Nguyễn Phương Văn's Blog, page 18

March 27, 2015

Ông Ba Bị, Mẹ Mìn và …

Ba bị chín quai


Ba bị chín quai mười hai con mắt, hay bắt trẻ con, gọi tắt là ông Ba Bị, là một câu nói kiểu đồng dao, thường dùng để dọa trẻ con.


Mười hai con mắt = 6 người = 1 tiểu đội (bây giờ).


Ba bị mà có chín quai = mỗi bị ba quai.


Đây chính là cách hành quân thần tốc của Tây Sơn. Mỗi tiểu đội quân chính quy (thân binh) có 6 người, chia làm 2 nhóm, mỗi nhóm 3 người. Mỗi nhóm có một cái bị to, có ba quai. Thiết bị, lương thực, nước uống của cả tiểu đội quăng vào cái bị ấy. Rồi cứ thế mà đi bộ ra Thăng Long. (Có thể họ đeo súng trên vai, các đồ khác mới cho vào bị, ba quai xỏ vào 2 đòn gánh loại ngắn hình chữ lambda λ, đi thành hình tam giác nhọn, một người đi trước, hai người đi sau).


Ngày xưa đường không như bây giờ, ngoài việc là đường đất thì còn phải vượt qua rất nhiều sông ngòi đầm lầy, đi bộ kiểu này là nhanh nhất. Quân Tây Sơn là quân đội phương nam (không có mùa đông), quân trang nhẹ và ít, nai nịt gọn gàng, ăn nghỉ rất khắc khổ. Khi chiếm đóng Thăng Long lần thứ nhất, người Bắc Hà rất ngạc nhiên khi quân Tây Sơn ngủ ngoài trời, trên mặt đất.


Trong chiến dịch đại phá quân Thanh, quân Tây Sơn vừa hành quân vừa bắt lính ở các làng mình đi qua rất dã man. Già cũng bắt, thiếu niên cũng bắt. Ai còn khỏe và là lính thì xung quân, còn không thì làm dân công. Thanh niên ở vùng từ Hà Tĩnh đổ ra bị bắt nhiều nhất, nên dân sợ chết khiếp, từ đó hình thành câu đồng dao này (gốc gác của câu đồng dao này có thể là từ vùng Hà Tĩnh). Dần dần Ông Ba Bị thành hình ảnh đe dọa trẻ con.


Ông Ba Bị dùng bạo lực bắt người, khác với Mẹ Mìn là dụ dỗ lừa người. Mẹ Mìn  xuất hiện ở nông thôn Miền Bắc thời kỳ Pháp mộ phu đi Sài Gòn, đi Tân Thế Giới này nọ. Mẹ Mìn dụ dỗ thanh thiếu niên lên Hà Nội rồi bắt bán cho bọn buôn người, rồi bọn này bán cho các sở mộ phu. Các bọn lừa phụ nữ bán sang Trung Quốc bây giờ chính là “mẹ mìn” hiện đại. Nguồn gốc của việc buôn người, có thể có từ thời Trần. Vào thời Trần có thể đã hình thành một thị trường buôn nô lệ, bao gồm buôn bán tù binh Chăm .


 


SlowHand


Clapton được người hâm mộ gọi là Slowhand. Không phải vì anh này chơi đàn chậm mà là vì cách anh ấy thay dây đàn. Các nhạc công khi đang chơi, đàn đứt dây thì đổi đàn khác, hoặc có người ngồi cánh gà lên dây đàn hộ (lần đi xem Jean-Jacques Goldman diễn ở Giảng Võ tôi mới phát hiện ra chuyện này, lúc đó hiện đại rồi, người lên dây đàn nó cắm guitar điện vào máy, quạt chả một phát, các đồng hồ dựng kim lên, rồi nhìn kim mà chỉnh dây). Clapton thường thay dây luôn trên sân khấu. Lúc anh này thay dây và tuning thì khán giả vỗ tay chầm chậm (slow handclap) cho đến lúc làm xong.


 


Zero Dark Thirty


Phim về tìm giệt Bin Laden nhưng chủ yếu nói về hoạt động CIA. Cô nhân viên CIA trong phim là có thật. Ông sếp CIA hay văng tục cũng có thật, sau lên làm bộ trưởng quốc phòng, đã từng đến Cam Ranh năm 2012. Tên ông này là Leon Panetta.


 


Machiavelli


Vào quãng 1946,1947 khi kháng chiến chống Pháp đang vào guồng ở các vùng núi miền bắc và nông thôn miền nam còn ở đô thị không khí chính trị bắt đầu có các làn gió mới cùng các nhân tố chính trị mới phần lớn xuất thân từ giới trí thức, nhà giàu.  Ngô Đình Nhu lúc đó vẫn chỉ là một anh trí thức nghèo âm thầm hoạt động xã hội trong đám trí thức trẻ ở Sài Gòn và Huế. Nhu thường tặng cho những nhân vật tiềm năng (mà về sau có thể làm việc cho Ngô Đình Diệm) cuốn sách Prince (Quân Vương) của Machiavelli để những người trẻ tuổi này tự học. Có thể Nhu là người đầu tiên giới thiệu tác phẩm chính trị kinh điển này tới bạn đọc Việt Nam. Cuốn sách Nhu truyền bá chắc là phiên bản tiếng Pháp của Prince. Ngày nay, có ít nhất 2 phiên tiếng Việt của Prince (Quân Vương) trên thị trường sách. Cả hai bản (mới nhất) này đều do Alpha Books làm.


Nhân vật Quân


Nhân vật Quân trong hai tiểu thuyết của Nguyễn Khải “Thời gian của Người” và “Gặp gỡ cuối năm” chính là Phạm Xuân Ẩn. Mọi cử chỉ, lời nói, nhận định, quan điểm của Quân trong hai tác phẩm này đều là Phạm Xuân Ẩn qua cách diễn đạt của Nguyễn Khải.


 


Công thức đơn giản


Các định luật vật lý lớn nhất đều được diễn đạt bằng mô hình toán rất đơn giản. Đinh luật Kepler, Newton về công thức toán rất đơn giản. Thuyết tương đối của Einstein thậm chí có một công thức còn cực kỳ đơn giản: E=mc2. Vậy nên ông này hình như nói một câu rất nổi tiếng: “Everything should be made as simple as possible, but not simpler.”


Biến động của nền kinh tế rất phức tạp, nhưng một số lý thuyết kinh tế, ví dụ của Keynes và các đệ tử, sử dụng các công cụ toán rất đơn giản để mô tả (khá đúng) hoạt động của nó. Vài đường thẳng trên một hệ tọa độ chỉ có 2 chiều, thế là có từ giá cả, lao động, vốn đến lãi suất, tỷ giá.


Biến động của Việt Nam cũng sẽ rất đơn giản nếu được mô hình hóa kiểu như vậy. Chưa bao giờ, trong lịch sử dài dằng dặc của Việt Nam, có một cuộc cách mạng thực sự. Cách Mạng Tháng 8 là một cú pseudo revolution, một phần lớn do biến động mạnh của thế giới (Mỹ ném bom nguyên tử vào Nhật, phong trào cộng sản lan khắp thế giới, phe phát xít gục ngã, cuộc chiến quốc cộng ở Trung Quốc bắt đầu có lợi thế cho phe Mao). Về cơ bản, Cách mạng tháng Tám là một kết hợp hoàn mỹ của nổi dậy nông dân kiểu Tây Sơn và kháng chiến kiểu Lê Lợi trường kỳ chống giặc Minh. Tuy không có cách mạng thực sự, bù lại ở Việt Nam lại có khá nhiều cách mạng cung đình (palace revolution). Trần lật Lý, Hồ lật Trần, Mạc lật Lê là các ví dụ thành công, còn thất bại chắc nhiều vô số.


***


Xin chào mừng đến thế giới của Nguyễn Bỉnh Khiêm.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 27, 2015 07:05

March 23, 2015

Chuyện leo cây và nước ta lớn hay nhỏ

Hôm rồi đi uống bia với Lệ Ngưng, cựu ca sĩ văn công quân đội, nàng bảo: nước mình bắt chước cũng không nên thân, cách mạng ô thì ra cách mạng cây.


Bia đang vui, không tiện hỏi nàng nói chữ cách mạng theo nghĩa nào. Cách mạng theo nghĩa ông cụ giải thích là cách cái mạng nó đi, thì đúng là chặt cây rồi.


Lại nhớ đến ngày xưa có chú bé làm tập làm văn, đề bài tả ông ngoại. Chú viết: Ông ngoại em tóc bạc phơ, ngày nào cũng leo cây rất hăng.


Cô giáo phê: người già không thể leo cây. Chú bèn giơ tay phản đối: Tại cô không đọc chú thích của em, chú thích nói “bà ngoại em tên là Cây”.


Vụ cách mạng cây này hay phết, nó cho thấy hóa ra ở Hà Nội vẫn có thể có phong trào (hoạt động) dân sự. Mở ngoặc chút, hoạt động dân sự nói đến ở đây có khuôn khổ rất nhỏ: người dân đấu tranh với chính quyền bằng các biện pháp dân sự (cộng đồng) để bảo vệ các quyền dân sự có tính cộng động của mình. Và họ thắng, chính quyền thua. Hay phết.


Hà Nội có một cái rất đặc thù: thời chiến tranh, thời tem phiếu, thời phân phối, thời xin cho kéo dài quá lâu nên chính quyền quen thói thô lỗ thích làm gì thì làm, quên mất dân có rất nhiều quyền dân sự được pháp luật và hiến pháp bảo vệ. Dân thì tệ hơn, vì quen với việc cúi đầu nghe chính quyền, người dân không những quên những quyền đương nhiên của mình, và quên mất cách đấu tranh dân sự.


Đấu tranh dân sự khác hẳn các đấu tranh khác: trong đó không có lòng căm thù, không sử dụng các biện pháp thô bạo. Mà hai cái món căm thù và phương pháp bạo lực này được giáo dục và tuyên truyền tiêm vào não nhân dân mấy thế hệ qua. Nay có vẻ như, ít ra ở HN, đấu tranh dân sự đã quay lại.


Nhưng vẫn có gì đó đáng lo ngại. Nếu xã hội, cộng đồng tự nó trưởng thành, tự nó cứng cáp, thì các hoạt động dân sự của nó mới thực sự vững chắc và không lạc lối. Ngày xưa công chức, giới có của Hà Nội thời Trần Trọng Kim đã từng có những hoạt động dân sự rất oách. Không ngờ Việt Minh, một lực lượng bên ngoài cộng đồng lợi dụng xoẹt một phát lấy luôn Cách mạng tháng 8 về tay mình. Ở Sài Gòn thì ở đâu hiện ra Trần Văn Giàu nhận luôn cách mạng ở SG là của mình hehe, bọn trí thức tổ chức cách mạng ấy, sau lại chả cay vãi. Hậu quả của hai vụ này, thì đến bây giờ vẫn còn mệt. Mà lịch sử thì rất hay lặp lại hehehe.


Còn một lo ngại nữa, các hoạt động dân sự ở Hà Nội thường mang nặng di sản của mẫu hệ, phụ nữ tham gia nhiều và hăng hơn đàn ông. Nên các hoạt động xã hội dân sự ở thành phố này thường có gái tính. Cần phải khắc phục hehe.


Nhân tiện nói đến việc dạy các thế hệ người Việt lòng căm thù, nhà nước còn tiện tay dạy luôn lòng tự hào dân tộc. Tự hào gì? Tự hào chống ngoại xâm!!!


Có ai bị thằng khác đến nhà mình, vào nhà mình, hiếp đáp mình, mình đuổi mãi mới đi, mà lại tự hào không? Cũng có thể. Nhưng đừng mang tự hào đấy dạy cho con cho cháu.


Mấy năm gần đây trên báo chí, phát biểu của lãnh đạo, ý kiến của trí thức hay nhắc đến nước Việt lớn hay nhỏ.  Đây chính là một di căn của lòng tự hào đánh ngoại xâm.


Nếu định nghĩa nước lớn, là lớn như đế quốc La Mã, đế quốc Anh, đế quốc Đường, đế quốc Nguyên, đế quốc Hoa Kỳ, …thì Việt Nam chắc chắn không phải là nước lớn.


Nhưng bảo Việt Nam nhỏ thì không đúng.


Ở tầm khu vực, Việt Nam đã từng là đế quốc được xung quanh thần phục. Chẳng qua dạy lịch sử cách mạng rất nhiều mà quên cách dạy lịch sử nước nhà, không biết rằng Việt Nam có một quãng thời gian rất rất dài là một nước rất mạnh mẽ cả về quân sự lẫn kinh tế trong khu vực.  Chăm chăm dạy hào hùng chống ngoại xâm mà quên béng việc dạy cái quan trọng hơn: làm cường quốc để khỏi phải chống bất cứ ngoại xâm nào, một điều mà tiền nhân của chúng ta đã làm rất giỏi. Giỏi đến mức nếu nhìn lại những gì tiền nhân đã làm được, ta không chỉ xấu hổ mà còn thấy nhục vãi chưởng.


Ngày xưa, nước ta lúc đó còn bé tí, bị đế quốc Hán, Đường đô hộ cực kỳ lâu, cả ngàn năm. Trong lúc ta bị đô hộ, ở xung quanh có nhiều vương quốc và đế chế mạnh mẽ khác hình thành. Việt Nam thoát khỏi Trung Quốc rất muộn. Trong lúc ta vùng vẫy để đầu tiên là tự chủ, sau là độc lập và có nhà nước riêng (Khúc Hạo, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng) thì các nước láng giềng đã phát triển mạnh mẽ và có nền văn hóa rực rỡ phát khiếp: Chăm Pa, Chân Lạp, Miến Điện. Kể cả các tiểu quốc thuộc Mường Lào cũng có lúc không phải dạng vừa.


Tụt hậu so với họ gần 12 thế kỷ, thế mà từ khi độc lập, chỉ mất bốn thế kỷ ta đã vượt được họ. Thậm chí thôn tính béng luôn vài nước cho lành. Đến thời Lê Thánh Tông ở thế kỷ 15, sau khi thôn tính và sáp nhập Chiêm Thành vào Đai Việt (1471), tất cả các nước trong khu vực, từ Java đến Miến Điện hì hụi cử sứ qua Thăng Long mà triều cống. Đấy là chưa kể bị gián đoạn một thời gian do nội chiến rồi quân Minh kiếm cớ xâm lược và hiếp đáp nước ta vô cùng tàn bạo. Để đuổi chúng đi ta cũng phải thiệt hại rất nhiều.


Từ một thuộc địa bé tí của Trung Quốc, đến thời Lê Hoàn nước ta mới có quân đội. Nhưng một thời gian ngắn sau đó, Việt Nam đã có hải quân thuộc loại mạnh. Lý Thường Kiệt đánh Trung Quốc, quân bộ do Tông Đản cầm, quân thủy cho Lý Thường Kiệt cầm, đánh sâu vào đất Tàu rồi rút về như không. Lý Thường Kiệt còn cầm hải quân đánh xuống nước Cham Pa ở phía nam, vào tận Quảng Nam. Chiến dịch này do vua Lý Thánh Tông cầm đầu, thắng lợi vang dội. Đến thời Lê Thánh Tông thì nước ta lên đỉnh cao, sáp nhập luôn nước láng giềng phía nam vào nước mình cho tiện quản lý (việc này ngày xưa hợp ý trời, giờ Liên hiệp quốc lên án cho vỡ sủ).


Về sau đất nước nội chiến, Trịnh Nguyễn phân chia hàng trăm năm, nhưng suốt thời gian ấy Việt Nam chỉ có mở rộng bờ cõi (về phía nam), mạnh thêm lên về kinh tế và quân sự chứ không có yếu đi. Tới thời Nguyễn Huệ, nước đã kiệt quệ vì nội chiến mấy chục năm, mà quân đội vẫn cực mạnh, đánh phát nào ngoại xâm bét nhè phát đấy. Ví dụ điển hình là nước Bồn Man, nội thuộc Đại Việt, nhiều lần nổi loạn làm phản Thăng Long đều bị đàn áp vỡ mặt. Thời Quang Trung nội chiến mệt mỏi như thế, Bồn Man tinh vi nổi lên, Trần Quang Diệu mang quân qua dẹp một phát im phăng phắc. Sau này bọn Pháp làm Liên bang Đông Dương, đem Bồn Man chia cho Lào mất. (Nhân tiện, theo lời Ngô Đình Diệm, kế hoạch của ông hoàng Cường Để là về làm quốc trưởng Liên Bang, thay cho toàn quyền đông dương, giữ các ông hoàng ở nguyên trên ngai để làm vì, ví dụ Bảo Đại ở Huế, Sihanouk ở Phnom Penh, Sisavang Phoulivong ở thủ đô Lào. Kế hoạch này sau không thành).


Chỉ tính riêng từ thời Lê Thánh Tông đến thời Minh Mạng, Việt Nam luôn là một đế chế sừng mỏ của khu vực trong suốt 4 thế kỷ. Chưa lúc nào là nước nhỏ. So với Trung Quốc thì có tiểu, nhưng không có nhược. Khác hẳn bây giờ. Ngày xưa có ông quan nào bảo nước ta nhỏ, chắc vua gọi lên tát cho vỡ mồm. Dân thì khỏi nói, chắc chém bay đầu. Riêng với bọn tự ti làm nhục quốc thể, phải đối xử hết sức thô bạo như vậy mới đúng.


Nay nói chung cần dạy trẻ con làm sao cho đúng liệu lượng, lại đúng theo tinh thần nhân văn hiện đại.


Thay vì dạy về Trần Phú xây dựng Đảng (một nhân vật bé tí tị ti so với lịch sử nước nhà) thì dạy Lê Hoàn phá Tống và đặc biệt là bình Chiêm. Xem ông ấy hồi nước nhà còn trứng nước, đã xây dựng và tổ chức quân đội thế nào. Hoặc là dạy về Võ Tánh, một tướng tài, quân Tây Sơn còn phải nể phục. Hay dạy về Trương Vĩnh Ký mồ côi mà lại học thành bác học ra sao.


Thay vì dạy về Xô Viết Nghệ Tĩnh, một bản sao thất bại của Xô Viết bên Mao, cần dạy về chiến dịch đánh Chăm của Lê Hoàn, đánh Tàu của Lý Thường Kiệt, những chiến thắng đặt nguồn gốc cho việc nước Việt ta không chỉ giữ được bờ cõi mà còn mở mang ra gấp mấy lần.


Thay vì dạy về chiến thắng Ấp Bắc, chiến dịch mùa Xuân (dạy ít ít thôi), cần dạy về các chiến dịch của Lý Thánh Tông, Lê Thánh Tông, dạy các thủ đoạn cai trị của Chúa Nguyễn để mở mang bờ cõi phía nam tổ quốc.  Dạy về kháng chiến của Lê Lợi phải nhiều hơn dạy về kháng chiến của Việt Minh. Dạy về Điện Biên phải ít hơn dạy về Quang Trung đại phá quân Thanh. Những trận như Rạch Gầm Xoài Mút phải dạy thật kỹ (vì đấy mới là đỉnh cao nghệ thuật quân sự), thay vì suốt ngày kể chuyện đánh mìn Đồi A1 mà ai đến xem rồi hẳn rất bất ngờ với thực tiễn hehehe.


Dạy cho trẻ con hiểu hải quân của nước ta ngày xưa mạnh thế nào, và tại sao như thế. Dạy cho trẻ con hiểu ngày xưa đồng bằng sông Hồng không chỉ là vùng nông nghiệp, mà là trung gian thương mại tầm thế giới (thời nhà Nguyên đang bá chủ) với các tuyến đường bộ đi từ đồng bằng Irrawaddy bên Miến đến Vân Nam bên Tàu, tuyến đường thủy từ Thị Nại đi đến Quảng Đông. Nhờ đó mà có tri thức, kinh nghiệm, công nghệ (sau này là tiền bạc) để phát triển kinh tế và quân đội.


Dạy cho trẻ con hiểu, nước Việt Nam ngày nay, tuổi đời thực ra rất non trẻ (1802) nhưng đã có lúc (thời Minh Mạng) cương vực rộng lớn vô cùng, ngoài Hoàng Sa, Trường Sa ngoài biển, ở phía nam quân đội của Minh Mạng làm chủ mặt đất đến tận Phnom Penh. Còn trẻ và đã từng như thế, nên vẫn còn hi vọng hóa rồng.


Đại khái là như vậy.


Lẽ ra việc leo cây phải làm từ lúc còn đang sức vóc. Nên giờ này vẫn cứ phải leo cây.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 23, 2015 08:37

March 20, 2015

Chuyện mắc kẹt

(Bài này có rất nhiều phim hehehe, mọi người đọc cuối tuần cho vui).


Phần 1: Ít đi để nhiều hơn (đã đăng trên TTCT từ năm ngoái với tên Châu Sa).


Rất nhiều năm trước, bộ phim Hoàng Phi Hồng đưa tên tuổi Từ Khắc và Lý Liên Kiệt lên đỉnh cao nhờ những pha đánh võ hoa mỹ trong với các nhân vật bay lượn rắc rối và quyến rũ trong không gian trong lúc thi triển võ công.


Cách đây vài năm, Từ Khắc và Lý Liên Kiệt trở lại với Long Môn Phi Giáp, đánh võ ít rườm rà hơn mà ra đòn lại hiệu quả hơn, cả trong phim và trong mắt khán giả. Nhân vật của Lý Liên Kiệt liên tục ra đòn vào tay hoặc chân đối thủ chỉ một tích tắc trước khi bọn này xuất chiêu.


Năm nay, nhân vật John Wick trong  bộ phim cùng tên còn tiến xa hơn, không chỉ di chuyển đơn giản trong không gian hẹp để đánh vào chân hoặc tay đối thủ khiến bọn này thậm chí không thể rút súng, John Wick còn sử dụng cách bắn súng trong các phim của Ngô Vũ Sâm, di chuyển khôn khéo để áp sát đối phương rồi gí súng sát vào đầu mà bắn.


Phim là tác phẩm người ta bịa ra để khán giả mua vui mà cũng phải thuận theo xu hướng “đơn giản hơn mà hiệu quả hơn”. Thậm chí, truyện phim của John Wick còn đơn giản đến mức ngớ ngẩn, bộ phim chỉ có đánh và bắn nhau, cốt để thoả mãn tối đa một tiêu chí của người xem: coi đã con mắt.


Năm 2013 được coi là năm cuối cùng và là năm khó khăn nhất của cơn suy thoái. Sau những biến động bi đát, cuối năm mọi người ngậm ngùi rồi hy vọng, một hy vọng hồn hậu: qua những năm suy thoái thế này mới thấy những giá trị cốt lõi, bền vững cần phải quay lại. Năm 2014 và có thể là nhiều năm tới, kinh tế sẽ chỉ đi ngang, hoặc tăng trưởng rất là khiêm tốn. Những năm tháng tới đây sẽ là thời gian để xã hội tự thanh lọc những gì phù phiếm, những ăn xổi ở thì, để trở về với những giá trị bình dị,bền vững. Người ta sẽ chi tiêu ít đi và khôn ngoan hơn. Mua ít đi, dùng nhiều hơn. Dùng ít đi, hiệu quả cao lên.


Giống như khi đứng trước tủ sách gia đình lúc nào như quá tải, vào cái lúc thu nhập cá nhân không còn tươm tất như trước, bạn sẽ nhận ra nhiều cuốn sách phô trương, đắt tiền, nằm ềnh trên giá mấy năm rồi chưa đọc.Còn những cuốn sách đọc rất nhiều lần, hóa ra lại không nhiều và cũng chẳng nằm trên giá để khoe mẽ đôi khi chỉ với chính chủ nhân.


Giống như khi đứng trước tủ quần áo,


Giống như đứng trước tủ đĩa than, tủ giày…


Giống như…


Mấy chục năm bao cấp đóng cửa cố thủ với thế giới bên ngoài đã làm xói mòn niềm tin của con người vào những giá trị nhân văn căn bản. Mấy chục năm tiếp theo mở cửa làm kinh tế cả xã hội cố mà làm lấy được, cắm mặt vào tiền, chạy đua kiếm chác, mặc kệ nền nếp gia đình, đạo đức xã hội cho danh lợi tầm thường mà mạnh như lũ ống cuốn phăng đi hết. Càng kiếm nhiều càng thấy ít. Đánh quả càng xổi càng vui. Hình thức càng  phô trương càng có lợi. Lạm phát học hàm, lạm phát học vị, lạm phát chức danh, rồi đến lúc lạm phát phong tước.


Mọi thứ dường như đã đến đỉnh của nó. Phất lên hết cỡ  thì đến lúc phải xẹp đi. Mục rữa mãi ắt suy tàn. Những năm kinh tế đi ngang sẽ là cơ hội vàng để xã hội tự chữa bệnh cho mình, bớt phù phiếm đi mà thực chất hơn, bớt ăn xổi để bền vững hơn, bớt ở thì để có thêm nhân nghĩa, bớt ác tâm để có chỗ cho thiện tâm, bớt nói dối để thêm lời nói thật.


Nhưng trăm xây không bằng một phá. Với những gì đã phá mất rồi, phải cần rất lâu cái sự chững lại của phát triển kinh tế, để cả xã hội thanh tẩy lại chính mình.


 


Phần 2: Vài phim về sự “mắc kẹt” (127 hours, Gravity, Blue is the warmest color, Interstellar, Vĩnh Viễn)


Phim 127 hours (năm 2010) của Danny Boyle. Gần như từ đầu đến cuối, câu chuyện (bằng hình ảnh) chỉ diễn ra với một nhân vật. Và nhân vật này (bị tai nạn) mắc kẹt trong một khe đá rất là hẹp trong xa mạc. Cả một bộ phim mà gần như chỉ có một nhân vật và một không gian bé tí. Ấn tượng nhất của bộ phim này là âm thanh. Phải nhấn mạnh rất ấn tượng. Ấn tượng nhì là cậu nhân vật dùng một con dao rất tồi, cậu ấy chửi đại khái là mẹ cái đồ Tàu. Phụ đề tiếng Việt bỏ câu này.


Phim Gravity (2013) của đạo diễn không nhớ tên. Gần như từ đầu đến cuối, nhân vật nữ chính bị mắc kẹt trong vũ trụ bao la. Khác phim 127 hours, Gravity có thêm một nhân vật phụ rất đẹp giai. Ấn tượng nhất của phim này là diễn viên chính hơi già mà người ngon vãi.


Phim Blue is the warmest color (2013) của đạo diễn tên rất khó nhớ. Suốt gần 3 tiếng đồng hồ tay đạo diễn này cho khán giả mắc kẹt vào các khuôn mặt trên màn hình. Từ đầu đến cuối, trừ các đoạn làm tình mà bố cục và chuyển động đẹp dã man, thì khán giả hầu như chỉ được xem mặt các nhân vật. Thưởng thức diễn cảm trên các khuôn mặt, nghe thoại, và vài trường đoạn rên rỉ la hét. Thế mới biết bọn tây nó diễn tài thế nào. Có một đoạn nhân vật chính nhảy múa với đám trẻ con. Đám trẻ con khuôn mặt tươi tắn, nhân vật chính khuôn mặt diễn cảm có vẻ như cuộc sống này chả còn gì đáng để sống. Thoại của phim khá thú vị. Có đoạn thoại nói về cực khoái của phụ nữ mạnh hơn về cường độ so với đàn ông nên phụ nữ khó diễn tả thế giới thực hơn đàn ông. Về nhạc phim, phim này gần như không có nhạc.


Phim Interstellar (2014) của Nolan. Khác hẳn các phim trên, Interstellar nhét tình huống vào một sự mặc kẹt quái dị: mặc kẹt giữa hai thế giới có khung thời gian khác nhau. Một bêncó  thời gian bình  thường (như thế giới của chúng ta), một bên thời gian bị lực hấp dẫn làm chậm lại. Một bên ở trên giời, có lúc, 1 giờ trôi qua là thì ở hạ giới 7 năm qua mất. Nhân vật chính chiến đấu để thoát khỏi sự mắc kẹt thời gian này nhưng về cơ bản là bó tay. Mấu chốt cuối cùng, khi bị kẹt ở không gian 5 chiều (xạo ke, lẽ ra chết ở hố đen rồi), họ liên lạc được với nhau nhờ trọng lực xuyên qua các chiều không thời gian vô cùng khác biệt.


Phim Interstellar của Nolan trông thế thôi, chỉ được cái là tỏ ra nguy hiểm, về đẳng cấp kém phim Inception (cũng của Nolan). Inception nói về một trải nghiệm mà khán giả nào cũng đã từng trải qua: giấc mơ. Còn Interstellar nói về những cái hầu hết nhân loại chưa từng có trải nghiệm (chắc có ai đó có mà họ chưa nói ra hehehe). Ngay cả với Inception, bộ phim cũng kể về những nhân vật bị mắc kẹt trong những giấc mơ của mình.


Nhưng tại sao Nolan làm được những phim phức tạp và rối rắm như thế. Câu trả lời có thể là khán giả Mỹ xứng đáng với những bộ phim như vậy.


Phim Vĩnh Viễn.


Một thanh niên vì hoàn cảnh gia đình mà phải đi làm kiếm tiền. Anh chọn con đường xuất khẩu lao động qua Châu Âu. Ở Châu Âu làm nhiều nghề, thấy khó thành công, anh bèn chọn nghề làm cách mạng. Thấy ở quê chưa có món này, anh đánh hàng về quê.


Quả nhiên việc thành.


Cách mạng đang tốt lên ở quê, tuy chưa thành tựu lắm, thì anh qua đời. Các đồng sự của anh lo cho anh mồ yên mả đẹp. Bằng đá, rất to và chắc chắn.


Từ đó mắc kẹt mãi mãi.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 20, 2015 00:16

March 13, 2015

Dạy trẻ em đánh nhau

Trên báo mấy hôm nay, các nhà đạo đức học núp bóng từ học giả đến các nghệ sĩ biểu diễn lên giọng kể tội các em nữ sinh đánh hội đồng một nữ sinh khác. Đổ tội cho gia đình không biết dạy con. Than phiền là lũ trẻ thiếu giáo dục nên mới hung bạo như thế.


Xin đính chính ngay, bọn trẻ hung bạo ấy chính là sản phẩm hoàn hảo của nền giáo dục này. Vì giáo dục đầy đủ quá nên mới sinh ra như thế. Giả sử lũ trẻ ấy không đi học, có lẽ chúng nó sẽ hiền lành hơn, ít nhất hiểu được việc làm hại người khác là một việc ác và sẽ có lỗi với tự nhiên, với đất trời.


Trên ghế nhà trường, bọn trẻ con ngây thơ mắt đang sáng tự nhiên lại được học đủ các tấm gương oai hùng. Họ  là các dũng sĩ măng non, cầm súng đi diệt Mỹ diệt Ngụy từ tấm bé. Bọn trẻ con được học về các anh hùng trẻ tuổi, như cô Sáu, trở thành một hình tượng bất diệt nhờ đi ném lựu đạn giết người (dù có thể là người ác) ở lứa tuổi vị  thành niên. (Xem thêm các dũng sĩ măng non diệt Mỹ Ngụy ở phụ lục ở cuối bài).


Cũng ở trên ghế nhà trường, những trẻ em aka tương lai của đất nước, được học các tác phẩm, có thể có chút giá trị nào đó về văn học, nhưng hoàn toàn độc hại cho nhân cách trẻ em. Trẻ em phải học và thi về các nhân vật kiểu mẫu, mỗi khi gặp khó khăn, thay vì nỗ lực tìm giải pháp vượt qua, các nhân vật ấy giải quyết vấn đề rất tiêu cực:  vượt qua khó khăn bằng cách bán thân (bác Kiều), bán chó bán con đẻ (bác Dậu), chửi bới ăn vạ (bác Phèo). Thậm chí trẻ con phải học và thi về những thứ rất đau đầu: cướp chính quyền, đánh nhau thì ai có cuốc dùng cuốc (Bác Ông Cụ).


Đấy là trong nhà trường. Ngoài xã hội thì có một thời kỳ rất dài người ta làm văn hóa bằng cách: mỗi người làm một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa. Thật là hiếu chiến và sùng bái bạo lực. Ở mẫy giáo bây giờ (năm 2015) người ta vẫn dạy trẻ em, và cả trên Zing MP3 nữa, vẫn tồn tại bài hát có lời như sau:


“Đồn giặc cháy xác phơi đầy đồng

Bộ đội ơi cho bé em theo

đừng cười chê em bé tí teo

vác súng trên vai theo bước quân hành

nhằm giặc Mỹ súng em pằng pằng”.


Ngày xưa, thực ra cũng chưa xưa lắm, thời tôi và các đàn anh còn đi học phổ thông, nền giáo dục và văn hóa đặc sắc và đậm đặc các chất liệu bạo lực như thế.  Nên nạn trấn lột và bắt nạt nhau tràn lan ở Hà Nội. Học sinh cấp 3 trong cặp có con lê (hoặc dao găm) là việc bình thường. Những năm sau,  mặc dù giáo dục vẫn thế nhưng nhờ có mở cửa mà văn hóa (tư nhân và ngoại nhập) có thêm ít nhiều tính nhân văn, nên cái ác trong nhà trường giảm đi.


Nhưng hiện tượng nhân văn hóa trẻ em Việt Nam này diễn ra và lan tỏa rất chậm chạp. Khi mà ở Hà Nội học sinh bắt đầu hiền lành hơn, nhân văn hơn, thì ở các tỉnh lẻ mọi việc vẫn như cũ và cái ác (do tác động tiêu cực của đổi mới kinh tế, gây bất bình đẳng) trầm trọng hơn. Đó là vì giáo dục vẫn tàn ác thế, văn hóa tuyên truyền ở địa phương vẫn hiếu chiến thế, mà văn hóa nhân văn của tư nhân và ngoại nhân mới chỉ chập chững ở thành thị mà chưa lan được đến nông thôn.


Ngày qua ngày, ở các đô thị lớn, văn hóa nhân văn của tư nhân đè bẹp văn hóa hiếu chiến của nhà nước, thì giáo dục đành phải đơn côi gánh vác trách nhiệm truyền bá bạo lực cho lớp trẻ. Vậy nên học sinh thành phố bớt đánh nhau hơn ở nông thôn. Và ở nông thôn ngày nay, trẻ em đang được hòa mình trong nền giáo dục bạo lực và văn hóa hiếu chiến, giống như ở HN khoảng 30 năm trước đây.


Việc thay đổi giáo dục là bất khả. Làm sao mà bỏ Chí Phèo và cô Sáu ra khỏi sách giáo khoa bây giờ. Chưa kể chính giáo viên cũng là sản phẩm hoàn thiện của nền giáo dục phế phẩm ấy. Chưa kể thần tượng muôn đời của thanh niên Việt Nam chính là Thánh Gióng, một đứa trẻ đi đánh giặc. Việc đánh giặc (giết người) là việc của người lớn, của quân đội chính quy mà nước ta có từ thời Lê Hoàn. Không phải là việc của trẻ em mà chiến tranh nhân dân hô hào rát họng. Thánh Gióng còn là sự phản chiếu tâm thức bạc nhược bất lực của triều đình, khi mà Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đóng thì giấc mơ giải phóng đành gửi gắm vào một em bé thiếu nhi cưỡi ngựa sắt và roi sắt (phản chiếu công nghệ quân sự cao cấp) tự dưng có mà không biết ở đâu ra. Liệu có bố mẹ nào tự hào có đứa con ba tuổi ra trận giết người? Vậy mà ở Việt Nam lại có.


Cách duy nhất để cứu trẻ em, là mang về nông thôn một nền văn hóa tư nhân lành mạnh, yêu lao động và lương thiện. Kể cả là mang về quê văn hóa ngoại nhập kiểu K-Pop, vẫn cứ là có ích. Việc này rất quan trọng, bởi 70% thanh thiếu niên Việt Nam đang sống ở nông thôn.


Và một cách nữa dễ hơn, đừng dạy những thứ thiếu nhân cách trong nhà trường nữa. Nếu chưa biết dạy cái gì cho tốt, thì bỏ quách nó đi, chỉ dạy trẻ em biết chữ, biết toán lý hóa, biết vẽ bầu trời màu xanh và biết đủ bảy nốt nhạc. Còn hơn dạy đủ thứ bạo lực như bây giờ.


Để minh họa, tôi copy dưới đây một bài viết từ website của tỉnh đoàn, đăng ngày 22/04/2011.  Trong bài viết này, có em bé tuổi vị thành niên đã kịp giết 80 tên địch.


Kể chuyện dũng sĩ diệt mỹ măng non ở miền Nam


“Hướng tới chào mừng Ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất Đất nước (30/4/1975 – 30/4/2011), xin giới thiệu cùng các bạn thiếu nhi Cà Mau những dũng sỹ diệt Mỹ nhỏ tuổi ở miền Nam, đây là những tấm gương tiêu biểu được các thế hệ thiếu nhi cả nước quí mến!”









* Đoàn Văn Luyện: Quê Quảng Ngãi, căm thù giặc giết mẹ, giết em, Luyện nghĩ cách trả thù , tiêu diệt giặc. Mới đầu, Luyện cùng các bạn trong sớm bày mưu lấy súng của giặc cho các anh du kích. Sau, em xin cùng đi đánh. Các anh không cho. Luyện lẳng lặng mạng lựu đạn phục kích định hạ chiếc trực thăng Mỹ.Không đánh được, Luyện quăng trái lựu đạn vào tụi Mỹ, giết 5 tên. Các anh du kích biết tin, vừa khen em dũng cảm, vừa phê bình em tự ý chiến đấu không báo cáo ai, có thể gây nguy hiểm. luyện nhận ra lỗi của mình, lần sau trong trận đánh trả thù cho anh Nguyễn Văn Trỗi, Luyện đã được các chú trong xã cho đánh. Em gài mìn bẫy giặc rất mưu trí và diệt thêm 9 tên nữa. Thành tích giết giặc đó đã đưa em tới danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ nhỏ tuổi”.* Hồ Văn Mên: Trước những tội ác vô cùng dã man của giặc Mỹ và tai sai đối với đồng bào, bà con ở xã; căm thù quân giặc giết cha, Mên xin được đi đánh giặc. Được bà con và các chú cho đi, Mên liền rủ thêm bạn, lập thành một nhóm đánh giặc. Mên đánh giặc nhiều lúc, bằng nhiều cách, cả bọn lính Mỹ đánh bộ lẫn bọn đi xe tăng, xe cơ giới. khi gài mìn, lúc bắn súng, quăng lựu đạn, bằng nhiều cách khác nhau, Mên đã tiêu diệt gần 80 tên địch gần gấp 6 lần tuổi mình. Tại đại hội chiến sỹ thi đua tỉnh, Mên được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh tặng 3 danh hiệu: “Dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt cơ giới và dũng sĩ quyết thắng cấp ưu tú”. Đại hội nhất trí bầu mên là chiến sĩ thi đua số một của lực lượng vỏ trang nhân dân giải phóng Thủ Dầu Một. Tại đại hội anh hùng chiến si thi đua toàn miền Nam, em được cô Phó tư lệnh Nguyễn Thị Định gọi tới chụp ảnh chung, em chỉ mới cao hơn vai cô một chút. 

* Kơ- Pa – Kơ – Lơng: Người đội viên anh hùng của núi rừng Bơ – lây- me… Sau trở thành anh hùng quân đội, đã có một tuổi thiếu niên vô cùng oanh liệt. Đến tuổi vào Đội, thì lúc đó Kơ- Pa – Kơ – Lơng gia nhập du kích đánh giặc bằng vũ khí thô sơ. Ở Gia Lai – Tây Nguyên nơi núi rừng quê hương em, bắt đầu giết thằng giặc Mỹ bằng mũi ná tẩm thuốc độc rồi mới cướp súng của chúng mà bắn chúng. Rồi, Kơ- Pa – Kơ – Lơng đánh mìn. Mìn của em có “mắt”, giúp em đánh tang 8 xe quân sự giặc và tiêu diệt 88 tên. Kơ- Pa – Kơ – Lơng nhiều lần được tặng danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ. Mười lăm tuổi, đánh tổng cộng 30 trận, khi trở thành chiến sỹ giải phóng, anh lại được tuyên dương là anh hùng các Lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam./.






Trí Dũng (Sưu tâm)



 


Còn đây là tiểu sử Hồ Văn Mên, lấy từ website của một trường học: http://www.tieuhoctranquoctuanquynhon.com/index.php?option=com_content&view=article&id=835:tiu-s-h-vn-men&catid=65:truyn-cac-loi&Itemid=107


“Hồ Văn Mên sinh năm 1953 tại ấp Thạnh Lộc, xã An Thạnh, huyện Lái Thiêu, tỉnh Sông Bé trong một gia đình nghèo. Lên 6 tuổi, mồ côi mẹ. Năm 10 tuổi, cha bị bọn Mỹ Ngụy bắt đánh đập tàn phế rồi giết chết. Hồ Văn Mên liền vào đội thiếu nhi tham gia giết giặc từ đấy. Đến năm 13 tuổi, Mên đã 3 năm làm cách mạng, tham gia 7 trận lớn nhỏ, diệt 79 tên địch bao gồm các thứ lính, sĩ quan Mỹ, ngụy, lính Pắc-chung-hy (lính ngụy Triều Tiên) cùng nhiều xe cơ giới của địch.”


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 13, 2015 08:00

March 1, 2015

Tư lộn cái lềnh

Trên thời sự VTV cách đây mấy hôm, cô phóng viên phỏng vấn ông bộ trưởng Bộ Giáo Dục, gọi ông này là Tư Lệnh. Cô còn nhắc đến một lần chính ông bộ trưởng phát biểu rằng “cải cách giáo dục là trận đánh lớn”.


Bộ trưởng Bộ Giao Thông cũng hay được gọi là Tư Lệnh.


Thời bình mà cứ như thời loạn, sắp đánh nhau đến nơi. Vậy mà cứ đòi tiến lên xã hội dân sự.


Việc sử dụng danh từ quân sự trong ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ chính trị thời sự có cái gì đó rất bệnh hoạn và có tác hại xã hội rất lớn (với ngôn ngữ kinh doanh, hoặc thể thao thì tạm được vì nó có tính đối kháng, cạnh tranh).


Căn nguyên của việc sử dụng từ quân sự trong đời thường không chỉ là tàn dư của hai cuộc chiến tranh mà là di sản chính trị của rất nhiều thế kỷ.


Từ thời Lê, hoặc ít nhất (và rõ nét nhất) là  từ thời Trịnh –Nguyễn cho tới gần đây nước Việt Nam luôn sống dưới một nhà nước độc tài (phong kiến hoặc ĐCS) và được một chính phủ quân sự vận hành. Trên là một ông vua, dưới là chính quyền quân sự do hai chúa Trịnh Nguyễn nắm ở hai đàng. Thời Quang Trung (ngoài bắc) và Thái Đức (trong nam) thì toàn tướng lĩnh nắm quyền. Thời hiện đại, Việt Nam mới manh nha phi quân sự chính quyền rất gần đây (khoảng 30 năm),bắt đầu từ những năm hậu chiến thời Lê Duẩn (lưu ý: phi chính trị quân đội và phi quân sự chính phủ là hai mặt để giải quyết cùng một vấn đề). Nhân nói đến ông Ba Duẩn, nhận thấy nước ta có Ba anh Ba.


Anh Paul Ba đi xuất khẩu lao động bằng nghề rửa bát, sau qua Châu Âu thấy làm nghề  lao động không ăn thua, anh bèn làm cách mạng. Anh Ba Duẩn cũng làm cách mạng, đánh Mỹ rồi đánh Tàu rất ác. Anh Ba Duẩn làm nhiều rất điều kỳ thú,động cơ đằng sau thì không rõ, nhưng kết quả rất đặc biệt và có ý nghĩa lâu dài với quốc dân.Ví dụ nhờ chính sách của anh Ba Duẩn mà nước VN là nước hiếm hoi trong khu vực mà người Hoa không gây được ảnh hưởng kinh tế gì. Hoặc không biết vì lý do gì mà anh Ba Duẩn và anh Sáu Búa cho phe quân đội re kèn, khiến cho VN thành chính quyền phi quân sự rất sớm, sớm hơn các nước độc tài quân sự như ở Mỹ Latin, Hàn Quốc, Myanmar, Indonesia … (thử nghĩ anh Ba mà tự phong cho mình chức thống chế xem sao). Anh Ba thứ ba là anh Ba giải phương trình. Anh Ba này ngày càng tỏa sáng, số lượng fan của anh đang tăng với tốc độ chóng mặt.


Vì sống quá lâu, hàng trăm năm, dưới chính quyền quân sự nên tâm lý nhân dân và cách hành xử luôn có xu hướng sùng bái bạo lực. Ngày xưa các vị sĩ phu và phong trào cần vương của họ, dù giương ngọn cờ yêu nước (tức là cần đoàn kết các lực lượng) nhưng vẫn sử dụng bạo lực để giải quyết những người yêu nước mà khác chính kiến với mình. Đặc biệt là với những người khác tôn giáo. Di sản tồi tệ lan qua các đảng phái chính trị chống Pháp, rồi kéo dài đến tận bây giờ. Một ví dụ là Nguyễn Phương Thảo bị các đồng chí trong đảng của mình (QDĐ) ám sát trong tù, thoát chết, chột một mắt, ra tù qua Việt Minh trở thành Nguyễn Bình, rồi trở thành ông tổ của các hoạt động đánh mìn trong nội đô Sài Gòn, tiền thân của biệt động Sài Gòn sau này


Cho đến thế kỷ 21 này, ngay ở nơi công cộng người Việt vẫn hồn nhiên xửng cồ với nhau, thậm chí với thái độ rất thô bạo, khi tranh luận hoặc tranh chấp với nhau. Thậm chí các lời đe dọa kiểu “Mày thích chết à?” vẫn được xã hội chấp nhận một cách rất bình thường. Trong khi ở một xã hội khác văn minh hơn thì đe dọa như vậy có thể dẫn nhau đến tòa án. Những lời đe dọa có bề ngoài hoa mỹ hơn kiểu như “Tôi sẽ đưa việc này lên báo” cũng có thể đưa người đe dọa vào vòng lao lí.


Nhưng thế vẫn chưa ăn thua. Ở Việt Nam người ta còn lên báo dọa “trảm” nhau.


Ông bộ trưởng giao thông là người rất hay dọa “trảm” tướng ở trên báo. Chắc chỉ có ở Việt Nam mới có kiểu chính trị gia lên báo dọa “chém” người khác từ năm này qua năm khác như thế. Ở một xã hội nào đó hiền lành hơn, chắc dân chúng thấy một ông bộ trưởng phát ngôn khát máu như vậy họ phải phát khiếp. Ở Việt Nam thì lại quần chúng mê tít. Tại sao quần chúng lại thích một phong cách lãnh đạo đậm chất đe dọa và bạo lực như vậy? Tại sao các lãnh đạo chính trị hoàn toàn dân sự lại thích “phong” mình thành thống chế rồi coi nhân viên dưới quyền mình như tiểu tướng và dọa “chém” suốt ngày. Cấp dưới có phải con lợn làng Ném Thượng đâu?


Chị phóng viên gọi bộ trưởng là tư lệnh, anh bộ trưởng dọa trảm tướng cấp dưới, mấy ngàn người đánh nhau trong tết phải nhập viện, cả làng xúm nhau đánh chết trộm chó … là các hành vi khác nhau nhưng có chung bản chất: sùng bái bạo lực, thích dùng bạo lực để giải quyết nhanh gọn vấn đề. Tâm lý ấy kéo dài hàng nhiều thế kỷ, lại càng trầm trọng hơn trong những năm gần đây khi nhân cách của văn hóa bình dân bị xuống cấp. Nhân cách của văn hóa bình dân ở Việt Nam, về cơ bản đã bị bào mòn sau hai cuộc chiến tranh và gần như mất hẳn sau những năm đổi mới hỗn loạn và man rợ. Hầu hết người Việt bây giờ là bình dân, và thẳng thắn mà nói là không thể chữa được căn bệnh tâm lý mọi rợ sùng bái bạo lực này. Không thể cứu được xã hội này nữa rồi.


Mình không cứu được mình, những phải cứu các thế hệ sau, không để  con cháu của chúng ta bị nhiễm căn bệnh ưa bạo lực kinh niên này chứ?


Việc đầu tiên và dễ thực hiện nhất, là chấm dứt việc sử  dụng các từ quân sự trong đời thường. Cách chức thì nói là cách chức, chứ trảm cái gì mà trảm. Bộ trưởng thì gọi là bộ trưởng, sao mà phải tư lệnh ngành, có mà tư lộn cái lềnh.


Sau là phải bắt chước Kant (cho tí triết vào cho sang). Ông này ngày xưa chống siêu hình giáo điều bằng cách viết cuốn sách danh tiếng nhưng không ai hiểu là “Phê phán lý tính suông”. Nay chúng ta cũng phải chống lại các kiểu học tập tấm gương đạo đức suông, học tập tư tưởng suông mà truyền thông nhà nước ra rả mấy năm nay. Học tấm gương đạo đức và tư tưởng để rồi cả xã hội cứ hơi tí là chửi bới nhau rồi nhảy tỉn nhau, thì học làm cái gì.


Công sức hô hào học tập với noi gương, nên dành ra để cố gắng dân sự hóa cái xã hội này. Dân sự hóa xã hội Việt Nam là cái duy nhất chúng ta có thể đi tắt (nhưng không đón đầu).


Muốn sánh vai cùng các cường quốc dân sự năm châu, việc đầu tiên phải dân sự hóa xã hội mình cái đã.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 01, 2015 07:34

February 23, 2015

Long Nhượng Tướng Quân

Nguyễn Đức Thành có lần trả lời câu hỏi ‘Ai là nhà vua lập quốc, Nguyễn Ánh hay Nguyễn Huệ” như sau: Nguyễn Huệ có công san lấp mặt bằng, Nguyễn Ánh lập quốc.


Quả thực, đế quốc Đại Nam của Minh Mạng, mọc lên từ nước Việt Nam của Gia Long Nguyễn Ánh. Nước Việt Nam của Nguyễn Ánh được xây trên hoang tàn của ba mươi năm nội chiến. Một hoang tàn đổ nát tận gốc rễ xã hội mà di sản tồi tệ của nó còn tồn tại đến tận ngày nay. Bù lại, 30 năm nội chiến ấy đã thống nhất đất nước cả về địa lý: cao nguyên, đàng trong, đàng ngoài; cả về thể chế chính trị: cho vua Lê – chúa Trịnh ở Đàng Ngoài  và chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào sọt rác. Xóa bài làm lại từ đầu.


Công cuộc san lấp mặt bằng cấp quốc gia của Nguyễn Huệ bắt đầu khi ông 24 tuổi (1777), cùng Nguyễn Lữ cầm quân chinh phạt Gia Định, giết chúa Nguyễn lúc đó là Nguyễn Phúc Thuần; và rồi kết thúc năm khi ông 36 tuổi (1789) bằng chiến dịch nay được gọi là chiến dịch Việt – Thanh, đánh trong vòng 5 ngày sạch bách liên quân nhà Lê (Chiêu Thống) và nhà Thanh (Càn Long – Tôn Sĩ Nghị). Danh tướng Hứa Thế Hanh của Càn Long bị đập phát vỡ tan ở chuỗi phòng ngự Hạ Hồi – Ngọc Hồi. Hậu duệ của ông tướng này là Hứa Thế Hữu sau cũng vâng lời Đặng Tiểu Bình qua Việt Nam đánh nhau thua nhưng về nước vẫn được báo công (cách đây mấy năm báo Hà Nội Mới có bài ca ngợi Hứa Thế Hữu hết lời).


Là thiên tài quân sự, Nguyễn Huệ có nhiều cái để đời sau ngưỡng mộ. Cá nhân tôi thích nhất Nguyễn Huệ ở tài luyện binh và đốc binh. Nguyễn Huệ luyện binh giỏi đến nỗi pháo binh (hạng nhẹ) của Tây Sơn bắn chính xác hơn bộ binh dùng súng trường (lúc đó Tây Sơn đã mua súng trường châu Âu). Quân chủ lực của Tây Sơn (thân binh) không chỉ bắn pháo, bắn súng trường, bắn hỏa hổ (một loại hỏa tiễn cầm tay rất hiện đại hồi đó dùng để bắn tàu trên sông nước, đặc sản của Tây Sơn, sau được chế lại để đánh trên bộ ở cự ly gần), mà còn cực kỳ kỷ luật. Kỷ luật thép. Đã vào trận chỉ có tiến, quay đầu lại là bị xử chém. Bản thân Nguyễn Huệ cũng bắn pháo rất giỏi và luôn cưỡi voi đi ở tuyến đầu. Trong trận Ngọc Hồi, lính Tây Sơn thấy vua cưỡi voi an toàn, nên tấn công nhụt chí (quân Thanh hồi đó rất giỏi địa lôi trong phòng ngự), Nguyễn Huệ bỏ voi xuống dùng ngựa, cổ quấn khăn vàng, bỏ pháo mà dùng song kiếm chém giết quân địch. Giải phóng thủ đô áo bào khét thuốc súng. Tướng lĩnh sau này may ra có Lê Trọng Tấn được một chút như vậy.


Chiến dịch Việt – Thanh còn thể hiện một tài năng tầm cỡ Hannibal của Nguyễn Huệ, vốn đã thể hiện một lần thoáng qua trong chiến dịch Rạch Gầm Xoài Mút đánh liên quân Xiêm, Lào, Khmer và Nguyễn (Ánh): đánh vận động chiến. Ngoài mũi chủ lực đánh thẳng vào tuyến phòng ngự của Hứa Thế Hanh từ Phú Xuyên về đến Thăng Long, thì các mũi vu hồi, đặc biệt là thủy quân, đã làm tan nát trận địa phòng ngự ở đồng bằng sông Hồng của Tôn Sĩ Nghị (bao gồm cả quân đội của Lê Chiêu Thống) chỉ trong mấy ngày Tết.


Chiến dịch Định Tường aka Rạch Gầm Xoài Mút còn thể hiện tài năng của Nguyễn Huệ ở ba lĩnh vực: quân báo, lính thông tin và chiến tranh tâm lý. Nhờ quân báo mà Nguyễn Huệ nắm được hết thông tin quân sự của liên quân Xiêm Nguyễn Khmer và Hạ Lào. Các ngả tiến quân của liên quân này  qua đường sông (vào Gia Định) và đường bộ (nhằm đánh thẳng vào An Khê thủ phủ Tây Sơn rồi kéo xuống Nam Trung Bộ) với âm mưu chiếm toàn bộ Đàng Trong đã bị Nguyễn Huệ bắt bài.


Ở đây cần nhắc đến tư duy kiến quốc của một nhân vật bị lịch sử coi nhẹ là Nguyễn Nhạc. An Khê hồi đó, và cả bây giờ, có vị chí địa lý rất chiến lược, kết nối Hạ Lào, Tây Nguyên, và duyên hải Nam Trung Bộ. Khống chế được An Khê là khống chế được một nửa Đông Dương bằng quân đội. Nguyễn Nhạc luôn có tư duy lập một quốc gia gồm Đàng Trong, Hạ Lào, và vùng đất Cambodia ngày nay (lúc đó đang chịu ảnh hưởng của Xiêm). Sau trận Rạch Gầm, quân Xiêm hãi đến mức bỏ lơi cả vùng Cambodia, nêntự nhiên dân Khmer độc lập được mấy năm sau đó. Nhưng tham vọng của Nguyễn Huệ lớn hơn Nguyễn Nhạc, sinh lục đục, nên Nguyễn Huệ bắc tiến, để lại miền trong cho ông anh, kết cuộc Nguyễn Nhạc lỡ cơ hội lập quốc của mình.


Với tư duy như vậy, nên con rể của Nguyễn Nhạc là Trương Văn Đa nắm toàn bộ quân do thám của Tây Sơn thả đi khắp các miền từ Xiêm đến Hạ Lào, từ Gia Định đến Hà Tiên. Mọi thông tin từ liên quân Xiêm và Nguyễn Ánh đều được báo về cho Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ. Khi lâm trận, chính quân của Trương Văn Đa bắn chết Châu Văn Tiếp là siêu nhân (gốc thương lái Hoa Kiều) của Nguyễn Ánh. Tiếp là người lặn lội qua Vọng Các đón Nguyễn Ánh trở về.


Trận Rạch Gầm Xoài Mút và Trận Ngọc Hồi Đống Đa đều đánh ban đêm. Trận Rạch Gầm rất phức tạp vì Tây Sơn dùng cả bộ binh và thủy binh để đánh thủy quân Xiêm Nguyễn. Không những thế còn đánh xen kẽ (đánh vào giữa hai đoàn thuyền của Nguyễn và của Xiêm). Thế mà bắn hỏa hổ (hỏa tiễn cầm tay) như điên trong đêm mà địch chết ta không làm sao. Ấy là nhờ lính thông tin của Tây Sơn dùng trống hiệu để liên lạc với nhau, chỉ huy đánh chỗ nọ phối hợp chỗ kia. Chính vì lý do trống hiệu của Tây Sơn quan trọng như vậy khi quân Tây Sơn chiếm đóng Thăng Long, đã cấm dân không được đánh trống, từ lễ hội đến ma chay đều bị cấm đánh trống.


Trống trận Tây Sơn đã thất truyền. Công thức chế đạn hỏa hổ cũng thất truyền. Nghệ thuật chiến tranh đỉnh cao của Nguyễn Huệ chắc cũng thất truyền. Kể từ đó ta toàn đánh du kích hehehehehe.


Cứ mỗi độ xuân về, người ta lại kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, rồi …hết Tết.


Cũng không ai chịu nhớ là đô đốc Đặng Tiến Đông chưa chắc đã tên là Đông mà tên là Giản. Và quan trọng hơn, ông này chưa bao giờ đánh trận Đống Đa. Người đánh Đống Đa tên là Long. Nhưng chưa biết là Long nào (Đặng Văn Long, Lê Văn Long, Nguyễn Tăng Long). Nhưng dù là Long nào, cũng chỉ là một tiểu tướng của thiên tài Nguyễn Huệ.


Con đường của rồng.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 23, 2015 05:13

February 1, 2015

Tuyên huấn Vịt

Ai ở ngoài bắc thời kỳ đóng cửa, sẽ không quên được loa truyền-thanh.


Nó là hệ thống truyền thanh kéo đến từng khu tập thể, vào tận hộ gia đình. Loa không cần pin hay điện, tự nó kêu. Cũng không có nhiều “kênh” để lựa chọn, chỉ có một nút để chỉnh to nhỏ.


Hồi đấy tất nhiên không có internet. Không cả truyền-hình.


Chỉ có “Đài tiếng nói Việt Nam – phát đi từ Hà Nội”. Mãi sau này có thêm các đài địa phương và sau nữa là FM.


Ngoài dùng mắt để đọc báo Nhân Dân, toàn dân chỉ có một kênh thông tin duy nhất để nhập liệu bằng tai. Mọi người phải nghe một thứ giống nhau.


Ngây ngô thế mà lại hay phát nhạc …cổ điển. Có giới thiệu đàng hoàng. Tên nhạc sĩ toàn nghe bằng tai, không biết mặt chữ thế nào. Văn hóa này kéo dài mãi về sau, ngay cả khi đã có truyền hình và sóng ngắn FM để nghe qua radio nhập khẩu của Nhật.


Có một bài hát rất oách, các bác thử đoán xem là bài gì. Là bài “Khúc hát Nàng Son Vếch” của nhạc sĩ “Gờ-Rích” do Lê Dung trình bày. Hay vãi chưởng. Sau này có youtube, lên nghe tây hát “Solveig’s song” , so với họ mới biết Lê Dung chưa bằng lỗ đít con vi trùng. Nhưng mà nhớ lại vẫn thấy hay.


Sau có mạng, mới dò từ Grieg ra Ibsen, rồi từ Ibsen ra Kierkegaard (bác Ibsen hăng hái lăng xê bác Kierkegaard). Bác Kierkegaard này chết rất lâu rồi mới nổi. Chết năm 1855 mà hình như đến 1910 mới được dịch ra tiếng Đức. Nghe đồn Kafka đọc xong phát mê tít. Bác Kier nay được coi là tổ sư hiện sinh. Bạn nào đọc Huyền thoại Sisyphus (NXB Trẻ dịch là Thần thoại Sisyphus) sẽ thấy bác Kier đứng cùng lố nhố một lô các bác sư tổ hiện sinh. Cuốn này, phần kết thúc, Camus viết một đoạn dài về Kafka, hay vãi đạn.


Tinh thần hiện sinh ở khía cạnh đề cao cá nhân của bác Kier xuất hiện ở khá nhiều nơi, mà có khi ta không để ý. Ví dụ câu nói bám lề là việc của bầy cừu, rất gần gũi với Kier.


Bác Kier kính Chúa mà ghét nhà thờ (giáo hội). Giáo hội đã quá xa rời quần chúng, biến báo thông điệp của Chúa để ru ngủ giáo dân vàbảo vệ quyền lực độc tôn của mình.


Để đả phá nhà thờ bác ấy viết truyện “Tuyên Huấn Vịt”. Bản tiếng Anh gúc chữ “Duck Church” là ra. Có hai từ khóa của câu chuyện rất vắn này:một là wings (đôi cánh), hai là waddle (đi lạch bạch).


Bản tiếng Việt như sau.


Có một xứ sở anh hùng, dân toàn là Vịt. Chi bộ cũng toàn Vịt, tất nhiên. Bí thư, tuyên huấn cũng là Vịt, và được trả lương để quạc quạc.


Một ngày đẹp trời, lũ vịt lạch bạch kéo nhau đi họp.


Bí thư mở nghị quyết ra đọc. Nghị quyết nói về món quà quý giá mà Người đã ban cho loài Vịt: Đôi cánh.


Với đôi cánh, Vịt bí thư đọc, dân Vịt chúng ta có thể vỗ cánh bay cùng cường quốc năm châu, quạc vang bảy tầng trời. Chúng ta thoát khỏi gông cùm nô lệ để sống đời hạnh phúc tự do. Chúng ta phải biết ơn Người, đã cho ta đôi cánh vịt.


Dân Vịt cảm xúc trào dâng, đứng thẳng trên đôi chân, hô to “Muôn Năm”.


Rồi tất cả dân Vịt quay lưng lạch bạch bước về nhà, không nhớ mình đã được ban cho đôi cánh.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 01, 2015 20:35

October 30, 2014

Chiếm và Giữ

Dùng bản đồ quân sự thời đánh nhau Nam Bắc 1967-1975 để đọc các sách về các map21bchiến dịch của …Quang Trung ở phía nam thấy rất thích. Nói cách khác, đọc sách về các chiến dịch quân sự ở Đàng Trong của Quang Trung, ta nên dùng bản đồ quân sự của chiến tranh Việt Nam, sẽ thấy rất dễ hiểu.


Đọc các chiến dịch của Quang Trung và của các tướng bên phe Nguyễn Anh ở Gia Định, rồi đọc về chiến tranh Việt nam giai đoạn 1967-1975, rồi xem bản đồ (giờ trên internet có rất nhiều), lờ mờ nhận ra: Miền Nam (nam trung bộ đổ vào) rất dễ đánh, dễ chiếm và đồng nghĩa là rất khó giữ. Quang Trung cũng thấy vậy nên không cố công mà giữ. Tất nhiên vì không bỏ công ra giữ nên Đàng Trong trở thành bàn đạp để Nguyễn Ánh lập quốc (và tất nhiên sau khi Quang Trung chết).


Cũng có thể lờ mờ nhận ra một điều nữa: vai trò của Cambodia rất quan trọng. Bình định được nước láng giếng này thì an toàn cho Cao nguyên và vùng biển Hà Tiên, tức là một không gian cực kỳ lớn. Đồng thời ổn định được quan hệ kiểu viễn giao với Thailand và Myanmar. Cho nên việc Việt Nam qua Cambodia xử lý Khmer Rouge có tác hại (khốc liệt) trong ngắn hạn, nhưng có lợi ích trong dài hạn. Đây cũng có thể là lý do mà Ngô Đình Nhu quyết lật đổ chỉnh quyền ở Cambodia bằng đảo chính mà thất bại nặng, để lại một đống tai họa góp phần đưa quân đội VNCH sau này của tổng thống Thiệu vào thế yếu. Mặc dù nhìn trên bản đồ, thấy quân đội VNCH bố trí đẹp ra phết, Quang Trung còn sống chắc cũng chỉ nghĩ đến thế là cùng. Nhưng mất Cambodia, và quân đội đánh đấm và phối hợp kém, rồi Mỹ ký Paris, thì  ở cái vùng dễ chiếm khó giữ này, thua mới là đúng.


Một điều lờ mờ nữa, là không chỉ quân sự mà chính trị ở Miền Nam cũng cho thấy lãnh đạo quốc gia thì tiên quyết là phải an toàn về mặt chính trị. Bất cứ nguy hiểm chính trị nào đều có thể dẫn đến hỏng việc lớn. Mà nguy hiểm chính trị có thể đến từ những ngóc ngách bất ngờ. Ở ngoài bắc, vì nhiều lý do (gần ngàn năm Tàu thuộc, rồi gần ngàn năm chịu ảnh hưởng bảo hộ của Tàu, mãi cho đến hiệp ước Thiên Tân của Pháp mới chấm dứt), lại có chính quyền hiện đại do Liên Xô đào tạo bài bản, nên chính trị rất chặt chẽ, kém tiến hóa. Còn miền nam lỏng hơn, suốt từ thời Dương Ngạn Địch đến thời Nguyễn Văn Thiệu, miền nam chính trị rất lỏng, thời đệ nhị cộng hòa lại khá là cởi mở, nên các nhân vật thành công hầu hết là chuyên nghiệp hơn hẳn các đối thủ về chính trị, và nhờ đỏ an toàn hơn hẳn trong việc nắm quyền. Ngay sau khi lên chức, chắc tổng thống Thiệu cũng thấy vậy nên ra đòn sớm (nhờ hỗ trợ kỹ thuật chính trị của CIA) và ra đòn quyết liệt hơn vào những năm cuối, nhưng vẫn quá muộn. Sau đổi mới, chính trị ở Việt Nam đã lỏng ra, dù nhiều lần bị xiết. Chính trị lỏng ra là rất tốt về mặt xã hội, lại cũng rất tốt ở chỗ các chính trị gia buộc phải chuyên nghiệp và khôn ngoan hơn. Các chính trị gia chuyên nghiệp nhất, kỹ năng tốt nhất, đứng ở các chỗ bị cạnh tranh nhất, thì thực tế (trên đài báo ti vi) đều nổi hơn các vị khác.


Nhiều thứ lờ mờ, nhưng có một điều chắc chắn: Nguyễn Huệ bỏ Gia Định lại cho Nguyễn Lữ, nên ngày nay chúng ta có nước Việt Nam, hehehe.


 


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 30, 2014 21:59

October 20, 2014

Air America

Bức ảnh nổi tiếng về sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 là bức ảnh có caption “Cuộc di tản bằng trực thăng trên nóc nhà tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn ngày 30 tháng 4”. Ảnh do Hubert Van Es lúc đó làm cho United Press chụp.


Bức ảnh này được chụp khoảng 2:30 giờ chiều ngày 29 tháng 4 năm 1975. Tòa nhà trong ảnh không phải là tòa nhà đại sứ Mỹ  (nay đã bị phá và xây tòa lãnh sự mới) mà là tòa nhà Pittman Apartments ở 22 Gia Long (nay là 22 Lý Tự Trọng, nằm cạnh trường Trần Đại Nghĩa, đi xuôi Đồng Khởi, rẽ trái độ vài chục mét là tới). Hubert Van Es chụp bức ảnh này từ ban công office của mình trên tòa nhà khách sạn Peninsula Hotel.


Cái máy bay Huey nhỏ trong tấm hình nổi tiếng này cũng không phải là trực thăng của hải quân Mỹ, mà là của Air America, một hãng hàng không tư nhân do CIA bí mật sở hữu.


Chỉ trong riêng hai ngày 29 và 30 tháng 4 năm 1975 đã có 7,014 người được đưa ra tàu của hải quân Mỹ bằng máy bay, trong đó Air America được ghi nhận thành tích không vận khoảng hơn 1000 (có tài liệu nói tới 5,595 ) người ra tàu của hải quân Mỹ, hoặc tới các điểm trung chuyển (tòa đại sứ, cơ sở của DAO ở sân bay Tan Sơn Nhất, Cam Ranh). Máy bay của hải quân Hoa Kỳ chủ yếu bay từ sân tennis của tòa đại sứ hoặc từ Tân Sơn Nhất, Cam Ranh ra tàu quân sự ngoài biển.


Các chuyến giải cứu của Air America tromh những ngày cuối cùng của Sài Gòn trước khi sụp đổ khá ngoạn mục. Các cú hạ cánh lên nóc nhà trong thành phố (Sài Gòn và Cần Thơ) đều là do Air America dùng trực thăng thực hiện. Các phi công của Air America cũng sử dụng máy bay vận tải để di tản người từ căn cứ lớn nhất của họ ở Việt Nam là Đà Nẵng ra Cam Ranh.


Trong số những người di tản bằng trực thăng từ nóc tòa nhà Pittman có Trần Văn Đôn và Trần Kim Tuyến.


Đây là lần thứ hai Air America tham gia không vận ở Việt Nam. Năm 1954 họ tham gia cầu hàng không lớn nhất thế giới ở thời điểm ấy, chuyển được khoảng 20 ngàn người di cư từ miền bắc vào nam. Trong các chuyến bay ngược từ Nam ra Bắc họ chở biệt kích, điện đài, súng và thuốc nổ để phục vụ các chiến dịch phá hoại miền bắc sau 1954. Các chiến dịch này đều liên quan đến Landale và Conein. Conein lúc này sử dụng vỏ bọc MAAG và có văn phòng ở Hà Nội, chi nhánh ở Hải Phòng. Nhiệm vụ bề mặt của văn phòng này là giám sát di cư ở đầu miền bắc. Ở Hải Phòng vũ khí được chôn ở nghĩa trang thông qua các đám ma giả. Ở đồng bằng bắc bộ, vũ khí thuốc nổ và điện đài được chôn dọc theo sông Hồng, mãi đến năm 1964 miền Bắc mới tìm được vài  kho vũ khí bí mật này. Điệp viên gửi ra miền bắc bằng máy bay của Air America sau đều sợ quá nên lại… lên tàu di cư vào Nam cùng những người lính Pháp cuối cùng. Các người nhái được đào tạo và thả từ biển vào hoặc biệt kích nhảy dù sau 1954 đều bị bắt và giam đến 1975. Người làm thất bại các chiến dịch phá hoại hậu phương này được cho là Phạm Xuân Ẩn và các bạn của ông.


Air America hình thành khá sớm khi quân đội Hoa Kỳ còn đang phối hợp với quân đội của Tưởng Giới Thạch ở Đại Lục. Chuyến bay đầu tiên được thực hiện ngày 31 tháng Giêng năm 1947, C-47 bay từ Thượng Hải đến Quảng Đông.  Ngày 24 tháng 9 năm 1948 họ thực hiện chuyến bay quốc tế đầu tiên từ Côn Minh đến Hải Phòng. Đầu năm 1950 sau khi Tưởng thua Mao, hãng hàng không chính thức thành lập với tên Civil Air Transport (CAT ) ở bang Delaware Hoa Kỳ. Các máy bay của hãng được đăng ký ở Đài Loan. Trước đó, CAT đã được ghi nhận là hãng vận tải hàng không lớn thứ 2 trên thế giới.


Tháng 6 năm 1953 hãng bắt đầu hỗ trợ quân đội Pháp ở Bắc Việt bằng cách tiếp vận cho quân đội Pháp ở biên giới Việt Lào. Đầu tháng 5, các phi công của CAT được gọi đến (căn cứ) Clark Air Force Base của Mỹ ở Phillippines để học cấp tốc 72 tiếng đồng hồ cách lái máy bay C-119 của quân đội Mỹ. Sau đó họ thực hiện sáu chuyến bay dùng C-119 sơn cờ Pháp tới Gia Lâm. Từ đây họ bay các chuyến bay thả dù tiếp viện cho quân Pháp ở biên giới Việt Lào.


Đến tháng Giêng năm 1954, chính phủ Mỹ lại yêu cầu CAT phục vụ quân đội Pháp. Đến ngày 3 tháng 3 thì ký hợp đồng. Hai tư phi công của CAT lái máy bay C-119 từ Cát Bi lên Điện Biên Phủ thả dù. Họ thực hiện 682 lần thả dù từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 là ngày Điện Biên thất thủ. Bị Việt Minh bắn rơi một máy bay. Hai phi công chết.


Năm 1954, sau khi Geneva được ký, CAT  dùng 12 chiếc C-46 tham gia chiến dịch Operation Cognac không người di cư từ Bắc vào Nam. Từ ngày 22 tháng Tám đến mùng 4 tháng 10 năm 1954, CAT đã không vận 19,808 người, bao gồm cả trẻ em ra khỏi miền bắc Việt Nam.


Ngày 26 tháng 3 năm 1959 hãng được đổi tên thành Air America, do CIA bí bật sở hữu thông qua một công ty tên là Pacific.


Tưởng Kinh Quốc, con trai của Tưởng Giới Thạch, đi theo tư tưởng của cha mình là sử dụng các lực lượng quốc gia ở khắp nơi để ủng hộ thế giới tự do.  Do được đào tạo ở Liên Xô, Kinh Quốc xây dựng quân đội theo mô hình xô viết mà trong đó quân ủy đóng vai trò quan trọng.  Ngô Đình Nhu áp dụng mô hình này ở Việt Nam Cộng Hòa để xây dựng quân đội có đảng Cần Lao bên trong và hỗ trợ tài chính để xây dựng các lực lượng bán quân sự ở bên ngoài. Mật vụ miền nam dưới thời Trần Kim Tuyến sử dụng nhiều hỗ trợ của Đài Loan, và một trong những ước mơ lớn của Trần Kim Tuyến là được Đài Loan viện trợ hệ thống do thám sóng vô tuyến hiện đại nhất bấy giờ. Phòng chiến tranh đặc biệt của VNCH xây dựng thời kỳ Ngô Đình Nhu (1960) là phỏng theo mô hình của Tưởng Kinh Quốc. Đến năm 1965, các hoạt động tình báo của Đài Loan, có tài trợ tài chính thông qua các thương gia Hoa Kiều giàu có, được cho là giúp Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ lên nắm chính quyền.  Đến đệ nhị cộng hòa, Phòng chiến tranh đặc biệt của Tưởng Kinh Quốc còn đề xuất sử dụng quốc dân Đảng  của Đài Loan tham gia chính trị ở Nam Việt Nam nhưng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ từ chối kế hoạch này. Thay vào đó Tưởng Kinh Quốc tài trợ cho một người cũ của quân đội quốc dân đảng là Nguyễn Lộc Hóa xây dựng lực lượng bán quân sự. Trong suốt thời kỳ này, Đài Loan cho phép Air America sử dụng facility ở Đài Loan để thực hiện các nhiệm vụ ở Đông Dương. Thậm chí China Airlines còn tham gia vận hành các chuyến bay của Air America ở Nam Việt Nam.


Tháng 8 năm 1959 chủ tịch và phó chủ tịch hãng Air America, đóng văn phòng ở Đài Bắc, nhận được nhiệm vụ cử phi công đi học lái trực thăng ở Nhật và Philippines. Vậy là Air America bắt đầu dấn thân vào các nhiệm vụ bí mật sử dụng trực thăng ở Lào và cao nguyên trung phần ở Việt Nam. Các chiến dịch hỗ trợ (y tế, lương thực) và huấn luyện người thiểu số thành lập lực lượng bán quân sự bắt đầu hình thành.


Ngày 9 tháng 3 năm 1961 tổng thống Kennedy chỉ đạo CIA tiến hành cuộc chiến bí mật ở Lào. Các hoạt động của CIA liên quan đến người H’mong, vua Vàng Pao, … đều sử dụng phi công và máy bay của Air America, chủ yếu cất cánh từ Udorn Thailand.  Để bay được tới Lào, CIA phải đàm phán để hải quân Mỹ chuyển máy bay UH-34  cho Air America để thay thế máy bay H-19. Ngày 29 tháng 3, 16 chiếc HU-34 bay từ Bankok đến căn cứ của Air America ở Udorn, kể từ đây CIA bắt đầu dính líu vào cuộc chiến của người Hmong chống lại Pathet Lào. Quân của Vàng Pao có lúc lên đến 9000 người có vũ trang và 4000 người dự bị. Các hoạt động của Vàng Pao hoàn toàn ở vùng núi và phân tán lực lượng nên việc CIA không chỉ hỗ trợ vũ khí mà còn làm công tác tiếp vận, bao gồm cả cứu đói cho các làng thiếu lương thực là rất quan trọng. Người đứng sau các hoạt động này, một lần nữa là Edward G. Lansdale.


Cùng thời gian này ở Sài Gòn, Air America bắt đầu huấn luyện phi công và kỹ thuật viên cho Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có Nguyễn Cao Kỳ. Đồng thời tham gia các hoạt động của CIA huấn luyện vũ trang cho các nhóm thiểu số ở cao nguyên.


Năm 1962, ở Sài Gòn, CIA dựng một công ty vỏ bọc cho Air America tên là VIAT (Vietnam Air Transport). Máy bay C-47 của Air America được chuyển cho VIAT. Nhiệm vụ của VIAT là thả biệt kích dù ra miền bắc. Hoạt động này về sau rất nổi tiếng với tên Việt Nam là Biệt Kích Sở Bắc (biệt kích của Sở Bắc, P45, hay còn gọi là Nha Kỹ Thuật). Sở Bắc do Ngô Đình Nhu thành lập năm 1958, do Lê Quang Tung cầm đầu. Các hoạt động biệt kích dù hầu hết là thất bại, nhiều biệt kích bị bắt và bị tử hình.


Tháng 8 năm 1966 CIA và Air America xây dựng trạm hoa tiêu Tactical Air Naviagtion (TACAN) ở núi Phou Pha Thi để hướng dẫn máy bay Mỹ ném bom miền bắc, khi cuộc chiến leo thang. Trạm hoa tiêu này phía Mỹ gọi là Lima Site 85 còn phía Bắc Việt gọi là trạm radar núi  Pa thí, Sầm Nưa, Lào. Ngày 12 tháng 1 năm 1968, biên đội gồm 4 máy bay vận tải An-2 của Phan Như Cẩn (không quân miền bắc) bay từ Gia Lâm và bay thấp không dùng radio dẫn đường để bảo đảm bí mật, đã tấn công trạm hoa tiêu này bằng rocket và pháo cối. Nhân viên CIA gọi Air America đến hỗ trợ. Máy bay của Phan Như Cẩn rơi và hy sinh. Các thiết bị của Lima không sao. Ngày 18 tháng 2, lực lượng bán vũ trang người Hmong do CIA chỉ huy phục kích đặc công Bắc Việt và bắt được kế hoạch tấn công Lima. Ngày 9 tháng 3 đặc công của miền bắc, được bộ đội Việt Nam và Pathet Lào hỗ trợ đã tấn công Lima 85. Quân đội hoàng gia Lào, cảnh sát biên phòng Thái, du kích Hmong không giữ nổi Lima 85. Nhân viên CIA gọi không quân yểm trợ để Air America dùng trực thăng di tản người ở Lima, và tiếp tục cứu người chết và bị thương, kể cả lính Hmong trong ngày hôm sau. Từ ngày 12 đến 18 không quân Mỹ bắn phá trạm Lima 85, ngày 19 ném bom trạm này, phá hủy hoàn toàn trạm radar.


Từ tháng 3 năm 1965, Không lực Đài Loan viện trợ ngầm cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa cũng dùng vỏ bọc là Air America, bằng cách thông qua China Airlines cho Air America mượn máy bay và tổ lái.


Sau 1965, Air America hoạt động mạnh ở Nam Việt Nam. Air America vì là hãng dân dụng đã có chuyến bay tới hầu hết các tỉnh, bao gồm cả cao nguyên trung phần,để tham gia các chiến dịch kiểu chiến dịch Phượng Hoàng. Air America chở cả tù nhân ra Côn Đảo. Sau Sài Gòn, Air America mở base ở các sân bay: Đà Nẵng, Nha Trang và cuối cùng là Cần Thơ. Air America đôi khi tham gia hoạt động quân sự, như cứu hộ trận Khe Sanh hay đưa biệt kích dù vào khu phi quân sự.


Sau hiệp định Paris, Air America đóng các căn cư của mình ở Udorn, chấm dứt các chuyến bay phi pháp từ nước này qua nước khác ở Đông Dương, nhưng vẫn hoạt động ở Nam Việt Nam cho đến 1975.


Ngày 23 tháng 3 năm 1975, Air America bắt đầu dùng trực thăng di tản các nhân vật quan trọng từ Huế và Quảng Trị vào Đà nẵng, trên đường bay bị quân đội VNCH bắn nhưng không rơi.


Ngày 7 tháng 4 năm 1975, Air America đi khảo sát 37 tòa nhà trong nội đô Sài Gòn để tìm chỗ đáp trực thăng khẩn cấp. Họ tìm được 13 căn nhà có thể làm landing zone trongđó có nhà 22 Gia Long. Air America cũng lên kế hoạch di tản, chuẩn bị sẵn máy bay, xăng và đặc biệt là duy trì hệ thống liên lạc riêng của mình, đồng thời yêu cầu kết nối với trực thăng của hải quân Mỹ.


Tháng 4 năm 1975, Air America tham gia chiến dịch Frequent Wind. Chiến dịch này dùng trực thăng  di tản khỏi Sài Gòn, Đà Nẵng và Nha Trang  51,888 người, trong đó Air America di tản 45, 125 người. Các phi công của Air America bay liên tục từ đất liền ra hạm đội, đổ xăng rồi bay tiếp.


Ngày 30 tháng 6 năm 1976 hãng Air America đóng cửa.


Slogan của hãng nay gần như đi vào quên lãng: “Anything, Anywhere, Anytime, Professionally”.


Trong thời gian còn hoạt động, Air America được mệnh danh là hãng hàng không bị bắn nhiều nhất thế giới. Các phi công của hãng chủ yếu là các tay lái điêu luyện. Hơn 230 người chết trong lúc làm việc, nhưng không được ghi công và không được ghi tên lên bức tường lính Mỹ tử trận ở Việt Nam bởi họ là các phi công ký hợp đồng dân sự và bay nhiều chuyến bay bí mật.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 20, 2014 06:23

September 10, 2014

Đọc Đèn Cù thế nào?

Cách đây mấy năm tôi có nói chuyện với chú Trần Đĩnh. Chú ấy rất thích trinh thám (cái này giống chú Tạ Chí Đại Trường quá) và rất thích thể loại “nonfiction novel” của Truman Capote. Đây có lẽ là lý do chú ấy già rồi mà vẫn dịch cuốn In Cold Blood của Capote cho Nhã Nam (Máu Lạnh). Chú Đĩnh cũng là người viết Bio cho các nhân vật cộng sản (điển hình hoặc lãnh tụ), trong đó có Bất Khuất. Đọc Đèn Cù, sẽ thấy chú Đĩnh còn rất thích các tự truyện mà được đánh giá như là tiểu thuyết (ví dụ của M. Gorky). Không phải vô cớ mà chú Đĩnh đặt Đèn Cù của mình vào thể loại sách mà chú gọi là “truyện tôi”. Nó là truyện (chứ không phải sử, không phải ký), nhưng mà của và về tôi.


Về cách viết. Chú Đĩnh nhận mình là bồi bút (trong sách tự nhận mấy lần). Thực chất chú ấy là “cây bút của chế độ”. Được chế độ sủng ái. Lý do không phải chú ấy đỏ rực. Mà, cái này tôi đoán, là văn phong của chú ấy rất hợp với việc tô hồng, anh hùng hóa, điển hình hóa các nhân vật của chế độ. Trong sách chú có kể mình được một nhà văn khác khen là viết muscle. Tức là văn chương cơ bắp cuồn cuộn. Lúc kể cho tôi chi tiết này, chú còn diễn lại hành động của nhà văn kia, bằng cách chụp lấy vai và bắp tay tôi lắc lắc rồi nói cái câu ấy. Giờ ta nhìn lại, quả thấy cái giọng văn chắc nịch, mà tôi thấy có nhiều câu bỏ cả giới từ, đọc khó hiểu, nhưng rắn chắc như sắn lưỡi mai sắn vào đất thịt, lại rất hợp với các kiểu anh hùng ca để tô hồng cách mạng. Lê Đức Thọ ve vãn chú Đĩnh viết Bio cho mình, chắc cũng mơ màng mình đi vào sách với sự cứng cáp oai hùng (nhờ ngòi bút của cây bút được Trường Chinh và Hồng Hà ái mộ). Qua đây mới biết nhân tài dưới bóng của chế độ ấy hiếm hoi như thế nào. Tầm cỡ Sáu Búa phải đi ve vãn tác giả của Bất Khuất, mới thấy chất lượng trí thức của chế độ xoàng xĩnh đến thế nào.


Vậy nên cuốn Đèn Cù ta nên đọc như một cuốn tiểu thuyết của tác giả Trần Đĩnh viết về cuộc đời nhân vật Trần Đĩnh.


Nếu đọc như vậy, ta sẽ thấy nhiều cái hồn nhiên, đáng yêu và cả hào sảng nữa, đằng sau sự bức bối, bất mãn và cay đắng của nhân vật chính.


Nhân vật chính này, theo như tôi thấy, là một người rất yêu mẹ. Mở đầu sách là khoe Trường Chinh lúc đó là TBT đã thích Trần Đĩnh trẻ măng mới 19 tuổi. Vài trang sau khoe …thư của mẹ. Dặn phải ngoan, không được hút thuốc lá.


Viết về cải cách ruộng đất đẫm máu, con giết cha, thì Trần Đĩnh kể về ông họa sỹ Nguyễn Tư Nghiêm không chịu đấu tố, không chịu phản bội mẹ mình. Dù đàn áp thế nào, Nghiêm cũng không thể “căm thù” mẹ mình được. Rồi kể những nhân vật khác, tìm cách cứu mẹ khỏi sự tàn sát trên diện rộng của cải cách ruộng đấy, bất chấp việc cứu mẹ là giết mình. Chưa hết, những lúc bi quan nhất, bị mật vụ thẩm vấn, quay cung, nhân vật Trần Đĩnh toan tìm đến cái chết, anh lại nhớ đến tuổi thơ, với mẹ hiền, trên sân thượng của gia đình. Nhớ tiếng mẹ gọi, mà đến cửa chết để trốn hiện thực đen tối, mà quay bước trở về.


Đọc sách của Trần Đĩnh, bỏ qua các xấu xa của chế độ, của con người bị chế độ ấy tha hóa, cá nhân tôi vẫn thấy nhiều cái đáng đọc, và đáng học nữa. Yêu mẹ như vừa nói ở trên chỉ là một. Ngoài ra, còn yêu cái đẹp, còn tình bằng hữu, còn những rung động với gái …ngon, và với cả những cú vọng về day dứt của lịch sử nữa.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 10, 2014 19:59

Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.