Nguyễn Phương Văn's Blog, page 14

October 21, 2016

Bob Dylan và Chim én

Bài viết cho TTCT số tuần này.


Hà Nội, thời Pháp thuộc, có những người hát xẩm bị mù, đi hát rong trên tàu điện. Trong Hà Nội thanh lịch, Hoàng Đạo Thúy có kể về một người hát xẩm đã hát rong những lời ca có nội dung cách mạng. Mật thám Pháp bắt, đánh, hỏi ai là người dạy hát. Người hát xẩm mù không nhìn thấy ai đã dạy hát cho mình.


*


Cuối tháng 7 năm 1979, giữa mùa hè khó khăn nhất của đất nước sau chiến tranh, tờ Tuổi Trẻ đi loạt bài về phân bón: “Vì mục tiêu 1.000.000 tấn phân cho ngoại thành” và “Hai lần đạt danh hiệu kiện tướng làm phân”.


Cũng trong số báo này, mục  Thường thức nghệ thuật có chuyên đề Về ca khúc chính trị. Trong đó có phóng sự “Liên hoan ca khúc chính trị lần thứ 9 tại Berlin (CHDC Đức)” và nhạc và lời một bài hát viết về liệt sĩ Lê Đình Chinh mới hy sinh vài tháng trước đó trong một trận đụng độ không chính thức với quân xâm lược Trung Quốc.


Khi nói về nguồn gốc và ảnh hưởng của các nghệ sĩ thế giới đến ca khúc chính trị Việt Nam, báo nhắc đến Bốp Dylan (Bob Dylan).  Bob Dylan, trong giai đoạn bùng nổ rực rỡ của Ca khúc chính trị Việt Nam ấy, luôn được nhắc đến như một ngôi sao nhạc Rốc Dân Ca (folk rock) người Mỹ.


*


Ca khúc chính trị là một loại hình nghệ thuật hơi đặc biệt, có gốc gác từ Đông Âu. Ở Việt Nam, nó là sự hòa trộn khá độc đáo của “nhạc trẻ” miền Nam trước 1975 và “nhạc nhẹ” của miền Bắc sau 1975.


Sau nhiều năm chỉ được nghe các bài có hình thức hùng tráng và nội dung đề tài lớn lao, Ca khúc chính trị mang đến cho giới trẻ hậu chiến những ca khúc mới. Không chỉ mới mẻ về hình thức, các ca khúc chính trị còn mới mẻ về tình cảm và nội dung: những rung động gần gũi của cái tôi với cuộc sống đương đại; và đặc biệt hơn, đó là suy nghĩ của chính tôi với những vấn đề xã hội hằng ngày.


*


Năm 1961, Bob Dylan đang học năm nhất đại học thì bỏ học và chuyển đến New York. Ở đây anh làm nghề nhạc công, chơi harmonica và đôi khi là piano cho các tụ điểm âm nhạc và cho phòng thu. Sau này nhớ lại anh cho biết đây là giai đoạn anh bắt đầu chịu ảnh hưởng của “tiếng nói của nhân văn và tinh thần dân tộc”.


Điều này giải thích tại sao Bob Dylan có nhiều bài hát cổ súy cho phong trào quyền công dân (civil right) ở Mỹ những năm 1960.


Những ca khúc nổi tiếng đầu tiên của Dylan được coi là những ca khúc phản kháng. Ca khúc “Blowin’ in the Wind” (1963) được viết dựa trên chất liệu một bản dân ca của nô lệ da đen (bản “No More Auction Block”) với lời ca mang nhiều câu hỏi trăn trở các vấn đề chính trị xã hội. Một ca khúc khác, cũng ghi âm năm 1963, bản “A Hard Rain’s a – Gonna Fall”, dựa trên chất liệu một bài dân ca tên là “Lord Randall” lại nói về vấn đề chạy đua vũ trang giữa các cường quốc.


Hai ca khúc này có thể dùng như một ví dụ cho phát ngôn chính thức của Ủy ban Nobel khi họ trao giải Nobel Văn học cho Bob Dylan năm nay. Về lời ca, có thể ví nó như những bài thơ viết theo thể độc thoại nội tâm, mà khi được hát lên,người nghe như bị “cuốn đi” theo “dòng ý thức”.


Sử dụng ngôn ngữ và hình thức của âm nhạc, mà là âm nhạc đậm chất folk, Bob Dylan mang đến cho khán giả của mình các tác phẩm ngôn ngữ. Anh hát những tác phẩm ngôn ngữ của mình thành lời cho các độc giả của mình nghe.


Ở một khía cạnh nào đó, Bob Dylan may mắn hơn James Joyce, William Faulkner, … ở chỗ anh có thể đàn và hát các sáng tác thơ-văn-xuôi theo thể loại stream of consciousness.  Bằng cách này, các “độc giả” bình dân dễ cảm nhận và thẩm thấu “văn chương” của Bob Dylan. Hay nói cách khác, văn và thơ của Dylan vì vậy ít kén độc giả hơn văn và thơ của Joyce, Faulkner hay Eliot.  Dylan còn may mắn hơn chính bản thân mình. Tập tiểu thuyết thơ-văn-xuôi  được viết theo phong cách “dòng ý thức” của anh, xuất bản năm 1971, có thể coi như một thất bại đáng xấu hổ.


Được truyền tải bằng các chất liệu âm nhạc, các sáng tạo ngôn ngữ của Bob Dylan, có thể ví như những tiểu thuyết hay trường ca siêu ngắn, đã được reo rắc đến hàng triệu triệu độc giả.


Trước Bob Dylan, không một nhà văn đoạt giải Nobel nào có tác phẩm được độc giả “đọc đi đọc lại” hàng trăm, hàng ngàn lần ở bất cứ góc nào trên thế giới.


Sau Bob Dylan, thế giới đã có những tác phẩm của một nhà văn đoạt giải Nobel mà để thưởng thức nó người ta chỉ cần cắm tai nghe vào và …nhắm mắt.


*


Trần Tiến thường ví mình với Sergei Vysotsky. Nhưng tôi thấy anh giống Bob Dylan nhiều hơn. Ở chiều ngược lại, nhạc sĩ Việt Nam giống Bob Dylan nhất, chính là Trần Tiến.


Không chỉ giống nhau về tài năng sử dụng chất liệu dân ca, sau Bob Dylan với các ca khúc “civil right” ở Mỹ khoảng 20 năm, những năm 1980 là giai đoạn Trần Tiến “du ca” với những ca khúc phản kháng của mình. Bob Dylan đứng dậy bỏ phòng thu The Ed Sullivan Show thay vì đồng ý kiểm duyệt ca khúc “Talkin John Birch Paranoid Blues”. Trần Tiến đang diễn Đối Thoại 87 thì phải bỏ trốn qua cửa sau nhà hát. Ca khúc “Trần Trụi 87” nói về nỗi đau của xã hội Việt Nam thời hậu chiến và tinh thần ái quốc đang ngày trở nên trống rỗng và mất đi ánh hào quang.


Giống như tiếng hát của Bob Dylan là lương tâm của thanh niên Mỹ thời phản chiến, tiếng hát của Trần Tiến là suy nghĩ về những vấn đề xã hội đương thời của những người lính trẻ đi qua chiến tranh .


Anh hát về những tay buôn và những cô bé đi qua hải quan; hát về những người thương binh trở về đồng ruộng và trường làng, anh hát về những cô thanh niên xung phong thiếu tình yêu.


Anh hát cả về nỗi đau và lòng căm thù trong các cuộc chiến biên giới ngắn ngủi.


Và trên hết, giống như Bob Dylan, anh gieo rắc vào tâm hồn và suy nghĩ của hàng triệu thanh niên một “ý thức” về thân phận những con người bình dân trên khắp đất nước này.  Những người cả đời chăm chỉ lao động, cống hiến, và hy sinh để rồi cuộc đời chẳng khác gì cái kim giây trên mặt đồng hồ: “Có mấy ai khi xem đồng hồ… hỏi giây”.


*


Bob Dylan vẫn tiếp tục đàn và hát trong Never Ending Tour. Trần Tiến đã rửa tay gác kiếm. Ca khúc chính trị nay không mấy ai còn nhớ. Nhạc trẻ ở Việt Nam bây giờ là một thể loại rất khác.


Một y định của Trần Tiết, viết những bài hát cho những người hát xẩm mù Hà Nội, chắc chưa bao giờ được thực hiện.


Có lẽ Trần Tiến, bằng linh cảm của một nghệ sĩ du ca thời hậu chiến, đã nhìn thấy một kết cục buồn của một dòng nhạc đậm đặc những suy nghĩ  về thời cuộc. Những bài hát sinh ra từ những vấn đề xã hội, mang hơi thở xã hội và tinh thần những người trẻ sống trong xã hội ấy, nay không còn đất sống.


Chúc mừng Nobel Văn học 2016 và Tạm biệt chim én!


PS:


Nhà tôi nhiều năm nay lúc nào cũng cố gắng mua thực phẩm ở chợ Tân Định mỗi sáng (thay vì mua ở siêu thị). Cũng nhiều năm nay nhà tôi chỉ sử dụng nước mắm truyền thống (không ngu gì mua mấy thứ chi cả núi tiền để quảng cáo trên TV đài báo suốt ngày). Thi thoảng cũng cố gắng gửi nước mắm này ra Bắc cho gia đình, bạn bè (gửi nước mắm khá mất công và kích rích). Và rủ rê thêm bạn bè ở SG dùng thử (đơn giản là mua tặng vài chai dùng thử).


Tôi nghĩ, nếu trong bữa cơm hằng ngày của hàng triệu gia đình ở Sài Gòn có sử dụng một chút các sản phẩm từ nông thôn, như nước mắm truyền thống, cà phê sạch và các sản phẩm tương tự, thì tức là hàng chục, hàng trăm ngàn cơ sở sản xuất ở nông thôn bán được hàng, hàng trăm ngàn người có thêm thu nhập (bao gồm cả lực lượng xe ôm đi giao nước mắm truyền thống.).


Những sản phẩm như nước mắm truyền thống thì nay dùng của nhà này, sang năm có thể đổi qua nhà khác. Không cần trung thành như uống Coca Cola hay nhậu Heineken.


Năm nay nhà tôi đang dùng sản phẩm của  gia đình người quen, nước mắm nhĩ Đông Hưng – Cam Ranh và một các lọa khác do người nhà gửi từ Rạch Giá lên (mỗi lần họ gửi của một nhà nào đó, kiểu nhà tự làm).


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 21, 2016 06:17

October 13, 2016

Mẹ Nấm

Hồi trước tôi rất ngạc nhiên khi có những người dùng FB với tên Bố Này Mẹ Kia. Sau mới biết đấy là kiểu gọi nhau của các phụ huynh có con nhỏ đi học mẫu giáo.


Báo Mỹ khi đưa tin về Mẹ Nấm bị bắt đã dịch tên Mẹ Nấm thành Mother Mushroom. Qua tiếng Anh, tên Mẹ Nấm trở nên rất ấn tượng, không còn chất bỉm sữa nữa. Thậm chí còn có tính biểu tượng. Cá đã chết và Nấm sẽ mọc như điên sau những cơn mưa.


Việc dịch tên theo nghĩa, ở VN là thường, kiểu Cầu Cổng Vàng, Tòa Bạch Ốc. Bên Tây cũng vậy. Bạn tôi làm cho Lãnh sự Mỹ hồi Năm Cam cũng nói họ dịch tên Năm Cam là Fifth Orange.  Tôi quên không hỏi bạn tôi họ dịch Tư Sang là gì.


Có một thủ lãnh sinh viên Hongkong tên là Nathan Lee (sinh 1993). Anh này là đồng đội của một sinh viên còn trẻ hơn nữa tên là Joshua Wong (sinh 1996). Hai anh này thành lập phong trào Scholarism. Tổ chức biểu tình. Và thành lập đảng chính trị Demosisto. Lúc trước Nathan Lee làm tổng thư ký đảng, sau đến lượt Joshua Wong. Nathan Lee mới đây trúng cử nghị viện Hongkong ở tuổi 23. Cùng ba nghị sĩ khác, anh đã biến thủ tục tuyên thệ ở nghị viện thành hành động có tính biểu tượng, chống bá quyền Trung Quốc.


Tên hai vị thanh niên đầu xanh  Nathan Lee và Joshua Wong khi chuyển qua tiếng Việt thì không dịch mà phiên Hán Việt. Tên tuổi (và cả hành động lẫn phát biểu chống Tàu của họ) thuộc loại “mà em lại thấy rất là Việt Nam”: La Quán Thông và Hoàng Chi Phong.


Trong khi đó ở nước ta, có vị đầu bạc nhìn rất đáng kính, mà mở miệng ra là “mà em lại thấy rất là Tàu Ô”.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 13, 2016 01:34

October 9, 2016

Dịch một chữ

Nhân vụ Trump bị lộ băng ghi âm nói chuyện đàn ông đàn bà, sờ mó phụ nữ, Giáo sư sặc tả Robert Reich viết về việc này trên twitter của ông: “…that tests our decency”.


Hôm trước có một người bạn gửi email, bảo là tay Trump bựa lắm anh ạ, anh Giáo sư Quốc Anh bạn anh còn phải lên tiếng trên FB, rằng những người bạn decent của anh ấy ở Mỹ đều không chịu nổi Trump. Tôi có hỏi lại là anh Quốc Anh có nói decent là gì không. Bạn kia lại lọ mọ đi đọc FB rồi về bảo: anh ấy dịch là “tử-tế”.


Tôi bèn hỏi học giả kiêm dịch giả tự do Tân Trần Quốc. Dù rất bận rộn với việc phiêu lưu thiên hạ để học rùng mình, Tân tiên sinh vẫn email trả lời: “Theo ý kẻ hậu sinh này, decent nên dịch là đứng-đắn”. Một lúc sau, tiên sinh bổ sung: “Nếu dùng với phái yếu, nên dịch là đoan-trang”.


Phải rồi, tử tế nghe rất chung chung, đã thế người tử tế với vợ mình, có khi lại không tử tế với vợ thằng hàng xóm. Nhưng đứng đắn và đoan trang nó khác hẳn, về mặt xã hội, nó dễ hình dung hơn.


Tôi viết thư hỏi Giáo sư Châu, xem có công thức toán nào để đo lường “decency” hay còn gọi là “đứng đắn, đoan trang”. Giáo sư Châu tuy đang rùng mình, cũng viết thư lại: “Đoan-trang thì toán nó chịu Xu ạ. Còn đứng-đắn thì cũng thế. Nhưng chắc chắn là những người đứng đắn như Bill Gates tối nào cũng rửa bát cho vợ. Các giáo sư Toán từ Yale đến Chicago cũng thế”.


Vụ rửa bát này hay phết. Đàn ông đứng đắn là phải rửa bát sau bữa tối ở nhà mình. Nhấn mạnh là nhà mình.  Đừng như ai kia, sáng sớm đã thọc vào bếp nhà người ta vạch tay vào chén bát rồi chê rửa chưa sạch.


(Bài này bốc phét đấy, chẳng qua là điếu văn cho Tin Khó Tin do bạn Đức Hoàng đẻ ra mà thôi).


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 09, 2016 21:17

October 1, 2016

Bên bỏ cuộc

Thuận “Khánh” đã bị bắt. Thanh “Giới” đang bị truy nã “quốc tế”. Hiếu Gió tiếp tục viết bài về Thanh Giới. Trong một bài viết, Hiếu Gió có nói về những lá phiếu trong kỳ thi đấu Olympics quốc gia mà phần kéo dài của nó đến nay chính là Paragame (paralympics) kỳ thú với cuộc chiến xì tin (xì tin tức, aka vinaleak).


Để góp vui, dưới đây là phân tích vỉa hè về việc bỏ phiếu. Việc trùng hợp của bờ-lóc và bờ-đời hoàn toàn chỉ là ngẫu nhiên.


Các cuộc bỏ phiếu để đề cử như thế, thường là bỏ phiếu kín.


Các ứng viên tự nghĩ mình có cơ hội thắng cử, thường sẽ tự bỏ phiếu cho chính mình. Điều này dẫn đến một số hệ quả đặc biệt.


Ứng viên có kết quả là số phiếu ít nhất. Ví dụ 2 phiếu. Thì sẽ có 1 phiếu của chính mình, và chỉ có 1 phiếu của ủy viên khác.


Ở chiều ngược lại, phiếu sẽ dồn vào 2 ứng viên sáng giá nhất.


Do nhóm bỏ phiếu rất nhỏ, chỉ hơn 10 người, cho nên việc thắng thua chỉ cách nhau đôi khi chỉ bằng 1 lá phiếu.


Có thể sẽ có một trường hợp đặc biệt. Một trong hai ứng viên sáng giá nhất, vì lí do bí ẩn nào đó, bỗng đột nhiên muốn thôi, và cố ý dồn phiếu cho đối thủ cạnh tranh trực tiếp của mình. Một mặt ứng viên này công khai xin rút, thậm chí có thể viết đơn rút. Các lá phiếu sẽ lập tức dồn về phía ứng viên còn lại. Mặt khác, để cho chắc ăn, khi bỏ phiếu kín, ứng viên xin rút này không tự bỏ phiếu cho mình. Hơn thế, ứng viên này bỏ phiếu cho đối thủ trực tiếp.  Thậm chí, lá phiếu bỏ cho đối thủ, ứng viên này còn ký tên mình lên đó.


Tất nhiên, với động tác này, tối thiểu ứng viên kia sẽ có thêm 2 lá phiếu, trong một cuộc đua mà hơn nhau 1 lá phiếu đã là thắng lợi.


Cái nhức não của olimpics kiểu này không phải là trước, hay trong khi thi đấu. Mà là sau thi đấu. Trong lúc sàn thi đấu đang nóng nhất, có người bất ngờ lạnh lẽo rút ra khỏi cuộc chơi.


Trong phim hành động Mỹ, luôn có màn cân não cuối cùng, hai bên gí súng vào đầu nhau chỉ nhăm nhe bóp cò trong không khí cực kỳ căng thẳng. Khán giả ngồi xem cũng vãi đái ra. Cái này gọi là Mexican Standoff. Nhưng phim Hongkong cảnh này còn kinh hơn, một bên biết mình có lợi thế hơn về số đạn, bèn rút đạn ra vứt con mẹ nó đi.


Cho nên, ở đời, không ai biết được gì đâu. Bên bên bỏ cuộc tự phế võ công vứt đạn bỏ đi rất có thể mới là bên kinh nhất.


 


 


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 01, 2016 18:20

Chữ Phúc

Bài này viết cho mục Phiếm Đàm của TTCT. Bài đã đăng tuần này.


*


Cuối hè năm ngoái ở L’Espace Hà Nội buổi nói chuyện khá đặc biệt. Hai diễn giả là hai nhà toán học đoạt giải Fields: Ngô Bảo Châu và  Cédric Villani.


Có một khán giả hỏi hai nhà toán học, một câu hỏi khá bình thường, nhưng dường như trong câu hỏi ấy có cả sự tự vấn. Khán giả ấy là một người đàn ông đứng tuổi. Anh cho biết mình vốn là dân chuyên toán. Khi trưởng thành và có gia đình, anh và các bạn anh đều nhận thấy dường như kiến thức toán mà mình học trong nhà trường gần như không được vận dụng mấy trong cuộc đời. Anh và bạn bè, bắt đầu trăn trở, rằng mình có nên bắt con cái, và bắt cả nền giáo dục hiện tại, bỏ những môn học ít có ứng dụng trong cuộc sống thường ngày như môn toán để học những môn mà cha mẹ thấy có ích hơn.


Anh Châu không trả lời trực tiếp vào câu hỏi. Phần trả lời của anh có một ý: cha mẹ thường mong con cái phải hơn mình, học hành rộng hơn, hiểu biết hơn, đi đến những chân trời xa hơn trong cuộc sống; nhưng cũng chính bố mẹ ấy lại chỉ muốn ép con cái học hành theo ý mình. Anh Cédric gật gù với ý này và chia sẻ thêm chuyện học hành và lựa chọn lối đi của các con anh.


Ở một khía cạnh khác, về sở thích học tập của trẻ em, anh Châu cũng có lần nhận xét: nhiều cha mẹ cả đời không nghe nhạc nhưng cứ cố ép con phải học dương cầm [dù bọn trẻ không thích học].


*


Tôi có một người anh ở Hà Nội, hai vợ chồng kinh doanh buôn bán, đầu tắt mặt tối quanh năm. Có lần anh bảo: “Nhiều nhà rất kỳ lạ, bố mẹ không bao giờ cầm cuốn sách mà cứ bắt con phải đọc sách. Vợ chồng anh có đọc sách đ’o đâu, nhưng từ lúc muốn con đọc sách, tối nào anh cũng kiếm mấy cuốn sách liên quan đến việc kinh doanh của mình ra ngồi đọc nghiêm túc, để thằng cu thấy bố nó đọc sách”.


*


Hồi trẻ tôi cũng có đi học. Có lần nhà trường mời giáo sư Dwight Perkins đến giảng về kinh tế Trung Quốc. Giáo sư Perkins giảng bài, thi thoảng viết lên bảng những chữ Trung Quốc có liên quan. Nhiều học viên rất ngạc nhiên khi ông giáo sư kinh tế Mỹ lại thạo chữ Hán như vậy.


Trong trường còn có một nghiên cứu viên người Mỹ, cũng đã từng làm việc nhiều năm ở Trung Quốc. Hôm bế giảng, tôi có tặng anh một cái đựng bút làm bằng ống tre. Ống đựng bút ấy có khắc bên hông một chữ Hán là chữ Phúc. Anh nghiên cứu viên người Mỹ nhìn chữ Phúc và nói bằng tiếng Anh: Chữ này là chữ Luck. Quả thực, bộ phim Phúc Lạc Hội có tên tiếng Anh là The Joy Luck Club.


*


Hồi lâu rồi tôi có đọc một bài báo về nước Nga, chắc vào quãng mới bắt đầu chuyển qua hậu Xô Viết. Bài báo ấy nói về việc tháp truyền hình Moscow bị hỏng. Người dân Moscow bức bối vì món ăn tinh thần quen thuộc của họ suốt nhiều năm bỗng bị gián đoạn . Nhưng thời gian bức bối rất ngắn, người dân nhanh chóng chuyển qua đọc sách, nghe nhạc, đi chơi. Và bỗng nhiên họ như tìm ra những chân trời mới. Mà thực ra là chân trời cũ, những chân trời bị công nghệ, hồi đó là truyền hình, làm cho biến mất.


*


Ở Việt Nam, suốt một thời gian dài, nhiều người dân nhìn ra thế giới xung quanh bằng VTV. Lâu dần, VTV dường như trở thành chân trời của họ. Thế rồi một ngày, internet, rồi mạng xã hội, mang đến cho người dân những chân trời mới.


Nhưng tất cả những chân trời công nghệ ấy, dù rộng lớn đến mấy, cũng không vượt qua được giới hạn của chính người sử dụng. Đó là trình độ và ngôn ngữ.


Chân trời sẽ xa biết bao nếu bạn vào internet mà đọc được tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Trung.


Và chân trời của đất nước này sẽ mở rộng thêm được nhiều biết bao, nếu như cứ các thế hệ sau có nhiều thêm những chuyên gia thông thạo tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Đức, tiếng Nga, những tiếng ở Trung Đông xa lạ, hay Nam Mỹ xa xôi …


Thế hệ con hơn thế hệ cha, thì nước nhà có Phúc.


*


Tôi có nhiều người quen, mấy chục năm vừa qua làm ăn khấm khá. Việc kinh doanh của họ và gia đình ngày càng phát đạt. Con cái học hành giỏi giang, đỗ đạt. Rồi đến lúc những đứa trẻ ấy chuẩn bị đi du học. Họ bảo tôi: “Tao chọn cho nó trường tốt ở Mỹ rồi. Tao cho nó học ngành này ngành kia. Học ngành đấy là để học xong nó về làm cho gia đình”.


Những đứa trẻ giỏi giang, gia đình có điều kiện, đi sang Mỹ để du học, thế là chúng đã đi đến được những chân trời xa hơn thế hệ bố mẹ của chúng (tức là chúng ta).


Nhưng mà, tại sao con mình đã có khả năng đi xa được đến thế, lại không cho chúng tự chọn những chân trời chúng thích và có khả năng. Sao không khuyến khích chúng đi thêm nữa, đến những chân trời xa hơn nữa. Như Elon Musk muốn xem chân trời Sao Hỏa.


Sao lại bắt chúng đi du học mà vẫn phải học những ngành do cha mẹ chọn, chỉ cốt trở về làm cho gia đình. Tương lai và hạnh phúc của con mình quan trọng hơn, hay tương lai doanh nghiệp của nhà mình quan trọng hơn?


Những người trẻ nhiều tài năng và đam mê, bị bố mẹ buộc phải quay về, sẽ lại sống trong những chân trời cũ rích mà cha mẹ mình đã sống phát chán ra rồi mà không biết.


Mà cứ như thế, thì thế hệ con chẳng bao giờ hơn thế hệ cha được.


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 01, 2016 05:21

September 23, 2016

Chuyện hòa giải

Trong ảnh là cảnh tử hình bằng máy chém ở Sài Gòn. Tất nhiên là rất lâu rồi. Thời Pháp.execution-justice-de-paix-charner


Cũng địa điểm này, mới gần đây, anh Huỳnh Ngọc Chênh tọa kháng một mình.


Nơi chính là đài phun nước trên đường Nguyễn Huệ.


***


Có một phim tài liệu tên là Watch Me. Phim tài liệu kể  về  nhạc trưởng Yoshikazu Fukumura người Nhật tới Hà Nội năm 1992 để dựng bản giao hưởng số 5 của Tchaikovski. Đây là buổi hòa nhạc, mà nhiều người, trong đó có tôi, lần đầu tiên được nghe “giao hưởng” ở Nhà Hát Lớn.


Trong phim có một đoạn ngắn, các nhạc công đi vào Sài Gòn để biểu diễn. Họ trọ trên một khách sạn cao tầng. Nếu tôi không nhầm, cũng quãng thời gian này có vụ án Pierre Tân nổi tiếng. Xảy ra đúng ở cái khách sạn cao tầng ấy (Century).


Quãng năm 1996, tôi có vô tình gặp hai anh bị bắt trong vụ án này. Một anh bị bắt vì thiết kế giấy mời cho bữa tiệc của Pierre Tân. Anh còn lại khi thấy bạn mình bị bắt, chỉ nói đổng một câu: “không có văn hóa đồi trụy, chỉ có con người đồi trụy”, thế là cũng bị bắt luôn. 


Trong vài giây ngắn ngủi, trong bộ phim Watch Me, máy quay lướt  từ tầng cao của khách sạn qua nóc tòa nhà phía bên kia đường.  Đó là tòa nhà Tòa Hòa Giải – Justice de Paix.


***


Tòa hòa giải nằm trên đại lộ Charner, đại lộ chính của thành phố Sài Gòn, nay là Nguyễn Huệ. Đầu đường là bờ sông Sài Gòn (Quai de Commerce), cuối đường là tòa nhà Ủy ban (Hôtel de Ville).


Cái chỗ chém người bằng máy chém trong ảnh trên, là ở ngay trước Tòa Hòa giải.


***


Cái nhà Hòa giải ấy nay không còn nữa.


Thay vào đó là tòa tháp Sun Wah Tower.


Cái đồng hồ nổi tiếng đứng trước Sun Wah, đúng cái chỗ để máy chém mỗi lần hạ xuống là máu phun của ngày xưa, cũng không còn nữa. Thay vào đó là đài phun nước.


Có một hôm trưa nắng và không phun nước. Có anh Chênh một mình ra ngồi ở đấy.


 


Sound of Silence


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 23, 2016 02:39

September 14, 2016

Nabokov, Hiếu Gió, và chuyện … lêu lêu

Mọi sự kiện đều có câu chuyện đằng sau. Câu chuyện có thể đơn giản hơn ta nghĩ. Hoặc phức tạp hơn ta nghĩ rất nhiều.


Ngày trước và ngay cả vào đầu thời kỳ đổi mới, quyền uy của Đảng trưởng là vãi đái. Nếu cần xử lý một ai đó, dù là bí thư tỉnh, bộ trưởng, tướng lĩnh, tầm cỡ đến thế nào đi chăng nữa, ông Ba Duẩn chỉ lấy ngón út búng nhẹ một cái, là ngay lập tức ra đi.


Dạng nhà thơ nửa mùa đi làm chính trị gia chìa vôi như Tố Hữu mà còn thét ra lửa: Bắt nó [Trần Dần] về đây.


Mười Cúc bí thư của Đổi mới thích thì cởi trói, hết thích là trói lại cứ như không. Không phải trói một người, mà trói cả xã hội.


Thế mà giờ đây, một hệ thống to đùng với đầy đủ xe tăng đại bác và an ninh rải rác khắp nơi, lại không di nổi một quan chức thuộc loại nhãi ranh trong hệ thống.


Đã thế, anh chàng nhãi nhép ấy, lại còn lêu lêu từ quan thầy đến quan bác, quan ông. Vãi chưởng. Cả hệ thống đứng hình chỉ vì một con ốc bé tí bị trượt ren.


Con ốc ấy là Omen?


 


***


Vladimir Nabokov, tác giả của Lolita rất rối rắm kiểu đánh đố bạn đọc, nấp dưới cái vỏ tiểu thuyết ái tình kiểu ấu dâm, là vô số các bài toán đố kiểu mind game.


Truyện ngắn của ông này cũng vậy.


Trong đó có một truyện ngắn rất đẹp, và rất ngắn. Tên là “Signs and Symbols”. Bản tiếng Anh đăng trên New Yorker năm 1948 ở đây. Bản tiếng Việt, kỳ lạ thay, đến năm nay mới xuất hiện ở Việt Nam, có thể đọc bản dịch ấy ở đây.


Bản tiếng Anh trên New Yorker có tên “Symbols and Signs”. Nabokov sau dứt khoát đổi lại là Signs and Symbols. Sign là cái phải phát ra trước. Đánh ruồi không phải ra sign. Nhưng động tác đánh trượt sẽ là Sign.


Nabokov rất ghét Freud, nên trong khoảng 2/3 đầu của truyện, ông bày ra những thứ bọn thích Freud sẽ rất thích và sẵn sàng bị dắt mũi. Bị sập vào những cái bẫy tâm-phân-học kiểu Freud/Jung mà Nabokov bày sẵn, người đọc dễ dàng bỏ qua những sign rất có ích trong việc diễn giải và hiểu câu chuyện: tàu điện chết máy giữa hai ga, đứa con tự sát hụt, trời mưa, con chim sẻ ướt, ông bố gốc Do Thái ở Châu Âu, …


Những cái sign ấy, nếu khéo léo tránh bẫy cũng không quá khó để hiểu. Độ khó hiểu của nó, chưa chắc đã bằng: Đây là thiên đường của scooter, thưa ngài tổng thống.


Đoạn cuối, rất ngắn, chi chít symbol.  Nhưng lại chỉ có một cách giải.


Cuộc điện thoại gọi nhầm: 2 cuộc đầu. Bà vợ giải thích là quay số (trên cái dial của điện thoại ngày xưa) nhầm “số 0” và “chữ O”.


Số 0 trong Arab nghĩa là Cipher (mã hóa).


Chữ O tương đương với số 6 trên dial điện thoại. Gọi nhầm 2 lần là 66. Đến cuộc goi thứ 3 thì tác giả dừng lại, để ngỏ cái kết.


Nếu vẫn là cuộc gọi nhầm, thì là 666, số của quỷ satan. Ông bố Do Thái phải chăng có một kế hoạch hắc ám, với các sign là “giấu các con dao vào ngăn kéo”, và “ngắm vào tách trà và những cái lọ nhỏ”?


Nếu không phải cuộc gọi nhầm, giả sử là cuộc gọi từ nhà thương điên, phải chăng đứa con lần này tự sát mà không thất bại?


 


***


Thanh niên Hà Nội thời chuyển đổi thoát khỏi bao cấp (đổi mới) và chuyển qua hội nhập, rất quen thuộc với những góc phố đen đỏ lẫn lộn, chó sói và cừu trong ánh sáng nhá nhem. Những quán nước chè vỉa hè, với những đám xóc đĩa. Những thanh niên gày gò da tái, với “gò” dưới chân, “ổi tàu” trên đầu, và “lê lá lúa” đằng sau đít. Những điếu thuốc Sông-Cầu nát bét trong túi áo “bay”. Những cái bật lửa xăng hôi hám.


Những thanh niên ấy, thấm đẫm văn hóa của không gian hẹp, cả ngã tư mênh mông mà chỉ mình mình bị dồn vào góc phố.


Đấy là cái thời điểm: “Nhất là bét”.


 


***


Cách đây cũng rất lâu rồi, tôi ra sân bay Nội Bài hơi muộn. Nhân viên ở quầy thủ tục ghi vào vé: muộn 5 phút. Thế là phải đi ra quầy stand-by lấy vé chuyến sau. Đang xếp hàng thì Hiếu Gió vỗ vai.


Tôi hỏi: “Mày đi đâu đấy?”. Hiếu bảo: “Tao đang đi ngoài đường thì anh em trong Sài Gòn gọi, bảo mai Điếu Cày ra, tao vào để còn có đại diện anh em Hà Nội đón Điếu Cày. Tao gửi luôn xe ở Việt Đức rồi đi xe buýt ra đây luôn.”


Tôi bảo: “Làm đ’o có chuyện đấy. Điếu Cày có mà được thả kứt”. Hiếu bảo: “Đm, mày đ’o biết luật, mai là hết án, chắc chắn nó phải thả, tao phải vào đón”.


Một lúc sau tôi có vé, trước Hiếu, thế mới tài.


Đấy là lần cuối cùng tôi gặp Hiếu.


Thế mà bây giờ, chẳng khác gì Lolita hay con chim sẻ ướt lông của Nabokov, Hiếu đang nổi còn hơn mọi symbol của thời đại mới.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 14, 2016 00:51

September 5, 2016

Gọi điện cho MÈO

Freddie Mercury là một người yêu mèo. Rất yêu.


Mỗi lần đi diễn xa nhà, anh thường gọi điện về nhà cho con mèo của mình. Trợ lý và cũng là người bạn lâu năm của anh, tên là Mary Austin, sẽ bế con mèo lên và đưa điện thoại cho nó nghe. Ngày ấy là điện thoại thường. Chưa có facetime như bây giờ.


Freddie là thủ lĩnh nhóm Queen. Anh chết vì HIV. Khi anh chết chúng tôi đang học đại học năm nhất (1991). Bạn tôi nghe BBC tiếng Việt, đến lớp nói Freddie chết rồi. Hồi đó nước ta chưa mở cửa, rất ít kênh thông tin với phương tây. Nhưng bọn tôi vẫn xoay xở để có được băng cassette của Queen, để nghe “Bycycle Race”, như là lời từ biệt tới Freddie:


“I don’t wanna be a candidate

For Vietnam or Watergate

‘Cause all I want to do is


Bicycle bicycle bicycle

I want to ride my bicycle, bicycle (c’mon), bicycle”


Giờ thì ở Việt Nam, đi xe đạp là mốt rồi.


Freddie là người mà bây giờ gọi là LGBT. Nhưng hồi đó anh ấy giấu. Tất nhiên là giấu với công chúng, còn bạn bè thân hữu thì biết.


Có lần đang đi diễn ở Mỹ thì biết tin bạn trai của mình, tên là Tony Bastin đi chơi với thằng khác, Freddie mua vé cho Tony qua Mỹ, diễn xong đi đến gặp, chia tay, rồi mua vé chuyến bay khác tống anh này về UK. Nhưng vẫn giữ lại con mèo của Tony. Con mèo này tên là Oscar.


Yêu mèo, đến như thế là hết mực. Hơn ở Việt Nam người ta yêu người hehe.


Hôm hay The Economist có bài về Bohemian Rhapsody, bài rất thú: http://www.economist.com/blogs/prospe...


 


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 05, 2016 20:58

August 23, 2016

Trái đất một vòng tròn (tiếp)

Phần 1.


Phần 2.


Bạn Đông của “sĩ gái luận” trong phần trước của bài viết đã nhận ra chính mình, rồi ra tôi qua bài viết trên blog. Chúng tôi gặp lại nhau ở Sài Gòn tuần trước, lần gặp đầu tiên kể từ đầu năm lớp 6.


Lần cuối tôi nghe tin về Đông là lúc tôi học cuối cấp 3. Năm đó là năm Trung Quốc xảy ra sự kiện Thiên An Môn. Đông viết lên bảng tin của trường những câu khẩu hiệu mời gọi học sinh noi gương sinh viên Thiên An Môn. Cứ bị xóa, lại viết. Cho đến khi bị công an bắt. Rồi tí nữa thì không được thi đại học.


Năm đó tôi đang học Chuyên lý của Đại học Tổng hợp. Thầy Chỉnh dạy văn, không hiểu sao lại kể chuyện Thiên An Môn trên lớp. Kể cả chuyện xe tăng cán lên sinh viên rồi xe vòi rồng đi sau rửa máu.


Gặp lại nhau ở quán bia bờ kè, chúng tôi gọi Đông là Hoàng Chí Phong Hụt. Đông bảo hồi đó mình có biết gì đâu, chẳng qua là rất chăm đọc báo Nhân Dân và báo Hà Sơn Bình.


Tỉnh Hà Sơn Bình, là ba tỉnh ghép lại: Hà Đông, Sơn Tây và Hòa Bình. Tỉnh này có Xuân Mai, một thành phố được xây lên để làm thủ đô mới, sau bỏ phế. Hà Sơn Bình sau tách ra thành Hà Tây và Hòa Bình. Rồi Hà Tây sau này nhập vào thành Hà Nội mới.


***


Cái gọi là “Đổi mới” bắt đầu từ năm 1986 nhưng gần 10 năm sau Việt Nam mới hội nhập trở lại với khu vực (năm 1995 ra nhập Asean). Cũng thời gian này tổng thống Bill Clinton bãi bỏ cấm vận Việt Nam (1994) và bình thường hóa quan hệ Mỹ Việt (1995).


Tôi còn nhớ khi học Macroeconomics, giáo trình của Mankiw, đến bài “Small and Open Economy – Nền kinh tế mở nhỏ”, có anh đứng lên hỏi tại sao lại chỉ “Mở nhỏ”. Trợ giảng hôm đó là anh Vũ Tú rất bối rối, phải hỏi lại: “Có phải ý anh là mở he hé không?”.


Đó là năm 2000. Năm mà cả thế giới chuyển từ thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác. Bọn tôi tụ tập đón thời khắc vĩ đại mà nhợt nhạt ấy ở một căn phòng tôi thuê trên đường Pasteur, gần sáng còn ăn mì gói vì đói.


Hơi buồn cười nhưng công nhận “mở he hé” lại rất đúng với Việt Nam ở cái giai đoạn chuyển giao thiên niên kỷ ấy. Gọi là hội nhập nhưng thò vào rất ít. Vừa đéo vừa run, các cụ bảo thế. Sướng nửa vời mà sợ cả vời. Khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 làm Châu Á lao đao, Thailand tí chết, Malaysia ngáp lên ngáp xuống. Nhưng Việt Nam không sao, thật là tự hào, lãnh đạo nước ta quả là sáng suốt.


Câu chuyện phá giá đồng baht của Thailand, câu chuyện Hội đồng tiền tệ Hongkong chiến đấu bảo vệ nội tệ, đều được đưa vào bài giảng của môn Development Finance. Hoàn toàn học chay, vì Việt Nam lúc đó chưa có thị trường tài chính (ngay cả bây giờ cũng chưa có thị trường phái sinh).


Cuối môn Development Finance, có anh đứng lên hỏi thầy giáo là Giáo sư David Dapice, rằng nước ta (tức là nước nam, chứ không phải nước Mỹ của thầy) đã hội nhập tài chính sâu thế nào rồi. Thầy Dapice bảo còn vẫn còn tài khoản vốn nữa. Nghĩa là các anh còn để ngoài nguyên cái cán.


Đàn ông với lại đàn bà, ai cũng thích hội nhập sâu lút cán. Lãnh đạo Việt Nam lúc đó thì không. Rất có thể họ chính là những lãnh đạo đầu tiên thuộc loại lãnh đạo thái giám mà đỉnh cao là tay gì già già đi thong thả nói ề à ngay cả khi quốc gia lâm nguy nhất. Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách, còn thái giám thì không.


Chúng tôi còn được đi nghe Joseph Stigliz, lúc này vẫn chưa giật giải Nobel kinh tế, nói về thành tích cứu các nước Châu Á khỏi khủng hoảng. Tôi vẫn còn nhớ thái độ diễu cợt và giọng nói khào khào của Stigliz khi ông này chê đường lối của IMF .


Hàn Quốc, Malaysia, … đã vượt qua khủng hoảng tài chính 1997 bằng các cải cách sâu rộng và đau đớn thế nào, rồi họ đã vươn lên đẳng cấp thế giới ra sao. Những thứ ấy ngày nay ai cũng thấy rõ.


Còn Việt Nam miễn nhiễm thế nào, chế độ an toàn ra sao, nhân dân cần lao thế nào, nay ai cũng  rõ.


Thậm chí từ năm 1961, Ngô Đình Nhu cũng đã nhìn thấy rõ cái tương lai này. Mọi mong muốn của Ngô Đình Nhu có thể gói gọn trong một câu, muốn nước Việt tự cường, không sợ Tàu, không sợ nghèo, chỉ có con đường hội nhập.


***


Ngay cả bây giờ, Việt Nam cũng chỉ là nền kinh tế nhỏ, nội lực yếu ớt, pháp lý lăng nhăng, chính quyền tham nhũng. Sau hội nhập, tăng trưởng của Việt Nam phần nhiều là nhờ ơn thế giới. Kinh tế thế giới ăn nên làm ra, Việt nam cũng khấm khá. Kinh tế thế giới hắt hơi sổ mũi, kinh tế nước nhà lao đao.


Mười năm đầu hội nhập  là giai đoạn của hai thủ tướng Kiệt và Khải. Quy mô nền kinh tế rất bé, hội nhập nông, chính trị ngáo ngơ, ngoại giao ngơ ngáo. Thị trường chứng khoán chưa có. Hệ thống ngân hàng thô sơ. Thống đốc ngân hàng chỉ là ông bộ trường bé tí, xếp thứ mười mấy từ trên xuống trong nội các do thủ tướng đứng đầu, không oai hùng một cõi như chủ tịch Fed bên Mỹ.


Đến thời thống đốc Lê Đức Thúy, vị trí này mới bắt đầu có giá trị. Chắc nhiều người còn nhớ lần đầu tiên thống đốc Thúy xuất hiện ở ngân hàng ACB  để trấn an khách hàng, không để rút tiền ào ạt. Đó là cũng là thời của thủ tướng Dũng. Rất thú vị, ông thủ tướng này khi còn là phó thủ tướng, lại là thống đốc ngân hàng.


Thủ tướng Dũng làm thủ tướng đúng vào lúc đà đi lên của kinh tế Mỹ, Nhật và thế giới, mà đỉnh cao là triều đại Bill Clinton vàng son, có dấu hiệu chững lại. Sau khủng hoảng tài chính 2008-2009, kinh tế thế giới đi xuống, bắt đầu đặt dấu chấm hết cho chủ nghĩa toàn cầu và chủ nghĩa Tân tự do.


Trong lúc đó, do bỏ lỡ cơ hội từ đổi mới đến hội nhập, Việt Nam vẫn tiếp tục là nền kinh tế nhỏ và yếu. Không chỉ mất đà phát triển do suy thoái kinh tế thế giới, mà còn bị cuốn vào cuộc chạy đua vũ trang, mua một đống tàu ngầm, máy bay tên lửa, chỉ cốt phòng ngừa anh bạn phương bắc nơi chôn rau cắt rốn của Đảng ta.


***


Khi tôi nghe Stigliz nói chuyện, vào quãng 1999-2000, thì các nền kinh tế Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia đang là các câu chuyện thần kỳ của châu Á. Các con rồng con cọp Châu Á.


Kể từ năm 1982, khi nhà kinh tế đoạt giải Nobel tên là Milton Freeman, ca khúc khải hoàn cho chủ nghĩa Tân tự do, bằng cách gọi Chile là một “economic miracle” thì đến những năm cuối 199x đầu 200x người ta mới lại thấy những sự thần kỳ kinh tế mới.


Chính sách kinh tế tân tự do (neoliberal agenda) có thể gói gọn trong vài dòng đơn giản, rất liên quan đến hội nhập và cải cách sâu sắc về thể chế. Thứ nhất là tăng cường cạnh tranh, bằng cách bãi bỏ tối đa các điều luật, đồng thời mở cửa thị trường nội địa (đặc biệt là mở cửa thị trường tài chính) cho các công ty nước ngoài. Thứ hai là thu hẹp vai trò của nhà nước (chính phủ nhỏ) thông qua tư nhân hóa, cộng với thu nhỏ khả năng chi tiêu chính phủ, không cho thâm hụt ngân sách và gia tăng nợ công.


Việc dũng cảm hội nhập, ăn chưởng khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, dũng cảm cải cách mạnh mẽ và đau đớn để vượt qua khủng hoảng, đã mang đến cho, ví dụ Hàn Quốc, những phần thưởng lớn lao, mà tất nhiên Việt Nam luôn là kẻ đi nhầm chuyến tàu không bao giờ có được.


Vốn đầu tư nước ngoài, cùng với nó là công nghệ và bí quyết (know-how) đã chảy vào những chỗ như Hàn Quốc. Tư hữu hóa đã làm bớt gánh nặng ngân sách chính phủ, và làm tăng tính giám sát.Tự do hóa tài khoản vốn, khắc khổ về ngân sách (đặc biệt là Malaysia với thủ tướng Mahathir). Tất cả đã làm các nước này “hóa rồng” trong kỷ nguyên mà ngoại thương toàn cầu, và dần dần là chủ nghĩa toàn cầu hóa lên ngôi. Hàn Quốc bây giờ thế nào, đến các bạn teen còn biết.


***


Thế mà mới đây, Joseph Stigliz tuyên bố “Chủ nghĩa Tân tự do đã chết, cả ở các nước  phát triển lẫn các nước đang phát triển”.


Chủ nghĩa Tân tự do, chính là ý thức hệ nấp dưới các hình thái chính sách kinh tế, trỗi dậy từ những năm cuối 197x đầu 198x. Hai nhà vô địch của Tân tự do là thủ tướng Anh Thatcher và tổng thống Mỹ Reagan đã đưa chủ nghĩa Tân tự do đi khắp toàn cầu. Với các chính sách kinh tế Tân tự do, hai nhà vô địch này đã đánh gục Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa, đồng thời đặt nền móng cho Toàn cầu hóa.


Thế nhưng với Brexit, với sự trỗi dậy của Donald Trump, với chính sách quay lưng với TPP của cả Hillary Clinton, Bernie Sanders và Donald Trump, có vẻ như chủ nghĩa toàn cầu hóa, sản phẩm hiện hình chủ nghĩa Tân tự do, cũng bỗng nhiên đứt bóng.


Một điều thật lạ lùng, cả Trump và Clinton, mới đây đều đưa ra các gói giải pháp kinh tếgiống nhau: mở rộng việc đi vay nợ để có quỹ chi cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng  nước Mỹ. Một chính sách hoàn toàn trái ngược với Tân tự do. Chưa hết, chính phủ của tân thủ tướng Anh Theresa May có vẻ như cũng sẽ áp dụng chính sách nới lỏng ngân sách, một cách làm rất khác với Bà Đầm Thép ngày xưa..


Và ngạc nhiên chưa: nới lỏng ngân sách, đi vay nợ để xây dựng cơ sở hạ tầng, là cái cách mà Việt Nam làm suốt những năm vừa qua. Nó góp phần lớn vào chuyện làm tăng nợ công. Tuy rằng ở mặt tích cực , doanh nghiệp và người dân có đường cao tốc để mà đi, đã thế lại còn lách ra được một ít mua tàu ngầm tên lửa, là những thứ không ai cho anh vay để mua (và nhân tiện làm thêm rất nhiều tí). Điều đáng tiếc cuối cùng, và cũng là tiếc nhất, nếu hồi đó Đường tàu cao tốc  bắc nam được thông qua, thì giờ hẳn đã xây xong, nhân dân sáng ăn phở Bờ Hồ, chiều ăn lẩu bờ kè Nhiêu Lộc, mà không cần phải bay qua bầu trời mùa giông bão.


***


Trong phát biểu về cái chết của chủ nghĩa Tân tự do,  Stigliz đã không bao gồm Việt Nam. Chủ nghĩa Tân tự do chưa bao giờ đến đất nước này. Mặc dù thánh tông đồ của nó là Milton Freeman đã cổ súy nó hết mực ở một nước độc tài là Chi Lê, rồi ở một lãnh thổ Châu Á là Hongkong, là hai nơi rất gần gũi với Việt Nam về mặt này hay mặt khác.


Cũng như Thánh Francisco Xavier chưa bao giờ đặt chân lên mảnh đất hình chữ S này, ngoài một lần ghé vào lấy nước ngọt trên đường đi truyền đạo.


Mọi ông Thánh và ý tưởng của họ, dường như chỉ nhắm đến Đông Á, như Nhật Bản và Trung Hoa, còn Việt Nam chỉ là chặng dừng chân bất đắc dĩ.


Khi chủ nghĩa Tân tự do khởi sắc ở Mỹ và Anh, thì người Mỹ đã rút khỏi Miền Nam Việt Nam từ vài năm trước.


***


Chủ nghĩa Tân tự do (Neoliberalism) được cho là cái tên do Ludwig von Mises và Friedrich Hayek nghĩ ra để định nghĩa một ideology mới toe khi hai ông này gặp nhau ở Paris năm 1938. Đó là thời điểm trước Thế chiến thứ II, hai ông này chống phát xít, chống cộng sản (hai phong trào lớn mạnh hồi đó, và chưa đụng độ trong chiến tranh) và chống cả các chính sách xã hội thiên tả ở Anh và Mỹ cùng thời. (Đây là giai đoạn tác phẩm của Orwell là Animal Farm còn bị từ chối  in ngay cả ở Anh).


Hai ông tổ này viết hai cuốn sách và được rất nhiều trí thức và đại gia phương tây quan tâm. Đó là The Road to Serfdom của Hayek và Bureaucracy của Mises. Cuốn của Hayek cách đây mấy năm được Tri Thức xuất bản với tên Đường về Nô lệ.


Chủ nghĩa tân tự do quốc tế, tự nhiên thành một ý tưởng mới lạ, chống lại không chỉ chủ nghĩa cộng sản quốc tế, mà giúp các thể chế (kể cả độc tài như Chile) tạo sinh ra “tự do” bằng cách bảo vệ “lựa chọn dân chủ”. Lựa chọn dân chủ được thực thi thông qua thị trường và giá. Lý luận cốt lõi và quan trọng nhất của chủ nghĩa tân tự do, đó là thị trường nếu để mặc nó, nó sẽ hoạt động tốt, và các thị trường không bị điều phối (unregulated) sẽ là con đường tốt nhất tạo ra tăng trưởng. Tất nhiên nhiều người khác, như những người ở phe Keynes, không đồng ý như vậy. Họ tin rằng thị trường không phải lúc nào cũng hoạt động tốt, và rõ ràng là có nhiều méo mó, khiếm khuyết, và không hoàn hảo. Nhưng các đại gia ủng hộ Hayek. Vì họ có lợi.  Họ thành lập các viện nghiên cứu, nay gọi là think tank, để cổ súy cho chủ nghĩa mới mẻ này. Nhưng suýt nữa thì cái ý thức hệ tên rất kêu này chỉ có thếlà hết.


Rất may là trời sinh Hayek, lại sinh thêm cả Milton Freeman; mà trời còn có thiên thời: sau chiến tranh Việt Nam và chiến tranh lạnh bắt đầu vào cao trào, thì các chính sách kinh tế kiểu Keynes bắt đầu gây khủng hoảng ở phương tây; thế là chủ nghĩa Tân tự do giáng trần với hình hài của các chính sách kinh tế (và tiền tệ). Bắt đầu từ thời Carter ở Mỹ và Callaghan ở Anh.


Và sau đó là hai kiện tướng Reagan, Thatcher, rồi các nền tảng đầu tiên của toàn cầu hóa được xây bằng gạch đá của Tân tự do: IMF, World Bank và WTO. Rồi tổng thống Bill Clinton như được Chúa sắp đặt để trở thành  nhà vô địch không có đối thủ của chủ nghĩa Tân tự do, xây nên thời vàng son có lẽ sẽ còn được nhớ mãi của kinh tế Mỹ thời kỳ toàn cầu hóa lên ngôi.


***


Nếu nước ta có một cái vận, thì cái vận ấy có vẻ như xấu nhiều hơn tốt. Nếu không tin vào vận, ta đành nhìn vào các đặc tính tốt và xấu của thể chế kinh tế chính trị.


Những cái hay cái đẹp của chủ nghĩa tân tự do, mà Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan có được nhờ hội nhập và toàn cầu hóa thì Việt Nam ta hoàn toàn không có.


Những cái tồi tệ nhất của chủ nghĩa tân tự do, lại đầy rẫy ở Việt Nam.


Thị trường cạnh tranh thô sơ và thô bạo kiểu luật rừng, sinh tồn tự nhiên, tạo ra kẻ thắng người thua, dần dần tạo ra các hố ngăn cách giàu nghèo, bất bình đẳng. Những kẻ thua cuộc, sẽ nghèo hơn, dần dần bỏ lại phía sau, và mất hẳn cơ hội, và cả tinh thần để thay đổi số phận. Tương tự ngược lại, kẻ thắng cuộc sẽ giàu hơn. Giàu hơn, nhờ những thứ mà tiếng Anh gọi là unearned income, hay còn gọi là “rent”, giống như “thu tô” trong tiếng Việt.


Thứ tự do mà Von Mises, Hayek cổ súy, ở Việt Nam tiếc thay lại là thứ tự do của những tập đoàn có thế lực, thậm chí ở tầm vóc toàn cầu: tự do làm ô nhiễm môi trường, tự do đối xử tàn tệ với người lao động, tự do cho vay nặng lãi, tự do trốn thuế chuyển thuế, tự do móc túi và làm hại người tiêu dùng. Và hơn cả, là tự do khai thác tài nguyên, đất vàng đô thị, rừng nguyên sinh, để làm giàu cho một số rất ít những kẻ chỉ nhờ “thu tô” mà trở thành đại đại gia, còn nhân dân tha hồ đổ vỏ.


Đây chính là cái được gọi là kinh tế thị trường,  là dân chủ, mà chúng ta đang có.


***


Chiến tranh vùng Vịnh (thời tổng thống Bush Cha) xảy ra khi chúng tôi đang học năm thứ nhất ở Khoa Vật Lý, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Lúc đó lớp tôi đang học môn Cơ cổ điển, thầy Nguyễn Xí còn nói về sân bay, máy bay, số bom đạn mà bằng tính toán ước lượng có thể biết liên quân sẽ đánh sang Iraq.


Thầy còn nói đùa, đại ý, các nền văn minh có tính tuần hoàn, Việt Nam chẳng cần tiến lên đâu, cứ đứng yên rồi văn minh sẽ lù lù hiện ra sau đít.


Mấy năm gần đây người ta nói nhiều về việc mang vào Việt Nam mô hình đại học Liberal Arts kiểu Mỹ.


Liberal Arts, diễn giải ra, chính là một trường đại học “khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn”. Tức là giống y như Đại học tổng hợp Hà Nội của chúng tôi ngày trước.


Trường Tổng hợp ấy, ngày nay không còn nữa!


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 23, 2016 20:54

July 4, 2016

Trái đất một vòng tròn

Năm nay là năm 2016.


Tròn 30 năm cái gọi là “đổi mới”.


*


Tôi muốn làm một cuốn sách về 30 năm đổi mới gọi là ấy. Đã bắt tay vào làm mà cuối cùng bỏ cuộc.


Tôi đã đi gặp một số người, để hỏi họ về những gì thúc ép trong những năm trước đổi mới, về những gì đã xảy ra ngay sau đổi mới, và hậu quả của cái đổi mới ấy với hiện trạng ngày nay, và ngày mai. Những người tôi gặp không nhiều lắm. Bởi tôi chỉ cố gắng gặp những người ở giai đoạn đổi mới nổ ra họ đang ở lứa tuổi trung niên, hiểu đời, hiểu người. Và tôi cũng chỉ chọn những người con ông cháu cha, tức là  những người có điều kiện gặp ông nọ bà kia, hay ít ra được nghe chuyện này chuyện nọ chưa bị tam sao thất bản.


Điều kỳ lạ là, những người ấy, nay ở độ tuổi trên dưới 80, đều không quan tâm nhiều đến đổi mới, cái mà họ cho là chẳng qua đâm đầu vào tường rồi ôm đầu máu mà quay ra, họ quan tâm nhiều hơn đến sự kết thúc.


Họ sốt ruột lắm rồi, quỹ thời gian của họ không còn mấy.


*


Mới có một sự kiện mà giới trẻ Việt Nam không mấy ai để ý. Đó là lần đầu tiên, sau hàng chục năm, ba thành viên cốt cán của Guns N’ Roses là Axl, Slash và Duff McKagan đã chơi nhạc cùng nhau tại liên hoan Coachella.


McKagan chơi một cây bass màu trắng để tưởng nhớ đến Prince, người vừa qua đời trước đó vài ngày. Slash đã chơi bản “Wish you were here” của Pink Floyd trước khi Axl ngồi vào piano và chơi bài November Rain danh tiếng. Video music của bài hát này làm mưa làm gió ở Hà Nội những năm đầu 1990.


Đấy là quãng thời gian tất cả mọi người hào hứng với mở cửa, hội nhập. Những làn gió mới thổi vào. Những lứa du học sinh đầu tiên bắt đầu bén rễ ở các nước phương tây, lúc đó còn gọi là các nước tư bản.


*


Năm 1985 là năm đặc biệt. Năm đó Việt Nam đổi tiền. Một năm sau đó là Đổi Mới. Sau mấy chục năm chiến tranh Bắc Nam, chưa kịp nghỉ ngơi là đánh nhau với Pol Pot, rồi đánh nhau với Đặng Tiểu Bình. Xung đột biên giới kéo dài đến sau Đổi Mới vài năm mới kết thúc.


Miền bắc Việt Nam lúc đó còn tồi tệ hơn Bắc Hàn bây giờ nhiều lần. Đóng cửa hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Đóng cửa với bọn tư bản phương tây, đóng cửa với các nước Asean thù địch, đóng cửa với Trung Quốc tất nhiên. Trên truyền thông nhà nước, Trung Quốc lúc đó là bè lũ bành trướng bá quyền Bắc Kinh, Thái Lan là bọn dung dưỡng các phe Khmer chống đối chính quyền thân Việt Nam, ông hoàng Sihanouk là kẻ thù, kẻ thù ấy lại được hết Bình Nhưỡng đến Bắc Kinh nuôi dưỡng. Lãnh đạo Phương tây là bọn đế quốc chó chết, Reagan và Thatcher bị lên án và bị vẽ tranh biếm họa suốt ngày trên báo Nhân Dân.


Mọi tư tưởng phương tây đều là độc hại và bị cấm đoán. Văn hóa đại chúng Hongkong như phim chưởng là đồi bại. Thế nhưng có những thứ len lỏi từ miền nam xa xôi lên tận miền bắc u tối theo một cách rất kì lạ. Tôi vẫn nhớ khi mới vào lớp 6, lúc đổi mới chưa hình thành và miền bắc hoàn toàn tăm tối, bọn trẻ con đứng ở hành lang trường, thì một bạn tên Đông đã nói một câu về sau tôi mới biết là Freud: “Mọi phát minh lớn của các thiên tài, chẳng qua là do sĩ gái”. Bạn Đông này sau đó do tôi chuyển lớp chuyển trường nên không bao giờ gặp lại, chỉ lâu lâu nghe chuyện, vậy mà sau 30 năm đổi mới, hôm nọ nhìn thấy bạn trên Internet, nay đã nổi tiếng lắm rồi với vai trò phiên dịch gia cho các tủ lạnh, nhìn bạn trên internet mà nhận ra ngay lập tức bạn Đông “sĩ gái luận” của ngày xưa.


*


Donald Trump có rất nhiều người đẹp vây quanh. Người thì làm bồ. Người thì làm vợ. Cuộc chia tay nào của ông tỷ phú có mái tóc vàng nhân tạo này cũng là một trận mưa tiền. Quả là đáng mặt tỷ phú chơi bạo tay. Báo Mỹ nói về cái biệt thự riêng của ông ấy, có bể bơi, nhưng chỉ có bà vợ đầu của ông ấy bơi suốt ngày mà không mặc gì, còn ông thì suốt ngày cày sân golf. Ông ấy có một túi tiền mặt, hôm nào vui thì rút các tờ 100 ra bo cho nhân viên tá lả.


Mới đây giáo sư Robert Reich, tác giả của cuốn sách bán chạy Saving Capitalism và đã từng làm việc cho Carter, Bush và Clinton, nói Donald Trump là Plutocrat. Plutocracy (bọn Tàu dịch là Kim quyền chính trị 金權政治) là chế độ mà bọn siêu giàu nắm quyền lực. Đây là một biến thể của Oligarchy, thường được dịch là chế độ quả đầu, quả nghĩa là một mình, như là vua tự xưng là “quả nhân – 寡人”.


Nếu như Reich mà biết về Việt Nam, liệu ông ấy có dùng từ Kleptocracy không? Bọn Tàu dịch Kleptocracy là “Thiết đạo thống trị 竊盜統治”. Thiết là ăn trộm còn đạo là ăn cắp. Thiết là kiểu ăn trộm ăn từ trong ăn ra, như sâu mọt đục khoét từ bên trong hạt gạo.


Trump có nhiều người đẹp vây quanh, nhưng cũng như tất cả các đàn ông mê gái khác, với ông hẳn “con cá to nhất là con cá nhảy ra khỏi lưới”. Có một người đẹp đã chê Trump mà bỏ đi với Nicolas Sarkozy. Tay này về sau làm tổng thống Pháp.


Trump đang có cơ hội trở thành tổng thống, điều này rất có thể nếu như Clinton không vượt qua được vụ bê bối sử dụng private email server lúc còn làm ngoại trưởng. Mới đây, ngay trong kỳ nghỉ lễ Ngày Độc Lập, Hillary Clinton đã bị FBI gọi lên thẩm vấn suốt 3 tiếng rưỡi đồng hồ.


Trump thi đấu thành tổng thống, theo lý thuyết của bạn Đông, hẳn là do sĩ gái. Sĩ gái nên cay cú với cô nàng bỏ mình mà đi với thằng tổng thống Pháp, nên quyết làm tổng thống Mỹ một phen.


*


Tướng Lưu Á Châu có nói các thiết chế nhà nước Hoa Kỳ được thiết kế rất thông minh, nên một kẻ kém cỏi cũng làm tổng thống Mỹ vẫn có thể làm tốt.


Với bản năng sĩ gái của mình, khi làm tổng tống Hoa Kỳ, hẳn Trump sẽ làm và làm được nhưng ngược lại những gì thằng tình địch kia nó nói. Sarkozy khi làm tổng thống Pháp đã tuyên bố: “Ý tưởng về thị trường toàn năng luôn luôn đúng đã kết thúc”. Trump, là một người của Cộng hòa, đại diện cho các giá trị bảo thủ của Mỹ, lại là tỷ phú, cũng sẽ tin tưởng rằng vai trò của nhà nước cần phải thu nhỏ tối đa, trả lại quyền lực cho khu vực tư nhân, mà với phương pháp tranh cử dân túy Trump đã đánh đồng “tư nhân” với số đông người Mỹ bình dân da trắng đang giận dữ vì thua cuộc trong một trật tự thế giới mới, toàn cầu hóa và đại đồng.


Trật tự thế giới “mới” ấy có vẻ như đang bị một lực đẩy vô hình, mà mới đây là Brexit, kéo trở về trật tự thế giới cũ, thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai.


*


Hai lãnh đạo phương tây mà Việt Nam ra rả chửi hồi chưa mở cửa, tổng thống Mỹ Reagan và thủ tướng Anh Thatcher, lại chính là hai nhân vật thúc đẩy tạo nên trật tự thế giới mới.


Giống như Trump, lúc còn trẻ Ronald Reagan là người của Đảng Dân Chủ, rồi cũng bỏ qua bên Cộng Hòa. Nhưng khác Trump về xuất thân. Trump con nhà giàu, và có lẽ là hơi trọc phú, còn Reagan là nhà nghèo, lập thân bằng nghề diễn viên, rồi làm lãnh đạo công đoàn diễn viên, rồi làm phát ngôn nhân cho Cộng Hòa, rồi bằng tài diễn thuyết nổi lên như ngôi sao của Đảng, rồi trở thành tổng thống già mà gân nhất lịch sử hiện đại Hoa Kỳ.  Reagan và Clinton là hai tổng thống rời Nhà Trắng với thành tích (kinh tế và ngoại giao) tốt đẹp lẫy lừng nhất trong các tổng thống Mỹ thời hiện đại.


Tư duy của Reagan khá giản dị, mạch lạc và nhất quán, không khác gì các vị tướng Sparta. Ông bảo: “Trong cơn khủng hoảng hiện nay, chính phủ không phải là giải pháp cho các vấn đề. Chính chính phủ mới là vấn đề”. Ông cũng rất đơn giản xếp hạng các nước cộng sản vào chung một nhóm và gọi Liên Xô là đế chế ác quỷ (evil empire). Điều này rất khác với Obama, nếu các bạn thật sự quan tâm đến những gì Obama làm, chứ không phải chỉ đọc bài diễn văn Obama diễn cốt để vuốt ve finger-f*ck các bạn ở Hà Nội.


Khi Reagan bắt đầu làm tổng thống, kinh tế Mỹ rất tệ hại, thất nghiệp lạm phát đều rất bê bối. Reagan ủng hộ kinh tế học trọng cung, một lý thuyết khá hiện đại vào thời điểm đó. Một lý thuyết hơi trái cựa với kinh tế học của Keynes, khi nó cố gắng giảm thiểu vai trò của nhà nước, đề cao sức mạnh thị trường bằng cách đầu tư, tăng cường hiệu suất của bên cung, thúc đẩy tăng trưởng mà tránh được lạm phát. Còn lý thuyết của Keynes là lý thuyết được chính thức thu nhận và cổ súy ở Việt Nam rất mạnh sau đổi mới. Lý thuyết này ủng hộ vai trò của nhà nước và tất nhiên nó sẽ là công cụ lý luận rất tốt cho việc đổ hàng núi tiền vào đầu tư công để kích thích tăng trưởng, bất chấp chất lượng tăng trưởng cũng như các hệ lụy về tài chính và tiền tệ như chúng ta đã thấy suốt mấy chục năm nay. Nó cũng là lý thuyết tốt để tô màu cho cái gọi là thành tựu đổi mới và là giấy chứng sinh cho cái chế độ Kleptocracy ở Việt Nam mà đến nay chưa ai dám gọi tên.


Người lên tổng thống Pháp vào cùng thời gian này (1981) là Mitterrand, một người xu hướng chủ nghĩa xã hội, đã quốc hữu hóa hệ thống ngân hàng, tăng cường chi tiêu chính phủ, tăng số lượng công chức do nhà nước trả lương, chỉ sau 2 năm đã phải làm ngược lại, thực thi chính sách chi tiêu khắc khổ.


Đây là lúc Reagan và Thatcher quay lưng lại với Keynes. Họ cổ súy kinh tế học trọng cung, tư nhân hóa, giảm thuế, giảm các quy định rào cản gia nhập ngành, thúc đẩy cái mà bây giờ chúng ta gọi là toàn cầu hóa, hình thành một trật tự thế giới mới. Trong quá trình đấy, Reagan, cùng Thatcher và The Pope người Ba Lan, đã đẩy Liên Xô xuống vực.


Khi bức tường Berlin tưởng còn đứng vững như cả thiên niên kỷ nữa, đứng trước bức tường này Reagan kêu gọi và thách đố tổng bí thư Liên Xô Govbachev dỡ bỏ bức tường (tear down this wall!).


Năm (05) tháng sau khi Reagan rời Nhà Trắng, bức tường bị xô đổ. Hơn hai năm sau, Liên Xô tan rã. Việt Nam lúc này không còn sức để chửi bới Reagan và Thatcher, lại càng không đủ cả dũng khí để gọi Trung Quốc, lúc này là chỗ bấu víu lớn nhất của chế độ, là bọn bành trướng Bắc Kinh nữa.


Đó cũng là lúc ở Hà Nội người ta bắt đầu nghe New Kids on The Block, Take That, Michael Jackson. Còn chúng tôi bắt đầu bỏ AC/DC, Beatles …để nghe Queen, Metallica, Guns N’ Roses, và tất nhiên là Nirvana vạn đại.


Các công ty tư nhân bắt đầu ra đời. Tôi vẫn còn nhớ như in biểu tượng của hãng Kenwood được dựng trên mặt tiền của Ga Hà Nội, cách đó mấy trăm mét là trụ sở của công ty tư nhân của con rể TBT ĐM, tên công ty là Đổi Mới. Bọn trẻ con chúng tôi mỗi lần vào ăn trưa ké với các ông anh vẫn gọi đùa là công ty Đồi Mồi.


Trước đó, sách lý thuyết kinh tế phương tây bắt đầu được nhóm anh Hóa dịch và truyền bá âm thầm ở Hà Nội suốt những năm trước và sau đổi mới lúc này bắt đầu có tác dụng. Để tránh đối đầu với thuyết Mác Lê, những lý thuyết kinh tế phương tây được goi với tên lý thuyết kinh tế mới.  Gọi là mới, dù nó rất là cổ như Ricardo, như Adam Smith. Đây là những viên gạch lót đường đầu tiên để Keynes đường hoàng bước vào Việt Nam bằng thảm đỏ.


 


*


Năm 1975, Thatcher là người thực hiện cuộc trưng cầu dân ý đầu tiên ở Anh. Cuộc trưng cầu ấy có 2/3 dân Anh đồng ý tham gia EEC. Vừa rồi, lại trưng cầu dân ý, hơn một nửa đòi thoát Âu hay còn gọi là Brexit.


Eduardo Porter viết trên New York Times rằng chính những cơn giận dữ của người dân lao động ở Anh và Mỹ, bị toàn cầu hóa  gạt qua bên lề, bị những chính trị gia dân túy cánh hữu (Boris Johnson và Donald Trump) bẻ lái, đang phá hủy thành tựu mà hai lãnh đạo cánh hữu khác là Thatcher và Reagan khởi xướng và được các đàn em của họ như Blair và Clinton xây dựng (Clinton bên Dân Chủ nhưng trong hai nhiệm kỳ của mình đã khéo léo chen vào phía cánh hữu. Reich nói Clinton là chính trị gia tài năng nhất trong thế hệ của mình chắc muốn đề cao việc lèo lái các chính sách kinh tế chính trị như một tay cánh hữu, dù là người của Đảng Dân Chủ).


Nền kinh tế toàn cầu hóa rất là tốt, tốt cho cả khối tư nhân lẫn nhà nước. Nhưng mặt trái của nó chính là bất bình đẳng xã hội và ô nhiễm môi trường. Đấy là cơ hội lớn cho các chính trị gia dân túy cánh hữu.


Còn ở ta, vấn đề cũng tương tự đâu khác gì, chỉ có điều đây là cơ hội lớn cho các chính trị gia dân túy, là đảng viên nhưng không phải cánh tả, cán bộ nhưng mà giàu và là giàu Kleptocrat.


*


Gustave Le Bon nói rằng hiện nay các chủng tộc chỉ còn là các chủng tộc lịch sử. Tức là các chủng tộc không chỉ hình thành từ nòi giống xa xưa, mà còn do các cuộc di dân, xâm chiếm.


Mỗi con người hiện đại, về mặt cơ thể, chứa đựng đặc tính di truyền của hàng trăm ngàn tổ tiên của hàng ngàn năm trước đó. Về măt tâm lý, bao gồm tính cách, tư duy, tình cảm cũng vậy. Những người chết thì nhiều hơn những người đang sống. Do đó những gì đang chi phối con người hiện đại về vô thức là do những người đã chết.


Le Bon cho rằng chỉ có dân Anh là phát triển đến độ chín của tâm lý. Họ mạnh mẽ, điềm đạm và sâu sắc trong suy nghĩ, tình cảm và hành động. Kiến thức, công nghệ là cái rất dễ chuyển từ nơi này qua nơi khác, từ chủng tộc này qua chủng tộc khác. Nhưng tính cách thì không. Mà tính cách con người chỉ thể hiện được đặc tính nổi bật của nó ở các hoàn cảnh đặc biệt. Những người khổng lồ trong Cách Mạng Pháp, họ chỉ là các công chức mẫn cán bình thường nếu như không có Cách Mạng. Ở Việt Nam cũng vậy, nếu không có cách mạng thì ai rửa bát vẫn rửa, ai bán cháo phổi giảng đường vẫn bán, ai hoạn lợn vẫn hoạn, vân vân và vân vân.


Le Bon cho rằng người Anh họ biết kiềm chế cảm xúc với những gì trước mắt, dù đó là lợi ích lớn đến mấy, để nghĩ đến những thứ lâu dài. Vì tính cách như vậy nên người Anh có xu hướng đề cao tự do cá nhân và hạn chế tối thiểu vai trò nhà nước. Anh và Mỹ đều phát triển cực kỳ vì tự do cá nhân là động lực cho vô vàn sáng kiến, từ khoa học công nghệ đến các tổ chức xã hội. Khác hẳn với Lục Địa, nhất là Pháp, khi hầu hết người dân quen chờ đợi nhà nước thay cha mẹ làm mọi thứ cho họ.  Việt Nam có lẽ còn tệ hơn nữa, nếu nhìn theo cách của Le Bon.


Với Le Bon, thật là dễ hiểu tại sao chính phủ Anh và Mỹ luôn phải nghe theo ý kiến của dân chúng, cái mà ở ta có người mỉa mai là ý kiến của đám đông (ngu dốt) như trong vụ Brexit. Ngoài việc họ đề cao cá nhân, thì ứng xử của người dân, về vô thức nó còn phản ánh tâm thức của rất nhiều thế hệ tổ tiên đã chết.


*


Trong bài viết “A tale of Two Parties” mới đây, nhà kinh tế đoạt giải Nobel Paul Krugman, so sánh Đảng Cộng Hòa của Mỹ với Chủ nghĩa cộng sản ở giai đoạn trước khi bức tường Berlin sụp đổ. Krugman nói Đảng Cộng Hòa đang suy yếu khi càng ngày càng ít đảng viên tin vào các giá trị cốt lõi và truyền thống của Đảng. Các nhân vật cứng cựa của Đảng cộng hòa dễ dàng bị những người như Donald Trump lật đổ vì Đảng này đã bị rỗng đến tận gốc.


So sánh với phe cộng sản trước khi bức tường Berlin sụp đổ. Không ai (ở phương tây) nhận ra phe cộng sản suy yếu trầm trọng đến mức nào.


Họ có súng, có xe tăng, có cả bom nguyên tử, nhưng chẳng còn ai, kể cả đảng viên, tin vào ý thức hệ của đảng nữa.


*


Và thế là Đổi Mới đã được 30 năm.


Chẳng còn ai tin vào cái gì nữa. Nhưng có vẻ như cũng chẳng có ai nhận ra cái gì. Và cũng sẽ không có cái gọi là đổi mới lần hai.


Từ khi các thương gia và các nhà truyền giáo phương tây phát hiện ra Đông Dương (đầu 1600) đến khi họ đặt chân đến miền trung Việt Nam ngày nay (165x) có vẻ như Việt nam vẫn tiếp tục nằm ở phần rìa của thế giới, bị kẹp giữa một phần rìa xa xôi (bán đảo Đông Dương) của lục địa Châu Á  và một mẩu nhỏ (biển Đông) của Thái Bình Dương.


Trong lúc đó trật tự thế giới dường như sắp đổi thay một lần nữa.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 04, 2016 02:16

Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.