hàng triệu người đang làm trong các lĩnh vực này. Nếu bỏ hoàn toàn thuế, phí liên quan đến khu vực sản xuất gia công phục vụ xuất khẩu, chỉ giữ thuế VAT, chắc chắn sẽ tạo thêm lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu. Thậm chí có thể phải bỏ hẳn thuế phí như vậy 36 tháng.
Cuối cùng, vẫn phải có một thuế gì đó tăng lên mãi mãi, chính là thuế bất động sản, để chống đầu cơ. Và một thuế phải bỏ đi trong tương đối dài hạn, đó là thuế xăng dầu, để nhân dân bớt đi một khoản chi mỗi tuần.
Nếu các ngành kinh tế nói trên sống lại, nhà nước chỉ cần thu VAT là đủ sống rồi. Vả lại, nhà nước ăn của dân không từ một thứ gì, ăn tàn phá hại suốt bao năm nay, thì sau đại dịch này cũng nên nhịn đói để cho dân sống. Sẽ rất tốt cho quốc gia, nếu vì đói quá mà quy mô nhà nước giảm đi một nửa. Nhân dân thay vì nuôi một bầy sâu, sẽ chỉ phải nuôi nửa bầy. Riêng đoạn này, cũng đã giúp phục hồi kinh tế.
April 1, 2020
Phải trái corona
Tôi đang nghĩ, con virus corona nó ở cánh nào: tả hay hữu? Có khi nào nó là một chiến sỹ cánh tả nhiệt thành, và đến lúc này, nó đang là ngọn cờ đầu với nhiều chiến công nhất?
Đại dịch cúm tàu (corona) chỉ trong vài tháng đã phủ khắp toàn cầu. Đồng thời nó cho tất cả những thứ sau đây một bài test choáng váng: chủ nghĩa toàn cầu hóa, các hệ thống chính trị dân chủ kiểu phương tây, các nền kinh tế tự do kiểu phương tây, và năng lực của những lãnh đạo đứng trong thể chế pháp quyền.
Cũng trong thời gian ấy, con virus Vũ Hán biến ước mơ của những lãnh đạo cộng sản kinh điển ngày xưa, ước mơ “thế giới đại đồng”, đến gần hiện thực hơn bao giờ hết: chứng khoán tan tành khắp nơi, thất nghiệp khắp nơi, phá sản khắp nơi, đóng cửa nhà thờ (công viên, bãi biển …) khắp nơi. Các nhà nước chuyên chế bỗng nhiên như cứu được hàng ngàn nhân mạng (so với các nhà nước dân chủ và tự do).
Công dân các nước tự do bỗng nhiên thấy mình phụ thuộc chính phủ nhiều hơn trước; còn các chính phủ tư bản bắt đầu nghĩ đến bailout và thậm chí quốc hữu hóa, bắt đầu từ các bệnh viện tư nhân. Ngay cả ở Việt Nam, người ta bắt đầu nói về mô hình hợp tác xã.
Chừng nào chưa có vaccine, thì chưa khống chế được dịch bệnh. Nó có thể dừng lại trong vài tuần tới. Và cũng có thể sẽ quay lại mùa đông năm sau, hoặc những năm sau nữa. Có khả năng corona là một con virus cánh tả cực kỳ bất khuất.
Đế chế Hoa Kỳ, liệu có giã từ thời kỳ đỉnh cao trong vàng son chói lọi của mình, giống như thời vàng son của Đế chế La Mã thoái trào sau cơn dịch hạch Antonine (Antonine Plague). Và có lẽ nào Pax Americana cũng sẽ tan tành như Pax Romana.
Toàn cầu hóa liệu có tành bành sau cơn dịch bệnh này? Quyền lực kinh tế và chính trị sẽ dịch chuyển từ Anh-Mỹ và đồng minh của họ đi đâu? Liệu họ có, một lần nữa như sau WWII, lại đứng dậy chói lòa? Hay sẽ như Byzantine của Phương Tây bị Ottoman của Phương Đông nuốt mất.
Địa chính trị bỗng dưng trở thành địa kinh tế. Nước nào lo kiếm ăn nuôi dân nước đấy. Cuộc chiến không gian sinh tồn có khia nào trở lại với biển Đông, nơi đã và mãi là xa lộ (trong mơ) để mở rộng không gian sống của Hán tộc xuống vùng Đông Nam Á?
Dịch bệnh rồi một ngày nào đó sẽ hết, nhưng thế giới sẽ thay đổi trật tự hoàn toàn?
*
PS:
Từ năm 2003, một nhà thiên văn học đáng kính người Anh là Lord Martin Reese đã viết một cuốn sách có tên Our final hour: A Scientist’s Warning: How Terror, Error, and Environmental Disaster Threaten Humankind’s Future In This Century—On Earth and Beyond. Ông cũng đi nói chuyện khắp nơi về đề tài này.
Theo ông, thế giới ngày càng trở nên kết nối hơn (vận tải – hàng không, viễn thông – internet, các chuỗi cung cấp – toàn cầu hóa) nên vì thế nó trở nên mong manh hơn với các thảm họa. Ông cho rằng các mối nguy từ khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh sinh học đều có thể gây tác hại toàn cầu. Ông cũng cho rằng dịch bệnh tự nhiên mới là cái ông e ngại nhất. Trong một ví dụ về dịch bệnh, ông nói về một căn bệnh do virus, bùng phát ở một megacity (cỡ chục triệu dân), ở một nước đang phát triển (ông ví dụ như Ấn Độ). Cuối cùng thì một bệnh dịch như vậy đã xảy ra, ở Vũ Hán, Trung Quốc, với con virus cúm dơi Vũ Hán.
Đế chế La Mã khổng lồ ngày xưa là một phiên bản thô sơ (trước công nghiệp hóa) của toàn cầu hóa. Họ đồng bộ lịch. Họ có hệ thống đường giao thông rộng khắp và kết nối khắp nơi. Lương thực của họ phụ thuộc chuỗi cung cấp “toàn cầu”. Khi dịch hạch Antonine bùng phát, khoảng 25% người bị nhiễm tử vong. Nó bùng phát hai lần dẫn đến khoảng 30% dân số qua đời, và do đó trực tiếp tàn phá sức mạnh của quân đội La Mã. Chuỗi cung ứng lương thực bị ảnh hưởng, dẫn đến nạn đói ở Roma, gây ra bất ổn và loạn lạc ở thành phố số 1 thế giới lúc bấy giờ. Sau nạn dịch này, đế quốc La Mã bắt đầu thoái trào.
March 30, 2020
Hà nội, niềm tin, hy vọng
Bài hát nổi tiếng của Phan Nhân, Hà nội niềm tin và hy vọng, có một phiên bản cực kỳ hay do một ca sỹ “Sài Gòn cũ” tên là Lệ Thu ghi âm một năm sau thống nhất (1976).
Đường lộng gió thênh thang năm cửa ô.
Nghe tiếng cười không quên niềm thương đau.
Hà Nội đó, niềm tin yêu hy vọng
Của núi sông hôm nay và mai sau.
Chừng nào vẫn chưa có vaccine đại trà thì chừng đó chưa thể “kiểm soát được dịch”. Dịch bị chặn ở chỗ này, có thể bùng phát ở chỗ khác; dịch chặn được lúc này, lúc khác nó lại tòi ra. “Đang kiểm soát được dịch” chỉ có giá trị tuyên truyền và trấn an đám đông, cho đến khi không thể trấn an được nữa. Đừng tin vào tuyên truyền, mà tin vào chính mình, bảo vệ chính mình, gia đình, và cộng đồng quanh quanh mình khỏi bệnh dịch. Thật bình tĩnh và can đảm, ngay cả lúc mình và người thân mình “dương tính”. Nói thì dễ, làm thì khó, nên phải tin và hy vọng, ngay từ bây giờ.
Không phải Bạch Mai cố lên, không phải Hà Nội gắng lên, mà Hà Nội giờ đích thực là niềm tin và hy vọng của hôm nay và mai sau.
Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
