Nguyễn Phương Văn's Blog, page 13
February 7, 2017
Năm nay ai tịch điền?
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, người “tịch điền” không phải là người đứng đầu đất nước.
Ngày đầu năm ở nước ta có tục xông đất. Xông đất là cách nói ngoài Bắc, trong Nam nói “đạp đất”.
Tịch điền là chữ Hán: 籍田 . Chữ tịch là giẫm, đạp, xéo. Chữ điền là ruộng. Nghĩa là tục “đạp ruộng” đầu năm mới.
Đạp ruộng nghĩa là “vua” xuống kiệu, lội xuống ruộng để “đạp ruộng”. Con trâu kéo cái cày đi trước, vua đi ngay sau cái cày, đạp chân lên đất ruộng.
Năm nay chủ tịch nước ngồi lái máy cày, nên người “tịch điền” thực sự chính là một người dân nào đó đi ngay sau cái máy cày.


February 6, 2017
Trọng trường trái đất ở Hà Nội
Nếu bạn muốn hiểu cái gì làm xã hội vận hành, hoặc chí ít, cái gì tác động đến sự vận hành của xã hội Hà Nội, bạn cần hiểu một chút về …vật lý.
Trọng trường trái đất, tiếng Anh là Gravity of Earth, trong hệ đo lường SI có thứ nguyên là mét trên giây bình phương, ký hiệu là chữ g.
Gia tốc trọng trường chuẩn của trái đất là g= 9.80 m/s2. Còn gia tốc trọng trường của Hà Nội nhỏ hơn một chút, g=9.79 m/s2. Điều này có nghĩa là: vận tốc chuyển động ở Hà Nội tăng chậm hơn những nơi khác. Đây chính là bản chất vật lý của “Hà Nội không vội được đâu”.
Trọng trường ở Hà Nội nhỏ hơn những nơi khác, tức là lực hấp dẫn yếu hơn. Nên cùng một món quà cáp thì ở Hà Nội cũng nhẹ hơn nơi khác. Điều này lý giải tại sao “chi quà cáp” ở Hà Nội phải nặng tay hơn những tỉnh thành khác.
Do trọng trường ở Hà Nội là một số lẻ, nên bọn giai sống lâu năm ở Hà Nội hơi bị lệch…bi. Bởi vậy nên thường thì giai Hà Nội được cái này thì mất cái kia, rất hiếm người được cả hai: vừa hào hoa vừa dâm đãng.
Gia tốc trọng trường ở Sài Gòn là sỗ chẵn, g=9.78 m/s2, nên giai Sài Gòn cân đối hơn giai Hà Nội. Nhưng sức bật của bi Sài Gòn yếu hơn bi Hà Nội rất nhiều, do thường xuyên chỉ phải rèn luyện trong môi trường có lực hấp dẫn yếu.
Về tốc độ, nhờ gia tốc trọng trường yếu nên tốc độ giảm tốc của Sài Gòn khá chậm. Suốt từ năm 1975 đến giờ, vẫn chạy nhanh như …cũ.
Chúc mọi người năm mới làm việc hiệu suất và cân bằng, hai bi như một.


February 3, 2017
Nhà khoa học và vũ khí hạt nhân
Cách nay đúng nửa thế kỷ, năm 1967, trong quân đội Mỹ có ý kiến về việc sử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật ở Việt Nam.
Freeman Dyson, lúc này đang có vai là cố vấn quân sự (chắc của lầu năm góc), đã viết một paper phân tích về việc sử dụng vũ khí hạt nhân ở Việt Nam. Các phân tích thuần túy nằm trong giới hạn của các quan điểm quân sự. Bài báo ấy sau này được biết đến với tên “Tactical Nuclear Weapons in Southeast Asia”. Trong bài báo này Dyson kết luận sẽ tốt hơn cho Mỹ nếu không sử dụng vũ khí hạt nhân ở VN.
Freeman Dyson là nhà vật lý và toán học người Anh rất nổi tiếng …ở Mỹ. Nếu vào TED Talk, các bạn sẽ thấy một bài nói chuyện của Dyson, lúc này đã rất già và vẫn còn hóm hỉnh. Trong bài nói chuyện, Dyson nói về việc nhìn vào vũ trụ bằng cách này hay cách khác, để tìm sự sống bên ngoài hệ mặt trời.
Freeman Dyson là giáo sư vật lý ở Viện nghiên cứu cao cấp Princeton nhưng chưa có bằng tiến sỹ. Lúc còn trẻ ông làm công tác phân tích mục tiêu để Không quân Hoàng gia Anh ném bom Đức quốc xã. Sau chiến tranh ông đi học đại học và trong ký túc xá ông ở phòng ngay dưới Ludwig Wittgenstein. Khi qua Mỹ, ông làm quen với Richard Feynman.
Theo truyền thuyết, bằng mẫn cảm phi thường, trong lúc ngồi trên xe bus ông đã ngộ ra được giản đồ Feynman (Feynman Diagram) trong lĩnh vực của ông là điện động lực học lượng tử (quantum electrodynamics). Từ xe bus chạy về văn phòng, ông viết những gì ông ngộ ở trong tâm trí ra giấy. Và đó chính là bài báo khoa học đầu tiên sử dụng giản đồ Feynman, góp phần đưa giản đồ này từ một công cụ toán học thành lý thuyết vật lý lượng tử được cộng đồng vật lý chấp nhận.
Freeman Dyson rất nổi tiếng trong …khoa học viễn tưởng. Ông rất thích thú với lĩnh vực khám phá không gian, du hành vào không gian. Tên tuổi của ông gắn với một số khái niệm liên quan đến văn minh trong vũ trụ như không quyển Dyson (Dyson Sphere). Một nhân vật trong Half Life cũng được đặt theo tên ông.
Dyson hay viết cho New York Review of Books. Cách đây mấy năm, nhân việc này, anh Ngô Bảo Châu có giới thiệu Freeman Dyson cho nhà báo Thanh Tuấn để Tuấn phỏng vấn Dyson. Nhưng loay hoay mãi chưa thực hiện được.
Trong lúc đó, các bạn có thể nghe Freeman Dyson có bài nói chuyện TED ở đây, bài nói chuyện có tên “Let’s look for life in the outer solar system”:


January 23, 2017
Lá thư đề nghị thả ông Lập
Hiếu gió viết, theo giọng phỏng đoán, về việc lá thư anh Ngô Bảo Châu viết cho nhà nước đề nghị thả ông Lập như sau: “Giáo sư Châu với anh Ba quan hệ thân thế nào chắc ai cũng biết. Chắc anh Ba mớm cho giáo sư Châu làm đơn đòi thả, để anh Ba có cớ tác động thả ông nhà văn kia. Không làm sao giáo sư Châu đi làm đơn thế.”
Anh Châu quen anh Lập. Lần đầu tiên anh Châu ăn cơm với anh Lập, tôi có đi cùng.
Bức ảnh lan truyền trên mạng tối anh Lập bị bắt, có anh Châu, chụp ở bữa ăn tiếp theo bữa ăn đầu tiên ấy. Ảnh này chụp trước khi anh Lập bị bắt khá lâu. Có cả tôi trong ảnh. người chụp là bạn của anh Châu và cũng là bạn tôi.
Anh Đàm Thanh Sơn, anh Vũ Hà Văn, anh Ngô Bảo Châu là ba người viết thư đề nghị nhà nước thả anh Lập. Cả ba anh đều là nhà khoa học hàng đầu thế giới, và đều là quốc gia chi bảo. Tôi tin chắc là không thể có ai đủ quyền năng để “mớm” các anh làm bất cứ điều gì. Không ai có thể mớm, hay sai khiến được ba người ấy. Ít nhất là mớm cả ba người ấy cùng viết một lá đơn.
Lá thư ấy do anh Châu viết. Giọng văn rất cứng rắn. Anh Vũ Hà Văn là người sửa lại cho mềm mại. Anh Đàm Thanh Sơn là người gửi bản hardcopy qua bưu điện. Những việc này các anh làm hoàn toàn từ free will. Việc này tôi biết chắc chắn. Anh Châu và các anh, luôn phản đối mọi sự bắt bớ. (Nhưng bắt nhiều thế này, phản đối cũng mệt, và có lẽ là rất ít tác dụng).
Việc dựa vào lá thư, rồi anh Ba Dũng yêu cầu thả anh Lập, tôi cũng có nghe, nhưng chỉ là tin đồn, có thể đúng, có thể sai, không có gì kiểm chứng. Anh Lập và anh Ba Dũng cùng ở Sài Gòn, nếu cần có thể đến gặp nhau nói chuyện một lần cho rõ.


January 18, 2017
Lượng tử hóa tình yêu (18+)
(Ba chuyện đầu là các chuyện sưu tầm và cải biên.)
1.
Toán rất khó, cứ 5 người dân thì có tới 6 người dốt toán. Tôi là một ngoại lệ.
2.
Anh không thể tìm ra lời nào để tả được vẻ đẹp của em.
Cám ơn anh.
Nhưng anh có thể làm việc ấy bằng con số: 3/10.
3.
Mày thích bọn con gái mặc xi líp màu gì.
Đừng có hỏi tao những câu ngu dốt ấy.
Thế mày có biết tại sao photon không có khối lượng, mà lại có năng lượng, dù E=mc2.
Ok, trừ màu cháo lòng, màu nào tao cũng thích, được chưa.
4. Hai cái Tết
Mấy năm gần đây mọi người hay đòi bỏ tết Ta (chắc gốc từ Tàu) và ăn tết Tây (chắc gốc từ Tây). Tết ta nghe có vẻ lâu đời, nhưng chưa chắc đã cổ bằng tết Tây.
Hai đoạn dưới đây trích từ cuốn sách khoa học phổ thông “Bầu trời chiều ẩn giấu”.
Vùng đất nằm giữa sông Tigris và Euphrates có tên gọi trong tiếng Hy Lạp là Mesopotamia, nghĩa là Lưỡng Hà (nằm giữa hai con sông). Trên vùng đất ấy cách đây khoảng 5000 năm có người Babylon và Assyria sinh sống. Bằng mắt thường, họ quan sát và nhận ra quy luật chuyển động của bảy “hành tinh”. Người Babilon và Assyria dùng tên của bảy hành tinh để đặt tên cho cho bảy ngày.
Đến nay những cái tên ấy vẫn còn dấu vết trong những ngôn ngữ như Anh, Pháp và Ý. Chủ nhật là Mặt Trời (Sun, Sunday), Thứ hai là Mặt Trăng (Mon, Monday), Thứ ba là Sao Hỏa (Mars, Mardi), Thứ 4 là Sao Thủy (Mercury, Mercredi), thứ năm là là Sao Mộc (Jupiter, Jeudi), thứ sáu là Sao Kim (Venus, Vendredi), thứ bảy là Sao Thổ (Saturn, Saturday).
…
Đến năm 202 trước Công Nguyên, những người La Mã thành Rome bắt đầu nổi lên như một thế lực quân sự mới. Họ đánh bại đội quân của Hannibal hùng mạnh, chiếm Carthage, chiếm Tây Ban Nha và chiếm Hy Lạp của Alexander Đại Đế. Trên khắp thuộc địa của mình, người La Mã thiết lập các chế độ cai trị với người đứng đầu là các quan tổng trấn người La Mã. Quan tổng trấn sử dụng luật pháp, hệ thống thu thuế và quân đội La Mã để kiểm soát người dân. Julius Ceasar, một người đàn ông nhỏ bé nhưng có trí tuệ và nghị lực siêu phàm, đã phát minh ra một cách quản lý hiệu quả hơn đế chế rộng lớn của mình. Ông đồng bộ hóa thời gian trên toàn đế chế bằng lịch La Mã mang tên ông (lịch Julian).
…
Năm 1539, một sinh viên thần học vốn là quý tộc và cựu quân nhân là Ignatius xứ Loyola đã cùng 6 người bạn là sinh viên Đại học Paris thành lập Dòng Tên. Dòng Tên thề trung thành với Giáo Hoàng, cùng Giáo Hội chống lại phong trào cải cách. Họ sử dụng công cụ truyền thống là giáo dục và truyền bá kiến thức. Một đoàn giáo sĩ của Dòng Tên ấy, do thánh Francis Xavier dẫn đầu, đã theo chân nhà thám hiểm Magellan đi về Châu Á. Nửa cuối thế kỷ 16, những giáo sĩ dòng Tên ấy đã đến Kẻ Chàm (Quảng Nam) và du nhập vào nước ta chữ cái latin (nay là chữ quốc ngữ), lịch Julian (nay là dương lịch) và hình học Euclid (rất đáng tiếc, bị chúa Trịnh từ chối).
5. Lượng tử hóa tình yêu
Đầu tiên, bạn cần đọc đoạn trích từ cuốn sách khoa học phổ thông “Bầu trời chiều ẩn giấu” dưới đây để biết qua qua về thuyết lượng tử.
*
Chữ lượng tử khá là mơ hồ và khó hiểu nếu ta không hiểu hàm ý mà nó truyền tải. Lượng tử dịch từ chữ latin quantum (số nhiều là quanta) hàm ý “một đơn vị năng lượng”.
Năm 1900, Max Planck phát hiện ra rằng năng lượng mà sóng điện từ mang đi luôn là một gói năng lượng có giá trị gián đoạn. Nó bằng một, hai, ba …gói đơn vị năng lượng cơ bản, chứ không thể nào là, ví dụ, 1.5 đơn vị năng lượng cơ bản. Đây là ý nghĩa cốt lõi của lượng tử. Năng lượng tối thiểu mà sóng mang đi, theo Planck, tỷ lệ thuận với tần số của nó. Tần số càng cao (nghĩa là bước sóng ngắn), năng lượng mà sóng mang theo càng cao. Nhưng năng lượng này cũng rất nhỏ, do hệ số tỉ lệ có giá trị cực kỳ nhỏ (phần tỷ của một phần tỷ). Hằng số này được đặt theo tên Planck và ký hiệu bằng chữ h.
Năm 1911, Ernest Rutherford củng cố mô hình nguyên tử dạng mô phỏng hệ mặt trời, trong đó các electron bay quanh hạt nhân nhỏ và nặng, theo đúng các định luật của newton. Mô hình này giải thích được tính chất hóa học của nguyên tử các chất khác nhau, nhưng không thể giải thích được tại sao nguyên tử lại cực kỳ bền vững. Với mô hình hệ mặt trời, các nguyên tử lẽ ra rất dễ vỡ cấu hình gốc khi va chạm với một nguyên tử khác. Nhưng va chạm trong phản ứng hóa học của các nguyên tử của một nguyên tố, ví dụ carbon, vẫn sẽ là carbon chứ không thành nguyên tố khác.
Năm 1913, Niels Bohr bổ sung lý thuyết lượng tử vào mô hình này để hình này lý thuyết mà ngày nay gọi là thuyết lượng tử cũ. Theo thuyết này, trong số các quỹ đạo khả dĩ quanh hạt nhân, electron chỉ được phép chuyển động trên một số quỹ đạo; khi electron nhảy từ quỹ đạo này qua quỹ đạo khác, nó sẽ thu vào hoặc phát ra một lượng tử của năng lượng điện từ, cái mà sau này được gọi là photon. Mô hình nguyên tử Bohr-Rutherford giải thích được tính bền vững của nguyên tử. Nếu nguyên tử chỉ thay đổi năng lượng bởi các lượng tử có năng lượng gián đoạn, thì nguyên tử chỉ tồn tại ở các trạng thái dừng gián đoạn, và trạng thái thấp nhất (cân bằng bền) chính là trạng thái bình thường của nguyên tử. Mô hình mới của Bohr còn giải thích được hiện tượng phổ đặc trưng của các nguyên tử: các nguyên tử chỉ hấp thụ hoặc bức xạ ánh sáng ở một số tần số nhất định.
Năm 1921 Einstein nghiên cứu và giải thích được hiệu ứng quang điện. Ông được trao giải Nobel vì thành tích “khiêm tốn” này, so với hai công trình khổng lồ về thuyết tương đối trước đó. Khi chiếu ánh sáng vào bề mặt kim loại, năng lượng ánh sáng va đập vào sẽ làm văng ra một số electron của mặt kim loại. Thế nhưng vận tốc electron văng ra không phụ thuộc vào cường độ ánh sáng chiếu vào mạnh hay yếu, mà phụ thuộc vào tần số của ánh sáng chiếu vào. Chiếu ánh sáng tử ngoại (tần số cao) làm electron văng ra với vận tốc cao hơn khi chiếu ánh sáng hồng ngoại (có tần số thấp hơn). Từ đây, Einstein giải thích, ánh sáng là một luồng các hạt ánh sáng mà sau này được gọi là photon. Năng lượng của mỗi photon, theo Einstein, tuân thủ đúng theo định luật Planck: tỷ lệ thuận với tần số sóng ánh sáng.
Năm 1925, Erwin Schrödinger đề xuất một hàm toán mô tả chính xác tiến hóa của electron theo thời gian. Hàm này, ký hiệu bằng chữ Hy Lạp ѱ (psi). Năm 1926, Max Born đề xuất một ý tưởng kỳ lạ: sóng kết hợp với hạt cơ bản, gọi là sóng xác suất. Theo đó, hàm của Schrödinger là một hàm sóng biểu diễn xác suất tìm thấy electron ở một điểm cụ thể. Đây là một khái niệm kỳ lạ, bạn không thể biết chính xác được electron ở đâu quanh hạt nhân, tất cả những gì bạn có thể làm là tính được hàm sóng, là cái giúp bạn tính toán được chính xác khả năng một electron xuất hiện một điểm cụ thể nào đó. Những điểm trong không gian mà cường độ sóng lớn (nói đúng hơn là bình phương cường độ sóng) là những điểm mà ở đấy xác suất hạt electron được tìm thấy là lớn, và ngược lại. Cho đến nay, dữ liệu thực nghiệm chưa bao giờ mâu thuẫn với ý tưởng kỳ lạ này.
Sự huyền bí của lượng tử còn đi xa hơn nữa với sự ra đời của nguyên lý bất định Werner Heisenberg năm 1927: ở mức độ hạ nguyên tử, ta không thể biết chính xác đồng thời cả vị trí lẫn vận tốc của hạt. Ta chỉ có thể biết chính xác hoặc là vị trí, hoặc là vận tốc của hạt. Hay nói một cách khác, nếu ta xác định đại lượng này càng chính xác bao nhiêu, thì xác định đại lượng kia càng kém chính xác. Biểu diễn dưới dạng toán học, nguyên lý bất định có dạng gọn gàng (x là vị trí, p là động lượng và h là hằng số Planck).
Sóng của hạt, nói một cách chữ nghĩa, là một sóng “không tồn tại”, nó không “có thực”. Bohr và Heisenberg cho rằng hàm sóng như của Schrödinger cho biết chính xác xác suất xuất hiện của hạt ở từng thời điểm chừng nào hạt chưa bị quan sát. Ngay khi hạt bị người quan sát “đo lường”, hàm sóng sẽ “sụp đổ (collapse)” và người quan sát sẽ thấy hạt electron ở một ví trí rất cụ thể.
*
Bạn có thể làm tình với một nửa của người con gái: nửa trên hoặc nửa dưới; nửa trước hoặc nửa phía sau. Thậm chí, bạn có thể làm tình với một cô gái rưỡi.
Nhưng bạn không thể yêu một nửa người phụ nữ. Bạn phải yêu trọn vẹn người phụ nữ ấy. Bạn có thể yêu một, hai, hoặc ba phụ nữ. Nhưng phải yêu trọn vẹn từng người một.
Đó chính là lượng tử hóa tình yêu.
Sau khi lượng tử hóa tình yêu tử, ta có thể áp dụng nguyên lý bất định Heisenberg: bạn không thể biết chính xác được cùng một lúc cả vị trí và cường độ của tình yêu. Nếu bạn biết bạn đang yêu rất nhiều, có thể bạn sẽ không biết mình đang yêu …ai. Nếu bạn biết mình đang yêu ai, thì bạn sẽ không thể biết mình yêu người ấy nhiều đến bao nhiêu. Cho nên đừng bao giờ hỏi cô gái mình yêu, rằng em yêu anh nhiều bao nhiêu. Hãy để mọi thứ trong tình yêu là bất định.
Điều quan trọng nhất, tình yêu được diễn đạt bằng hàm sóng cực kỳ trừu tượng. Hàm sóng ấy chỉ xuất hiện trong tâm tưởng. Đừng để ai biết sự tồn tại của sóng tình yêu. Bởi ngay khi sóng ấy bị quan sát, nó sẽ sụp đổ. Nếu bạn yêu ai, hãy giữ nó thật kín, đừng để tình yêu của mình bị quan sát và trở nên giống như con mèo của Schrödinger, một tình yêu vừa đang sống lại vừa đang chết.
(Nếu bạn là phụ nữ, hãy tự mình đổi nam thành nữ nữ thành nam trong đoạn văn trên. Hoặc giữ nguyên nếu bạn yêu những người cùng giới tính.)
PS:
“Bầu trời chiều ẩn giấu” là một cuốn sách nhỏ, kiểu diễn nôm vắn tắt về lịch sử các phát minh khoa học tự nhiên.
Sách bắt đầu từ Thales của Hy Lạp (khoảng 2600 năm trước) và kết thúc bằng String Theory và phiên bản của Edward Witten có tên gọi M-Theory (năm 1995).
Sách tôi viết gần xong, chưa nghĩ chỗ in. Cũng có thể nhờ ai đó biết chế bản, làm thành ebook, rồi up lên mạng cho mọi người load về đọc cho vui.


December 10, 2016
Tiếng vọng từ Sáng Thế
Năm 1915, Einstein đề xuất Thuyết tương đối rộng mô tả mộ vũ trụ mà trong đó hai khái niệm trừu tượng và vô hình là không gian và thời gian đã bị lực hấp dẫn “sử dụng” để tác động đến sự vận hành của cả vũ trụ. Năm 1916, Einstein dự đoán bằng mô hình toán học cách thức mà lực hấp dẫn tác động đến không gian và thời gian: Sóng hấp dẫn. Cũng năm 1916, một sĩ quan pháo binh 42 tuổi tên là Karl Schwarzschild giữa những trận chiến đấu trên đất Nga đã giải phương trình của Einstein và tìm thấy một nghiệm (Schwarzschild radius /gravitational radius). Nghiệm này về sau được John Wheeler gọi là “hố đen”. Tháng 2 năm nay, đúng 100 năm sau khi Einstein tiên đoán về sóng hấp dẫn, trạm quan trắc LIGO của Hoa Kỳ lần đầu tiên dò tìm được sóng hấp dẫn của vũ trụ.
(Bài viết cho Tuổi Trẻ Cuối Tuần).
*
Năm 1543, khi biết mình sắp qua đời, Nicolaus Copernicus đã liều mạng xuất bản tác phẩm Về chuyển động quay của các thiên thể. Năm 1616, Giáo hội Công giáo La Mã đưa công trình này của Copernicus vào danh mục sách cấm.
Công trình của Copernicus, một nhà toán học và thiên văn học, đã xây một mô hình vũ trụ trong đó có tâm là Mặt Trời, một mô hình toàn toàn đối lập với Vũ Trụ có tâm là Trái Đất, vốn tồn tại cả ngàn năm như một nền tảng vững chắc trong vũ trụ quan Kitô và cũng là nền tảng khoa học của loài người cho đến lúc đó.
Mặc dù ý tưởng về một vũ trụ trong đó có tâm là mặt trời còn trái đất xoay vòng quanh nó (thuyết nhật tâm) đã được Aristarchus đảo Samo (310 – 230 trước Công nguyên) đưa ra từ rất sớm. Nhưng ý tưởng này bị thuyết địa tâm của Aristotle và Ptolemy phủ nhận.
*
Claudius Polemaeus, tức Ptolemy, một nhà thiên văn học làm việc tại thư viện Alexandria danh tiếng hồi thế kỷ thứ 2 đã xây dựng một lý thuyết giải thích vũ trụ trong đó trái đất có hình cầu, còn mặt trời và các thiên thể khác như mặt trăng và các vì sao sẽ quay vòng quanh trái đất. Trong mô hình vũ trụ của Ptolemy, mỗi thiên thể được gắn trên một thiên cầu bằng pha lê. Mỗi thiên cầu ấy là một tầng trời. Có bảy tầng trời như vậy. Bảy tầng trời ứng với bảy hành tinh mà con người bằng mắt trần quan sát được chuyển động của chúng (mặt trăng, mặt trời, Sao Kim, Sao Thủy, Sao Hỏa, Sao Mộc, Sao Thổ). Tầng trời thứ tám ứng với tất cả những vì sao còn lại.
Vũ trụ của Ptolemy tồn tại nhiều thế kỷ, cho đến khi công trình bị cấm đoán của Copernicus dần dần được công nhận và trở thành một cuộc cách mạng khoa học.
Gần 50 năm sau Copericus qua đời, công trình của ông đã đến tay một sinh viên thần học thuộc nhánh Tin Lành Khánh Cách, một ý hệ Kitô giáo mới mẻ sinh ra từ sự bất mãn và chán ghét sự giàu có và sa ngã của Giáo hội Kitô La Mã. Người chủng sinh ấy vốn say mê thiên văn học từ tấm bé, khi được chứng kiến Sao Chổi (1577) và Nguyệt Thực (1580). Trong lúc học thần học tại đại học Tübingen anh được tiếp cận cả thuyết địa tâm của Ptolemy lẫn thuyết nhật tâm bị cấm đoán của Copernicus.
Thế rồi như nhận ra con đường của mình là phải phục vụ Thiên Chúa theo một cách rất khác, anh bỏ dở con đường trở thành mục sư để xin một chân giáo viên dạy toán trong một trường trung học Tin Lành ở Graz. Tên người thanh niên ấy là Johannes Kepler.
Thầy giáo toán Kepler vừa mặc cảm tội lỗi, một tội lỗi thần thánh, vì đã tin vào thuyết Nhật tâm, lại vừa cho rằng định mệnh của mình là phải chứng minh cái thuyết đầy báng bổ ấy là đúng. Nhờ tiền tài trợ từ các mạnh thường quân khoa học, thường là các vị quý tộc giàu có, Kepler xây dựng các mô hình thực nghiệm. Nhưng đều thất bại. Cuối cùng, nhờ tài năng toán học ngày càng nổi tiếng của mình, Kepler tiếp cận được nhà toán học của Đế Chế La Mã Thần Thánh, nhà thiên văn học Tycho Brahe.
Tycho có nguồn lực vô cùng lớn để phát triển các thiết bị quan sát thiên văn tốt nhất thời bấy giờ. Dữ liệu ông thu thập được được coi là thiêng liêng nên được gia đình bảo mật kỹ càng. Tá túc trong dinh thự của Tycho sống qua ngày, rất hiếm khi Kelper được Tycho chia sẻ dữ liệu.
Thế rồi, dữ liệu quý giá mà Tycho thu thập bằng cách đo đạc vũ trụ trong suốt 30 năm cuối của đời mình, trong lúc hấp hối, Tycho đã bắt gia đình trao hết cho Kepler.
Cũng như Galilei và Tycho, nhà toán học Kepler rất tôn sùng hình học Euclid và các đa diện thần thánh của Pythagoras. Dù là những bộ óc cấp tiến nhất của thời đại, họ hết mực tin rằng đường tròn là cái gì đó hoàn mỹ nhất của tạo hóa: tất cả các hành tinh phải chuyển động theo đường tròn. Cho đến một ngày, Kepler tư duy vượt ra khỏi khuôn khổ ấy.
Năm 1618, Định luật 1 của Kepler ra đời. Nó được phát biểu như sau: Các hành tinh chuyển động xung quanh mặt trời theo đường ellips với mặt trời là một tâm (trong số hai tâm) của đường ellips ấy. Từ định luật có tính đột phá này, Kepler sử dụng toán học để mô hình hóa chuyển động của các hành tinh trong hệ mặt trời. Trong Định luật 2 của Kepler, nếu lấy một sợi dây nối mặt trời với hành tinh đang bay quanh nó, sợi dây này sẽ quét được những diện tích bằng nhau trong những khoảng thời gian bằng nhau.
Từ đây Kepler đưa ra Định luật 3, vẽ nên sự hài hòa cực kỳ tao nhã của vũ trụ: lấy bình phương thời gian một hành tinh bay trọn một vòng quanh mặt trời (tức là một chu kỳ, tính theo năm) sẽ bằng với lập phương khoảng cách trung bình của hành tinh này tới mặt trời (tính bằng đơn vị thiên văn, một đơn vị thiên văn bằng khoảng cách từ trái đất tới mặt trời): P2=a3. Tức là hành tinh nào càng xa mặt trời, nó dịch chuyển càng chậm.
Thế nhưng Kepler bất lực trong việc giải thích nguyên nhân sâu xa nào khiến mặt trời bắt các hành tinh khác bay xung quanh, theo một quỹ đạo có chu kỳ đều đặn và cân bằng một cách tao nhã như vậy.
*
Gần 50 năm sau, năm 1666, một thanh niên 23 tuổi tên là Isaac Newton mải miết nghĩ về chuyện này. Anh tự hỏi, nếu Trái Đất không có cách nào đó để “giữ” Mặt Trăng, hẳn Mặt Trăng sẽ rời quỹ đạo xung quanh trái đất của mình rồi trôi đi lang thang vào trong vũ trụ. Newton phát hiện ra, cái lực mà trái đất níu giữ mặt trăng bay quanh mình, cũng là lực làm trái táo rụng từ trên cây xuống. Đó là lực hấp dẫn.
Là một nhà toán học siêu đẳng, Newton đã sử dụng toán để mô hình hóa cách mà lực hấp dẫn bắt mặt trăng bay quanh trái đất, và bắt các hành tinh bay quanh mặt trời. Lực hấp dẫn tác động lên tất cả, không chỉ trên trái đất mà còn trong toàn bộ vũ trụ, vì vậy mô hình của Newton có tên Định luật vạn vật hấp dẫn. Định luật này cho biết lực hấp dẫn tỉ lệ thuận với tích khối lượng của hai vật hút nhau và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Tức là hai vật càng nặng thì càng hấp dẫn nhau mạnh. Và hai vật càng xa nhau lực càng yếu đi. Nếu xa nhau thêm 10 lần, lực sẽ yếu đi bình phương của 10, tức là yếu đi 100 lần.
Newton đã giải thích vận động được của toàn thể vũ trụ mà con người biết cho đến thời điểm ấy, những vận động vĩ đại, vi diệu và cực kỳ hài hòa, của mặt trời, trái đất, và những hành tinh.
Liên Xô phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của loài người lên quỹ đạo trái đất, đưa phi hành gia đầu tiên của loài người lên vũ trụ. Mỹ đưa những con người bằng xương bằng thịt đầu tiên đổ bộ lên mặt trăng. Còn SpaceX của Elon Musk đang đưa con người lên Sao Hỏa. Tất tần tật những việc lớn lao và kỳ diệu này, đều dựa trên nền tảng các định luật của Newton.
Thế nhưng ngay khi ra đời, các định luật của Newton lại mở ra những thắc mắc sâu xa hơn nữa về bản chất của vũ trụ. Có vẻ như vũ trụ không hữu hạn với bảy tầng trời. Bởi nếu nó hữu hạn, và bởi lực hấp dẫn chỉ hút chứ không đẩy, thì tập hợp hữu hạn các hành tinh và các ngôi sao sẽ bị hút gần về nhau cho đến khi chúng suy sụp vào chính mình. Còn nếu như nó vô hạn, thì chỉ cần một biến cố nhẹ, các hành tinh bị rung lắc và trượt khỏi các quỹ đạo cực kỳ ổn định của mình, thì cân bằng bền vững nhờ lực hấp dẫn sẽ bị phá vỡ, các hành tinh sẽ bay tứ tung, vũ trụ hài hòa của chúng ta bỗng bị xé tan tành.
Newton quả thực bối rối, ông đành giải quyết nó bằng cách tự nguyện chấp nhận một vũ trụ vô hạn, cực kỳ đồng nhất, và tĩnh tại. Nhưng ông không giải quyết được một câu hỏi khác: bằng cách nào lực hấp dẫn của mặt trời tác động đến trái đất và các hành tinh khác.
*
Gần 250 năm sau, năm 1915, một trụ cột mới của vũ trụ học ra đời: Thuyết tương đối rộng của Einstein. Einstein cho rằng lực hấp dẫn làm cong không gian ở quanh nó.
Giống như ta đặt một trái bowling lên tấm đệm mút, trái bowling sẽ làm toàn bộ tấm đệm mút bị cong theo sức nặng của nó.
Mặt trời uốn cong toàn bộ không gian xung quanh. Theo Einstein, các hành tinh chuyển động trong không gian ấy sẽ tự động chọn con đường ngắn nhất và ít bị cản trở nhất để đi, và đó chính là các quỹ đạo ellip bao quanh mặt trời. Ngay cả ánh sáng, từ một vì tinh tú xa xăm, khi đi ngang mặt trời để đến trái đất cũng sẽ phải lượn theo đường cong của không gian vốn bị khối lượng mặt trời làm cong, rồi mới đến trái đất. Do đó nếu quan sát từ trái đất, ta sẽ nhìn thấy vì tinh tú kia ở một vị trí hơi khác với vị trí thực của nó.
Bằng cách quan sát này, năm 1919, một nhóm các nhà thiên văn do Arthur Eddington dẫn đầu đã đến một hòn đảo ở vịnh Guine để đo đạc thực nghiệm. Kết quả thực nghiệm này đã chứng minh Thuyết tương đối rộng của Einstein là đúng.
Theo thuyết tương đối hẹp của Einstein, vận tốc tối đa của vũ trụ (tức là không gì có thể chạy nhanh hơn vận tốc này) chính là vận tốc ánh sáng (gần 300 ngàn km/giây). Ánh sáng đi từ mặt trời đến trái đất mất 8 phút. Nếu mặt trời bằng cách nào đó biến mất, không gian quanh mặt trời không bị uốn cong nữa và trái đất sẽ di chuyển theo một quỹ đạo hoàn toàn khác.
Thế nhưng, ở đây sẽ có một nghịch lý: nếu mặt trời đột ngột biến mất, không gian đột ngột hết bị khối lượng của mặt trời uốn cong. Ở trên trái đất nhận ra ngay lập tức chuyện này bởi trái đất sẽ văng vào vũ trụ với vận tốc 1600km/giờ, nhưng ánh sáng từ mặt trời phải mất 8 phút sau mới tắt hẳn trên trái đất. Tức là bằng cách nào đó lực hấp dẫn chạy nhanh hơn cả ánh sáng. Điều này là không thể. Vậy lực hấp dẫn lan truyền trong không gian như thế nào?
*
Năm 1916, Einstein đề xuất sự tồn tại của một sóng gọi là sóng hẫp dẫn, một loại sóng mang lực hấp dẫn lan truyền trong không gian với vận tốc bằng vận tốc ánh sáng. Einstein đã tìm thấy sóng trên lý thuyết bằng cách giải các phương trình của mình, cũng như dự báo các ngôi sao đôi quay quanh một trục chung sẽ dần sát lại với nhau để rồi lao vào nhau do năng lượng mất dần do bị bức xạ vào không gian dưới dạng sóng hấp dẫn.
*
Cho đến năm 1920, năm mà hào quang của Einstein chói lọi nhất, con người vẫn cho rằng Ngân Hà mà chúng ta đang sống là tất cả vũ trụ. Thế rồi một nhà thiên văn tên là Edwin Hubble bằng việc quan sát tinh vân Tiên Nữ (Andromeda) đã phát hiện ra tinh vân xoắn ốc này nằm trong một vũ trụ hoàn toàn khác với Ngân Hà của chúng ta.
Hóa ra, vũ trụ rộng hơn cái mà con người biết rất rất nhiều. Ngân Hà của chúng ta chỉ là một thiên hà trong hàng tỉ thiên hà khác của vũ trụ.
Và cũng như Newton, dù sống ở thế kỷ 21 và có bộ não cấp tiến, Einstein vẫn khá khó chịu với ý tưởng một vũ trụ không tĩnh và không đồng nhất. Trong mô hình toán của mình, ông nhận ra một vũ trụ có vẻ như đang co giãn, nên ông đã cố gắng thêm các tham số mà ông gọi là “hằng số vũ trụ” vào, để “bắt” vũ trụ tĩnh tại và đồng nhất.
Cho đến khi ông gặp Hubble, một cuộc gặp khá muộn màng, vào năm 1931.
Để tính toán vận tốc của các thiên thể xa xôi, Hubble sử dụng hiệu ứng Doppler, nhưng là với ánh sáng. Hiệu ứng Doppler âm thanh khá quen thuộc với con người. Khi đứng trên đường xe hơi, hoặc tàu lửa, tiếng còi của xe tiến đến phía ta nghe chói tai hơn tiếng còi của chính xe này khi nó băng ngang ta và rời đi ra. Đó là do tần số âm thanh bị dịch chuyển do tốc độ. Tương tự như vậy, ánh sáng từ một thiên thể mà ta đang quan sát cũng thay đổi tần số khi chúng tiến đến gần hoặc rời xa trái đất. Tần số ánh sáng mà ta quan sát thay đổi làm màu sắc của ánh sáng ta nhận thấy cũng đổi theo. Một ngôi sao rời xa trái đất sẽ ngả màu đỏ (dịch chuyển đỏ), còn ngược lại, nó sẽ ngả màu xanh (dịch chuyển xanh).
Bằng cách quan sát 24 thiên hà, Hubble nhận ra các thiên hà càng xa trái đất thì dịch chuyển càng nhanh đi ra xa thêm. Điều này đúng với dự đoán có được từ các phương trình của Einstein.
Năm 1931, lần đầu tiên gặp Hubble khi đến thăm đài thên văn ở núi Wilson, Einstein đồng ý rằng vũ trụ đang giãn nở. Từ lúc này, cho đến lúc qua đời, Einstein đối đầu với vũ trụ để cố gắng tìm ra một lý thuyết vật lý bao trùm tất cả. Có lần Einstein còn “đối đầu” với vũ trụ tự xoay, một vũ trụ cho phép con người quay về quá khứ. Đây là một kết quả mà Godel giải ra từ phương trình của Einsten khi hai siêu nhân này cùng làm việc ở Viện nghiên cứu cao cấp Princeton. Einstein đã để lại các phương trình toán mà cho đến tận bây giờ các nhà khoa học vẫn tiếp tục giải nó để tìm các câu trả lời về việc du hành trong không thời gian, chui qua lỗ sâu đục, hố đen, và tất nhiên là cả về sóng hấp dẫn.
*
Từ định luật của Hubble về vũ trụ giãn nở, các nhà vũ trụ bắt đầu tìm tòi ngược về lịch sử của vũ trụ.
Sáng Thế của Vũ trụ bắt đầu với một Vụ Nổ Lớn (Big Bang). Từ Không đến Có Vũ Trụ là một khoảng thời gian cực kỳ ngắn. Trước thời điểm 10-43 giây (0. rồi 43 số 0), còn gọi là thời gian Plank, vũ trụ từ chưa có, chuyển thành một vũ trụ “hư không” rất nhiều chiều, một hư không chỉ có thể hiểu bằng thiền định. Từ 10-43 giây đến 10-34 giây, nhiệt độ lúc này là 1032 độ Kelvin (nóng gấp 10 triệu tỷ tỷ lần nhiệt độ mặt trời, vũ trụ hình thành và giãn nở với vận tốc tăng dần (lạm phát). Tốc độ giãn nở cao hơn vận tốc ánh sáng nhiều lần. Đến thời điểm này vũ trụ mới chỉ to bằng ngân hà của chúng ta hiện nay. Từ 10-34 giây trở đi, vũ trụ giãn nở bình thường cho đến phút thứ 3 thì các hạt nhân hình thành. Và cần thêm tới 380 ngàn năm nữa, các nguyên tử mới hình thành. Sau 1 tỷ năm, mới hình thành các ngôi sao nhờ hiện tượng kết tụ.
Kể từ thời điểm Sáng Thế, hay còn gọi là Big Bang (Vụ Nổ Lớn) đến nay là 13.7 tỷ năm. Vũ trụ đã có vô vàn thiên hà, và vẫn tiếp tục giãn nở.
Ánh sáng đi từ mặt trời đến trái đất mất 8 phút. Nhiều ngôi sao chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường, ánh sáng của chúng đi tới trái đất mất khoảng 100 năm ánh sáng. Tức là cái ánh sáng mà ta nhìn thấy, thực ra đã được phát đi từ 100 năm trước. Ánh sáng mờ nhạt đi từ các thiên hà xa thật xa, cần cả tỷ năm để đến trái đất. Tức là ánh sáng của những thiên hà này, khi ta nhìn thấy, là ánh sáng được phát ra từ cả tỷ năm trước, một thứ ánh sáng “hóa thạch”.
Bằng cách này, các nhà thiên văn có thể “khảo cổ” vào quá khứ xa xưa của vũ trụ. Và nếu sử dụng một thiết bị thiên văn thật tinh xảo, các nhà khoa học có thể nhìn được những gì phát ra từ Sáng Thế.
Năm 2001, NASA đã phóng lên quỹ đạo của mặt trời một vệ tinh quan sát thiên văn có tên là WMAP (Wilkinson microwave anisotrophy probe – đầu đo dị hướng vi sóng Wikinson). Vệ tinh này nằm cách trái đất 1.5 triệu km để tránh các sóng nhiễu loạn của Trái Đất, đồng thời vị trí của nó cũng được tính toán để né sự che khuất do Mặt Trời và Mặt Trăng trong lúc nó “quét” sóng toàn bộ bầu trời. WMAP đã làm được hai việc dị thường, một là nó chụp được bức ảnh sơ sinh của vũ trụ, lúc mới khoảng 380 ngàn năm tuổi, hai là đo được nhiệt độ nền của vũ trụ, khoảng 2.7 độ Kelvin, và thứ ba đó là vũ trụ hình thành với 23% của một chất gọi là vật chất tối và 73% năng lượng vũ trụ là năng lượng tối.
Ảnh vệ tinh WMAP (bên lề phải) nhìn về quá khứ Big Bang (bên lề trái).
Hàng trên (trái qua): Lạm phát, Tàn dư ánh sáng sau 380 ngàn năm, Thời kỳ tối, Hình thành các hành tinh và thiên hà …, Năng lượng tối làmtăng tốc độ giãn nở.
Hàng dưới (trái qua): Thăng giáng lượng tử, Những ngôi sao đầu tiên xuất hiện (sau 400 triệu năm), vũ trụ mở rộng kể từ Big Bang (13.7 tỷ năm).
Ảnh. Vũ trụ sơ sinh (380 ngàn năm tuổi), nhiệt độ còn 3000 độ K và các nguyên tử đang được sinh ra: Bức xạ nền vi sóng của vũ trụ (cosmic microwave background radiation – CMBR) do vệ tinh WMAP chụp. Mỗi điểm ảnh ứng với một thăng giáng lượng tử của ánh sáng tàn dư từ Sáng Thế. Mỗi điểm thăng giáng này giãn nở tạo ra các thiên hà hiện nay.
Đến nay chưa ai thực sự biết năng lượng tối và vật chất tối là gì, mặc dù Einstein đã đưa ra “năng lượng tối” từ năm 1917. Sau đó Einstein gọi “năng lượng tối” là sai lầm lớn. Cùng với dữ liệu của vệ tinh COBE và quan sát các siêu sao trong những năm 1990, WMAP đã cho thấy sai lầm của thiên tài hóa ra cũng vẫn có thể đúng. Hằng số vũ trụ Λ, “sai lầm” của Einstein, bất ngờ sống lại. Ngày nay năng lượng tối được cho là cái tạo ra trường phản hấp dẫn, đẩy các thiên hà ra xa nhau.
(Chữ Λ, đọc là lambda, là chữ lamda viết hoa, là hằng số vũ trụ, được sử dụng trong phương trình gốc trường Einstein (EFE, thuyết tương đối rộng). Còn chữ lamda này khi viết thường, λ, là bước sóng ánh sáng, nằm ẩn trong động lượng p của photon (p=h/λ với h là hằng số Planck), trong phương trình khối lượng -năng lượng (thuyết tương đối hẹp): E2=(mc2)2+(pc) với m là khối lượng tĩnh và c là tốc độ ánh sáng. Phiên bản rút gọn của phương trình này rất nổi tiếngE=mc2 ).
*
Các vật thể chuyển động có gia tốc (chuyển động với vận tốc không đều) và theo quỹ đạo không đối xứng cầu hoặc đối xứng trụ, đều bức xạ năng lượng ra bên ngoài dưới dạng sóng hấp dẫn. Vật thể càng nặng sóng hấp dẫn phát ra càng mạnh. Hai hành tinh chuyển động quanh nhau, như trái đất và mặt trời cũng phát ra sóng hấp dẫn. Những hệ sao đôi, có hai thiên thể chuyển động quanh một trục chung cũng phát ra sóng hấp dẫn, kết quả là chúng mất dần năng lượng, tốc độ quay tăng dần trên quỹ đạo hẹp dần trở thành hình xoáy ốc, cho đến khi chúng sáp nhập thành một. Sóng hấp dẫn phát ra từ chúng có tần số tăng dần (hiện tượng di tần). Nếu quan sát được sóng này, từ trái đất có thể xác định được khối lượng và khoảng cách từ sao đôi đến trái đất.
Giống các loại sóng khác, như sóng hấp dẫn có biên độ, tần số, bước sóng và tốc độ. Tốc độ của sóng hấp dẫn bằng tốc độ ánh sáng. Tần số của sóng hấp dẫn rất thấp (thấp tần) nên bước sóng của chúng rất dài, truyền tải năng lượng rất bé. Đây là lý do rất khó bắt được sóng hấp dẫn. Khi lan đến trái đất, tần số của sóng hấp dẫn vào khoảng 10-16Hz đến 104Hz
Khác các loại sóng khác như sóng âm thanh, ánh sáng và điện từ bị cản đường bởi vật chất, sóng hấp dẫn đi xuyên qua tất cả. Ánh sáng và sóng radio đi từ các thiên hà xa xôi, hay đi từ quá khứ của vũ trụ, có thể bị các đám bụi sao cản đường khi đang đến trái đất. Nhưng sóng hấp dẫn thì không.
1.3 tỷ năm trước, ở một thiên hà rất xa xôi, có hai hố đen bị dính vào một quỹ đạo xoắn ốc, rồi ở khoảnh khắc cuối cùng chúng đâm sập vào nhau với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng. Vụ va chạm đã tạo ra một hố đen mới nặng bằng 62 lần khối lượng mặt trời, đồng thời phát ra một nguồn năng lượng khổng lồ và tinh khiết. Toàn bộ năng lượng ấy bức xạ vào vũ trụ chỉ trong trong chỉ khoảng 1 phần 10 giây. Năng lượng ấy làm biến dạng không gian và thời gian xung quanh vụ va chạm trong chớp mắt. Bởi vụ va chạm là của hai lỗ đen, nên năng lượng phát ra không phải là sóng ánh sáng, mà là sóng hấp dẫn.
Sóng hấp dẫn này truyền đi và làm co giãn không gian khi nó đi qua. Đó chính là không gian – thời gian trong vũ của Einstein, hoàn toàn khác với không gian vũ trụ đồng nhất của Newton .
Mô tả sóng hấp dẫn bức xạ từ hai hố đen quay quanh nhau.
Khi vụ va chạm xảy ra, trên trái đất này sự sống mới chỉ này manh nha ở thể đa bào. Trong hành trình dài 1.3 tỷ năm để con sóng hấp dẫn kia lan đến trái đất, cuộc sống đã tiến hóa không ngừng: từ tế bào đến thực vật, từ khủng long đến loài người. Từ Kepler, Newton, Einstein và đến Kip Thorne.
Năm 1962, hai nhà khoa học là Gertsenshtein và Pustovoit xuất bản một bài báo đề xuất các nguyên tắc dò tìm sóng hấp dẫn bước sóng dài bằng giao thoa kế. Năm 1973, Kip Thorne một nhà vật lý lý thuyết ở học viện Caltech bắt đầu hành trình săn lùng sóng hấp dẫn của mình. Năm 1984, Kip Thorne, Ronald Drever và Rainer Weiss thành lập ủy ban lâm thời để xây dựng dự án LIGO. Năm 2002, LIGO bắt đầu dò tìm sóng hấp dẫn. Năm 2015, phiên bản hiện đại hơn với tên gọi Advanced LIGO, đi vào hoạt động.
Ngày 11 tháng 2 năm 2016, các nhà khoa học của LIGO công bố họ đã dò tìm được sóng hấp dẫn của một vụ sáp nhập hố đen cách chúng ta 1.3 tỷ năm ánh sáng (và cũng có nghĩa là sóng từ một vụ sáp nhập cách ngày nay 1.3 tỷ năm).
Ngày 15 tháng 6 năm 2016, LIGO công bố lần thứ hai dò được sóng hấp dẫn từ một vụ sáp nhập hố đen cách trái đất 1.4 tỷ năm ánh sáng.
*
LIGO (Laser Interferometer Gravitational Wave Observatory – Trạm quan trắc sóng hấp dẫn giao thoa kế laser) là một thiết bị khổng lồ nhưng vô cùng tinh xảo. Là một trạm quan trắc vũ trụ nhưng LIGO không có các ống kính hay ăng ten hướng vào bầu trời. LIGO là một cái hệ thống nằm dài trên măt đất để lắng nghe dao động tạo ra do va đập của sóng hấp dẫn đến từ vũ trụ.
Máy dò sóng hấp dẫn LIGO là hai đường ống dài khoảng 4km, nối với nhau hình chữ L. Ống được hút chân không cực cao, chỉ còn 1 phần ngàn tỷ áp suất không khí bình thường. Trong mỗi ống có một chùm tia laser được chiếu liên tục. Hai chùm tia gặp nhau ở góc chữ L. Các sóng laser được tính toán sao cho chúng triệt tiêu nhau và tạo nên giao thoa. Do hiện tượng phân cực, hai ống vuông góc với nhau nên chỉ có một ống sẽ bị sóng hấp dẫn đập vào. Khi sóng hấp dẫn đập vào một trong hai ống , chiều dài ống (4km) sẽ bị co giãn khác với ông kia, gây ra nhiễu loạn phá vỡ cân bằng của hai chùm laser, và làm mất các vân giao thoa
.
Độ co giãn của một ống dài 4km do ảnh hưởng của sóng hấp dẫn lại rất bé, chỉ cỡ 1 phần 10 ngàn bề rộng của một hạt proton. Nếu phóng đại chiều dài của ống từ 4km lên bằng khoảng cách từ trái đất lên đến ngôi sao gần nhất bên ngoài Hệ Mặt Trời, thì độ co giãn này sẽ vão cỡ bề dày một sợi tóc.
Độ co giãn nhỏ như vậy nên LIGO cần các gương phản chiếu laser trong giao thoa kế cực kỳ tinh xảo. Gương được mài nhẵn tới độ phẳng 1 phần 30 tỷ inch và được điều khiển bằng 6 nam châm điện chỉ bé bằng con kiến.
Toàn bộ đường ống của LIGO được đặt trên các trụ cách ly địa chấn bằng thép và lò xo đặc biệt, đứng trên các sàn bê tông dày 76 cm, và đến lượt các sàn này không được tựa vào bất cứ bờ tường nào.
Theo tính toán, để phát hiện sự va chạm của hai hố đen cách trái đất 300 triệu năm ánh sáng, LIGO có thể phải chờ đợi từ 1 đến 1000 năm. Cuối cùng, Advance LIGO phát hiện được sự va chạm của hai hố đen cách trái đất 1.3 tỷ năm, chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi được sửa chữa nâng cấp.
Tín hiệu của sóng hấp dẫn ấy được LIGO thể hiện dưới dạng âm thanh nghe thấy được. Một tiếng kêu khẽ của con sóng vũ trụ: Chirp!
*
Phát hiện sóng hấp dẫn của LIGO lần đầu tiên giúp khoa học chứng minh trực tiếp bằng thực nghiệm được sự tồn tại của một cặp hố đen, vốn chỉ tồn tại trên lý thuyết. Dữ liệu đo được còn giúp các nhà khoa học biết về hai hố đen đã tạo ra sóng: khối lượng của hố đen, vận tốc quỹ đạo, và thời điểm chúng đâm vào nhau. Có thể, dữ liệu ấy còn giúp giải thích các hố đen siêu nặng đã hình thành như thế nào ở tâm các thiên hà. Phát hiện sóng hấp dẫn của LIGO còn chứng minh Einstein tiếp tục đúng ở một khía cạnh khác, khía cạnh lực hấp dẫn trong Thuyết tương đối rộng của ông. Lần đầu tiên sóng hấp dẫn được chứng minh với bằng chứng thực nghiệm của một hiện tượng xảy ra bên ngoài hệ mặt trời.
*
Rainer Weiss, năm nay 84 tuổi, một trong ba nhà khoa học sáng lập LIGO rất ngạc nhiên tại sao Einstein có thể tiên đoán việc này từ chẵn 100 năm trước. Weiss nói rằng, vào buổi sáng mà LIGO dò thấy sóng hấp dẫn, ông ước ao được mang kết quả thực nghiệm này đến cho Einstein xem và xem mặt của thiên tài khoa học ấy biểu hiện những gì.
Có lẽ Einstein không nói gì, ông lè lưỡi sau khi đã kêu lên khe khẽ: Chirp.
*
PS. Nhiệt độ nền của vũ trụ hiện tại khoảng 2.7 độ Kelvin (độ K) bằng – 270.45 độ Celcius (độ C). Cá nhân tôi rất thích đơn vị đo lường nhiệt này. Một phần là nó gắn bó với tôi suốt 2 năm ôm bình ni tơ lỏng ở phòng thí nghiệm nhiệt độ thấp thuộc tổ vật lý chất rắn của khoa vật lý. Độ K quy đổi với độ C rất đơn giản, chỉ việc làm phép trừ hoặc cộng (với 273.15). Và quan trọng hơn, độ 0 của thang Kelvin là độ 0 tuyệt đối. Khi nào vũ trụ lạnh đến 0 độ K tức là lúc vũ trụ không còn trao đổi nhiệt sinh công, tức là ngày tận thế.
Khác với 0 độ C quen thuộc của chúng ta, 0 độ C đơn giản là điểm mà nước đá đóng băng, còn 100 độ C là điểm nước sôi. Lấy hai điểm này chia cho 100 phần bằng nhau (bách phân) ta có thang nhiệt độ Celcius (độ C). Nhiệt độ cơ thể người bình thường là 37 độ C, khi sốt sẽ gần 40, khi yêu nhau là 41, một đêm nóng bỏng của hai người là 42. Lúc giận nhau thì qua dùng độ K. Lạnh lẽo không trả lời tin nhắn là 2.7 độ K. Chia tay nhau là 0 độ K, tức là độ 0 tuyệt đối. Hết trao đổi nhiệt, hết sinh công.
Khi chiếc váy rơi xuống, đó là do tác động của lực hấp dẫn. Theo thuyết tương đối, khoảng thời gian đợi chờ chiếc váy rơi xuống là dài vô tận. Còn sau khi váy đã rơi, thời gian trôi nhanh hơn tốc độ ánh sáng.


November 11, 2016
Và đây là Elon Musk
Sau bài diễn thuyết tại Hội nghị vũ trụ quốc tế ở Mexico cuối tháng 9 vừa qua , người sáng lập công ty vũ trụ SpaceX, tỷ phú Elon Musk đã tham gia mục hỏi đáp Ask Me Anything trên diễn đàn Reddit. Elon Musk đã nói về cách Hệ thống vận tải liên hành tinh (Interplanetary Transport System) hoạt động và cách mà các robot công nghiệp sẽ xây một nhà kính khổng lồ để trồng cây trên bề mặt Sao Hỏa. Đây là những bước đi quan trọng trong tham vọng của Elon Musk: biến Sao Hỏa thành thuộc địa của loài người.
Đạo diễn của Iron Man, Jon Favreau cho biết anh và diễn viên Robert Downey Jr. đã gặp Elon Musk và sau đó đưa nhiều tính cách của Musk vào nhân vật Iron Man – Tony Stark. Elon Musk cũng cameo trong phần 2 và 3 của bộ phim này.
*
Năm 1880, xưởng sản xuất Edison Lamp Works bắt đầu sản xuất bóng đèn. Một năm sau, xưởng này có pháp nhân chính thức với tên Edison Electric Lamp Company. Cùng năm này, xưởng sản xuất Edison Machine Works bắt đầu sản xuất dynamo (bộ phát điện một chiều) và mô tơ điện để sử dụng cho các hệ thống do Thomas Edison sáng chế. Lúc này Thomas Edison mới 34 tuổi.
Trong vài năm tiếp theo, tài phiệt phố Wall bắt đầu đổ tiền vào các doanh nghiệp của Edison. Edison Machine Works sáp nhập một loạt các công ty của Edison, bao gồm Edison Electric Lamp Company (công ty sở hữu các bằng sáng chế đèn điện của Edison) và một công ty đầu tư tài chính do J.P.Morgan hậu thuẫn (công ty này vốn đã đầu tư vào các nghiên cứu của Edison và cộng sự). Sau sáp nhập, công ty mới có tên Edison General Electric Company.
Hơn 10 năm sau, năm 1896, công ty này IPO và là một trong 12 công ty đầu tiên tạo nên chỉ số Dow Jones công nghiệp (DJIA). Công ty ở trên sàn chứng khoán suốt 120 năm, từ năm 1896 đến nay, và chính là tập đoàn General Electric (GE). Các lĩnh vực mà GE tham gia trải rộng từ đồ điện tử gia dụng, đến phần mềm, năng lượng, dầu khí, hàng không và vũ khí. Doanh thu năm 2015 của tập đoàn GE là 140 tỷ dollar Mỹ.
*
Rất nhiều thế hệ thanh niên lớn lên ở miền bắc ngày trước rất quen thuộc với nhà sáng chế vĩ đại người Mỹ Tô-mát Ê- đi-sơn (Thomas Edison) qua một cuốn sách cùng tên. Cuốn sách ấy mô tả Edison như một cậu bé nhà nghèo, phải thôi học để đi làm từ khi còn là thiếu niên. Sau này ông phát minh ra nhiều thứ kì diệu, từ điện báo, đèn điện đến máy hát, máy quay phim, tàu điện. Tất cả là để phục vụ cuộc sống con người, đặc biệt là người lao động.
Cuốn sách không hề mô tả Edison như một nhà công nghiệp có tầm nhìn, một doanh nhân khôn ngoan, một doanh chủ start-up cứng đầu, sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao nhất. Mà đấy mới là những phẩm chất để Edison làm nên những kỳ tích của mình, và qua đó làm thay đổi cuộc sống không chỉ người dân Mỹ mà cả nhân loại.
Henry Ford, người đã thay đổi diện mạo không chỉ ngành xe hơi, mà cả nền công nghiệp Hoa Kỳ, đã có may mắn làm việc cùng, rồi trở thành người bạn lâu năm của Edison. Năm 1930 Henry Ford xuất bản cuốn sách Edison as I know him (bản tiếng Việt của Alpha Books có tên Edison như tôi biết).
Cuốn sách cho ta biết gia đình Edison không nghèo. Nhận ra con mình là đứa trẻ khác người, mẹ Edison đã xin cho Edison thôi học để tự mình dạy con cho nên người. Cuốn sách mà cậu bé Edison yêu thích nhất và cũng là nguồn cảm hứng để cậu muốn trở thành nhà hóa học là cuốn Natural and Experimental Philosophy của Richard Green Parker, một cuốn sách kiểu wikipedia đơn giản về khoa học tự nhiên và thực nghiệm. Lúc này Edison mới 9 tuổi.
Cha mẹ Edison không ngăn cản con trai mình tự làm các thí nghiệm ở nhà. Chỉ có điều hóa chất hồi đó có lẽ rất đắt, cha mẹ không đáp ứng nổi, nên Edison lúc đó mới chừng 12-13 tuổi đã xin một chân báo trên tàu lửa để có tiền chi trả cho niềm đam mê nghiên cứu của mình. Tiền bán báo không đủ, Edison đã tự xuất bản một tờ báo nhỏ, in ngay trên tàu, để có thêm nguồn thu cho phòng thí nghiệm tí hon của mình.
Cũng vì làm việc trên tàu hỏa mà Edison đã có lần dũng cảm cứu được một em bé, con của một nhân viên điện báo hỏa xa. Ông này đã dạy Edison nghề điện báo, và từ đây đam mê của Edison đã chuyển từ “hóa” sang “điện”.
Nói theo ngôn ngữ thời thượng của ngày nay, Edison đã khởi sự doanh nghiệp start-up của mình, tự xoay sở kiếm ra vốn seeding/angel bằng các nguồn thu từ các “doanh nghiệp” làm thêm bằng tay trái.
Henry Ford đánh giá Edison đã rất tiên phong trong tự kiếm nguồn tài trợ cho các nghiên cứu phát triển của mình. Sau này, khi trở thành nhà công nghiệp, doanh chủ và nhà sáng chế hàng đầu thế giới, Edison vẫn rất thiện nghệ trong việc mà ngày nay các doanh nghiệp start-up gọi là “gọi vốn”. Henry Ford cho ta biết Edison rất ghét những kẻ thiếu óc hài hước, mà các nhà đầu tư đến từ Phố Wall là những kẻ như vậy. Nhưng ông nhẹ nhàng chấp nhận họ vì “họ cần ông cho mục đích của họ, còn ông dùng họ cho mục đích của ông”. Cách tiếp cận này gợi ta nhớ đến tỷ phú Jack Ma (Mã Vân), ông chủ tỷ phú của Alibaba, sẵn sàng chấp nhận giảm sở hữu của mình trong công ty để lấy chỗ cho các tay tư bản cá mập như Masayoshi Son bỏ vốn vào.
Henry Ford cũng cho ta biết, chính Edison (chứ không phải Henry Ford) mới là người đầu tiên áp dụng phương thức sản xuất hàng loạt để những sản phẩm công nghiệp tiên tiến nhất có giá thành thấp nhất, và do đó nhiều người dân có thể sử dụng nhất. Noi gương Edison, Henry Ford đã áp dụng tư duy cấp tiến này vào việc sản xuất chiếc ô tô Ford Model T, biến ô tô vốn là sản phẩm xa xỉ trở thành sản phẩm mà mọi gia đình Mỹ đều có thể sở hữu được.
Khi công ty của Edison lên sàn chứng khoán ở Mỹ, ở nước ta vua Thành Thái vẫn đang trên ngai vàng còn Paul Doumer vẫn chưa qua Đông Dương nhậm chức. Nhưng quan trọng hơn, nhìn vào độ mở của giáo dục, gia đình và xã hội, ngay cả ở Việt Nam bây giờ sẽ rất hiếm một bà mẹ dám mang con mình về nhà tự dạy học, hiếm một người cha dám cho con nghịch ngợm với một đống hóa chất sẵn sàng nổ tung, và bởi vậy sẽ rất hiếm những đứa trẻ dám đi làm thêm để có tiền nuôi dưỡng những đam mê khoa học của mình.
Có lẽ ở Mỹ ngày nay cũng khó có một Edison như thế. Nhưng may mắn thay, họ có những Edison kiểu khác. Những Edison không chỉ hiện đại hơn, tất nhiên, mà còn Hollywood và Marvel hơn.
Thomas Edison dũng cảm đi vào những địa hạt chưa ai dám đặt chân đến. Khi thế gian còn dùng đèn khí đốt, Edison đã nghĩ đến đèn điện. Để làm ra đèn điện và bán cho có lãi, ông đã tiên phong thực hiện những việc mà ngày nay trở thành tiêu chuẩn của mọi ngành công nghiệp. Thay vì tự mình nghiên cứu phát triển sản phẩm, ông thuê rất nhiều kỹ sư về cùng làm. Phòng nghiên cứu của ông ở Melon Park được coi là phòng Lab nghiên cứu phát triển đầu tiên của loài người. Để bán được đèn, ông cũng phát triển các máy phát điện có hiệu suất cao, các hệ thống truyền tải điện ít tiêu hao, rồi triển khai trên diện rộng. Khi có hệ thống truyền tải điện, Edison không chỉ bán bóng đèn, ông phát triển thêm nhiều sản phẩm khác để tạo nên cái mà ngày nay người ta gọi là hệ sinh thái.
Mặc dù thua cuộc trong cuộc chiến dòng điện “Một chiều vs Xoay chiều” mà Edison là thủ lãnh phe Một chiều, điện thế dân dụng 110Volt của Mỹ, các ổ cắm, phích cắm và đui đèn điện, vẫn còn tồn tại đến hiện nay, là do Edison thiết kế, hoặc phát triển, và quan trọng nhất là đưa vào ứng dụng trên diện rộng để biến nó thành tiêu chuẩn công nghiệp. Việc thua cuộc này khiến cho tên Edison bị rớt khỏi tên công ty GE sau khi sáp nhập với phe thắng cuộc là công ty Thomson-Houston Electric Company.
Sau này Steve Jobs cũng bị đá ra khỏi công ty Apple do mình sáng lập, khởi nghiệp lại từ đầu với Next. Apple và Steve Jobs cũng làm cho chuột máy tính, giao diện đồ họa, cổng USB … phổ cập trong ngành máy tính cá nhân.
*
Cách nay hơn 3000 năm, thế giới còn rất nhỏ bé, chiến tranh liên miên, và chưa có chữ viết. Hồi đó có những người Phoenicia rất khéo tay, có tài xây dựng và khéo buôn bán. Họ còn rất dũng cảm, dong buồm vượt biển đi phiêu lưu khắp nơi, từ Bắc Phi đến Nam Âu để kiếm tiền nhờ buôn bán và xây dựng. Để liên lạc về quê hương, họ phát minh ra chữ cái để viết thư. Chữ cái của người Phoenicia là cái gốc hình thành chữ Hy Lạp, chữ Latin. Rồi khi Ferdinand Magellan dong buồm khám phá địa cầu, những nhà buôn và nhà truyền giáo theo chân ông đã đến vùng đất mà ngày nay là Quảng Nam của Việt Nam. Từ đây, chữ quốc ngữ dựa trên bảng chữ cái Latin và cách đánh vần của người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, như ta đang dùng hiện nay, đã hình thành.
Trái với đám người phương tây thích phiêu lưu tìm những chân trời mới, người Việt chúng ta, lại khá tự hào bởi những thứ “nhà 10 đời sống ở phố cổ”, hoặc “xa Hà Nội mấy hôm đã thèm phở sáng”, và thích thú với cái kiểu giang hồ vặt “nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà”. Người Việt chúng ta cứ ngồi yên mà hưởng lợi từ không chỉ từ nền văn minh phương tây ngày nay, với iPhone của Steve Jobs, phần mềm Office của Microsoft, bóng đèn điện của Edison; mà chúng ta còn hưởng lợi rất nhiều từ phát minh của những người Phoenicia cổ đại và máu phiêu lưu của Magellan. Đó là những người dũng cảm dong buồm vượt bể, đi đến những vùng đất lạ, sáng tạo ra những sản phẩm phục vụ chính mình và dần dà phục vụ cả nhân loại.
Di sản của những kẻ tiên phong này, còn là một thứ mà ở Việt Nam người ta vừa căm ghét vừa ngưỡng mộ: Thuộc địa và văn minh thuộc địa.
*
Có một doanh nhân, và cũng là một nhà sáng chế, một nhà công nghiệp tiên phong không khác gì Edison đang nổi còn hơn một ngôi sao ở nước Mỹ. Anh chàng Edison kiểu mới này không chỉ xông vào những địa hạt kinh doanh mới, mà còn muốn chiếm những địa hạt ngoài không gian để làm thuộc địa cho loài người.
Anh ta không chỉ muốn thắp sáng loài người bằng ánh sáng điện, mà anh ta còn muốn giải cứu nhân loại.
Người hùng từ truyện tranh Marvel bước ra ngoài đời ấy chính là Elon Musk.
*
Elon Musk sinh ra (năm 1971) và lớn lên ở Nam Phi. Năm 18 tuổi anh di cư sang Canada và lấy quốc tịch nước này. Với một bộ não thiên tài, việc học hành của Elon Musk khá dễ dàng, anh chuyển tiếp sinh qua Mỹ và lấy hai bằng đại học ở hai trường đại học danh giá. Năm 1995, ở tuổi 24, Elon Musk chuyển đến California để học tiến sỹ Vật lý ở đại học Stanford. Anh đi học 2 ngày rồi bỏ học để khởi nghiệp ở thung lũng Silicon.
Sự nghiệp giải cứu thế giới của siêu nhân Musk bắt đầu.
Khác với hầu hết các doanh nhân khởi nghiệp khác, Musk rất khỏe mạnh về thể chất và tinh thần. Khi đã thành triệu phú, anh vẫn tham gia các trò thể thao đòi hỏi cực kỳ nhiều thể lực và cả sự liều mạng. Khi là tỷ phú anh vẫn đưa các con của mình đi dự lễ hội của dân độ xe vốn rất bừa, bẩn và bựa. Lúc ở ngưỡng cửa phá sản, anh vẫn dùng máy bay riêng của mình đi làm từ thiện ở Haiti vào lúc bệnh dịch tả đang hoành hành đất nước này dữ dội. Anh đi các hộp đêm đắt tiền London, uống rượu với những cô gái đẹp nhất thế giới, cùng lúc điều hành vài công ty toàn là khởi nghiệp, làm việc có những lúc tới 23 tiếng đồng hồ một ngày, vẫn dành thời gian chơi với đám tỷ phú công nghệ, mượn nhà của họ cho bạn gái ở nhờ trong lúc bản thân mình sắp vỡ nợ, mượn tiền của họ để trả lương nhân viên khi công ty sắp phá sản, và vẫn tài trợ hàng núi tiền cho cả hai đảng Dân chủ lẫn Cộng hòa.
Anh làm tất cả mọi thứ để có thể một ngày nào đó công ty SpaceX của anh chiếm Sao Hỏa làm thuộc địa, biến hành tinh chết ấy thành nơi có thể sống được, rồi đưa loài người lên sống.
*
Giống như Edison, khi còn bé Elon Musk là một đứa trẻ hiếu học và hiếu động. Có năng khiếu lập trình, ham đọc sách và có những lúc bị bắt nạt ở trường học. Bộ sách mà Musk thích có tên The Hitchhiker’s Guide to the Galaxy.
Cũng giống như Edison, Elon Musk có khiếu kiếm tiền. Năm 12 tuổi, Elon Musk đã tự lập trình một video game và bán nó cho một tạp chí máy tính với giá khoảng 500 dollar.Lúc mới nhập cư vào Canada, với lợi thế về ngoại hình và thể lực, Musk bán sức lao động của mình bằng cách làm những nghề cực kỳ vất vả. Khi đang là sinh viên ở đại học Pennsylvania, Musk và bạn học thuê nhà hộ sinh để làm hộp đêm trá hình, bán vé thu tiền. Người thu ngân, rất thú vị, là mẹ của Musk.
Rời đại học Stanford sau hai ngày học tiến sỹ, Elon Musk và em ruột của anh là Kimbal (sinh năm 1972) quyết định khởi nghiệp ở thung lũng Silicon. Cũng như các doanh nhân cùng thời đại, Elon bắt đầu với một xu thế mới mẻ đang xuất hiện: internet và web. Công ty có tên là Zip2, nhà đầu tư vốn hạt giống (seeding) chính là cha của hai anh em Musk. Ông Errol Musk, lúc này vẫn sống ở Nam Phi, đã gửi cho anh em Mush 28 ngàn dollar. Sau này khi Elon Musk nổi tiếng, có người lên Quora hỏi về cha của Elon. Ông Errol Musk tự lập một tài khoản Quora và viết: “Mấy thằng kia, đừng có viết gì về tao đấy. Cám ơn”.
Những tháng đầu tiên của Zip2 là thời gian rất khó khăn của anh em Musk. Họ túng đến ức phải ở luôn công ty, ăn đồ ăn nhanh rẻ tiền và tắm nhờ ở cơ sở của YMCA (Jack Ma khi khởi nghiệp cũng sử dụng cơ sở của YMCA ở Hàng Châu). Thành công lớn đầu tiên của Zip2 là hợp đồng ký với hai tờ báo lớn là New York Times và Chicago Tribune.
Năm 1999, Compaq, một công ty máy tính rất lớn hồi đó, mua lại Zip2 với giá hơn 300 triệu dollar. Musk thu về 22 triệu dollar và trở thành triệu phú ở tuổi 28 và sau 4 năm khởi nghiệp.
Trong 10 năm tiếp theo, Elon Musk đầu tư vào Paypal, trở thành cổ đông lớn nhất của công ty này trước khi bán nó cho eBay với giá 1.5 tỷ dollar. Musk thu về 165 triệu.
Với số tiền này, Musk bắt đầu hiện thực hóa tham vọng giải cứu thế giới, mà việc đầu tiên là “xâm lược Sao Hỏa để làm thuộc địa cho loài người”.
*
Trong bộ phim khoa học giả tưởng có tên The Martian (2015), một phi hành gia (Matt Damon đóng) bị bỏ rơi trên một hành tinh không có sự sống. Nhờ kiến thức khoa học và nghị lực phi thường, anh chàng này không những sống sót mà còn tạo thêm sự sống trên hành tinh chết này.
Năm 2001, ở tuổi 40 tròn, Elon Mush bắt đầu dựng mô hình “Ốc Đảo Sao Hỏa”. Anh muốn đưa lên sao hỏa một nhà kính để làm các thí nghiệm sinh học và nông học, đặt những viên gạch đầu tiên cho một sự sống trên Sao Hỏa. Ý nghĩ đầu tiên của anh là tìm mua tên lửa đẩy, loại hàng second-hand, của Nga.
Mua tên lửa chưa bao giờ là một việc dễ dàng. Tên lửa mà Musk muốn mua thuộc loại liên lục địa, một thiết bị luôn được coi là đồ quân sự và chịu quản lý cấp quốc gia, luôn là một việc nguy hiểm, luôn ở ranh giới vi phạm pháp luật. Sau hai chuyến đi mạo hiểm như phim gián điệp đến Moscow, Musk và đồng đội thất bại. Thất bại này, khá giống với bước ngoặt học điện tín của Edison, đã đưa Musk đến một quyết định điên rồ: thành lập công ty vũ trụ tư nhân SpaceX.
Lĩnh vực hàng không vũ trụ, cho đến trước khi Elon Musk bước chân vào, là một lĩnh vực trì trệ và quan liêu. Nó luôn được coi là một lĩnh vực do nhà nước đầu tư và quản lý. Nó tiêu tốn vô cùng nhiều tiền, kém hiệu quả, nếu nhìn từ quan điểm đầu tư. Nó không có cạnh tranh. Nhất là sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, hai siêu cường Nga Mỹ không còn đối đầu nhau trong lĩnh vực không gian. Sự cố với dự án tàu con thoi của Mỹ khiến chương trình này bị ngưng vô thời hạn. Rồi Trung Quốc bắt đầu nổi lên như một cường quốc chinh phục không gian với chi phí thấp (mà Musk khinh khi cho là nhờ nhân công rẻ). Mỹ bắt đầu đánh mất lợi thế phóng tên lửa đưa vệ tinh vào không gian, để rơi các hợp đồng phóng vệ tinh vào tay Nga và Trung Quốc. Thậm chí để phóng vệ tinh của mình, NASA phải thuê Nga bắn tên lửa đưa vệ tinh của mình lên quỹ đạo.
Elon Musk đã có “chiến lược đại dương xanh” của chính mình. Anh mở một công ty start-up để nhảy vào một mảng thị trường khổng lồ và không có cạnh tranh. Một tư duy hoàn toàn sáng suốt, chỉ hơi điên rồ ở chỗ đó là thị trường phóng tàu vũ trụ. Lập luận cơ bản của Musk cho hướng đi này rất đơn giản, ngành công nghiệp không gian đã phát triển rất chậm trong khoảng 50 năm, không có cạnh tranh, sản phẩm rất đắt đỏ. Theo tính toán ban đầu của Musk, chi phí phóng môt tàu vũ trụ có khối lượng 250 kg chỉ tốn khoảng 6.9 triệu dollar, trong khi chi phí phóng hiện hành đang vào khoảng 30 triệu dollar. Một khoảng chênh lệch lớn đến mức một doanh nhân gà mờ nhất cũng nhận ra. Nhưng để biến thành hiện thực phải là một doanh nhân sáng suốt kiêm một nhà sáng chế điên rồ như Musk mới có thể làm được.
Không chỉ táo bạo về chiến lược, Musk còn mang tính phóng khoáng, lãng mạn, ngây ngô và cả khắc nghiệt nữa, của văn hóa và tinh thần start-up vào công ty vũ trụ tư nhân SpaceX. Tất nhiên, SpaceX lúc mới ra đời, dù có tới 100 triệu dollar tiền cá nhân của Musk, cũng vẫn là một công ty start-up.
Bản thân Musk chỉ học hỏi kiến thức về tên lửa từ một cuốn sách cũ nát mua trên Amazon. Nhưng với tầm nhìn xa và ý chí mạnh mẽ, Musk muốn công ty mình tự sản xuất, toàn bộ và tất cả, mọi thành phần và thiết bị của tên lửa. Tên lửa ấy phải an toàn, bền và quan trọng nhất là có thể sử dụng nhiều lần. Sản xuất phải đủ nhanh và đủ rẻ để dễ bề thương mại hóa kiếm lời.
Musk thực hiện việc này, bắt đầu với xưởng sản xuất tương đối nghèo nàn và sơ sài, với đội hình các giám đốc toàn sao và một đám kỹ sư đa phần là trẻ, cực kỳ tài năng và tương đối nghiệp dư so với các chuyên gia thực sự của ngành tên lửa và vũ trụ. Câu chuyện nhân sự của SpaceX cũng phản ánh chiến lược thiên tài của Musk. Lần đầu tiên, các sinh viên tài năng nhất, từ các khoa hàng không vũ trụ của các đại học lớn nhất, có một đích đến là một công ty tư nhân vũ trụ, mà còn là khởi nghiệp. Tiếng lành vang xa, các kỹ sư hàng đầu của Boeing, Lockheed Martin cũng chuồn khỏi những công ty già cỗi để đến với SpaceX trẻ trung, cởi mở và chứa đầy rủi ro, một thứ rủi ro gây khoái cảm.
Ở SpaceX, cũng như ở Tesla Motors, các kỹ sư làm việc không ngừng nghỉ đến kiệt sức, làm tất cả mọi việc họ cần phải làm, thay vì giao cho chuyên gia khác hay thuê công ty bên ngoài. Họ phải hoàn thiện tất cả mọi thứ trong thời gian không phải là ngắn nhất. Khi nghe được lời phàn nàn của một kỹ sư, rằng anh này rất ít được về nhà với gia đình, triệu phú Musk đã nói một câu đầy tinh thần khởi nghiệp: “Đợi đến khi công ty phá sản, anh sẽ tha hồ có thời gian với gia đình”.
Để tiết kiệm chi phí nghiên cứu thử nghiệm, Musk thuê một bãi phóng tên lửa cũ của quân đội Mỹ trên một hòn đảo rất hoang sơ tên là Kwaj nằm giữa Guam và Hawaii trên Thái Bình Dương. Những kỹ sư của SpaceX đã phải ra hòn đảo này, phóng thử hết quả tên lửa này đến quả tên lửa khác, mà toàn là thất bại. Khiến cho ông chủ Musk, cùng lúc này dính vào vụ li dị vợ, đi xuống đến sát vùng đáy của cuộc đời mình.
Các câu chuyện trên đảo Kwaj, thất bại của SpaceX giai đoạn này, các bê bối của Elon Musk, đều nằm trong chương 6 của cuốn sách Elon Musk, do nhà báo Ashlee Vance viết (bản tiếng Việt của Alpha Books). Đây là chương mà theo tôi là quyến rũ và gây phấn khích mạnh nhất trong cuốn sách. Các kỹ sư của SpaceX sống trên đảo như những tay du lịch hoang dã kiểu Robinson, sinh hoạt như những quân nhân, và làm việc như nô lệ dưới sự áp bức của lãnh chúa tên là Musk. Họ làm như điên, sáng tạo như điên, và hưởng thụ thiên nhiên hoang dã cũng như những kẻ điên.
Hai sản phẩm chính của SpaceX giai đoạn này là động cơ tên lửa Falcon 1 và Falcon 9. Ba lần đầu tiên phóng thử chiếc Falcon 1 đều thất bại và đẩy Musk vào miệng vực phá sản. May mắn thay, lần phóng thứ 4 vào năm 2008, đã thành công.
Musk và đồng nghiệp của mình đã mất 6 năm và cùng bao nhiêu công sức và cả một núi tiền, để trở thành công ty vũ trụ tư nhân hàng đầu thế giới. Hai tháng sau khi phóng tên lửa thành công, SpaceX nhận được hợp đồng trị giá 1.6 tỷ dollar từ NASA. Số tiền này để trả cho SpaceX phóng 12 chuyến bay tới trạm vũ trụ quốc tế ISS. SpaceX đã thực hiện tốt nhiệm vụ này và là công ty tư nhân đầu tiên có tàu vũ trụ kết nối với ISS. Tên chiếc tàu vũ trụ ấy là Dragon.
Falcon 1 phóng từ đảo Kwaj là sản phẩm khá nghiệp dư của một công ty khởi nghiệp, nhưng đến tên lửa khổng lồ cao 68 mét nặng 500 tấn Falcon 9 thì SpaceX đã trở thành tay chơi số 1 trong lĩnh vực phóng vệ tinh thương mại. Với chi phí phóng mỗi lần chỉ khoảng 60 triệu dollar Mỹ, và tiếp tục còn rẻ đi nữa, SpaceX đang bỏ xa các đối thủ cạnh tranh, không phải là các công ty mà là hai quốc gia Nga và Trung Quốc, trong thị trường dịch vụ phóng vệ tinh trị giá 200 tỷ dollar. (Điều này có nghĩa SpaceX cũng bỏ xa Châu Âu và Nhật, vốn có chi phí phóng vệ tinh rất đắt. Elon Musk, xét theo nghĩa nào đó, đã giúp một tay để cứu ngành công nghiệp vũ trụ của Hoa Kỳ).
Chính vì đối thủ của SpaceX không phải là các công ty mà là các quốc gia, SpaceX đã không đăng ký bất kỳ một sáng chế nào, bởi Musk không muốn lộ bài của mình cho Trung Quốc. Đây là điểm khác biệt giữa Musk và Edison. Edison nắm tới hơn 1.000 bằng sáng chế đăng ký dưới tên mình, tính riêng ở Mỹ.
Sơ đồ phóng Falcon 9 và thu hồi tên lửa đẩy tầng 1
*
Vào nửa cuối năm 2008, giai đoạn trước khi phóng thành công Falcon 1, cuộc đời Elon Musk thật bi đát. Ly dị vợ, chia tài sản, tiền bạc đốt như điên vào hai công ty khởi nghiệp là SpaceX và Tesla. Một siêu nhân như Musk, cuộc đời tưởng như đã sa cơ. Anh đón người yêu mới, ngôi sao người Anh của bộ phim Pride and Prejudice qua Mỹ chơi mà phải mượn nhà của tỷ phú Jeff Skoll cho người yêu ở.
Trong cuốn sách Elon Musk của Alpha Books xuất bản, ta có thể đọc được câu chuyện thú vị này. Riley, người yêu của Musk ở ngôi biệt thự sang trọng này được một tuần thì bỗng nhiên có một gã đàn ông lạ xuất hiện. Cô hỏi, anh là ai. Gã trả lời: tôi là chủ nhà, còn cô là ai. Sau khi biết Riley là người yêu của Musk, tỷ phú chủ nhà Jeff Skoll bỏ đi luôn.
Sau khi Musk cưới Riley, tình hình tài chính của Musk khó khăn đến mức bố mẹ vợ của anh ở Anh phải cầm cố nhà lấy tiền cho anh vay. Cũng trong thời gian này, Skoll phải cho Musk vay hàng trăm ngàn dollar để trả lương nhân viên ở Tesla. Hàng trăm ngàn dollar, quy ra tiền Việt là vài tỷ, con số mà các đại gia Việt Nam cho nhau vay không cần ký nhận. Hoặc đơn giản hơn, vài tỷ chỉ là chuyện lại quả của những thương vụ tầm thường. Nhưng trong một thế giới khởi nghiệp, phiêu lưu và đầy sáng tạo, vài tỷ bạc có thể cứu một công ty tầm cỡ như Tesla.
*
Ở Mỹ có những tay dị, cả đời chỉ thích nghịch máy móc. Từ bé đã thích tháo cái này ra lắp cái kia vào. Ở Việt Nam có lẽ cũng có những tay như thế, nhưng họ không bao giờ có điều kiện để nghịch cái này lắp cái kia. Thị trường không có sẵn phụ tùng để nghịch. Và quan trọng hơn, nếu có cậu bé nào dám nghịch như vậy sẽ xuất hiện ngay ai đó đại diện cho tổ dân phố, chính quyền, đến hỏi han và yêu cầu ngừng nghịch ngợm. Ở Việt Nam, không có chỗ cho các chú bé sáng tạo.
Những thanh niên nghịch ngợm và mê máy móc ở Mỹ không chỉ được nghịch mà còn được những trường đại học danh tiếng như Stanford ôm vào lòng, rồi khi tốt nghiệp, họ được thả vào thung lũng Silicon đầy tinh thần khởi nghiệp và vô số những quỹ đầu tư mạo hiểm, và có cả những tỷ phú điên rồ như Musk.
Để dễ tưởng tượng, sự kết nối giữa đại học, các nhà sản xuất và nhà đầu tư ở Thung lũng Silicon rất giống các kỹ sư học Đại học Bách Khoa Thành Phố Hồ Chí Minh với các nhà sản xuất người Hoa có sẵn vốn, kinh nghiệm sản xuất, và phân phối sản phẩm. Đây là lý do khiến Quận 11 là cái trung tâm công nghiệp nhẹ Việt Nam suốt những năm 1980 và 1990 của thế kỷ trước. Điều này đang lặp lại ở quy mô nhỏ hơn, nhưng sâu sắc hơn, ở Thủ Đức với hàng loạt các trường đại học và khu công nghiệp xung quanh.
Có hai gã đàn ông như thế, mê xe hơi, và thích bảo vệ môi trường. Họ cũng biết rõ công ty khởi nghiệp cuối cùng trong lĩnh vực sản xuất xe hơi là Chrysler, ra đời từ tận 1925. Họ cũng biết cái nôi của xe hơi phải ở Detroit, nơi có sẵn hàng ngàn công nhân sản xuất xe hơi tay nghề cao, chứ không phải Silicon toàn máy tính. Nhưng hai người đàn ông ấy vẫn quyết tâm thành lập một công ty chuyên tâm làm xe hơi chạy điện vào năm 2003. Họ đặt tên công ty là Tesla Motors, theo tên của « nhà khoa học khùng » luôn đi trước thời đại là Nicola Tesla (Điều thú vị là Tesla có một thời gian làm việc cho phòng lab nghiên cứu của Edison.Xem thêm về Tesla ở đây.) Hai nhà sáng lập Tesla đã tự tài trợ cho công ty khởi nghiệp của mình cho đến vòng gọi vốn Serie A của quy trình gọi vốn mạo hiểm. Một trong hai sáng lập viên của Tesla, Martin Eberhard, sinh năm 1960, lúc này 43 tuổi. Năm 2004, chính Musk đã tham gia và dẫn dắt vòng gọi vốn Serie A cho Tesla, rồi nhập ban điều hành và trở thành chủ tịch công ty.
Ngành công nghiệp xe hơi, do Henry Ford khai sinh, đã đi một quãng đường đủ dài, đủ giàu, và trở nên già cỗi. Các công nghệ dùng trong động cơ xe hơi đã tiến hóa đầy đủ. Tesla, một công ty non trẻ, gần như là một tay mơ về công nghệ xe hơi, chỉ có lợi thế duy nhất là tinh thần trẻ trung, sáng tạo và chấp nhận rủi ro của một công ty start-up. Không phải một công ty start-up thông thường mà là công ty start-up của Thung lũng Silicon với tỷ phú điên rồ Elon Musk đứng chống lưng.
Các kỹ sư trẻ và tài năng ở đại học Stanford bắt đầu nhận ra sức hấp dẫn của công ty khởi nghiệp Tesla. Có người thậm chí bỏ học, gia nhập Tesla, chấp nhận lau sàn nhà, chỉ để được làm việc.
Quá trình phát triển nguyên mẫu đầu tiên, chiếc Roadster, gặp vô cùng nhiều khó khăn, nó đốt từng chục triệu dollar của Musk. Cho đến khi anh bắt đầu cạn ví và phải gọi sự trợ giúp từ hai tỷ phú sáng lập Google là Larry Page và Sergey Brin. Đến giữa năm 2008, chi phí phát triển chiếc Roadster đã đốt hết 140 triệu dollar, đồng thời thế giới rơi vào khủng hoảng tài chính. Trên báo chí, chiếc Roadster bị coi là thất bại công nghệ của năm. Có những ngày có tới 50 bài báo nói về việc Tesla sẽ chết như thế nào. Tesla chỉ thoát chết nhờ phút cuối Elon Musk bán một công ty khởi nghiệp khác, mà anh em nhà Musk bỏ vốn vào, cho Dell và thu về 19 triệu dollar để nuôi tiếp Tesla.
Đến năm 2013, một lần nữa Tesla lao đao với dòng xe thứ hai: Model S. Có thời điểm Elon Musk phải đàm phán với Google để người khổng lồ internet bỏ ra khoảng 6 tỷ dollar để mua lại Tesla và giữ cho công ty không ngừng hoạt động. Cùng lúc này, bá đạo và ác nghiệt không kém gì Jack Ma ở Alibaba, Musk bắt 500 nhân viện của Tesla phải ra ngoài đường đi bán hàng. Và họ đã làm được điều kì diệu, họ bán được một lượng xe khổng lồ, và lần đầu tiên Tesla có lãi: 11 triệu dollar tiền lời trên 562 triệu dollar doanh thu. Cổ phiếu Tesla tăng từ 30 dollar lên 130 dollar.
Thỏa thuận dang dở với Google bị chấm dứt.
*
Khi Henry Ford đến làm việc cho Edison, thiên tài sáng tạo này đang âm mưu chế tạo ắc quy để chạy xe ô tô. Nhưng những chiếc xe hơi chạy động cơ đốt trong giá rẻ, và xăng có thể dễ dàng mua hơn điện, đã khiến Edison bỏ ý tưởng xe ô tô chạy điện và chuyển qua phát triển hệ thống tàu điện phục vụ giao thông công cộng.
Elon Musk cũng đang đi những hướng đi tương tự.
Anh đã định nghĩa lại xe ô tô chạy điện. Đó không phải là những chiếc xe hơi bình thường chạy bằng điện, mà là một chiếc xe hoàn toàn khác, được thiết kế và phát triển với những triết lý hoàn toàn khác. Một chiếc sedan bốn chỗ truyền thống chứa động cơ đốt trong rất nặng nề, ồn ào và phức tạp đằng trước, bình xăng đằng sau, và các hệ thống truyền động rất phức tạp. Một chiếc sedan động cơ điện, sẽ có hai động cơ điện nhỏ bé, nhẹ và yên tĩnh nhưng rất khỏe đặt thẳng vào hai trục bánh. Hệ thống ắc quy nặng nề nằm trên sàn xe và giữ cho xe cực kỳ cân bằng khi hoạt động. Cũng như Edison phát triển hệ thống truyền tải điện khắp nơi để dễ dàng bán bóng đèn điện, Tesla đang lắp đặt hệ thống sạc điện miễn phí khắp nước Mỹ và tham vọng lắp ở nhiều nơi trên thế giới.
Toàn bộ hệ thống sạc điện ấy, Tesla sử dụng hệ thống điện tái tạo, do công ty SolarCity của Elon Musk cung cấp. Công ty này, đến lượt nó, đang cố gắng tự sản xuất tất cả các thiết bị của mình, trong lòng nước Mỹ.
Tesla cũng đang tiến hóa xe của mình, không chỉ chạy điện mà còn tự lái. Những chiếc xe chở mình đến nơi làm việc rồi tự đi vào bãi đỗ xe, rồi quay đến đón chủ khi có lệnh triệu tập, không khác gì chổi thần trong Harry Potter. Những chiếc xe khi chủ làm việc trong văn phòng có thể tự mình đi ra đường chở khách, kiếm thêm tiền cho chủ. Triết lý của Musk về xe tự lái cũng khá kì quặc nhưng khó lòng bẻ được: tự lái những chiếc xe hơi nặng cả tấn với tốc độ cao, chẳng khác gì tiếp tay cho giết người; cần phải để xe hơi tự vận hành và chuyên chở con người, giống như thang máy vậy.
Với giao thông công cộng, Elon Musk đầu tư vào Hyperloop, một thương hiệu do SpaceX sở hữu. Đây là hệ thống vận tải tốc độ cao chạy bằng các ống tube áp suất thấp, một ý tưởng chẳng khác gì lấy ra từ một bộ phim khoa học viễn tưởng. Hệ thống này, nếu trở thành hiện thực, có thể chở hành khách với tốc độ lên tới 1.200 km/h.
Vấn đề nan giải với tàu tốc độ cao là ma sát và lực cản do áp suất không khí khi chạy ở tốc độ cao là rất lớn. Ma sát có thể giảm bằng cách sử dụng đệm từ (maglev) , nhưng chi phí rất đắt. Tàu cao tốc đệm từ ở Thượng Hải (Shanghai Maglev Train) hoạt động từ năm 2004 có thể đạt tốc độ thử nghiệm lên tới 500 km/h, và tốc độ khai thác là 431km/h. Ký lục thế giới của tàu Maglev là 603 km/h do Central Japan Railway thực hiện năm tháng tư năm ngoái (2015). Lực cản không khí có thể giảm bằng các cho tàu chạy đệm từ chạy trong đường ống tube chân không khép kín (vactrain) để đạt tốc độ lên tới 8,000 km/h (nhanh gấp 5-6 lần vận tốc âm thanh). Việc giữ chân không trong đường ống dài là không khả thi, nên vactrain chưa thành hiện thực.
Hyperloop của SpaceX giải quyết nan giải chân không và đệm từ bằng cách giữ cho đường ống tube ở áp suất thấp (1 milli Bar), các toa tàu hình viên đạn/viên con nhộng, lướt trên lớp đệm không khí rất mỏng (0.5 – 1.3 mili mét). Lớp đệm khí được hệ thống nâng bằng khí (air caster) tạo ra từ áp suất của các thanh ván trượt sử dụng máy nén khí . Các toa tàu viên đạn sẽ tăng và giảm tốc nhờ các mô tơ cảm ứng tuyến tính chạy điện lắp dọc theo đường ống. Theo Musk, hệ thống Hyperloop khi dùng trên Sao Hỏa sẽ không cần đường ống tube bằng thép, do áp suất khí quyển Sao Hỏa vốn đã rất thấp so với trái đất.
*
Tháng 5 năm 2015, tàu Dragon kết nối thành công với trạm vũ trụ quốc tế ISS. Một tháng sau Tesla bán ra chiếc Model S với giá 75 ngàn dollar. Tháng 9 năm 2015 Tesla giao chiếc Model X cho khách hàng. Tháng 12 năm 2015 SpaceX hạ cánh thành công tầng 1 (main engine) của tên lửa Falcon 9. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử ngành vũ trụ, tầng 1 của tên lửa đẩy quỹ đạo sau khi lên đến quỹ đạo đã tách ra khỏi tầng 2, bật động cơ phụ để lộn một vòng, rồi quay trở vào khí quyển trái đất và hạ cánh an toàn; tiến một bước dài tới việc hoàn thiện tên lửa tái sử dụng giúp giảm chi phí phóng rất nhiều lần. Đầu năm 2016 SpaceX đã xây một đường Hyperloop dài 8km để phục vụ thử nghiệm.
Dự kiến Hyperloop sẽ được đưa vào sử dụng trên trái đất năm 2020. Chuyến bay đầu tiên có người lái tới Sao Hỏa theo tính toán của Elon Musk sẽ được thực hiện vào năm 2024. Musk cũng dự báo tới năm 2040 anh sẽ thiết lập Sao Hỏa làm thuộc địa cho loài người, với dân số sống trên đó khoảng 800 ngàn người. Tất nhiên, những cư dân trên Sao Hỏa ấy sẽ di chuyển bằng Hyperloop và sử dụng năng lượng tái tạo của SolarCity trong cuộc sống của mình.
*
Musk tin rằng loài người có thể bị tuyệt diệt chẳng khác gì loài khủng long ngày xưa. Virus, núi lửa, thiên thạch khổng lồ, … đều có thể dễ dàng tiễn toàn bộ loài người đi cùng các vị khủng long tiền bối. Musk cũng tin rằng thám hiểm không gian là một bước quan trọng để mở rộng không gian sinh tồn, hoặc chí ít là để bảo tồn sự sống, cho nhân loại.
Động cơ tên lửa Falcon và phi thuyền Dragon của SpaceX, xe ô tô sử dụng động cơ điện của Tesla, năng lượng tái tạo của SolarCity, hệ thống vận chuyển Hyperloop, và mới đây là trí tuệ nhân tạo OpenAI, …tất cả những thứ ấy đều nằm trong tầm nhìn lớn lao của Elon Musk: đưa nhân loại vào một cuộc sống liên hành tinh, cách duy nhất để hạn chế rủi ro cho sự tồn tại của loài người. Tất cả những công nghệ mà SpaceX, Tesla, SolarCity đang phát triển, trước mắt để phục vụ con người của hiện tại, và sau cùng là để cứu loài người trong tương lai.
Với một người bình thường, Elon Musk quả là dị thường, thậm chí khùng điên ngoại cỡ.
Nhưng với một anh hùng đi cứu loài người, sự khùng điên ấy thật là có lý.
Ở Mỹ Musk không phải tay khùng duy nhất muốn phiêu lưu vào vũ trụ. Jeff Bezos, một người ít khùng hơn nhiều, bởi đã rất thành công với đế chế bán lẻ online Amazon, và là tỷ phú giàu thứ 2 nước Mỹ (71 tỷ dollar, đứng sau Bill Gates). Năm 2000, tỷ phú giàu hơn Musk rất nhiều này, thành lập công ty vũ trụ Blue Origin. Mục tiêu của công ty này rất tham vọng: đưa sản xuất công nghiệp nặng vào vũ trụ, để cứu trái đất khỏi ô nhiễm, xây dựng các thành phố nhỏ dành cho khoảng 2, 3 triệu dân, với đầy đủ khách sạn và công viên trên quỹ đạo trái đất. Tháng 11 năm 2015, Blue Origin đã phóng thử thành công tàu vũ trụ của mình. Tháng 9 năm 2016, Jeff Bezos cho biết ông muốn biến hệ mặt trời thành thuộc địa.
Năm 1936, Mao Trạch Đông viết bài từ Thẩm xuân viên – Tuyết:
“Nhất đại thiên kiêu, Thành Cát Tư Hãn, Chỉ thức loan cung xạ đại điêu.”
“ Nức tiếng một thời, Thành Cát Tư Hãn, chỉ biết giương cung bắn diều hâu lớn”
Ý nói chí khí của kẻ anh hùng, chỉ quyết săn tìm những mục tiêu lớn.
Rất đen cho bọn Tàu, những anh hùng thời nay ở nước Mỹ, đã giương tên lửa là bắn hạ cả hệ mặt trời, chẳng khác gì tinh thần của Mạc Đĩnh Chi nước Nam bắn hạ mặt trời nhà Minh: “xạ lạc kim ô”.
Nước Nam của Mạc Đĩnh Chi, là một nước Nam ngày xưa kiêu dũng. Ở Việt Nam ngày nay, dọc bắc nam vẫn là Dummyloop đường sắt, chạy lề mề ồn ào lắc lư, các toa vẫn khai mù, và lâu lâu tàu lại đâm vào xe khách.
Cái nước Nam ấy, từ ngày lấy ý thức hệ Mao-ít hất quá khứ bắt đầu từ nhà Nguyễn ngược trở về trước vào sọt rác lịch sử, để quyết mở ra kỷ nguyên mới quang vinh và muôn năm thì:
“Đại giang đông khứ, lãng đào tận, thiên cổ phong lưu nhân vật.”
“Trường giang cuộn chảy về đông, Ba đào cuốn hết anh hùng xưa nay.”
Một đất nước ngày nào nhìn ra xung quanh cũng thấy: “Sơn trùng thủy phục nghi vô lộ”; lại lầm lũi cúi đầu cày cuốc liên miên, lòng đầy mong ước, nhưng biết đến khi nào “Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn.”


November 9, 2016
Dịch chữ establishment
Trump và Clinton đánh nhau cả năm. Báo chí hay nhắc đến chữ “establishment”.
Ví dụ: A large number of generals, especially those in the centrist establishment, have criticized Trump as too friendly to Russia, unpredictable with nuclear weapons, and insufficiently attuned to the importance of America’s strategic allies, among other things.
Hoặc: One of the most important if hidden story lines of 2016 has been Obama’s effort to shape a race he’s not running in an anti-establishment environment he can no longer control.
Chữ này có lẽ trong tiếng Việt là “gạo cội” hoặc “cây đa cây đề”. Ví dụ, những chính trị gia gạo cội chỉ trích Trump.
*
Nhìn từ quan điểm châu Á, thi đấu tổng thống Mỹ là một dạng đánh bạc tất tay, người đánh bạc dồn tiền cho 2 đối thủ đánh nhau. Nói cách khác, các ứng viên thi đấu bằng tiền người khác. Cho đến khi Trump, thi đấu bằng tiền nhà là chính, tình thế khác ngay. Kinh doanh bằng tiền túi, bao giờ cũng chất lượng hơn cầm tiền người khác đi buôn.
Nhìn từ quan điểm lô đề, xác suất để 2 tổng thống dân chủ liên tiếp là thấp, đã thế xác suất đề về Clinton lại còn là xác suất: 2 tổng thống dân chủ liên tiếp, nữ tổng thống đầu tiên sau tổng thống da màu đầu tiên, rồi lại còn đệ nhất phu nhân đầu tiên làm tổng thống. Tất nhiên nhà cái phải hứng tiền cửa này, để binh cửa kia cho chắc ăn.
*
Art Laffer, bộ óc đằng sau sự thành công của Reagan, và là nhà kinh tế cha đẻ của “kinh tế học trọng cung”, và được đặt tên cho Laffer Curve, từ đầu hè đã phân tích là Trump sẽ thắng cách biệt. Phân tích của kinh tế gia gạo cội này sử dụng cách dự báo truyền thống, đó là dựa trên dữ liệu quá khứ và phân tích nhân-quả . Nhưng chẳng ai tin dự báo ấy.
Vậy nên xin lưu ý lại, Trump đã thắng nhờ Silent Majority (Silent Majority stands with Trump). Và khái niệm “silent majority” này không mới mẻ gì, nó do Nixon nghĩ ra từ lâu. Còn “Make America Great Again” của Trump, cũng là do Reagan nghĩ ra từ lâu “Let’s make America great again”.
Ở trường phái dự báo thống kê hiện đại hơn, Nate Silver dự báo sai toét vòng bầu cử sơ bộ. Nhưng đến sát vòng bỏ phiếu, Nate Silver twitter mấy dòng nói Clinton thắng phiếu phổ thông còn Trump sẽ thắng phiếu đại cử tri. Nhưng lúc này không ai còn tin anh nữa.
*
Bỏ qua Clinton và Trump. Nước Mỹ vẫn còn rất nhiều điều kỳ diệu. Nền dân chủ Mỹ, dựa trên và luôn cổ súy free will là một điều kỳ diệu. Người dân Mỹ bỏ phiếu chọn Trump cũng là 1 nét đẹp của điều kỳ diệu này. Một trong những điều kỳ diệu khác đó là khoa học và công nghệ. Sáng mai, thứ 6, các bạn ra sạp báo mua tờ Tuổi Trẻ Cuối Tuần đọc bài về Elon Musk. Còn nếu hết tiền mua báo thì sau khi báo in đã ra, tôi sẽ post bài lên blog này. (Hết 15 giây giờ vàng quảng cáo).


October 26, 2016
Taobao là gì
Người Tây không biết Taobao là gì. Người ta cũng lờ mờ. Người Tàu thì biết rất rõ. Taobao là trang bán lẻ trực tuyến của Alibaba tức là của tỷ phú Jack Ma (Mã Vân).
Bọn eBay lúc đầu đầu tư vào EachNet, một website làm e-commerce đang lên ở thời điểm ấy. Cùng lúc này Alibaba vẫn vật lộn với website làm B2B của mình. Ở bên ngoài TQ, không ai biết Alibaba là cái gì, còn trong TQ cũng rất ít người biết.
Jack Ma thành lập Taobao từ một nhóm bí mật, có 6 người. Khi Taobao được tung ra, ngay trong nội bộ Alibaba cũng không biết Taobao là của ai.
Đằng sau Taobao là Alibaba, còn sau nữa là siêu nhân Masayoshi Son.
eBay tất nhiên là không biết gì, họ chỉ nhìn nhận (vì quá kiêu ngạo), ở TQ chỉ có 1 đối thủ tiềm năng là 1pay. Kết cục là chết mất xác.
Nhưng cay nhất là Goldman. Ngân hàng này mua 33% cổ phần Alibaba từ rất sớm, với giá 3.3 triệu dollar. 5 năm sau rốt ruột quá bán quách đi, lời gấp 7 lần. Nhưng ngay sau đó Aliababa lên sàn và nếu Goldman còn giữ cổ phần thì trị giá khoản này là 12.5 tỷ dollar Mỹ.
Taobao, tiếng Anh dịch là “hunting for treasure”, Hán Việt là Đào Bảo, nghĩa là đào kho báu. Bên Tàu có câu “vạn năng đích taobao”, nghĩa là mọi thứ đều có thể tìm được trên Taobao. Còn Jack Ma thì đào được kho báu đúng nghĩa.
Xem thêm về Jack Ma ở đây:


October 24, 2016
Điểm phần trăm và Ngân sách
Báo chí mấy hôm nay nói nhiều về việc thành phố Hồ Chí Minh bị cắt ngân sách. Nói chính xác hơn là bị cắt ngân sách giữ lại. Tức là tiền thành phố thu về, một phần được TW cho phép giữ lại để xài, phần còn lại phải gửi ra nộp TW.
Cụ thể hơn, như bài báo này cho biết, năm ngoái thành phố được giữ lại 23% (tức là tổng số tiền chính quyền thành phố thu về, được phép giữ lại 23% để chi tiêu, còn lại phải nộp ra TW), nhưng từ năm nay đến hết năm 2020 chỉ được giữ lại 18%.
Các báo, như báo Tuổi Trẻ, nói là bị giảm mất 5% (từ 23% xuống 18%).
Cách nói này rất dễ đến hiểu sai, là thành phố chỉ bị cắt giảm 5%.
5% này, tiếng Anh gọi là điểm phần trăm. Trong tiếng Anh họ sẽ nói ngân sách thành phố giảm đi 5 điểm phần trăm (5 percent point), từ 23% xuống 15%.
5 điểm phần trăm cắt giảm này, tương đương với cắt giảm 22% tiền thành phố được giữ lại (5% chia cho 23% rồi làm tròn). Tức là năm ngoái, nếu thành phố có 100 đồng để tiêu, thì năm nay chỉ còn 78 đồng. Tức là bị cắt rất nhiều. Một gia đình bình thường mà bị giảm chi tiêu gia đình đi 22% sẽ là cả một vấn đề, đằng này là một thành phố.
Có người sẽ hỏi tại sao TW xiết thành phố đột ngột như vậy. Cần thêm tiền để làm gì? Câu trả lời chắc chỉ có giới chóp bu mới biết được. Còn suy đoán kiểu thuyết âm mưu sẽ tha hồ phỏng đoán. Ví dụ phần xiết thêm này là để tăng cường chi tiêu cho bên Đảng. Tức là tiền nộp về cho TW, tức chính phủ, nhưng là để chi cho Đảng. Cái này trong kinh tế học gọi là fungibility. Nếu thuyết âm mưu này đúng, ta thấy tiền của HCM dùng để nuôi Đảng. Đứa con hơn 80 tuổi vẫn phải xin tiền người đẻ ra mình để sống.
Nếu đúng vậy, có thể thấy suốt mấy năm qua, những chất vấn đổ lên đầu chính phủ về kỷ luật ngân sách, đúng là không thể nào được trả lời thỏa đáng, bởi chính phủ phải chi tiền (có thể là rất nhiều, bởi vậy kỷ luật ngân sách không thể không bị vi phạm) cho bên Đảng.
Một khía cạnh khác. Đó là vai trò của bí thư thành phố. Một bí thư giỏi và có tầm nhìn, sẽ phải cân bằng được trách nhiệm gánh vác cái chung (nộp cho TW) và lợi ích của địa phương (duy trì hoặc tăng ngân sách tái đầu tư cho địa phương).
Đặc biệt, thành phố HCM còn là đầu tàu kinh tế, lợi ích kính tế của thành phố HCM (đầu tư công, tăng trưởng, …) còn có tác động tích cực đến các vùng kinh tế lân cận (các tỉnh miền đông, các tỉnh miền tây) và nói theo ngôn ngữ bóng đá là tăng chiều sâu đội hình.
Một bí thư ở tầm vóc bình thường của thành phố về cơ bản phải ý thức và có cách ứng xử thỏa mãn lợi ích kinh tế của thành phố và các vùng phụ cận, đồng thời vẫn gánh vác việc chung của cả nước và không làm mếch lòng TW. Một bí thư không bình thường, ví dụ chỉ cốt làm tròn vai trò thái thú do TW cử về nắm địa phương, cộng thêm đánh bóng hình ảnh cá nhân trong lòng quần chúng, chắc chắn sẽ không làm được gì tốt đẹp cho thành phố này, và cả cho các vùng phụ cận.


Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
