Nguyễn Phương Văn's Blog, page 9

June 13, 2019

Viện dân biểu

Cuộc tuần hành phản đối Luật dẫn độ của người dân Hồng Công lên tới một triệu người; tức là cứ khoảng bảy hoặc tám người dân sẽ có một người xuống đường. Điều đặc biệt là nhiều doanh nhân, trong đó có chủ các doanh nghiệp nhỏ, chủ cửa hàng … ủng hộ phong trào “bất tuân” lần này của dân Hồng Công.


Chi phí kinh doanh ở Hồng Công rất đắt đỏ. Nhưng nhiều công ty nước ngoài vẫn lựa chọn Hồng Công làm thành phố đặt trụ sở, hoặc văn phòng. Đó là vì tư pháp của Hồng Công công bằng, minh bạch, thông thoáng. Nếu tư pháp của Hồng Công bị Trung Quốc Đại Lục thao túng, và trở nên khắt khe và thiếu công bằng, minh bạch như tư pháp ở Trung Quốc; thì các doanh nghiệp không có lý gì phải đặt trụ sở ở Hồng Công đắt đỏ nữa, họ sẽ chuyển qua Đại Lục nơi chi phí rẻ hơn rất nhiều. Hoặc chuyển sang Singapore, Băng Cốc, … Hoặc họ sẽ chuyển sang Phú Quốc ở Việt Nam, nếu như tư pháp của Việt Nam, hoặc Phú Quốc (như một đặc khu) thông thoáng hơn, minh bạch hơn, công bằng hơn. Để được như vậy, Việt Nam vẫn cần quay lại xem xét cơ chế  “checks and balances” mà Machiavelli đã viết trong The Discourse.


[image error]


Hồng Công, một ngày trước hôm nổ ra cuộc tuần hành phản đối Luật dẫn độ.


*


Ba nhánh quyền lực


Về vận hành chính trị, nước ta hiện nay hơi giống với La Mã Cổ Đại ở chỗ có ba nhánh quyền lực: monarchy/hoàng đế (ở ta là các vị trong tứ trụ), aristocracy/quý tộc (ở ta là các ủy viên trung ương đảng) và democracy/người dân.


Nhưng có một sự khác biệt lớn với La Mã Cổ Đại, đó là không có phân chia quyền lực để tạo ra cơ chế “checks and balances”.


“Checks and balances” rất quan trọng ở chỗ nó không để cho bất cứ nhánh quyền lực nào trở nên nhiều quyền lực hơn các nhánh còn lại.


 


Cải cách từ đâu và thế nào


Có rất nhiều ý kiến khác nhau về hướng cải cách chính trị ở Việt Nam. Nhưng tựu chung có thể chia ra làm hai loại. Một là các ý kiến muốn cải cách từ trên xuống; và hai là các ý kiến muốn cải cách từ dưới lên. Hoặc có thể chia thành: các ý kiến thực dụng, có thể từng bước áp dụng được ngay; và các ý kiến có tính cấp tiến hơn, cách mạng hơn.


Có thể bắt đầu từ democracy, tức các cử tri và các đại diện của họ


Với hiện trạng của Việt Nam, có một cách tương đối khả thi, có thể bắt đầu từ …democracy, tức là từ nhân dân, tức là từ cử tri.


Việc đầu tiên là sửa Quốc hội hiện nay thành Hạ nghị viện (lower house), còn các đại biểu quốc hội sẽ thành hạ nghị sĩ. “


“Hạ nghị viện” và “hạ nghị sĩ” nghe quen tai, nhưng lại khá khó hiểu. Nếu dùng đúng từ (như ở Mỹ hiện nay) thì nó sẽ là “Viện của những đại diện của người dân” (Viện dân biểu), còn các thành viên của nó sẽ là đại diện của người dân (Dân biểu). Dân biểu ở đây có nghĩa các đại biểu do dân trực tiếp bầu ra.


Theo cơ cấu hành chính hiện tại của Việt Nam, rất dễ dàng bắt chước Mỹ để phân dân cư thành các “phân khu dân biểu”, mỗi phân khu khoảng 300 ngàn dân . Cả nước sẽ có khoảng 300 phân khu. Từ đây bầu ra 300 Dân biểu (Hạ nghị sĩ) cho Hạ nghị viện. Cách làm này sẽ giúp cử tri biết rõ người mà mình bầu làm đại diện (hạ nghị sĩ) vì người này sẽ buộc phải là cư dân trong cùng quận (một quận có thể có nhiều “phân khu hạ nghị viện”). Còn vị “hạ nghị sĩ” được bầu sẽ phải hiểu rõ mong muốn của người dân địa phương mình. Khi làm việc tại Hạ viện, họ sẽ phải tuân thủ ý chí của nhóm dân mà họ đại diện. Họ sẽ bỏ phiếu (hoặc không bỏ phiếu) để thông qua (hoặc không thông qua) các đạo luật, sao cho có lợi cho người dân.


“Hạ nghị sĩ” không cần phải là đảng viên, thậm chí không cần phải là người gốc Việt . Ví dụ hạ nghị sĩ ở Quận 5 có thể là người Hoa, theo Phật giáo. Hoặc một hạ nghị sĩ Tây Nguyên sẽ là người Jrai hoặc Banah, theo Tin Lành.


Nhiệm kỳ của hạ nghị sĩ có thể là 3 năm. Được nhà nước trả lương, phải ra làm việc ở Hà Nội.


Đồng thời cũng bắt đầu từ aristocracy, tức các ủy viên trung ương và tổ chức của họ (ban chấp hành trung ương)


Đồng thời, cũng cải cách Trung ương Đảng hiện nay thành một kiểu Thượng nghị viện (upper house), tức là  các trung ương ủy viên sẽ thành thượng nghị sỹ.


“Thượng nghị viện” và “thượng nghị sỹ” nghe khó hiểu, nhưng nếu dùng đúng từ nó sẽ là “Viện của đại biểu các tỉnh thành”, còn thượng nghị sĩ là “Bang biểu” (tức đại biểu thay mặt cho các bang, tức là các tỉnh, các thành phố).


Mỗi tỉnh thành bất kể lớn nhỏ sẽ có hai “bang biểu”. Họ là đảng viên, do các đảng viên khác trong tỉnh bầu lên. Nhiệm kỳ của họ 6 năm một lần, ăn lương do nhà nước trả, phải ra Hà Nội làm việc, không được tham gia nội các và chính quyền địa phương. Cơ cấu của thượng nghị sĩ sao cho cứ 3 năm thì có độ 15% số nghị sĩ hết nhiệm kỳ và phải bầu lại.


 


Checks and Balances


Về “checks and balances”, Hạ viện và Thượng viện sẽ giằng co nhau như ở Mỹ để đề xuất và thông qua các đạo luật. Họ giám sát nhau và giám sát chính phủ và chính quyền địa phương.


Chính trị Việt Nam hiện tại, hoàn toàn không có “checks and balances”. Điều này khiến cho một nhánh quyền (nhóm trung ương đảng) lực tích lũy thực quyền mạnh hơn hẳn các nhánh khác. Đồng thời còn phát sinh một vấn đề nghiêm trọng nữa, đó là không có cơ quan nào giám sát trung ương đảng; lại càng không có ai giám sát các cơ quan tập quyền hơn của trung ương (ví dụ Bộ chính trị, hoặc Ban kiểm tra trung ương).


 


Chính quyền địa phương, nội các, công tố và ngân hàng trung ương


Cao hơn cấp chính quyền địa phương (cấp tỉnh) một chút sẽ có chức thống đốc (tương đương tổng đốc thời nhà Nguyễn). Thống đống sẽ quản lý khoảng 2 hoặc 3 tỉnh. Cả nước sẽ có chừng gần 30 thống đốc.


Thống đốc có nhiệm kỳ 6 năm, do thượng viện bổ nhiệm từ số các nghị sĩ của mình. Thống đốc vẫn là thượng nghị sĩ (ủy viên trung ương) nhưng không còn chuyên trách (không ngồi ở Hà Nội) và mất quyền bỏ phiếu ở Thượng viện.


Dưới thống đốc sẽ là các tỉnh trưởng hoặc thị trưởng, do Hạ nghị viện bổ nhiệm từ các hạ nghị sỹ có gốc ở các tỉnh này, 3 năm một lần .  Tương tự thời Nguyễn, Thống đốc sẽ trực tiếp quản lý một tỉnh dưới quyền mình, hai tỉnh còn lại do tỉnh trưởng (tuần phủ) quản lý. Thống đốc nắm vai hành pháp cao nhất ở cấp địa phương.


Các bộ trưởng trong Nội các sẽ do Thủ tướng bổ nhiệm và phải được Thượng viện thông qua. Bộ trưởng, có thể là đảng viên, nhưng không được là thượng nghị sĩ (không được là trung ương ủy viên). Như vậy về mặt nhân sự, Thủ tướng có nhiều lựa chọn nhân sự tốt hơn để bổ nhiệm so với thực trạng hiện nay (hiện các bộ trưởng chỉ có thể chọn ra từ các ủy viên trung ương).


Thủ tướng cũng nắm quyền bổ nhiệm công tố viên, có nhiệm kỳ 8 năm, làm việc dưới quyền thống đốc và ngang tỉnh trưởng (chức này tương đương bố chính sứ/án sát sứ thời Nguyễn, và có chức năng giống viện trưởng Viện kiểm sát tỉnh hiện nay). Nhiệm kỳ 8 năm sẽ giúp vị trí này so le về thời gian với tất cả các chức vụ khác, không thể toa rập đi đêm dễ dàng với nhau trong làm án được. Nó sẽ nâng cao vị thế của công tố hơn thực trạng hiện nay trong tư pháp.


Chủ tịch thượng viện (kiêm Chủ tịch nước) sẽ bổ nhiệm Thống đốc ngân hàng. Việc này sẽ tách Ngân hàng nhà nước (Central bank) ra khỏi chính phủ (giống Fed ở Mỹ). Thủ tướng sẽ không còn cùng một tay nắm hai súng được nữa, ông ta sẽ chỉ nắm được chính sách tài khóa (fiscal policy). Còn chính sách tiền tệ (monetary policy) sẽ được điều hành độc lập với điều hành kinh tế vĩ mô.


Chủ tịch thượng viện cũng bổ nhiệm thẩm phán. Thực tế, từ năm 2017 thì chủ tịch nước đã bổ nhiệm thẩm phán.


Các thống Công tố viên, Thống đốc ngân hàng do Thủ tướng và Chủ tịch thượng viện bổ nhiệm, nhưng vẫn phải được Thượng viện thông qua.


Về chi tiết, hệ thống có thể sẽ phức tạp hơn rất nhiều. Thống đốc và tỉnh trưởng tuy vẫn là thượng và hạ nghị sĩ, nhưng không còn chuyên trách và ngồi ở Hà Nội nữa. Họ được dự họp và phát biểu ý kiến, tranh luận ở Nghị viện của mình (Thượng hoặc Hạ viện), nhưng không còn quyền bỏ phiếu nữa.


Hà Nội và Sài Gòn có thể có cơ chế riêng, đứng đầu là một Đại thống đốc (tương đương chức Đốc phủ sứ ngày xưa). Ở dưới họ là một phó thống đốc, do Hạ viện bổ nhiệm, người này phụ trách khu trung tâm của thành phố (tương đương  chức Phủ doãn thời Nguyễn hoặc chức Đô trưởng thời VNCH).


Các ban của Đảng như hiện nay, một số ban có thể trở thành một Ủy ban (committee) quan trọng của Thượng viện (Ủy ban kiểm tra, Ủy ban kinh tế, Ủy ban an ninh quốc phòng…).


 


Bầu cử


Như vậy cứ 3 năm cả nước sẽ bầu cử một lần. Mỗi lần bầu cử sẽ bầu lại toàn bộ Hạ viện, bầu lại toàn bộ tỉnh trưởng, bầu lại 15% số thượng nghị sĩ ở Thượng viện.


Ở địa phương, cứ 3 năm một lần người dân địa phương sẽ đi bầu người đại diện cho mình (dân biểu, hạ nghị sỹ) và hạ viện mới sẽ bổ nhiệm tỉnh trưởng.


Cũng thế, cứ 3 năm một lần các đảng viên địa phương sẽ đi bầu đại diện cho tỉnh thành của mình (bầu bang biểu, thượng nghị sĩ). Việc này cũng giống như đại hội đảng cấp tỉnh thành xưa nay vẫn diễn ra.


Việc bầu cử “hạ nghị sĩ” ở Việt Nam làm quen rồi, chỉ có điều trước chỉ là hình thức (đảng cử, dân bầu) để bầu ra đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân. Nay chỉ cần ứng cử thật và bầu cử thật là xong.


Ở thượng nghị viện, các thượng nghị sỹ cứ 6 năm lại bầu (trực tiếp) ra Thủ tướng một lần, đồng thời bầu Chủ tịch thượng viện. Việc này rất quen thuộc ở Việt Nam, giống Đại hội Đảng toàn quốc. Với cách làm mới này, Thượng viện (Trung ương Đảng) sẽ có những Thượng nghị sỹ rất trẻ, như Kennedy, Clinton và Obama ở Hoa Kỳ. Rồi cũng sẽ có những Thủ tướng rất trẻ được bầu trực tiếp từ những người trẻ này.


Thủ tướng vẫn được là “thượng nghị sỹ”. Ông này được quyền bổ nhiệm nhân sự (là các đảng viên, nhưng không được là trung ương ủy viên) vào các ghế bộ trưởng, nhưng việc bổ nhiệm này phải được Trung ương đảng (Thượng viện) thông qua. Như vậy Trung ương Đảng giám sát được nội các, khác với hiện nay các bộ trưởng cũng là ủy viên trung ương, nên không cách nào giám sát được, nhiều người đã trở thành củi.


Văn phòng chính phủ có thể nâng cấp lên thành Phủ thủ tướng. Một số bộ nên xóa bỏ, thay vào đó là một cơ quan nhỏ nằm trong phủ thủ tướng, đứng đầu là một quốc vụ khanh (Minister without portfolio). Các bộ văn hóa, thể thao, du lịch, truyền thông… đều có thể thu nhỏ thành các cơ quan nhỏ hơn do một quốc vụ khanh nắm. Ví dụ sẽ có quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, quốc vụ khanh đặc trách thể thao.


Đồng thời, thủ tướng nên có thêm quyền “veto”. Như hiện nay, thủ tướng không thể “veto” trung ương đảng, lại càng không thể “veto” bộ chính trị.


 


Lưỡng đầu chế


Chủ tịch Thượng viện, sau khi được bầu, sẽ làm luôn cả tổng bí thư, cả chủ tịch nước, cả tổng tư lệnh quân đội và có quyền bổ nhiệm bộ máy tòa án và ngân hàng trung ương. Vị trí này vẫn là một ông vua ngất ngưởng (nhất trụ), nắm quân đội, nhưng không còn quyền lực tuyệt đối nữa. Đặc biệt là ông này không thể can thiệp ngang vào hành pháptư pháp được nữa.


Thủ tướng điều hành kinh tế, cơ quan công tố, cơ quan an ninh quốc gia (như CIA) và bộ cảnh sát (như FBI). Hệ thống cảnh sát địa phương sẽ do cảnh sát trưởng (nằm dưới thống đốc) phụ trách.


Chủ tịch Hạ viện, do các hạ nghị sĩ (dân biểu) bầu, và sẽ nắm ghế phó thủ tướng và lo việc vận hành chính quyền địa phương. Chính phủ lúc này vận hành nhờ Thủ tướng, các bộ trưởng và văn phòng phủ thủ tướng. Số lượng phó thủ tướng sẽ chỉ còn một, khác hiện nay có quá nhiều phó thủ tướng, dân còn chả buồn nhớ tên.


So với ý tưởng cải cách để bỏ thể chế độc đảng, thì ý tưởng cải cách nhánh lập pháp và giám sát có kém hơn hẳn tính cấp tiến, tính cách mạng. Bù lại nó khả thi hơn nhiều. Nó cũng dung hòa được hai quan điểm: cải cách từ trên xuống và cải cách từ dưới lên.


Để cải cách nhánh lập pháp theo hướng cho phép người dân bầu ra “Viện dân biểu” của mình, Trung ương Đảng sẽ phải chấp nhận cải cách (từ trên xuống), đồng thời người dân cũng phải đấu tranh để đòi quyền bầu ra đại diện của mình (cải cách từ dưới lên). Việc đấu tranh này, tuy dễ hơn đấu tranh đòi đa nguyên đa đảng, nhưng vẫn là việc cực kỳ gian nan.


Ý tưởng cải cách này tuy vẫn để Đảng và Nhà nước là một, nhưng tách được sự can thiệp trực tiếp của Đảng ra khỏi việc điều hành của Chính phủ và chính quyền địa phương.


Như vậy, tuy vẫn là chế độ độc đảng, nhưng so với hiện tại thì nền chính trị lưỡng việnlưỡng đầu chế kép thế này sẽ văn minh hơn nhiều: minh bạch hơn, trách nhiệm hơn, cân bằng hơn.


Ở đây có một điểm quan trọng. Đó là tuy vẫn còn giai cấp thống trị (monarchy: vua/ tứ trụ; aristocracy: quý tộc/ủy viên trung ương) nhưng người dân có thể thể hiện được nguyện vọng và ý chí của mình thông cơ quan lập pháp và giám sát do mình bầu ra: Viện dân biểu. (Ở Anh, Hạ viện có tên là Viện bình dân – House of Commons, còn Thượng viên có tên Viện quý tộc – House of Lords.)


Việc thành lập Viện dân biểu cũng không có gì mới với xã hội Việt Nam. Nó chỉ là một động tác quay đầu để trở về với nề nếp xưa cũ. Xã hội Việt nam có một đặc điểm quan trọng: nó cực kỳ dân chủ ở cấp thôn xã. Nhà Lê, hay thậm chí nhà Nguyễn (cực kỳ tập quyền), hay thời Pháp thuộc, chính quyền trung ương chỉ quản lý đến cấp phủ/huyện. Dưới cấp phủ huyện hoàn toàn do nhân dân tự quyết. Đây là lý do xã hội Việt Nam tồn tại cả ngàn năm, qua bao biến động chính trị và chiến tranh. Chỉ đến sau khi Việt Minh cướp chính quyền, họ mới đưa mô hình quản lý “ủy ban hành chính” về đến cấp xã.


Khi người dân có “Viện dân biểu” để qua đó thực thi “quyền lực” của mình, sân khấu chính trị sẽ lành mạnh hơn, tươi tắn hơn và có nhiều màu sắc hơn. Ít nhất là hơn sân khấu hiện tại, tuy có nhiều màn giật gân, nhưng thực ra rất tẻ nhạt và không lành mạnh. Khi chính trị lành mạnh hơn, tươi tắn hơn đương nhiên là nó sẽ có ích hơn cho dân cho nước.


Sgn.May.2019


Trong The Discourses, Machiavelli đã mang trở về phương thức kiểm soát quyền lực kinh điển: nhà nước cộng hòa có ‘checks and balances’. Ông cho rằng quyền lực chính danh là quyền lực đoạt được bằng các kỹ năng chính trị, trong một cuộc cạnh tranh công bằng. Các chính phủ được người dân kiểm soát thông qua bầu cử hành pháp và tư pháp sẽ ít độc ác, ít vô đạo đức, ít tiền hậu bất nhất hơn chính phủ độc tài. Ông viết hẳn một chương về các nguyên tắc ‘checks and balances’ cần được hiến định: tam quyền phân lập, ba quyền lực kiểm soát nhau sao cho cân bằng. Các viện dẫn minh họa của ông chính là luật Solon (mà ông cho là quá dân chủ, thiếu hiệu quả), chế độ cộng hòa La Mã với các nguyên lão (chính là Senate, thượng nghị sĩ ngày nay) rất tốt, vì các nghị sĩ sẽ luôn mâu thuẫn với nhau, và mô hình tốt nhất là hiến pháp Sparta của Lycurgus. (https://5xublog.wordpress.com/2018/04/30/phap-quyen-phap-tri-phap-gi/)


Check thường bị hiểu sai là kiểm tra. Nghĩa đúng của check trong cụm này “sự kiềm chế/hạn chế/ngăn chặn/kiểm soát”. (LH)


Trong hệ Anh, Canada, Viện này được gọi là House of Commons. (LH)


Ở Mỹ, phân khu này được gọi là “congressional district”, có khoảng hơn 700 ngàn dân. Cứ 2 năm họ bầu lại Hạ viện một lần. Hoặc ở Nhật họ phân theo block, tùy theo dân số mà mỗi block có thể bầu ra số lượng tương ứng hạ nghị sỹ (Tokyo thì bầu ra 14 hạ nghị sỹ, còn Hokkaido là 8 hạ nghị sĩ).


Ở Mỹ, các điều kiện dành cho ứng viên khá đơn giản, ví dụ chỉ cần trên 25 tuổi, là công dân Mỹ trên 7 năm, và sống ở tiểu bang của “congressional district”, nhưng không nhất thiết phải sống trong “district” này. Cô Alexandria Ocasio-Cortez, gốc Puerto Rico, sinh năm 1989, trở thành dân biểu năm 2018, và là nữ dân biểu (nữ đại biểu quốc hội) trẻ nhất lịch sử Hoa Kỳ (29 tuổi). Để trở thành dân biểu, cô đã đánh bại Joe Crowley, một vị dân biểu kỳ cựu, vốn đắc cử 10 khóa liên tiếp (tại nhiệm 20 năm).


Thống đốc là thượng nghị có thể dẫn đến “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Ở Việt Nam, mô hình tập quyền tồn tại đã quá lâu (từ Lê/Nguyễn, Pháp thuộc, hiện nay) nên không dễ dàng chuyển sang tản quyền. Mô hình Thống đốc ngồi quản lý hai hoặc ba tỉnh dưới quyền mình sẽ dung hòa tập quyền và tản quyền, hơi giống mô hình liên bang. Hai hoặc ba tỉnh dưới quyền ông này này vẫn là các tỉnh độc lập chứ không sáp nhập vào nhau. Tỉnh trưởng vẫn do dân bầu lên. So với thời Nguyễn (dân chủ đến cấp thôn xã), thì ở mô hình này dân chủ tăng lên đến cấp tỉnh. Đồng thời mô hình này có thể bỏ quản lý hành chính cấp phủ/huyện/thị. Cảnh sát có thể quay lại mô hình đồn cảnh sát giống Pháp hoặc Mỹ. Nhờ công nghệ quản lý hiện đại, việc này trở nên hợp lý hơn nhiều so với bộ máy quản lý hành chính hiện tại. Nó cũng giúp mô hình chính quyền đô thị trở nên khả thi hơn.


Về trách nhiệm giải trình (accountability) hiện nay, các lãnh đạo cao nhất của địa phương như Chủ tịch, Bí thư chỉ chịu trách nhiệm trước Thành ủy và Ban chấp hành TW, không chịu trách nhiệm với dân. Với cơ chế tỉnh trưởng cho dân (Hạ viện) bầu lên, họ sẽ chịu trách nhiệm với dân, và chịu sự quản lý của Thượng viện (Ban chấp hành Trung ương). Có thể giữ lại mô hình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh như hiện nay và chuyển đổi hoạt động sao cho giống một “quốc hội” cấp tỉnh thành. “Quốc hội” này sẽ giám sát các vị tỉnh trưởng.


Tổng thống Kennedy bổ nhiệm McNamara, lúc đó đang là Tổng giám đốc (President) của hãng xe hơi Ford, làm Bộ trưởng quốc phòng. Hay gần đây hơn, Tổng thống Trump bổ nhiệm anh Patrick Shanahan đang là Phó tổng giám đốc (Vice president) của Boeing làm Thứ trưởng (Deputy Secretary) Bộ quốc phòng (sắp tới có thể anh này sẽ thành Bộ trưởng).


Có thể có những quy định về bổ nhiệm, ví dụ Thủ tướng nhậm chức nhiệm kỳ đầu, sẽ phải đợi 3 năm đầu nhiệm kỳ đi qua mới được bổ nhiệm công tố viên cao cấp. Như vậy các công tố viên (án sát sứ này) không bị sức ép lấy lòng Thủ tướng để được tái bổ nhiệm (do Thủ tướng dù có làm 2 nhiệm kỳ cũng chỉ tại vị được 12 năm). Công tố viên (án sát sứ) này tuy vẫn dưới quyền Bộ trưởng tư pháp (công tố viên trưởng), nhưng do Thủ tướng bổ nhiệm nên cũng không chịu sức ép chi phối từ bộ trưởng của mình. Họ cũng không sợ chính quyền địa phương gây sức ép (hiện tại Chủ tịch thành phố và Bí thư thành phố có thể can thiệp việc của Viện kiểm sát và Tòa án). Theo mô hình này thì sẽ không còn Viện kiểm sát nhân dân tối cao nữa (quyền công tố sẽ thuộc về Bộ tư pháp).


Cách làm này sẽ mở rộng cơ hội tới nhiều nhân tài địa phương để họ có thể tham gia chính quyền và quản trị địa phương của mình. Như Michael Bloomberg, chủ tập đoàn Bloomberg và là một trong những tỷ phú giàu nhất nước Mỹ, đắc cử và làm Đô trưởng (phủ doãn) thành phố New York (thuộc Bang New York) suốt ba nhiệm kỳ liên tục từ 2001-2013.


Có thể có những quy định chặt chẽ hơn, ví dụ để ứng cử chức Thủ tướng thì phải có ít nhất một  (hoặc) nhiệm kỳ phục vụ ở Thượng viện hoặc Thống đốc. Bill Clinton đắc cử Thống đốc bang năm 32 tuổi, đắc cử Tổng thống năm 47 tuổi. Các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ sẽ không bị giới hạn nhiệm kỳ (thượng nghị sĩ Patrick Joseph Leahy, sinh năm 1940, đắc cử năm 1974 và làm việc ở Thượng viện cho đến tận bây giờ, ông mới qua thăm Việt tham tháng 4.2019).


Lich sử La Mã rất dài và phức tạp, có nhiều thời kỳ khác nhau, trong đó có khoảng 500 năm là đế chế cộng hòa và 500 năm là đế chế quý tộc.


Cách vận hành của chính trị Cộng hòa La Mã học hỏi từ các thành bang (city state) của Hy Lạp cổ: người cai trị thành bang là Tổng chưởng quan (magistracy), ông quan này do người dân bầu lên, có nhiệm kỳ một năm, và bị giám sát  bởi các vị nguyên lão (senate).


Ở nền cộng hòa của La Mã, vị trí Tổng chưởng quan này do hai viên quan Chấp chính (consul) đảm nhận (lưỡng đầu chế). Một viên quan đại diện cho giới thượng lưu (patrician), một quan đại diện cho giới bình dân (plebeian). Cả hai viên quan đều do Viện nguyên lão bầu ra. Viện nguyên lão có khoảng vài trăm thành viên, tất cả đều là những người có địa vị xã hội (có uy tín xã hội, có tài sản). “Lưỡng đầu hành pháp” giúp hệ thống cộng hòa vận hành cân bằng, phân chia và kiểm soát quyền lực, không để nền cộng hòa chuyển sang độc tài cá nhân.


Trên thực tế, ý tưởng này vẫn còn rất xa vời, gần như không khả thi. Để làm được vẫn cần có phong trào xã hội dân sự đủ rộng, đủ sâu và đủ bền bỉ để gây sức ép (cũng như thuyết phục) nhà nước đồng ý sửa hiến pháp.


Rất khó định nghĩa thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay, nó đa diện đến mức vừa là đảng trị, vừa là cảnh sát trị, vừa là an ninh trị, lại vừa là cá nhân trị. Việc tách ly chính trị hoàn toàn Đảng ra khỏi quản lý kinh tế xã hội (điều hành kinh tế, bộ máy cảnh sát, an ninh, quân đội) là rất khó.


Kép là vì có cả Lưỡng đầu chế (Chủ tịch nước vs Thủ tướng, cả hai cùng là “quý tộc”) và Lưỡng đầu hành pháp (Thủ tướng “quý tộc” vs Phó thủ tướng “bình dân”).


Hệ Anh-Canada-Úc tuy vẫn là quân chủ lập hiến, nhưng vai trò của monarchy-giai cấp thống trị chỉ còn hình thức. Thượng viện không phải dân cử nên chẳng mấy quyền lực; Hạ viện mới là cơ quan quyền lực cao nhất de facto. Ở Canada, nhiều luật đưa lên bị Thượng viện đòi chỉnh sửa, nhưng Hạ viện không chịu, tức là chính phủ (chiếm nhiều ghế nhất trong Hạ viện) không chịu nên Thượng viện đành phải nghe theo. (LH)


Phép vua thua lệ làng. Xã hội Việt truyền thống dựa trên “tổ chức xã thôn”. Xã thôn (làng) có quyền tự trị rất lớn. Họ tự bầu ra Lý trưởng (xã trưởng, trưởng thôn) hoặc cao hơn là Chánh tổng (tổng bap gồm vài thôn). Các vị này điều hành địa phương của mình trên cơ sở hương ước (giao ước cấp hương xã) và có các hương chức giúp đỡ. Lý trưởng và hương chức lại bị giám sát bởi Hội đồng kỳ mục. Hội đồng kỳ mục cũng do dân bầu ra, họ là các vị có uy tín, có tiền bạc ở quê (quan chức về hưu, thầy giáo, phú hộ). Ngay cả nhà Nguyễn tập quyền và chuyên chế, hệ thống hành chính của họ cũng chỉ đến cấp phủ/huyện. Họ không động vào tự trị thôn xã. Các hiệp hội nghề nghiệp cũng được tự do thành lập. Hội nghề nghiệp được gọi là Cục/Cuộc hoặc Ty. Các nhóm nghề tự thành lập hiệp hội và xin phép quan Bố chính sứ (quan phụ trách tài chính và kế hoạch đầu tư ở cấp huyện phủ) là xong. (Ngân thượng ty: hội thợ vàng, thiết thượng ty: hội thợ rèn, cơ tượng ty: hội thợ dệt)


Hiện người dân chỉ có một cách duy nhất để thể hiện ý chí và quyền lực của mình: rút dép ra ném.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 13, 2019 21:47

May 30, 2019

Tháng Năm

Tháng Năm năm nay có một lễ kỷ niệm đặc biệt: Kỷ niệm lần thứ 100 ngày các nhà thiên văn học xác nhận (confirm) thuyết tương đối tổng quát của Einstein là đúng.


*


Có một câu chuyện đùa, chắc hẳn là không có thật, nhưng những người hâm mộ Einstein khá thích. Chuyện kể rằng, khi được hỏi “Là người thông minh nhất trái đất, ông cảm thấy thế nào?”, Einstein trả lời: “Câu này nên hỏi Nicola Tesla”.


Suốt mấy chục năm đầu thế kỷ 20, Tesla là kỹ sư điện và nhà sáng chế nổi bật, thành công, và sáng láng nhất thế giới. Kỹ sư điện hồi đó là nghề tân kỳ như nghề làm AI bây giờ. Các sáng chế của Tesla không chỉ mang lại cho ông một núi tiền (mà sau này ông phá hết vào các phòng lab kỳ quái của mình), mà còn khai sinh ra Cách mạng công nghiệp 2.0: Máy phát điện và động cơ điện xoay chiều.


Thế nhưng Tesla luôn chế diễu Einstein và nhiều lần ngạo mạn bác bỏ cả Thuyết tương đối hẹp và Thuyết tương đối tổng quát. Sau này người ra cho rằng Tesla phủ nhận Einstein, một phần là vì bài Do Thái, một phần (lớn hơn) là do ông không hiểu về mặt toán học các lý thuyết của Einstein. Lý do Tesla không hiểu, có thể là do ông không được học về các phương trình của Maxwell. Vào thời của Einstein và Tesla, ở đại học hàng đầu thế giới người ta vẫn chưa dạy các phương trình của Maxwell. Einstein đã phải tự học các phương trình độc đáo này. 


Câu chuyện Tesla phủ nhận Einstein thường được kể như một ví dụ về việc ngay cả những người như Tesla: thông minh nhất, được đào tạo tốt nhất, có đầu óc sáng tạo bậc nhất, có thành tựu khoa học rất lớn, đẹp giai, lịch lãm, nề nếp, nhưng đã không nhận ra (hoặc không chịu nhận ra) paradigm shift của khoa học, của xã hội.


*


Câu chuyện của Sir Arthur Eddington thì ngược lại. Lúc Einstein công bố Thuyết tương đối tổng quát (1915-1916), việc liên lạc ở Châu Âu còn khó khăn. Khó khăn nhất không phải là việc gửi thư từ tài liệu cho nhau, mà là sự nghi kỵ của các nhà khoa học Châu Âu với các nhà khoa học Đức.


Arthur Eddington lúc bấy giờ là Thư ký của Hội Thiên văn học Hoàng gia Anh, nên ông tiếp xúc sớm với công trình của Einstein. Vừa là nhà thiên văn, vừa giỏi toán và hiểu được công trình của Einstein, ông nhận ra được tính khả thi trong thí nghiệm Nhật thực mà Einstein đề xuất để kiểm chứng lý thuyết của chính mình. Chưa hết, Eddington không phân biệt chủng tộc mà còn ngược lại. Ông theo giáo lý Quaker và là người ủng hộ nhiệt thành cho chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa thái bình. Chứng minh lý thuyết của Einstein là đúng sẽ kéo các nhà khoa học Anh và Châu Âu gần lại các nhà khoa học Đức.


Để chứng minh lý thuyết của mình bằng thực nghiệm, Einstein tự đề xuất (tất nhiên bằng các phương trình) sử dụng hiện tượng nhật thực toàn phần. Tháng Năm năm 1919 sẽ xảy ra hiện tượng Nhật thực toàn phần, nếu đo đạc từ hai điểm quan sát ở Châu Phi và Brazil sẽ chứng minh được Thuyết tương đối tổng quát là đúng. Eddington đã “đấu tranh” miệt mài để tổ chức được hai đoàn thám hiểm, đi Châu Phi và đi Brazil, để thực hiện thực nghiệm. Hồi đó, những chuyến đi như vậy vất vả, tốn kém, và phép đo phụ thuộc nhiều vào thời tiết.


May quá, Eddington thành công. Lý thuyết của Einstein lần đầu tiên được chứng minh là đúng. Einstein trở nên nổi tiếng khắp thế giới. Đến mức, như trong một cuốn sách mà hồi bé tôi đọc, họ kể rằng phong bì thư chỉ cần đề “Ông Einstein ở Châu Âu” là sẽ đến nơi. Trong cuốn sách ấy, có cả bài thơ chế diễu Einstein, mà sau này đọc bài thơ Tesla làm để diễu cợt Einstein, tôi cảm như hai bài là một.


Sir Arthur Eddington cũng nổi tiếng chẳng kém. Truyền thuyết kể rằng, có lần được phỏng vấn: “Có phải thế giới này chỉ có ba người, trong đó có Einstein, là hiểu Thuyết tương đối không?”, Eddington ngồi nghĩ rất lâu, rồi trả lời: “Tôi không biết người thứ ba là ai!”


Tờ New York Times ở thời điểm Eddingon công bố bức ảnh chụp Nhật thực toàn phần nổi tiếng của mình, họ không có sẵn phóng viên khoa học ở London. Thế là họ cử một anh chuyên viết về đánh golf đi làm bài. Điều kỳ lạ là bài báo thành công xuất sắc và đến tận bây giờ trong số những người hâm mộ Einstein vẫn nhiều người nhắc đến.


*


Hôm rồi sau khi đăng ký trường Minh Việt (MVA) của Gấu (Anh Phạm), tôi có chat với Gấu mấy câu. Đại ý bảo nước mình lãnh đạo hô hào 4.0 kinh quá mà chưa làm gì cụ thể, trong khi anh phiên dịch Anh Gấu Phạm đã triển khai được Giáo dục 4.0. Deadline đăng ký học Minh Việt là hết tháng Năm này, tức là còn độ 48 tiếng nữa. Link đăng ký ở đây:


https://docs.google.com/forms/d/e/1FAIpQLSdj2xF7QrSCx8jANYKvR-67J6jl5p4_k7rdBMyCDE8hKvfIgA/viewform


Chương trình học của Minh Việt (MVA) ở đây: https://www.minhvietacademy.org/chuong-trinh-hoc


Còn các thông tin khác của Minh Việt thì ở đây: https://www.minhvietacademy.org/


(Ngắn gọn, Minh Việt là trường phổ thông, dạy bằng giáo trình Mỹ có bản quyền, hiệu trưởng, giảng viên là người Mỹ. Năm nay tuyển sinh từ lớp 4 đến lớp 9. Điểm khác biệt của trường này là học online, học phí rẻ, học sinh ở đâu cũng học được.


Tuần học 4 buổi chính thức, từ 6:30pm, học 3 tiết, mỗi tiết 55 phút. Học bằng tiếng Anh. Có phụ đạo tiếng Anh cho các cháu hơi đuối ngoại ngữ.


Học phí hoàn trả bất cứ lúc nào, nếu phụ huynh không hài lòng.


Mục tiêu của trường:


Mục tiêu chính của MVA là chuẩn bị cho các cháu đi học và sống ở nước ngoài về sau này chứ không chỉ đơn giản là học phổ thông để lấy kiến thức phổ thông. Toàn bộ chương trình sẽ được định hình theo hướng chuẩn bị cho các cháu tham gia vào với thế giới. Mục tiêu là đưa được nhiều cháu nhất ra nước ngoài, cụ thể là sang Mỹ, học tập ở bậc cao hơn. Chính vì lý do đó, một cấu phần rất quan trọng mình hình dung sẽ là hỗ trợ nộp đơn xin học, chuẩn bị cho các kỳ thi tiêu chuẩn Mỹ, giúp đỡ sắp xếp học bổng, các nguồn tài chính cho các cháu học tập ở nước ngoài.)


 


 


 


 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 30, 2019 01:51

April 19, 2019

Những kẻ săn Lỗ Đen Vũ Trụ

[image error]


Ảnh chụp ngược sáng Lỗ Đen Vũ Trụ M-87 do các nhà thiên văn của Dự án EHT thực hiện.


Trong hình, vòng tối ở giữa thể hiện “cái bóng” của Lỗ đen. Sắc cam sáng chói của đĩa sáng bao quanh Lỗ đen không phải là là sắc màu thực của quang phổ bức xạ phát ra từ đĩa khí vũ trụ nóng hàng tỷ độ (109 độ K) xung quanh Lỗ đen. Đây là sắc màu nhân tạo do các nhà khoa học của EHT chủ ý chọn nhằm thể hiện bản đồ nhiệt của bức ảnh Lỗ đen. Trong đó màu đen thể hiện không có bức xạ, màu đỏ thể hiện mức bức xạ mạnh hơn chút, còn màu cam thể hiện bức xạ cực mạnh. Nếu thay vì “bản đồ nhiệt”, các nhà khoa học chọn cách thể hiện bức ảnh này như một bức “ảnh quang học” thông thường, đĩa sáng quanh Lỗ đen sẽ có màu trắng phớt thêm sắc xanh và sắc đỏ.


 


Lỗ đen rất bí ẩn, quyến rũ và có cái gì đó xa cách. Nhà thơ máy đời đầu họ Hoàng tên Tô có lần buông dòng code đầy thính:


Lỗ đen em rất yêu kiều, nhưng làm vật lý phải yêu lỗ trời


Lỗ em sinh hạ loài người, lỗ trời sinh đột cuộc đời thế gian


(Chú thích, theo loop quantum theory, vũ trụ không sinh ra từ Big Bang, mà tái sinh đột ngột từ một Lỗ Trắng, hay còn gọi là Big Bounce.)


Làm thơ về lỗ đen con người thì khó, làm thơ về lỗ đen vũ trụ thì dễ. Thế nhưng chụp ảnh lỗ đen con người tuy có hơi phản cảm nhưng khá dễ, còn chụp lỗ đen vũ trụ lại khó vô cùng.


Tại sao rất khó chụp ảnh Lỗ đen? Tại sao phải chụp ảnh Lỗ đen ngược sáng (silhouette)? Tại sao phải “tô màu” cho bức ảnh? Và trạm thiên văn cổ của nước ta, nay là vị trí nào trên phố Khâm Thiên? Câu trả lời lấp ló đằng sau lỗ đen trong bài đọc dài ná thở dưới đây!


Katie Bouman


Chỉ vài tiếng sau khi Dự án thiên văn Event Horizon Telescope (EHT) công bố bức ảnh đầu tiên chụp Lỗ đen vũ trụ, Internet bỗng tràn ngập một bức ảnh khác chụp một cô gái có ánh mắt rạng rỡ đang ngồi trong phòng làm việc bé xíu. Cô gái đấy là Katie Bouman, một nhà khoa học máy tính năm nay 29 tuổi. Cô là người phát triển thuật toán xử lý dữ liệu ảnh để tổng hợp một núi dữ liệu EHT thu thập từ Lỗ đen M-87 suốt nhiều năm, rồi từ dựng lên thành ảnh.


Đại học MIT nơi Katie Bouman làm nghiên cứu sinh sau tiến sĩ đã có một động tác tôn vinh cô. Trên twitter của nhà trường, họ đưa ảnh của Bouman bên cạnh ảnh một nhà khoa học máy tính khác, bà Margaret Hamilton. Bà Hamilton là người viết mã phần mềm phóng tàu vũ trụ Apollo của NASA đưa người lên mặt trăng.


[image error]


[image error]


Hình trên: Nhà khoa học máy tính Katie Bouman với các ổ cứng chữa dữ liệu hình ảnh Lỗ đen vũ trụ.


Hình dưới : Nhà khoa học máy tính Margaret Hamilton với tập giấy in những dòng mã phần mềm mà cô viết để phóng tàu vũ trụ Apollo đưa người lên mặt trăng. 


 


Kính thiên văn vô tuyến


Vào thời của Galilei Galileo ở thế kỷ 17, các nhà thiên văn phải chế tạo những kính viễn vọng quang học tinh xảo để qua đó họ quan sát bầu trời bằng mắt thường. Thời đó, với các nhà thiên văn, cách duy nhất để nghiên cứu bầu trời là quan sát ánh sáng phát ra hoặc phản xạ ra từ các thiên thể.


Nhưng từ giữa thế kỷ 20, các nhà thiên văn biết rằng hầu hết các vật thể trong vũ trụ, ngoại trừ vật chất tối hay hạt neutrino, đều bức xạ hoặc phản xạ sóng điện từ. Ngày nay các nhà vật lý thiên văn quan sát bầu trời bằng các ăngten chảo kết nối với máy tính.


Giống như ta ngồi trong một căn phòng trơ vơ trên núi, dùng ăngten chảo để bắt sóng truyền hình để xem Quang Hải và đồng đội thi đấu trên màn hình ti vi, các nhà thiên văn dùng các ăngten chảo khổng lồ đặt ở những nơi hoang địa để thu sóng điện từ đến từ vũ trụ. Dữ liệu thu được, họ lưu trữ vào ổ cứng, rồi chuyển về trung tâm phân tích của mình.


Thuật toán của Katie và nỗ lực của nhóm chuyên gia do cô dẫn dắt suốt ba năm qua, đã xử lý một núi dữ liệu Lỗ đen khổng lồ của EHT để dựng thành bức ảnh “chụp Lỗ đen” làm chấn động thế giới ngày 10 tháng Tư vừa qua.


 


Không-Thời-Gian (spacetime)


Nhưng Lỗ đen vũ trụ thực sự là gì. Lỗ đen vũ trụ là thứ nói về nó không quá khó, nhưng tưởng tượng về nó lại cực kỳ khó.


Trước tiên, ta hãy cùng tưởng tượng loài người là các con kiến bé li ti, thông minh và chăm chỉ. Những con kiến này sống trong một không gian chỉ có hai chiều, ví như trên một tờ giấy phẳng lỳ và vô cùng lớn. Dù rất thông minh, biết chế tác ra ống nhòm, nhưng các con kiến chỉ nhận thức được không gian hai chiều quen thuộc. Với chúng không gian không có chiều thứ ba. Nếu có một sinh vật khác đứng ở chiều thứ ba, ví dụ một con chim đứng ngoài tờ giấy và chĩa mỏ vào, toàn bộ loài kiến không có cách nào để “nhìn” được con chim ấy.


Thế rồi bỗng tờ giấy có một lỗ thủng bé xíu, gần như không có kích thước, nhưng có lực hút kinh hoàng. Nằm sát trên mặt tờ giấy, các con kiến không có cách nào “nhìn” thấy được lỗ thủng, chúng chỉ biết rằng có những con kiến đến gần cái “chỗ” ấy là đột ngột biến mất, và không ai biết là biến đi đâu.


Các con kiến rất giỏi toán, chúng nghiên cứu và cho rằng ở đúng cái “chỗ” bí ẩn ấy, không gian phẳng như chúng hằng quen thuộc, bị biến dạng, không còn phẳng nữa. Chúng gọi “chỗ” ấy là điểm kỳ dị (singularity). Điểm kỳ dị này hút những vật ở không gian hai chiều (trên mặt giấy phẳng) và đưa đi đâu đó, có thể sang một chiều không gian khác, hoàn toàn nằm ngoài nhận thức và hiểu biết của loài kiến.


Lỗ đen vũ trụ là một điểm kỳ dị như vậy, nhưng trong không gian nhiều hơn hai chiều. Ví dụ như trong không gian ba chiều mà tất cả chúng ta đều quen thuộc. Thế nhưng, nếu con người đến gần cái Lỗ đen ấy và bị hút vào, họ sẽ biến đi đâu, còn những chiều không gian nào khác mà con người chúng ta (cũng như con kiến kia) chưa từng trải nghiệm và không có cách nào nhận thức được.


Tới đây, để hiểu thêm về điểm kỳ dị hay còn gọi là Lỗ đen vũ trụ, ta lại cần thêm một chút tưởng tượng về chiều không gian thứ tư: chiều thời gian.


Nếu không gian chỉ có một chiều, chúng ta sẽ là những con kiến sống trên một sợi chỉ thẳng băng dài vô tận. Nếu không gian có hai chiều, thì hai chiều không gian ấy vuông góc với nhau và tạo thành mặt, ví dụ mặt giấy phẳng rộng vô cùng tận. Nếu không gian có ba chiều, mỗi chiều của không gian sẽ vuông góc với hai chiều còn lại. Hãy nghĩ về cái góc trong phòng của bạn, đó chính là ba chiều không gian trực giao với nhau. Đó chính là không gian mà chúng ta quen thuộc.


Thế còn chiều thứ tư. Chiều thứ tư sẽ buộc phải vuông góc với ba chiều còn lại. Nói đúng hơn, mỗi chiều sẽ phải trực giao với ba chiều kia. Bạn thử tưởng tượng một chút về bốn chiều không gian này xem sao. Rất khó đấy. Nó vượt ra khỏi trải nghiệm và nhận thức thông thường của mỗi chúng ta. Thế nhưng các nhà khoa học lại tưởng tượng được: họ dùng toán học. Nếu bạn tình cờ nghe đến không gian Hilbert, thì đó chính là không gian nhiều chiều, có thể nhiều hơn bốn chiều.


Nhưng để hiểu Lỗ đen vũ trụ, chỉ cần bốn chiều là đủ: ba chiều không gian và một chiều không gian. Đây chính là không-thời-gian (spacetime) mà ai đọc về Thuyết tương đối của Einstein đều bắt gặp. Không gian này còn mang tên nhà toán học phát minh ra nó: không gian Minkowski.


Trong không-thời-gian, thời gian là chiều luôn làm con người phải “xoắn não”. Nếu ai đã từng tìm hiểu không gian Minkowski, họ biết đến một sự thú vị mà phụ nữ nào cũng hết sức ghen tị: hạt photon không có khối lượng  và nó không bị già đi. Hạt photon chuyển động với vận tốc ánh sáng: nó không có thời gian riêng. Sự thú vị này một lần nữa liên quan đến Einsten. Theo Thuyết tương đối hẹp thời gian co dãn: chuyển động càng nhanh thì đồng hồ riêng của vật chuyển động chạy càng chậm. Những ai lề mề thì đời rất ngắn, ai lanh lẹn tháo vát đời sẽ rất dài.


Sự xoắn não của chiều thời gian không chỉ có vậy. Khoảng cách trong vũ trụ được đo bằng phút, hoặc năm ánh sáng. Năm ánh sáng là khoảng cách mà ánh sáng đi được trong một năm. Vận tốc ánh sáng nhanh kinh khủng, khoảng 300 ngàn kilômét mỗi giây. Một phút ánh sáng đã là một khoảng cách rất xa rồi. Mặt trời cách chúng ta hơn 8 phút ánh sáng. Một năm ánh sáng là một khoảng cách xa kinh khủng. Nếu ta dùng kính viễn vọng để nhìn xa thật xa vào vũ trụ, ta sẽ thấy mặt trời, các hành tinh Thủy, Hỏa, Mộc Thổ, … Rồi thấy những ngôi sao ở ngoài Hệ mặt trời. Rồi thấy trung tâm thiên hà của chúng ta. Rồi sẽ thấy cả những thiên hà hàng xóm.


Thiên hà M-87, nơi có Lỗ đen vừa bị con người chụp ảnh, cách chúng ta 55 triệu năm ánh sáng. Tức là tín hiệu từ M-87 đến với chúng ta hôm nay, đã được phát đi từ 55 triệu năm trước. Càng nhìn ra xa vào vũ trụ, ta lại càng nhìn thấy quá khứ xa xăm. Đó chính là chiều thứ tư của không-thời-gian.


(Để tượng tượng 55 triệu năm xa thế nào, ta hãy nghĩ về một biến cố được cho là đã xảy ra với trái đất 65 triệu năm trước: một thiên thạch khổng lồ đâm vào trái đất ở vị trí nay là Mexico. Cú va chạm đã tạo ra một sóng địa chấn cực mạnh lan trên bề mặt trái đất, tạo ra các vụ phun trào núi lửa, và làm tuyệt diệt loài khủng long).


 


Lỗ đen vũ trụ (black hole).


Nếu ta đặt một khẩu đại bác trên mặt đất, hướng nòng thẳng lên trời rồi bắn ra một viên đạn, viên đạn ấy sẽ bay lên cao rồi …rơi xuống đất. Khẩu đại bác càng mạnh, vận tốc viên đạn càng nhanh, viên đạn bay càng cao, nhưng rồi cũng sẽ rơi xuống. Đó là vì sức hút của trái đất kéo viên đạn trở lại. Nhưng nếu khẩu đại bác đủ mạnh, viên đạn có vận tốc đủ lớn, nó sẽ thoát khỏi sức hút (lực hấp dẫn) của trái đất mà đi vào không gian. Vận tốc này gọi là vận tốc thoát. Vận tốc thoát phụ thuộc vào lực hấp dẫn, còn lực hấp dẫn phụ thuộc vào khối lượng của trái đất (theo định luật Newton).


Năm 1783, một nhà khoa học người Anh tên là John Mitchell cho rằng nếu một vật thể có khối lượng cực lớn, thì vận tốc thoát có thể lớn hơn cả vận tốc ánh sáng. Ánh sáng không thể thoát ra khỏi vật thể ấy. Đó sẽ là một ngôi sao tối (dark star).


Năm 1915, Albert Einstein công bố Thuyết tương đối tổng quát giải thích được vì sao có trường hấp dẫn. Đó là do khối lượng của vật thể làm cong không gian (chính xác hơn là cong không-thời-gian) xung quanh vật thể ấy và tạo ra trường hấp dẫn. Theo Newton, trái đất bay theo quỹ đạo quanh mặt trời, là do lực hấp dẫn gắn kết hai vật thể với nhau. Theo Einstein, khối lượng mặt trời làm cong không gian quanh nó, và trái đất trượt theo không gian cong ấy mà bay quanh mặt trời. Tương tự như vậy mà mặt trăng bay quanh trái đất.


[image error]


Albert Einstein


Thuyết tương đối cũng cho thấy nếu vật chất bị dồn nén vào một không gian nhỏ đến một mức nào đấy, nó sẽ bẻ cong không gian đến mức không thứ gì, kể cả ánh sáng, có thể thoát ra được. Cái không gian bị bẻ cong đến mức ấy, chính là điểm kì dị. Điểm kì dị này, sau này vào năm 1964 được nhà vật lý John Wheeler đặt tên là chính thức là Lỗ đen (black hole).


Năm 1917, có một nhà toán học tên là Karl Schwarzschild tham gia Thế chiến thứ nhất. Ông chiến đấu ở mặt trận Nga với vai trò là người tính toán quỹ đạo đạn pháo cho pháo binh Đức. Ngồi trong chiến hào, ông giải phương trình Einsten cho không gian nằm gần sát một khối lượng vật chất hình cầu. Nghiệm của điểm kỳ dị mà ông tìm ra cho biết bán kính của vòng xuyến bao quanh Lỗ đen mà bất cứ thứ gì, kể cả ánh sáng, khi đi vào trong vòng xuyến này sẽ không quay trở ra được nữa. Nó bị hút vào điểm kì dị, mà nay quen thuộc với tên gọi Lỗ đen. Bán kính của vòng tròn (không quyển) ma quái quanh Lỗ đen, được gọi là Bán kính Schwarzschild. Từ phía ngoài ta không thể quan sát được những gì vượt qua vòng xuyến đấy. Vòng xuyến là chân trời xa nhất mà “tầm mắt” ta có thể vươn tớiđược, nó còn được gọi là chân trời sự kiện (event horizon).


[image error]


Karl Schwarzschild


Đến năm 1939, nhà vật lý người Mỹ Robert Oppenheimer mô tả bằng lý thuyết việc một ngôi sao có khối lượng khổng lồ bị sập vào bên trong do sức nặng tạo nên bởi lực hấp dẫn của chính mình; từ đó hình thành Lỗ đen. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Oppenheimer được giao nhiệm vụ lãnh đạo dự án Mahattan, dự án chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên của Mỹ. Ý tưởng về Lỗ đen tạm bị lãng quên. Mãi cho đến những năm 1960, 1970 các công trình nghiên cứu của các nhà vật lý như Roger Penrose, Jacob Bekenstein, Stephen Hawking mới đem Lỗ đen trở lại sân khấu của vật lý hiện đại. (Xem thêm về lý thuyết Lỗ đen của Bekenstein và Hawking ở đây.)


[image error]


Hình vẽ trên giúp cho ta một chút tưởng tượng về việc khối lượng làm biến dạng không gian xung quanh như thế nào. Bên trái mô tả Mặt trời làm biến dạng không gian đủ để tạo thành “máng trượt” cho các hành tinh “trượt” trên đó và bay quanh quỹ đạo mặt trời. Ở giữa là sao neutorn. Sao neutron là sao nguội và có mật độ vật chất cực kỳ đặc. Lúc đầu nó là một ngôi sao kềnh (giant star), nặng bằng 10 đến 30 lần khối lượng mặt trời. Sau đó nó suy sụp thành sao neutron, nặng cỡ vài lần khối lượng mặt trời, nhưng đường kính chỉ cỡ Quận 1. Một thìa vật chất sao neutron nặng cỡ 10 triệu tấn. Vận tốc thoát của ngôi sao neutron cỡ 0.4 vận tốc ánh sáng. Bên phải là Lỗ đen làm biến dạng không gian đến mức tạo thành giếng rất sâu (black hole well).  


Thế nhưng, từ lý thuyết đến thực nghiệm là một khoảng cách khổng lồ. Làm sao tìm được Lỗ đen khi nó hút tất cả mọi thứ kể cả ánh sáng. Làm sao dò được nó khi mọi tín hiệu đến gần nó đều bị nó nuốt chửng. Những nhà vật lý đi săn tìm Lỗ đen hẳn phải là những người không chỉ thông minh, kiên định mà còn phải rất tài tình trong các phương pháp thực nghiệm.


 


Đi tìm Lỗ đen


Các nhà vật lý thiên văn thường dùng khối lượng của mặt trời để làm đơn vị đo lường sức nặng của các vật thể trong vũ trụ. Họ thường nói Lỗ đen này nặng bằng mấy triệu lần khối lượng mặt trời. Về kích cỡ cũng vậy, họ ước lượng rằng nếu mặt trời (có đường kính cỡ gần 1.4 triệu kilômét) bị ép vào một không gian có chỉ rộng bằng khu cảng Ba Son, nó sẽ biến thành lỗ đen.


Năm 2016, đài thiên văn LIGO trong lúc cố gắng “lắng nghe” âm thanh từ những nơi thật thật xa xăm trong vũ trụ, họ đã “nghe thấy” tiếng động của hai vụ sáp nhập Lỗ đen.


Đầu tiên là vụ sáp nhập hai Lố đen mỗi Lỗ đen có khối lượng cỡ 30 lần khối lượng mặt trời, xảy ra cách xa chúng ta 1,3 tỷ năm ánh sáng. Tiếp đó là vụ sáp nhập một Lỗ đen nặng cỡ 14,2 lần khối lượng mặt trời với một Lỗ đen nặng 7,5 khối lượng mặt trời, cách xa chúng ta 1,4 tỷ năm ánh sáng. Khi hai Lỗ đen sáp nhập vào nhau, chúng tạo ra một chấn động lớn, chấn động này làm gợn sóng không-thời-gian, và sóng này lan truyền trong không gian với vận tốc ánh sáng. Đó chính là sóng hấp dẫn, được Einstein tiên đoán bằng các tính toán của mình từ năm 1917. Sóng hấp dẫn ấy lan truyền trong không-thời-gian và vượt qua một khoảng cách rất lớn về cả không gian và thời gian để đến với “tai” của đài thiên văn LIGO. Nói cách khác, đài thiên văn LIGO thu đượctín hiệu từ hai sự kiện trong quá khứ cách ngày nay 1,3 và 1,4 tỷ năm. Còn tín hiệu từ hai sự kiện ấy đã đi một quãng đường dài 1,3 và 1,4 tỷ năm ánh sáng đế đến với LIGO.


Trong vụ sáp nhập Lỗ đen thứ nhất, có một khối lượng khá lớn, cỡ khoảng 3 lần khối lượng mặt trời được chuyển thành năng lượng của sóng hấp dẫn (theo phương trình E=mc2). Như vậy để dò tìm được sóng hấp dẫn tạo ra từ các vụ sáp nhập hố đen “nhẹ” hơn, đài thiên văn LIGO cần phải “nhạy” hơn. Mới đây LIGO được nâng cấp và tăng thêm được 40% độ nhạy của mình. (Ai quan tâm thêm đến sóng hấp dẫn và cách các giao thoa kế laser của LIGO hoạt động, có thể đọc thêm về LIGO ở bài này.)


Thế nhưng làm thế nào để quan sát “sống” một Lỗ đen? Việc đầu tiên phải chứng minh được ở “chỗ đó” trong vũ trụ có một Lỗ đen. Còn cách chứng minh? Đó là phải xác định được có một khối lượng khổng lồ nằm trong một thể tích rất nhỏ, ở đúng “chỗ” không gian đó.


Các nhà vật lý thiên văn một lần nữa phải dựa vào Thuyết tương đối tổng quát của Einstein để tìm lỗ đen. Nếu họ tìm thấy đúng như tính toán của mình, thì một lần nữa thuyết của Einsten được kiểm chứng.


Mặt khác, như các nhà vật lý kỳ vọng, nếu có cách nào quan sát được các hiện tượng xảy ra ở bên rìa chân trời sự kiện, ta sẽ không chỉ kiểm tra được sự đúng đắn của Thuyết tương đối, mà còn thấy Thuyết tương đối (vốn chỉ liên quan với những gì vô cùng lớn) gặp gỡ Thuyết lượng tử (vốn chỉ làm việc với những gì vô cùng tí hon). Đây là một trong những động cơ quan trọng thúc đẩy các nhà vật lý thiên văn đi nghiên cứu Lỗ đen vũ trụ, một vật thể chưa ai từng nhìn thấy. Và chưa có bức ảnh chụp thẳng Lỗ đen vũ trụ nào, cho đến ngày 10 tháng Tư vừa qua.


 


Lỗ đen giữa dải Ngân Hà


Trái đất nơi chúng ta đang sống là một hành tinh nằm trong Hệ mặt trời. Bán kính của Hệ mặt trời, tức khoảng cách từ mặt trời đến đường biên của hệ nơi lực hấp dẫn của mặt trời hết tác dụng, cỡ khoảng 2 năm ánh sáng. Khoảng cách từ trái đất đến mặt trời “chỉ” khoảng 8,3 phút ánh sáng.


Hệ mặt trời của chúng ta lại nằm trong một thiên hà có tên gọi Dải Ngân hà. Khoảng cách từ Hệ mặt trời đến tâm Dải Ngân hà khoảng 28 ngàn năm ánh sáng.


Dải Ngân Hà có dạng một cái đĩa khổng lồ. Đường kính của đĩa này khoảng 100 ngàn đến 120 ngàn năm ánh sáng. Tháng 7 năm 2018 có một nghiên cứu thiên văn, cho rằng Ngân hà rộng tới 200 ngàn năm ánh sáng, nhưng khối lượng thì vẫn thế. Tuy nhiên điều này không quá quan trọng, với con người thì vài chục tiếng ánh sáng đã là khoảng cách xa kinh hoàng rồi.


Vũ trụ cực kỳ rộng lớn, nó có hàng tỷ thiên hà. Dải Ngân hà, tức thiên hà của chúng ta, chỉ là một trong vô vàn các thiên hà của vũ trụ.


Năm 1974 các nhà thiên văn vô tuyến phát hiện ra ở trung tâm Ngân hà có một nguồn bức xạ sóng điện từ mà các nhà thiên văn đặt tên là Sagittarius A* (viết tắt là  Sgr A*).


Tên nguồn bức xạ được đặt theo tên Sagittarius, là tên một chòm sao nằm gần nguồn bức xạ này, trong tiếng Latin có nghĩa là Cung Thủ.  Ở vị trí của nguồn bức xạ Sagittarius A* có thể tồn tại một Lỗ đen. Hay nói cách khác, ở chính giữa Ngân hà có một …lỗ đen. Lỗ đen này không phải là Lỗ đen hình thành do một ngôi sao khổng lồ kết thúc cuộc đời và suy sụp vào bên trong chính mình. Lỗ đen này là một Lỗ đen siêu nặng (super massive black hole).


Có hai loại Lỗ đen. Lỗ đen Schwarzschild là lỗ đen không tự quay quanh trục của mình (non-rotating) và Lỗ đen Kerr quay quanh trục của mình(rotating). Với Lỗ đen Kerr, có từ trường bao quanh ngay bên ngoài rìa đường biên của Lỗ đen. Các hạt chuyển động trong từ trường này với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng vòng quanh trục lỗ đen. Các hạt này phát ra bức xạ synchrotron (synchrotron emission) có đặc tính của sóng vô tuyến. Bức xạ này có hướng vuông góc với mặt phẳng quay, và phát ra thành tia sóng (relativistic jet) cực mạnh từ cực Nam và cực Bắc của Lỗ đen. Đây chính là “nguồn” bức xạ sóng vô tuyến ở “chỗ” mà các nhà khoa học tin rằng có một Lỗ đen quay.


[image error]


Từ hàng chục năm nay một nhà vật lý thiên văn, bà Andrea Mia Ghez, cùng các đồng nghiệp của mình tại University of Califonia, Los Angeles (UCLA) và tại đài thiên văn Keck (Keck Observatory) đã và đang “quan sát” Lỗ đen này. Họ phát triển các công nghệ để quan sát những ngôi sao bay rất nhanh vòng quanh ngay sát trung tâm Ngân hà. Một ngôi sao sát gần trung tâm Ngân hà như vật có tên là S0-2.


[image error]


Đài thiên văn Keck


[image error]


Andrea Mia Ghez


Do tác động của lực hấp dẫn cực kỳ khổng lồ của lỗ đen, ánh sáng phát ra từ S0-2 bị “kéo dãn ra rất nhiều”. Nếu ánh sáng trắng (mắt người nhìn thấy được) là cái lược có răng lược khít nhau (khoảng cách giữa các răng lược là bước sóng), thì dưới tác động của lực hấp dẫn các răng lược thưa nhau ra (bước sóng bị kéo dài ra) và trở thành ánh sáng hồng ngoại (mắt người không nhìn thấy). Ánh sáng hồng ngoại chính là “ánh sáng” phát ra từ remote điều khiển tivi nhà ai cũng có. Hiện tượng sóng ánh sáng bị kéo dãn ra như vậy được gọi là “chuyển dịch đỏ”.


Các nhà vật lý thiên văn quan sát sóng hồng ngoại phát ra từ S0-2, cách trái đất chúng ta khoảng 25 ngàn năm ánh sáng, từ đó xác định được quỹ đạo (có bán kính khoảng 17 giờ ánh sáng), chu kỳ (khoảng 16 năm) và vận tốc (khoảng 3 triệu dặm mỗi giờ) của ngôi sao S0-2 bay quanh tâm của Ngân hà. Rồi từ đây họ tính toán được khối lượng và kích thước Lỗ đen ở trung tâm Ngân hà.


[image error]


[image error]


Quỹ đạo S0-2 quanh tâm dải Ngân hà


Khối lượng của Lỗ đen này cỡ khoảng 4 triệu lần khối lượng mặt trời. Nhưng kích thước của nó chỉ hơn mặt trời cỡ 10 lần, tức là “chỉ” vào khoảng 10 triệu kilômét.


Chụp ảnh Lỗ đen


Ta không thể chụp ảnh được Lỗ đen, một vật thể vũ trụ vốn hút vào trong “điểm kỳ dị” của mình tất cả mọi thứ kể cả ánh sáng. Thế nhưng nếu có một nền sáng, hẳn cái “Lỗ đen” ấy ắt sẽ phải phủ “bóng” lên cái nền sáng ấy. Tức là ta có thể chụp một tấm ảnh ngược sáng (silhouette) cái Lố đen ấy.


Do lực hấp dẫn cực mạnh của lỗ đen, khí (gas) và bụi (dust) vũ trụ bị kéo vào một không gian cực kỳ chật hẹp và do đó bị nung nóng lên nhiệt độ cực cao, cỡ hàng trăm tỷ độ, ở xung quanh một lỗ đen siêu nặng, và từ đó nó bức xạ ra sóng điện từ. Theo Thuyết tương đối của Einstein, không-thời-gian quanh Lỗ đen bị bẻ cong đến mức ở bên rìa của chân trời sự kiện ánh sáng sẽ chạy vòng quanh trên quỹ đạo lỗ đen, giống như viên đạn được khẩu đại bác bắn ra với bận tốc bằng vận tốc thoát ly và cứ thế bay quanh trái đất (như một vệ tinh nhân tạo).


Nếu biết cách chế tạo ra kính thiên văn đặc biệt, ta có thể quan sát vùng rìa Lỗ đen từ rất nhiều góc xung quanh, giống như camera lượn quanh Neo trong bộ phim The Matrix. Từ đó, ta sẽ thấy hình ảnh ngược sáng cái bóng của Lỗ đen trên nền một vòng sáng. Vòng sáng này theo tính toán dựa trên phương trình Einstein sẽ có bán kính lớn gấp 5 lần Bán kính Schwarzschild . Ta không nhìn được bên trong lỗ đen thì ta ta nhìn bên vỏ ngoài của nó. Hay nói cách khác, ta sẽ chụp ảnh được cái bóng tối của nó ngược trên nền sáng.


Lỗ đen ở thiên hà hàng xóm


Các nhà thiên văn ở đài thiên văn EHT đang cố gắng chụp được ảnh Lỗ đen siêu nặng ở trung tâm dải Ngân hà. Nhưng trước tiên, họ phải thành công trong việc chụp ảnh được Lỗ đen ở thiên hà hàng xóm cái đã. Thiên hà hàng xóm đó có tên gọi Messier 87 (M-87) ở cách xa chúng ta 55 triệu năm ánh sáng. Thiên hà M-87 cực kỳ lớn, nó nặng hơn Ngân hà của chúng ta 200 lần. Lỗ đen ở thiên hà này nặng bằng 6,5 tỷ khối lượng mặt trời và có chiều rộng khoảng 40 tỷ kilômét. Nhưng vì nó ở quá xa, nên góc nhìn của nó từ trái đất cực kỳ hẹp, chỉ cỡ 40 μarcsec (40 micro-arcsecond). Một μarcsec bằng một phần triệu góc giây (10-6 arcsecond). Để dễ tưởng tượng, góc nhìn này tương đương với góc ngắm một mặt trăng tí hon, có đường kính chỉ bằng một phần 50 triệu đường kính mặt trăng thực.


Tức là, việc chụp ảnh lỗ đen M-87 khó khăn giống như ta dùng smartphone để chụp ảnh một quả lê để trên mặt trăng vậy.


Để chụp ảnh một vật thể nhỏ như vậy ta cần kính thiên văn có độ phóng đại cực kỳ lớn. Để chụp lỗ đen M-87 ta cần xây dựng một kính thiên văn parabol có đường kính chảo  khoảng 10 ngàn kilômét. Thế nhưng đường kính trái đất chỉ tròm chèm 13 ngàn kilômét nên việc này là không thể.


Thay vào đó, các nhà thiên văn có giải pháp rất thông minh. Họ xây dựng 8 trạm thiên văn vô tuyến ở 6 vùng đất hoang sơ trên thế giới: Arizona, Hawaii, Mexico, Chile, Spain và Nam Cực (Chile và Hawaii, mỗi nơi có hai trạm). Các trạm thiên văn này được đồng bộ hóa với nhau bằng đồng hồ nguyên tử và các chảo thu sóng được tinh chỉnh sao cho tín hiệu vũ trụ thu được từ 8 đài này nếu tổng hợp lại sẽ giống như được thu bằng một chảo thiên văn “ảo” khổng lồ to bằng trái đất. Dữ liệu thu được ở mỗi đài được lưu trữ vào các ổ cứng rồi cứ vài tháng một lần được chuyển bằng máy bay về trung tâm nghiên cứu.


Dự án đài thiên văn này có tên Event Horizon Telescope (EHT).


Dữ liệu của thu được từ các trạm thiên văn này lớn đến nỗi anh Shep Doeleman giám đốc dự án EHT nói đùa rằng anh xách ổ cứng đi ra máy bay rồi bay về trung tâm vẫn còn nhanh hơn cả đường truyền internet tốc độ cao nhất.


[image error]


Trạm thiên văn của EHT đặt ở Nam Cực


Xử lý ảnh lỗ đen M-87


Ý tưởng, công nghệ, thiết bị và các tính toán giải phương trình của các nhà khoa học tại EHT toàn là những đỉnh cao kì diệu. Thế nhưng trái đất không đứng yên trong vũ trụ để các trạm thiên văn EHT chỉ việc hướng các ăng ten chảo của mình về phía thiên hà M-87 và thu sóng. Trái đất liên tục quay quanh trục của mình và bay trên quỹ đạo quanh mặt trời.


Các tín hiệu vô tuyến mà ETH thu thập từ Lỗ đen M-87 bé xíu và rất xa xôi kia là một núi dữ liệu khổng lồ. Những ổ cứng chứa dữ liệu chuyển về Trung tâm Thiên văn Haystack Observatory của Đại học MIT nay đã nặng khoảng nửa tấn. Thế nhưng núi dữ liệu ấy lại bao gồm các tín hiệu rời rạc, không đầy đủ, bị trễ, bị trùng lắp và đầy nhiễu.


Để dựng các tín hiệu ấy thành hình ảnh ngược sáng của Lỗ đen, họ cần một công nghệ xử lý hình ảnh đặc biệt. Công nghệ ấy dựa trên một thuật toán do Katie Bouman phát triển từ năm 2016. Cô đặt tên thuật toán này là CHIRP (Continuous High-resolution Image Reconstruction using Patch priors).


Sử dụng thuật toán CHIRP, cô gái trẻ trung Bouman và nhóm của mình được giao nhiệm vụ tổng hợp và xử lý dữ liệu hình ảnh từ 8 trạm thiên văn của EHT để dựng thành ảnh Lỗ đen vũ trụ.


Cách đây hai năm, khi thuật toán của mình được EHT chọn sử dụng, Katie Bouman được TED Talk mời nói chuyện. Nhà khoa học nữ gày gò, gương mặt sáng trưng, đứng trên sân khấu vẫn còn bị hồi hộp, nói vấp nói váp trước khán giả về thuật toán của mình.


Tuần vừa rồi, sau khi EHT công bố bức ảnh Lỗ đen đầu tiên mà loài người chụp được thì bức ảnh chụp Katie Bouman cô gái thế hệ 9x, một nhà khoa học trẻ trung, đang ngồi trước laptop của mình trong căn phòng nhỏ đã lan truyền khắp thế giới và truyền cảm hứng cho biết bao con người, kể cả những người đàn ông chỉ say mê lỗ đen con người chứ chưa từng tò mò về lỗ đen vũ trụ.


[image error]


Katie Bouman trong phòng làm việc


[image error]


Hình trên so sánh kích cỡ các Lỗ đen với Mặt trời và trái đất. Ngoài cùng bên trái là Lỗ đen có mã hiệu GW150914 mà LIGO nghe được (GW là gravitaional wave, sóng hấp dẫn, con số bên cạnh là năm tháng ngày LIGO dò được sóng). Bên phải ngoài cùng là Lỗ đen M-87 mới được chụp ảnh (GR là General relativity, thuyết tương đối tổng quát). Cái ngôi sao Betelgeuse to đùng to đoàng sáng rực kia chính là ngôi sao Sâm nổi tiếng (Sâm tú trong Nhị thập bát tú, đối nghịch với sao Thương: “Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, tại ai, há dám phụ lòng cố nhân”). Sao Sâm là ngôi sao thuộc chòm sao Lạp Hộ (Orion) và là ngôi sao sáng thứ chín trên bầu trời đêm. Về chủng loại, nó là sao kềnh đỏ (red supergiant). Về kích thước thì nó to đến mức nếu khuân nó về Hệ mặt trời và đặt nó vào trung tâm (tức vào chỗ của Mặt trời), nó sẽ choán hết không gian của các hành tinh: Thủy, Kim, Trái Đất, Hỏa và có thể đến tận hành tinh Mộc. (Cũng đừng nhầm sao Sâm sao Thương với sao Hôm sao Mai. Sao Hôm sao Mai chỉ là một hành tinh, là hành tinh Kim (Venus). Hành tinh Kim trong tử vi là sao Thái Bạch)


PS:


“Girl Power”, một thời được Spice Girls truyền bá đến Việt Nam, nay không chỉ còn giới hạn ở âm nhạc, điện ảnh hay các hoạt động xã hội mà đã hiện diện đàng hoàng trong khoa học, thậm chí trong những ngành quý tộc cả ngàn năm nay phụ nữ không được bén mảng đến như ngành Thiên văn học.


 *


Chữ Đài thiên văn (Observatory) nếu thuộc sở hữu nhà nước, kể ra như ngày xưa thì phải dịch là “Khâm thiên giám”, nghĩa đen là “cơ quan của nhà vua có nhiệm vụ quan sát bầu trời .


Thời Lê thì Khâm thiên giám đặt ở khu vực mà ngày nay là ngõ Khâm Đức, thuộc phố Khâm Thiên. Đến thời Nguyễn, Khâm thiên giám chuyển vào Huế (vì vậy mà ngõ Khâm Thiên ở Thăng Long bị đổi tên thành Khâm Đức). Đầu thế kỷ 20, khi ngõ Cống Trắng ở Khâm Thiên vẫn còn đánh được cá, thì trong ngõ chợ Khâm thiên vẫn còn một cái gò gọi là núi Thiên đài. Có lẽ đây là nơi đặt đài thiên văn cổ thời Lê.


Khâm thiên giám ở Huế có một trạm thiên văn tên là “Quan tượng đài”. Đài này đến trước Mậu Thân vẫn còn. Vua Minh Mạng còn cho nhập khẩu kính viễn vọng để quan sát thiên văn và khí tượng (thiên lý kính). Một số “quan” làm việc trong Khâm thiên giám của Nhà Nguyễn là người phương Tây.


Năm 1902, Toàn quyền Paul Doumer cho xây ở Việt Nam một đài thiên văn hiện đại, là đài thiên văn Phù Liễn ở Kiến An, Hải Phòng.   


*


“Những kẻ săn lùng hố đen” phía trên là bài báo tôi viết cho Tuổi Trẻ Cuối Tuấn số ra tuần này. Bản đăng bsao có câu cuối là khác. Bài viết cũng là để quảng bá thêm cho cuốn sách này.


Về một nhà khoa học nữ khác, một nhà toán học nữ người Mỹ mới được giải Abel toán học, tôi cũng có một bài trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần tên là “Karen Uhlenbeck – Đơn độc và hạnh phúc trong toán học”, đường link ở đây


Bài về nhà toán học nữ Emmy Noether, đã post ở đây. Bài này còn đi kèm với các chuyện về “mẫu hệ” và “mẫu quyền tâm lý” ở Việt Nam, được kể theo kiểu phân tâm học Carl Jung – Wolfgang Pauli, mà Khá Bảnh là phiên bản 4.0. Nhân tiện, bài về Khá Bảnh tôi viết cho Zing Newz ở đây.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 19, 2019 18:32

March 7, 2019

Panopticon: Viên hình giám ngục

Bài viết này, ở bản draft đầu tiên, chỉ nói về cô Emmy Noether. Nhưng vì công trình nổi tiếng nhất của Noether liên quan đến đối ứng và bảo toàn, nên dần dà tôi đã thêm vào phần giữa và phần cuối bài một số nội dung liên quan đến Phân tâm học của Carl Jung (vì phân tâm học Carl Jung sử dụng đến đối xứng, do Pauli đóng góp).


Mà đã  nói đến Carl Jung thì lại phải đề cập đến Thờ Mẫu và nguyên nhân làm đạo đức Việt Nam xuống cấp thảm hại như hiện nay; Rồi khi nói đến đạo đức thảm hại, tức là phải nói đến bạo lực và quấy rối tình dục khắp nơi nên lại phải đề cập đến mô hình quản lý nhà nước kiểu nhà tù (Viên Hình Giám Ngục: panopticon). Thành ra bài hơi dài và lộn xộn một chút, nhưng có lẽ là vẫn đáng đọc.


Bài có ba phần: 1) Emmy Noether; 2) Mẫu quyền, thờ Mẫu và tâm lý xã hội hiện đại; 3) Carl Jung, Wolfgang Pauli, Erwin Schrödinger.


[image error]


Emmy Noether, Albert Einstein và Wolfgang Pauli.


Minh họa của Rachel Suggs cho Quanta Magazine.


*



I. Emmy Noether


Cô Emmy Noether (1882-1935) là nhà toán học và vật lý lý thuyết người Đức gốc Do Thái.


Sống ở cái thời chuyển tiếp giữa thế kỷ 19 và 20 ấy, như bao cô gái khác Noether có rất ít lựa chọn xã hội. Cô được dạy dỗ và đào tạo để làm một cô giáo dạy “ngôn ngữ hiện đại”, tức là môn tiếng Anh và tiếng Pháp. May mắn là Noether có khiếu ngôn ngữ, có cả khiếu âm nhạc, cô chơi piano rất tốt. Nhưng may mắn hơn nữa (và cũng không may mắn), cô có cha là nhà toán học: cô vào đại học, học toán, và khi trưởng thành cô theo ngành toán.


*


Hồi đó làm toán và vật lý là cái gì đó rất là danh giá, tháp ngà. Đàn ông mà gia thế xoàng xĩnh, như Einstein, cũng khó bước chân vào tháp ngà khoa học. Ông phải đi làm nhân viên phòng đăng ký sáng chế. Ngay cả khi  đã có các công trình rất hoành tráng là lý thuyết photon và lý thuyết tương đối (1905), Einstein cũng rất vất vả bon chen mất mấy năm để được đi dạy đại học (nhưng lúc được đi dạy rồi thì ông lại chán vãi ra).


Cha của siêu nhân Pauli, thậm chí còn phải cải đạo từ Do Thái qua Công giáo La Mã để có chân giảng viên đại học. Và đó là may mắn để Pauli thành tài. Chính Pauli cũng phải rửa tội theo nghi thức Công giáo, với cha đỡ đầu là nhà vật lý kiêm triết gia danh tiếng Ernst Mach. (Xem thêm về tư tưởng của Mach ở đây)


Mach cũng có thể là người kỳ thị giới. Ông bảo các nhà phân tâm học là cái bọn dùng bím đàn bà làm ống nhòm để tìm hiểu thế giới. (Tôi hay vận dụng câu này vào ngôn ngữ thường ngày. Tôi bảo mấy ông bạn sát gái của tôi là anh đừng tưởng mình sưu tập ống nhòm, chính ống nhòm sưu tập anh đấy).


Kể lể như thế để biết Noether khó khăn thế nào khi trở thành giảng viên đại học và được làm toán.


Năm 1915, bất chấp việc được cả Hilbert và Klein, hai tên tuổi toán học lớn nhất lúc đó, tiến cử, phải mất khá nhiều công sức (của đồng nghiệp) Noether mới được Đại học Gottingen nhận làm giảng viên. Việc chống đối, ta có thể đoán được, đến từ các giáo sư bên các ngành xã hội. Lúc này Noether còn tương đối trẻ. Một giáo sư phản đối nhà trường nhận Noether làm giảng viên, ông này lập luận: khi những người lính từ mặt trận trở về giảng đường đại học (lúc này là thế chiến 1), họ sẽ nghĩ gì khi ngồi học dưới chân một người đàn bà. Hilbert trả lời: Chúng ta là trường đại học chứ không phải nhà tắm công cộng.


Năm đầu ở Gottingen, để được dạy đại học, cô Noether phải nhờ giáo sư nam (Hilbert) đứng tên lớp. Vậy nên cô đi làm mà không có lương. Bất chấp những rào cản ngớ ngẩn ấy, cô vẫn là giảng viên tận tụy và có khiếu sư phạm nên học sinh rất yêu mến. Tất nhiên rồi, hơn ai hết, cô hiểu việc đi học là khó khăn thế nào. Hồi còn là sinh viên, có những giáo sư từ chối giảng khi cô, một nữ nhi, ngồi dưới giảng đường. Nhưng Noether không phải dạng nhu mì. Đối với những tay nam giáo sư tỏ thái độ miệt thị cô, cô đáp trả bằng những lời lẽ sắc xảo, có lẽ cay độc chẳng kém miệng lưỡi Pauli là bao. Vì thế, cô lại càng bị bọn nam giáo sư khối C ghét. Thật thiếu may mắn cho cô, bọn đấy không biết lảy Kiều.


Năm 1915/1916, Einstein công bố Thuyết tương đối tổng quát. Cũng vào năm 1915 David Hilbert đề nghị Noether (lúc này đang làm toán đại số) khảo sát và làm rõ bảo toàn năng lượng trong Thuyết tương đối. Đến năm 1918 thì Noether có công trình toán học mà sau này được công nhận là có vai trò rất lớn trong vật lý hiện đại. Công trình này góp phần rõ thêm Thuyết tương đối tổng quát, được cả hai siêu sao David Hilbert (toán) và Albert Einstein (vật lý) ca ngợi.


*


Trong hóa học người ta từ lâu đã biết đến Định luật bảo toàn khối lượng. Rồi trong vật lý người ta biết đến Định luật bảo toàn năng lượng. Einstein thì chứng minh khối lượng và năng lượng tuy hai nhưng lại là một. Nhưng cái sự bảo toàn ấy nó có vẻ hiển nhiên quá nên không ai tìm tòi xem bản chất thực của nó (bằng toán học) là gì. Noether đã làm việc ấy. Công trình của cô ngày nay mang tên Định lý Noether.


Định lý Noether kết nối bảo toàn với đối xứng. Lúc ra đời, định lý này cũng được ít người để ý (ngoại trừ những bộ óc như Einstein, Dirac và Pauli..). Trong nỗ lực kết nối cơ lượng tử và thuyết tương đối hẹp, để “đối xứng” thì phương trình của Dirac phải xuất hiện dấu “trừ”. Từ đây Dirac tiên đoán được sự tồn tại của antimater (phản vật chất). Không lâu sau đó, để “bảo toàn” năng lượng của các hạt phóng xạ, Pauli tiên đoán được hạt neutrino. Nhưng phải đến khi vật lý hạt phát triển, người ta mới thấy giá trị thực sự của Noether. Ngày nay, Định lý Noether được coi là một trong những định lý đẹp đẽ nhất của vật lý. Tất nhiên rồi, đối xứng luôn là cái gì đó đẹp và bí ẩn, trong tự nhiên, trong mỹ thuật và trong toán học. Wolfgang Pauli (Nobel Vật Lý 1945) còn sùng bái đối xứng đến mức ông và Carl Jung mang đối xứng (symmetry), đối ngẫu (dualism) và nguyên lý bổ sung Bohr (complementarity), tất cả đều là các nguyên lý của vật lý, vào Phân Tâm Học. Từ đó hai vị này tìm ra và đưa vào Phân Tâm Học hai khái niệm unus mundus và synchronicity (xem hình, chữ viết tay là của Pauli).


[image error]


[image error]


*


Định lý Noether cho ta biết, nếu một Lagrangian bình thường mà có đối xứng liên tục (trơn), ắt sẽ có bảo toàn liên quán đến cái đối xứng ấy. Nếu đối xứng về thời gian (bất biến với dịch chuyển theo trục thời gian) sẽ có bảo toàn năng lượng; đối xứng về không gian sẽ là bảo toàn động lượng, đối xứng quay sẽ có bảo toàn mô-men động lượng.


Phụ nữ thời còn mẫu quyền, tức nữ quyền toàn phần, họ có cơ thể hoàn toàn đối xứng. Đến khi phụ quyền trỗi dậy, do nhiều ông thuận tay phải hơn (một kiểu tiến hóa do thói quen săn bắn), phụ nữ bắt đầu mất tính đối xứng cơ thể của mình.


Ở đâu mất đối xứng, ở đó nữ quyền không được bảo toàn.


Và chuyện này xảy ra cuối đời của Noether. Năm 1933 Hitler lên nắm quyền. Chính quyền Nazi trục xuất các bộ óc Do Thái khỏi đại học. Noether vừa Do Thái vừa Đàn Bà, phải rời Gottingen. Bình tĩnh và can đảm, Noether mang sinh viên về căn hộ của mình để dạy tiếp. Năm 1934 Noether chuyển sang Mỹ và mất ở đó năm 1935.


*


Xem thêm bài viết về nhà toán học nữ Karen Uhlenbeck được giải Abel 2019 tôi viết cho TTCT ở đây.


*


**


II. Mẫu quyền, thờ Mẫu và tâm lý xã hội hiện đại


Việt Nam, xét về văn hóa dân gian, cho đến nay vẫn là dân tộc mẫu quyền. Tục thờ mẫu vẫn còn rất phổ biến ở miền bắc. Chùa miền bắc, không chỉ thờ Phật, mà còn thờ Mẫu. Bất chấp một ngàn năm Bắc thuộc, bị Hán hóa, văn hóa trọng nam khinh nữ của Tàu không xóa được ý thức hệ “mẫu hệ” ra khỏi văn hóa Việt. Vua Hùng rất có thể là vua đàn bà, vì bị Hán hóa mà núp danh dưới dạng vua đàn ông (xem ở đây). Hai Bà Trưng, biểu tượng của mẫu hệ, chỉ bị bóp méo đi một tí, bằng việc bổ sung yếu tố “trả thù chồng”. Bồ tát (Bodhisat) Quán Thế Âm (Avalokiteshvara) nguyên gốc là một vị nam thần (vị thần dùng mắt (quán) để nghe tiếng kêu than (âm) của thế gian. Khi Phật giáo qua Trung Hoa, bị ảnh hưởng của Lão giáo và e ngại cạnh tranh trực tiếp với Thiên tử (vua nam, Machismo), vị nam thần này biến chuyển thành cả nữ và nam tùy theo địa phương. Khi qua Việt Nam thì hoàn toàn thành nữ thần (Phật bà Quan Âm).


Đến thế kỷ 15, thời Lê, luật Hồng Đức đề cao vai trò và quyền phụ nữ, tiến bộ hơn tất cả các nước trong khu vực (Đông Nam Á), hơn luôn cả Nhật. Phụ nữ Việt được quyền sở hữu và thừa kế. Thời Lê còn tổ chức phong thần cho hai nữ tướng của Hai Bà Trưng.   Đây là giai đoạn mẫu hệ Việt hấp thu thêm mẫu hệ Chăm, và hình thành văn hóa đồng bằng bắc bộ tồn tại (như dòng chảy ngầm) cho đến tận ngày nay.


Đến thời Minh Mạng đầu thế kỷ 19, ông hoàng đế này Hán hóa kinh hoàng. Đưa phụ nữ xuống tầng đáy, cướp hết quyền lợi của họ.


Hiện tượng thị hiện, vốn xuất hiện ở các dân tộc bán khai. Khi gặp gian nan, cả một tâm thức tập thể cùng lúc tác động đến cả đám đông khiến cho họ như cùng nhìn thấy ai đó hiện lên cứu độ. Với dân tộc vốn mắc kẹt nhiều ngàn năm ở đồng bằng Bắc Bộ nhỏ hẹp, lúc nguy nan họ nhìn thấy Phật Bà Quan Âm; hoặc khi bị nhà Nguyễn cấm đạo dồn vào chỗ chết họ đã thấy Đức Mẹ (La Vang) hiện lên. Theo lý thuyết của Jung và Pauli, có thể đó chính là phóng chiếu của archetype/primordial image (nguyên mẫu, cổ mẫu) trong vô thức tập thể (collective unconscious) của dân tộc chịu ảnh hưởng mẫu hệ như dân tộc Việt.


[image error]


Theo Jung, tất cả những cái xấu xa độc ác trong vô thức bị tách ra khỏi cái Ngã (Self) và dồn vào cái Bóng (Shadow). Cái Bóng, theo Freud, bị kiểm soát bởi cái Siêu Tôi (Super-Ego), còn Jung thì gọi cái Siêu Tôi bằng cái tên khác: Phức hợp đạo đức (Moral complex). Phức hợp đạo đức là “‘lực” cưỡng bức kiểm soát cái xấu và cái ác ẩn nấp trong phần tiềm thức của mỗi cá nhân. Nhờ đó mà cộng đồng (gồm nhiều cá nhân) mới sống với nhau ổn thỏa, biết tin nhau và biết hợp tác với nhau. Từ đó mới có xã hội loài người . Thế nhưng khi cái Bóng được kích hoạt, nó sẽ phóng chiếu vào những đối tượng cụ thể, biến đối tượng này thành “kẻ thù”. (Xem thêm về phân tích tâm lý của Jung và Pauli ở cuối bài này.)


Bằng cách kết hợp đàn áp tư tưởng (đốt sách, bóp nghẹt tự do ngôn luận) với tuyên truyền có định hướng, chế độ Nazi của Hitler đã kích hoạt thành công cái Bóng trong những người Đức tử tế và lương thiện, khiến họ phóng chiếu cái Bóng vào người Do Thái và biến dân tộc này thành kẻ thù. Ở ta cũng vậy, có thời kỳ Đảng đàn áp tư tưởng và khéo léo tuyên truyền nhồi sọ quần chúng bần nông đồng bằng Bắc Bộ cốt để kích động cái Bóng trong tâm khảm tiểu nông đói ăn. Rồi cái Bóng của nông dân phóng chiếu vào những đối tượng rất cụ thể và biến đối tượng này, mặc dù cũng là đồng bào của họ, thành “kẻ thù giai cấp”, “kẻ thù dân tộc”, “kẻ thù chế độ”, “bọn phản động”. Họ căm thù những người đồng bào này của mình và ra tay tàn độc. Cải cách ruộng đất là một biến cố lớn, nó khiến người nông dân lương thiện bỗng nhìn thấy rất nhiều kẻ thù cần phải tiêu diệt bằng bạo lực. Địa chủ, bố mẹ, ông bà, ân nhân của họ đều bị đem ra đấu tố và hành quyết. Đấu tố trong cải cách ruộng đất là một cơn tâm thần tập thể được chủ ý tạo ra  bằng cách thả “cổ mẫu kẻ thù”, một trong những cổ mẫu quan trọng và có năng lực chia rẽ nhất, ra khỏi cái Bóng. Từ đó nền tảng moral và ethics của xã hội nông nghiệp Việt Nam bị phá hủy hoàn toàn. Xã hội chính thức chuyển sang một phase khác mà hậu quả còn nặng nề đến tận ngày hôm nay. Xem thêm moral và ethics ở bài này.


[image error]


Xã hội tồn tại được là nhờ có cái “norm”, cái “quy phạm” ngầm của nó về đạo đức, luân lý, cách ứng xử. Bất chấp người Việt Nam có rất nhiều khiếm khuyết về tâm lý, tính cách, trí tuệ, xã hội Việt Nam tồn tại hiền hòa cả ngàn năm nhờ cái “norm” dựa trên “thiện” và “lương”. Trên cái “norm” ấy, xã hội nông nghiệp đồng bằng sông Mã và sông Hồng không những không tôn sùng bạo lực mà còn tránh né nó.


Đến thời Lê, kẻ cướp chỉ trói người chứ không giết. Đến Trịnh Nguyễn phân tranh, chế độ chính trị chuyển từ dân sự sang quân sự. Thời Tây Sơn bạo lực leo thang nhưng vẫn giới hạn trong việc quân sự. Nhưng kể từ đó  vì sống dưới chính quyền quân sự và nội chiến liên miên (tính đến nay phải hàng trăm năm) nên tâm lý nhân dân dần trở nên sùng bái bạo lực và cách hành xử của họ dần có xu hướng sử dụng bạo lực. Nhà Nguyễn thoái trào, các vị sĩ phu và phong trào cần vương của họ, dù giương ngọn cờ yêu nước (tức là cần đoàn kết các lực lượng) nhưng vẫn sử dụng bạo lực để giải quyết những người yêu nước mà khác chính kiến với mình. Đặc biệt là với những người khác tôn giáo. Khẩu hiệu “Bình Tây Sát Tả” về hiệu quả đạt, chỉ dừng được ở mức xúi dục người dân làng này giết dân làng kia (xem thêm ở đây). Di sản tồi tệ này lan qua việc các đảng phái chính trị chống Pháp thanh trừng nhau, rồi kéo dài đến tận bây giờ. 


Từ cải cách ruộng đất, cái “norm” của xã hội Việt Nam bị vi phạm, bị phá vỡ một cách chính thức và trên diện rộng. Theo một nghĩa nào đấy, bạo lực đã được “quy phạm” hóa, hợp thức hóa. Cái “Phức hợp đạo đức” của trong tâm lý đám đông của người Việt Nam đột ngột bị xóa bỏ.  Không còn bị “moral” kiểm soát,  tâm lý sùng bái bạo lực và ưa sử dụng bạo lực thoát hẳn khỏi “cái Bóng”. Bạo lực từ “vô thức” trở thành “có ý thức”; chuyện này xảy ra, tính đến  nay ngót nghét hơn nửa thế kỷ.  Tâm lý chuộng bạo lực ấy lại càng trầm trọng hơn trong những năm gần đây khi nhân cách của văn hóa bình dân bị xuống cấp (nhân cách, vẫn theo Jung, là tổng hợp của ý thức và vô thức). Nhân cách của văn hóa bình dân ở Việt Nam, về cơ bản đã bị bào mòn sau hai cuộc chiến tranh và gần như mất hẳn sau ba chục năm đổi mới hỗn loạn và man rợ.


“Súng gươm vứt bỏ” chẳng thể nào “lại hiền như xưa” được nữa.


Chưa hết, mô hình quản lý nhà nước của Việt Nam hiện nay, chính là một cách thức kiểm soát hệ thống theo kiểu Viên Hình Giám Ngục (Panopticon). Panopticon, nghĩa đen là “nhìn thấy tất cả”, là cái gì? Đó là nhà ngục được xây theo kiểu tháp canh chính giữa, xà lim xung quanh, nhưng ánh sáng, âm thanh và đường đi được thiết kế sao cho chỉ có giám ngục nhìn và nghe thấy phạm nhân (Jeremy Bentham). Với phạm nhân, cái tháp canh trung tâm mà họ không bao giờ nhìn rõ kia là siêu quyền lực mà họ phải quy phục. Không chỉ thế, tâm lý của họ có nỗi ám ảnh luôn bị theo dõi. Họ im lặng tuân thủ kỷ luật nhà tù vì đó là cách mà họ cho là có lợi nhất. Nhà tù là nơi tù nhân dễ dàng và thường xuyên bị abuse về tình dục và bạo lực. Khi Panopticon được mở rộng qua quản lý hệ thống, ở VN nó chính là quản lý nhà nước, ở trường học, bệnh viện, công sở … thì abuse tràn qua các lĩnh vực này. Tên hiệu trưởng kiêm bí thư đảng ủy bắt học sinh nam làm nô lệ tình dục, mà không chỉ nạn nhân mà tất cả các em học sinh khác và giáo viên trong trường đều im lặng. Học sinh bắt nạt, đánh đập làm nhục nhau mà nạn nhân và các bạn trong lớp phải im lặng không dám báo thầy cô. Ở cơ quan nhà nước, giám đốc dùng quyền lực để đe dọa, ép buộc cấp dưới làm sai, hoặc hủy hoại sự nghiệp cấp dưới nếu họ từ chối, hoặc tha hồ quấy rối tình dục, mà nạn nhân tất thảy đều chịu đựng trong im lặng. Trong đảng, đảng viên tuyệt đối tuân thủ kỷ luật đảng, tức là im lặng để đảng và cấp trên trong đảng thoải mái abuse mình, bất kể ở cấp ủy nào. Và cuối cùng, ngồi trong tòa tháp giám ngục tối tăm, đảng tha hồ abuse ngững người dân câm lặng.  


Không ngạc nhiên gì khi ngày nay mỗi ngày mở báo ra đọc ta gặp tràn lan các vụ giết người, đánh nhau, bạo lực học đường, lạm dụng tình dục.


[image error]


Dòng chữ “Xin hãy treo cổ mấy con quỷ ở Điện Biên. Cô gái giao gà” do ai đó viết nguệch ngoạc lên vách tôn quây một công trình xây dựng ở góc Hai Bà Trưng – Nguyễn Đình Chiểu (Quận 3).


Xem thêm về việc một system kiểu panopticon trên internet là Facebook và Youtube góp phần vào việc phá vỡ “norm” của xã hội đương đại Việt Nam bằng cách lan tỏa các nhân vật “giang hồ 4.0” ở bài viết tôi viết cho Zing News ở đây.


*


Cách mạng vô sản 1945 mang đến một chương mới về bình đẳng giới cho giới thị dân. Các nữ chiến sĩ cách mạng như Minh Khai, Thụy Nga là các tấm gương sáng về chiến đấu và sưu tầm giai nổi.


Sau 1958, ở Việt Nam Cộng Hòa, bà Ngô Đình Nhu kịch liệt đấu tranh cho nữ quyền, bà là người xóa bỏ tục đa thê trong tướng lĩnh nhà giàu ở miền Nam.


Trong kháng chiến chống Pháp, các nữ đại gia như bà Cát Hanh Long (địa chủ Năm) thường xuyên cho cách mạng bú sữa cho đến khi bị đấu tố và hành quyết. Trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, các bà má miền nam, các đội quân tóc dài có vai đóng vai trò quan trọng. Vậy nên sau 1975 ở Việt Nam có bà mẹ anh hùng, còn các ông bố thì không.


Sau 1979, Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng Machismo (sùng bái sức mạnh con đực cơ bắp) kiểu Nga. Rồi sau 1989 là Machismo kiểu Tàu. Một lần nữa văn hóa chính trị bị Hán hóa, đâm ra bình đẳng giới và nữ quyền ở Việt Nam đâm ra chỉ còn tồn tại trên hình thức. Rồi đến một ngày việc lẩy Kiều bất ngờ trở thành biểu tượng của quyền lực. Tôi rất thắc mắc, khi các đảng viên trung kiên nước ta gặp nguy khốn, họ sẽ thấy Mác, Lê nin, Bác hiện lên; hay họ thấy Kiều hiện ra cứu giúp?


Nhưng bất chấp văn hóa triều đình Machismo nửa mùa, văn hóa dân gian vẫn đề cao mẫu hệ, lệnh ông không bằng cồng bà. Nhiều quan chức đi vào lò vì có quan bà đớp hăng quá. Hầu hết các đại gia bất động sản là nữ. Nhiều đại gia Việt Nam lọt vào danh sách tỷ phú Forbes là nhờ các nữ tướng dưới quyền.


Đó là minh chứng của nữ quyền thực sự ở Việt Nam hiện đại.


 



*


III. Carl Jung, Wolfgang Pauli, Erwin Schrödinger


 


You take her frail hand

And hold on to the dream.


*


Quay lại với câu châm biếm của Mach. Mach có lẽ hơi thái quá khi chế diễu quan điểm của Freud về việc sử dụng libido (dục năng, khát dục, xung lượng tình dục) để giải quyết tất tần tật mọi thứ trên đời. Carl Jung cũng phản đối, nhưng tiết chế hơn, ngoài libido ông còn đưa ra các drive (xung năng) khác (hunger, activity, sexuality, creativity, reflection). Jung cũng đưa các khái niệm vật lý rất quan trọng và hiện đại ở thời của ông vào Phân Tâm Học: trường (field) cho các trường tâm lý (psychic field) và năng lượng (psychic energy) của nó chính là libido/sex, hunger và aggression.


Ông viết rằng “Nếu ta hình dung libido như energy, ta có thể có được cái nhìn tổng quát và thống nhất … giống như cái nhìn ta có được trong vật lý bằng cách sử dụng các lý thuyết về năng lượng”.


Jung cho rằng tâm lý con người có thiên hướng đi tìm những thứ “có ý nghĩa”, “quan” trọng”, nên các trải nghiệm có quan hệ qua lại (trong quần thể) sẽ làm cho các “psychic field” bị nạp thêm năng lượng, cho đến lúc nó bị nạp quá đà (supercharged) thì năng lượng ấy đột ngột thoát thai (emerging: đột sinh) ra khỏi các field và tạo thành archetype (cổ mẫu) của vô thức tập thể (collective unconscious).


[image error]


Jung đi khá xa khi cho rằng có thể đo lường được cường độ (độ mạnh) của psychic eneger, ví dụ đo được cường độ libido. Ở phần “đo lường” này, Jung cũng rất hiểu “suy sụp” Hàm sóng Schrödinger” trong cơ lượng tử, khi người quan sát muốn đo hệ lượng tử, anh ta buộc phải tác động vào nó; vì vậy Jung rất thận trọng khi khảo sát giấc mơ, các kỹ thuật do ông phát triển cố gắng tác động ít nhất vào các giấc mơ này. Chính ông (là tay lão luyện) đã tránh trực tiếp khảo sát Pauli, mà giao cho người dưới quyền (một bác sĩ trẻ mới vào nghề).


Jung cũng phân tích các trường hợp “khải thị” của Henri Poincaré và René Descartes. Hai bộ óc lớn này đều thú nhận họ có được các  ý tưởng khoa học (thiên tài) nhờ các câu trả lời cho các vấn đề hóc búa mà họ đang tìm cách giải quyết  bỗn từ vô thức lóe lên trong trí óc. (Poincaré xem thêm ở đây).


Sex, rõ ràng là đóng vai trò quan trọng trong hành vi tâm lý của con người. Mặc dù nó có vẻ như bất bình đẳng về giới trong việc giải thích sự sáng tạo của các thiên tài đàn ông, nhưng không thể phủ nhận được rất nhiều phát minh lớn của nhân loại có được là nhờ đàn ông thèm khát đàn bà.


1.


Wolfgang Pauli (1900-1958), sinh ra ở Viên, nổi tiếng trong giới vật lý lý thuyết khi còn rất trẻ. Năm 19 tuổi, khi mới học xong phổ thông, Pauli đã có ba bài báo về Thuyết tương đối, khiến cho Hermann Weyl phải chú ý. Năm 21 tuổi anh viết một bài review dài 250 trang về Thuyết tương đối tổng quát, và bài viết này (cho Encyclopedia) làm Einstein phải tán thưởng. Năm 22 tuổi anh đã đến Gottingen làm việc với Max Born. Năm 1924, khi ở  tuổi 24, lúc đang làm việc ở Hamburg, nhà vật lý trẻ có năng lượng nhục dục mạnh mẽ đến mức tối nào cũng đi chơi gái ở khu đèn đỏ, và sáng hôm sau đến giảng đường rất muộn. Anh phát minh ra “Nguyên lý loại trừ Pauli” (sau này mang về cho anh giải Nobel) khi đang chơi gái như vậy. Năm 27 tuổi anh phát minh ra Ma trận Pauli. Năm 29 tuổi anh và bạn của mình là Heisenberg đã có những công trình đặt nền móng cho field theory. Về Nguyên lý loại trừ Pauli, xem thêm ở cuối bài này.


Năm 30 tuổi, khi cô vợ rất chơi của anh bỏ đi, anh bị dồn nén tâm lý đến mức… phát minh ra hạt Neutrino (những nhà vật lý tìm ra hạt này bằng thực nghiệm đã đoạt giải Nobel). Pauli “tìm ra” hạt Neutrino bằng lý thuyết, anh sử dụng toán và “bảo toàn năng lượng” trong phân rã beta. Các nhiễu động tâm lý của Pauli đã dẫn anh đến với Phân Tâm Học. Anh đi khám bệnh ở viện của Carl Jung. Đệ tử của Jung đã khảo sát 1300 giấc mơ của Pauli. Rồi Jung trực tiếp phân tích 400 giấc mơ trong số đó, rồi xuất bản thành sách. Pauli (trẻ hơn Jung 25 tuổi) và Jung phối hợp với nhau hàng chục năm (từ năm 32 tuổi đến năm 57 tuổi) để cùng nhau phát triển phân tâm học. Trao đổi thư từ của hai người về phân tâm học và vật lý cũng đã được in thành sách.


Nhờ Pauli mà Jung áp dụng thành công Nguyên lý bổ sung Bohr vào Phân tâm học. Nguyên lý Bohr giúp giải quyết quan hệ rất nghịch lý giữa sónghạt trong vật lý nguyên tử/lượng tử. Trong phân tâm học, Nguyên lý bổ sung Bohr giải quyết được các mối quan hệ đối nghịch vô thức và ý thức, vật chất (matter) và tâm thức (mind), khách quan và chủ quan, sự đồng tri giác biến cố ngoại cảnh (outer) và nội tâm (inner), trải nghiệm đi vào (từ ngoại cảnh đi vào nội tâm) và tri nhận đi ra (từ nội tâm ra ngoại cảnh), res extensa và res cogitans.  Từ đây Pauli và Jung đi đến Nguyên lý synchronicity (nguyên lý đồng hiện).


Nhờ Jung, Pauli nhìn đối xứng như là cấu trúc cổ mẫu (archetypal structure) của vật chất. Ông còn cho rằng hạt sơ cấp chưa phải là level tận cùng của vật chất. Thay vì đi tìm các hạt cơ bản là lớp dưới cùng của vật chất, Pauli cho rằng vật chất (kể cả hạt cơ bản, chỉ là sự hiển thị ra bên ngoài của vật chất, còn ở tầng sâu hơn phải là cái gì đó mà ông gọi unus mundus (vốn là một khái niệm cổ được Pauli tái sinh). Cái Unus Mundus này đồng thời cũng là địa hạt của đối xứng và ở đó sinh ra vật chất và tâm thức (matter and mind). Pauli có nói đại khái rằng, symmetry là một dạng thức của Chúa. Lúc cuối đời, Pauli còn ví von so sánh cái Ngã (Self) là hạt nhân phóng xạ (radioactivity nucleus) còn các hiện tượng đồng hiện là sự phóng xạ (radioactivity).


Liên quan đến “Của Chúa”, có một chút thú vị, là sau khi Pauli qua đời các nhà vật lý phát hiện ra có kết nối đối xứng giữa hai hạt electron và hạt neutrino. Một hạt có vai trò rất quan trọng trong cấu trúc vật chất, mang điện tích (electron), còn hạt kia thì tràn ngập khắp vũ trụ, không mang điện và chuyển động với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng nhưng có vẻ như vô tích sự. Tại sao hai hạt này hồi vũ trụ rất rất ban sơ (cực kỳ đối xứng) là hai hạt khá là giống nhau, mà đùng một phát lại khác nhau như vậy. Từ đây ông Higgs và đồng nghiệp đề xuất ra Cơ chế Higgs. Cơ chế này cho rằng vũ trụ lúc đầu “không tồn tại” theo nghĩa “không có khối lượng”. Rồi có một trường tên là trường Higg, tràn ngập khắp không gian. Ở một điều kiện đặc biệt, khi nhiệt độ vũ trụ lúc đấy đang rất cao, bỗng nguội đi một tý. Trường này (một cách tự phát) phá vỡ đối xứng (symmetry-breaking). Biến cố này tạo ra các hạt quark, electron và các hạt cơ bản có khối lượng khác. Từ đây hình thành nguyên tử. Các nhà vật lý dự đoán về hạt Higgs (hạt truyền khối lượng). Hạt này, vô tình mà chết với cái tên Hạt của Chúa.


Hơi tiếc là khi Pauli và Jung qua đời, vật lý lượng tử vẫn chưa có các cách giải thích khác với cách giải thích chính thống (giải thích Copenhagen). Nếu sống lâu hơn, Pauli và Jung biết đâu sẽ đưa vào ngành tâm lý học phân tích một số hướng giải thích khác của lượng tử: biến ẩn và sóng dẫn đường của de Broglie-Bohm, “many-worlds” của Everett, “objective collapse” của Penrose, và nhất là Qbism của Fuchs và Schack. Qbism có những cách tiếp cận mà chủ quan của agent tác động vào khách quan hiện thực; thuyết Qbism quan niệm trạng thái lượng tử (quantum state) không phải là thành tố của hiện thực, mà là degree of belief của agent vào kết quả khả thể có được khi tác động “phép đo” lên hệ. Cách giải thích này có lẽ khá gần gũi với cách thức mà Jung và Pauli tư duy về tâm lý và phân tích tâm lý.


2.


Giữa thập niên 1920, vật lý lượng tử đi vào giai đoạn hoàn thiện cuối cùng, nó chỉ thiếu một miếng ghép nữa là hoàn chỉnh. Chỉ cần một miếng ghép nữa là “cơ học lượng tử” sẽ hết cọc cạch và trở nên trơn tru. Nhà vật lý Schrödinger (người gốc thành Viên) lúc này 38 tuổi quyết tâm tìm ra miếng ghép cuối cùng này. Ông để vợ ở nhà, thuê một biệt thự đẹp thật đẹp ở núi Alps bên Thụy Sĩ, rồi đi lên đó với một tập giấy, hai viên ngọc trai và một cô bồ nhí cũng gốc thành Viên thật là đẹp. Ở đó, ông lấy hai viên ngọc trai nhét vào hai lỗ tai để gạt các âm thanh phiền nhiễu ra khỏi đầu. Bày biện cô gái ở trên giường, ngắm cô để có cảm hứng …làm toán. Với dục năng hừng hực do cô gái đẹp trên giường tạo ra, (có lẽ để nuôi dưỡng cơn khát dục, ông kiên quyết không chén cô), Schrödinger cuối cùng đã tìm ra Phương trình Schrodinger nổi tiếng của mình. Đó là năm 1925. Đến năm 1933 ông đoạt giải Nobel vật lý. Cô gái thành Viên (chắc là rất nõn nà) kia trở thành cô gái bí ẩn nhất của vật lý hiện đại. Rất có thể cô chính là nguyên mẫu của “Con mèo Schrödinger”: một con mèo cái vừa được chén lại vừa không được chén.


Where did we get that [Schrödinger’s equation] from? It’s not possible to derive it from anything you know. It came out of the mind of Schrödinger.

The Feynman Lectures on Physics



Về một đề xuất cải cách, xem thêm bài “Viện Dân Biểu

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 07, 2019 19:08

8/3, cô Noether và nữ quyền ở VN

Cô Emmy Noether (1882-1935) là nhà toán học và vật lý lý thuyết người Đức gốc Do Thái.


Sống ở cái thời chuyển tiếp giữa thế kỷ 19 và 20 ấy, như bao cô gái khác Noether có rất ít lựa chọn xã hội. Cô được dạy dỗ và đào tạo để làm một cô giáo dạy “ngôn ngữ hiện đại”, tức là môn tiếng Anh và tiếng Pháp. May mắn là Noether có khiếu ngôn ngữ, có cả khiếu âm nhạc, cô chơi piano rất tốt. Nhưng may mắn hơn nữa (và cũng không may mắn), cô có cha là nhà toán học: cô vào đại học, học toán, và khi trưởng thành cô theo ngành toán.


*


Hồi đó làm toán và vật lý là cái gì đó rất là danh giá, tháp ngà. Đàn ông mà gia thế xoàng xĩnh, như Einstein, cũng khó bước chân vào tháp ngà khoa học. Ông phải đi làm nhân viên phòng đăng ký sáng chế. Ngay cả khi  đã có các công trình rất hoành tráng là lý thuyết photon và lý thuyết tương đối (1905), Einstein cũng rất vất vả bon chen mất mấy năm để được đi dạy đại học (nhưng lúc được đi dạy rồi thì ông lại chán vãi ra).


Cha của siêu nhân Pauli, thậm chí còn phải cải đạo từ Do Thái qua Công giáo La Mã để có chân giảng viên đại học. Và đó là may mắn để Pauli thành tài. Chính Pauli cũng phải rửa tội theo nghi thức Công giáo, với cha đỡ đầu là nhà vật lý kiêm triết gia danh tiếng Ernst Mach. (Xem thêm về tư tưởng của Mach ở đây)


Mach cũng có thể là người kỳ thị giới. Ông bảo các nhà phân tâm học là cái bọn dùng bím đàn bà làm ống nhòm để tìm hiểu thế giới. (Tôi hay vận dụng câu này vào ngôn ngữ thường ngày. Tôi bảo mấy ông bạn sát gái của tôi là anh đừng tưởng mình sưu tập ống nhòm, chính ống nhòm sưu tập anh đấy).


Kể lể như thế để biết Noether khó khăn thế nào khi trở thành giảng viên đại học và được làm toán.


Năm 1915, bất chấp việc được cả Hilbert và Klein, hai tên tuổi toán học lớn nhất lúc đó, tiến cử, phải mất khá nhiều công sức (của đồng nghiệp) Noether mới được Đại học Gottingen nhận làm giảng viên. Việc chống đối, ta có thể đoán được, đến từ các giáo sư bên các ngành xã hội. Lúc này Noether còn tương đối trẻ. Một giáo sư phản đối nhà trường nhận Noether làm giảng viên, ông này lập luận: khi những người lính từ mặt trận trở về giảng đường đại học (lúc này là thế chiến 1), họ sẽ nghĩ gì khi ngồi học dưới chân một người đàn bà. Hilbert trả lời: Chúng ta là trường đại học chứ không phải nhà tắm công cộng.


Năm đầu ở Gottingen, để được dạy đại học, cô Noether phải nhờ giáo sư nam (Hilbert) đứng tên lớp. Vậy nên cô đi làm mà không có lương. Bất chấp những rào cản ngớ ngẩn ấy, cô vẫn là giảng viên tận tụy và có khiếu sư phạm nên học sinh rất yêu mến. Tất nhiên rồi, hơn ai hết, cô hiểu việc đi học là khó khăn thế nào. Hồi còn là sinh viên, có những giáo sư từ chối giảng khi cô, một nữ nhi, ngồi dưới giảng đường. Nhưng Noether không phải dạng nhu mì. Đối với những tay nam giáo sư tỏ thái độ miệt thị cô, cô đáp trả bằng những lời lẽ sắc xảo, có lẽ cay độc chẳng kém miệng lưỡi Pauli là bao. Vì thế, cô lại càng bị bọn nam giáo sư khối C ghét. Thật thiếu may mắn cho cô, bọn đấy không biết lảy Kiều.


Năm 1915/1916, Einstein công bố Thuyết tương đối tổng quát. Đến năm 1918 thì Noether có công trình toán học mà sau này được công nhận là có vai trò rất lớn trong vật lý hiện đại. Công trình này được cả hai siêu sao David Hilbert (toán) và Albert Einstein (vật lý) ca ngợi.


*


Trong hóa học người ta từ lâu đã biết đến Định luật bảo toàn khối lượng. Rồi trong vật lý người ta biết đến Định luật bảo toàn năng lượng. Einstein thì chứng minh khối lượng và năng lượng tuy hai nhưng lại là một. Nhưng cái sự bảo toàn ấy nó có vẻ hiển nhiên quá nên không ai tìm tòi xem bản chất thực của nó (bằng toán học) là gì. Noether đã làm việc ấy. Công trình của cô ngày nay mang tên Định lý Noether.


Định lý Noether kết nổi bảo toàn với đối xứng. Lúc ra đời, định lý này cũng được ít người để ý (ngoại trừ những bộ óc như Einstein). Phải đến khi vật lý hạt phát triển, người ta mới thấy giá trị thực sự của Noether. Ngày nay, Định lý Noether được coi là một trong những định lý đẹp đẽ nhất của vật lý. Tất nhiên rồi, đối xứng luôn là cái gì đó đẹp và bí ẩn, trong tự nhiên, trong mỹ thuật và trong toán học. Wolfgang Pauli còn sùng bái đối xứng đến mức ông và Carl Jung mang đối xứng (symmetry), đối ngẫu (dualism) và nguyên lý bổ sung Bohr (complementarity), tất cả đều là các nguyên lý của vật lý, vào Phân Tâm Học. Từ đó hai vị này tìm ra unus mundus và synchronicity (xem hình).


[image error]


[image error]


*


Định lý Noether cho ta biết, nếu một Lagrangian bình thường mà có đối xứng liên tục (trơn), ắt sẽ có bảo toàn liên quán đến cái đối xứng ấy. Nếu đối xứng về thời gian (bất biến với dịch chuyển theo trục thời gian) sẽ có bảo toàn năng lượng; đối xứng về không gian sẽ là bảo toàn động lượng, đối xứng quay sẽ có bảo toàn mô-men động lượng.


Phụ nữ thời còn mẫu quyền, tức nữ quyền toàn phần, họ có cơ thể hoàn toàn đối xứng. Đến khi phụ quyền trỗi dậy, do nhiều ông thuận tay phải hơn (một kiểu tiến hóa do thói quen săn bắn), phụ nữ bắt đầu mất tính đối xứng cơ thể của mình.


Ở đâu mất đối xứng, ở đó nữ quyền không được bảo toàn.


Và chuyện này xảy ra cuối đời của Noether. Năm 1933 Hitler lên nắm quyền. Chính quyền Nazi trục xuất các bộ óc Do Thái khỏi đại học. Noether vừa Do Thái vừa Đàn Bà, phải rời Gottingen. Bình tĩnh và can đảm, Noether mang sinh viên về căn hộ của mình để dạy tiếp. Năm 1934 Noether chuyển sang Mỹ và mất ở đó năm 1935.


*


**


Việt Nam, xét về văn hóa dân gian, cho đến nay vẫn là dân tộc mẫu quyền. Tục thờ mẫu vẫn còn rất phổ biến ở miền bắc. Chùa miền bắc, không chỉ thờ Phật, mà còn thờ Mẫu. Bất chấp một ngàn năm Bắc thuộc, bị Hán hóa, văn hóa trọng nam khinh nữ của Tàu không xóa được ý thức hệ “mẫu hệ” ra khỏi văn hóa Việt. Hai Bà Trưng, biểu tượng của mẫu hệ, chỉ bị bóp méo đi một tí, bằng việc bổ sung yếu tố “trả thù chồng”.


Đến thế kỷ 15, thời Lê, luật Hồng Đức đề cao vai trò và quyền phụ nữ, tiến bộ hơn tất cả các nước trong khu vực (Đông Nam Á), hơn luôn cả Nhật. Phụ nữ Việt được quyền sở hữu và thừa kế. Thời Lê còn tổ chức phong thần cho hai nữ tướng của Hai Bà Trưng. Đây là giai đoạn mẫu hệ Việt hấp thu thêm mẫu hệ Chăm, và hình thành văn hóa đồng bằng bắc bộ tồn tại (như dòng chảy ngầm) cho đến tận ngày nay.


Đến thời Minh Mạng đầu thế kỷ 19, ông hoàng đế này Hán hóa kinh hoàng. Đưa phụ nữ xuống tầng đáy, cướp hết quyền lợi của họ.


Hiện tượng thị hiện, vốn xuất hiện ở các dân tộc bán khai. Khi gặp gian nan, cả một tâm thức tập thể cùng lúc như nhìn thấy ai đó hiện lên cứu độ. Với dân tộc mắc kẹt ở đồng bằng Bắc Bộ, lúc nguy nan họ nhìn thấy Phật Bà Quan Âm; hoặc khi bị nhà Nguyễn cấm đạo dồn vào chỗ chết họ đã thấy Đức Mẹ (La Vang) hiện lên. Đó chính là phóng chiếu của Archetype (siêu tượng) trong tâm lý dân tộc mẫu hệ như Jung và Pauli giải thích. Nó cũng cho thấy cháu Tấm thấy ông Bụt hiện lên có thể là một câu chuyện ngoại lai du nhập vào Việt Nam rất muộn (có người cho là thời Chúa Trịnh), đồng thời nó mang sắc thái mà ngày nay rất có thể kết tội ấu dâm, ông chú hàng xóm dê xồm mang kẹo dỗ cháu bé hàng xóm ngây thơ đang khóc.


*


Cách mạng vô sản 1945 mang đến một chương mới về bình đẳng giới cho giới thị dân. Các nữ chiến sĩ cách mạng như Minh Khai, Thụy Nga là các tấm gương sáng về chiến đấu và sưu tầm giai nổi.


Sau 1958, ở Việt Nam Cộng Hòa, bà Ngô Đình Nhu kịch liệt đấu tranh cho nữ quyền, bà là người xóa bỏ tục đa thê trong tướng lĩnh nhà giàu ở miền Nam.


Trong kháng chiến chống Pháp, các nữ đại gia như bà Cát Hanh Long (địa chủ Năm) thường xuyên cho cách mạng bú sữa cho đến khi bị bắn. Trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, các bà má miền nam, các đội quân tóc dài có vai đóng vai trò quan trọng. Vậy nên sau 1975 ở Việt Nam có bà mẹ anh hùng, còn các ông bố thì không.


Sau 1979, Việt Nam chịu ảnh hưởng của Machismo kiểu Nga. Rồi sau 1989 là Machismo kiểu Tàu. Một lần nữa văn hóa chính trị bị Hán hóa, đâm ra bình đẳng giới và nữ quyền ở Việt Nam đâm ra chỉ còn tồn tại trên hình thức. Rồi đến một ngày việc lẩy Kiều bất ngờ trở thành biểu tượng của quyền lực. Tôi rất thắc mắc, khi các đảng viên trung kiên nước ta gặp nguy khốn, họ sẽ thấy Mác, Lê nin, Bác hiện lên; hay họ thấy Kiều hiện ra cứu giúp?


Nhưng bất chấp văn hóa triều đình Machismo nửa mùa, văn hóa dân gian vẫn đề cao mẫu hệ, lệnh ông không bằng cồng bà. Nhiều quan chức đi vào lò vì có quan bà đớp hăng quá. Hầu hết các đại gia bất động sản là nữ. Nhiều đại gia Việt Nam lọt vào danh sách tỷ phú Forbes là nhờ các nữ tướng dưới quyền.


Đó là minh chứng của nữ quyền thực sự ở Việt Nam hiện đại.


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 07, 2019 19:08

February 26, 2019

Kim chủ tịch: Từ devil thành idol

Hà Nội đón tiếp Kim Jong Un rất trọng thị, như fan đón Idol Hàn Quốc.


Cuộc gặp đỉnh cao lần này, rất có thể làm thay đổi cục diện bán đảo Triều Tiên theo hướng giảm đột ngột các căng thẳng tiềm tàng, tiến tới hòa bình ổn định.


Chỉ vài năm trước đây anh Un bị nhìn như quỷ dữ. Từ thử tên lửa, đến bắt giữ và tử hình (bằng súng máy) các công thần chế độ (và cũng là họ hàng của gia đình Kim). Chưa kể vụ ám sát anh ruột ở Malaysia.


Đùng một phát, anh bỗng như một người hùng, một lãnh đạo có thể cứu rỗi cả Bắc Hàn, đang sống khổ sở nhiều năm dưới chế độ độc tài hà khắc, do ông nội và bố anh dựng nên.


Nhưng rất ít người để ý, cậu bé Un học ở phương tây, hiểu phương tây, và hiểu chế độ và đất nước mình. Có thể cậu thực sự mong muốn cải cách chính trị và kinh tế, thoát Trung và nhích lại phía Hoa Kỳ, chấm dứt việc coi đồng bào phía Nam Hàn là kẻ thù. Cậu hiểu chuyện này, có thể từ bài học Việt Nam.


Rất có thể, những người bị anh Un sát hại, là những kẻ bảo thủ, mù quáng bảo vệ chế độ, bất chấp số phận dân tộc và tổ quốc. Thậm chí, những kẻ đấy là bọn thân Tàu, là tay sai, là bù nhìn của Trung Quốc, trong đó có anh ruột của Un. Anh Un phải ra tay tàn độc như vậy, vừa để củng cố quyền lực cá nhân, vừa xóa sạch bọn nội gián trung thành với chế độ nhưng sẵn sàng phản quốc, vừa dọn bớt ưng khuyển ngáng chân. Xong xuôi đâu đấy mới quay qua Thoát Trung và Làm hòa với nước Mỹ. Tất nhiên, để đàm phán được, anh phải có đồ chơi hạt nhân trong tay, và đó là lý do của những vụ thử hạt nhân làm rúng động thế giới.


Trump cũng là kẻ khác người. Ông béo này hiểu rằng, để đạt được điều gì đó tích cực, phải hy sinh một vài thứ, nhưng cũng có thể được vài thứ khác. Quan hệ Hoa Kỳ Bắc Hàn ấm áp lên, là cái mà Nhật (và Hàn) e ngại. Đây là sự mất mát mà Trump chấp nhận thí quân. Bù lại, nều Bắc Hàn thân thiện với Mỹ và hòa bình với Nam Hàn, thì đây là cái mà Tàu là bọn không muốn xảy ra nhất. Đây là nước tốt nhập cung mà có thể Trump đang hy vọng.


Với Việt Nam. Nếu tiến trình Bắc Hàn thân Mỹ là có thật, nó sẽ đem Nhật (và Hàn) xích lại Việt Nam thêm chút nữa. Trung Quốc cũng phải giảm bớt sự hầm hè Việt Nam đi chút nữa. Đây cơ may hiếm có cho Việt Nam trên bàn cờ địa chính trị khu vực. Nhưng nếu chưa thực sự thoát Trung, không quyết liệt dẹp sạch bọn chống cải cách (nhưng đừng dùng súng máy và thuốc độc như Un), thì cơ may giời cũng thành như không.


Thôi thì, ăn mày đợi gặp chiếu manh vậy!


 


 

1 like ·   •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 26, 2019 07:13

January 24, 2019

Tại sao chat sex?

Tại sao con người kể chuyện tiếu lâm mặn, trai gái buông lời đĩ bợm khi tròng ghẹo nhau, còn các cặp đôi ở xa nhau thì chat sex?


*


Có một nghịch lý tên là Nghịch lý Fermi. Nghịch lý này, do nhà vật lý Enrico Fermi, cha đẻ của kỷ nguyên hạt nhân, nghĩ ra.


Các lập luận của Fermi đại thể như sau:


Vũ trụ có hàng tỷ thiên hà, trong một thiên hà (ví dụ Ngân Hà của chúng ta) có hàng tỷ ngôi sao. Hằng hà sa số ngôi sao trong đó hình thành trước Hệ Mặt Trời của chúng ta hàng tỷ năm. Xác suất rất cao là có nhiều ngôi sao trong số đó giống Trái Đất. Trên vài “Ngôi Sao giống Trái Đất” như vậy, có thể có sự sống thông minh.


Một số nền văn minh ngoài trái đất như vậy có thể đủ thông minh để du hành liên hành tinh. Và dù họ có “đi chậm” đi chăng nữa, thì họ cũng chỉ cần vài triệu năm để càn quét qua khắp dải Ngân Hà. Rất có thể họ đã từng nhiều lần, hoặc đang, hoặc sắp ghé thăm Trái Đất. Nhưng đến nay chúng ta chưa phát hiện ra dấu vết gì về việc này.


Fermi hỏi: “Vậy tất cả bọn họ ở đâu?”


Đến nay có vô số giả thuyết để giải quyết Nghịch lý Fermi. Giả thuyết hấp dẫn nhất là sinh vật ngoài không gian đã đến thăm trái đất nhiều lần rồi, nhưng không thèm nói chuyện với con người. Giống như con người vào rừng mà đâu thèm nói gì với mấy con thỏ.


*


Khoảng ba mươi năm trở lại đây, các nhà vật lý thiên văn và các tàu thám hiểm không gian đã thu thập được nhiều dữ liệu mới. Các nhà khoa học phát hiện ra rằng trong Hệ Mặt Trời có một hành tinh và ba mặt trăng (Sao Hỏa, Europa, Enceladus, Titan) có: nước, ánh nắng, các nguyên tố để tạo thành hợp chất hữu cơ. Tức là đủ ba yếu tố cấu thành nên sự sống.


Nhà toán học và vật lý lý thuyết Freeman Dyson tin rằng ở đâu đó trong Hệ Mặt Trời hẳn phải có sự sống (không nhất thiết phải thông minh, có thể chỉ là các vi sinh vật). Ông cho rằng các sinh vật ấy, vì rất bé, không cần thở, nên dễ dàng phát tán khắp Hệ Mặt Trời, bằng cách đi ké các vụ bắn phá thiên thạch.


Nhà vật lý thiên văn Niel deGrasse Tyson cũng nói về Thuyết Tha Sinh, theo đó rất có thể nguồn gốc sự sống trên Trái Đất là từ microorganism đến từ Sao Hỏa. Sao Hỏa bị thiên thạch bắn phá, các microorganism bị bắn tung vào không gian, và bằng cách nào đó đã đến được Trái Đất.


Freeman Dyson lập luận rằng, vấn đề không phải là có khả năng tồn tại sự sống trong không gian hay không, mà là khả năng chúng ta có dò tìm ra được các tín hiệu của sự sống ấy hay không.


Sir Martin Rees là nhà vũ trụ học và thiên văn học người Anh rất được kính trọng. Ông có những đóng góp quan trọng cho nghiên cứu tàn tích của Big Bang (CMB Cosmic Microwave Background) và sự hình thành của các cụm thiên hà. Ông tin rằng rất đáng bỏ công sức ra đi tìm sự sống thông minh ngoài trái đất (như chương trình của NASA tên là SETI – Search for Extraterrestrial Intelligence).


*


Nhà vật lý lý thuyết Michio Kaku có lần viết đại ý rằng: “Có nhiều người hỏi tôi về sinh vật ngoài trái đất. Tôi không biết sinh vật thông minh ấy hình dáng như thế nào. Nhưng nếu có sinh vật như thế, thì chắc chắn họ sẽ có ba yếu tố sau: mắt họ nhìn được không gian ba chiều, chi của họ có ngón cái để cầm nắm được, họ có ngôn ngữ. Cho đến nay, con người là loài sinh vật duy nhất trên trái đất có cả ba khả năng này.”


Michio Kaku đúc kết rất chuẩn. Nhờ ba khả năng này mà con người tiến hóa vượt lên trên các sinh vật khác để xây dựng nền văn minh của mình trên Trái Đất. Họ có ký ức, họ biết lưu truyền kiến thức, họ biết sáng tạo, họ biết tổ chức xã hội, và họ biết nhìn vào tương lai.


Ngay cả ở phần bản năng gốc, ba khả năng nói trên cũng làm con người khác với con vật.


Con người có thể khoái cảm tình dục chỉ bằng cách xem đồng loại have sex. Không phải vô cớ mà ngành phim sex càng ngày càng lắm khách hàng, đặc biệt là khách nữ giới tăng trưởng mạnh.


Con người có thể thỏa mãn đối tác của mình bằng tay. Đôi bàn tay con người không chỉ làm ra công cụ lao động và tạo ra các tác phẩm nghệ thuật, mà còn có thể khéo léo thỏa mãn ham muốn của bạn tình. Và của chính mình nữa, tất nhiên.


Nhưng trên hết, con người có thể dùng ngôn ngữ để giải tỏa bản năng gốc. Họ có thể dùng ngôn ngữ nói để khơi gợi ham muốn tình dục bên trong một người vừa xa vừa lạ (phone sex, điện thoại hồng). Họ có thể dùng ngôn ngữ viết để để thỏa mãn nhau và lên đỉnh cùng nhau (chat sex).


*


Tôi không rõ việc đi tìm sinh vật thông minh ngoài trái đất cuối cùng có đem lại kết quả tích cực gì cho con người hay không.


Có thể một ngày nào đó, chúng ta và bọn họ gặp nhau. Thế rồi cái sinh vật đến từ nền văn minh cao cấp trong không gian xa xôi kia sẽ ban cho loài người một ân huệ: “Triết lý của chúng tôi là tiết kiệm tối đa thời gian và năng lượng. Với công nghệ tân tiến của chúng tôi, từ nay loài người các bạn chỉ cần làm tình bằng ý nghĩ. Chỉ nghĩ đến nhau một cái là xong.”


Không rõ lúc đó con người sẽ thấy vui hay thấy buồn? Hay toàn nhân loại cùng nhau trở thành các thiền sư, đi tìm sự cực khoái trong tâm tưởng?


*



Thuyết Tha Sinh (Panspermia)


Thuyết Tha Sinh là một giả thuyết về nguồn gốc của sự sống trên trái đất . Thuyết này cho rằng sự sống trên Trái Đất có thể đến từ Vũ Trụ.


Trên bề mặt trái đất có nhiều ngàn tấn thiên thạch, trong đó rất nhiều đến từ Sao Hỏa.


Bốn nguyên tố hoạt tính hóa học cao và phổ biến nhất trong Vũ Trụ – hyđrô, ôxy, cácbon và nitơ – là bốn nguyên tố quan trọng nhất làm nên sự sống trên Trái Đất.


Sao Hỏa có thể đã từng rất màu mỡ để các thực thể vi sinh (microorganism) tồn tại.


Các thể vi sinh cực kỳ khỏe. Nó có thể chịu đựng được tia vũ trụ, nhiệt độ và áp suất cực thấp hoặc cực cao. Trong quá khứ rất xa xôi, đã từng có những tiểu hành tinh đâm vào Sao Hỏa, làm bắn tung vào vũ trụ đá Sao Hỏa. Có những tảng đá Sao Hỏa, tức các thiên thạch lao về trái đất. Trái Đất hồi đó chưa có khí quyển, hoặc khí quyển rất loãng, nên thiên thạch đâm xuống nguyên con.


Thế rồi sự sống nhen nhóm. Bắt đầu bằng các sự tự nhân bản đơn giản. Rồi đơn bào. Rồi đa bào. Rồi quang hợp ánh sáng. Rồi từ quang hợp mà khí quyển đậm đặc dần và trở thành lớp áo giáp bảo vệ trái đất khỏi các tia vũ trụ và các vụ bắn phá thiên thạch.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 24, 2019 22:52

January 4, 2019

Oiseaux, Galilei, Mendeleev

[image error]


Trong ảnh là trường Les Oiseaux trước năm 1975!


Trần Lệ Xuân (1924-2011) sinh ra trong gia đình khá đặc biệt. Ông nội là tổng đốc Nam Định Trần Văn Thông, ông ngoại là thượng thư Bộ Binh Thân Khắc Huề. Cả hai ông trước khi làm quan to đều là Giám đốc Trường Hậu Bổ Hà Nội (trường đào tạo quan chức hành chính, dạy cả Hán văn lẫn Pháp văn, tốt nghiệp ra được bổ làm tri huyện). Bà nội Trần Lệ Xuân là em ruột Bùi Quang Chiêu. Bùi Quang Chiêu là người thành lập Đảng Lập Hiến và là người mở tờ báo La Tribune Indigène cùng Nguyễn Phú Khai. Nguyễn Phú Khai là bố của bà Thụy Vân, người vợ miền nam của ông Ba Duẩn. Sau CMT8, Bùi Quang Chiêu lúc này 70 tuổi bị giết cùng các con của mình.


Bố của Trần Lệ Xuân là ông là Trần Văn Chương. Ông này hơn Ngô Đình Nhu khoảng một giáp, và rất thích sự học giỏi giang của ông Nhu. Ông Chương được đi du học, có bằng luật sư, rồi trở về Sài Gòn hành nghề. Hai con gái của ông là Lệ Chi và Lệ Xuân giai đoạn này được gửi đi học ở Couvent des Oiseaux trên Đà Lạt. Đây là trường nữ sinh, dành cho quý tộc Đông Dương.


Nam Phương Hoàng Hậu hồi còn là con gái thì đi học ở  Couvent des Oiseaux bên Pháp. Khi bà làm hoàng hậu, vua Bảo Đại hiến tặng một khu đất ở Đà Lạt (Hoàng triều cương thổ) để xây trường Couvent des Oiseaux Đà Lạt. Một thời gian sau, ông Chương chuyển ra Hà Nội, Trần Lệ Xuân ra theo. Lúc này Les Oiseaux đã có cơ sở Hà Nội, tên là Notre Dame du Rosaire ở đường Thành (digue Parreau), trên khu đất thuộc làng Vĩnh Phúc, nằm liền kề làng Liễu Giai và làng Đại Yên, nay là Hoàng Hoa Thám (Đại chủng viện Xuân Bích cũng ở gần khu đất này, nằm trên đất làng Liễu Giai, nay là khu Quần Ngựa). Trần Lệ Xuân đi học có lái xe riêng và cô sen theo hầu. Từ Couvent des Oiseaux cô chuyển qua học Albert Sarreau, lấy tú tài nhất năm 17 tuổi thì bỏ học lấy chồng.


[image error]


Năm 1946, bà Xuân lúc này 22 tuổi, vì nạn Việt Minh mà phải bỏ trốn vào Sài Gòn, rồi lên Đà Lạt.


Đến năm 1952, người vợ trẻ Trần Lệ Xuân sau nhiều năm nuôi ông chồng trí thức trùm mền ở Đà Lạt, bắt đầu rơi vào cảnh kiệt quệ tài chính. Cùng thời gian này, Ngô Đình Diệm bôn ba hải ngoại. Sự nghèo khó không hạ gục bà Xuân. Nhờ học Couvent Des Oiseaux, bà Nhu có quan hệ tốt với hoàng hậu Nam Phương, và cùng Ngô Đình Luyện là bạn của Bảo Đại, bà giúp đặt những bậc thang đầu tiên cho sự nghiệp chính trị của Ngô Đình Diệm, giúp ông Diệm trở thành thủ tướng của quốc trưởng Bảo Đại.


[image error]


Cũng nhờ các cô bạn học hồi Les Oiseaux, nay giàu có và nhiều thế lực, bà Xuân tổ chức thành công sự kiện dình dang ngày 25 tháng 6 năm 1954 đón ông Diệm từ sân bay trở về dinh Gia Long. Năm này bà Nhu tròn 30 tuổi. Được coi là Đệ nhất phu nhân (de facto) bà Xuân là người kế thừa vai trò của hoàng hậu Nam Phương.


Mỗi sáng cuối tuần ngồi trong nhà nguyện, nơi sân trường Oiseaux, tôi vẫn tự hỏi ông Nhu và bà Nhu đã có lúc nào đến nơi đây.


***


[image error]


Trong hình là bản vẽ mặt trăng của Galilei.


Galileo Galilei vẽ hình mặt trăng này năm 1610. Lúc này ông đã là cao thủ trong thiết kế và chế tác kính thiên văn, một thiết bị quang học tối tân thời đó. Cùng lúc này ở vùng đất giữa sông Mã và sông Hồng có những biến động lớn. Năm 1600, sau khi cùng họ Trịnh dẹp yên nhà Mạc và gầy dựng lại nhà Lê, Nguyễn Hoàng đi khai khẩn miền Nam. Năm 1613, con trai của Chúa Nguyễn Hoàng, là Nguyễn Phúc Nguyên được giao làm trấn thủ Quảng Nam. Đào Duy Từ vào Đàng Trong đầu quân cho Nguyễn Phúc Nguyên, Trịnh-Nguyễn phân tranh chính thức bắt đầu. Từ đất Quảng Nam với hoàng tử Nguyễn Phúc Nguyên làm đầu lĩnh, chữ quốc ngữ ra đời.


Galilei (1564-1642) là nhà vật lý, nhà thiên văn học và cả nhà toán học nữa. Nguyên lý tương đối mang tên ông (Galilean principle of relativity) là nền tảng của các định luật Newton. Và cũng là cơ sở để Einstein phát triển “Thuyết tương đối hẹp”. Einstein coi Galilei là cha đẻ của khoa học hiện đại.


Galilei chăm đi nhà thờ. Vừa dự lễ vừa làm thực nghiệm: khảo sát dao động của đèn chùm bằng nhịp đập huyết mạch của mình.


Câu nói bất hủ “Nhưng dù sao trái đất vẫn quay” là vì ông tin vào chân lý khoa học, nhưng đồng thời tuân phục ý thức hệ giáo hội.


Galilei còn nói: Khoa học là để hiểu lối đi của “thiên đường”, tôn giáo là để hiểu lối đến “thiên đường”.


“Thiên đường” mà nhà khoa học ngoan đạo Galilei nói, vừa là “Nước Chúa” mà Kitô hữu hướng đến vừa là “Vũ Trụ”, là “Mẹ Tự Nhiên” mà bất cứ ai cũng muốn trở về.


“Lối đến thiên đường” mà Galilei nói, vừa là lối sống theo Đạo đức (Ethics) Kitô giáo, vừa là quy cách ứng xử trong lối sống đời thường. Đó là “con đường” giúp mọi người sống tử tế, đúng đắn và hài hòa với nhau, với cộng đồng, với xã hội và với thế giới tự nhiên.


Ethics giúp xã hội vận hành trơn tru, giúp các cá nhân sống hòa hợp với nhau và với thế giới tự nhiên xung quanh. Tác động của nó đến cộng đồng tích cực hơn thứ Đạo đức thiên về phẩm hạnh cá nhân (Morals) vốn là kim chỉ nam để mỗi người biết cách nhận ra tốt-xấu, đúng-sai, thiện-ác, chính-tà. Ethics hướng ngoại hơn, cộng đồng hơn. Morals hướng nội và cá nhân hơn. Ethics bảo vệ quyền con người còn morals hạn chế quyền ấy. Hành động theo lẽ phải, là dựa vào ethics. Sống lương thiện là dựa vào morals.


Morals ít thay đổi theo biến động xã hội, nó gắn với đức tin tôn giáo, với lý tưởng chính trị của mỗi cá nhân. Ngày trước thì “cả đời đục, mình ta trong”; ngày nay thì “cả khu rừng là củi, mình ta là que diêm”. Ethics thay đổi theo tiến bộ xã hội. Ngày trước trẻ con không được ăn thịt chó; ngày nay người lớn cũng không được ăn. Ngày trước chơi cần là nghiện ngập; ngày nay hút cỏ là tự do.


Nếu đề cao Ethics, thay vì Morals, chúng ta có thể có cuộc sống cá nhân thoải mái hơn mà không bị coi là vô đạo đức. Ta có thể mê rượu, hút cần và suốt ngày ong bướm các cô gái đẹp. Miễn là sống cuộc đời hữu ích, ứng xử đúng mực và hài hòa với con người và với thế giới tự nhiên.


Xã hội như Việt Nam, bị ảnh hưởng của Khổng giáo thường đề cao “đức trị” đem đạo đức cá nhân (morals) ra sử dụng như đạo đức xã hội (ethics). Áp đặt một cách thô lậu tiêu chuẩn cá nhân lên toàn bộ cộng đồng, triệt tiêu nhân quyền. Cái morality ấy lại còn gắn chặt với mẫu hình giữ gìn phẩm hạnh. Một thứ phẩm hạnh thừa giáo điều mà thiếu khoan dung, nặng cảm tính mà nhẹ lý tính, giữ cho mình thiện mà lại gây ác cho người. Một thứ phẩm hạnh khư khư giữ tấm thân sạch sẽ đứng ngoài lề, không chịu dấn thân vào dòng đời ô trọc, thành ra sống mà vô ích cho xã hội.


Mấy chục năm trước xã hội Việt Nam cũng đã từng áp đặt một thứ ethics giả hình như vậy. Đó là tiêu chuẩn đạo đức lối sống của cán bộ đảng viên, đạo đức lối sống của người cộng sản. Nhưng ethics đó chỉ là lớp vỏ khô cứng bên ngoài cho một phiên bản thiếu sức sống thừa giáo điều của cái lõi morals ở bên trong. Nó đơn giản chỉ là việc lấy tiêu chuẩn phẩm hạnh cá nhân khắt khe và thô sơ để áp đặt lên tập thể đa dạng, thủ tiêu các quyền cơ bản của con người, bóp nghẹt xã hội dân sự. Ai không tuân thủ sẽ bị dẫm đạp tơi bời. Các tiêu chuẩn đạo đức lối sống ấy, vì tính vô thần và bất chấp tiến bộ xã hội của nó, không những không thể đa dạng hóa thành đạo đức nghề nghiệp mà còn góp phần làm tha hóa những người phải đeo cái ethics cằn cỗi ấy trên lưng, bất kể họ là ai, làm nghề nghiệp gì hay có địa vị gì trong xã hội.


Khi ta nói “xã hội đang băng hoại”, là ta đang nói đến sự thiếu bắng của ethics kiểu Galilei. Khi chính quyền biện minh cho sai lầm trong hệ thống của mình là do “do buông lỏng quản lý”, đó là lấp liếm che dấu việc không có ethics của cả người thực thi, người lãnh đạo và toàn bộ bộ máy. Không cách nào quản lý được những cán bộ không có đạo đức nghề nghiệp. Bộ máy nhà nước tốt là bộ máy chỉ cần quản lý rất ít mà nó vẫn vận hành hiệu quả.


Nếu đề cao thứ ethics phổ quát kiểu châu Âu, và bớt đánh giá con người theo tiêu chuẩn morals châu Á, thì mỗi người trong xã hội sẽ nhập tâm và biết cách hành xử sao cho phù hợp với ethics của cộng đồng mà mình gắn bó. Đó chính là ethics của công chức, ethics của bác sĩ, ethics của luật sư, ethics của giáo viên, ethics của cảnh sát giao thông, ethics của lái xe, … Những ethics đấy là nền tảng tạo nên đạo đức xã hộiđạo đức nghề nghiệp mà Việt Nam đang không có.


***


Bảng tuần hoàn kiêu hãnh của Mendeleev


[image error]


Trong những năm tháng khó khăn của đất nước, rất ít học sinh có được một cuốn từ điển. Vậy nên nhiều thế hệ học sinh chỉ biết việc tra cứu nhờ vào việc sử dụng Bảng LogarithmBảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học.


Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học manh nha hình thành cách nay khoảng 200 năm. Nó có nhiều phiên bản khác nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là Bảng tuần hoàn Mendeleev. Bảng tuần hoàn này ra đời năm 1869, cách nay đúng 150 năm.


Các học sinh phổ thông, kể cả những em không ưa thích môn hóa, ai cũng học được một điều gì đó từ Bảng tuần hoàn Mendeleev. Ví dụ từ bảng tuần hoàn, các em có thể hình dung được cách người ta phân loại và hệ thống hóa cả trăm nguyên tố hóa học, với các tính chất hóa học phức tạp và khô khan.


Các nguyên tố được phân vào các ô. Các ô được xắp xếp theo hàng và cột. Mỗi ô có màu và đường viền khác nhau. Cột, hàng, màu và đường viền là các “code” để các em chỉn nhìn vào và biết ngay được nguyên tố hóa học trong ô thuộc phân nhóm nào và bởi vậy có tính chất gì.


Trong mỗi ô có ghi tên của nguyên tố và số nguyên tử. Màu sắc của số nguyên tử thể hiện trạng thái tồn tại của chất này ở điều kiện nhiệt độ 0oC và áp suất 1 atmosphere (áp suất khí quyển). Màu đen là thể rắn, màu lục là thể lỏng, màu đỏ là thể khí.


Nếu ô có đường viền liền, thì đây là nguyên tố nguyên thủy, có từ trước khi trái đất hình thành. Nếu đường viền là các chấm, thì đây là nguyên tố hình thành nhờ tổng hợp. Còn không có viền, là các nguyên tố có sinh ra từ phân rã.


Đúng như tên gọi, bảng thể hiện tính tuần hoàn của các nguyên tố. Các em học sinh có thể lĩnh hội được một tính chất nền tảng rất quan trọng của tự nhiên, đó là tính tuần hoàn. Dựa vào tính tuần hoàn, người ta có thể tiên đoán được những gì mà ở hiện tại chưa biết.


Bảng tuần hoàn chia theo hàng và cột. Các hàng thể hiện tính tuần hoàn theo chu kỳ. Hết một hàng là một chu kỳ. Các cột thể hiện các nhóm nguyên tố có tính chất hóa học tương tự nhau. Dựa vào đây, người ta có thể tiên đoán sự tồn tại và tính chất hóa học của một nguyên tố, dựa tính chất của các nguyên tố xung quanh nó trên bảng tuần hoàn.


Trước nhà hóa học người Nga Dmitri Mendeleev (1834-1907), đã có nhiều nhà khoa học phát triển các bảng tuần hoàn khác nhau.Ví dụ bảng tuần hoàn của nhà hóa học Pháp Antoine Lavoisier năm 1787. Thế nhưng Mendeleev mới là người được ghi công bởi sự sắp xếp của ông có độ tiên đoán chính xác cao. Ông để trống những ô mà có vẻ như là chỗ của những nguyên tố còn chưa được con người khám phá. Ông tiên đoán được tính chất của các nguyên tố còn khuyết này và tin rằng chúng tồn tại trong tự nhiên. Dần dà các nhà khoa học tìm ra những nguyên tố còn khuyết ấy, và những ô trống được lấp đầy.


Một ví dụ về “lấp đầy ô trống”, đó là năm 1894, Tôn ông (Lord) Reyleigh phát hiện ra nguyên tố Argon. Argon nằm ở hàng thứ ba và cột thứ mười tám (tức là cột ngoài cùng bên phải). Mỗi cột là một nhóm (còn gọi là họ) các nguyên tố. Các nguyên tố cùng họ (cùng nhóm) có các tính chất hóa học giống nhau. Họ của Argon ngày xưa được gọi là khí trơ trong tiếng Việt do các khí này cứ trơ ra không chịu tương tác với các nguyên tố khác. Trong tiếng Anh chúng có tên gọi là noble gas, ý nói các chất này quý phái (noble), kiêu kỳ đứng riêng ra, không thèm chơi với các nguyên tố khác.


Bảng tuần hoàn Mendeleev mở màn cho hóa học hiện đại. Nó không chỉ mang cảm hứng đến cho các nhà hóa học, mà cho cả các nhà vật lý nguyên tử.


Nhà vật lý Niels Bohr, cha đẻ của vật lý lượng tử cổ điển, đã sử dụng thuyết lượng tử để giải thích tại sao các nguyên tố hóa học lại nằm ở các vị trí như vậy trên bảng tuần hoàn. Năm 1913 ông đưa ra mô hình nguyên tử trong đó có hạt nhân nằm ở tâm, xung quanh được bao bọc bởi các lớp vỏ electron. Bohr giải thích rằng các nguyên tố cùng họ có cấu trúc lớp vỏ electron ngoài cùng giống nhau. Tính chất hóa học của các nguyên tố phụ thuộc chủ yếu vào lớp vỏ ngoài cùng này. Với khí trơ, Bohr giải thích, lớp vỏ ngoài cùng rất bền, nên khí trơ khó kết hợp với các chất khác. Nguyên tố nào có lớp vỏ càng kém bền vững, nó càng dễ kết hợp với nguyên tố khác để tạo ra hợp chất có vỏ bền vững hơn.


Khoảng một thập niên tiếp theo, vật lý lượng tử cổ điển phát triển thành vật lý lượng tử hiện đại. Các nhà vật lý lượng tử hiện đại đóng góp thêm vào mô hình nguyên tử.


Năm 1924, Wolfgang Pauli tìm cách giải thích tại sao mỗi hàng (mỗi chu kỳ) của bảng tuần hoàn lại có độ dài như vậy. Từ đây ông tìm ra Nguyên lý ngoại trừ (Pauli Exclusion Principle). Nguyên lý này phát biểu rằng không thể có hai electron cùng tồn tại ở cùng một trạng thái lượng tử.


Các đóng góp của hai bộ óc lớn của cơ học lượng tử là Werner Heisenberg và Erwin Schrödinger đã làm thay đổi mạnh mẽ mô hình nguyên tử Bohr. Trong mô hình mới, được gọi là mô hình sóng (wave model), các electron không còn chuyển động quanh hạt nhân giống như trái đất bay quanh mặt trời nữa. Trong mô hình sóng, các lớp electron được mô tả như một đám mây chuyển động trên quỹ đạo nguyên tử (atomic  orbital: AO), và vị trí của electron không còn được biểu diễn như hàm của một hạt điểm nữa mà như một hàm phân phối xác suất. Mỗi orbital nguyên tử được xác định bởi ba giá trị của ba số lượng tử (quantum number). Số lượng tử này được xác định bởi Nguyên lý ngoại trừ Pauli.


Mô hình sóng để mô tả nguyên tử vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. Nó cũng là mô hình giúp hình thành ngành hóa lượng tử (quantum chemistry). Hai vợ chồng bà Thủ tướng Đức Angela Merkel là các nhà khoa học hàng đầu trong lĩnh vực này.


Khoa học hiện đại có nhiều chuyển biến lớn trong suốt 150 năm qua. Trong đó có thể kể đến hai cuộc cách mạng là Thuyết tương đối của Einstein và Vật lý lượng tử. Thế nhưng Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học về cơ bản không có nhiều thay đổi. Được trình bày đơn giản và dễ hiểu chỉ trên một mặt giấy, Bảng tuần hoàn Mendeleev bền bỉ và khiêm tốn đi qua tất cả các biến động thời gian. Sự hiện diện thầm lặng của bảng tuần hoàn trong cặp học sinh, hay trên tường phòng thí nghiệm chính là niềm kiêu hãnh không phô trương của tinh thần khoa học.


Cùng giai đoạn 1869 khi Mendeleev chế ra bảng tuần hoàn thì ở nước ta đang có các cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Đàng Trong (sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ từ cuộc chiến 1858). Năm 1868 là năm Nguyễn Trung Trực có chiến thắng lớn ở Kiên Giang. Cũng năm này ông bị Pháp bắt và đưa trở về Sài Gòn xử án rồi đưa ngược lại Rạch Giá để hành quyết.


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 04, 2019 00:15

December 24, 2018

Bình đẳng giới, Ô nhiễm nhựa, Beatles, Phim Love, Du hành thời gian, Bush Cha

Các mẩu ngắn ngắn dưới đây tôi post ở Instagram cho vui. Nay copy lại vài cái về đây, nhưng không có ảnh kèm theo, mọi người đọc giải trí mùa Giáng Sinh.


 


1.


Bình đẳng giới!


Trong ảnh là Tạp chí Pi, cover story là “100 năm định lý Emmy Noether”.


Noether là nhà toán học gốc Do Thái. Bà là …một phụ nữ.


Công trình toán học năm 1918 của bà đóng vai trò rất lớn trong vật lý hiện đại và được cả Hilbert và Einstein ca ngợi. Trước đó mấy năm, bất chấp việc được cả Hilbert và Klein, hai siêu tên tuổi toán học, tiến cử, Noether vẫn không được đại học Gottingen nhận làm giáo sư. Việc chống đối, ta có thể đoán được, đến từ các giáo sư bên các ngành xã hội. Lúc này Noether còn tương đối trẻ.


Việt Nam, xét về văn hóa dân gian, cho đến nay vẫn là dân tộc mẫu quyền. Tục thờ mẫu vẫn còn rất phổ biến ở miền bắc. Bất chấp 1000 năm Bắc thuộc, bị Hán hóa, văn hóa trọng nam khinh nữ của Tàu không xóa được ý thức hệ “mẫu hệ” ra khỏi văn hóa Việt. Hai Bà Trưng, biểu tượng của mẫu hệ, chỉ bị bóp méo đi một tí, bằng việc bổ sung yếu tố “trả thù chồng”.


Đến thế kỷ 15, thời Lê, luật Hồng Đức đề cao vai trò và quyền phụ nữ, tiến bộ hơn tất cả các nước trong khu vực, hơn luôn cả Nhật. Phụ nữ Việt được quyền sở hữu và thừa kế. Thời Lê còn tổ chức phong thần cho hai nữ tướng của Hai Bà Trưng. Đây là giai đoạn mẫu hệ Việt hấp thu thêm mẫu hệ Chăm, và hình thành văn hóa đồng bằng bắc bộ tồn tại (như dòng chảy ngầm) cho đến tận ngày nay.


Đến thời Minh Mạng đầu thế kỷ 19, ông hoàng đế này Hán hóa kinh hoàng. Đưa phụ nữ xuống tầng đáy, cướp hết quyền lợi của họ. Cách mạng vô sản mang đến một chương mới về bình đẳng giới cho giới thị dân. Các nữ chiến sĩ cách mạng như Minh Khai, Thụy Vân là các tấm gương sáng về chiến đấu và sưu tầm giai nổi. Ở Miền Nam, bà Ngô Đình Nhu kịch liệt đấu tranh cho nữ quyền, bà là người xóa bỏ tục đa thê trong tướng lĩnh nhà giàu ở miền Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, các nữ đại gia như bà Cát Hanh Long (địa chủ Năm) thường xuyên cho cách mạng bú sữa cho đến khi bị bắn. Trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, các bà má miền nam, các đội quân tóc dài có vai đóng vai trò quan trọng. Vậy nên sau 1975 ở Việt Nam có bà mẹ anh hùng, còn các ông bố thì không.


Sau 1979, Việt Nam chịu ảnh hưởng của Machismo kiểu Nga (điển hình là anh Putin cởi trần), rồi Machismo kiểu Tàu (mẫu hình là anh Tập phưỡn bụng). Sau 1989 một lần nữa văn hóa chính trị bị Hán hóa, đâm ra bình đẳng giới và nữ quyền ở Việt Nam đâm ra chỉ còn tồn tại trên hình thức, rồi đến một ngày việc lẩy Kiều bất ngờ trở thành biểu tượng của quyền lực,


Nhưng bất chấp văn hóa triều đình Machismo nửa mùa, văn hóa dân gian vẫn đề cao mẫu hệ, lệnh ông không bằng cồng bà. Nhiều quan chức đi vào lò vì có quan bà đớp hăng quá. Hầu hết các đại gia bất động sản là nữ. Nhiều đại gia Việt Nam lọt vào danh sách tỷ phú Forbes là nhờ các nữ tướng dưới quyền. Đó là minh chứng của nữ quyền thực sự ở Việt Nam hiện đại.


Quay lại với cô Noether. Định lý Noether cho ta biết, nếu một Lagrangian bình thường mà có đối xứng liên tục (trơn), ắt sẽ có bảo toàn liên quán đến cái đối xứng ấy. Nếu đối xứng về thời gian (bất biến với dịch chuyển theo trục thời gian) sẽ có bảo toàn năng lượng; đối xứng về không gian sẽ là bảo toàn động lượng, đối xứng quay sẽ có bảo toàn mô men động lượng.


Phụ nữ thời nữ quyền có cơ thể hoàn toàn đối xứng. Đến khi nam quyền trỗi dậy, do nhiều ông thuận tay phải hơn (một kiểu tiến hóa do thói quen săn bắn), phụ nữ bắt đầu mất tính đối xứng cơ thể của mình. Ở đâu mất đối xứng, ở đó nữ quyền không được bảo toàn.


2.


Ô nhiễm nhựa


Ngày nay ai cũng hiểu rác thải bằng nhựa nhân tạo hay cao su nhân tạo (ví dụ bao nylon hay bao cao su) làm ô nhiễm biển, đất và môi trường. Nguyên nhân chủ yếu là do nhựa nhân tạo không dễ dàng tự phân hủy trong tự nhiên.


Thế nhưng, cũng như kim hoại (hợp kim), thì nhựa tổng hợp là phát minh có ý nghĩa nhất của con người. Nếu không có kim loại (nhôm, đồng) và bỏ bọc cách điện (nhựa) để làm dây cáp điện thì chúng ta không có thế giới hiện đại ngày hôm nay.


Nhựa tổng hợp manh nha xuất hiện từ giữa thế kỷ 19, khi nguồn cung ngà voi bắt đầu giảm và người ta muốn tìm vật liệu nhân tạo để thay thế.  Nhựa nhân tạo góp phần sinh ra cả một ngành nghệ thuật, là điện ảnh. Đến Thế chiến thứ 2, nhựa góp phần vào các thiết bị điện tử quân sự của phe đồng minh. Sau Thế chiến, nhựa trở thành một thứ vật liệu tân kỳ và hào nhoáng. Nó bền, làm được sản phẩm có mọi hình dáng, kích thước, màu sắc.


Ngày nay nhựa bao vây cuộc sống của chúng ta. Rất nhiều đồ vật trong nhà có nhựa. Ngoài phố cũng đầy sản phẩm bằng nhựa. Các banner treo ngoài phố hô hào tắt điện cho ngày trái đất cũng là một dạng nhựa nhân tạo. Các nhà hoạt động môi trường chống sử dụng sản phẩm nhựa cũng gõ máy tính có bàn phím nhựa, dùng smartphone có case nhựa, và đeo kính gọng nhựa. Con người rất khó đào thoát khỏi nhựa, là thứ do con người tạo ra (bởi vậy ta nên nghĩ theo cách này về những gì con người đang tạo ra như gene editing, hay artificial intelligence).


Nhựa là thành tựu, và cũng là tai họa do trí tuệ con người tạo ra. Để khắc chế nó, cần trí tuệ tầm nhân loại (trong đó có thể sẽ không có Việt Nam), và các chính phủ đưa ra các chính sách như thuế, luật môi trường, hoặc như việc Sài Gòn bắt dân phân loại rác.


Người dân gần như bất lực trước nhựa (đừng ảo tưởng sức mạnh của mình). Nhưng mỗi người vẫn có thể tự nâng cao nhận thức và cách ứng xử của mình với đồ dùng bằng nhựa: không xả rác bừa bãi, nghe lời thành phố của mình phân chia rác trước khi đem đi đổ.


3.


Beatles và Billy Preston


Trên bìa đĩa có chữ Beatles with Billy Preston.


Beatles ghi âm dự án “Get Back” mà sau này khi phát hành mang tên chính thức “Let it be” vào lúc cả nhóm đang trên đường đi tới tan rã. Lennon và McCartney cãi vã. Harrison lúc này tài năng đến độ chín tuyên bố sẽ bỏ nhóm. Nhưng thay vì bỏ nhóm, anh mang đến phòng thu một người bạn là Billy Preston. Bên cạnh việc làm một vị khách mời để hòa giải các bất đồng trong gia đình Beatles, giúp họ có lại niềm vui sáng tác và chơi nhạc, thì các ngón đàn của Preston đóng góp rất nhiều gia vị đẹp đẽ cho các bản ghi âm của Beatles. Nếu chưa từng để ý đến Preston, ta có thể nghe lại hai bài Get Back và Don’t Let Me Down, xem các câu solo bằng piano điện của Preston đẹp đẽ, long lanh lóng lánh như nắng thủy tinh như thế nào.


Khi Beatles ghi âm bài Get Back, Harrison vắng mặt và chỉ đóng góp phần rhythm guitar. Người chơi solo guitar là Lennon. Các câu solo của Lennon trong bài này tinh nghịch, tình tứ và hết sức đĩ bợm. Lennon kể rằng, khi ghi âm, mỗi khi McCartney hát câu “get bac to where you once belonged” anh này lại nhìn Yoko Ono.

Get Back nằm ở vị trí cuối cùng trong album Let It Be, kết thúc bài hát là giọng Lennon nói câu châm biếm: “I’d like to say thank you on behalf of the group and ourselves, and I hope we passed the audition”. Câu này Lennon nói với khán giả sau khi cả nhóm trình diễn Dont Let Me Down ở trên mái nhà (rooftop concert nổi tiếng của Beatles). Anh producer của Let It Be là một anh người Mỹ thiên tài và điên loạn, tên là Phil Spector, đã cắt câu này và cho vào bản ghi âm.


George Martin kể rằng, khi Beatles lần đầu được dẫn đến gặp ông, ông không ấn tượng gì (về tài năng) của họ. Nhưng ông vẫn ký hợp đồng (làm producer) vì ông thấy họ hài hước và vui nhộn.


4.


Love – Before the Beginning


Trong ảnh, từ trái qua phải, là Murphy, Electra và Omi, trong phim “Love”. Một bộ phim gây tranh cãi vì có quá nhiều cảnh như phim con heo. Diễn viên đóng thật, quay cận cảnh từng bộ phận. Đã thế còn quay 3D. Không rõ khi chiếu ở rạp lớn, loa mở to, cả trăm khán giả đang ngồi xem với nhau, sẽ có cảm xúc thế nào, nhất là khi những bộ phận to đùng ấy phang thẳng (3D) vào mặt trong âm thanh surround sound.


Nhưng đằng sau những cảnh con heo trần tục (nhưng được quay vô cùng đẹp đẽ) ấy là câu chuyện tình đẹp đẽ, day dứt và cay đắng. Một câu chuyện tình đúng kiểu Murphy’ Law (một định luật mà ai biết rồi cũng sẽ rất thích, nó bảo rằng cái gì có thể sai, thì chắc chắn sẽ sai).


Murphy là một sinh viên Mỹ, tới Paris học làm phim. Electra là một nghệ sĩ trẻ, đã từng có triển lãm. Hai người này yêu nhau và sống chung trong một căn hộ nhỏ. Omi là một cô bé hàng xóm tuổi teen.


Có một cảnh, quay cận, sau khi chén nhau xong, Electra nằm trên ghế đệm chăn đỏ sẫm. Murphy ngồi bệt dưới sàn. Khung hình gợi nhớ một bức tranh của Edward Munch. Murphy hỏi Electra rằng ultimate fantasy của cô là gì. Cô nói: Là chén nhau tay ba, cùng anh, và một cô gái trẻ. Câu thoại vừa dứt là tiếng guitar gỗ của Pink Floyd dìu dặt bập vào, bản “Is there anybody out there”. Sau đó Murphy và Electra vô tình quen cô bé hàng xóm Omi.


Ba người nằm trên giường, hút thuốc, rồi từ từ chén nhau. Chậm rãi chuyển động, chậm rãi thay đổi vị trí, và camera cũng vậy. Họ chén nhau trong tiếng guitar điện dìu dặt, mơn trớn, mải mê đầy nhục cảm của John Frustiante. Bản “Before the Beginning”.


Anh Frustiante là tay guitar của Red Hot Chilli Peppers. Khi band này bắt đầu lên đỉnh hào quang, Frustiante cảm thấy mình không hợp với cái danh tiếng lên quá cao và quá nhanh ấy. Anh thích một sự nổi tiếng nho nhỏ, khi anh và band của mình đi diễn ở các club, và thu hút những cộng đồng fan nho nhỏ và quen thuộc. Rơi vào ma túy và rời bỏ band nhạc. Sau một thời gian cai nghiện, Frustiante quay lại với âm nhạc và ghi âm Califonication cùng Red Hot Chilli Peppers. Nhưng rồi một thời gian sau anh cũng bỏ nhóm và chơi solo những gì anh thích. Trong đó có Before the Beginning, một bản tình ca không lời.


Anh Anthony Kiedis là thủ lĩnh của Peppers. Thời gian đầu Kiedis và Frustiante là một cặp bài trùng không thể tách rời. Thế rồi danh tiếng và ma túy hủy hoại tình cảm của họ. Kiedis cai nghiện và trở nên xa cách với xã hội, và cả với các đồng đội của mình. Có lần đến tập với ban nhạc, anh bỗng nhận ra mình đã xa cách với họ từ bao giờ. Lái xe về nhà, anh bỗng nhận ra mình chỉ có một người tình, đó là thành phố nơi anh sống, LA. Vừa lái xe anh vừa sáng tác một bài thơ tên là Under the Bridge. Sau này ban nhạc biến nó thành bài hát rất tình cảm với những câu guitar tình tứ của Frustiante.


Nghe “Under the Bridge” ta sẽ thấy một người đàn ông có thể yêu thành phố mình đang sống tới mức nào: tới mức có thể làm tình với thành phố ấy, trong tiếng nhạc, hay tiếng mưa của cơn bão biến tất cả những con số thành sông và những cột đèn đỏ tắt ngúm ngay dưới ánh mặt trời.


LA, là thành phố của Chilli Peppers, của Guns N’ Roses, là nơi Elon Musk đào đường hầm siêu tốc, và là thành phố trong Sympathizer của anh Thanh Việt.


5.


Du hành thời gian


Michio Kaku đang có các câu đố liên quan đến thuyết tương đối. Có một câu về du hành thời gian thế này: Nếu du hành thời gian là có thực (ta có thể quay về quá khứ), bằng cách nào một người có thể cùng lúc vừa là cha, là mẹ, là con trai, con gái (của chính mình).


Câu trả lời tuy hơi bệnh, nhưng thú vị về logic. Như sau. Đầu tiên là có một cô gái mồ côi, tên Jane. Cô này phẫu thuật giới tính trở thành Jim. Jim du hành ngược thời gian, về quá khứ gặp Jane, rồi cưới cô này. Hai người có con gái, tên là  Jane. Hai người cùng du hành ngược thời gian, đưa Jane cho một trại trẻ mồ côi.


Michio Kaku có một câu đố tiếp: nếu điều trên là có thể xảy ra, thì định luật gene sẽ ngăn cấm một người là cả luôn cây gia đình của mình bằng cách nào.


Câu trả lời là: Một người không thể vừa là cha, là mẹ, là con gái và con trai của một gia đình được. Vì female có nhiễm sắc thể XX, còn male là XY. Một người không thể thay đổi nhiễm sắc thể giới tính của mình được. Ít nhất là hiện tại chưa làm được.


6.


Một nhiệm kỳ


Bush cha là tổng thống một nhiệm kỳ. Trước đó ông có hai nhiệm kỳ làm phó cho tổng thống Reagan.


Nhiệm kỳ của Bush khá đặc biệt. Bức tường Berlin sụp đổ. Ông ủng hộ thống nhất hai miền, bất chấp sự phản đối của các nước Tây Âu và cả Đông Âu. Đó là giai đoạn mà các trợ lý của ông mô tả là virtually cô đơn hehehe. Ông cũng là người lèo lái rất khéo léo để Liên Xô trong cơn giãy chết đã không gây ra chiến tranh, nhất là chiến tranh hạt nhân. Giờ mọi thứ xảy ra rồi, ta thấy bình thường, nhưng cái lúc cường quốc dị hợm ấy giãy chết ấy, cả thế giới căng thẳng són đái.


Cùng với Gorby hói, vị tổng thống xuất thân nhà giàu Bush đã chấm dứt chiến tranh lạnh. Ông nói đại ý: đã có một trật tự thế giới mới, hòa bình, thịnh vượng, era của bọn độc tài đã chấm dứt.


Trong trật tự thế giới mới toe ấy, Việt Nam hơi ngơ ngác. VN quay lại với Tàu năm 1989, rón rén mở cửa, và đến 1995 thì bình thường hóa với Mỹ. Thì năm 1991, Bush lãnh đạo liên quân (bao gồm cả các nước Arap), đánh nước bạn Iraq của Việt Nam. Các chuyên gia Việt Nam (xuất khẩu lao động) ở Iraq phải về nước. Hơn 10 năm sau, Bush con làm tổng thống lại đánh Iraq tiếp, lần này người bạn Hussein của Việt Nam toi đời. Tôi vẫn nhớ, cuộc biểu tình đầu tiên nổ ra ở HN, tuy rất nhỏ, là một nhóm thanh  niên đứng đối diện sứ quán Mỹ ở Hà Nội, phản đối Mỹ đánh Iraq.


Obama, trong nhiệm kỳ 1, trước nỗi lo thất cử, đã nói đại khái rằng ông thà làm một tổng thống một nhiệm kỳ có thành tựu còn hơn làm tổng thống hai nhiệm kỳ nhạt nhòa. Người ta cho rằng ”tổng thống một nhiệm kỳ” này là Obama ám chỉ Bush cha. Và có thể, câu nói này, ám luôn vào sự nghiệp của Obama, người nghỉ hưu khi còn quá trẻ và khỏe.


Bush cha, một thanh niên con nhà giàu, có ông nội và bố học Yale, đã tạm ngưng đại học để nhập ngũ, đi chiến đấu, hết chiến tranh lại đi học, lấy vợ, đi làm. Cuộc đời của ông đai khái “cổ điển” như vậy: ái quốc và phụng sự tổ quốc.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 24, 2018 00:10

October 30, 2018

Về một cuốn sách của Lê Nin

Không phải bỗng dưng chủ nghĩa Marx trở thành học thuyết chính thống của cách mạng vô sản, nó cần một ai đó sử dụng nó để hành động. Con người hành động ấy, cũng không chỉ đơn giản là đi phát động một cuộc cách mạng. Ông ấy còn phải biết lý luận. Lý luận ấy phải viết thành sách. Tên nhà cách mạng ấy là Lenin, còn tên cuốn sách trong tiếng Việt là “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”. Bản tiếng Anh có tên “Materialism and Empirio-criticism. Critical Comments on a Reactionary Philosophy“. Ai quan tâm có thể đọc ở đây.


Cuốn sách này được coi là tác phẩm lý luận quan trọng nhất với cách mạng vô sản toàn thế giới. Chưa kể nó là hạt giống đầu tiên để đưa “tính đảng” vào trong nghiên cứu khoa học. Không chỉ khoa học xã hội, mà cả khoa học tự nhiên. Nghiên cứu vật lý lý thuyết, hay làm bom nguyên tử cũng phải có tính đảng. Đó là nhờ siêu phẩm này của Lê Nin.


Nếu chịu khó đọc tiểu luận (rất ngắn) này, hoặc nhìn vào tên tiếng Anh của nó, ta cũng có thể đoán thêm được các khái niệm quen thuộc ở Việt Nam như “phản động”, “suy thoái tư tưởng”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có nguồn gốc từ trước tác này của Lê Nin.


*


Lenin sinh năm 1870, lớn hơn Einstein (sinh năm 1879) chín tuổi. Lúc sinh ra ông chưa phải là Lenin đâu, thế mới tài, bởi khi lớn rồi ông mới tự chọn nick Lenin cho mình để làm cách mạng.


Năm Lenin 16 tuổi thì bố chết. Năm 17 tuổi thì anh ruột bị Nga Hoàng tử hình. Ông nói: từ nay ta sẽ đi theo con đường khác. Con đường khác đó là con đường mà chủ nghĩa Marx chỉ ra, còn cậu bé tuổi teen Lenin, lúc đó vẫn chưa phải là Lenin,  là người nhiệt tình học hỏi rồi tham gia phổ biến vào nước Nga suốt một thời gian dài cho đến năm 27 tuổi mới thôi. Lý do là năm đó ông bị Nga Hoàng bắt bỏ tù. Tội của ông là dám làm một nhà hoạt động Marxist quá nổi bật.


Ra tù năm 1900, khoảng 30 tuổi, Lenin ra nước ngoài sống lưu vong và tham gia đảng Lao Động Dân chủ Xã hội Nga. Ở đây, do đường lối cực tả (radical) của mình, chẳng may ông làm cho Đảng này bị chia rẽ. Phe của Lenin đông hơn. Với vài chiêu thức toán xác suất căn bản, ông đề xuất phương pháp “đa số cai trị thiểu số, thiểu số phục tùng đa số”. Phương pháp bỏ phiếu này ở VN có tên gọi “tập trung dân chủ”.  Đa số, tiếng Nga là bol’sheviki, trong tiếng Việt là Bôn Sê Vích. Nay còn gọi tắt là Bôn, với ý nghĩa khác.


Đến giai đoạn 1907-1908, trong phái Bolshevik ở hải ngoại thế quái nào lai nảy nòi ra một nhà lãnh đạo nổi bật, lấn án cả Lenin. Tên ông ta là Bogdanov. Ông ta cũng theo chủ nghĩa Marx, tất nhiên rồi. Vậy nên Lenin ghét lắm, và chụp cho luôn rằng ông này rằng đã là một tay Mác Xít mà lại dám suy thoái tư tưởng, tự diễn biến, và trở thành một tên phản động, duy tâm, tiểu tư sản. Lenin không phê phán bằng mồm. Ông viết hẳn một cuốn sách nhỏ để làm việc này. Đây chính là cuốn sách mà ta đã nói ở trên. Cuốn này về thể loại thì tiếng Anh gọi là “pamphlet”, còn bản tiếng Việt họ gọi là “Bút ký triết học của Lenin”, hoặc “Bút chiến của Lenin”.


*


Để viết cuốn sách này, vốn thông minh, thạo nhiều ngoại ngữ, Lenin bỏ ra khoảng 9 tháng sống ở Zurich và London, suốt ngày ở trong thư viện, vừa đọc vừa viết. Tài liệu tham khảo để viết cuốn này, như được liệt ra trong sách, lên tới 200 tác phẩm. Trong đó ngoài triết học và thần học, còn có nhiều công trình vật lý khá là cập nhật, như tác phẩm kinh điển về nguyên lý tương đối năm 1904 của Henri Poincaré, thậm chí có cả công bố khoa học năm 1908.


Lenin tuồn bản thảo vào Nga, đến tận tháng 4 năm 1909 ông vẫn còn sửa chữa bản thảo, một phần là để cho bớt gay gắt nhằm tránh kiểm duyệt của Nga Hoàng. Cuốn sách được in 1909 và nay đã thành kinh điển của cách mạng vô sản toàn thế giới.


*


Nếu đọc bản tiếng Việt của cuốn sách này ta sẽ thấy Lenin gay gắt tấn công chủ nghĩa Ma-khơ và những người theo chủ nghĩa Ma-khơ . Tư tưởng của chủ nghĩa Ma-khơ là phản động về mặt khoa học. Các đảng viên đảng Bôn-sê-vích đã theo chủ nghĩa Marx mà dám xét lại chủ nghĩa này do ảnh hưởng của tư tưởng Ma-khơ là bọn tự diễn biến, tự chuyển hóa.


Ma-khơ, là phiên âm từ tiếng Nga qua tiếng Việt của một nhà vật lý và cũng là triết gia tên là Ernst Mach. Lúc Lenin viết cuốn sách này thì Mach khoảng 70 tuổi. Khi ta nói vận tốc Mach 1, hay Mach 2, chính là tốc độ tương đối so với âm thanh, được đặt theo tên của nhà vật lý này.


Tư tưởng của Mach không hiểu vì sao ảnh hưởng rất mạnh đến các nhà Marxist người Nga, trong đó có Bogdanov, người mà Lenin cứ bảo là đảng viên Bolshevik mà lại tự diễn biến. Trong “bút ký triết học” của mình, ông gọi những người tự chuyển hóa theo Mach là Russian Machian, còn cái tư tưởng thoái hóa kia là Machism.


Vậy Machism mà Lenin phê phán là gì. Ta có thể tìm hiểu chủ nghĩa (tư tưởng) này qua cách gọi của Einstein. Einstein gọi tư tưởng ấy là nguyên lý của Mach (Mach’s Principle). Einstein cũng nói nguyên lý Mach là một trong ba nguyên lý nền tảng của Thuyết tương đối tổng quát. Tư tưởng ấy đi ngược lại thế giới quan vật lý tuyệt đối của Newton, và cho rằng (không gian và thời gian) là tương đối. Và tất nhiên Lenin, người thích lãnh đạo một đảng của những người Bolshevik cực tả, sẽ ưa thích sự chuyên chính (tuyệt đối) hơn tư tưởng “tương đối” của Bogdanov. Ông gọi chủ nghĩa Marx mà Bogdanov đi theo là “xét lại” và là “duy tâm vật lý” (hàm ý chủ nghĩa duy vật mới thực sự là vật lý, tức là khoa học tự nhiên đúng nghĩa).


Đế chống lại Mach’s principle, một nguyên lý sau này trở thành trụ cột của Thuyết tương đối, Lenin cho một lô một lốc các nhà khoa học lừng danh đương thời, bao gồm cả Henri Poincaré vào một ruộc rồi tha hồ chỉ trích là duy tâm, duy linh (tức là phản khoa học tự nhiên).


Ông không làm vậy một cách thô sơ, mà rất có lý luận. Trong Phần 3 của tập bút ký triết học, ông dành hẳn Chương 5 để viết về đề tài vật lý (và cũng là triết học) rất nổi trội lúc bấy giờ: Không gian và Thời gian.


Ông dành hẳn ra một phần (Phần 5) để nói về cuộc Cách mạng của khoa học tự nhiên (và sau này nó được đồng nhất với Cách mạng vô sản). Chương đầu tiên của phần này nói về Cuộc khủng hoảng trong vật lý hiện đại. Đây là đề tài thời thượng kéo dài mấy chục năm cuối thế kỷ 19 và vắt sang đầu thế kỷ 20. Ông bắt đầu bằng việc nhắc đến một tác phẩm rất mới và rất nóng sốt lúc bấy giờ, là cuốn Valeur de la science của Poincaré. Trong cuốn sách này, có in bài thuyết trình năm 1904 của Poincaré: Các nguyên lý của vật lý toán hay là Cuộc khủng hoảng của Vật lý toán. 


Cuộc khủng hoảng này, như ta biết, liên quan chủ yếu đến vấn đề nghiệm của phương trình Maxwell mâu thuẫn với Newton, và phân tử/nguyên tử có tồn tại hay không. Cuộc khủng hoảng vật lý này đã tạo sinh ra Thuyết tương đối hẹp của Einstein; và cũng nhờ khủng hoảng này mà Einstein có công trình về photon ánh sáng, qua đó đặt nền móng cho Thuyết lượng tử.


Cả hai công trình này Einstein cùng công bố trong năm 1905. Chưa hết, cuộc khủng hoảng này và tư tưởng của Mach còn giúp Einstein năm 1907 phát minh ra nguyên lý tương đương, một nguyên lý cực kỳ quan trọng của vật lý.  Vậy mà khi viết cuốn “bút chiến” này vào năm 1908 Lenin lại không nhắc một lời đến Einstein và Thuyết tương đối. Chắc chắn Lenin biết đến Einstein và Thuyết tương đối hẹp, bởi ông phê phán những tên tuổi có đóng góp rất nhiều vào thuyết này. Một người là Mach, còn người kia là Poincaré. (Chưa kể Lenin còn nhắc đến nhiều nhà vật lý khác có liên quan, ví dụ nhà vật lý Poynting, vector Poynting được sử dụng nhiều trong Thuyết tương đối tổng quát). Và quan trọng hơn cả, một trong các luận điểm của Lenin đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng chắc chắn là phải đúng hơn các chủ nghĩa duy tâm, duy linh, duy ý thức. Đó là vì vật chất khách quan (là cái mà theo ông phải thực sự hiện hữu, phải tận tay nắm bắt được) sẽ không thể chuyển hóa thành năng lượng (không có dạng hình thức vật lý để hiện hữu, để nắm bắt được, ví dụ như ánh sáng). “Quan điểm” mà Lenin phê phán này, chính là Thuyết tương đối hẹp. Là tín đồ của Marx, Lenin tin vào vật chất quyết định ý thức, và không thể chấp nhận vật chất và ý thức có thể chuyển hóa xuôi ngược thoải mái thông qua phương trình ngắn tũn của Einstein: E=mc2.


Như vậy, xét theo một nghĩa nào đấy, cuốn bút ký triết học, đỉnh cao về lý luận của Lê Nin, một tác phẩm đề cao tuyệt đối chủ nghĩa duy vật của Marx và coi mọi lý thuyết khác nó, bao gồm cả các lý thuyết vật lý quan trọng nhất, là sai lầm, hóa ra lại sai lầm ngay từ khi nó được viết ra. Bởi lý thuyết và tư tưởng mà tập bút ký phê phán, còn ra đời trước cuốn sách mấy năm, và chẳng bao lâu sau sẽ được chứng minh là tuyệt đối đúng. Những kẻ tự diễn biến, tự chuyển hóa, tự suy thoái cuối cùng thành ra lại tin vào chính chân lý, một chân lý ra đời còn trước những lý luận mà vì nó họ bị tiêu diệt.


Cái quan trọng hơn nữa, có thể chính Lenin cũng biết cái mình viết ra là sai từ gốc. Người ta không bao giờ tìm thấy bản thảo gốc của cuốn sách. Ngay cả khi nếu ông chưa biết mình sai vào vào quãng thời gian 1908-1909, thì ông cũng phải biết mình sai những năm sau này. Năm 1916 Einstein chính thức công bố Thuyết tương đối tổng quát, năm 1917 Lenin về Nga và Cách mạng Nga thành công, năm 1921 Einstein được giải Nobel, năm 1924 Lenin qua đời.


Tác dụng của cuốn Bút ký triết học Lenin còn kéo dài nhiều năm sau khi Lenin qua đời.


*


Tư tưởng và lý thuyết cực kỳ cách mạng của Einstein được đón nhận khắp nơi. Thuyết tương đối hẹp được du nhập vào Nhật năm 1909. Quãng năm 1922 Einstein đến Nhật diễn thuyết, kéo theo làn sóng các nhà vật lý hàng đầu, bao gồm các nhân vật cha đẻ của thuyết lượng tử như Heisenberg, Dirac, Bohr cũng đến Nhật. Nước Nhật trở thành cường quốc khoa học.


Thông qua Nhật, tư tưởng của Einstein được giới thiệu vào Trung Hoa, và có tác động lớn đến trí thức nước này. Các trí thức đã dũng cảm đứng lên đả phá tư tưởng nho học nô dịch dân tộc họ hàng ngàn năm. Trong số các trí thức đó có Lỗ Tấn. Làn sóng đổi mới tư duy này đã dẫn đến cách mạng 1919 ở Trung Quốc, xóa bỏ phong kiến.


Còn ở Nga, sau khi Lenin qua đời, đến thời Stalin thì tư tưởng của Einstein được coi là “duy tâm”, là phản động. Thuyết tương đối và Cơ lượng tử thất thế hoàn toàn trong giới khoa học Xô Viết . Năm 1934, nhà vật lý Xô Viết Garmow phải đào thoát qua Mỹ (sau nhiều lần trốn chạy bất thành). Garmow là nhà vật lý nguyên tử và lượng tử, tác giả của hiệu ứng đường hầm lượng tử. Năm 1938, nhà vật lý Landau bị Stalin bỏ tù, sau đó được đồng nghiệp viết thư xin Stalin thả ra. Năm 1962 Landau được Nobel vật lý. Cũng năm 1938, Matvei Bronstein, lúc này mới 32 tuổi đã bị Stalin bắt và xử bắn lập tức vì tội phản động thoái hóa tư tưởng. Chết oan khi còn rất trẻ nhưng Bronstein đã kịp để lại công trình mà sau này thành nền tảng của Quantum Gravity. Tên của anh được các nhà vật lý thuộc lĩnh vực đang rất hot hiện nay là Loop Quantum Gravity đặt cho một giải thưởng khoa học của họ.


Ở Trung Quốc, trong Cách mạng văn hóa, do ảnh hưởng từ Liên Xô, Einstein cũng bị đem ra đấu tố. Mãi cho đến thời Bốn hiện đại hóa của Đặng, Einstein và Thuyết tương đối mới quay trở về Trung Quốc.


*


Nghiệm của phương trình Maxwell cho ta biết vận tốc sóng điện từ. Cuối thế kỷ 19, người ta quen với thế giới của Newton, đó là nói đến vận tốc thì phải là vận tốc so với cái gì. Nghiệm Maxwell cho thấy sóng điện từ (hồi đó các nhà vật lý còn chưa biết ánh sáng cũng là sóng điện từ) có vận tốc chẳng so với cái gì cả. So với người đứng yên, vận tốc ánh sáng là c (vận tốc ánh sáng ký hiệu là c). So với người chạy ngược chiều với tia sáng, dù người này chạy nhanh đến mấy, vận tốc ánh sáng mà người này đón nhận, cũng vẫn là c. Hoặc nếu một người đuổi theo tia sáng, dù chạy nhanh đến mấy, thì tia sáng cũng rời xa anh ta với vận tốc là c. (Einstein đã làm thí nghiệm như vậy ở trong đầu mình và nhờ đó giải quyết được “cơn khủng hoảng của vật lý hiện đại” ).


Năm 1895 thì Hendrik Lorentz công bố phép biến đổi mà ngày nay mang tên ông (biến đổi Lorentz). Phép biến đổi này dùng để khảo sát xem, ví dụ không gian và thời gian, sẽ biến đổi thế nào khi người quan sát chuyển động. Công trình này được Einstein lúc này còn rất trẻ tìm đọc và phát triển theo tư duy “vật lý” của mình. Công trình này cũng được Henri Poincaré phát triển theo lối “toán học” cùng với chính Lorentz. Đến năm 1904 thì Poincaré có đề xuất một thuật ngữ là “nguyên lý tương đối”. Đến năm 1905 thì Einstein công bố Thuyết tương đối hẹp. Đây là lý do gây ra nhiều tranh cãi về việc Poincaré có đóng góp thế nào vào Thuyết tương đối hẹp. Hay là Einstein có thực sự là cha đẻ của Thuyết tương đối hẹp hay không. Poincaré đến chết (1912) vẫn có ý phủ nhận thuyết của Einstein Einstein thì né tránh nhắc đến Poincaré, mãi khi Einstein gần chết (1955) mới nói vài lời đánh giá cao đóng góp của Poincaré.


Cách đây chừng hơn chục năm, Poincaré cực kỳ nổi ở Việt Nam. Năm đó Giả thuyết Poincaré, một trong 7 bài toán thiên niên kỷ, được Perelman giải xong. Perelman được giải Fields nhờ vụ này. Còn Giả thuyết Poincaré cho đến nay vẫn là bài toán duy nhất trong số 7 bài được giải quyết.


Đến những năm 198x thì các cuộc tranh cãi ngã ngũ rằng chỉ mình Einstein là chủ nhân của thuyết tương đối tổng hẹp. (Nếu chỉ đọc phần toán, tức là chỉ đọc các phương trình trong các nghiên cứu của Lorentz/Poincaré và nghiên cứu của Einstein, quả thực giống nhau đến 9/10).


Nhưng gần đây, các nhà vật lý một mặt công nhận Einstein là cha đẻ thực sự của Thuyết tương đối hẹp, nhưng công nhận thêm nhà toán học Minkowski (cũng đồng thời là thầy giáo toán hồi đại học của Einstein) là người hoàn thiện thuyết này, trong đó có sử dụng đóng góp quan trọng của Poincaré năm 1904. Minkowski cũng là người đặt ra thuật ngữ spacetime (không thời gian) chứ không phải Einstein. Bởi vậy Không thời gian này còn được gọi là Không gian Minkowski. Lúc đầu Einstein coi thường công trình của thầy mình, ông bảo đó chỉ là mẹo toán học, rồi thì “từ khi các nhà toán học bước chân vào vật lý thì tôi chả hiểu gì nữa”. Nhưng sau đó, khác với Lenin, Einstein nhận ra cái sai của mình, và từ việc hiểu Minkowski, ông đi được đến Thuyết tương đối tổng quát.


Minskowski công bố công trình spacetime của mình năm 1908, và qua đời ngay sau đó khi mới hơn 40 tuổi. Năm 1908, tình cờ, là năm Lenin đang lăn vào viết cuốn bút chiến độc đáo của mình.


PS:



Bài viết này là để quảng bá cho cuốn sách này.
Các quan chức ngoài bắc kém nói lái. Nên phát biểu của họ hay mắc lỗi. Họ hay nói: Một là, hai là, ba là. Lẽ ra đến Bốn Là, họ phải nói là Tư Là. Nhưng họ vẫn cứ nói “bốn là”. Tương tự như thế, câu nói ông ấy Bôn lắm (ý là Bôn sê vích lắm), hay bị diễu là ông ấy (thế nào) mà Bôn Lành cho lắm. Hoặc gần đây có luật là sinh viên sư phạm “bốn lần” bán dâm thì bị đuổi học.
Thuyết tương đối hẹp rất là khó hiểu. Bạn có thể bỏ ra năm phút xem nó khó hiểu thế nào. Giả sử không gian chỉ có một chiều. Hệ tọa độ (descartes) sẽ chỉ có một trục, là một đường thẳng. Con kiến sống trong không gian này chỉ bò đi bò lại trên đường thẳng này mà thôi. Nếu không gian có thêm một chiều nữa, hệ tọa độ sẽ có thêm một trục nữa, là một đường thẳng vuông góc với trục kia. Lúc này ta có một mặt phẳng, như tờ giấy, con kiến tha hồ bò ngang dọc trên mặt phẳng ấy. Nếu không gian có thêm một chiều nữa, là ba chiều, thì trục tọa độ thứ ba sẽ vuông góc với cả hai trục con lại. Lúc này hệ tọa độ đại khái như cái góc tường nhà, ba trục vuông với nhau. Con kiến cần có thêm cánh như con ong, để bay khắp cái không gian ba chiều (là căn phòng ấy). Trong thuyết tương đối, chiều thứ 4 là thời gian được thêm vào, trục tọa độ  thời gian sẽ phải vuông góc (trực giao) với cả ba trục tọa độ kia. Bạn thử tưởng tượng bốn đường thẳng trực giao với nhau như vậy mà xem, rất khó đấy.

 


 

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 30, 2018 07:35

Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.