Nguyễn Phương Văn's Blog, page 22

April 3, 2013

Đấu giá ngược để giải cứu bất động sản

Nếu mà kiểu gì nhà nước cũng chi tiền để cứu bất động sản, thì tốt nhất là đừng bàn cứu hay không cứu, mà bàn là cứu thế nào cho dân có lợi.


Có thể dùng reverse auction kiểu nông sản được không?


Với các doanh nghiệp bất động sản chắc chắn không trả được nợ: cho phá sản, ngân hàng ôm hết tài sản thế chấp vào.


Nhà nước tổ chức đấu giá ngược cho hai lô: lô sản phẩm đang hoàn thiện (công trình đang dở) và lô sản phẩm tồn kho (đã xong mà chưa bán được).


Đấu giá ngược kiểu nông sản (mua cả chợ) là đấu giá để có giá thấp nhất, sau đó nhà nước (buyer) ôm hết hàng trên sàn đấu giá với giá thấp nhất này.


Đấu giá khá là phức tạp về kỹ thuật, nhưng chắc chắn là làm được, kể cả phần pháp lý làm sao để không có thông thầu, không có gài thầu. Bản thân các ngân hàng tham gia đấu giá (bán đống bất động sản phải ôm) cũng sẽ làm đấu giá minh bạch lên.


Chắc chắn là phải mở khá nhiều cuộc đấu giá, mỗi cuộc đấu cho một loại hình bất động sản, nhưng chủ yếu là các sản phẩm phi nhà phố, tức là các khu đô thị, chung cư này nọ, mới là cái cần phải đấu giá ngược.


Đấu giá sẽ tạo ra mặt bằng giá sàn. Rồi nhà nước bỏ tiền ra mua hàng. Không chỉ làm xẹp bong bóng bất động sản, mà còn giải cứu nợ xấu do bất động đậy gây ra, giải tán nguồn lực tồn đọng trong đám chủ bất động sản nửa sống nửa chết, cho đi làm việc khác.


Sau khi đấu giá xong.


Với lô hàng đang làm dở: nhà nước chi tiền làm nốt. Làm xong chuyển qua lô hàng tồn kho. Khúc này bản chất sẽ là kích thích việc làm, đỡ lãng phí nguồn lực đang bị ngâm dấm, cứu một lô xích xông các nhà thầu phụ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thâm dụng lao động.


Với lô hàng tồn kho giao cho công ty giải cứu bất động sản đem bán cho dân với giá sàn, hoặc cho thuê.


Nhưng sẽ phải sửa lại thuế nhà sao cho giống bọn Mỹ. Tức là tiền đóng thuế nhà cao đến mức: độ 50 năm tiền thuế là bằng tiền mua nhà. Ở VN thì riêng HN SG mới để cao như vậy. Còn các tỉnh sẽ để thấp hơn, ví dụ thuế ở mức sao cho 100 năm tiền thuế mới bằng tiền mua nhà. Để người ta bớt mua nhà HN, SG, và về tỉnh hoặc ngoại thành để mua nhà. Ai không mua nhà mà thuê, thì tiền thuê nhà sẽ tương đương 50% mức thuế. Ví dụ mua cái nhà hơn 1 tỷ, thuế sẽ khoảng 10 triệu/tháng. Nếu cho thuê thì là 5 triệu/tháng.


Tức là về bản chất, nhà nước sẽ thu lại tiền chi cho giải cứu, nhưng sẽ rất lâu.


Bù lại, sẽ có khung và mức thuế áp vào các bác đang có nhà rồi hehehe. Các bác nai lưng ra mà đóng thuế, chứ không phải thuế nhà đất rẻ bèo như hiện nay. Nhà nước có ối tiền hehe, để mua tàu chiến.


Bất động sản hiện nay như đoàn đầu mất phanh đang lao xuống dốc, mà phía cuối đường ray là vực. Nếu mà bỏ cho chết, như các bác hô hào là để thị trường tự nó cho chết, thì chắc chắn mất cả đầu tàu, mất hết các toa, chết cả hành khách vô tội hoặc có tội. Kíu đoàn tàu ở đây không phải là kíu tất, mà cứu từ đuôi trở lên, sức cứu (cắt rời) được toa nào và phanh toa đấy lại được thì tốt toa đấy. Cứu càng nhiều toa càng tốt. Còn đầu tàu và mấy toa dính ngay sau đầu tàu thì kệ cụ nó.


Thực ra bọn tư bản Mỹ suốt ngày kinh tế thị trường nó cũng cứu Fannie Mae và Freddie Mac. Ở các nước tư bản khác cũng có các câu chuyện giải cứu tương tự. Vấn đề không phải là cứu hay kệ bố cho nó chết, mà nên cứu thế nào.


(Đã lâu không viết bài theo thời sự, nhưng sau bài về sửa đổi Hiến Pháp rất ăn theo thời sự, là bài Chuyện Hiến Pháp, nay phải thêm một bài bất động đậy hữu hình để đi đôi với Hiến pháp cựa quậy vô hình).



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 03, 2013 04:02

April 1, 2013

Dân Vũ

Nhiều người thắc mắc là tại sao dân Việt lại có dân ca mà không có dân vũ.


Hay nói cách khác, điệu múa đặc trưng (nếu có) của người Việt là điệu múa nào?


Có thể một ngàn năm bắc thuộc đã làm xói mòn một điệu múa, lẽ ra đã trở thành dân vũ của người Việt, ít nhất là của người Việt cổ.


Đó là múa của Hát Xoan (Hát Xuân) Phú Thọ, là một điệu múa kèm với hát, mà nguồn gốc của nó có thể truy ngược lại đến tận thời vua Hùng. Đây là một điệu múa tập thể, nữ múa nhiều hơn, múa tay là chính, nhưng cơ thể di chuyển liên tục, nhịp nhàng với cả nhóm hát và lời hát, thân hình cũng lắc lư uyển chuyển theo điệu hát.  Nếu xem múa và hát xoan thật nhiều lần (có thể youtube hai điệu Mó Cá và Cài Huê) ta sẽ thấy múa, hát tập thể dân dã xoay vòng vòng trong một không gian hẹp, trên nền nhạc của một nhạc cụ duy nhất là cái trống da; nó vừa phảng phất cái hình ảnh người dân hát mừng mừng mùa màng bên quanh cái trống đồng, vừa  có hình ảnh tín ngưỡng sơ khai thờ cúng đất trời thời tiết, vừa có âm dương phồn thực, vừa có ca ngợi vua Hùng.


Sau một ngàn năm bắc thuộc, tới thời Lý và Trần thì hát xoan mới được phục hồi. Nhưng không hiểu lý do gì mà múa hát ch cung đình và cho quân đội có vẻ được coi trọng hơn, mà từ đó múa hát của người Chăm (qua giao lưu chiến trận) được trọng dụng hơn. Trong khi ở chiều ngược lại, là xây dựng hình ảnh anh hùng chống ngoại xâm, thì vua Lý đã tổ chức chiến dịch tuyên truyền để đưa một anh hùng huyền thoại địa phương là Thánh Gióng lên thành anh hùng cấp quốc gia. Tức là nhìn vào những gì gần đây, có thể hiểu được hồi đấy, chính quyền non trẻ ưu tiên xây dựng anh hùng chiến trận hơn là bảo tồn văn hóa. Văn hóa thu nạp vào, hay phát triển thêm, có tính chất phục vụ quân đội (văn công ngày nay và trống quân thời Trần) và phục vụ triều đình hơn là phục vụ người dân.


Thế là toi một quả dân vũ. Tuy rằng hát Xoan và múa của hát Xoan vẫn còn, nhưng nó chỉ tồn tại ở một không gian văn hóa nhỏ hẹp, tức là vùng trung du của vua Hùng lúa nước ngày xưa. Nhưng cũng có cái hay là nó không phổ cập và phát triển, chứ nếu không bây giờ mỗi lần múa tập thể, ví dụ ca ngợi Đoàn, các đoàn viên lại phải lượn vòng vòng, tay múa múa, kể ra cũng không được khí thế lắm. Chưa kể có lúc phải múa lúc nửa đêm, đèn đóm tắt phụt kiểu giờ trái đất, để có tí phồn thực nam nam nữ nữ.


PS: Nếu có ai để ý, tòa nhà Kumho Asiana Plaza ở góc Nguyễn Du-Hai Bà Trưng-Lê Duẩn chính là phần trái tim của thành Bát Quái, kinh đô (Gia định kinh) của nhà Nguyễn Đàng Trong (1790). Khu nhà mà vua ở, và mẹ vua ở, chính là là khu đất nay là tòa nhà Kumho này. Nhà của vua là góc Nguyễn Du Hai Bà Trưng, cửa quay về phía sông. Nhà của mẹ vua là góc Lê Duẩn Hai Bà Trưng, lưng nhà quay qua đại sứ quán Pháp.


Ngày giỗ tổ ở đâu ra?


Chim Lạc là con chim gì?


Vua Hùng tên thật là gì?



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 01, 2013 21:50

March 18, 2013

Sống và Yêu, Like và Unlike

Sống là đôi chút mơ màng


Yêu là đôi chút thở than một mình


*


Sống là cục tác lá chanh


Yêu là ủn ỉn đưa hành cho nhau


*


Sống là đôi lúc lan man


Yêu là đôi lúc lang thang một mình


*


Sống là một sự bắt đầu


Yêu là một sự từ lâu đã thành


*


Sống là có phút để dành


Yêu là có phút tanh bành cả ra


*


Sống là có lúc thờ ơ


Yêu là có lúc giả vờ quan tâm


*


Sống là có lúc dập dồn


Yêu là có lúc phải hôn từ từ


*


Sống là có lúc như vua


Yêu là có lúc về chùa lá đa


*


Sống thì bay thấp mây mưa


Yêu thì đúng lúc bay vừa rất dâm


*


Sống như một giấc mơ


Mớ như một khúc sông


Sống khung một bức tranh


Tránh không được lúc xương


*


Sống là lúc đứng lúc ngồi


Yêu là có lúc chia đôi đồng riềng


*


Sống không mong lúc thượng vàng


Yêu dù hạ cám vẫn mang vào lòng


*


Sống thời bưng bát cơm đầy


Yêu thời có lúc đắng cay dăm phần


*


Sống vài thế thái nhân tình


Yêu nhiều tư thế thân hình quấn nhau


*


Sống chỉ một cuộc bể dâu


Yêu vài tư thế lâu lâu mới xài


*


Sống là không cậy chữ tài


Yêu là không tưởng chỉ vài trống canh


*


Sống vì bát sáo nước trong


Yêu thì mới biết đau lòng cò con


*


Sống là phải biết xếp hàng


Yêu là phải biết chen ngang lúc cần


*


Sống là không lộn cái tròng


Yêu là nên trọng cái …tình nhé anh


(Bùi Bút Tre nhân 8/3)


*


Sống không ném đá đằng sau

Yêu đừng vạch áo của nhau giữa đường


***


(Từ Facebook)


Gần đây Facebook có tổ chức một cuộc bình chọn nhân vật toàn cầu. Thể thức rất đơn giản, nhân vật nào được like nhiều nhất thì thắng, nhân vật nào bị unlike nhiều nhất cũng thắng nhưng là thắng kiểu trái cóc xanh.


Giải nhất thuộc về một người Việt Nam, nhà văn Chu Lai. Điều này rất dễ đoán vì người VN sau vụ bình chọn Vote cho Hạ Long đã quá thõi mấy việc bơm vá trên internet. Ngoài ra còn vì cái tên Chu Lai = Choose Like rất gợi ý định hướng của ban bánh khảo nữa.


Ban bánh khảo, vốn đang có xu thế bài hoa, cũng chọn một nhân vật khác, cựu thủ tướng Chu Ân Lai của TQ, với ngầm ý Chu Ân Lai = Choose Unlike.


Thế nhưng chả mấy ai unlike cả.


Hóa ra để unlike, thì trước đó phải ấn like cái đã, rồi ấn tiếp để thành unlike. Giống như muốn tắt một cái máy tính thì trước hết phải bật nó lên. Trước khi ghét thì phải thích cái đã.


Ví dụ như đồng chí, ví dụ là ích-xì đi, tức là xờ nhẹ, xờ xấu xa, chỉ vì đóng tàu to, thế mà ai cũng ghét được. Ấy là bởi vì trước đó người ta đã chót thích đồng chí ấy.


Hay là có đồng chí khác, ví dụ là ét sì đi, tức là sờ nặng, sờ sung sướng, tự nhiên được thích mặc dù trước đó chả ai yêu ghét gì đồng chí này. Ấy là bởi vì chẳng qua ghét xờ nhẹ mà chuyển qua thích sờ nặng thôi.


Hay là cách đây chưa lâu, có đồng chí lãnh đạo chức to (sau thời chiến, các đồng chí gọi là lãnh đạo, thực ra có lãnh đạo được cái gì đâu, nên cứ gọi là cán bộ chức to cho đúng), tạm gọi là 6Dê đi, được nhân dân thích quá trời. Dù đồng chí này chả hơn gì lãnh đạo các nước khác, nếu như không nói là kém hơn. So với lãnh đạo chế độ cũ, cũng chả có gì hơn, ngoài việc đánh nhau giỏi hơn. Thế mà được thích, ấy là chỉ vì người ta quá ghét các đồng chí cùng thời mà đâm ra thích đồng chí này, thế thôi.


Thế tại sao người ta ghét các đồng chí cùng thời ấy? Là bởi vì trước đó người ta thích các đồng chí thời trước.


Thế tại sao ngày trước người ta thích các đồng chí ấy? Là vì trước nữa, người ta ghét hội khác.


Vậy nếu như không có cái sự thích-ghét, cứ neutral hết cả đi, thì có tốt hơn không?


Tất nhiên là khác rồi. Nếu đang tốt mà khác đi thì tức là xấu đi. Còn đang thậm xấu mà khác đi thì là tốt lên.


Đấy, cái like và unlike nó ảnh hưởng thế đấy. Vậy nên ở đây có những người không thích Facebook.


Còn bạn có thích không? Thích thì bấm like, còn không thích thì bấm like rồi bấm tiếp để thành unlike.


 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 18, 2013 00:38

February 26, 2013

vì người ta cần ánh mặt trời

Reblogged from Thích Học Toán:


Đây là một bài thơ của ông Nguyễn Đắc Kiên, trong tập thơ Những số không vòng trắng


--------


tôi chưa thấy một đêm nào dài thế,

bốn ngàn năm, giờ lại ngót trăm năm.

hết phong kiến độc tài, đến lũ bạch tuộc thực dân,

hết quân, hết vương, đến lũ tượng thần chủ nghĩa.


bao thế hệ siết rên trong gọng kềm nô lệ.


Read more… 555 more words


Mấy hôm nay thấy trên FB có mấy bài thơ của Nguyễn Đắc Kiên. Xong lại thấy trên FB mọi người đưa link tờ báo nào đấy cho anh Kiên này nghỉ việc (hoặc chối bỏ ko nhận làm nhân viên, đọc thoáng thoáng không nhớ rõ). Nay thấy cả nhà toán học trích dẫn công trình của nhà thơ. Liền bấm vào nút reblog.
 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 26, 2013 16:44

February 5, 2013

Chuyện Hiến Pháp

Khi trang mạng “Cùng Viết Hiến Pháp” của GS Châu và GS Sơn ra đời, tôi cũng không ý thức được giá trị của trang web này ngay với cá nhân mình. Lúc đầu thì theo thói quen, thấy trang web có giá trị thì hì hụi đi phát tán. Sau thì tranh thủ những lúc trong máu không có cồn (đang tất niên hội hè miên man) đọc các bài viết trên đấy.


Bỗng giật mình nhận ra, lần duy nhất trong đời mà tôi học một thứ gọi là văn bản luật, là cái hôm thi bằng lái xe.


Còn thì không thể nhớ ra dù chỉ một lần được học, hay được giảng, hoặc thậm chí là được giới thiệu về hiến pháp trên lớp học.


Thậm chí, cũng chưa một lần có ý định tự  tìm cái bản hiến pháp của nước mình về rồi tự đọc.


Bỗng ngộ ra rằng, cái gì mà không có thực chất, chỉ là hình thức, thì sự tồn tại của nó có cũng như không.


Bỗng vì lý do gì đó, hiến pháp của nước mình bất ngờ không còn tồn tại, thì mọi thứ vẫn hoạt động bình thường, chả có gì suy chuyển.


Thế thì tức là nếu làm ngược lại, sửa nó cho thật hay, thì cũng chẳng suy chuyển được cái gì.


Chuyện Hiến pháp tự nhiên tréo nghoe ra như vậy, đành phải ôm sách về nhà tự nghiên cứu.


Không rõ từ nguyên chữ Hiến-Pháp trong tiếng Việt là gì, nhưng rất may là sách có nói chữ Constitution, là do chữ Constitutio của chữ Latin, đi qua tiếng Pháp, rồi mà thành. Chữ này có nghĩa là quy tắc (regulations and orders).


Về lý thuyết, ở một số nước, Hiến pháp là bộ luật gốc, từ đó tạo sinh ra nhà nước, mô hình và cách thức vận hành cái nhà nước ấy. Ở những nước này Hiến pháp là tối quan trọng.


Nhưng lại có những nước mà ở đó nhà nước, nếu thích, có thể tự soạn và ban hành hiến pháp bất cứ lúc nào. Tất nhiên là ở những nước như vậy, Hiến pháp không có vai trò gì cho lắm.


Hiến pháp không tự nhiên sinh ra, mà phải có ai đó viết. Hiến Pháp cũng không phải là một văn bản tập hợp các quy tắc gốc vô hồn, mà đằng sau nó phải có tinh thần, có chủ thuyết của những người lập ra hiến pháp. Hay nói theo kiểu Steve Jobs, Hiến Pháp là một sản phẩm mà đằng sau nó có triết lý (philosophy) của người làm ra nó. Philosophy có gốc là hai chữ Hy Lạp: philein và sophian. Chữ philein nghĩa là ước vọng, sophian là cái chân-thiện. Hiến-Pháp tốt đương nhiên phải có đạo lý sâu rộng ở phía sau văn bản ngữ nghĩa.


Bản Hiến pháp được coi là mẫu mực của thế giới, cũng đồng thời là hiến pháp thành văn đầu tiên, là hiến pháp Hoa Kỳ. Đây cũng là bản hiến pháp ngắn gọn nhất thế giới  khi chỉ có 7 điều và 27 tu chính án (7 điều và 27 điểm sửa chữa bổ sung).


Bản Hiến pháp  Hoa Kỳ ra đời năm 1787 và tồn tại đến tận bây giờ.


Chủ thuyết của Hiến pháp Hoa kỳ, như GS Wendy N Duong tóm tắt ở bài viết “Tổng quan về Hiến pháp Hoa Kì” rất đơn giản: (i) phân quyền lực (mối quan hệ giữa ba nhánh của chính phủ), (ii) chủ thuyết liên bang (mối quan hệ giữa chính phủ quốc gia trung ương và chính phủ các tiểu bang), (iii) cơ chế toà án bảo hiến ( cơ chế mà qua đó Hiến pháp được hiểu, áp dụng và tôn trọng), và (iv) Bản Tuyên ngôn Quyền (nói lên mối quan hệ giữa chính phủ và cá nhân).


Về chủ thuyết phân ba nhánh của Hiến Pháp Hoa Kỳ, nếu diễn giải nôm na thì: Lập Pháp là Quốc Hội gồm hai viện Thượng và Hạ không được phép hoạt động đơn phương. Hành pháp là Tổng thống. Tư Pháp là hệ thống tòa án liên bang. Trong đó có Tòa án tối cao liên bang, do chính Hiến Pháp tạo sinh ra để diễn giải và thực hành Hiến Pháp (vai trò như tòa án bảo vệ hiến pháp).


Nhân đây, cũng xin phép nhắc một chút về mốc thời gian: Năm 1787 là năm ở Mỹ bản Hiến pháp Mỹ ra đời, thì ở vùng đất gọi là VN bây giờ, đang là lúc Nguyễn Huệ đang đánh nam dẹp bắc loạn lạc binh đao. Năm 1787 là năm Nguyễn Huệ kéo quân về đánh Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn. Nước Việt Nam ngày nay, lúc đó chưa hình thành (tiền thân của nước Việt Nam hiện đại, đến năm 1802 mới xuất hiện).


Còn Hiến pháp của Việt Nam đang được góp ý sửa đổi, ra đời năm 1992, chủ thuyết là Nhà nước thống nhất (không phân chia quyền lực). Điều này ghi rõ trong Điều 2 của Hiến pháp.


Mặc dù nước ta có tới mấy ngàn năm văn hiến, nhưng nhìn vào thời điểm Hiến pháp Mỹ ra đời và so với lịch sử cận đại của Việt Nam, lại có thể thấy rằng chúng ta sinh sau đẻ muộn hơn nhiều.


Cho nên việc học hỏi cách người Mỹ làm ra bản Hiến pháp của họ là một việc nên làm và chả có gì phải xấu hổ khi bắt chước họ cái cách làm ra hiến pháp.

Việc bắt chước này, tất nhiên không phải là sự bắt chước máy móc, hoặc nhắm mắt sao chép hiến pháp Hoa kỳ. Bởi chính Alexander Hamilton, một trong những người tham gia kiến tạo bản Hiến Pháp Hoa Kỳ, có nói rằng: “Tôi đồng ý với Montesquieu rằng mỗi chính quyền cần phù hợp với một quốc gia, như mỗi cái áo phù hợp với một cá nhân. Điều kỳ diệu ở Philadelphia có thể sẽ là điều tồi tệ ở Paris và trở nên lố bịch ở Saint Petersburg”.


Montesquieu là cha đẻ của tam quyền phân lập, là chủ thuyết đằng sau Hiến Pháp Mỹ. “Điều kỳ diệu ở Philadelphia” là cách các sử gia Mỹ gọi Hiến pháp Mỹ, do Hội nghị lập hiến diễn ra ở Philadenphia và kết quả của hội nghị này chính là bản Hiến pháp Mỹ.


Nước Mỹ giành độc lập vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Trong những năm đầu, chính quyền non trẻ của Mỹ hoạt động dựa vào sự hợp tác của các bang đầu tiên tham gia cách mạng, dưới một thỏa ước chung gọi là Articles of Confederation (Các điều khoản hợp bang). Cái “Các điều khoản hợp bang” này chính là hiến pháp đầu tiên của Mỹ (được phê duyệt năm 1781).


Lúc này nước Mỹ rất yếu, nghèo nàn, chính phủ kiệt quệ, không có hành pháp, không tòa án tối cao, không quân đội liên bang mà chỉ có quân đội tiểu bang, uy tín quốc tế bằng số không. Kinh tế suy thoái lao dốc, tiền tệ lạm phát, loạn lạc bên trong, ngoại bang đe dọa bên ngoài.


Nhưng những nhà lãnh đạo nước Mỹ lúc đó không yếu ớt. Năm 1787, khi tình hình đất nước khủng hoảng sâu sắc, một vài trong số họ, vốn là công thần lập quốc, thấy cần phải có một Hiến pháp mới để thay đổi nhà nước Mỹ và thay đổi tương lai của nước Mỹ. Họ đã vận động tổ chức Hội nghị Lập hiến. Từ Hội nghị lập hiến này  đã cho ra đời bản Hiến pháp Mỹ. Bản Hiến pháp Mỹ này đã làm thay đổi nước Mỹ, biến nước Mỹ thành siêu cường, và cũng rõ ràng đã góp  phần làm thay đổi cả thế giới.


Như vậy, sau hơn 200 năm, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1787 đã và vẫn đang là một việc cực kỳ quan trọng đối với vận mệnh của nước Mỹ.


Năm 1787, tức là khá lâu sau khi Mỹ giành độc lập, mới có Hội nghị lập hiến này. Hội nghị diễn ra tập trung. Các đại biểu của các tiểu bang phải tự đi xe ngựa về Philadenphia, tự ăn tự ngủ suốt mấy tháng liền trong thời gian họp.


Có 74 đại biểu được triệu tập nhưng chỉ có 55 người có mặt. Trong số 55 người này chỉ có 39 người cuối cùng ký vào bản Hiến pháp mới.


Để bắt đầu, họ bầu ra một người rất có uy tín làm Chủ tịch hội đồng lập hiến: đó là tướng George Washington, vị tổng tư lệnh trong cuộc chiến với đế quốc Anh để dành độc lập cho Hoa Kỳ hơn 10 năm trước đấy. Bộ óc soạn thảo Hiến pháp Mỹ trong hội nghị lập hiến, và sau đó là các tu chính án (được biết với tên Tuyên ngôn nhân quyền) là của một ngôi sao trẻ 36 tuổi tên là James Madison. Ông này sau cũng làm tổng thống Mỹ (tổng thống thứ 4).


Như vậy, có thể học được một điều, là Hiến pháp cần một hội nghị lập hiến nghiêm túc, có người đứng đầu là một cá nhân có uy tín. Còn bộ óc soạn thảo, trong quá trình làm việc, sẽ tự xuất hiện.


Hội nghị Lập hiến họp kín, có các thư ký, có các chủ tọa, và thực tế là cãi nhau như mổ bò từ suốt 25 tháng 5 đến tận 24 tháng 7 mới đạt được một cái mà sau này gọi là Đại Thỏa Hiệp (Great Compromise): tức là chọn được một phương án chủ đạo từ các phương án (Virginia Plan, New Jersey Plan). Virginia Plan chính là một phiên bản sơ khởi quan trọng để soạn thảo Hiến pháp Mỹ. Đằng sau Virginia Plan là chủ thuyết dựa vào tư tưởng của các triết gia và chính trị gia: Montesquieu, Locke và Coke (hai tác giả đầu đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam).


Điều thứ hai có thể học hỏi ở đây, là rất cần các debate trực diện, mệt mỏi, trí tuệ và tốn thời gian. Đồng thời cũng cần các version khác nhau của Hiến pháp, với các chủ thuyết khác nhau, để các phe tranh cãi dùng để biện luận. Hiến pháp 1992 và dự thảo sửa đổi cũng có thể sẽ là một Plan tốt. Hiến pháp mà nhân dân “cùng viết hiến pháp” đề xuất, cũng cõ thể là một Plan tốt nữa. Đấy là chưa nói đến các bản Hiến pháp 1946 và hai bản Hiến pháp của Việt Nam Cộng Hòa (1956 và 1967).


Điều thứ ba có thể học hỏi, là cuối cùng phải có một cái Đại Thỏa Hiệp, chốt lại các điểm quan trọng nhất, có giá trị vững bền nhất, được đồng thuận cao nhất. Còn nếu ai cũng chỉ thấy mình đúng, cái mình viết ra, cái mình đề xuất là xuất sắc nhất, thì chắc chắn bản Hiến pháp có ra đời thì cũng rất ít giá trị.


Đến ngày 24 tháng 7, một tiểu ban gồm 5 đại biểu được giao cho viết soạn thảo Hiến pháp chi tiết.


Đến mùng 6 tháng 8 năm 1787 thì viết xong. Từ lúc đó đến mùng 10 tháng 9 các vị lại cãi nhau như mổ bò, nhưng lúc này là trên từng điều khoản.


Như vậy việc soạn thảo hiến pháp Mỹ, do các bộ óc lớn, am hiểu sâu sắc về chính trị, triết và luật, rất là gian nan như vậy. Trong đó có James Madison, lúc này mới có 36 tuổi, và trước khi tham gia hội nghị lập hiến đã bỏ vô cùng nhiều thời gian để nghiên cứu các trước tác từ cổ chí kim tính đến lúc đó.


Sau khi có bản Hiến pháp cuối cùng và được hội nghị lập hiến ký kết, bản hiến pháp này còn phải được các tiểu bang thông qua bằng cách bỏ phiếu ở từng tiểu bang. Việc này cũng rất gian nan do bị nhiều thế lực chống đối kịch liệt.

Các ông James Madison, Alexander Hamilton và Jay viết một loạt bài báo, nay được biết với tên Federalist Papers (Luận cương Người liên bang) để bẻ hết các lập luận của phe chống-liên bang. Madison cũng hiểu là cần các tu chính án thêm vào (về nhân quyền) thì các tiểu bang mới chịu thông qua, cho nên ông vận động ác liệt cho 12 tu chính án đầu tiên. Nay 10 trong số 12 tu chính án này được biết đến với tên Bill of Rights (Tuyên ngôn Nhân quyền).


Sau khi Hiến pháp được các tiểu bang thông qua, đến 30 tháng 4 năm 1789 thì Hoa Kỳ có tổng thống đầu tiên do bầu cử, chính là George Washington.


Với Federalist Papers, quá trình soạn thảo Hiến pháp Mỹ đã vô tình đẻ ra một tác phẩm được coi là chủ thuyết của chính quyền liên bang (nhận xét của John Stuart Mill) và là cuốn sách cho mọi chính khách của bất cứ nước nào (nhận xét của Alexis Tocqueville) và ngày nay được coi là cuốn sách lớn ngang với Cộng Hòa (Plato), Chính trị luận (Aristotle) và Leviathan (Hobbles). (Ngoại trừ Leviathan, và Federalist Papers, các cuốn sách được nhắc đến trong paragraph này đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam).


Các cuộc tranh luận cãi vã đều được thư ký hội nghị và đặc biệt là James Madison ngồi ghi chép kỹ lưỡng. Những người tham gia soạn thảo Hiến pháp của các nước khác, sau này đều phải tham khảo các ghi chép này, cũng như đọc Luận cương Liên Bang và bản gốc (chưa sửa đổi) của Hiến pháp Mỹ. Các nhà soạn thảo Hiến pháp của Việt Nam có lẽ cũng không nên làm những người ngoại lệ. Tài liệu về Hội nghị lập hiến Hoa kỳ có rất nhiều. Bản tiếng Việt có thể tham khảo là cuốn “Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào” của Nguyễn Cảnh Bình. Đây là điều thứ tư cần học hỏi.


Thế rồi, dù có học hỏi đến thế nào, thì câu hỏi cũng vẫn sẽ là“Điều kỳ diệu ở Philadelphia” trở thành “Điều kỳ diệu ở Hà Nội” được không, sẽ tùy thuộc vào tầm nhìn, tư tưởng và sự cởi mở đầu óc của những người tham gia lập hiến.


Về chuyện Đảng. Hiến pháp Mỹ không đề cập gì tới đa nguyên hay đảng phái gì. Các chính đảng ở Hoa Kỳ hiện nay đều sinh sau đẻ muộn so với Hiến pháp Mỹ.


Về chủ thuyết, phải chăng chủ thuyết Nhà nước thống nhất (điều 2) và vai trò của Đảng cầm quyền (điều 4) của Hiến pháp Việt Nam vẫn có thể có Great Compromise với Hiến pháp tam quyền phân lập của Hoa Kỳ?


Phải chăng vẫn có cách để một Hiến pháp do nhà nước tạo ra, mà sau này hiến pháp ấy vẫn có thể tạo sinh vận hành ngược được nhà nước?


+ Hiến pháp sửa đổi sẽ mở ra cách để đưa mô hình Nhà nước vận hành bằng nghị quyết của TW Đảng cầm quyền thành Nhà nước pháp quyền? Sẽ có một giải pháp nào đó  để “nghị viện hóa” hoạt động của TW Đảng: ví dụ biến TW Đảng thành Thượng viện, nơi các Thượng nghị sỹ là TW Ủy viên đến từ địa phương và nội các. Và Tổng bí thư làm chủ tịch thượng viện. Ở đó các Thượng nghị sỹ – TW ủy viên có nhiệm kỳ 6 năm, được bầu 2 năm một lần, một phần ba được bầu lại, hai phần ba lưu nhiệm. Còn Quốc hội hiện nay trở thành Hạ viện, hai năm thay đồng loạt một lần. Sẽ đến lúc nào đó, các thượng nghị sỹ có thể đến từ một đảng bất kỳ, hoặc không từ đảng phái nào, mà hiến pháp sẽ không cần phải sửa đổi. Hay lúc đó chủ tịch thượng viện không nhất thiết phải là tổng bí thư nữa. (Xem Hiến pháp Hoa Kỳ kèm chú thích).


+ Hiến pháp sửa đổi sẽ đón nhận vào trong mình tinh thần chủ nghĩa hợp hiến? Chủ nghĩa hợp hiến (constitutionalism) hay còn gọi là Hiến pháp trị có nghĩa là quyền lực của những người lãnh đạo và của các cơ quan chính quyền phải được hạn chế. Chủ nghĩa hợp hiến, như một chủ thuyết về chính trị hay về luật pháp, nói về một chính quyền mà nhiệm vụ trước hết là nhằm phục vụ cho toàn thể mọi người và bảo vệ quyền cá nhân. Sẽ có giải pháp khả thi nào đó để đặt vào tay Chủ tịch nước quyền lực của tòa án tối cao, trong đó có nhữn thẩm phán tối cao do chính chủ tịch nước đương nhiệm hoặc các chủ tịch nước nhiệm kỳ trước bổ nhiệm, giống như tổng thống mỹ bổ nhiệm thẩm phán tối cao và các vị thẩm phán này không về hưu. Để tòa án tối cao này làm tòa bảo hiến, diễn giải và thực thi hiến pháp. (Xem Hiến pháp Hoa Kỳ kèm chú thích).


Tất cả những điều này không một cá nhân, một nhóm người nào có thể tự nghĩ ra được. Vẫn phải cần một hội nghị lập hiến chính thống, nghiêm túc, mà ở đó những nhà lập hiến ngồi với nhau, tranh luận với nhau và cùng viết. Để bản Hiến pháp mà họ viết ra khôngchỉ là một bản hiến pháp lời hay ý đẹp, mà còn phải viết để làm sao ngay khi nó được thông qua, nó sẽ lập tức đi vào cuộc sống, thực sự vận hành nhà nước và xã hội, và tất nhiên là nó sẽ tồn tại cả vài trăm năm mà rất ít cần sửa đổi.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 05, 2013 23:45

November 30, 2012

Con đường của Rồng

Gần đây có ba event liên tiếp ở Sài Gòn. Có một điểm thú vị là các event này (do IPL, Trung nguyên và Trung ương Đoàn tổ chức) đều có các chủ đề khá lớn lao: Đánh thức con rồng ngủ quên, Châu chấu đá voi, Nhân hiệu Việt… Diễn giả ở các event này là những người Việt khá nổi tiếng, từ nước ngoài về như Vũ Minh Khương, Giáp Văn Dương, giới nghệ sỹ như Dương Thụ, Quốc Trung, giới kinh doanh như Võ Quốc Thắng, Đặng Lê Nguyên Vũ, giới kinh tế như Trần Đình Thiên, Võ Đại Lược, các học giả như Bùi Văn, Hồ Ngọc Đại, Tôn Thất Khiêm …


Thực sự, có vẻ như nhiều người, ở nhiều thế hệ khác nhau, ở các nhóm xã hội khác nhau, đang xoay xở tìm tòi sự đột phá, hay một lối thoát ra để vươn lên, không chỉ cho cá nhân mình, mà còn cho cả một thế hệ, cả đất nước.


Trong các sự kiện này họ tổ chức rất nhiều các cuộc trao đổi, đối thoại, chia sẻ kinh nghiệm, nhưng suốt mấy buổi kiên nhẫn ngồi theo dõi, vẫn chưa thấy ai đặt ra được các câu hỏi cốt lõi.


Khó mà biết câu hỏi nào là câu hỏi cốt lõi, tuy nhiên nếu nhìn sâu vào thực trạng xã hội hiện nay, nhìn vào thực trạng của các xã hội tương tự trong quá khứ, cũng sẽ nảy ra những câu hỏi mà câu trả lời cần rất nhiều suy nghĩ. Sau đây có thể là một số câu.


Đầu tiên câu hỏi về niềm tin, về tương lai phía trước của đất nước: Liệu Việt Nam có thực sự trở thành Rồng?  Hay không thể nào thành Rồng? Nếu niềm tin là Việt Nam sẽ hóa rồng, thì cách nghĩ và cách làm sẽ khác, nếu niềm tin là không thể hóa rồng, sẽ phải nghĩ hướng khác, làm cách khác.


Để biết Việt Nam có trở thành Rồng hay không, việc đầu tiên là phải quay lại để nhìn về lịch sử, xem chúng ta có thực sự mang trong mình dòng máu của Rồng hay không? Và quan trọng hơn, để nhìn vào quá khứ, đã có giai đoạn lịch sử nào chúng ta mang hình bóng của một chú Rồng con?


Câu hỏi tiếp theo, là hàng triệu người Việt Nam hiện có lý tưởng, chí hướng gì chung không? Lý tưởng ở đây không phải là lý tưởng có nguồn gốc từ một chủ nghĩa hay triết thuyết nào đó, là những thứ trong suốt lịch sử của mình, cho đến đến tận ngày nay chúng ta vẫn phải đi vay mượn. Phần nhiều những người cùng chí hướng (đồng chí) đi theo những lý tưởng ấy, cho đến nay cũng không còn tin vào lý tưởng mà họ đã từng tin, không còn tin vào đồng chí của mình, tức là gọi là “đồng chí” mà lại không cùng chí hướng.


Dù Niềm Tin là Việt Nam sẽ hóa rồng, hay Niềm Tin là Việt Nam sẽ chỉ có số phận làng nhàng giun dế, thì để cứu vớt cái xã hội đang phân rã cao độ này rồi đưa đất nước đi đúng con đường mà nó cần phải đi, để thoát khỏi vũng lầy tăm tối, thì vẫn cần một hoặc nhiều lý tưởng, một hoặc vài chí hướng. Những lý tưởng và chí hướng ấy phải có cùng: gốc rễ từ chính dân tộc mình và hướng về phía trước là phát triển đất nước. Có cái chung như vậy, thì nỗ lực của mỗi người, dù theo đuổi lý tưởng nào, chí hướng nào, sẽ đều góp phần phụng sự đất nước.


Một câu hỏi nữa, đó là sự chuyển giao liên tục giữa các thế hệ, đặc biệt là giữa các thế hệ lãnh đạo. Bất cứ một sự gián đoạn nào, dù là gián đoạn giữa các thế hệ doanh nhân, tri thức, hay gián đoạn giữa các thế hệ lãnh đạo, đều gây ra sự phân rã xã hội. Đặc biệt là sự gián đoạn lãnh đạo đất nước, sẽ tàn phá di sản quá khứ, làm thất truyền kinh nghiệm dựng nước, làm vỡ nát nền tảng văn hóa và luân lý của xã hội, dẫn đến xã hội không chỉ phân rã mà có thể sụp đổ đạo đức, lối sống và cả sự phồn vinh.


Một câu hỏi cũng nên đặt ra, không phải là làm thế nào để trở thành Rồng, mà phải định nghĩa Rồng là gì rồi từ đó mới biết cách để trở thành Rồng.


Và cuối cùng là câu hỏi về cơ hội. Liệu có cơ hội nào để Việt Nam trở thành rồng hay không. Cơ hội ấy không tự ta tạo ra, mà phụ thuộc vào hoàn cảnh thế giới. Nhưng nắm lấy cơ hội, lại là một việc chúng ta phải chủ động.


Bắt đầu từ câu hỏi quốc gia Rồng là một quốc gia như thế nào?


Làm Rồng phải chăng là khè lửa dọa dẫm bắt nạt các nước láng giềng, hay là đánh nhau tay bo thắng vài cường quốc? Làm Rồng phải chăng là có thể đánh đu ngang hàng với các quốc gia phát triển? Hay là làm rồng tức là có những doanh nghiệp lớn vươn  ra thế giới? Làm rồng có lẽ nào chỉ cần có những tầng lớp elite giàu có ngang hàng với elite hàng đầu khu vực hoặc thế giới?


Làm Rồng, thực ra hiền lành hơn nhiều. Một quốc gia hóa rồng là một quốc gia hội nhập và có đóng góp cho văn minh nhân loại. Một quốc gia có đóng góp cho văn minh nhân loại, thì tự khắc sẽ có vị thế và được thế giới chia cho phần lợi lớn. Như Anh-Mỹ mấy trăm năm nay, như Nhật cả trăm năm nay. Và như Hàn Quốc rất gần đây. Một quốc gia chỉ thụ hưởng hay vay mượn của văn minh nhân loại, thì phần của cải mà nó được thế giới chia cho, sẽ chỉ là canh thừa cơm cặn, quá lắm là chỉ đủ thoát chết đói, thoát nghèo hay giàu xổi. Còn lâu mới đạt đến đẳng cấp thịnh vượng bền vững. Ở những quốc gia vay mượn, có rất nhiều trên thế giới này, chỉ có một lớp người giàu có nhờ lèo lái đặc quyền để kiếm ăn trên lưng đồng bào hoặc tài nguyên của đất nước.


Đấy mới là điều kiện đủ để được coi là Rồng.


Điều kiện cần chính là Độc Lập, Thống Nhất bờ cõi và có chung Một Ngôn Ngữ.


Một con rồng chỉ là con Rồng khi nó thực sự làm chủ được vận mệnh của mình và có giang sơn của riêng nó. Một đất nước muốn hóa rồng, đầu tiên cần phải là một quốc gia, có chủ quyền, và nhân dân của quốc gia ấy có những người lãnh đạo của chính mình.


Với những điều kiện như vậy thì quốc gia Việt Nam thực sự hiện hữu, hay nói cách khác là con rồng sơ sinh xuất hiện trên mảnh đất chữ S này, mới chỉ hơn 10 thế kỷ. Đó là khi Khúc Thừa Dụ khéo léo đưa nước ta thoát khỏi 1000 năm bắc thuộc. Một ngàn năm là quãng thời gian rất dài. Dài đến mức khi nước ta thoát khỏi sự kiểm soát của người Hán phương Bắc thì kể từ đấy lãnh đạo đất nước Tàu luôn coi nước chúng ta là mảnh đất ly khai. Kể từ bấy đến nay, họ đã mang quân toan cướp nước ta khoảng 9 lần. Trong đó đáng kể nhất có thời kỳ bắc thuộc lần IV và người giải phóng đất nước lần đấy là Lê Lợi, đã mở ra một kỷ nguyên lớn cho dân tộc, đất nước. Những lần cướp nước khác, không tính Nguyên Mông, thì trận thua tơi bời của nhà Thanh trước quân Tây Sơn, cũng gây ra biến động lớn cho xã hội  và chỉ hơn 10 năm sau chiến thắng Đống Đa, Việt Nam hiện hình thực sự là một con rồng nhỏ trong khu vực.


Quay lại thời điểm rồng sơ sinh. Sau khi Khúc Thừa Dụ khéo léo đỡ đầu cho rồng ra đời, thì Ngô Quyền chính là vị vua phục quốc đầu tiên. Sau chiến thắng quân Nam Hán, Ngô Quyền không chỉ chính thức tái thành lập nước Âu Lạc mà còn dựng nên hoàng gia đầu tiên, tức là những người lãnh đạo thực sự của đất nước, tức là Nhà Ngô.


Đây cũng là thời kỳ thoát khỏi Trung Hoa mạnh mẽ nhất. Nếu như nguyên nhân giải thích Nhật Bản phát triển thần kỳ suốt 100 năm qua vẫn được coi là do họ Thoát Á Nhập Âu (Thoát Á Luận, rời bỏ văn minh Châu Á, ảnh hưởng mạnh của Trung Hoa, để thu nhập văn minh Châu Âu), thì trong lịch sử Việt Nam chỉ có một lần duy nhất là Ngô Quyền thoát khỏi cái bóng Trung Hoa. Điều kỳ quặc là sau rất nhiều lần biến động lịch sử, mỗi lần đất nước sang trang mới, thì chính quyền Đại Việt/Đại Nam có xu hướng ngả về mô hình Trung Hoa và thần phục (ít nhất là trên mặt ngoại giao) cái nước này. Chỉ có hai lần hiếm hoi có dự định mà bất thành, một là Lý Thường Kiệt, hai là Quang Trung. Cũng có tính thêm thời TBT LD.


Con rồng sơ sinh lớn dần, cho đến thời nhà Lý dời đô về Thăng Long, nó bắt đầu chuyển mình. Từ thế kỷ 11 (nhà Lý) đến thế kỷ 15 (nhà Lê), quốc gia non trẻ ấy đã trở thành Đại Việt, liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh trong 400 năm để mở rộng bờ cõi gần gấp đôi, từ Thanh Hóa, về phía Nam. Thời nhà Lý bắt đầu mở cõi vào Quảng Trị thì đến thời của ông vua tài năng nhất lịch sử Việt Nam, Lê Thánh Tông, đã mở rộng đất nước đến Phú Yên. Lê Thánh Tông không chỉ xây dựng một đất nước có kỷ cương, luật pháp, văn hóa phát triển mà còn cải cách quân đội cực giỏi, đích thân cầm quân đi chinh phạt các vương quốc xung quanh, chiếm đất, mở rộng bờ cõi.


Sự liền mạch của các gia tộc lãnh đạo, hay còn gọi là Hoàng Gia, diễn ra liên tục trong quãng thời gian gần 8 thế kỷ này, có lúc thịnh lúc suy, nhưng về cơ bản là đất nước phát triển cả về văn hóa, kinh tế và đặc biệt là mở rộng diện tích đất nước.


Sự bội phản của họ Mạc với nhà Lê là biến cố đầu tiên gây ra các biến loạn xã hội lớn lao sau này, có ảnh hưởng sâu đậm đến tận ngày nay, nhưng cũng qua cơn biến loạn ấy mà con rồng thiếu nhi Đại Việt chuyển mình trở thành con rồng thiếu niên Đại Nam (thời Minh Mạng). Sự chuyển mình qua biến loạn ấy, có lẽ cũng sẽ lặp lại trong tương lai gần.


Gia đình họ Trịnh, hiểu rõ giá trị liên tục của lãnh đạo đất nước, sau khi dẹp nhà Mạc tuy đủ sức lật nhà Lê nhưng đã nép mình đứng sau một bước. Nhờ thế mà Nhà Lê tồn tại thêm cả hai trăm năm mà nhà Trịnh thực chất nắm kinh tế và quân sự điều hành cả nước. Cũng nhờ nấp sau bóng của Nhà Lê mà gia đình Trịnh phần nào đó thoát khỏi thể chế nhà nước phong kiếnTrung Hoa mà các triều đình phong kiến Việt kiên trì nhắm mắt sao chép suốt hàng trăm năm trước đó.


Khi Tây Sơn tiến quân vào Thăng Long, không chỉ dinh thự nguy nga của Trịnh Sâm bị đốt tan hoang, gia tài văn hóa bỗng dưng bị xóa sổ, gia đình Trịnh bị tận diệt mà cả kho kiến thức và kinh nghiệm trị quốc của nhà Trịnh tan thành mây khói. Để lại một xã hội miền bắc thời Mạt Lê thật điêu tàn, một xã hội là bản sao mờ nhạt của Trung Hoa, một bản sao với người dân kém cỏi hơn, xấu xí hơn, cay nghiệt hơn.


Kinh nghiệm trị nước, dựng nước, xây dựng quân đội, kinh thương của nhà Trịnh là kế thừa của nhiều trăm năm trước, kể từ thời Ngô Quyền, cộng với trải nghiệm hai trăm năm phò Lê của họ, bỗng dưng một ngày biến mất trong tao loạn. Trong những kinh nghiệm trị nước bị mất đi, đáng tiếc nhất là những bài học “thoát khỏi hệ tư tưởng Trung Hoa, tức là Thoát Á”.


Tài năng trị nước, nấp đằng sau bóng hoàng gia Lê, của họ Trịnh cũng không được ai nhìn nhận. Ngay cả ông chúa Trịnh Sâm, người làm tan nát dòng họ của mình, ở những lúc xuất thần vẫn cử tướng cầm quân vào Nam, vô tình gây ra biến cố lớn lao ảnh hưởng sâu sắc đến nước Việt Nam hiện đại.


Một bài học lớn về sự thủ tiêu thế hệ lãnh đạo và di sản của họ, khiến cho kiến thức và kinh nghiệm trị nước và dựng nước bị thất truyền, mà không ai chịu nhìn nhận và sau này lặp lại đến mấy lần, cho đến mới chỉ cách đây vài chục năm vẫn còn lặp lại.


Giai đoạn gia đình họ Trịnh bị tiêu diệt cũng là thời kỳ mà người Việt giết chóc nhau thảm khốc. Quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, kiêu binh Thanh Nghệ của chúa Trịnh bỏ trốn về quê, trên đường về phải giả câm, mở miệng ra nói giọng Thanh Nghệ là bị dân địa phương giết. Sau này đến lượt vua quan nhà Tây Sơn bị quân Nguyễn Ánh quây, rút chạy đến Nông Cống Thanh Hóa, lại bị dân ở đây bắt trói đem nộp. Dấu ấn kỳ thị vùng miền và chà đạp lẫn nhau, dù cùng là người Việt, đã bắt đầu xuất hiện và đi sâu vào gene của người Việt như một thứ gene cừu hận (feud), không ai chịu chữa mà còn làm cho nó nặng thêm.


Di sản trị quốc, dựng nước, văn hóa đỉnh cao … của những người Việt đồng bằng bắc bộ, tích lũy hàng mấy trăm năm, kể từ thời Ngô Quyền đánh trận Bạch Đằng (938) đến thời Trịnh Sâm (1787) bỗng bị xóa sạch bởi cơn cuồng phong nội chiến mà Tây Sơn là kẻ chiến thắng.


Thế nhưng cái may mắn là nhà Trịnh (Trịnh Hoàng) nổi lên mà nhà Nguyễn (Nguyễn Kim) phải đối kháng đến mức phải bỏ xứ mà đi. Cái phần đất mà suốt mấy trăm năm người Việt chiến đấu để mở rộng, lúc đó đến Phú Yên, là bàn đạp để chúa Nguyễn mở mang bờ cõi vào đến đất Đồng Nai rồi đến tận Cà Mau, đưa diện tích đất đai tăng lên gấp ba, so với những năm đầu nhà Lý.


Cái may mắn thứ hai nữa là trước khi suy tàn, Trịnh Sâm cầm quân đánh vào đất Thuận Hóa của Chúa Nguyễn. Làm sụp đổ dòng họ này và làm quân Tây Sơn mạnh lên, hùa với quân Trịnh mà truy sát quân Nguyễn. Nhờ đấy mà đẩy chúa Nguyễn đi xuống tận miền tây.


Trong quá trình Nam tiến ấy, kinh nghiệm mở cõi, trị nước, kinh thương và xây dựng quân đội của người Việt nhờ đó mà không bị mất đi. Và còn hơn thế, kiến thức và kinh nghiệm trị nước của các chúa Nguyễn lại được áp dụng trên những vùng đất xưa kia thuộc về các vương quốc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, thay vì Trung Hoa. Đó là Chàm, Khmer. Hay những vùng đất mới chịu ảnh hưởng khai phá của những người Hoa ưu tú, ly khai kháng chiến, phản Thanh phục Minh ở phía cực nam của vùng đất hình chữ S.


Tây Sơn diệt được Trịnh mà không diệt được Nguyễn. Quang Trung đánh thắng mọi kẻ thù cả nội lẫn ngoại xâm. Về cơ bản là có công lớn thống nhất bờ cõi. Nhưng lại để xổng một kẻ duy nhất dòng dõi hoàng gia là Nguyễn Ánh. Sau này Nguyễn Ánh quay lại không chỉ diệt nhà Tây Sơn, củng cố lại giang sơn bờ cõi mà còn đem di sản kinh nghiệm lãnh đạo mấy trăm năm để lãnh đạo một nước Việt mới mà ông đặt tên là Việt Nam, lên ngôi lấy tên Gia Long (Gia Định + Thăng Long).


Nguyễn Ánh lên ngôi rồi sau này là Minh Mạng nối ngôi, hai vị vua lừng danh này mang kinh nghiệm dựng nước của cha ông mình vào việc củng cố bờ cõi. Các khu vực chư hầu phía nam bị bắt sát nhập vào nước Việt Nam (đến thời Minh Mạng đổi thành Đại Nam), các vùng đất tự chủ của người Hoa cũng bị sát nhập. Bờ cõi phía nam mở rộng tối đa về tây nam bộ và kéo dài đến tận biển.


Đó là lúc rồng non trở thành thiếu niên.


Đây là thời kỳ Việt Nam có bờ cõi rộng nhất (rộng hơn cả bây giờ)


Cũng là thời kỳ Việt Nam được các nước xung quanh kinh sợ nhất. Nhà Thanh, quân Xiêm sợ chết khiếp từ thời Tây Sơn. Miến Điện chỉ chứng kiến vài lần xuất quân của Tây Sơn ở Lào mà còn phát hãi. Vua Khmer (Chân Lạp) và Lào thần phục Việt Nam mà chịu làm chư hầu.


Đại Nam cũng là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên mà Mỹ để ý đến và Tổng thống Mỹ cử người mang thư đến đặt quan hệ giao thương.


Có độc lập tự chủ rồi, điều kiện cần để thành con Rồng đã có. Nhưng điều kiện đủ, là phải hòa mình vào thế giới, thì tiếc thay lãnh đạo của Đế quốc Đại Nam ấy đã tự mình để mất.


Các nhà lãnh đạo của con Rồng thiếu niên ấy, đã quá tự tin vào sức mạnh của đất nước mình, quá tự tin vào tài năng và kiến thức lãnh đạo của mình, quá sùng bái mô hình nhà nước phong kiến, đã đóng cánh cửa không cho con rồng thiếu niên tiếp cận với thế giới phương tây. Cơ hội rất lớn để con rồng thiếu niên Việt Nam quẫy mình thành con rồng trưởng thành, đã bị bỏ lỡ một cách cực kỳ đáng tiếc.


Những nhà lãnh đạo ấy là Vua Minh Mạng và các hậu duệ của ông ta.


Minh Mạng là vị vua tài giỏi có nhiều cải cách mạnh mẽ. Ông cải cách hành chính để cai trị, cải cách quân đội, cải cách chế độ làm quan (chấm dứt cha truyền con nối, luân chuyển quan chức). Cải cách giáo dục, thi cử, bổ nhiệm quan chức.


Dưới thời Minh Mạng, tiếng Việt là tiếng bắt buộc, thay thế cho tiếng Hoa và Khmer ở Gia Định (bao gồm cả miền tây). Đây là sự kiện cực kỳ quan trọng bởi kể từ đây, nước Việt Nam rộng lớn, có bờ cõi, có hệ thống lãnh đạo riêng của mình, và sử dụng chỉ một tiếng nói, và là tiếng riêng của mình trên toàn lãnh thổ. Người Việt vốn có nhiều gốc gác từ Mường, Thái, Khmer, Chăm, và Hoa, người Kinh thậm chí còn có nhiều họ gốc Tàu, nay ít nhất có hai cái chung: một là tiếng Việt, hai là thần dân nước Việt, một sự bắt đầu của một quốc gia hiện đại với các công dân và lãnh thổ của nó.


Nhân đây, mỗi lần cả nước ồn ào và lãng phí tổ chức Giỗ Tổ, không biết những người Việt gốc Chăm, gốc Khmer nghĩ gì. Họ cũng là công dân của đất nước này, học cũng là người Việt, mà sao lại phải nhớ ngày giỗ ông tổ chưa bao giờ liên quan đến họ. Liệu họ có sẵn sàng phục vụ một quốc gia mà họ là công dân, nhưng lại không đoái hoài gì đến tổ tiên của họ hay không? Nhất là những người Chăm, Khmer rồi Bahnar, Giarai … ấy đang sống trên mảnh đất của chính họ hàng ngàn năm nay. Trẻ con người Việt gốc Chăm, hoặc Khmer mà học sách giáo khoa, dạy rằng chúng là con rồng cháu tiên, thì cũng lố bịch chả kém gì người Việt nam thời Pháp thuộc phải học sách giáo khoa viết tổ tiên của họ là người Gauloises.


Trước thời Minh Mạng việc cấm đạo lúc có lúc không nhưng chưa lúc nào cực đoan. Chúa Trịnh, Chúa Tây Sơn, Chúa Nguyễn đều có lúc ngăn ngừa, lúc ủng hộ, lúc sử dụng các linh mục và thương nhân liên quan đến truyền giáo. Đến thời Minh Mạng là cấm ngặt nhất. Và đó là lúc người đi đạo, bên lương, bên giáo, lao vào chém giết nhau, người với người, làng với làng, để rồi cùng với mối cừu hận vùng miền, người Việt bắt đầu cừu hận nhau cả về khác biệt tư tưởng. Khoảng cách từ giết nhau vì khác tín ngưỡng đến giết nhau vì khác đảng phái, khác lý tưởng chính trị chỉ là một sợi tóc. Và lịch sử đã cho thấy người Việt hãm hại nhau tàn khốc hàng chục năm chỉ vì khác nhau ý thức hệ vay mượn. Những người nói cùng một thứ tiếng, nhiều đời lớn lên cùng một mảnh đất, mà giết nhau vì cừu hận có nguyên nhân sâu xa từ tín ngưỡng hoặc hệ phái chính trị (đều là vay mượn du nhập) thì cách đó một sợi tóc là sự thù hận giữa người Việt ở lại và người Việt ra đi, là người Việt chiến thắng và người Việt thua cuộc.


Thế nên, từ đây thấy rất rõ, là cần những lý tưởng, chí hướng không chỉ hấp dẫn để cuốn hút hàng triệu người Việt đi theo, mà lý tưởng ấy phải có gốc rễ và tương lai trên chính mảnh đất này, gắn với dân tộc này. Giống như người Do Thái, có thể có nhiều nhóm người chống hoặc ghét nhau, nhưng cùng phụng sự cho lý tưởng Phục quốc, xây dựng một quốc gia Do Thái cho chính họ là Israel hiện nay.


Thế rồi lịch sử sau này lại lặp lại. Khi nhà nước cách mạng nổi lên, Nhà Nguyễn bị xóa bỏ hoàn toàn, không chỉ công lao, mà kiến thức và kinh nghiệm dựng nước của họ, nhất là các bài học thất bại đau xót, cũng bị xóa mất. Văn hóa, kiến trúc của họ cũng bị đập bỏ. Ngay cả di sản văn hóa và kinh nghiệm lãnh đạo của một giai đoạn VNCH ngắn ngủi, vốn có một chút kế thừa của Nhà Nguyễn cũng bị xóa đi y như thế.


Và như đã nói từ đầu, đấy chính là một trong những căn nguyên của tan rã xã hội như ta đang phải chứng kiến.


Quay lại với sự hội nhập với Phương Tây của Minh Mạng. Sự giàu có và mua sắm được vũ khí hiện đại của Trịnh Sâm, là nhờ giao thương ở Phố Hiến. Nhà Nguyễn chậm chân hơn nên yếu hơn. Quân đội Tây Sơn mạnh mẽ, thiện chiến, hiệu quả, là nhờ giao du và nhập khẩu công nghệ từ cảng Quy Nhơn với thương lái Hoa và cướp biển, cũng như vay mượn kinh nghiệm chiến đấu của người Chăm, người Hoa lưu vong. Trịnh và Tây Sơn chập lại, đánh Nguyễn chạy ra biển, chạy cả qua Xiêm. Vị tướng trẻ qua Xiêm rước chúa Nguyễn Ánh trở về, cũng lại là một tay giao thương giỏi, là Châu Văn Tiếp, bạn buôn của Nguyễn Nhạc.


Nguyễn Nhạc, cũng giống như Nguyễn Ánh, đều học toán và thiên văn từ những người truyền giáo Châu Âu mà nhờ đó một người từ lái buôn trầu kiêm quan thuế của chúa Nguyễn mà nổi dậy đánh quân Nguyễn tơi bời. Nguyễn Ánh, kẻ nhiều lần thoát hiểm trong gang tấc, nhờ học hỏi kiến thức Châu Âu, mà lần hồi quay lại giết hết kẻ thù, làm vua cả một nước.


Rồi đến Chúa Nguyễn Ánh, ông không chỉ du nhập công nghệ phương tây mà còn sử dụng người của họ để có kiến thức. Sự hội nhập ấy mang sức mạnh quân sự và kinh tế (không thông qua cướp bóc như Tây Sơn) của Chúa Trịnh rồi đến nhà Nguyễn. Quán tính của nó mạnh đến nỗi khi Minh Mạng quay lưng lại với phương tây, đóng cửa với thế giới bên ngoài, cấm đạo, thì khoa học kỹ thuật của người Việt thời Đế quốc Đại Nam đã đủ sức chế ra rất nhiều kiểu máy móc dùng trong sản xuất và quân sự.


Với vị thế của quốc gia lớn, uy tín quân sự lẫy lừng như vậy, lẽ ra Minh Mạng nên nhìn ra bên ngoài thế giới mà thay đổi cách ngoại giao. Khi quân đội có uy tín, thì ngoại giao dễ chủ động, cái khôn ngoan là nhìn vào mâu thuẫn và đồng thuận giữa các nước, để thu cái lợi về cho quốc gia. Nhưng Minh Mạng vẫn duy trì ngoại giao hình thức là triều cống (với Trung Hoa) và bảo hộ (với láng giềng chư hầu), đồng thời đóng cửa và nghi kỵ phương tây. Chính sách này ngay lập tức gây chiến tranh với Xiêm trên đất Lào và với người Khmer trên đất Chân Lạp, tức là chiến tranh trên vùng đất thuộc quyền bảo hộ của mình. Kết quả là thua và mất đất, mất ảnh hưởng (184x). Bài học lớn về ngoại giao này (quân đội hùng mạnh và khai thác mâu thuẫn hoặc đồng thuận giữa các quốc gia khác) rất tiếc sau này lại bị thất truyền, kinh nghiệm đau thương không được truyền lại cho đời sau, để rồi hơn 100 năm sau (197x, 198x) lịch sử đau thương lại lập dẫn đến sự suy yếu cả kinh tế, quân sự và vị thế ngoại yếu kém so với kẻ thù trực diện là những gì hiện tại chúng ta bắt đầu phải chịu đựng.


Sau khi Minh Mạng qua đời, con rồng thiếu niên Việt Nam ngay lập tức suy yếu. Quân Chân Lạp đánh quân Nguyễn chạy về An Giang, và lãnh thổ còn lại như vậy đến ngày nay. (Sau này một phần đất của Đại Nam, là Hoàng Sa, cũng bị chiếm mất).


Khúc quanh lịch sử này là một bài học cực lớn về để lỡ cơ hội. Nước Việt đã ngấp nghé ở ngưỡng để con Rồng chuyển từ thiếu niên qua rồng trưởng thành, thì chính sách đóng cửa đã làm lụn bại con rồng ấy. Điều kiện cần là độc lập, thống nhất bờ cõi, có tiếng nói chung, cơ chế hành chính giáo dục chung, tất cả những cái ấy Đại Nam/Việt Nam thời đầu nhà Nguyễn đều có. Nhưng họ thiếu hẳn đi điều kiện đủ, đó là mở cửa hội nhập, tiếp cận những nền văn minh có giá trị luân lý sâu sắc hơn, đạo đức và lối sống nhân văn hơn, tư tưởng sáng suốt hơn; tiếp cận các đất nước có thể chế chính trị tốt hơn, vận hành kinh tế xã hội hiệu quả hơn, giàu sáng tạo hơn.


Và thế là con Rồng thiếu niên bị đập cụt móng vẫn tiếp tục ở yên trong vũng nước.


Rất may là các nước lân bang, từ Trung Hoa, đến Miến Điện, Thailand, cũng rơi vào hoàn cảnh giống Việt Nam, tức là đóng cửa hoàn toàn, hoặc mở cửa lừng chừng, độc lập nửa vời, … và do đó cũng không hóa rồng được như Nhật Bản. Còn rất không may là chính các nước ấy, giật mình tỉnh ngộ trước Việt, và đã bỏ xa Việt Nam rất xa. Họ có thể đã tiệm cận với thế giới của Rồng, trong khi Việt Nam vẫn còn nghi hoặc với câu hỏi lên Rồng hay chịu đời giun dế.


Nhật bản xuất Á nhập Âu sau một thời gian dài đã trở thành cường quốc quân sự, tham gia vào phe phát xít để đánh nhau với cả thế giới. Thế nhưng chỉ ngay sau khi gây chiến, phương tây đóng cửa với Nhật, là ngay lập tức Nhật bị tụt hậu về công nghệ quân sự và thua cuộc chiến. Sau chiến tranh, Mỹ lại mở cửa cho Nhật, và họ lại phải triển lên trình độ cao như chúng ta đã thấy.


Quan trọng hơn, sự hội nhập về phía phương tây của người Nhật không làm họ mất đi bản sắc của họ, thậm chí còn ngược lại, bản sắc của người Nhật thậm chí còn quá đặc sắc so với phần còn lại của thế giới. Thể chế kỳ quặc của họ vẫn có cái văn minh đón nhận từ nền tảng chính trị và thể chế Châu Âu, lại vẫn có một ông vua làm lãnh đạo tinh thần cho cả nước.


Trong khi đó Việt Nam, trải qua bao nhiêu thời kỳ, từ Minh Mạng, đến VNDCHH ở Miền Bắc và VNCH ở Miền Nam, và đến tận ngày nay, đều e dè với sự mở cửa hội nhập. Một trong những lý do e sợ hội nhập là một lý do rất đần độn là để bảo vệ và giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhưng ngay cả khi hỏi một người hăng hái bảo vệ bản sắc dân tộc nhất, là bản sắc dân tộc VN là gì, thì câu trả lời nếu có cũng sẽ hết sức ngớ ngẩn. Vì chắc chắn không ai biết bản sắc Việt nam là gì hết.


Chỉ khi nào hội nhập toàn diện và sâu sắc với thế giới bên ngoài, va chạm cọ sát với các xã hội có các nền văn minh khác hẳn chúng ta, thì lúc đấy chúng ta mới nhìn thấy được bản sắc của chính mình. Không hội nhập đủ rộng và đủ sâu với thế giới, thì không thể nào tự nhìn thấy bản sắc thật nhất, rõ nhất của mình được. Và chỉ khi hội nhập đầy đủ, chúng ta mới thấy được bản sắc của mình để mà bảo tồn và phát triển, nếu như thực sự chúng ta có cái gọi là bản sắc.


Bản sắc nếu có ấy, chắc chắn sẽ rất đa màu. Nó sẽ có văn hóa của người Việt châu thổ sông hồng, bị ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa nhưng chỉ là bản sao xấu xí. Nó sẽ có thể có tinh thần kiên cường của người Việt miền trung, vốn là dân biên cương khốc liệt có giao thoa với văn hóa chiến tranh của các vương quốc bị ảnh hưởng của Ấn Độ ở phía Nam trung bộ ngày nay. Nó cũng sẽ có văn hóa rụt rè, bi ai mất nước nhưng cứng cáp và sâu sắc ở bên trong của người Việt nam tiến và người Việt gốc Chăm sinh ra và lớn lên trên vùng đất của vương quốc văn minh và hưng thịnh Chăm Pa. Nó cũng sẽ có văn hóa hồn nhiên và bao dung của người Việt gốc Khmer Chân Lạp, và cả người Hoa bỏ xứ.


Chính vì thế, rất cần có những lý tưởng có gốc rễ từ dân tộc Việt đa màu, những chí hướng xây dựng đất nước mà mới chỉ hoàn thiện bờ cõi hơn 200 năm (kể từ 1802 khi Gia Long lên ngôi) và tiếng Việt được sử dụng chính thức và bắt buộc trên cả nước còn có thời gian ngắn hơn nữa, chỉ khoảng 180 năm. (để dễ so sánh về thời gian, hãng bia Heineken có tuổi đời đến năm nay là 140 năm). Chỉ với lý tưởng và chí hướng xây dựng một quốc gia phồn thịnh không phân biệt gốc gác về chủng tộc, tôn giáo và văn hóa của công dân miễn là nói cùng thứ tiếng và sống trong cùng lãnh thổ quốc gia.


Quay lại với hội nhập. Trong quá khứ, các bậc tiền bối của cũng đã cố gắng hội nhập với thế giới, không chỉ Trung Hoa, mà còn với văn minh Phương Tây nữa. Thế nhưng việc hội nhập và phương tây hóa thẳng với nước Pháp, lúc đó đang là mẫu quốc của thuộc địa An Nam, đã thất bại. Người dân của một dân tộc nô lệ thì việc hội nhập và phương tây hóa đến đâu, cũng vẫn là hội nhập và văn minh hóa nô dịch. Nó là sự văn minh hóa cưỡng bức, để làm lợi cho giới chủ thực dân, là những người làm chủ và khai thác bóc lột, chứ không phải là sự hội nhập, phương tây hóa chủ động của một dân tộc được lãnh đạo bởi những cá nhân ưu tú của chính dân tộc mình. Ngay cả một con rồng thực sự mà bị huấn luyện và dẫn dắt, cũng sẽ không còn là con rồng nữa. Nó là con thú nuôi.


Cũng có những bậc tiền bối khác đã chủ động thoát khỏi sự dẫn dắt của người Pháp thực dân, tự mày mò qua Nhật để hội nhập và tiến hành phương tây hóa qua cánh cửa Nhật Bản. Thực dân Pháp ngay lập tức nhìn ra sự nguy hiểm trong phong trào Đông Du. Họ thấy người Việt đang tạo ra điều kiện đủ (hội nhập với văn minh thế giới) khi chưa có điều kiện cần (độc lập). Nên phong trào bị dập tắt. Mặc dù bị dập tắt như vậy, nó vẫn đưa ra được một thể chế có thể nói là cực kỳ lý tưởng vào lúc đó, thể chế quân chủ lập hiến của ông hoàng Cường Để và các chí sỹ như Phan Bội Châu. Thể chế này là sao chép thể chế của nước Nhật.


Mặc dù phong trào của ông hoàng Cường Để toi từ trong trứng, nhưng một người tham gia hoạt động bí mật của phong trào này là Ngô Đình Diệm đã thấu hiểu tinh thần phương tây hóa. Mặc dù là một ông quan đại thần của nhà Nguyễn, gia đình nho hóa cao độ và sâu sắc, nhưng khi lên cầm quyền chính Ngô Đình Diệm là người xây dựng thể chế cộng hòa y như phương tây ở Việt Nam. Đây là một ví dụ vừa hay vừa rõ ràng về cái lợi ích lớn lao mà phương tây hóa sâu sắc sẽ mang đến cho quốc gia. Thể chế do Ngô Đình Diệm xây dựng  tồn tại rất ngắn, chỉ cỡ 20 năm, lại bị bao vây bởi chiến tranh khốc liệt nhưng những giá trị mà nó tạo ra, còn tồn tại, thậm chí tỏa sáng đến tận bây giờ.


Quay lại thời Pháp thuộc, mặc dù bị hội nhập và phương tây hóa cưỡng bức, nhưng thời kỳ Pháp thuộc vẫn có những đúc kết kiến thức và kinh nghiệm trị nước, là do thực dân Pháp học hỏi từ nhà Nguyễn, biến kiến thức của nhà Nguyễn thành của mình, và cai trị thành công nước Việt Nam thuộc địa suốt một trăm năm.


Kinh nghiệm quản lý đất nước Việt của người Pháp, lẽ ra cũng không được để gián đoạn và mai một, mà phải chủ động nhận lấy để dùng, thì cả chính phủ của cụ Hồ miền bắc và ông Diệm miền nam đều cổ vũ “đả thực phản phong”, khiến cho kiến thức và kinh nghiệm trị nước của nhà Nguyễn và thực dân Pháp gián đoạn và mất hẳn ở miền Bắc, và chỉ còn xôi đỗ ở miền Nam nhờ ông Diệm, Nhu và các tướng lĩnh và công chức cao cấp do Pháp đào tạo.


Tầng lớp duy nhất tồn tại không hề gián đoạn giữa các thế hệ trong suốt thời kỳ này chính là doanh nhân. Khi Minh Mạng lên ngôi, do lại học hỏi mô hình phong kiến Trung Hoa, thương nhân lại bị đẩy xuống tầng lớp dưới (chính sách ức thương). Bị đẩy xuống nhưng không bị tiêu diệt. Tầng lớp này tồn tại qua thời pháp thuộc, qua cả thời kháng chiến, để rồi bị triệt tiêu ở miền bắc từ 196x đến 198x và bị triệt tiêu ở miền nam từ nửa sau 197x đến cuối 198x.


Sự gián đoạn của các thế hệ doanh nhân, mặc dù rất ngắn ngủi, gần 40 năm ở miền bắc và gần 20 năm ở miền Nam, đã làm đứt đoạn chuyển giao kiến thức, vốn liếng, kinh nghiệm và kỹ năng quản trị nặng nề đến mức doanh nhân Việt Nam tụt hậu với khu vực láng giềng, chứ chưa nói đến so với thế giới, cả thế kỷ.


Kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, một lĩnh vực không quá khó học và không quá thiếu kiến thức quốc tế để học, thế mà chỉ gián đoạn vài thập kỷ thôi, là doanh nhân đã tụt hậu và nghèo đi bao nhiêu. Lãnh đạo đất nước khó hơn nhiều, mà bị gián đoạn, thì hậu quả còn tệ đến ra sao, tự ta có thể ước chừng được.


Lại quay lại với hội nhập. Nước Trung Hoa cũng bỏ lỡ các cơ hội mở cửa để hội nhập và phương tây hóa. Đấy là lí do phương tây, sau này là Nhật xâm chiếm Trung Hoa. Khi nước này được giải phóng, độc lập, chính quyền cách mạng của Mao tiếp tục đóng cửa. Cho đến năm 1978 thì họ mở cửa ra, trước Việt Nam chúng ta. Ngay lập tức, các vùng duyên hải của Trung Quốc được tiếp cận rộng và cởi mở hết sức với Phương Tây, đồng thời cũng được phương tây ưu ái hỗ trợ để nhanh hội nhập. Chỉ trong vòng hơn ba mươi năm, khu vực duyên hải của Trung Quốc đã biến Trung Quốc thành một nước mới, phát triển, phồn thịnh, bất chấp sự nghèo nàn lạc hậu vẫn còn lan tràn trong lục địa.


Nhưng khác với Nhật Bản, Trung Quốc hội nhập chỉ rộng chứ chưa đủ sâu, cho nên Trung Quốc vẫn chưa đến đẳng cấp thật sự của rồng, là đóng góp được cho văn minh nhân loại. Tức là chưa ở đẳng cấp được chia của cải, mới chỉ húp canh thừa, mà đã giàu như thế.


Trong gian đoạn toàn cầu hóa mạnh mẽ vừa qua, và cả trong đối đầu với Trung Quốc trước mắt, Việt Nam vừa đi chậm hơn Trung Quốc và các nước trong khu vực vài bước, lại không chuẩn bị cho mình một sự giai đoạn chuyển tiếp, có tính chất cải cách mạnh, từ thể chế đến giáo dục, để gia tăng sản lượng của đất nước, tích lũy của cải quốc gia, củng cố quân đội, tăng cường hoạt động ngoại giao khai thác mâu thuẫn/đồng thuận của các nước trên thế giới nhằm kiếm thêm lợi về cho đất nước.


Rất may, biết đâu, là Trung Quốc giàu xổi rất nhanh và tinh thần hắc ám phát xít Đại Hán còn phát triển nhanh hơn. Cho nên các nước phương tây sớm hay muộn cũng đóng cửa lại với Trung Quốc. Khi bị đóng cửa, hạn chế hội nhập, chỉ trong thời gian ngắn, chắc chưa đến 10 năm, Trung Quốc sẽ tụt hậu.


Và đấy chính có thể là cơ hội rất lớn để thúc con rồng thiếu niên Việt Nam vốn lười biếng ngủ quên suốt gần 200 năm qua.


Nhưng trước hết, vẫn phải đặt các câu hỏi cốt lõi, và trả lời các câu hỏi ấy.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 30, 2012 09:45

November 26, 2012

Pháp quyền lúc tỉnh lúc say

Cách đây mấy năm tôi có thuê một cái nhà ở cuối đường Pasteur, trong hẻm, phía sau Phở Hòa, Phở Ngân.


Tận cùng của đường Pasteur là ngã ba: đường Trần Quốc Toản cắt Pasteur.

Trần Quốc Toản là đường một chiều. Đi hết Pasteur, tới Trần Quốc Toản là phải quẹo tay trái để đi ra Nam Kỳ.


Của đáng tội, nếu quẹo tay phải, đi ngược chiều vài chục mét, thì lại ra Huỳnh Tịnh Của, và cố đi một chiều một đoạn ngắn nữa, là ra Hai Bà Trưng. Nên khúc đấy, dù có biển một chiều, nhưng nhân dân vẫn đi như là hai chiều vậy.


Gần cái ngã ba ấy có một đại lý bia. Đại lý bia có một cái sân. Dân nhậu quen vẫn tới đó ngồi làm vài chai mặc dù chỗ đấy gần như không có mồi nhậu. Tôi thường hẹn bạn bè ngồi đấy.


Có lần uống cũng quay quay, tôi và bạn gái tôi lững thững đi bộ về. Thấy các anh cảnh sát giao thông đứng tụt vào sâu trong khúc một chiều Trần Quốc Toản. Các xe máy vô tư quẹo phải đi vào khúc một chiều như mọi ngày, và liên tục rơi vào tay các anh công an.


Thế là tôi và bạn gái, đứng ngay dưới cái biển một chiều nơi ngã ba, liên tục vẫy tay bắt các xe ngược chiều quay đầu đi đường khác. Thoát nạn bao xe hehe. Vẫy mãi phát mệt. Đến khi có một em bé gái thấy trò cứu hộ một chiều hay quá, chạy tới tham gia, hai chúng tôi mới yên tâm đi về căn gác nhỏ.


Lúc tỉnh, đi đường thấy thằng nào đi sai luật giao thông, chỉ muốn công an giao thông bắt quách đi cho rồi. Thế mà lúc say lại loay hoay vẫy tay báo hiệu công an cho họ thoát.


Tinh thần pháp quyền của công dân tôi, lúc tỉnh lúc say, hay ho vậy đấy.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 26, 2012 07:43

November 16, 2012

Di sản ngôn ngữ của quân đội Tây Sơn

Nhã Nam và Tri Thức vừa tái bản cuốn Lịch Sử Nội Chiến Việt Nam của Tạ Chí Đại Trường. So với bản đầu tiên (1973) và bản thứ hai (NXB Công An) thì lần tái bản này có thêm một số bài viết mới (sau năm 2000) của Tạ Chí Đại Trường.


Đây là một cuốn sách rất nên mua, vì nội dung và cách nhìn thú vị, cực kỳ độc đáo của tác giả. Chứ không phải vì, nói như các bố hợm chữ với hợm sách, rằng đây là cuốn sách quan trọng của một tác giả quan trọng hehe.


Hôm qua nằm đọc lại cuốn này. Mới nhớ ra hai ý đã định triển khai từ lâu, mà cứ lười khai triển.


Một là cách người miền nam sử dụng từ cha hoặc cha nội làm đại từ chỉ ngôi lâm thời (ngôi thứ hai và thứ ba). Kiểu: “Thôi uống đi, xạo quá cha nội” cho ngôi hai; hoặc “Thằng cha/Cha nội/Chả đó thật là lựu đạn” cho ngôi ba. Đây là di sản “tiếng nôm nói” của quan quân Tây Sơn đời đầu (nòng cốt là Chàm, quân cướp biển người Tàu và một ít Khmer, Bahnar); quân lính và tướng của Tây Sơn sau này (sau 1792) đào ngũ và đi theo Nguyễn Ánh ở chính quyền Gia Định.


Hai là trò chơi dân gian, có một chút tín ngưỡng cúng tế xin tha chết đuối, của người dân buôn biển Quy Nhơn (các lái), đi theo quân đội Tây Sơn (sau 1786) mà thành trò chơi dân gian miền bắc: Trò Thả Đỉa Ba Ba.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 16, 2012 00:50

October 28, 2012

Chuyện Lạ

Với cá nhân tôi Bằng Kiều là danh ca duy nhất của xứ Vina. Hoặc nếu khắt khe hơn, thì trong các ca sỹ từ 7x đổ về sau, nếu có ai là danh ca, thì người đó phải là Bằng Kiều.


Trong suốt quãng thời gian nghe nhạc ngắn ngủi và lõm bõm của mình thì Chuyện Lạ là album duy nhất mà tôi chờ đón sự ra đời của nó. Nhưng cái chuyện lạ đó, cũng đã xảy ra rất lâu rồi.


Bằng Kiều là ca sỹ hiếm hoi mà có lượng fan cân bằng về giới tính. Nam nhiều mà nữ cũng nhiều.


Có vẻ như fan của Bằng Kiều là những người thành đạt và neutral hơn fan của các ngôi sao khác. Một số ca sỹ khác thường tự hào về dòng nhạc mà họ chơi là văn minh, nhưng chắc chắn fan của Bằng Kiều là nhóm fan văn minh hơn cả hehe.


Nếu có ca sỹ nào đó được làm ca sỹ của cả một thế hệ, thì Bằng Kiều là ca sỹ của thế hệ bọn tôi. Với tôi, khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của âm nhạc đại chúng Vina, là hình ảnh Mỹ Linh ngồi bệt trên sân khấu để hát với Bằng Kiều bài hát Trái Tim Không Ngủ Yên.


Nếu người ta có lỡ yêu Hà Nội bởi những lý do cụ thể nào đó, thì Bằng Kiều và những bài hát của anh này, rất có thể là một trong những lý do ấy.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 28, 2012 02:32

October 16, 2012

Thọ Xương là Thọ Xương nào?

Đi trên phố Phủ Doãn, nếu để ý sẽ thấy một ngõ khá to nằm giữa Ấu Triệu, Ngõ Huyện và xa hơn một chút là phố Chân Cầm.


Nói Chân Cầm chắc nhiều người sẽ nhớ đến sẽ nhớ hàng miến lươn và đặc biệt là bia Sửu, nay đã chuyển địa điểm. Ngõ Huyện thì hồi trước là karaoke, nay là cà phê, đầu ngõ phía Lý Quốc Sư là hàng cháo sườn buổi chiều rất là đông khách.


Còn Ấu Triệu thì quá nổi tiếng nhờ …Nhà Thờ và các quán cà phê như La Palace.


Nhưng cái ngõ kia thì ít người để ý hơn, vì nó chẳng có gì đặc biệt, ngoài cái tên: “Ngõ Thọ Xương”.


Ngõ Thọ Xương là di sản còn sót lại của huyện Thọ Xương thuộc tỉnh Hà Nội.


Nếu con gà ở đây gáy mà ngoài hồ Tây nghe thấy, hẳn con gà ấy phải to hơn con bò.


Không biết ai đó trong chính quyền Hà Nội sau năm 1954 còn nhớ đến huyện Thọ Xương tỉnh Hà Nội mà đặt tên Thọ Xương cho cái ngõ này, vốn trước đó có tên Pháp là “ruelle Père Dronet”.


Thọ Xương là một địa danh hơi hơi lâu đời, trước là Vĩnh Xương, sau đến nhà Mạc đổi thành Thọ Xương và tồn tại mãi đến nhà Nguyễn. Thời Gia Long thì Thọ Xương thuộc phủ Hoài Đức. Đến thời Minh Mạng làm vua, cải cách hành chính đất nước, ông lập tỉnh Hà Nội, có bốn phủ (1831). Trong bốn phủ có phủ Hoài Đức, trong phủ Hoài Đức có huyện Thọ Xương, trong huyện Thọ Xương có phường Báo Thiên tức là khu Hồ Gươm Nhà Thờ bây giờ.


Cuộc cải cách hành chính sâu rộng của Minh Mạng đã gây ra sự bất mãn của đám quan lại và quý tộc địa phương, dẫn tới các cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi, Phan Bá Vành và Nông Văn Vân, đã có tác động không nhỏ đến sự suy tàn và sụp đổ hẳn của Thăng Long.


Chỉ hơn 40 năm sau khi tỉnh Hà Nội được thành lập thì triều đình Huế ký hiệp ước Philastre với Pháp (năm 1874, sau cái chết của Garnier). Từ Hiệp ước này, người Pháp được mua đất và mở các cơ sở kinh doanh ở Hà Nội. Khu vực người Pháp mua chính là khu đất từ phía Hồ Gươm bên này (bên kia là khu phố thương mại hay còn được biết đến với tên Kẻ Chợ) kéo qua khu đầm lầy đến Đồn Thủy. Khu đất này chính là phần đất của huyện Thọ Xương (tương ứng với một phần Hoàn Kiếm và hầu hết phần Hai Bà Trưng + một phần Đống Đa ngày nay).


Một năm sau khi Riviere bị quân Cờ Đen bắn chết, tức là năm 1884, quân Pháp đánh quân nhà Thanh bật ra khỏi miền bắc, sau đó ký hiệp ước với triều đình Huế và chính thức biến Hà Nội thành vùng đất do chính phủ Pháp bảo hộ. Thọ Xương đương nhiên trở thành địa danh chết.


Câu chuyện Pháp mua đất làm khu Nhượng Địa, rồi sau đó tái thiết Hà Nội, có thể xem thêm ở đây.


***

Dương Khuê (1839-1902) đã sống và làm quan nhà Nguyễn đúng vào thời kỳ này. Nhưng là ông quan chán đời, chán chính quyền và có tư tưởng chống Pháp. Sau 1884 thì ông từ quan để hưởng thú ăn chơi đặc biệt là món ca trù. Có lẽ ông vẫn nhớ đến huyện Thọ Xương và sự biến mất khi trở thành khu nhượng địa của người Pháp.


Rất có thể trong lúc đi ăn đi chơi, từ lúc làm quan đến lúc làm dân, từ miền trung ra miền bắc, ông đã vô tình biết hai câu thơ (hò?) Huế mà sau này năm 1918 ông Phạm Quỳnh đi chơi như là điền dã Huế đã chép lại và đăng trên Nam Phong. Dương Khuê đã giữ lại một câu, phóng tác câu đầu và viết thêm hai câu đuôi. Thế là ngày nay chúng ta có Hà nội tức cảnh hay còn gọi là Trăng nước hồ Tây.


Sở dĩ nói hai câu kia có gốc Huế bởi Thiên Mụ và Thọ Xương là hai địa danh cụ thể ở hai bên sông Hương, nghe chuông bên này nghe gà bên kia được. Khác với Trấn Vũ và huyện Thọ Xương không chỉ xa nhau mà Thọ Xương là một cái huyện to tướng không cân đối gì với một cái đền (Trấn Vũ) hay một cái chùa (Thiên Mụ).


Còn Thọ Xương ở Huế, có lẽ là một cái gò cao, hình như trên đó có nhà để nuôi các hoàng tử. Tên gọi “Thọ Khương Thượng Khố”. Khi Gia Long lên ngôi thì đổi tên thành Thọ Xương vì kỵ húy Hiếu Khương Hoàng Đế (1802). Khi Minh Mạng làm vua, ông lại đổi tên thành Long Thọ Cương (1824). Còn còn cái tên Thọ Xương thì Minh Mạng chỉ sử dụng cho huyện Thọ Xương ở tỉnh Hà Nội.


Bên này là chuông đêm của tháp chùa bảy tầng, bên kia sông, sau bờ (ngàn) sương khói, là tiếng gà lúc gần sáng của ngôi nhà quý tộc trên gò cao. Thế vừa là có lý vừa phảng phất không khí Phong kiều dạ bạc. Để rồi mấy chục năm sau câu hò ấy lạc bước ra Thăng Long để xuống Hồ Tây còn Phạm Quỳnh thì nhầm tưởng Thọ Xương là làng (thực ra có cái làng chài thật thì phải, tên là Thọ Khương nằm sát bên làng Nguyệt Biều).


Thế là từ Huế một câu thơ lạc bước ra Hà Nội. Một nhà gò sông Hương chuyển về tận hồ Tây. Chứ không phải là Phạm Quỳnh nhầm, đi chơi Huế mà nhặt hai câu lục bát Dương Khuê rồi bảo cứ bảo là của người Huế.


Hay nói cách khác, câu thơ gốc phải là của người Huế, và nguyên bản như sau: “Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ xương”.


***


Phạm Quỳnh viết (tháng 4 -1918 trên Nam Phong):


Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bảy tầng, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu ca.


Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương


Dương Khuê sáng tác:


Trăng nước Hồ Tây


Phất phơ ngọn trúc trăng tà

Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương

Mịt mùng khói tỏa ngàn sương

Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây hồ


Bản dân gian sau này sưu tầm được ở Huế


Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương.

Thuyền về xuôi mái dòng Hương,

Biết mô tâm sự đôi đường đắng cay? (hoặc Có nghe/biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay)


Nôm na kết luận thế này. Một là Thọ Xương ở Huế có trước. Thọ Xương Hà nội có sau. Khi Dương Khuê sáng tác Hà nội tức cảnh thì cả hai địa danh này đều đã chết. Ở Huế chết trước, ở Hà nội chết sau. Hai là câu thơ Phạm Quỳnh chép lại, không phải do ông ấy bịa ra, mà ông ấy chép lại từ (câu hò?) của người dân kinh thành Huế. Tức là ở đây có thể có hai giả thuyết.


Giả thuyết 1: Dương Khuê đi chơi Huế, hoặc tình cờ sao đó, biết được hai câu hò Huế. Sau đó ông đã sử dụng một câu làm chất liệu để sáng tác bài thơ Hà Nội Tức Cảnh. Việc dùng material của văn hóa dân gian để đưa vào sáng tác mới là việc hết sức bình thường. Một ví dụ điển hình là Ngẫu hứng ngựa ô của Trần tiến.


Giả thuyết 2: Sáng tác gốc là của Dương Khuê, bị folklore hóa, rồi trở thành hò Huế. Việc một sáng tác bị folklore và trở thành tác phẩm dân gian khuyết danh là hết sức bình thường (Tát nước bên đàng, Anh đi anh nhớ quê nhà … là các tác phẩm như vậy). Nhưng folklore một bài thơ tả cảnh tỉnh lẻ Hà Nội mà đi vào kinh đô Huế để trở thành hò (dân ca) địa phương thì hơi khó.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 16, 2012 02:22

Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.