Nguyễn Phương Văn's Blog, page 11

February 1, 2018

Chuyện phải lòng

Chữ “trái tim” dịch ra tiếng Anh là “heart”. Chữ “heart” dịch ngược ra tiếng Việt lại thành chữ “lòng”. Thế mới tài.


Ví dụ “golden heart” dịch ra tiếng ta là “tấm lòng vàng”, “learn by heart” dịch thành “học thuộc lòng”, “from bottom of my heart” thì dịch là “từ tận đáy lòng”, “win someone’s heart” có nghĩa là “được lòng ai đó”. Có rất nhiều ví dụ như vậy, từ trái tim đến cỗ lòng, là một con đường rất vãi.


Nghĩa của chữ “lòng” rất uyển chuyển, có thể diễn đạt mọi sắc thái tâm lý tình cảm, từ ruột non đến ruột già, ra cả đến hậu môn.


Ai đó dễ bị người khác thuyết phục, gọi là “dễ mềm lòng”. Những người lý trí mạnh, khó thuyết phục, gọi là “cứng lòng”. Cởi mở tâm sự của mình với ai đó gọi là “mở lòng”. Đồng ý với ai đó gọi là “bằng lòng”. Rủ nhau cùng làm gì đó thì phải “đồng lòng” mới xong.


Gặp ai đó mà thích ngay, gọi là “phải lòng”. Chưa ngỏ được lời thì cứ thấy “rối ở trong lòng”. Thế rồi “xao xuyến mãi ở trong lòng” đến lúc cũng phải “tỏ lòng” mình ra. Đến khi yêu rồi, yêu thì ở trong tim, mà diễn đạt thành lời, gọi là “đem lòng yêu nhau”. Xa nhau thì nhớ “nao lòng”. Lúc nào cũng thấy “nóng lòng” gặp nhau. Để lâu thì nhớ “cháy lòng”. Gặp nhau một phát áp lòng vào nhau, xong xuôi nằm thở, “dốc lòng” với nhau. Rồi mới mặc quần áo chia tay, bịn rịn như “nát cả cõi lòng” đến nơi.


Nước Anh có ông vua là Richard LionHeart. Trước dịch sang tiếng Việt là Richard Sư Tử Tâm. Nay dịch ra tiếng ta là Richard Sư Tử Lòng.


Trước khi cô gái đẹp hóa thú theo chỉ đạo của thủ tướng (vãi hết cả lòng), với các bạn FA, hãy phải lòng ngay một con sư tử.


PS. Các bạn nếu “có lòng”, muốn làm gì đó tốt tốt, nho nhỏ mà chưa nghĩ ra, thì có một gợi ý thế này, thực hiện hay không là “tùy lòng” các bạn.


Lì xì cho các cháu Nấm và Gấu, con của chị Quỳnh.


Tên Tài khoản: Nguyễn Thị Tuyết Loan


Số Tài khoản: 0061000207794


Ngân hàng Vietcombank


Địa chỉ: 24 Đặng Tất, Phường Vĩnh Phước, Nha Trang


(Tài khoản này là của mẹ chị Quỳnh).

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 01, 2018 00:40

December 10, 2017

Kể một chuyện tình và một bài thơ

Chuyện tình và bài thơ (của Paul Eluard) được dịch bằng google translate, có sửa lại qua loa bằng tay.


*


[image error]


Người ta vẫn nói đằng sau một người đàn ông kỳ vĩ là một người đàn bà còn kỳ vĩ gấp bội. Điều này chuẩn vãi với người đàn ông kỳ vĩ Dalí.


Chắc chắn rằng nếu không có Gala, người bạn tình và rồi là người vợ, Salvador Dalí sẽ không bao giờ đạt được thành công to lớn và uy tín phổ quát như một biểu tượng điên rồ của chủ nghĩa siêu thực.


Helena Ivanovna Diakonova sinh ra ở Nga.


Năm 17 tuổi, nàng  yêu Paul Pooh và trở thành một phần của phong trào Siêu thực ở Paris. Nàng là nguồn cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ và nhà thơ, trong đó có André Breton và họa sĩ Max Ernst.


Nàng, Paul Éluard và Max Ernst đã trải qua một mối tình tay ba suốt ba năm. Một ‘ménage à trois‘ cả ba người làm tình như một.


Năm 1929, nàng gặp Salvador Dalí, một chàng nghệ sĩ trẻ hơn nàng mười tuổi. Dalí là một gã giai vẫn còn gin vì anh mắc chứng sợ bộ phận sinh dục nữ hay còn gọi là chứng vãi bím. Còn Gala lúc này đã khá nổi tiếng vì ham muốn tình dục mạnh mẽ của mình, cùng vô số chuyện ngoại tình.


Nhưng rồi Dalí và Gala trở nên không thể tách rời. Trong thập niên 1930, anh bắt đầu ký tên chung của hai người dưới các bức tranh của mình.


Nàng được coi là có khả năng lôi kéo và hủy hoại, thậm chí ở cuối độ tuổi 70 nàng vẫn có quan hệ với Jeff Fenholt, ca sĩ 22 tuổi của ca đoàn ‘Jesus Christ Superstar’.


Dalí viết: “Tôi quan tâm đến Gala hơn bản thân mình, nếu không có cô ấy, tất cả sẽ kết thúc.”


*


Ecstasy


Thơ của Paul Éluard


 


Tôi đứng trước khung cảnh đàn bà


Giống đứa trẻ trước đám cháy


Mỉm cười mơ hồ mắt tôi tràn lệ


Trước khung cảnh này, mọi thứ khuấy lộn trong tôi


Nơi gương sáng trở nên mờ hơi cũng nơi gương trở thành trong vắt


Phản chiếu hai thân thể trần truồng mùa giao mùa


*


Có rất nhiều lý do tôi lạc mất bản thân


Trong miền đất này bên dưới không có đường còn trên trời không đường chân mây


Ngày hôm qua lý do đẹp tuyệt trần tôi bỏ lãng


Những lý do tuyệt trần tô không bao giờ lãng quên


Chìa khóa đẹp mắt của những cô con gái


Trước vùng đất này, thiên nhiên là của tôi


Trước khi ngọn lửa lần đầu bùng cháy


Là lý do của một kiểu người tình


Trên trời cao nhận biết được vì sao


Và trên trái đất bên dưới bầu trời, trong và ngoài trái tim tôi


Nụ thứ hai chồi lá xanh thứ nhất


Là đại dương che phủ bằng đôi cánh của mình


Và mặt trời cuối cùng trở lại với chúng ta –


Tôi đứng trước khung cảnh đàn bà này


Giống như một cành cây trong lửa


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 10, 2017 23:58

October 27, 2017

Kể những chuyện tình

Cả ba chuyện tình (hai tình yêu, một tình bạn) dưới đây đều được dịch bằng google translate từ Anh sang Việt (và edit qua loa bằng tay).


*


Chuyện thứ nhất


[image error]


Họ gặp nhau trên phố Paris. Anh lẽo đẽo theo nàng tới chỗ làm.


Sau này anh kể, đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên.


Bấy giờ là năm 1893 và anh chỉ là một họa sĩ hậu ấn tượng non nớt mới được biết đến với những khung hình âu yếm và riêng tư.


Tên nàng là Marthe. Lúc đầu nàng nói dối anh cả tên lẫn tuổi. Nàng yếm thế, ưa lánh đời, và bị một căn bệnh buộc nàng phải tắm suốt ngày.


Vẻ lặng lẽ né tránh cuộc đời của nàng trở thành chủ đề trong tranh của anh suốt nửa thế kỷ, kể từ lúc họ quen nhau.


Anh là họa sĩ Pháp Pierre Bonnard.


Anh vẽ nàng, chủ yếu bằng ký ức, và bằng những bức ảnh chụp nàng lúc riêng tư. Trong tranh anh, nàng không bao giờ già đi. Anh vẽ nàng trong buồng tắm, trong buồng ngủ, và trong vườn. Anh vẽ nàng ngập tràn trong ánh sáng vàng son êm ả và màu sắc rực rỡ của cầu vồng.


Anh tan nát cõi lòng khi nàng chết, năm 1942. Trong thư gửi bạn mình là Henri Matisse, anh viết : “Anh có thể tưởng tượng được nỗi tiếc thương và sự cô đơn của tôi, chất chồng vị đắng và nỗi đau của cuộc đời mà tôi từ nay phải sống.”


Anh tiếp tục vẽ nàng, như một phụ nữ trẻ, cho đến khi anh chết, năm năm sau, ở tuổi 75.


Chuyện thứ hai


[image error]


Nửa bên này


Họ nằm bên nhau trong cõi chết. Họ có một mối tình bi thảm và lãng mạn nhất lịch sử hội họa.


Tên nàng là Jeanne Hébuterne, một cô gái có vẻ đẹp lạ lùng, cái đẹp mong manh giữa ánh ban mai và mịt mù bóng tối.


Năm 1917, ở tuổi mười chín và đang là sinh viên nghệ thuật ở Paris, nàng ngã vào mối tình điên dại với họa sĩ người Ý đẹp giai Amedeo Modigliani.


Nàng trở thành người mẫu và nàng thơ của chàng nghệ sĩ.


Đường nét của nàng, thanh mảnh và huyền bí, đôi mắt hạnh nhân và cổ cao như cổ thiên nga, được chàng biến thành bất tử trong gần hai mươi họa phẩm.


Chàng nghiện ma túy, nghiện rượu, không xu dính túi, và đang chết dần vì bệnh giang mai và bệnh lao.


Ngày 24 tháng giêng năm 1920, Amedeo Modigliani gục ngã vì bệnh tật ở tuổi 35. Hébuterne lúc này đang mang thai đứa con thứ hai được tám tháng. Một ngày sau, cực kỳ tuyệt vọng, nàng reo mình từ cửa sổ lầu năm, giết chết mình và đứa con trong bụng.


Gia đình nàng đổ cái chết của nàng lên đầu Modigliani.  Nhưng tám năm sau họ đồng ý chuyển nàng đến nghĩa trang Père Lachaise Cemetery để nàng mãi yên nghỉ bên người tình của mình. Bia mộ chàng viết “Chỉ vì cái chết mà phải mắc kẹt dưới mộ này, đúng lúc trên đỉnh hào quang. ” Bia mộ của nàng viết: “Người bạn đồng hành tận hiến cho sự hy sinh đến cùng cực.”


Và nửa bên kia




Người tình bi thảm của họa sĩ Amedeo Modigliani đã trở nên bất tử. Nàng tự kết liễu đời mình một ngày sau cái chết sớm và bệnh hoạn của người tình 35 tuổi.


Ít người biết nàng cũng là một họa sĩ giàu cảm hứng. Sinh ra trong một gia đình Công giáo ở Paris, nàng được anh trai, một người cũng muốn trở thành nghệ sĩ, giới thiệu gia nhập nhóm nghệ sĩ avant-garde phóng túng ở khu Montparnasse.


Năm mười sáu tuổi nàng làm mẫu cho họa sĩ Nhật Tsuguharu Foujita, cùng lúc theo học hội họa ở Académie Colarossi, và ở đó nàng được giới thiệu với chàng Modigliani đẹp giai, hơn nàng mười bốn tuổi, lúc này đang tận hưởng đời tự do.


Chàng không xu dính túi, xay xỉn. Một gã nghiện, và là một tay Do Thái sát gái. Chàng có dáng vẻ của ngôi sao điện ảnh. Và có niềm tin đầy đam mê vào tư thế của một họa sĩ hiện đại cũng như vào mục đích đời mình.


Bị gia đình quẫn trí của mình phản đối, nàng rời bỏ cha mẹ để đến sống cùng người tình một cuộc đời nghèo đói đến cùng cực. Nàng sớm mang thai còn chàng sớm suy sụp chết vì bệnh lao.


Hébuterne thể hiện khả năng hội họa, mà nàng đã học tại École des Arts Décoratifs. Những bức họa của nàng gắn với phong cách hiện đại của Trường phái Paris và thật thú vị khi so sánh hình họa của nàng vẽ cũng những người mẫu như của Modigliani, bao gồm chân dung tự họa của nàng và chân dung nàng vẽ nghệ sĩ Chaim Soutine. Giống như ảnh hưởng của Modigliani, họa phẩm của nàng thể hiện cách vẽ của nhóm Nabis như Pierre Bonnard và Édouard Vuillard, và kiểu cách điệu của Art Deco.


Lúc tự kết liễu đời mình Hébuterne mới 21 và chưa từng trưng bày tác phẩm. Bức họa cuối cùng của nàng được vẽ trong những giờ sau cái chết của Modigliani, nó thể hiện chính nàng nằm chết trên giường của mình với một cái dùi nhọn trong tay.


Chuyện thứ ba


[image error]


 


Bức tranh bột màu lịch sử này, được Toulouse-Lautrec vẽ trước khi cả anh lẫn anh chàng làm mẫu cho bức tranh trở nên nổi tiếng. Lúc đó họ chưa là gì, ngoài là hai anh chàng học sinh sáng dạ của nghệ thuật hậu hiện đại.


Bức tranh vẽ van Gogh đang ngồi và nhìn vào khoảng không gian trống rỗng trong một quán cà phê ở Montmartre. Trước mặt anh là một ly absinthe, một chất gây ảo giác được nhiều nghệ sĩ đương thời mê đắm. Và Toulouse-Lautrec nắm bắt được vẻ đẹp cô đọng của anh chàng Hà Lan lởm chởm râu ria, một dáng vẻ dễ dàng nhận ra từ các bức chân dung tự họa của van Gogh, xoáy vào má hõm của Van Gogh, lông mày nặng và tư thế lo lắng, để vẽ ra bản thể của gã đàn ông trẻ ấy.


Mặc dù chênh nhau mười tuổi, Toulouse-Lautrec và Van Gogh là bằng hữu, gắn bó với nhau bằng niềm đam mê với thứ đồ uống phê pha absinthe mà họ coi như là một lối thoát đi tìm cảm hứng. Cả hai đều đang phải vật lộn với những cơn nghiện rượu nặng.


Lautrec gặp Vincent van Gogh ở xưởng vẽ của nghệ sĩ kinh viện Fernand Cormon năm 1887. Tranh chân dung của Lautrec thể hiện ảnh hưởng của Degas, cũng như sự theo đuổi lẫn nhau của họ về một chủ nghĩa tự nhiên mang tính biểu cảm sâu sắc để miêu tả thế giới hiện đại xung quanh họ.


Không lâu sau, Lautrec phải bảo vệ Vincent tại một cuộc triển lãm tiên phong ở Brussels hồi đầu năm 1890. Lautrec đã rất tức giận bởi những nhận xét tiêu cực về các tác phẩm của Vincent, đến mức anh gần như bắt đầu một vụ đấm nhau với một nghệ sĩ khác.


Van Gogh chết vài tháng sau đó, do một vết thương tự gây ra bằng đạn  súng. Anh mới 37 tuổi. Lautrec chết năm 1901, yếu dần đi vì nghiện rượu và bệnh giang mai. Lúc chết anh mới 36 tuổi.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 27, 2017 03:20

October 6, 2017

Nobel Vật Lý 2017: Đang mở ra những thế giới chưa từng thấy!

Năm 1916 nhà bác học Albert Einstein nói ông tin vào sự tồn tại của sóng hấp dẫn. Năm nay, 101 năm sau phát biểu của Einstein, giải Nobel Vật Lý được trao cho  Rainer Weiss, Barry C. Barish và Kip S. Thorne vì đã phát hiện ra được sự tồn tại của sóng hấp dẫn. Trong thông báo về giải thưởng, Viện hàn lâm khoa học hoàng gia Thụy điển nói về giải Nobel Vật lý 2017 năm nay: “Đây là một thứ hoàn toàn mới và khác biệt, đang mở ra những thế giới chưa từng thấy.”


(Bài trích từ sách Bầu trời chiều ẩn giấu, bài trích này cũng đã đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần số tuần này, tức tuần công bố giải Nobel 2017). Link download sách, bản ebook định dạng pdf ở đây, và bản để in ở đây).


*


Năm 1916, một nhà vật lý người đức, lúc này đang sĩ quan pháo binh trên mặt trận Nga, tên là Karl Schwarzschild, đã giải các phương trình tensor của Einstein và tìm ra một nghiệm kỳ lạ. Theo nghiệm này, xung các ngôi sao có khối lượng cực lớn có một không quyển kỳ ảo (magical sphere). Tất cả mọi thứ, kể cả ánh sáng, khi đi vào không quyển này sẽ bị hút vào ngôi sao khổng lồ và không có cách nào thoát ra được. Schwarzschild còn tính toán được bán kính của không quyển kỳ ảo này. Bán kính này được gọi là bán kính Schwarzschild  hoặc bán kính hấp dẫn (gravitational radius).


[image error]


Schwarzschild qua đời trên mặt trận Nga và không biết rằng mình đã tìm ra một thứ, về sau được John Wheeler đặt tên: Hố Đen (Black Hole). Không quyển ma quái mà Schwarzschild tìm ra, ngày nay được gọi là Chân trời sự kiện (event hoziron), hàm ý đấy là nơi xa nhất mà  tầm mắt của người quan sát có thể với tới (sau chân trời là hố đen, nơi mà ánh sáng nếu vươn tới sẽ bị nuốt vào và không bao giờ trở lại).


[image error]


Cũng năm 1916, Einstein đề xuất sự tồn tại của một sóng gọi là sóng hẫp dẫn, một loại sóng mang lực hấp dẫn lan truyền trong không gian với vận tốc bằng vận tốc ánh sáng. Einstein đã tìm thấy sóng trên lý thuyết bằng cách giải các phương trình của mình, cũng như dự báo các ngôi sao đôi quay quanh một trục chung sẽ dần sát lại với nhau để rồi lao vào nhau do năng lượng mất dần do bị bức xạ vào không gian dưới dạng sóng hấp dẫn.


Để biết chi tiết hơn, xem bài Tiếng vọng từ sáng thế.


Năm 1936, Einstein và học trò là Nathan Rosen đăng một bài báo khoa học trên tạp chí Physical Review. Bằng cách sử dụng nghiệm của một hố đen tiêu chuẩn hình bình cổ dài có cổ bình bị cắt ngang và sáp nhập (merge) với một hố đen giống như thế nhưng đã bị xoay ngược lại. Ý tưởng này của Einstein và Rosen ngày nay được các nhà vũ trụ học hình dung như một cổng để kết nối hai vũ trụ khác nhau. Ý tưởng này có tên gọi Cầu Einstein-Rosen. Hay còn được biết với tên lỗ sâu đục (wormhole). Tuy nhiên, theo Einstein, các lỗ sâu đục có thể tồn tại, nhưng các sinh vật lọt vào miệng hố đen sẽ chết ngay lập tức vì bị xé xác bởi lực hấp dẫn.


[image error]


Năm 1963, nhà toán học Roy Kerr tìm được nghiệm chính xác của phương trình Einstein: một ngôi sao chết, suy sụp vào bên trong do lực hấp dẫn của chính nó, do định luật bảo toàn động lượng sẽ quay nhanh hơn, và tạo thành một lỗ đen quay. Nghiệm của Roy Kerr cho thấy việc đào thoát tới một không gian khác thông qua lỗ sâu đục là khả thi về lý thuyết: lực ly tâm (hướng ra ngoài) do sự quay của hố đen sẽ cân bằng và triệt tiêu lực hấp dẫn (hút vào), và các sinh vật rơi vào miệng hố đen sẽ không bị xé tan xác nữa.


Lỗ đen là vô hình bởi nó hút tất cả ánh sáng vượt qua không quyển kỳ ảo quanh nó (hay còn gọi là chân trời sự kiện). Các nhà thiên văn phải tìm hố đen bằng cách xác định các đĩa bồi tích (accretion disk) tạo thành do các khí bồi đắp dần xung quanh hố đen.


Trước năm 1990, hố đen chỉ tồn tại trên lý thuyết cho đến năm 1994 kính viễn vọng Hubble tìm thấy bằng chứng rõ ràng về các hố đen siêu nặng “ẩn nấp” giữa các thiên hà. Các nhà thiên văn tin rằng, hầu hết các thiên hà, kể cả Ngân Hà của chúng ta, đều có hố đen ở trung tâm. Các hố đen đã được phát hiện, ngày nay đã tới hàng trăm. Tất cả các hố đen đều tự quay rất nhanh quanh chính mình.


Năm 1988, một học trò của John Wheeler, nhà vũ trụ học và vật lý hấp dẫn Kip Thorne đề xuất một ý tưởng xây dựng máy du hành thời gian. Ý tưởng này được Thorne tư vấn để Christopher Nolan xây dựng bộ phim giả tưởng rất thành công Interstellar. Trong bộ phim này, người cha sau khi vượt qua chân trời sự kiện của hố đen vẫn tiếp tục sống và tìm được cách gửi thông điệp về cho con gái của mình bằng cách sử dụng sóng hấp dẫn.


Năm 1962, hai nhà khoa học là Gertsenshtein và Pustovoit xuất bản một bài báo đề xuất các nguyên tắc dò tìm sóng hấp dẫn bước sóng dài bằng giao thoa kế.


Năm 1973, Kip Thorne ở học viện Caltech bắt đầu hành trình săn lùng sóng hấp dẫn của mình.


Năm 1984, Kip Thorne, Ronald Drever và Rainer Weiss thành lập ủy ban lâm thời để xây dựng dự án LIGO. Năm 2002, LIGO bắt đầu dò tìm sóng hấp dẫn. Năm 2015, phiên bản hiện đại hơn với tên gọi Advanced LIGO, đi vào hoạt động.


LIGO (Laser Interferometer Gravitational Wave Observatory – Trạm quan trắc sóng hấp dẫn giao thoa kế laser) là một thiết bị khổng lồ gồm hai đường ống dài khoảng 4km, nối với nhau hình chữ L. Trong mỗi ống có một chùm tia laser được chiếu liên tục. Hai chùm tia gặp nhau ở góc chữ L. Các sóng laser được tính toán sao  cho chúng triệt tiêu nhau và tạo nên vân giao thoa. Do hiện tượng phân cực, hai ống vuông góc với nhau nên chỉ có một ống sẽ bị sóng hấp dẫn đập vào. Khi sóng hấp dẫn đập vào một trong hai ống , chiều dài ống này sẽ bị co giãn khác với ống kia, gây ra nhiễu loạn phá vỡ cân bằng của hai chùm laser, và làm mất các vân giao thoa


Theo tính toán, để phát hiện sự va chạm của hai hố đen cách trái đất 300 triệu năm ánh sáng, LIGO có thể phải chờ đợi từ 1 đến 1000 năm. Cuối cùng, Advance LIGO phát hiện được sự va chạm của hai hố đen cách trái đất 1.3 tỷ năm, chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi được sửa chữa nâng cấp.


Giống các loại sóng khác, như sóng hấp dẫn có biên độ, tần số, bước sóng và tốc độ. Tốc độ của sóng hấp dẫn bằng tốc độ ánh sáng. Tần số của sóng hấp dẫn rất thấp (thấp tần) nên bước sóng của chúng rất dài, truyền tải năng lượng rất bé. Đây là lý do rất khó bắt được sóng hấp dẫn.


1.3 tỷ năm trước, ở một thiên hà rất xa xôi, có hai hố đen bị dính vào một quỹ đạo xoắn ốc, rồi ở khoảnh khắc cuối cùng chúng đâm sập vào nhau với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng. Vụ va chạm đã tạo ra một hố đen mới nặng bằng 62 lần khối lượng mặt trời, đồng thời phát ra một nguồn năng lượng khổng lồ và tinh khiết. Toàn bộ năng lượng ấy bức xạ vào vũ trụ chỉ trong trong chỉ khoảng 1 phần 10 giây. Năng lượng ấy làm biến dạng không gian và thời gian xung quanh vụ va chạm trong chớp mắt. Bởi vụ va chạm là của hai lỗ đen, nên năng lượng phát ra không phải là sóng ánh sáng, mà là sóng hấp dẫn.


Sóng hấp dẫn này truyền đi và làm co giãn không gian khi nó đi qua. Đó chính là không gian – thời gian trong vũ của Einstein.


Ngày 11 tháng 2 năm 2016, các nhà khoa học của LIGO công bố họ đã dò tìm được sóng hấp dẫn của một vụ sáp nhập hố đen cách chúng ta 1.3 tỷ năm ánh sáng (và cũng có nghĩa là sóng từ một vụ sáp nhập cách ngày nay 1.3 tỷ năm).


Ngày 15 tháng 6 năm 2016, LIGO công bố lần thứ hai dò được sóng hấp dẫn từ một vụ sáp nhập hố đen cách trái đất 1.4 tỷ năm ánh sáng.


Một nửa giải Nobel Vật Lý năm nay được trao cho Rainer Weiss, giáo sư tại đại học MIT và là một trong ba nhà vật lý sáng lập LIGO.


Nửa giải còn lại được trao cho Kip Thorne và Barry C. Barish.


Kip Thorne là giáo sư tại đại học Caltech (California Institute of

Technology) và cũng là thành viên sáng lập LIGO.


Barry C. Barish, giáo sư đại học Caltech, là giám đốc thứ hai của LIGO và là người nỗ lực xây dựng thành công và đưa LIGO vào hoạt động.


Rainer Weiss sinh ở Đức năm 1932. Năm 1939, gia đình ông đào thoát khỏi ách Phát Xít và đến nước Mỹ. Vài phút sau khi giải Nobel Vật lý được  công bố, ông trả lời các phóng viên qua điện thoại: “Thật là tuyệt. Tôi thấy rất ổn. Thậm chí tôi còn mặc quần áo sẵn sàng rồi đây.” Ông nói giải thưởng này là kết quả lao động của 1000 con người tham gia vào dự án LIGO, là dự án đã quan sát được sóng hấp dẫn, qua đó chứng minh được lý thuyết có tuổi đời một thế kỷ của Einstein.


Ronald Drever, giáo sư đại học Caltech, một trong ba sáng lập viên của LIGO mới qua đời tháng ba năm nay. Nếu giải Nobel được trao sớm thêm một năm có lẽ ông cũng là người được nhận giải.


Trong khoa học hiện đại, đóng góp của nhóm các nhà nghiên cứu cho thành tựu khoa học có tác động lớn hơn các đóng góp cá nhân. Gần đây có nhiều ý kiến chỉ trích cách giải Nobel được trao. Các nhà khoa học cho rằng giải Nobel Vật lý chỉ trao tối đa cho ba nhà khoa học như hiện nay không còn hợp lý nữa. Tất nhiên những người được giải vẫn xứng đáng, nhưng trên thực tế họ không làm việc đơn độc.


Phát biểu sau khi biết mình được trao giải Nobel, Kip Thorne nói: “Tôi đã hy vọng giải được trao cho cả nhóm LIGO, nhưng thay vì thế giải được trao cho ba chúng tôi.”


Phát hiện sóng hấp dẫn của LIGO còn chứng minh Einstein tiếp tục đúng ở một khía cạnh khác, khía cạnh lực hấp dẫn trong Thuyết tương đối rộng của ông. Lần đầu tiên sóng hấp dẫn được chứng minh với bằng chứng thực nghiệm của một hiện tượng xảy ra bên ngoài hệ mặt trời.


Phát hiện sóng hấp dẫn của LIGO lần đầu tiên giúp khoa học chứng minh trực tiếp bằng thực nghiệm được sự tồn tại của một cặp hố đen, vốn chỉ tồn tại trên lý thuyết.  Dữ liệu đo được còn giúp các nhà khoa học biết về hai hố đen đã tạo ra sóng: khối lượng của hố đen, vận tốc quỹ đạo, và thời điểm chúng đâm vào nhau. Có thể, dữ liệu ấy còn giúp giải thích các hố đen siêu nặng đã hình thành như thế nào ở tâm các thiên hà.


Người Hy Lạp cổ và người Do Thái cổ cùng tin rằng vũ trụ trật tự (cosmos) được sinh ra từ hỗn mang không có hình dạng.


Thánh Augustine, một nhà thần học xuất sắc của Hội Thánh ở thế kỷ thứ 4, có những chiêm nghiệm rất độc đáo về thời gian và không gian. Theo chiêm nghiệm của Thánh Augustine, Thượng Đế tồn tại bên ngoài thời gian mà con người nhận thức được. Thượng đế ở bên ngoài vũ trụ do chính ngài tạo ra, và ở bên ngoài thời gian của cái vũ trụ ấy. Thời gian của Thượng Đế là một cái gì đó vừa hiện tại vừa vĩnh hằng.


Quan điểm của Thánh Augustine đã đặt không gian với thời gian của vũ trụ vào chung trong một khái niệm, rất gần với một vũ trụ được dệt lưới (fabric) bằng không-thời gian của Einstein. Và ý tưởng của Thánh Augustine về một thượng đế đứng hoàn toàn bên ngoài không gian và thời gian của vũ trụ do chính ngài tạo ra cũng là một ý tưởng độc đáo và cấp tiến. Sau khi Einstein đặt những viên gạch đầu tiên cho ngành vũ trụ học hiện đại, ý tưởng ấy quay lại bằng sự màu nhiệm của khoa học.


*


Năm 1915, Einstein đưa ra lý thuyết mới về lực hấp dẫn, còn gọi là thuyết tương đối rộng: một vũ trụ “mới” hình thành. Trong vũ trụ ấy, khi con người quan sát ánh sáng của một ngôi sao cách trái đất một tỷ năm ánh sáng, thì đồng thời cũng là quan sát ánh sáng được phát đi từ một tỷ năm trước. Trong vũ trụ ấy, không gian và thời gian đã dệt vào nhau thành lưới không-thời gian (spacetime).


Năm 1921,nhà vật lý gốc Nga Alexander Friedmann khi giải các phương trình gốc của Einstein đã tìm ra nghiệm mà ngày nay được gọi là nghiệm Big Bang. Vũ trụ xuất hiện đột ngột và mạnh mẽ kinh khủng từ một trạng thái có độ nén vô hạn và năng lượng cực lớn. Tác động của vụ nổ Big Bang lan ra khắp vũ trụ theo không gian và thời gian, và tác động của nó còn tồn tại đến ngày nay.


Vũ trụ bao la được tuôn trào từ một điểm sau một vụ nổ là một ý tưởng rất khó hiểu với nhận thức thông thường. Hơn thế, khác với các vụ nổ bình thường, phải xảy ra ở đâu đó với thời gian và vị trí cụ thể trong không gian, vụ nổ Big Bang xảy ở một điểm hoàn toàn chưa có không gian và thời gian. Vị trí của vụ nổ ấy ở hiện tại chính là tất cả các điểm trong vũ trụ.


Toàn bộ vũ trụ rộng lớn ngày nay, ngày xưa đã ở cùng một chỗ.


Ở thời điểm Planck, 10-43 giây sau Big Bang, vũ trụ là là một mớ hỗn mang cực kỳ nóng, cỡ 1032 độ Kelvin. Đó là một khối plasma đồng chất, nóng bỏng, và có thể có nhiều hơn 3 chiều không gian. Chừng một phần trăm giây sau, vũ trụ mới nguội đi, còn khoảng 10 ngàn tỷ độ K, các hạt quark bắt đầu cụm lại để tạo ra proton và neutron. Một phần trăm giây sau nữa hạt nhân các nguyên tố nhẹ hình thành. Giai đoạn tổng hợp hạt nhân kéo dài vài trăm ngàn năm, rất dài với đời người nhưng chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi của vũ trụ. Vũ trụ đầy plasma của các hạt tích điện khiến các photon bị khuếch tán không thoát ra được. Khi nhiệt độ vũ trụ giảm xuống còn vài ngàn độ, các electron chuyển động chậm dần và lúc này nguyên tử mới bắt đầu hình thành.


Sau Big Bang khoảng 370 ngàn năm, nhiệt độ vũ trụ hạ xuống còn 3000 độ Kelvin, các electron và hạt nhân chuyển động đủ chậm để hình thành nguyên tử: electron bị trói vào quỹ đạo nguyên tử và hòa điện với các proton. Các photon nguyên thủy của Big Bang, không còn bị các hạt tích điện ngăn trở nữa, bắt đầu tràn ra và lấp đầy vũ trụ. Do vũ trụ giãn nở, mọi thứ giảm mật độ và nguội dần. Do photon luôn chuyển động với tốc độ ánh sáng nên khi nguội đi, tần số của nó cũng giảm dần. Ánh sáng của của vũ trụ nguyên thủy chuyển dần màu sắc, từ tím chuyển dần sang xang, vàng, đỏ, hồng ngoại và cuối cùng trở thành sóng vô tuyến.


Nhờ vào vệ tinh COBE và vệ tinh WMAP đã chụp được bức xạ nền sóng vô tuyến của vũ trụ, con người đã có thể nhìn xa được vào không gian, tới tận quá khứ, khi vũ trụ sơ sinh mới 370 ngàn năm tuổi.


Để nhìn xa hơn về thời điểm gần Big Bang hơn nữa, các nhà khoa học kỳ vọng những thiết bị dò sóng hấp dẫn như LIGO, có thể dò được nhưng sóng hấp dẫn nguyên thủy có từ thời điểm Big Bang.


Và có vẻ như với LIGO, họ đang tiến tới thành công.


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 06, 2017 06:44

October 1, 2017

Phim Vietnam War, ông Duẩn, ông Nhu, ông Giáp

Thế chiến thứ hai có một trận đánh cực kỳ dài và khốc liệt giữa liên quân phe trục do Phát xít Đức lãnh đạo và quân Liên Xô. Đó là trận Stalingrad. Trận đánh đẫm máu này làm phe Đức chết khoảng gần 1 triệu lính, bên Liên Xô chết khoảng hơn 1 triệu lính.


Nhận xét về phía ý thức hệ của trận đánh này, có người nói đây là trận đánh của phe Hegel cánh hữu (nước Đức theo chủ nghĩa phát xít) đánh nhau với Hegel cánh tả (nước Nga theo chủ nghĩa Stalin).


Đầu những năm 1960, cả ông Nhu và ông Duẩn đều hiểu nếu hai miền thực sự phải đối đầu bằng quân sự chính quy, thì Nam Việt Nam với đường lối cánh hữu nhuốm màu phát xít mới của ông Nhu sẽ phải đánh nhau bằng chiến tranh quy ước với Bắc Việt Nam lúc này đầy chất Stalin. Ông Nhu đi tới thỏa hiệp, bí mật gặp gỡ phe miền bắc để đàm phán, rồi bị Mỹ giật dây lật đổ và sát hại. Có thể xem bài này, search theo từ khóa Lou Conein để biết quá trình Mỹ dựng và lật đổ đệ nhất cộng hòa ở Nam Việt Nam, và nếu có thời gian xem bài này về ông Nhu.


Trong phim Vietnam War của Ken Burns, khoảng tập 5, sẽ thấy thời kỳ trước khi Diệm và Nhu bị lật đổ, ông Duẩn và quân đội của ông đã rất tin vào thành công của việc thống nhất hai miền bằng vũ trang trong tương lai rất gần. Điều này rất hiện thực, và có thể đó là lý do chính để ông Nhu bí mật đàm phán với miền bắc.


Tiếp theo, phim Vietnam War cho thấy cái chết của Diệm-Nhu, rồi cái chết của Kennedy, dẫn đến việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam năm 1965 (Diệm chống Mỹ đưa quân vào, Kennedy thì không mặn mà việc đưa quân sang, sau khi hai vị tổng thống này bị sát hại, Johnson đưa quân đến Việt Nam). Việc quân Mỹ vào Việt Nam đã làm đảo lộn kế hoạch của ông Duẩn. Trước một bàn cờ thế hoàn toàn mới, ông Duẩn đã buộc phải chơi những nước cờ hoàn toàn khác.


Trong tập 6, 7 và 8 của Vietnam War, những trận đánh của Lê Duẩn, mà đỉnh điểm là trận Mậu Thân và các trận tiểu Mậu Thân sau đó, đã dẫn đến hiệp định Paris. Những diễn biến này và tác động của nó đến Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, trừ trận Quảng Trị, được nói khá rõ trong phim. Có vẻ như nhìn từ phía Mỹ, trận Quảng Trị không liên quan nhiều đến đàm phán Paris, thay vào đó họ đề cao giá trị vụ dùng B-52 ném bom Hà Nội Noel 1972 nhiều hơn. Họ cho rằng nhờ vụ ném bom tàn khốc này mà phía Bắc Việt Nam quay lại ký hiệp định. (Phía Việt Nam lại cho rằng nhờ đánh Quảng Trị mà Mỹ xuống thang).


Schopenhauer là một người rất ghét Hegel. Schopenhauer đã đã từng bảo Hegel là dư luận viên ăn lương của nhà nước độc tài Phổ, từng bảo Hegel là thằng lăng nhăng não phẳng. Schopenhauer vùi dập lý thuyết “ý thức tập thể – collective consciousness” của Hegel, và đề cao Ý chí (Will) cá nhân. Nhưng ông Duẩn dường như dung hòa được cả hai luồng tư tưởng ấy.


Ý chí cá nhân của ông Ba Duẩn là thống nhất hai miền bằng vũ trang. Tiếng Việt hồi đó gọi là “quyết tâm”: Quyết tâm giải phóng miền nam thống nhất đất nước.


Và ông Ba Duẩn, bằng bàn tay sắt và phong cách tuyên truyền thô sơ nhưng kiên trì thông não, đã biến ý chí cá nhân của mình thành “ý thức tập thể” của toàn miền bắc.


Nhưng Schopenhauer cũng nói: “Man can do what he wants, but he cannot will what he wants.” Will ở đây là ý chí, là ham muốn. Đây là một lập luận về free will. Ông Duẩn có thể tự do làm những gì ông ấy muốn. Nhưng ông ấy không có tự do để chọn cái ông ấy muốn. Ông ấy, cho đến hôm nay ai cũng thấy,  đã tự mình làm nên lịch sử, nhưng ông ấy làm ở dưới những điều kiện lịch sử không phải do ông ấy chọn.


Ngay cả việc “chọn” bỏ hoạt động trực tiếp ở Miền Nam mà đi ra Hà Nội làm chính trị đỉnh cao cũng không phải tự ông Duẩn lựa chọn. Người chọn là ông Hồ. Anh Ba Paul Thành, người đi khắp thế giới đã chọn anh Ba Duẩn, người chủ yếu đi tù và hoạt động ở miền Nam. Anh Ba Paul Thành là nhân vật lịch sử có nhiều chuyện còn phải bàn, nhưng có một chuyện không cần phải bàn, đó là anh sử dụng người cực giỏi.


Năm 1957, Lê Duẩn được Hồ Chí Minh gọi từ Nam ra Bắc, rồi trở thành bí thư thứ nhất. Người Mỹ gần như không biết gì về cá nhân Lê Duẩn và vai trò của ông này trong chính quyền Bắc Việt Nam, cho đến khi Hồ Chí Minh qua đời.


Sau hiệp định Paris năm 1973, ông Duẩn thấy Miền Bắc không còn phải đánh nhau với quân đội Mỹ, một nhiệm vụ có lẽ tự ông cho rằng chỉ có ông mới làm được, ông bèn giao việc đánh nhau cho ông Giáp. Đoạn này phim Vietnam War chả hiểu có ý có tứ thế nào lại cứ bô bô nói ra. Thế là ông Giáp, người cả đời chưa vào đến miền nam (trong hồi ký của chính ông, ông kể mình mới đi đến nam trung bộ, hồi năm 1945, đã bị “bác” gọi ra), cầm quân miền bắc đánh nhau với quân miền nam. Một cuộc chiến mà trong phim Vietnam War nói là “nội chiến”. Ông Duẩn thật là kỳ tài, nhìn đủ xa để tránh hết một cuộc đổ vỏ về sau, mà đến nay ai cũng biết là một cuộc đổ vỏ vô cùng kinh khiếp.


Thế rồi Arthur Schopenhauer, triết gia bi quan của nước Đức thế kỷ 19 lại có lần nói: “không có bông hồng nào không có gai, nhưng rất nhiều cái gai không hề có hoa hồng – no rose without a thorn, but many a thorn without a rose.”


Chiến thắng cũng vậy, chiến thắng nào cũng có chết chóc, nhưng rất nhiều cái chết lại không có chiến thắng.


Cuối cùng thì ta vẫn phải tin vào điều Niels Bohr muốn nói: “Đối lập với một phát biểu chính xác là một phát biểu sai lầm. Nhưng đối lập với một chân lý/sự thực [truth] sâu xa [profound] có thể là một chân lý/sự thực sâu xa khác.”


Trong cuộc chiến mà lẽ ra tên gọi phải là Cuộc chiến tranh Đông Dương lần 2, lại có quá nhiều sự thực sâu sắc.


 


 


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 01, 2017 10:02

September 25, 2017

Phim Vietnam War của Burns và Novick

Nhà vật lý nguyên tử và vật lý lượng tử Niels Bohr có nói: “Đối lập với một phát biểu chính xác là một phát biểu sai lầm. Nhưng đối lập với một chân lý/sự thực [truth] sâu xa [profound] có thể là một chân lý/sự thực sâu xa khác.”


Phim Vietnam War của Burns và Novick nhắm đến khán giả, và có lẽ là khán giả trẻ, người Mỹ; nhưng không có lý gì mà người Việt, nhất là người Việt trẻ lại không nên xem.


Burns và Novick đều tương đối trẻ so với bộ phim. Burns sinh năm 1953, còn Novick sinh 1962. Khi họ trưởng thành thì chiến tranh Việt Nam đã kết thúc. Còn khán giả, tôi đoán, phần lớn khán giả của bộ phim này (cả Mỹ và Việt) đều trưởng thành sau khi Mỹ Việt đã bình thường hóa quan hệ hai nước.


Nhưng trẻ không có nghĩa là mất đi quyền truy tìm một sự thực sâu xa, về một cuộc chiến tranh (đã xa) đẫm máu, gây chia rẽ và đổ vỡ xã hội và lòng người. Và hơn hết, các sự thực sâu xa mà những người trẻ sẽ tìm ra, qua phim này và các tư liệu khác, sẽ đối lập nhau nhưng không triệt tiêu nhau. Với các khán giả Việt Nam, những sự thực trong phim này, dù chưa sâu xa lắm, cũng sẽ giúp các họ hiểu được thêm những gì cần hiểu.


Với cá nhân tôi, ba tập đầu của bộ phim, ngoại trừ nhạc khá hay,  thì phim ương đối xoàng. Chất lượng chỉ hơn phim VTV một tý, mà lại thấp thoáng mùi tuyên truyền của miền bắc (có lẽ là do vấn đề tư liệu, các nhà dựa vào nhiều tư liệu chính thống của Việt Nam) nên có những sai lệch không đáng có (thậm chí có chỗ sai rất ngớ ngẩn) với một bộ phim tài liệu.


Từ tập 4 trở đi thì hay hơn. Tập 6 và 7 tôi rất thích. Ai không có thời gian xem cả 10 tập phim này, có thể chỉ xem tập 6 và 7. Tập 6, nhạc phim cực hay. Còn tư liệu thì tàn khốc và đau lòng không thể nào tả được. Tập 6, và nhất là 7, sẽ cho khán giả Việt Nam nhìn sâu hơn vào chính trường Mỹ. Những chia rẽ, rối loạn trong chính đảng và xã hội Hoa Kỳ mà người Việt Nam mới gần đây được biết qua bầu cử mà Trump thắng, sẽ chả là gì so với năm cuối nhiệm kỳ của Johnson. Xem tập 7 xong khán giả còn lờ mờ hiểu tại sao Mỹ, với cách thực hành thực dụng kiểu bọn vay nặng lãi bất chấp đạo đức của Kissinger, đã bỏ Việt Nam nằm tênh hênh bên bờ biển để quay qua lén lút làm phi công lái máy bay Tàu Khựa.


Nói về điểm cộng, bộ phim này đã đánh giá (đề cao hơn) về vai trò của Lê Duẩn, về sách lược “giải phóng” miền Nam bằng vũ trang, và giá trị phải trả bằng rất nhiều máu của Mậu Thân trong “đại cục” của cuộc chiến.


Nói về điểm trừ, vì bộ phim có vẻ né tránh vai trò (lặng lẽ) của Mỹ ở Việt Nam sau 1945 nên họ đã bỏ qua việc Mỹ can thiệp vào các phe phái chính trị, tôn giáo ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1945 -1953. Nhiều lực lượng chính trị, và cả quân đội Việt Nam Cộng Hòa ra đời được là nhờ sự giúp đỡ của Mỹ. Phim hoàn toàn không nói đến việc này (tuy có nói loáng thoáng ở ngoài Bắc thì OSS giúp xây dựng quân đội Việt Minh, sau này là kẻ thù của họ). Và bởi vậy vai trò của quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong phim này rất mờ nhạt. Một cuộc chiến tranh, mà quân đội của một bên tham chiến, lại gần như không được nhắc đến, hoặc nhắc đến rất tiêu cực. Đây là điều vô cùng đáng tiếc. Đáng tiếc không chỉ cho những khán giả Việt Nam mà còn rất đáng tiếc với những khán giả Mỹ muốn hiểu hơn về Iraq, về Taliban, … tức là  những chiến trường và những kẻ thù khác mà Mỹ đã và đang tham chiến.


Nói về các sai sót, có nhiều sai sót nhỏ, nhưng cũng có sai sót lớn. Ví dụ sai sót khi cho rằng Albert Peter Dewey bị “giết nhầm”. Làm sao một sĩ quan Mỹ, đã từng gặp mặt trực tiếp các lãnh đạo cao cấp Việt Minh ở Sài Gòn, những người từng du học ở Pháp về như Phạm Ngọc Thạch, Dương Bạch Mai, Trần Văn Giàu, mà lại có thể bị “giết nhầm” được cơ chứ. Mà Dewey là sĩ quan Mỹ đầu tiên bị giết ở VN. Đến mức HCM phải gửi thư xin lỗi và hứa tìm xác (đến nay vẫn chưa tìm được). Đôi lúc tôi nghĩ, công viên Gia Định, nơi Dewey bị giết, chính quyền Việt Nam nên đổi tên thành công viên Dewey, để nhớ về nơi bắt đầu một cuộc chiến.


(Ai quan tâm về Dewey, có thể đọc thêm ở đây).


 


 


 


 


 


 


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 25, 2017 20:37

September 10, 2017

Màu rực rỡ của Lũng Luông

Cách nay hơn năm, đợt đó chuẩn bị khai trương công trình trường Lũng Luông, tôi cũng tham gia đoàn của Cơm Có Thịt đi lên Lũng Luông để “nghiệm thu” công trình. Lúc đó ảnh chụp ngôi trường này đã có trên youtube. Trước khi đi, bạn bè bảo: anh lên xem sao cái trường cho tiểu học mà làm màu lòe loẹt như mẫu giáo, lại còn làm ở mái.


Trường Lũng Luông nằm ở đỉnh một ngọn núi nhỏ. Chỗ đấy giống như đỉnh một quả đồi, khá bằng phẳng, tròn trịa. Từ trường có một vài đường mòn nhỏ tỏa ra thung lũng xung quanh, rồi ngược lên các triền núi bên cạnh. Học sinh đi theo các đường mòn đó đến trường. Leo theo các đường mòn đó, thi thoảng đứng lại, có thể nhìn xuống trường. Từ xa, và trên cao, có thể nhìn rõ cái mái trường “lòe loẹt” ấy.


Hôm đó trời mưa, anh Hào, là cái anh kiến trúc sư xây cái trường này, cứ cầm ô đi che cho thằng con trai tôi, mới 5 tuổi, hì hụi lội bùn đi theo các bác. Tôi hỏi anh Hào, sao anh làm cái mái màu sắc rực rỡ thế. Anh Hào bảo: Lúc xây trường này, mấy tháng liền mùa đông và mùa mưa phùn, cảnh vật ảm đạm lắm em ạ, anh quyết định làm cái mái như thế, nó như đốm lửa nhỏ giữa cảnh núi rừng mùa đông rét mướt.


Cái mái trường này, không phải sơn xanh phết đỏ lên tôn, mà là cái tôn tự nó có màu như thế. Theo như tôi hiểu thì tôn này là do bên Hoa Sen tài trợ, họ làm tôn và gửi từ nam ra cho anh Hào.


*


Dự án Lũng Luông tôi cho là một sự “tình cờ”. Hồi đó anh Châu nhận làm chủ tịch danh dự quỹ Cơm Có Thịt. Quỹ tổ chức một chuyến đi, có ba đoàn khác nhau cùng đi. Tôi bám càng đoàn của anh Châu và anh Vũ Hà Văn. Gọi là đoàn giáo sư. Hai đoàn còn lại một đoàn của anh Tuấn, và một đoàn lên tới Lũng Luông tôi mới biết là đoàn của cô Phượng. Cô Phượng tôi nhớ hôm đó không giống như trong ảnh hehehe, vì cô ăn mặc như sinh viên mới ra trường, đại khái quần cộc áo bỏ ngoài quần, đi giày thể thao, đội mũ, nhảy phắt một phát từ trên xe ô tô xuống đường.


Cái Lũng Luông này làm tôi rất ngạc nhiên, vì nó cách Hà Nội cỡ 100 km. Đi xoẹt phát là đến chân núi. Nhưng từ chân núi đi lên đến đỉnh, hồi đó, thật là vãi đái, đi có một đoạn ngắn là đến đỉnh núi, mà còn lâu hơn đi từ HN đến chân núi. Nó là con đường đá gần như là tự nhiên, lổn nhổn đá đất, lại còn dốc ngược. Đi một đoạn ngắn đầu tiên thì có con suối. Các xe nhỏ rụng hết, chỉ còn xe bán tải và xe hai cầu. Đi thêm đoạn nữa lại có con suối nữa, xe lại nằm lại. Mọi người phải lội qua suối (vì mưa nên nước to). Giày của các giáo sư toi sạch. Nên phải mượn dép tổ ong của một cái quán nước bên đường để đi bộ tiếp, xe thì lò dò bò theo sau.  Về sau hình ảnh anh Châu đi dép tổ ong trở nên nổi tiếng. Giáo sư Châu vốn kém nổi tiếng hơn đôi tổ ong thần thánh, qua việc này nổi ngang dép tổ ong hehehe.


*


Trên đỉnh núi là trường. Nó là “điểm trường” chứ không phải trường. Khác nhau thế nào tôi chưa rõ. Nhưng đúng là cái điểm lán thì đúng hơn. Trường có bốn cái lán. Cái lán to nhất thì làm lớp học kiêm chỗ các cháu học văn nghệ múa hát. Cái lán to bét thì là lớp học đơn thuần. Hai cái lán còn lại dựa vào nhau. Một lán là lớp học. Một lán chia đôi làm 2 phòng ngủ, các thầy ngủ một bên, các cô một bên.


Lý do phải ngủ: là vì đã đi lên đến trường là ở lại luôn, cuối tuần mới về với gia đình. Không thể đi lại hàng ngày vì quá mất thời gian.


Ngoài dạy học, các thày cô còn phải nấu cơm rửa bát và cho trẻ con ăn. Nói thì dễ nhưng rất khó, vì ở đó không có điện, không có nước (hứng nước giời vào cái bể nước), và không có cả sóng di động. Sóng duy nhất có là Viettel, và chỉ vài điểm trong trường là hứng được sóng. Các thầy cô kiếm cái xô, treo ở chỗ hứng sóng, rồi điện thoại của cả trường cho vào cái xô ấy.


Lúc đó chưa phải mùa đông, nếu là mùa đông, như anh Hào kể, thì kinh khủng thế nào. Gió cứ thổi qua vách lán, nghĩ đã thấy khiếp. Lại còn mong mưa để có nước ăn với đánh răng.


*


Nhưng mà con người thì hay. Các thầy các cô quý người, các em học sinh cũng vậy. Học sinh miền núi, cùng lớp nhưng tuổi vênh nhau, rồi có khi còn khác cả dân tộc. Ngoài học văn hóa, thì còn phải học nói tiếng Việt (hình như học vào tháng cuối hè). Mọi người ở trên núi chỉ biết “bác Tuấn”, còn thì chả biết “GS Châu” là ai. GS Vũ Hà Văn đương nhiên chả ai biết, chàng nhân cơ hội lu mờ này, ra sân đá bóng với các em.


*


Từ lúc này chắc anh Châu mới nảy ra ý định “làm cái gì đó”, thay vì “tiếp thêm thịt” cho các em. Về HN mới tổ chức buổi đi ăn cơm chay, mời anh Hào đến. Ăn xong thì anh Hào mời mọi người về văn phòng kiến trúc của anh đề giới thiệu những công trình anh đã làm. Anh Hào hôm đó tếu táo nói chuyện rất vui, có vẻ không giữ kẽ gì. Mãi đến tối mới gọi điện bảo: bỏ mẹ, con bé lúc chiều là cái Phượng con thủ tướng à, anh chả để ý gì toàn nói chuyện Kiên Giang.  Hehehehehehehehe.


Từ ý tưởng làm cái gì đó, rồi ra đến bản vẽ, rồi tiền bạc, rồi thi công, là quá trình dài. Anh Châu phải tổ chức dinner vài lần. Cũng có nhiều chuyện vui.


Có lần tôi đi dự, bị ho nên trước khi đi có uống thuốc ho, buồn ngủ rũ ra. Hôm đó trời rét căm căm, lại uống tí rượu, mọi người bàn chuyện còn mình ngủ gật. Hôm họp đó là chốt dự án, cô Phượng cũng họp. Ấn tượng của tôi là cô ấy ăn mặc như sĩ quan hồng quân. Cô ấy còn đập vào vai tôi: ơ, 5xu ngủ gật à. Trước đấy cô đã thổ lộ: em biết anh là tác giả “tư lộn cái lềnh” rồi nhé . Hehehe, Lũng Luông buồn cười vãi. Tôi cũng nhớ cô dặn anh Hào, xây trường em không yêu cầu gì nhiều, nhưng anh nhớ trồng phượng ở sân trường.


Có lần anh Châu bảo, anh cũng phải làm gì nữa để thêm vào. Thế là anh dịch cho Nhã Nam cuốn “Oscar và bà áo hồng”. Cuốn này rất thú vị, không nổi lềnh phềnh, nhưng dí dỏm kiểu Tây, và nhân văn sâu sắc. Tiền bán cuốn này, Nhã Nam trích ra để đưa vào quỹ Cơm có thịt cho Lũng Luông. Cho đến nay cuốn này vẫn bán tương đối ổn, vẫn có tiền trích ra. Hôm ra mắt sách này, bạn hoa hậu Thu Thảo xung phong tham gia. Bạn này bay từ Sài Gòn bay ra, hình như bên Nhã Nam mấy anh giai lơ tranh nhau ra sân bay đón.


Có lần anh Châu mở iphone ra hớn hở khoe một cái máy …đóng gạch hehehehe. Anh Hào quyết định xây Lũng Luông tối đa bằng vật liệu tự nhiên. Anh Hào nhờ ông bạn là kỹ sư bách khoa, chế cho cái máy đóng gạch bằng đất. Lấy đất ở đỉnh núi ép thành gạch luôn. Chỉ có điều trên Lũng Luông ít nước, đóng gạch tì toạch mãi mới đủ để xây trường. Chả bù cho anh em trên mạng, đóng gạch tí toét cả ngày, không ra trường, chỉ ra học sinh.


*


Lần đi nghiệm thu Lũng Luông, thì con đường đá đã được bê tông hóa, xe ô tô chạy dễ dàng được rồi, tuy vẫn có mấy chỗ quanh tay áo rất dốc, lái không khéo là bị tụt lùi. Có cả hai cầu bê tông đi qua hai con suối. Con đường này do một đại gia địa phương bỏ tiền ra làm hoàn toàn. Kiểu tự làm nên con đường bê tông dốc ngược ấy chỉ hết có đâu như 4 tỷ. Tiếc là tôi quên mất tên đại gia này. Vả lại, có lẽ hầu hết người dân đất nước này đều hay quên tên các nhà tài trợ. Chả thế mà ngày xưa xây cầu xây trường từ thiện người ta hay gọi luôn bằng tên nhà tài trợ, kiểu cầu Thị Nghè.


Con đường cũ đây, như trong ảnh!


[image error]


 


[image error]


[image error]


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 10, 2017 18:54

September 3, 2017

Khinh khí, nhiệt hạch

Hôm nay twitter tràn ngập tin Bắc Hàn thử thành công bom H.


Hôm nay Nhật Bản, Trung Quốc phát hiện (detect) được 2 cơn địa chấn nhân tạo (artificial earthquake) ở Bắc Hàn. Hai đợt động đất này cách nhau 8 phút. Cơn địa chấn thứ nhất có độ mạnh cấp độ 6.3 (6.3 magnitude).


Thế giới đã bỏ đơn vị đo (thứ nguyên) động đất cũ là Richter (đặt theo tên Charles F. Richter, người phát triển hệ đo sức mạnh của động đất này vào năm 1934). Hệ đo Richter (Richter Scale) không thể hiện chính xác độ mạnh của các cơn động đất lớn nên người ta nghĩ ra hệ đo động đất mà hiện nay thế giới đang sử dụng: Moment Magnitude Scale. Chữ cấp độ (magnitude) một thuật ngữ đã được dùng trong thiên văn học.


Cấp độ được tính theo logarith cơ số 10. Nghĩa là cứ tăng 1 cấp độ của thang đo, thì cường độ rung chấn mặt đất cao lên 10 lần. Tờ Wall Street Journal nói cơn địa chấn (động đất) nhân tạo ở Bắc Hàn hôm nay là Cấp độ 6.3, mạnh gấp 10 lần cơn địa chấn năm ngoái có Cấp độ 5.3 cũng do Bắc Hàn thử vũ khí hạt nhân.


Hạt Nhân, hay trước đây còn dịch là Hạch Tâm (Hạch = hạt, Tâm = nhân), là từ chữ Nuclear.


Vũ khí hạt nhân sử dụng năng lượng do các phản ứng liên quan đến hạt nhân của nguyên tử.


Lúc đầu công nghệ kém, người ta dùng năng lượng phân hạch (nuclear fission), tức là một hạt nhân nặng (nucleus of an atom ) phân chia (split) ra thành các hạt nhân nhẹ hơn, quá trình phân hạch này tạo ra năng lượng rất lớn. Quả bom ném xuống Nhật là bom phân hạch, vì thế gọi là bom A (A-bomb). A là viết tắt chữ Atom, tức là nguyên tử.


Sau đó công nghệ phát triển, người ta sử dụng năng lượng nhiệt hạch (thermonuclear), hoặc còn gọi là hợp hạch (nuclear fusion), tức là hai hoặc nhiều hơn hạt nhân nguyên tử (atomic nuclei) nhe hợp nhất với nhau để thành một hoặc vài hạt nhân nguyên tử (và hạt hạ nguyên tử: subatomic particle) nặng hơn; quá trình này giải phóng rất nhiều năng lượng. Bom Hydro (H-Bomb), còn được dịch là bom khinh khí (khinh=nhẹ, như khinh khí cầu), là vì bom này sử dụng công nghệ nhiệt hạch và sử dụng đồng vị nguyên tử hydro.


Điều thú vị là phân hạch và hợp hạch (nhiệt hạch) là các phản ứng hạt nhân trái ngược nhau, nhưng trong bom khinh khí lại có cả hai phản ứng này.


Trong một quả bom nhiệt hạch  (H-bomb) thường phải có một quả “bom” phân hạch (A-bomb) để tạo ra một vụ nổ sơ cấp. Năng lượng của vụ nổ sơ cấp sẽ kích hoạt vụ nổ thứ cấp sinh ra nhiều năng lượng hơn nữa. (Lý do là phản ứng hợp hạch – tổng hợp hạt nhân –  chỉ xảy ra ở điều kiện nhiệt độ cực kỳ cao trong khoảng thời gian đủ lâu, chỉ có năng lượng tạo ra từ một vụ nổ nguyên tử mới tạo ra được điều kiện như vậy).


Lò phản ứng hạt nhân nhiệt hạch, tiếng Anh là thermonuclear reactor, lớn nhất mà chúng ta từng biết, chính là Mặt trời. Năng lượng mà mặt trời, cũng như các ngôi sao cấp độ cao (high magnitude star), đang phát ra chính là năng lượng của phản ứng hạt nhân nhiệt hạch.


Quả bom nguyên tử (A bomb, phân hạch, nuclear fission) Mỹ ném xuống Nhật năm 1945. Khoảng 7 năm sau, năm 1952, Mỹ mới thử nghiệm thành công phản ứng nhiệt hạch (thermonuclear). Trung Quốc cũng làm được bom khinh khí (H-bomb, nuclear fusion) năm 1967. Nhưng để thu nhỏ phản ứng nhiệt hạch đủ để gắn làm đầu đạn hạt nhân cho tên lửa đạn đạo thì rất khó.


Vụ thử của Bắc Hàn hôm nay được coi là một bất ngờ, năm ngoái New York Times còn có bài rất dài phân tích Bắc Hàn không thể làm được việc này. Có khả năng đây sẽ là biến cố ngoại giao lớn đối với nước Mỹ nói chung và tổng thống Trump nói riêng. Ta hãy đợi xem Trump sẽ làm gì. Với những gì đang xảy ra ở Myanmar, Thái Lan, Bắc Hàn, và có thể sắp tới là trong lòng Trung Quốc nữa, rất có thể Việt Nam, nói đúng hơn là miền nam Việt Nam sẽ trở thành một nơi náo nhiệt trên bến dưới thuyền. Nhưng trước mắt, cần phải rút được cái gai ra khỏi mắt nước Đức.


 


 


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 03, 2017 02:44

August 18, 2017

Cách chúng ta mưu sự hành động và lối sống

Thành ngữ phương tây có câu “Man proposes, God disposes”, vốn được dịch từ chữ latin “Homo proponit, sed Deus disponit”, hay được dịch qua tiếng ta là “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.


Năm 1927, có một hội nghị về cơ học lượng tử ở Solvay. Đây là hội nghị vật lý có thể nói là quan trọng nhất cho đến nay, nó tụ họp các bộ óc lớn nhất mọi thời đại, từ Marie Curie, Einstein … đến nhóm các nhà vật lý trẻ đang ở độ tuổi hai mươi, và nhiều người trong nhóm trẻ này đoạt giải Nobel chỉ vài năm sau đó.


Bên lề hội nghị, các chàng trai trẻ này thảo luận với nhau về nhiều chuyện. Và đột nhiên họ rơi vào đề tài tôn giáo và khoa học.


Heisenberg, lúc này đã trở thành cha đẻ của cơ học lượng tử hiện đại, dù mới hăm sáu tuổi, nằm ở phe bảo vệ quan điểm bất-mâu-thuẫn của Max Planck và Einstein về tôn giáo và khoa học. Các diễn giải và lập luận của Heisenberg rất thuyết phục, dù rằng sau đó anh bị Dirac phản đối khá gay gắt. Một vài ý tóm tắt như sau.


Khoa học làm việc [deal] với thế giới vật chất và khách quan. Tôn giáo làm việc với thế giới của các giá trị [world of values].


Tôn giáo xem xét cái gì [what] cần phải tồn tại [to be], hay cái mà chúng ta cần phải làm, chứ không xem xét (về khách quan) cái gì đó (thực sự) là gì [what is].


Trong khoa học chúng ta quan tâm đến việc phát hiện [discover] cái gì là đúng [true], cái gì là sai [false]; còn trong tôn giáo chúng ta quan tâm đến cái gì là thiện [good] cái gì là ác [evil], cái gì là cao quý [noble] và cái gì là tầm thường [base].


Khoa học là nền tảng của công nghệ. Tôn giáo là nền tảng của luân thường đạo lý [ethics].


Xung đột giữa khoa học và tôn giáo, bắt đầu từ thế kỷ mười tám, dẫn đến những hiểu biết sai lầm, kết quả (của xung đột ấy) là vô nghĩa.


Khoa học và tôn giáo liên quan đến hai địa hạt với hai khía cạnh khách quan và chủ quan của thế giới.


Khoa học, là một phương cách [manner], mà trong đó chúng ta đối đầu và tranh luận về khía cạnh khách quan của hiện thực [reality]. Đồng thời, đức tin tôn giáo, là cách thể hiện các quyết định chủ quan vốn giúp chúng ta chọn ra được các tiêu chuẩn mà dựa vào các tiêu chuẩn ấy chúng ta mưu sự, trù tính để hành động và sống [standards by which we propose to act and live].


Nói chung chúng ta ra các quyết định này chiểu theo thái độ, quan điểm [attitude] của nhóm người mà chúng ta đang sống cùng, nhóm người đó có thể là gia đình, dân tộc, hay những người có chung nền văn hóa.


*

Dirac là một thanh niên người Anh lặng lẽ và hơi lập dị kiểu thông minh hơn người. Có lần anh đang giảng bài ở hội thảo, có một nhà khoa học nói “Tôi không hiểu cái công thức kia”. Dirac ngưng một chút rồi giảng tiếp. Người điều khiển phiên hội thảo nhắc Dirac: “Anh có định trả lời câu hỏi của anh kia không”. Dirac thản nhiên: “Ô, anh ta có hỏi đâu, anh ta khẳng định đấy chứ”.


*

Trong bài diễn từ đọc tại lễ nhận giải Nobel, Heisenberg lúc này mới hơn ba mươi tuổi có nhắc đến nguyên lý bất định nổi tiếng mang tên mình. Anh nói hệ thức bất định của mình, riêng mình nó đã cho thấy sự hiểu biết chính xác về một biến số này đồng thời loại trừ sự hiểu biết chính xác về một biến số khác.


*


Bertrand Russell viết rằng khoa học lý thuyết là để hiểu biết thế giới, còn khoa học thực hành là để thay đổi thế giới. Russell viết điều này khoảng năm 1943. Lúc đó thế giới khoa học đã có các thuyết tương đối của Einstein, đã có cơ học lượng tử hiện đại, và Mỹ đang hoàn thiện quả bom nguyên tử đầu tiên của loài người.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 18, 2017 23:14

July 16, 2017

Người làm toán, người làm lý, người làm tình (16+)

Người đàn ông làm toán khác người đàn ông không làm toán thế nào?


Khác ở chỗ “lên đỉnh”!


Đàn ông không làm toán, đỉnh là climax. Đàn ông làm toán, đỉnh là vertex.


Thế người làm vật lý làm gì?


Điệp viên đa mang Phạm Xuân Ẩn lúc còn trẻ hay nói đùa: “Tôi là giáo sư tình dục học.” Tuy nhiên đến nay món khoa học độc đáo bó tay không giải thích được hiện tượng multi-orgasm ở một số ít phụ nữ.


Không chấp nhận một hiện tượng siêu nhiên mà chỉ vài phụ nữ có, các nhà vật lý lý thuyết (thuyết dây) đề ra một thế giới multiverse (multi-universe hay meta-universe: đa vũ trụ). Trong cái thế giới đa vũ trụ ấy ấy, không chỉ có một “ta” mà có rất nhiều “ta” song song tồn tại.


Cùng một lúc có rất nhiều “ta” đang làm nhiều việc khác nhau trong các thế giới song song với nhau. Cùng lúc này có một ta đang làm toán, một ta đang làm vật lý, và rất nhiều ta khác đang làm tình như thỏ.


 


PS. Đây là chuyện tếu, nghĩ ra để mọi người đọc cho vui; và cùng chia vui với nhóm VED (Đối thoại giáo dục). Nhóm VED sau khi đã cử hai thành viên của mình là Ngô Bảo Châu, Vũ Hà Văn đi dự và có báo cáo ở Hội nghị toán học thế giới (ICM) vào các năm 2010, 2014, nay nhóm VED tiếp tục cử thành viên thứ ba của mình là Phạm Hữu Tiệp đi báo cáo tại ICM 2018.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 16, 2017 06:31

Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.