Nguyễn Phương Văn's Blog, page 20

October 23, 2013

Từ chuyện Trại trở về chuyện Hồng Bàng

Trong chỉ thị của Ban Bí Thư do Trường-chinh ký ngày 5 tháng 12 năm 1953 về việc giảm tô vùng “dân tộc thiểu số ở lẫn với người Kinh” có nhắc đến người Trại.


“Ngoài người Kinh, ở các xã trên đây còn có các dân tộc Nùng, Thổ, Trại, Mán, Hoa kiều, có xã có một số đồng bào Thái Sơn La tản cư đến. Giữa người Kinh và dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, hoặc nhiều hoặc ít, đều có xích mích và mâu thuẫn”. Các xã nói đến ở đây là 40 xã ở Thái Nguyên và Bắc Giang.


Đọc giật mình. Vì người Trại (Thanh Nghệ) sao lại ở vùng này. Sau mới hiểu ra người Trại ở đây là chỉ người Sán Dìu (Sơn Dao Nhân), một nhóm thiểu số thuộc nhóm Hoa (nói và viết tiếng Hoa). Người Sán Dìu còn được gọi là người Trại hay người Trại đất. Có thể là vì họ ở không ở nhà sàn mà ở nhà (vách) đất mái tranh, trồng lúa và ăn cơm ăn cháo.


Trong Đại nam quốc sử diễn ca (tên đã thấy tác phẩm thuộc thời nhà Nguyễn) có câu sau nói về thi cử thời nhà Trần:


“Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh


Lại thi thái-học chư-sinh,


Lại thi tam-giáo chia rành ba khoa”.


Người Trại ở đây chỉ dân Thanh Nghệ.


Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, đoạn nói về thi cử (1256) thời Trần Thái Tông có đoạn: “Hồi quốc sơ, cử người chưa phân kinh trại, người đỗ đầu ban cho danh hiệu Trạng nguyên. Đến nay chia Thanh Hóa, Nghệ An làm trại, cho nên có phân biệt kinh trại”.


Người Kinh trong câu trên  là để chỉ dân sống ở vùng đất thấp gần các trung tâm văn minh (đồng bằng và các thung lũng sông Hồng, sông Mã). Người Trại là chỉ người vùng cao, mà không phải là người dân tộc, có thể là vì họ ở nhà vách mái lá và ăn cơm như người Kinh, nhưng lại nói ngôn ngữ khác (tiếng địa phương khác).


Các trung tâm văn minh này, sau chính là Đông Kinh (Hà Nội), Tây Đô (Thanh Hóa). Tiếng địa phương của người Trại chính là thứ tiếng (cộng với văn hóa ứng xử, sinh hoạt) được cho là tiếng mà Lê Lợi sử dụng. Nó khá thô lậu. Thô lậu đến mức khi Nguyên Trãi và Trần Nguyên Hãn bỏ người Kinh (và kinh đô) để lên chiến khu (Thanh Hóa) tìm gặp Lê Lợi xin đầu quân, mà bị sốc văn hóa tí nữa thì bỏ về (Lê Lợi nói khó nghe và hành xử lỗ mãng quá). (Có thể từ “trại” trong “nói trại đi” liên quan mật thiết đến chữ Trại này).


Nhưng chuyện này là chuyện về sau, lúc hết thời nhà Trần, khi giặc Minh xâm chiếm Việt Nam, và Lê Lợi lập chiến khu để trường kỳ kháng chiến. Sau đó đúng là nhất định thắng lợi, giải giáp quân Minh, tiếp quản thủ đô, rồi giết luôn hai công thần. Trước là ép tể tướng kiêm đại tướng Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự vẫn, sau là chu di tam tộc Nguyễn Trãi. Cả hai đều là chí sĩ và là quý tộc người Kinh.


Quay lại chuyện Kinh Trại. Sao thời đầu nhà Trần chưa chia Kinh – Trại, mà sau lại chia? Có thể là do thời đầu nhà Trần lúc đầu sùng Phật, sau du nhập Nho, theo nhà Lý mà mở Quốc Tử Viện, dạy dỗ con cháu giới thượng lưu. Ngôn ngữ biến đổi theo. Mà phân biệt tiếng (âm sắc, từ vựng) không biết là vì lí do gì lại là chuyện rất quan trọng với người Việt. “Chửi cha không bằng pha tiếng”, hay “Nôm na mách qué”, hoặc “miền đù” là các thành ngữ, cách nói miệt thị tiếng địa phương khác ngoài tiếng được nói ở kinh thành (sau là tiếng Kẻ Chợ, hay tiếng Hà Nội).


Nhà Trần, trong triều và trong giới quý tộc, nói cùng lúc hai ngôn ngữ (nói chữ, chắc là tiếng Hoa) và nói phương ngữ (tiếng Nôm, tức tiếng địa phương, tức là tiếng Kinh lúc bấy giờ). Khi giặc Minh xâm lược Việt Nam, người ta mới ngỡ ngàng nhận ra là tiếng Hoa mà người Minh nói, có cách phát âm rất khác tiếng Hoa mà người Việt vẫn phát âm (theo kiểu nhà Đường, là nhà có ảnh hưởng sâu đậm đến An Nam thời bắc thuộc). Trí thức thời bị giặc Minh xâm lược, phản ứng rất yếu ớt (chống đối) bằng cách vẫn phát âm theo kiểu cũ.


Về việc nhà Trần nói hai thứ tiếng, ví dụ để dễ hiểu, rất giống Ngô Đình Nhu nói tiếng Pháp trong gia đình và trong phủ tổng thống, nói tiếng miền trung với người ngoài. Lúc còn sùng Phật, nhà Trần chưa cần phân biệt. Lúc Nho hóa cao hơn, bắt đầu phân kẻ kinh kì với kẻ ở quê, không chỉ ở địa lý mà cả tiếng nói, văn hóa. Người Mường lúc đó nói tiếng giống tiếng Việt của người Kinh, nhưng vẫn không bị gọi là Trại. Mà người Trại làm nhà trồng lúa nấu cơm giống người Kinh thì lại bị phân biệt là người Trại. Nhưng người Trại vẫn được thi cử: “Lấy đỗ thái học sinh 43 người (kinh 42 người, trại 1 người), xuất thân có thứ bậc khác nhau”.  


Có lẽ từ thời Khúc Thừa Dụ ly khai, rồi đưa Việt Nam thành nước độc lập, qua tới nhà Trần thì tiếng Việt bình dân (của người dân, hay có thể gọi là tiếng Kinh) không có nhiều thay đổi. Kể từ nhà Lê, rồi đến lúc Trịnh Nguyễn phân tranh, có lẽ tiếng Việt mới biến đổi nhiều. Nhất là do 30 năm binh biến nội chiến trận mạc, và trước đó lài người Kinh đi mở cõi, rồi sáp nhập Chiêm Thành (nay Hà Tĩnh Nghệ An vẫn còn những vùng nói tiếng Việt nhưng âm sắc và từ vựng là gốc gác thực chất là tiếng Chàm). Cho đến khi Minh Mạng lên ngôi vua, ông ấy cưỡng bức cả nước dùng tiếng Việt (183x), thì tiếng Việt mới dần định hình và là ngôn ngữ chính thức. Thậm chí năm 1955, tổng thống VNCH lúc đó là Ngô Đình Diệm còn cưỡng bức người Thượng (gọi chung các dân tộc cao nguyên) đổi tên, đổi địa danh theo tiếng Kinh (Blao, nghĩa là Trầu Cau, thành Bảo Lộc).


Như vậy kể từ thời  nhà Trần bắt đầu có khái niệm người Kinh. Khái niệm này tồn tại chính thức cho đến năm 1953 (như trích dẫn văn bản ở trên). Đến năm 1956, hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhắc đến Dân tộc Việt Nam: “Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo”.


Trước đó, hiến pháp 1946 của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không nói gì đến dân tộc Việt Nam mà nói đến nhân dân Việt Nam: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.


Đến hiến pháp 1959 của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì nói đến dân tộc Việt Nam: “Dân tộc Việt Nam trải qua mấy nghìn năm lịch sử là một dân tộc lao động cần cù luôn luôn anh dũng đấu tranh xây dựng đất nước và giữ gìn độc lập của Tổ quốc”.


Do người Kinh/Việt gốc gác mù mờ, dở dăng dở đèn, nên nhân đây có thể định nghĩa đơn giản ai nói tiếng Việt sẽ là người Việt. Chỗ nào người Việt sống, từ hình thành đất Việt.


Có một sự lạ ở đây, là ở rất nhiều nơi, thổ dân sau một thời gian bị đô hộ, thì nói và viết thứ tiếng của dân đô hộ. Như người Brazil nói tiếng Bồ, Argentina nói tiếng Tây Ban Nha. Thế mà những dân cư, sau này là người Kinh, ở đồng bằng sông Hồng, bị Tàu đô hộ cả ngàn năm,  mà vẫn giữ được ngữ pháp  là Mon-Khmer.


Đặc điểm của Mon – Khmer đại khái như sau: cú pháp xuôi (chủ ngữ vị ngữ, danh từ tính từ), từ láy làm giảm nghĩa (đo đỏ, âm ấm), ngữ âm có các thanh (tone: high, low, high rising) tương ứng với không dấu, dấu huyền và dấu sắc.


Các tộc người Mon-Khmer ngày xưa đi biển, lúc đó mực nước biển còn cao, gần tới Mê Linh bây giờ, để vào đồng bằng sông Hồng và vàp miền trung Việt Nam bây giờ. Với các tộc vào miền trung, do bị người Chàm đánh, đã chạy lên cao nguyên và ở đó đến tận ngày nay (trở thành Thượng theo cách gọi của người miền nam, hay người Mọi theo cách gọi thực dân). Với các tộc vào vùng đất Mê Linh, một số ở lại thành nước Lạc, còn lại chạy qua Lào hiện tàn tích là người Khơ Mú.


Dấu vết của những sự kiện này còn lại như sau.


+ Người Thượng gọi mình là Con Kau, tức con người. Chữ Con giờ là một từ rất oách trong tiếng Việt. Thậm chí ở Hải Phòng, cái gì họ cũng gọi bằng con. Con iPhone, con Mẹc.


+ Zôn là chồng, giờ miền trung vẫn còn từ này. Brao thành Liền Bà, X-Lác là Lá (cây), Rường, Cột/Cọc, Kèo, …


+ Trống Đồng có hoa văn toàn người đi biển, chim và cá sấu, cóc.


+ Các tộc này thờ chim, dấu vết còn ở cao nguyên là trong luật tục còn các con chim xử án (phân biệt đúng sai). Chim xử án trong âm dân tộc Thượng  là Mơ-c-ling, ở đồng bằng sông Hồng biến thành Mê Linh, còn âm khác là Mơ-c-lang, sau biến thành Văn Lang. Hai con chim này, theo người Tây Nguyên hiện nay, thì là con Chích Chòe. Nếu vậy thì bài con Chim Lạc là chim gì sẽ hơi sai một chút, còn về cơ bản vẫn đúng hehe.


+ Người Khơ Mú, theo sử miệng của họ, là dân tộc vĩ đại, đàn ông anh dũng, đàn bà cực đẹp, nô lệ, voi ngựa rất nhiều, âm nhạc chiến đấu hung tráng. Họ được cho là dân tộc làm ra cánh đồng Chum ở Lào.


+ Vật tổ của họ là một con thủy quái, họ gọi là Pru-zông, chính là con cá sấu (thuồng luồng), sau biến âm ra là Rồng. Con Rồng (cháu tiên) rất có thể là tiếng vọng xa xưa của tổ tiên lộn về thời vua Thục Phán (sẽ nói dưới đây). Rồng, sau này thành con Giao (long). Người Tàu thời Tần gọi người đồng bằng sông Hồng (tức nước cổ Lạc) là Giao Nhân, sau thành địa danh hành chính Giao Chỉ.


+ Cóc liên quan đến gọi mưa, biểu hiện của nông nghiệp trồng lúa. Với cái gậy đào đất tiếng cổ âm vùng nam Á là Lak, sau biến âm thành Lạc (ruộng lạc, lạc điền, hoặc lạc hầu lạc tướng). Chữ Lak cũng để chỉ sinh thực khí (tín ngưỡng) đàn ông. Nếu Lạc mà từ Lak, thì bài Vua Hùng tên thật là gì sẽ bị sai khá nhiều.


+ Tiếng của tộc này gọi trống đồng, một dụng cụ thể hiện quyền lực, là Bùng hoặc cũng gọi là Kông Bang, sau biến âm thành HùngHồng Bàng ở trong ngữ âm người dân Mê Linh và châu thổ sông Hồng. Nếu nhận định này đúng, thì nhận định ở bài Vua Hùng tên thật là gì lại càng sai. Nhân đây, khi Phùng Hưng nổi dậy, xưng bố-bua và lúc đó từ vựng mới có từ mới là từ Vua (biến âm từ bua), tương đương với từ Vương, vốn đã có trước đó khi dân châu thổ sông Hồng dùng để gọi Sĩ Nhiếp. Nhân đây tiếp phát nữa, các anh hùng dân gian đều là được gọi là ông. Ông Dóng, ông Đùng, ông Trọng, ông Cụt, ông Dài. Rất gần đây, do ảnh hưởng của phong thánh trong công giáo, mới có Thánh Dóng/Gióng (dù chữ Thánh đi qua Nho giáo vào ta khá lâu, ví dụ nội thánh ngoại vương). Vậy ta nên gọi ông Giáp hay thánh Giáp?


+ Tộc này có các lễ hội tín ngưỡng phồn thực, nghi thức giống các lễ hội phồn thực ở làng miền bắc, đến trước cách mạng tháng 8 vẫn còn. Đặc biệt nhất là lễ hội Đụ Đị ở Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ).


+ Hát Xoan Phú Thọ, vốn được coi là dân vũ và dân ca cổ còn sót lại từ thời vua Hùng, rất giống hát Tơm (giao duyên) và hát Kưn-chơ (nghi lễ) của người Khơ Mú ở Yên Bái hiện nay. Bài hát đỉnh cao của hát Xoan là Mó Cá (hát và múa) rất giống hát Múa cá lượn (“Tẹ cạ grang) của người Khơ Mú.


+ Tộc này theo mẫu hệ. Có thể nói đến Trưng và Trắc vẫn là mẫu hệ, là nữ hoàng. Thậm chí “vua Hùng” có lẽ là các vua bà chứ không phải vua ông. Nên có thể Sơn Tinh và Thủy Tinh là cuộc chiến để lấy được vua bà chứ không phải lấy con gái vua. Đến Giao Châu thuộc Đông Ngô thời tam quốc, sử tàu vẫn ghi:  “Dân chúng huyện Mê Linh  và quận Cửu Chân  có một tục lạ là khi người anh chết thì người em phải lấy người chị dâu góa”.  Trang sức là các khuyên tai rất to, va chạm có tiếng kêu, Taylor giải thích là để đêm đêm phụ nữ Giao Châu di chuyển có tiếng kêu, không phối giống nhầm qua nhà hàng xóm. Khuyên tai to, đến bây giờ đồng bào Tây Nguyên vẫn sử dụng.


+ Tộc này ăn trầu, dùng trầu để mời khách và dùng trong đám cưới, tục này đến giờ vẫn còn ở miền bắc. Tương tự là các tục răng đen và xăm mình.


Đấy là nước Lạc của các vua (bà) Lạc. Lúc này chưa có chữ Việt ghép vào. Lạc Việt là sản phẩm của tuyên truyền, sẽ giải thích ngay dưới đây.


Mười tám (18) đời vua Hùng có thể hiểu là: các vua bà sinh con gái và truyền ngôi liên tục cho đến lúc một vua bà không sinh được con gái mà chỉ sinh ra toàn con trai, lúc đó được coi là kết thúc một đời vua và nhảy qua đời tiếp theo.


Ở  tận cùng biên giới phía nam của nước Tần, có bộ tộc chống Tần kiên cường. Chống không được, họ di dân xuống phía nam, và đến đồng bằng sông Hồng thì dừng lại. Bộ tộc này Taylor viết là Ou, tiếng Việt là Âu. Chính là dân Âu Việt. Thủ lĩnh là Thục Phán. Người Âu theo phụ hệ, ở lại và kết hợp với người Lạc, thành Âu Lạc. Việc kết hợp Âu và Lạc để thôn tính Văn Lang là nhờ Thục Phán thông qua hôn nhân lấy con gái vua (bà) Hùng, nên lúc Thục Phán An Dương Vương để mất Âu Lạc vào tay Triệu Đà, trong Khâm Định Việt Sử Khâm Giám Cương Mục có phê: “Vua Thục trước đây vì hôn nhân mà được thắng lợi, rồi cũng vì hôn nhân mà bại vong, đạo trời báo phục không sai, kể cũng chóng quá.”


Người Âu và người Lạc đều đóng khố cởi trần cắt tóc ngắn và đi biển rất giỏi.


Để tuyên truyền, họ cần một câu chuyện, kiểu Lê Văn Tám, họ bịa ra Âu Cơ và Lạc Long Quân. Lạc là từ chữ Lak, ghép với Long là con Rồng để thành Lạc Long. Cơ là bàn đá, để nhớ vọng về bàn thờ đá của dân Âu Việt, nay vẫn còn được thờ cúng ở Ninh Ba, Chiết Giang, được ghép vào Âu để thành Âu Cơ. Qua đó kết hợp được hai bộ tộc, chuyển dần từ mẫu hệ qua phụ hệ, để Thục Phán lên đứng đầu. Tuy nhiên, sự kình địch của hai tộc còn mãi đến thế kỷ thứ 10 sau CN, khi người Giao (châu) và người Phong (châu)  vẫn hiềm khích và không cộng tác khi chống lại triều đình phương Bắc.


Trong quá trình tuyên truyền này, các tên riêng Hồng Bàng, Hùng, Văn Lang, Mê Linh, đã được giữ lại.


Sau khi tuyên truyền thành công, Lạc trở thành Âu Lạc do Âu Việt và Lạc Việt hợp thành. Vua bà trở thành vua ông, Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nữ thái tử, biến đổi trở thành tranh công chúa rất tầm thường. Cái ghen Sơn Tinh Thủy Tinh, phải là cái ghen tranh đại gia, ở đây là vua bà rất trẻ đẹp và quyền lực, mới là có lý.


Tuy đã có chuyển hóa qua phụ hệ, nhưng tàn tích mẫu hệ vẫn còn, Thục An Dương Vương cho Trọng Thủy ở rể, nên Âu Lạc chống Tần thành công mà rơi vào tay Triệu Đà. Nước Nam Việt của Triệu Đà nằm ở đồng bằng Sông Hồng tới Sông Mã bây giờ. Đây là cơ sở nguyên thủy về tâm lý để sau này có sự phân biệt người Kinh và người Trại.


Do loạn lạc ở bên Tàu, các quý tộc và tướng lĩnh phương bắc đào tẩu về phương nam, trong suốt rất nhiều năm sau thời Trọng Thủy. Họ định cư ở đồng bằng sông Hồng, tập trung cao độ ở Luy Lâu, biến nơi này thành trung tâm văn hóa, giao thương và tôn giáo giữa Ấn và Trung Hoa. Ngôn ngữ bắt đầu pha tạp, cốt lõi là Mon Khme và từ vựng vay mượn từ tiếng Hán.  Do người Mường ở rất gần, nhưng ít thu nhập người hán vào, nên không bị hỗn chủng, vẫn nói tiếng Mường, là tiếng được coi là thứ tiếng chị-em của tiếng Việt, hay chính là tiếng Việt cổ.


Thứ tiếng địa phương pha tạp này, sau trở thành tiếng Nôm, trái với tiếng/chữ nho của tri thức, bắt đầu từ nhà Trần là rõ nét.


Sau đó bắt đầu phân định Kinh-Trại như đã nói ở trên.


Còn người Âu Lạc cổ, có một bộ phận di dân qua Hải Nam, nay họ là dòng họ Lê ở đó, phong tục của họ, người ta cho rằng, rất giống người ở đồng bằng sông Hồng.


Câu chuyện cổ sử hôm nay đến đây là hết. Chúng ta đã biết được:


+ Nguồn gốc của tên gọi Văn Lang, Mê Linh, Hồng Bàng, Vua Hùng.


+ Mười tám đời vua Hùng là những đời nào.


+ Nguồn gốc của chữ Lạc, chữ Âu, và Âu Lạc.


+ Nguồn gốc của phân biệt người Kinh với các người khác.


+ Nguồn gốc của truyền thuyết Âu Cơ Lạc Long Quân



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 23, 2013 09:30

October 17, 2013

Tự do học tập

Gần đây ta nghe nói nhiều đến “tự do đại học”.


Nghe quen mà lạ.


Quen là vì bản chất của giáo dục là để khai mở trí óc, phóng khoáng tinh thần cho mỗi cá nhân. Dạy và học là một cái gì đó cứ như là lẽ tự nhiên, bởi thiên nhiên tạo ra con người khác với sinh vật khác ở chỗ nó biết dạy và biết học. Mà tự nhiên thì đương nhiên là tự do và cởi mở.


Lạ là vì cái lẽ tự nhiên ấy chỉ có được ở một xã hội dân sự, là nơi mà chính trị phải dừng bước trước ngưỡng cửa học đường, bởi xã hội dân sự chưa từng và sẽ không chấp nhận chính trị can thiệp vào việc dạy và học. Đương nhiên, khi đã quá quen với một xã hội mà ở đó ruling class sử dụng giáo dục chỉ để đào tạo ra những cá nhân phục vụ và bảo vệ chế độ, thay vì để phụng sự xã hội và xây dựng tổ quốc, thì tự do học tập là cái gì đó quá ư xa lạ.


Quen là vì lẽ tự nhiên ai cũng thấy chỉ có những người làm giáo dục mới tham gia vào việc dạy và học.


Lạ là vì quá quen với chính trị gia thò tay thô bạo vào sự nghiệp giáo dục mà gạt ra bên lề những người làm giáo dục chính nghĩa.


Quen là vì việc dạy và học mọi thành phần xã hội có thể tham gia làm giáo dục, bất kể tôn giáo hay quốc tịch.


Lạ là vì hóa ra có quá nhiều rào cản để tham gia, nhất là với tôn giáo khác, lực lượng xã hội khác, và không phải là entity bản địa. Tất nhiên là chỉ nói chính danh, còn núp bóng trục lợi thì lại chẳng có gì lạ.  


Quen là vì một xã hội tôn trọng giáo dục, tôn trọng học đường bởi học đường sẽ sản sinh ra những cá nhân phụng sự xã hội.


Lạ là vì quá quen với nền giáo dục chỉ để tìm ra những người phù hợp nhất để phụng sự hệ thống.


Quen là vì một nền giáo dục như vậy tưởng như chỉ có ở đâu, hóa ra đã từng có ở đây, chưa lâu lắm.


Lạ là vì nền giáo dục như vậy đã ở quá xa tầm tay.


Một nền giáo dục như vậy, cũng như chính xã hội sở hữu cái nền giáo dục ấy, phải có tính liên tục và kế thừa, phải xây từ dưới lên, thậm chí phải sinh ra từ hiến pháp. Ở chiều ngược lại, mọi cải cách, dù có quyết liệt như thế nào đi chăng nữa, cũng chỉ là giải phẫu hàn quốc mà thôi.


Mời các cụ và các cháu đọc hai bài dứoi ở Học Thế Nào, và rút ra các suy nghĩ đánh giá cho riêng mình. Tất nhiên phải bấm nút share, nếu thấy có ích.


Nền giáo dục cộng hòa ở miền nam 1954-1975


Các mô hình trường và viện ngoài công lập ở miền nam trước 1975.


 



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 17, 2013 19:37

October 8, 2013

Chính luận vắn

Để nước Việt hùng cường phải làm được hai việc.


Một là Chính phủ nhỏ, Quân đội mạnh


Hai là Dân tự bảo ban nhau học tập lao động, Xã hội cởi mở khoan dung


Chính phủ hiện ôm đồm quá nhiều, bộ máy cồng kềnh, chi phí lớn, hiệu quả thấp. Các tập đoàn nhà nước nên bán cho tư bản nước ngoài. Điều kiện duy nhất là họ phải đến từ các nước không có chung biên giới với nước Việt. Ưu tiên Nhật, Mỹ, Châu Âu.  Ngành dịch vụ bán trước, hạ tầng bán sau. Tài nguyên không bán.


Để địa phương tự quyết việc của mình. Chính phủ lo an ninh, an sinh và hạ tầng chung.


Cho người dân tham gia lao động và kinh doanh tất cả các ngành, từ y tế giáo dục, đến dịch vụ công ích, an ninh. Khuyến khích đi lao động ở nước ngoài. Khuyến khích định cư ở nước ngoài. Khuyến khích lập cộng đồng Việt ở các vùng đất mới, bất kể là Châu Phi hay Châu Nam Cực.


Quân đội không cốt đông mà cốt hiện đại tinh nhuệ. Chính phủ thu nhỏ tự khắc có thêm ngân sách để nuôi quân đội mạnh. Quân đội mạnh không chỉ ở trong nước, mà phải tham gia các hoạt động ở hải ngoại dưới cờ LHQ.


Chính phủ nhỏ, không còn phải mị dân bằng cách cố lo mọi thứ cho dân. Càng lo dân càng ỉ lại, lãng phí. Năng lượng không cần rẻ. Nước sạch không cung cấp như cho không. Trường công cấp 3 không cần nhiều, ai muốn vào thì phải nổi bật. Đại học phải tự chủ. Với mỗi người dân chỉ cần tâm niệm một điều duy nhất: ai cũng phải đóng thuế, và thuế dùng để nuôi một chính phủ nhỏ, năng động, hiệu quả và một quân đội hùng mạnh.


Xã hội định hướng mở.  Đề cao khoan dung. Từ bỏ các tư tưởng kì thị. Cởi mở và khoan dung bắt đầu bằng loại bỏ mầm mống phát xít “giữ gìn bản sắc dân tộc”. Hãy nghĩ rằng Úc, Mỹ, Nhật, Châu Âu đã khoan dung và cởi mở với hàng triệu người Việt, không vì giữ bản sắc Nhật, Pháp, Mỹ mà kỳ thị người Việt nhập cư. Đón nhận tất cả, dù đó là nhà đầu tư Do Thái cầm tiền vào mua VietNam Airlines, hay dân nhập cư Miến Điện đến đây thuê đất mở nhà hàng.


Chỉ cần làm được mấy điều vắn tắt như vậy nước Việt sẽ là nước mạnh.


(Cái này là hưởng ứng phong trào học cách viết của HCM trên FB hehe)



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on October 08, 2013 00:09

September 29, 2013

Triết học của rởm rít

Đại ca Aristotle là một tay tổ. Có lần đại ca bảo: cái đếch gì sinh ra ở cõi trần thì đều sinh ra vì mục đích nào đó. Ví dụ con người sinh ra (dưới cõi trần này) là để sống hạnh phúc. Mở ngoặc: cõi trần cũng là khái niệm mà Aristotle là người đầu tiên đặt ra.


Dưới đây là câu chuyện triết học ở cõi trần có tên Vina.


Cái triết lý nói trên của Aristotle được ứng dụng khắp nơi, ví như: cái gì xảy ra thì cũng phải có nguyên do.


Kiểu như anh Nhân đi học ở bển về, lên đến phó thủ, thì nguyên do của việc này là có rất nhiều gà ở Bắc Giang cần gắn chip mà chưa có ai đề xuất, nên cần có anh Nhân. Anh Nhân cần đi học cũng như gà đi bộ cần gắn chip vậy. Aristotle hẳn rất hài lòng.


Xã hội nào cũng có sự chia rẽ, bởi loài người sinh ra là để sống cô độc, càng văn minh thì con người lại càng suy thoái đạo đức (bộ phận không nhỏ), họ căm ghét nhau, xung đột quyền lợi, và tất nhiên là chia phe ném đá nhau. Cái này là do thiên tài Khai sáng Jean Jacques Rousseau viết ra.



Sau hơn mười lăm năm đổi mới, xã hội Vina đột nhiên văn minh lên một tý, thay vì chia rẽ nhau vì lẽ sống (sống sao cho phải), chia rẽ nhau vì chính trị (con người là sinh vật chính trị – lại một câu nữa của Aristotle) thì xã hội lại chia rẽ nhau vì một con Chip. Tất nhiên Gà thì cần phải gắn chip, phó thủ tướng kiêm học giả Nhân mất ngủ vì bộ giáo dục đã chứng minh điều này, nhưng con người thì không cần Chip, thay vào đó chúng ta cần cấm nó, đây là quan điểm do học giả Thịnh tuyên bố.


Xã hội chia rẽ vì chip, tốt, nó chứng tỏ chúng ta đang văn minh lên so với chính mình của hơn 10 năm trước. Tất nhiên ông Rousseau sẽ có chút hài lòng.


Còn Darwin? Công trình của Darwin đã làm nhà thờ nổi giận khi các sinh vật thông minh như loài người, vốn là do Chúa sinh ra, thế qué nào lại bắt nguồn từ con khỉ. Nietzche giả vờ chưa đọc Darwin và tuyên bố ầm lên rằng Chúa đã chết và loài người lúc đầu là con khỉ, sau sẽ là Cái Tôi, rồi sẽ thành cái Siêu Tôi. Ok, các bố Châu Âu thân mến, con đồng ý hết, nhưng xã hội Vina đang chứng minh cho các bố biết, rằng con khỉ ở chỗ đéo nào thành người thì đúng, chứ ở Vina chắc chắn là thành con ngợm. Tại sao chúng tôi thành con ngợm, thì có lẽ chỉ Chúa mới biết. Chỉ có con ngợm mới chia rẽ nhau vì kẻ bênh chú Đờm người ve bác Chín, kẻ theo phe quần chip kẻ chống lại chip và đi mặc sịp.


Chưa hết đâu, có kẻ còn định leo lên xã hội không tưởng bằng cách chịu đựng mọi cơn ngứa ghẻ. Chuyện này sẽ nói sau.


Nietzche lăn ra chết và để lại di sản: Phản Tôi, Tôi và Siêu Tôi. Freud thuổng ngay và đặt cái phản tôi, aka cái Nó, là tiềm thức, vô thức. Vô thức quyết định luận, nếu các bác thích đặt tên. Cái đếch gì cũng do tiềm thức, do vô thức quyết định hết. Ví dụ có một vị, cả đời phấn đấu để lên chức, công cuộc phấn đấu là vô số các cuộc đấu đá nội bộ, đòn hiểm, đòn thù, mua bán quan hệ. Nó đi vào tiềm thức để rồi khi đến đỉnh cao quyền lực, ông ta luận mọi thứ dưới góc nhìn đấu đá. Rất buồn cười là ông ấy tên Luận và là bộ trưởng giáo dục. Giáo dục là công cuộc xây dựng chứ không phải là một trận chiến kẻ mất người còn. Nhưng do tiềm thức đấu đá, bộ trưởng Luận đăng đàn và tuyên bố công cuộc đổi mới giáo dục là một trận đánh lớn, kèm theo lời đe dọa: sẽ có nhiều đứa trả giá. Những đứa nào trả giá? Câu trả lời sẽ có nhiều phương án. Đây phương án Lại Văn Sâm lựa chọn: con em chúng ta sẽ tiếp tục dốt ngoại ngữ như tôi.


Đúng, đấy sẽ là một cái giá phải trả, nhưng dân tộc sẽ phải trả giá nhiều hơn.


Nhưng may quá triết gia Arthur Schopenhauer lại cho rằng ý chí quyết định tất, bất chấp trí của anh cự tuyệt đến thế nào. Lý trí của anh có thể giằng co rằng ăn thịt chó là không tốt cả về đạo đức lẫn gây bệnh gút hoặc very gút, nhưng giằng co một hồi anh vẫn đi ra quán thịt chó với bạn vì thực tế là ý chí của anh đã quyết định sẵn là hôm nay anh sẽ đi ăn thịt chó rồi. Tức là xã hội có ngứa vì ghẻ đến mấy thì vẫn phải tiếp tục đi lên CNXH (trích hàng loạt phát biểu của đồng chí tổng bí thư đăng trên báo tuổi trẻ vốn là báo toàn các cụ già đọc). CNXH là viết tắt của chữ gì (báo tuổi trẻ đăng cụm từ này mà không chú giải) và tại sao phải đi lên CNXH bất chấp lý trí phản đối? Đó là vì ý chí đã quyết phải đi thì cứ đi thôi.


Vấn đề là đi lên đấy bằng cách cưỡi con gì?!


Triết gia Phùng Hữu Lan viết thế này: Các thiền sư nói: “Cưỡi lừa mà còn đi tìm lừa” ý nói là đi tìm thực tại bên ngoài hiện tượng. Phùng triết gia cũng viết tiếp. “Thư Châu (Thanh Viễn) nói: “Có hai loại bệnh: Một là cưỡi lừa mà còn đi tìm lừa; hai là cưỡi lừa nhưng không chịu bước xuống. Các ông nói rằng cười lừa mà còn đi tìm lừa đó là ngu xuẩn, là bệnh nặng. Trừ bỏ chứng bệnh đi tìm lừa, cuồng tâm sẽ dứt. Tôi bảo các ông chớ có cưỡi lừa nữa. Các ông cưỡi lừa thì tất cả sông núi đất đai cũng chính là lừa”.


Cái khái niệm “ý chí” của Schopenhauer có phải là “cuồng tâm” của Thư Châu không? Có và không, tùy theo cái con đang cưỡi con lừa là con gì? Câu trả lời dành cho bạn đọc.


Nhưng dù bạn có trả lời gì đi chăng nữa, cũng đừng quá buồn lo.


Vì Schopenhauer bị ảnh hưởng của Phật giáo. Với Phật giáo thì tất cả sinh ra là có Nghiệp (Dharma) rồi. Biết đâu nghiệp của xã hội này tinh thần thì làm ngợm mà thể xác thì làm con lừa. Ồ, thế thì cũng rắc rối lắm, Plato cho rằng thể xác thì tạm bợ mà linh hồn thì bất tử, lẽ nào linh hồn ngợm của chúng ta sống mãi ư? Nhẽ đâu tệ thế. Thế thì anh xin làm con lừa gặm mãi cỏ của em còn hơn. Cứ trốn mình vào thi ca, biết đâu quên được xã hội nhăng nhố này.


Quên mất, nói đến thi ca. Ở Vina, các nghệ sĩ đỉnh cao bao giờ cũng phải có ba tí. Tí nhạc tí họa tí thơ. Cả ba tí so với nghệ sĩ thế giới thì đều như cứt cả. Nhưng được cái vua xứ mù thì chột cả 4 mắt vẫn ok. Tha hồ vỗ ngực vỗ cả ba ti mà cam nhận cả đời mù từ ngoại ngữ đến xa lánh chính trị như một gã mù.


Các trí thức đỉnh cao cũng thế, cả đời ra vẻ xuất thế, lánh xa cõi đời, đạo mạo màn the, dốt từ ngôn ngữ đến tư tưởng, viết không nổi cái gì nhưng mồm phán rất kinh, cốt chỉ được làm thầy thiên hạ nhất là làm thầy triều đình. Xuất thế mà còn tệ hơn cả nhập thế.


Cuối cùng là các nhà giáo dục đỉnh cao. Các vị này cả đời chỉ chăm học nghị quyết.


Thế rồi, các vị đỉnh cao lẽ ra phải dẫn dắt cả xã hội này, hóa ra lại cứ như các thiền sư của phái thiền lặng thinh. Ở đời này, chẳng có gì đủ lớn lao, từ hiến pháp đến xách đít lên rồi phán, để họ lên tiếng. Họ im lặng, thực chất là chả biết đéo gì để nói. Nhưng vẫn tự huyễn mình bằng câu đúc kết từ thiền lặng thinh của học giả Phạm Công Thiện: “Trên tất cả đỉnh cao là lặng im”. Vâng các vị cứ lặng im để người ta dùng các vị làm lừa để cưỡi đến xứ lừa, để làm thuốc ghẻ chặn đứng dăm cơn ngứa.


Vì các vị không biết rằng, cái câu ấy của Phạm Công Thiện, bắt nguồn từ câu của Phùng triết gia: “Người ta phải nói rất nhiều trước khi im lặng”.


Trong lúc đó, các công dân vô danh của xứ sở này, đang lặng lẽ góp những ý kiến của mình cho xây dựng và cải cách. Ý kiến đó có ai nghe không? Điều đó chưa quan trọng. Cái quan trọng là, như John Stuart Mill đã nói: “Một Socrates bất mãn còn hơn một con lợn thỏa mãn”. Vả lại, đã lặng lẽ góp ý kiến, thì chưa cần lặng lẽ nghe. Muốn có ai nghe hay không, đầu tiên phải nói đã.


Các công dân vô danh khác, hãy bắt chước tôi, bấm share bài ở link này nếu có thể!



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 29, 2013 21:33

September 15, 2013

GoRin No Sho

Lời giới thiệu Ngũ Luân Thư


Tử địa Sekigahara là cách người ta gọi trận chiến cực kỳ khốc liệt giữa hai phe lãnh chúa Nhật Bản, phe Đông Quân và phe Tây Quân, diễn ra ngày 15 tháng thứ 9 niên hiệu Keichō (Khánh Trường) thứ 5 (ngày 21 tháng 10 năm 1600), tại Sekigahara, thuộc tỉnh Gifu ngày nay. Gọi Seikigahara là “tử địa” vì trong trận chiến khốc liệt ấy đã có bảy mươi ngàn người chết. Sekigahara cũng được coi là trận đánh lớn nhất lịch sử Nhật Bản.


Một kiếm khách mười sáu tuổi, tên là Miyamoto Musashi (Cung Bản Vũ Tàng), bước vào trận chiến Seikigahara với tư cách là võ sĩ bên Tây Quân, là phe rốt cuộc đã thua trận chiến này. Kiếm khách trẻ và cuồng nhiệt ấy đã chiến đấu anh dũng qua ba ngày của trận chiến. Chàng không chỉ sống sót và bước ra khỏi tử địa mà còn thoát khỏi chuỗi ngày gian nan bị phe chiến thắng truy sát. Sau đó, kiếm khách này vân du khắp nơi chỉ để luyện kiếm, báo thù và tham dự các cuộc quyết đấu sinh tử. Musashi không thất bại một lần nào và trở thành sư tổ của môn phái sử dụng song kiếm có tên Niten Ichi Ryū (Nhị Thiên Nhất Lưu). Sau này ông được người Nhật gọi là Kensei (Kiếm Thánh).


Người ta vẫn nói: để hiểu được một người Nhật đi ra thế giới bên ngoài để kinh doanh thì phải hiểu cái tinh thần của một chiến binh Nhật bước chân vào tử địa Sekigahara.


Để hiểu được việc các quan chức chính phủ hoặc doanh nghiệp Nhật Bản đồng loạt từ chức để bảo vệ uy tín cho lãnh đạo, cũng như các samurai thuộc hạ tự mổ bụng tuẫn tiết (hara-kiri) để tránh cho mình và tướng quân của mình bị ô nhục, thì phải hiểu được tinh thần võ sĩ đạo.


Và để hiểu được người Nhật tu dưỡng bản thân hàng ngày thế nào, các tập đoàn Nhật lập chiến lược kinh doanh ra sao, các chính trị gia Nhật ra quyết định thế nào, thì phải đọc tác phẩm kinh điển Go Rin No Sho (Ngũ Luân Thư) của Kiếm thánh Miyamoto Musashi.


Sau chiến thắng của Đông Quân ở trận chiến Sekigahara, Chúa Tokugawa Ieyasu chính thức trở thành shogun của Nhật Bản và là shogun đầu tiên của Mạc Phủ Tokugawa. Mạc Phủ Tokugawa đặt chính quyền của mình ở Edo (ngày nay là Tōkyō). Từ đây, một thời kỳ thanh bình tương đối lâu dài mở ra với đất nước Nhật Bản (1603-1867).


Thời kỳ Tokugawa (còn được gọi là thời kỳ Edo) đánh dấu sự chuyển biến lớn lao trong lịch sử xã hội Nhật Bản. Bộ máy cai trị của Tokugawa không chỉ kiểm soát chính quyền, luật pháp, giáo dục mà còn kiểm soát trang phục và hành vi của các giai cấp vốn được phân biệt rất rạch ròi: samurai, nông dân, nghệ nhân và thương nhân…


Dưới thời Tokugawa, các đội quân địa phương bị giải tán. Mặc dù Tokugawa và một số lãnh chúa vẫn tuyển dụng samurai nhưng phần lớn các samurai trở nên thất nghiệp. Một số samurai sống được nhờ sở hữu điền trang, số còn lại phải chuyển sang làm nghề thủ công hoặc làm kiếm khách lang thang. Thiên hạ thái bình đã khiến tầng lớp chiến binh trở thành những người thừa, họ phải thay đổi lối sống nhưng vẫn giữ tinh thần thượng võ cổ xưa. Đây cũng là thời kỳ nở hoa của Kiếm đạo (Kendo).


Kể từ khi tầng lớp samurai hình thành ở Nhật Bản từ thế kỷ VIII, nghệ thuật chiến tranh được tôn vinh như hình thái học thuật cao nhất, được nuôi dưỡng bởi tinh hoa của cả Thiền tông và Thần đạo. Còn Kiếm đạo luôn đồng nghĩa với phẩm chất cao quý của samurai.


Musashi là một samurai ở đầu thời kỳ Tokugawa. Nhưng khác với các samurai từ bỏ đao kiếm, Musashi vẫn kiên trì theo đuổi mẫu hình kiếm khách lý tưởng, kiếm tìm sự giác ngộ trên con đường gian nan của Kiếm đạo.


Trong phần “binh pháp” ngắn gọn nằm trong Địa Chi Quyển của Go Rin No Sho, ta có thể thấy triết lý của Musashi ngay trong lời phê phán những samurai vì mưu sinh mà kiếm tiền bằng nghề dạy đánh kiếm: “Nếu nhìn vào thế giới, ta thấy chư nghệ được đem bán như những món hàng. Người ta dùng vũ khí để bán chính bản thân của mình. Giống như tách hạt ra khỏi hoa, rồi đánh giá hạt thấp giá trị hơn hoa. Nghĩ về binh pháp theo cách đó, cả người dạy lẫn người học đều chú tâm để phô bày kỹ thuật hoa mỹ. Họ tìm cách để ép đóa hoa nở vội. Họ nói về “Đạo trường này Đạo trường kia”. Họ tìm kiếm tư lợi. Có người đã từng nói: “Binh pháp sơ lậu là căn nguyên khổ ải.” Lời nói thật chí lý.”


Cuộc đời hy sinh cho kiếm đạo, chấp nhận lối sống khổ hạnh và nhẫn nhục của Musashi đã đi vào văn học, trong đó có tác phẩm kinh điển Miyamoto Musashi của văn hào Yoshikawa Eiji (Cát Xuyên Anh Trị). Tiểu thuyết kiếm hiệp này là best-seller ở nước Nhật thời trước Đệ nhị Thế chiến. Cuộc đời và lý tưởng võ sĩ đạo cao cả của Musashi đã góp lửa cho những quan điểm cực đoan của người Nhật khi tiến hành những cuộc chiến quy mô lớn ở Châu Á và Thái Bình Dương. Rồi khi thế chiến kết thúc và Nhật Bản bại trận, người dân Nhật đọc lại Miyamoto Musashi và dựa vào nguồn lực tinh thần của Musashi để tái thiết đất nước trong hoàn cảnh: đất nước điêu tàn bên ngoài, con người đổ vỡ bên trong.


Kiếm khách vô song thế kỷ XVII Musashi tiếp tục đồng hành với người dân Nhật trong suốt thế kỷ XX. Tinh thần Musashi dẫn dắt Nhật Bản trỗi dậy trong thế kỷ XIX thành cường quốc trong thế kỷ XX.


Miyamoto Musashi là hoài niệm và là viễn tượng của tinh thần Nhật Bản.


Shinmen Musashi no Kami Fujiwara no Genshin (Tân Miễn Vũ Tàng Thủ Đằng Nguyên Huyền Tín), được biết nhiều hơn với tên Miyamoto Musashi, sinh năm 1584 trong một gia đình samurai có gốc gác lâu đời. Số phận nghiệt ngã đến với ông rất sớm khi trở thành trẻ mồ côi năm bảy tuổi.


Năm mười ba tuổi, với sức vóc mạnh mẽ hơn lứa tuổi của mình cộng với tài năng và sự liều lĩnh bẩm sinh, Musashi đã tham gia cuộc quyết đấu đầu tiên của đời mình với kiếm thủ Thần Đạo Lưu có tên là Arima Kihei (Hữu Mã Hỉ Binh Vệ). Chỉ với thanh mộc kiếm, Musashi đã đánh gục kiếm thủ lớn tuổi hơn. Năm mười sáu tuổi Musashi tham dự cuộc quyết đấu thứ hai và đánh bại võ sĩ tài năng Akiyama (Thu Sơn).


Sau trận chiến Sekigahara, Musashi đến Kyōto là kinh đô Nhật Bản lúc bấy giờ để tìm gia đình cừu hận Yoshioka (Cát Cương), thách đấu và đánh bại cả ba anh em võ sĩ lừng danh của gia tộc này. Sau cuộc quyết đấu có tính chất phục hận này, Musashi từ bỏ kiếm thép và chỉ sử dụng mộc kiếm. Trong một lần thách đấu với kiếm sĩ giỏi nhất của lãnh chúa Matsudaira (Tùng Bình), Musashi dụng song kiếm đánh bại võ sĩ này nhưng không giết chết. Ngay lập tức chính lãnh chúa Matsudaira thách đấu với Musashi và bị Musashi dùng tuyệt chiêu “Thạch Hỏa” đánh bại. Matsudaira chấp nhận thua cuộc, mời Musashi ở lại và tôn làm sư phụ.


Musashi tung hoành ngang dọc Nhật Bản đến năm hai chín tuổi. Giai đoạn này giúp Musashi có những trải nghiệm để xây dựng kiếm pháp của riêng mình.


Kiếm pháp do Musashi sáng tạo dựa trên kinh nghiệm chiến đấu thực tế. Ông là bậc thầy của các trường phái song kiếm (Nitō Ryū – Nhị Đao Lưu, Niten Ichi Ryū – Nhị Thiên Nhất Lưu, Shinmen Niten Ichi Ryū – Tân Miễn Nhị Thiên Nhất Lưu) sử dụng một trường kiếm và đoản kiếm. Kiếm pháp do Musashi sáng tạo sử dụng hai thanh trường kiếm có tên là Niten Ichi Ryū. Tên này là từ tư thế cầm hai trường kiếm cũng có thể là đặt theo pháp danh của ông là Niten Dōraku (Nhị Thiên Đạo Lạc). Tuyệt chiêu của kiếm pháp Niten là dùng ”hợp kiếm”, và “giao kiếm”: hai thanh kiếm cùng lúc nhắm tới mục tiêu thay vì một thanh phòng thủ và một thanh tấn công.


Vào độ tuổi gần ba mươi, Musashi trở thành huyền thoại sống và được coi là Đệ nhất kiếm khi ông đánh bại đại cừu thù và cũng là kiếm thủ thượng thừa Sasaki Korijō (Tá Tá Mộc Tiểu Thứ Lang), một đại cao thủ của Nhạn điểu công thủ kiếm pháp, ở Ganryū Jima. Ông đánh bại Sasaki bằng một thanh mộc kiếm tự đẽo từ mái chèo của con thuyền ông dùng để ra đảo.


Ở tuổi ba mươi, sau khoảng sáu mươi trận quyết đấu bất bại, Musashi bỗng từ bỏ tất cả. Có lẽ ở đỉnh cao danh vọng, ông nhận ra rằng nhân vô thập toàn và con người không ai là vô khuyết. Từ năm ba mươi tuổi đến năm năm mươi tuổi, kiếm khách Musashi trở thành một nghệ nhân lừng danh trong các lĩnh vực nghệ thuật mà ông tham gia: điêu khắc, thư pháp và tranh thủy mặc.


Suốt phần đời còn lại, ông chỉ luyện kiếm, dạy kiếm, phát triển kiếm pháp, nghiên cứu binh pháp và viết sách. Ông thực hành, chiêm nghiệm Thiền đạo và Kiếm đạo. Musashi trở thành biểu tượng của sự phá chấp, từ hành động đến nhận thức.


“Thần đạo và Kiếm đạo vốn dĩ chỉ là một. Vì cả hai cùng dẫn đưa con người đến một mục đích là diệt ngã.”


Đệ nhất kiếm khách Musashi đã trở thành Kiếm Thánh. Một kiếm khách và là một đại thiền sư.


Ngoài kiếm đạo, tất cả những lĩnh vực nghệ thuật mà Musashi tham gia, từ thư pháp, tranh thủy mặc đến tranh khắc gỗ, từ rèn kiếm đến điêu khắc, ông đều là bậc thầy. Ông trở thành bậc thầy vì ông không có thầy. Ông tự mình tu dưỡng, tìm tòi, cải cách, sáng tạo, xóa bỏ mọi lối mòn, kể cả lối mòn do chính mình tạo ra.


Ông đập vỡ chấp ngã để hòa hợp với âm dương, với thiên địa. Con người hòa nhập với tự nhiên để trở thành nhất thể.


Ông nói: “Không có nghề cao quý, chỉ có con người cao quý. Không có kiếm pháp vô địch, chỉ có con người vô địch.”


Ông cũng nói: “Khi ngươi đã thấu hiểu cái đạo của binh pháp, sẽ chẳng có một thứ gì ngươi không thể hiểu.”


Dã sử kể lại rằng Musashi quen biết một thiền sư là Takuan Sōhō (Trạch Am Tông Bành). Thiền sư Takuan còn là một kiếm khách rất giỏi. Ông viết cho học trò của mình, một kiếm khách lừng danh là Yagyū (Liễu Sinh), một lá thư nói về tương quan giữa Thiền và Kiếm thuật. Bức thư này về sau được nhắc đến với cái tên Fudōchi Shinmyō Roku (Bất Động Trí Thần Diệu Lục). Nội dung thư đã ảnh hưởng rất nhiều đến nền tảng triết lý của Musashi.


Ở tuổi năm mươi ông viết: “Ta đã nhận ra chân đạo.”


Kể từ đây, ông bắt đầu đối diện với một thách thức là phải viết ra một Heihō (binh pháp) của riêng mình. Sau vài năm, ông viết xong một cuốn sách về quy tắc kỹ thuật của kiếm pháp, tức là binh pháp nhìn từ nhãn quan riêng của Musashi. Cuốn binh pháp nhỏ này có tên gọi Heihō Sanjūgo Kajō (Binh pháp tam thập ngũ cá điều. Tạm dịch: 35 điều về binh pháp).


Năm 1643 Musashi quy ẩn trong một hang núi có tên Reigendo. Ở đây, trong những tuần lễ cuối đời, ông viết cuốn binh thư Go Rin No Sho.


Go Rin No Sho là một cuốn sách mỏng về binh pháp nhưng kể từ khi được dịch sang Anh ngữ với tên A Book of Five Rings nó đã được nghiền ngẫm khắp nơi, từ giảng đường Đại học Harvard đến các phòng họp của các nhà chiến lược kinh doanh. Các chính trị gia, các chỉ huy quân sự cao cấp cũng tìm kiếm trong tác phẩm này những nguyên tắc binh pháp chưa bao giờ sai suốt ba trăm năm kể từ khi được viết ra. Tạp chí Time ca ngợi cuốn sách rất ngắn gọn: “Ở phố Wall, khi Musashi cất tiếng, tất cả lắng nghe.”Time cũng viết “Go Rin No Sho là câu trả lời của Nhật Bản cho Harvard MBA.” Những doanh nhân Việt Nam đang khát khao chinh phục thị trường phương Tây giống như người Nhật đầu thế kỷ rất nên đọc cuốn sách này. Bởi như Time Out viết: “Nếu bạn tò mò tại sao người Nhật có thể xông pha giữa cộng đồng kinh doanh phương Tây dễ như lưỡi kiếm samurai cắt ngang miếng bơ, câu trả lời không nằm trong những xí nghiệp hay những máy móc tự động. Câu trả lời nằm trong binh thư Go Rin No Sho.”


Giới quân sự và chính trị so sánh Go Rin No Sho với Binh pháp Tôn Tử khi cho rằng binh pháp của Tôn Tử chỉ là sách dành cho bậc tướng, còn Go Rin No Sho mới là sách cho bậc vương.


Dựa trên triết lý của Thiền tông và cách tiếp cận thực dụng để làm chủ kỹ năng chiến thắng, Go Rin No Sho được cho là cuốn hàm súc nhất đã từng được viết ra trên thế giới này. Với doanh nhân, đây là cuốn cẩm nang chiến lược kinh doanh. Với nhà chính trị và quân sự, đây là cẩm nang binh pháp. Với tất cả những ai yêu thích nghệ thuật sống và sáng tạo độc đáo của phương Đông, đây là cuốn sách mỏng không dễ đọc nhưng rất đáng để nghiền ngẫm.


Go Rin No Sho ngày nay đứng đầu bảng trong tất cả các tàng thư Kiếm đạo. Đây là cuốn sách độc đáo nhất trong các sách binh thư khi nó đề cập đến binh pháp chiến trận và thuật chiến đấu cá nhân bằng cùng một cách tiếp cận. Cuốn sách không phải là lý thuyết về kiếm pháp, mà theo lời của Musashi cuốn sách này là cẩm nang cho những người muốn học binh pháp. Trong phần “Khái lược nội dung của ngũ quyển” ông viết: “Nếu ngươi đã tinh thông các nguyên lý của kiếm pháp, khi ngươi tùy ý tấn công một người và hạ hắn ta một cách dễ dàng thì ngươi có thể hạ được bất cứ ai trên thế gian. Tinh thần để đánh thắng một người và tinh thần đánh bại ngàn vạn người không có gì khác nhau.”


Là cẩm nang, nội dung của Go Rin No Sho luôn vượt lên trên tầm hiểu biết của hầu hết độc giả. Đọc càng nhiều lần, người đọc càng tìm thấy nhiều điều trong sách. Đây cũng là tinh thần mà Musashi muốn người đọc phải tự mình thu nhận: “Binh pháp gia từ tiểu sự mà nhìn ra đại sự, tương tự như điêu khắc nên tượng Phật khổng lồ từ mộc nhân làm mẫu cao bằng hai gang tay. Ta khó có thể dùng ngôn từ để thuật lại chi tiết cách thực hiện điều đó. Nguyên lý của binh pháp là “nhất dĩ quán chi”, nắm được một điều thì suy ra được vạn sự.”


Nhãn quan Kiếm đạo trong sách của Musashi cực kỳ đa dạng. Kẻ nhập môn có thể đọc sách này ở mức nhập môn. Những bậc thầy cũng đọc những trang sách này nhưng ở các tầng cao hơn. Sách không chỉ áp dụng cho lĩnh vực quân sự, mà có thể làm kim chỉ nam cho bất cứ chiến lược gia nào, ở bất kỳ lĩnh vực nào cần đến nghệ thuật tư duy cao cấp.


Mọi kế hoạch kinh doanh, mọi chiến dịch quân sự, đều có thể dùng Go Rin No Sho làm cẩm nang dẫn lối. Ai cũng có thể đọc Go Rin No Sho để hoàn thiện cuộc sống của mình. Và triết lý của cuốn binh thư này có thể đồng hành cùng người đọc trong suốt cuộc đời.


Cuốn Go Rin No Sho – Ngũ Luân Thư mà quý độc giả đang cầm trên tay là bản dịch của dịch giả Bùi Thế Cần. Bản dịch Ngũ Luân Thư này dựa vào các bản tiếng Anh: A Book of Five Rings của Victor Harris do The Overlook Press xuất bản năm 1974, The Book of Five Rings của Nihon Services Corporation do Bantam Books xuất bản năm 1982; có tham khảo bản tiếng Nhật kim văn của Kamata Shigeo (Liêm Điền Mậu Hùng) xuất bản năm 1986, và các bản dịch nội gia của Hà Ngân và Mạnh Sơn từ bản tiếng Trung và tiếng Nhật kim văn. Do bản dịch không được dịch thẳng từ nguyên tác bằng tiếng Nhật cổ văn nên chắc chắn còn nhiều sai sót. Mong độc giả lượng thứ và góp ý để lần tái bản được tốt hơn.


Dịch giả Bùi Thế Cần nguyên là giáo sư Pháp văn Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Hiện ông lui về chốn vắng để dành thời gian cho niềm đam mê của mình là nghiên cứu và tập luyện song kiếm theo trường phái Niten Ichi Ryū của Kiếm Thánh Miyamoto Musashi. Ông cũng là võ sư Aikido đệ lục đẳng, có nhiều đóng góp cho phong trào Aikido ở thành phố Hồ Chí Minh.




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 15, 2013 21:39

September 13, 2013

Lại status

Tiếp tục là các status  để giới thiệu các bài của HTN trên FB


1. Hack bằng Ti


Sáng nay đọc Cafef mới biết là cá nhân Trương Gia Bình và Bùi Quang Ngọc là 2 cổ đông cá nhân lớn nhất của FPT. Hai bố này cộng lại đè chết hầu hết bọn còn lại, kể cả quỹ. Cảm nhận: mình là cán bộ quản lý của FPT mình sẽ nghĩ ”công ty này là của các ông, các ông muốn làm gì thì làm”. Sau lại nghĩ thêm một câu “công ty của ác công nên muốn gì thì cũng chỉ có các ông làm được”.


Trong lúc đó ở bên Mỹ thì Apple đã đánh một đòn tâm lý rất chuẩn: bảo mật vân tay. Họ gọi là Touch ID. Khi cả thế giới sợ lộ ảnh nhạy cảm, thông tin mật, thông tin cá nhân … vốn nằm đầy trong các smart device, các device thì dễ thất lạc, lại kết nối lung tung thì nhận dạng vân tay là quá hấp dẫn. Nhất là nhận dạng vân tay lại được mã hóa và lưu (cho các thuật toán so sánh) ngay trong con chip nằm ngay trong device. Vãi chưởng, không khác gì cái khóa két: khóa xong thì chìa lại nằm ngay trong két. Fan iPhone ở VN bây giờ ra đường nhớ đeo găng tay sắt vì cướp iPhone sẽ chặt luôn bàn tay. Các bác đi bia ôm nhớ đeo găng mỏng, vì giống như Fast Five, các bác sờ tí tiếp viên, tiếp viên áp tí vào iPhone của các bác, thế là hack được vào máy. Thuật toán này gọi là hack bằng ti.


Để làm ra iPhone thì các lãnh đạo ở Apple không chỉ học mà còn tu luyện kungfu. Tu luyện nghe cao siêu chứ bản chất chính là tự học. Ở VN người ta đã nói đến chuyện tự học từ tám đời nào rồi. Bài về tự học, các bác đọc ở Hocthenao (xem link). Sách giáo khoa dạy tự học, các bác mua Ngũ Luân Thư ở Tiki.vn.


Status này để giới thiệu: Bàn về chuyện tự học – Cao Xuân Hạo


2. Vô đề


Các bác có biết vụ chôn thuốc trừ sâu ở Thanh Hóa mà dư luận ầm lên không. Đấy là bí mật quân sự vô tình bị lộ đấy. Thực chất đây là thử nghiệm cách phá hủy vũ khí hóa học, nhằm đấu thầu vụ hủy lô vũ khí hóa học của Syria. Thông tin cho biết hợp đồng hủy vũ khí này trị giá 1 tỷ dollar Mỹ.


Việc Obama không đánh Syria đã khiến ông này thành tổng thống mặc váy và xilip đầu tiên của nước Mỹ thế kỷ 21. Nếu madame Obama đánh Syria thì các tuyên bố hùng hồn của Putin tự nhiên thành ngớ ngẩn và chính ông này trở thành người mặc váy. Thế giới các nước yếu đuối sẽ không tin vào sự bảo kê của Nga nữa và Pax Americana sẽ thực sự hiện hữu. Ai có ngờ đâu, váy ngắn nay đã về nước Mỹ.


Ở VN ai cũng nhận ra sự trì trệ, đần độn của cơ chế hành chính, muốn ôm hết, quyết hết, kiểm soát hết ngày càng bê bết. Ở cấp đia phương thì các bác biết rồi, hành xử vô lối như bố thiên hạ. Nên có vụ nổ súng vừa rồi. Lưu ý là các vụ bạo lực, từ sát nhân Luyện sát nhân Nghĩa đến hoa cải Vươn đều xảy ra ở ngoài bắc. Trong Nam, do nhân dân cần lao chiều nào cũng nhậu tới bến, bức xúc xả ra cống hết, nên xã hội cứ gọi là hiền hòa. Một tỷ lít bia mà Sabeco làm ra năm ngoái, ít nhiều cũng có giá trị nhất định trong việc ổn định tâm lý xã hội. Cùng với đó là nhạc sến mà các nhạc sỹ đang chửi bới, cũng là liều thuốc tốt. Anh chàng cầm súng tự sát vừa rồi, nếu ở miền nam, chiều nào cũng nhậu, tối nào cũng nghe nhạc sến, chắc chắn anh sẽ hạnh phúc hơn nhiều.


Nhưng không ai nhận ra sự trì trệ và ham muốn kiểm soát tất, nó thể hiện mồn một ở việc làm sách giáo khoa. Mời các bạn đọc ý kiến về việc này.


Status này để giới thiệu: Phản hồi về vấn đề biên soạn SGK



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 13, 2013 05:05

September 7, 2013

Các status

Các status dưới đây đã được dùng để giới thiệu các bài của HTN trên FB


1.


Trên FB đã thấy các bạn tuổi teen và quá teen bắt đầu khoe trang phục trên đông dưới hè. Áo khoác mỏng che gió vai gầy, váy ngắn tủn khoe nắng chân dài.


Các ông bố bà mẹ trẻ khoe hối hả cho con đi bơi nốt những ngày cuối hè. Bạn thân thì sms bảo tháng 9 khai giảng mà tháng 8 các trường đã học chính thức.


Có bạn thì bảo đã ngửi thấy đâu đó mùi hoa sữa.


Anh Trần Đình Thiên lên báo bảo kinh tế năm nay chỉ chết 15 ngàn doanh nghiệp thôi, chết ít hơn hẳn 2 năm trước, mà tiếc hơn vì 15 ngàn doanh nghiệp hy sinh năm nay, toàn doanh nghiệp chất lượng, cầm cự đến ngày 29 tháng 4 thì lăn mẹ nó ra hy sinh.


Thế là mùa hè hối hả đi qua hơi nhanh, còn mùa thu trờ đến hơi gấp gáp. Chỉ có nền kinh tế là đờ đẫn kéo dài sự sống mòn còn doanh nghiệp lờ đờ lâm sàng mà chưa xuống lỗ. Áo sẽ không mỏng mãi và váy sẽ có lúc phải dài. Bốn mùa chỗ này là hai mùa chỗ khác. Hình nhi thượng thì đứng mà hình nhi hạ thì lăn tròn. Unmoved mover đủn cho cả vũ trụ quay vòng.



Chỉ có việc học là túc tắc cứ như là vĩnh cửu. Xưa học nay vẫn học, cứ như là chẳng có sự xoay vần. Cứ như kiến thức và xã hội vẫn như ở trong cái hang của 40 năm trước. Mời các bạn đọc một bài về tâm lý giáo dục: học thế nào cho hiệu quả. Đăng ở Học Thế Nào.


Status này là để giới thiệu: Các nhà tâm lý học đã xác định được phương pháp học tập tốt nhất – Scientific American, An Khương dịch


2.


Sáng nay đi qua Lê Duẩn, thấy dân oan chăng biểu ngữ trước lãnh sự quán Mỹ. Thật là một sự bỡ ngỡ. Ngỡ đâu lãnh sự ngoại giao giờ được người dân coi như cơ quan công quyền. Có lẽ từ ngày người dân biết lãnh sự Hoa Kỳ có nhận hối lộ để làm visa, họ hiểu ra rằng nước Mỹ nay đã Việt hóa đến mức người dân oan có thể nhờ cậy vào họ.


Có những sự kì quặc dễ hiểu và bình dị như thế.


Nhiều doanh nhân hay đi tới các trường đại học, đến các tổ chức thanh niên để nói chuyện, để truyền lửa, để làm đủ thứ. Doanh nghiệp của họ sản xuất máy tính, điện thoai, hay chỉ đơn giản là sản xuất mì gói. Sẽ chẳng bao giờ có sinh viên đứng lên bảo em nghèo quá, anh tặng em cái điện thoại, hay tặng em thùng mì gói đi. Nếu có đi chăng nữa, doanh nhân cũng chẳng cho. Vì họ vẫn cứ bảo: cho bọn em con cá anh cho được ngay, cơ mà anh muốn cho em cái cần câu để em tự câu cá. Thế nhưng có doanh nhân nào sản xuất cần cho thanh niên đ’o đâu.


Nhưng doanh nhân mà làm sách thì rất hay bị thanh niên sinh viên than nghèo và xin sách hehehe. Có một sự hồn nhiên đáng yêu ở đây. Chắc mọi người nghĩ là sản xuất điện thoại, mì gói nó tốn kém, xin thì ngại. Còn sách chỉ có mỗi việc viết ra là có sách rồi, xin dăm cuốn nghĩa lý đếch gì. Doanh nhân làm sách không tặng không được. Vì sách nó không phải là cần câu mà lại chính là cần câu. Cho sách khác với cho mì tôm, cho sách là cho đi kiến thức. Nhưng mà xót các bác ạ. Cho một cuốn sách là mất mẹ bát phở ngon.


Cái kì quặc ít ai để ý này nó là nhị-nguyên đấy. Suy nghĩ nhị nguyên sẽ giúp các bác nhìn thấy nhiều sự bình thường lại hóa ra rất kì quặc.


Ví dụ bác mà đi ăn cướp. Dù có cướp được hay không thì các bác sẽ bị tóm và xét xử. Nhưng nếu cướp chính quyền thành công thì lại có thể tóm và xét xử tất cả các bọn còn lại.


Hoặc là nhị nguyên trong phân loại con người. Con người chỉ có hai loại. Hoặc là vì danh, hoặc là vì lợi. Hoặc là chăm, hoặc là lười. Hoặc là khôn ngoan, hoặc là ngu dại. Hoặc là kẻ đi học, hoặc là người dạy học. Nhân dịp đầu năm học, mùa tựu trường, mời các bác đọc tâm sự của một giáo viên người Việt sống ở Hoa Kỳ:


Status này để giới thiệu: Thư bạn đọc: Mùa tựu trường đã đến – Phan Như Huyên


3.


Chấm một cái.


Nói chung cứ vài năm lại nên đọc một tập thơ. Nhất là ở một nước quỹ lương hưu sắp vỡ mà thơ tổ hưu vẫn cứ dâng tràn. Tất nhiên thơ nên đọc thì không nên là thơ hưu.


Tập thơ cuối cùng mà tôi thích là Gửi VB của Phan Thị Vàng Anh. Ấy là về nội dung. Về hình thức thì tập thơ cuối cùng thấy đẹp là Thơ Trần Vàng Sao do Giấy Vụn xuất bản. Tiếc là không sở hữu được cuốn nào. Ở giữa những thứ ấy là Phan Huyền Thư, là Ngựa Trời, là Vi Thùy Linh và chấm chấm chấm.


Chấm là tập thơ mới xuất bản của Nguyễn Ngọc Tư.


Về hình thức, đây là một tập thơ to tướng và trắng toát. Tất nhiên cũng có trang đen, và cái chấm thì đỏ. Nhưng tựu chung, nó vẫn to xác và trắng toát.


Về nội dung. Đây là những bài thơ gần gũi. Gần gũi tức là thế này.Ở những tác giả khác, những tập thơ khác. Có những bài thơ rất hay mà không thể nào với tới được. Đọc là cứ thấy nó ngân lên thôi chứ không thấy mình …thò tay vào được.


Kiểu:

“Rắn trườn vỡ trứng chim rừng

Tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm”


Còn ở đây, thơ trong Chấm, có những bài tâm đắc, thấy gần gũi cứ như là mình có thể gieo vài vần sửa lại.


Ví dụ bài Chốn về.


“máu chảy tự khô

vết đau tự liếm láp

cúc tự cài

hát mình nghe

chưa bao giờ mình mời ai tới đó


nơi ấy không mặt nạ

không lời ngọt nhạt xa lạ

chỉ mình thôi với ngọn gió cuối cùng”.


Đọc xong nhẩn nha tự chữa theo ý mình:


“máu chảy tự khô

vết đau tự liếm

cúc tự cài

hát mình nghe

chưa bao giờ mời ai tới


nơi ấy không mặt

nơi ấy không lời

chỉ mình với cuối cùng ngọn gió”.


Thơ trong Chấm đa phần là để đọc bằng mắt. Ký tự tiếng Việt với thơ đọc kiểu này rất quan trọng. Typography của Chấm lại hơi yếu ớt, ít ra là yếu so với tình cảm mà tôi cảm thấy ở đằng sau những câu thơ trong Chấm.


Ký tự tiếng Việt, nhìn sâu hơn, sẽ thấy nhiều cái thú vị. Mời các bạn đọc một khảo cứu ngắn rất đặc sắc về ký tự tiếng Việt trên Học Thế Nào.


Status này là để giới thiệu bài: Thế chân vạc của ngôn ngữ văn tự Việt – Đào Mộng Nam, Nguyễn Tiến Văn


4.


Mấy hôm nay nhiều người nói đến MOOC (Massive Open Online Course) quá. Đâm mình cũng tò mò tìm hiểu. Hóa ra các bài về MOOC đã đăng trên HTN lại đầy đủ thông tin. Các báo đăng nhiều tranh luận quanh MOOC, có ý ca ngợi cái mới và hơi có ý chê giáo dục truyền thống.


Tuy nhiên có mấy ý sau lăn tăn quá các bác ạ (vì tôi cũng làm trong môi trường đào tạo mấy năm, chứ ko đến nỗi ngồi ngoài nhìn vào mà phán).


Thứ nhất là trên báo, các bác ủng hộ MOOC, có ý chê bằng cấp ở điểm là bằng cấp thì dễ mua. Cái này, tôi chắc luôn, là rất khó mua bằng. Trừ khi mua bằng của trường giả, trường ma, còn thì cực kỳ khó mua bằng của một trường có thật, tồn tại thật, và có lịch sử thật. Bất kể là trường tây hay ta. Kể cả trường đại học vina, đố các bác mua được bằng đại học của một trường kể cả là dân lập bé tí.


Tất nhiên bằng thật nhưng dạy và học có thể là giả, kiến thức có thể là vớ vẩn. Nhưng ko thể nói là mua bằng dễ được. Không nên ca ngợi MOOC (không cấp bằng) bằng cách dìm hàng cái khác (có cấp bằng).


Từ đây dẫn đến cái thứ hai, là đi xin việc bây giờ bằng chả quan trọng. Cái này cũng không đúng lắm đâu. Tôi tham gia tuyển dụng rồi, tôi chắc chắn là nếu tuyển người cần trình độ cao đẳng, đại học người ta vẫn đòi hỏi bằng. Nhưng ngoài bằng thì còn đòi cả bảng điểm. Với người tuyển dụng có kinh nghiệm, nhìn vào bằng+bảng điểm + phỏng vấn mấy câu là biết chắc chắn năng lực của ứng viên. Tất nhiên là cái này là đúng với sinh viên mới đi làm, còn khi người ta tuyển nhân sự mà có đòi hỏi vài năm kinh nghiệm rồi, thì bằng cấp lúc đó xuống thứ yếu.


Đấy là chưa nói đến cái thứ ba, là các môn đòi hỏi thực nghiệm (hóa lý), thực hành (y dược kiến trúc) thì MOOC dạy bằn cái gì?


Cho nên không đi học đại học mà chỉ học MOOC, thì đi xin việc khó phết đấy. Nói toẹt ra, là chính mình bây giờ gặp bọn trẻ, mình cũng vẫn hỏi: thế em học trường nào? À, trường đấy anh biết, thế khoa gì đấy, à khoa đấy có anh X chị Y anh có gặp rồi, có câu lạc bộ tiếng Anh ở đấy sôi động phết, có con gì học khoa đấy đi thi hoa hậu đấy, mà xấu bỏ mẹ, nó có học lớp em không. Đại khái thế.


Nhưng MOOC nó hay phết các bác ạ, có ích lắm. Với mô hình của coursera, tôi nghĩ là cực hay nếu các bác cần bổ túc một, hoặc vài môn cụ thể, mà môn ấy dạy tận bên Mỹ và bác không thể đi học được. Với mô hình khanacademy, tôi nghĩ đây là một siêu tutor cho các cháu thiếu niên, chỉ có điều là phải biết tiếng Anh. Hai mô hình này rất khó blend với nhau như ta có thể blend rượu whiskey rồi đóng chai để bán.


Academy là tên một cái vườn. Vườn này của nhà Plato. Plato lấy cái vườn này để dạy học. Dạy tất cả những gì ông ấy thấy cần cho người học. Chủ yếu là Hình học + Số học và Music (theo nghĩa bây giờ là Culture). Ngoài ra học thể dục. Ai thích thì đến học, ai học thì học bao lâu cũng được. Aristotle học ở đây cỡ 20 năm. Từ đó Academy có nghĩa là học viện. Và với nghĩa đó ta có Khanacademy chứ không phải Khan School.


Status này là để giới thiệu bài: Các khóa học đại trà trực tuyến mở.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on September 07, 2013 02:44

July 26, 2013

Sound of Silence

la-pagode-saigonCái tiệm milk-bar mà Phượng của Fowler thường ngồi vào cuối sáng, tôi luôn nghĩ rằng nó phải nằm đâu đó quanh số nhà trên đường Catinat mà sau này thành nhà sách nổi tiếng Albert Portail. Nhà sách ấy sau này, cỡ năm 1955, đổi tên thành Xuân Thu mà bà chủ của nó, cũng như của cái rạp hát Eden, được cho là của đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân.


Graham Greene đến Sài Gòn, hay đúng hơn là Sài Gòn trong The Quiet American của ông, đã không có cái nhà sách ấy.


Cái Pavilion, chéo qua bên kia đường với cái milk-bar,  mà Fowler ghé qua uống bia lạnh và để tránh Phượng, được Green mô tả là một “coffee centre” cho phụ nữ Châu Âu và Mỹ. Ở đó Fowler chứng kiến vụ đánh bom. Cái Pavilion này tôi tin chắc chính là quán cà phê Terrace dành cho người nước ngoài của khách sạn Continental. Đây là quán cà phê sang đầu tiên ở Catinat, sau là Tự Do, và ngày nay là Đồng Khởi.


Không thấy nhắc đến  Givral. Có lẽ vào cái thời mà Việt Minh chưa về Hà Nội và Sài Gòn vẫn là đô thị hải ngoại của nước Pháp, cái chỗ mà sau này mở Givral vẫn là tiệm thuốc tây Solirène. Givral là quán cà phê thứ hai ở Caninat, dành cho khách Việt thượng lưu, và có lẽ là quán đầu tiên sang trọng dành cho người Việt.


Có cái đầu thì có cái sau. Một trong hai quán mở sau, chính là Brodart, góc Catinat – Carabelli. Carabelli nay là Nguyễn Thiệp. Brodart là quán dành cho giới trẻ sành điệu Sài Gòn.


Brodart nay chỉ còn cái tên, cái quán xưa nay thành cửa hàng điện thoại. Givral đã chính thức tắt đèn sau cú phục sinh yếu ớt mà phô trương phù phiếm.


Cả hai quán một thời vang bóng ấy, sống lay lắt như giấc mộng nhòe của một thân xác phù hoa sống thực vật khi Sài Gòn đổi chủ. Sống thật lâu và chết thật nhạt, không để lại một cái tên khách nào, ngoài Phạm Xuân Ẩn, một huyền thoại đột nhiên trỗi dậy trước khi chết và sau vài chục năm sống mòn trong lạnh lẽo.


Giá mà nó chết thật nhanh, như giấc mơ lìa khỏi tấm thân vừa ngừng mạch máu, để lại cho đời những tên tuổi khách hàng còn vang bóng mãi. Giấc mơ ấy là tiệm cà phê La Pagode, cũng Catina, cũng tứ giác Eden, như Givral, nhưng ở góc dưới này, góc Catinat – d’Espange (nay là Lê Thánh Tôn). La Pagode không dành cho khách tây, không hợp với giới trẻ sành điệu, và dân nhà giàu không tới đó. Nó dành cho những cư dân có tâm hồn sáng tạo và cách tân bậc nhất Sài Gòn lúc bấy giờ: họa sĩ, nhạc sĩ, nhà văn và nhà thơ. Họ là  Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, … và cả…Allen Ginsberg.


La Pagode giản dị, không cửa kính, không trang trí rườm rà, từ bàn ghế, cột kèo đến cửa sổ mở to, đều là những nét thẳng. Chủ quán là tây, phục vụ là gái Hoa, và khách quen là những tay lãng tử. Rất có thể, những ngày đầu tiên mở quán, quán đã đón cả anh lính trơn Alain Delon, dừng chân trước khi ghé rạp Eden xem phim Mỹ và bắt đầu ước mơ màn bạc của mình.


Chéo bên kia ngã tư, từ cửa La Pagode nhìn qua, là công viên Chi Lăng có cây cao xanh ngắt, này đã thành vườn tiểu cảnh của Vincom. Năm 1963, Allen Ginsberg đến Sài Gòn. Chắc hẳn Vũ Hoàng Chương đã dẫn ông tới đây để tặng tập thơ  Tân Thi do Nam Chi xuất bản. Ở đó, đúng hơn là ở bên Chi Lăng ấy, Allen Ginsberg ở tuổi quá 30  và râu tóc xù tung, đã hét lên để đọc Howling của mình cho giới trẻ của Sài Gòn:


“who howled on their knees in the subway and were dragged off the roof waving genitals and manuscripts,


who let themselves be fucked in the ass by saintly motorcyclists, and screamed with joy,


who blew and were blown by those human seraphim, the sailors, caresses of Atlantic and Caribbean love,”


La Pagode đã chết. Chết sớm hơn nhiều so với cái sống lay lắt sau này của Givral. Có lẽ đó là một cái chết may mắn.


Khi quay trở lại Sài Gòn và mất Phượng. Flowler đã rất nhớ cô: “I thought of Phuong just because of her complete absence. So it always is : when you escape to a desert the silence shouts in your ear.”


Nếu Sài Gòn biết nhớ, hẳn La Pagode sẽ là tiếng vang của một sự tĩnh lặng y như vậy.


Và khi một người Mỹ vui vẻ nhận một cái replica của một bức thư tín xa xưa, có lẽ rằng họ không còn “quiet” nữa.


***


Ký ức đô thị


***


Hạ tầng đô thị SG ngày đầu.


Đường cáp viễn thông đi dưới biển nối SG và Hải Phòng năm 1888. Trước đó 4 năm, là năm 1884 đã nối được Hải Phòng và Hong Kong. Điện tín có ở SG năm 1861, nối từ SG đi đến Biên Hòa và Mỹ Tho. Điện thoại bắt đầu có vào năm 1894.


Dự án thắp sáng công cộng đầu tiên là ở Catinat (Đồng Khởi) năm 1865 nhưng đến 1867 mới thực hiện được. Đèn thắp bằng dầu dừa, hàng ngày có người đi thắp lửa (giống trong Little Prince). Đến năm 1869 thì thay dầu dừa bằn dầu hỏa và sử dụng đến tận sau này khi đã có điện. Năm 1889 có dự án thắp sáng đèn đường bằng điện. Sử dụng đèn dây tóc, đèn hồ quang, đèn Edison. Sau đó đắt quá dừng lại. Đâm ra Hải Phòng lại là thành phố thắp sáng bằng điện trước SG.


Tân Sơn Nhất khởi công năm 1914. Sở hàng không dân dụng Đông dương được Toàn quyền lập năm 1918. Đường bay HN SGN thiết lập, chuyến bay đầu tiên là năm 1923. Đến năm 1931 có chuyến Paris SGN (2 chiều) đầu tiên.


Hãng Air Orient đặt văn phòng ở Catinat vào năm 1931.


Năm 1950, Tân Sơn Nnất là sân bay bận rộn ngang sân bay Paris. Tân Sơn Nhất là 10 phút/chuyến. Sân bay Paris là 8 phút chuyến. (Có lẽ đó là thời điểm chiến tranh Pháp Việt nên nhiều chuyến bay đến SG). Bay từ SGN đi Marseille mất …12 ngày do phải transit rất nhiều. Không rõ Tân Sơn Nhất bây giờ bao nhiêu phút một chuyến, và so với Paris thì thế nào???


Tuyến xe lửa SGN Mỹ Tho khởi công 1882, hoàn thành 1886. Dài 70 km và là tuyến đường sắt đầu tiên ở VN. Nhà ga đã phá, nay là khu đất vàng, hiện là công viên.


Đường sắt SGN – HN hoàn thành năm 1936. Trước đó, 1931, đã có tuyến HN – Đà Nẵng và SGN-Nha Trang. Tốc độ tàu hỏa lúc đó đi SGN HN mất 62 tiếng (nghỉ khoảng 10 tiếng ở Đà Nẵng và đi xe hơi 6 tiếng từ Nha Trang – Đà Nẵng. (Hiện nay, sau gần 1 thế kỷ, tàu của ta chạy liên tục, là 36 tiếng hehehe).


Đường sắt đô thị, nay HCMC mới đấu thầu được vài tuyến, thì SGN ngày xưa đã có, tuyến đầu tiên là Sài Gòn – Dakao, đi vào sử dụng năm 1896.


Tuyến xe điên đầu tiên chạy SGN – Chợ Lớn năm 1914.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 26, 2013 11:35

July 2, 2013

Great Gatsby 3D và những thứ khác

Great Gatsby 3D


Biết nói gì về bộ phim này khi nhân vật chính đã chết y như trong truyện và còn nhân vật phụ hóa ra không được rõ nét.


Lẽ ra trước khi nói về bộ phim ta cần viết dăm điều (thuổng của tây) về cuốn tiểu thuyết. Phải thuổng của tây vì tiểu tuyết Great Gatsby dễ hiểu nhưng có những chỗ lại khá mù mờ. Cho đến bây giờ giới phê bình thượng thặng của tây vẫn còn thắc mắc tại sao nhân vật Nick Carraway (narrator) lại hâm mộ Jay Gatsby đến thế. Thậm chí họ còn hỏi nhau, cho đến tận bây giờ, là tại sao và nghĩa gì cái chữ Great ở trong cái tên Great Gatsby ấy.


Và cuốn Great Gatsby tôi đang có trong tay, phần truyện chỉ có 115 trang (đánh số riêng) mà phần giới thiệu (đầu sách) đã tới 19 trang (đánh số riêng) và chú giải cuối sách là 6 trang (đánh số nối vào truyện).


Bộ phim hầu hết là giống như trong truyện.


Nó kể về một thằng cha thượng lưu máu xanh tận gốc, tiền nhiều vô hạn (và là tiền cũ, old money) có thú vui chơi gái bình dân, hết hầu phòng khách sạn hạng sang lại đến mấy mụ ngoại ô trốn chồng lấm lem buôn bán, bỏ mặc vợ nhà giàu miền nam thượng lưu cô đơn trong nhung lụa. Nó kể về một thằng hạ lưu, quyết tâm đi lên bằng học hỏi phong cách và kiếm chác để khoe mẽ với đời, tiền nhiều vô hạn (và là tiền mới, new money, từ chứng khoán, cá độ và buôn rượu lậu).


Thằng thượng lưu có tất cả mà không kiểm soát được gì, bỗng nhiên, nhưng lại chẳng mất gì, cuối phim. Thằng hạ lưu tưởng như có tất cả, kể cả ảo mộng điên rồ với mối tình quá vãng, tất nhiên là trừ quá khứ là cái nó không thể mua được, hoặc cùng lắm là suýt mua được bởi một núi tiền và một quyết tâm phi thường. Nhưng cái kết cục, giống như sách tây nói mà tôi ăn cắp lại, rằng Great Gatsby không phải là câu chuyện về American Dream, mà là về cái sự corruption của American Dream. Và ngay cả trong cái mớ corruption khốn nạn nhất, người ta đến vì tiền và đi chẳng vì tình, mọi giá trị đảo lộn hết, thì giai nghèo vượt khó vẫn không bao giờ lấy được gái thượng lưu.


Đoạn hay nhất trong truyện, và cũng như trong phim, là cảnh hai gã đàn ông lắm tiền, chỉ khác nhau tiền cũ và tiền mới, tay chơi thể thao trường xịn ở New Haven và tay cựu sinh Oxford giả vờ, tay chồng và tay tình nhân, nhảy xổ vào nhau trong căn phòng hẹp, ngập khói thuốc và rượu …và dùng mồm để tranh cô gái Daisy một con gốc gác miền nam quý tộc.


Daisy hóa ra đã không hời hợt, dù chuộng lối sống phù phiếm và là tín đồ của hàng xa xỉ. Cô ấy đã không dám nói với chồng là cô không yêu cái tay quý tộc thô bỉ ấy, dù thú nhận công khai là có yêu Gatsby. Trong cái khoảnh khắc dồn nén và mịt mù ấy, cô ấy nhận ra mình đã yêu, dù không cùng lúc, cả Tom Buchanan và Jay Gatsby. Và cái khoảnh khắc cần phải lựa chọn, cô đã nói dối kẻ hạ lưu là Gatsby rằng sẽ đến với anh ta để làm lại quá khứ đẹp đẽ bị đánh mất, nhưng vẫn cho khán giả/độc giả tỉnh táo ngồi ngoài biết được cái phán quyết trong sợi tóc của mình:


“Oh, you want to much! She cried to Gatsby. “I love you now – isn’t enough? I can’t help what’s past.” She began to sob helplessly, “I did love him one – but I loved you too”.


Muốn quá nhiều. Quả thực, Gatsby luôn muốn quá nhiều, một lâu đài hoành tráng, một siêu xe, các mối quan hệ, các đại tiệc xa hoa. Cả Daisy nữa. Nhưng anh ta vẫn chưa thỏa mãn.


Trong tình yêu, khi “muốn quá nhiều” thì đó sẽ là dấu hiệu của sự kết thúc. Ác thay, câu đấy lại do chính người mình yêu nói ra.


Đoạn tiếp theo thuổng chi chit từ sách vở của Tây.


Bọn Tây nói Fitzgerald đã “learn” nhiều từ T.S.Eliot: cách viết symbolic và mythic. Phẩy tay mấy dòng là ra New York. New York ấy là một đô thị của một thời đại mới mà một chàng trai như Fitzgerald vốn lớn lên và quen thuộc với xe ngựa và đèn đường thắp gas, bỗng choáng ngợp trong kỷ nguyên của xe hơi, đèn điện, điện báo, điện ảnh, nhiếp ảnh và âm nhạc. Kỷ nguyên ấy được Fitzgerald đưa hết vào Gatsby: tòa lâu đài sáng choang ánh đèn, khách mời tiệc tùng là dân chơi và diễn viên Hollywood, nhân vật McKee tự nhận mình là kẻ chơi “artistic game” (chơi chụp ảnh), các billboard khổng lồ ở khu lao động ngoại ô, điện thoại, rượu và các tạp chỉ ảnh. Chưa hết, xung quanh Nick, Jay, Tom còn là chứng khoán, chính trị gia, cảnh sát, thế lực ngầm các tay cá độ biết dàn xếp tỷ, gái gọi cao cấp và nghệ sỹ nửa mùa.


Và thời điểm đó nền kinh tế Mỹ bắt đầu ở khúc quanh rẽ vào Đại suy thoái (Great Depression). Nó như được báo hiệu bởi cái chết cuối mùa hè của Đại Gatsby (câu này thì không thuổng của tây).


Cái mà Fitzgerald mô tả trong Great Gatsby, bọn phê bình Phương Tây nó còn tham chiếu vào cả một thuyết, của Thorstein Veblen tên là “The theory of the Leisure Class”. Đó là một xã hội vượt qua cả xã hội tiêu dùng, hình thành hẳn một giai cấp hưởng thụ có lý tưởng và ý thức hệ: Tự do và Mưu cầu hạnh phúc chính là sự tự do lựa chọn hàng hiệu, rượu ngon và loại gậy đánh golf.


(Great Gatsby Có cái gì đó rất giống Việt Nam những năm gần đây, chứng khoán, bất động sản, tiệc tùng, tiêu xài xa hoa, siêu xe, hàng hiệu, thiết bị di động đắt tiền, thú vui chụp choẹt, nhạc dân gian đương đại,internet, di động, ông bầu bóng đá, các trận đấu bốc mùi, cá độ trên mạng, hoa hậu làm gái gọi, các nghệ sỹ nửa mùa lên TV, các tay chơi golf và rồi tất cả cùng sụp đổ).


Đến đây kết thúc phần thuổng chi chit từ sách vở của Tây.


Tôi không hiểu lắm về TS Eliot, nhưng tôi biết Haruki Murakami bắt chước cách tả người tả cảnh của Fitzgerald. Cách tả ấy rất là photographic: bay bướm, ẩn hiện và giàu hình ảnh. Vốn rất thích cách viết cầu kỳ này, tôi rất tò mò trước khi xem phim, rằng họ sẽ dựng cảnh ra sao.


Cảnh tả Nick lần đầu bước chân đến tòa nhà của vợ chồng Tom và Daisy, anh bước vào phòng và nhìn thấy Daisy và bạn của cô là Jordan Baker.


“The only completely stationary object in the room was enormous couch on which two young women were buoyed up as though upon an anchored ballon. They were both in white, and their dresses were rippling and fluttering as if they had just been blown back in after a short flight around the house.”


Tả cuối bữa tiệc thả phanh trong căn hộ rẻ tiền mà Tom mua để hú hí và vui vẻ cùng tình nhân và đám bạn bè và nghệ sĩ nghiệp dư thuộc giới bình dân:


“The little dog was sitting on the table looking with blind eyes through the smoke, and from time to time groaning faintly. People disappeared, reappeared, made plans to go somewhere, and then lost each other, search for each other, found each other a few feet away”.


Những người làm phim đã làm được, thậm chí họ còn dùng cả thoại và lời dẫn y như trong sách. Có quá nhiều thứ để người làm phim để trổ tài dàn dựng. Và quá ít chỗ để diễn viên diễn ra chất của mình. Dẫu vậy, Carey Mulligan, Dicaprio, và cả McGuire nữa, đều đã có lúc diễn được chất của mình. Chỉ hơi tiếc nhân vật Jordan Baker, nhân vật kiêu kỳ, nổi tiếng mà trong truyện chỉ thoáng qua cho thấy là một kẻ ăn gian (trong thể thao) và không trung thực (trong cuộc sống), một nhân vật mà Nick đã suýt yêu: “Angry, and half in love with her, and tremendously sorry, I turned away”.


Trước khi bước vào rạp, tôi vẫn còn một tò mò nữa, Fitzgerald là người đã đặt ra từ “Jazz Age”. Những nhà làm phim, họ sẽ làm gì khi bây giờ là kỷ nguyên của Hip Hop và kỹ thuật số.


Jazz Age? Đã có Jazz. Đó là tiếng kèn trumpet da đen bên ngoài bữa tiệc bình dân của Tom Nick và lũ gái bình dân trong căn hộ rẻ tiền ngập tràn đồ đạc. Có cả Amstrong, nếu bạn nghe kỹ.


Thế nhưng tất cả chỉ là mở màn cho đôi tai của khán giả trước khi thổi bùng tất cả lên bằng thị giác và thính giác. Từ lúc nhạc nền khe khẽ là giai điệu của bản giao hưởng lừng danh của Beethoven, tức là lúc Nick mở cửa nhận giấy mời dự tiệc nhà Gatsby, đến lúc anh bước vào bữa tiệc bằng chính giai điệu ấy chơi bằng đại phong cầm mà dày chất fusion, rồi tất cả là nhạc, là múa hát, là rượu, là hào nhoáng xa hoa. Rồi bất ngờ, cho đến lúc ấy, Gatsby/Caprio xuất hiện bằng câu nói “I’m Gatsby” là âm nhạc của Gershwin (bản Rhapsody in Blue” chơi cực kỳ hiện đại) kéo dài và bùng nổ cùng pháo hoa rực rỡ trong bữa tiệc.


Thế rồi sáng hôm sau, Gatsby lái siêu xe mui trần vàng rực, chạy điên cuồng chở Nick vào Manhattan. Lại là nhạc, là vượt qua các xe hơi đắt tiền và nhà giàu mới nổi, hai người băng qua cầu vào trung tâm New York. Camera lùi xa ra toàn cảnh, nuốt gọn cây cầu và lẩn quất dưới nhạc score là giọng của Alicia Key với điệp khúc lừng danh “New York, New York” (Empire State of Mind).


Từ symbolic và mythic, photographic trên trang giấy, Fitzgerald và các nhân vật và thế giới tiêu xài xa ngã ngoại ô New York ngày xưa của mình, đã hoành tráng bước lên màn ảnh 3D trong tiếng nhạc vừa cổ điển vừa đẫm chất đương đại.


World War Z


Đây hình như lần đầu Brad Pitt đóng phim 3D, cho nên chị em nào thích anh Pitt đẹp giai thì rất nên đi xem. Lần cuối anh Pitt được chị em ào ào đi xem là anh ấy đóng Achilles, có 1 đoạn hở mông lúc tắm.


World War Z rất bất ngờ là giản dị, dù là phim hành động. Thật là một phong cách anti Tom Cruise.


Ngay cả Pitt diễn xuất cũng khá giản dị, mọi thứ đều khoan thai bình dị. Gần như không có chỗ nào lên gân lên cốt, dù là phim hành động giật gân câu khách. Thậm chí có đoạn anh này ở căn cứ quân sự Hàn Quốc, đi xem mấy cái xác chết và hỏi cung một tay bị bắt giam. Âm thanh ánh sáng, góc quay đều khiêm nhường cùng ánh mắt, giọng nói và diễn xuất của anh diễn viên này. Phim hành động rẻ tiền, mà đưa các kết nối cảm xúc có chất cinema, đòi hỏi diễn xuất của diễn viên như vậy, thật là sai so với công thức chung, nhưng cá nhân mình rất thích hehe.


Phim có nhiều tình tiết rất hài. Thế giới bị zoobie tấn công. Nước duy nhất cách ly an toàn là bọn Israel. Vì bọn này quá khôn và quái. Tuy nhiên lai rất ngu, vẫn tiếp nhận dân bên ngoài vào (ai quan tâm chính sách nhập cư của Israel sẽ thấy là rất thoáng). Thế là bọn Arap vào được, thoát khỏi Zombie, sướng quá bật loa phường lên cầu nguyện. Zombie trong phim này thì bị kích thích bởi tiếng động nên càng cầu nguyện ầm ĩ nó càng lao vào, thế là toi cái nước Israel. Tóm lại, Israel nếu có tèo thì chỉ tèo do bọn Arap mà thôi. Có một cô Israel thoát được và phải đi với anh Pitt đẹp giai. Nôm na là Do Thái có làm nên trò gì (ở đây là đi cứu thế giới) thì phải đi với Mỹ mà thôi. Ngược lại, anh Pitt đi cùng bao người mà cuối cùng chỉ có cô Do Thái này là đi với anh đến cùng giời cuối đất.


Còn có bọn để chống Zombie, chính phủ bèn nhổ mẹ hết răng 23 triệu dân đi, để khỏi cắn nhau mà lây bệnh. Chắc là Bắc Hàn đây. VN cũng nên làm cách này, nhổ hết lưỡi dân sẽ ngăn được virus dân chủ hehehee. Phim Mỹ nó lặt vặt như vậy, xem rất thú.


Các cô vợ cũng đừng gọi đt lăng nhăng cho chồng. Anh Pitt chỉ vì bị vợ gọi đt bất ngờ mà để lộ tí nữa thì bị Zombie ăn thịt. May quá thoát, nhưng đẩy anh sĩ quan chỉ huy căn cứ vào chỗ chết. Nhiều khi vợ cứ tưởng lo cho chồng mà hóa ra là đẩy ai đó vào địa ngục. Đoạn này hơi giống quả máy nhắn tin của anh cảnh sát cứng đầu trong Die Hard 2.


Phim này cũng giống Deep Blue Sea. Các nhân vật oách, được kỳ vọng cứu tất, đều ngỏm cả. Ở Deep Blue Sea, hai anh chàng giết hết cá mập và sống sót là một anh thợ và một anh đầu bếp suốt ngày cầu nguyện.


Lực lượng do quân đội Mỹ kiểm soát thực sự là bất lực trước Zombie. Các cá nhân cứu thế của phim này toàn là dân sự, UN, WHO, anh Pitt đẹp giai thì là dân thường do đã giải nghệ về hưu ở nhà chăm con. Chuyến máy bay kỳ quặc mang anh Pitt đến đích cũng là dân dụng. Cái này rất đúng kiểu một số phim Mỹ, ca ngợi người dân Mỹ trung lưu. Bọn Mỹ trung lưu giải của nó rộng hơn mình. Bill Gates, Steve Jobs khi là tỉ phú rồi, họ vẫn là những người Mỹ trung lưu. Gates đến giờ vẫn rửa bát sau bữa ăn tối. Jobs lúc sinh thời hàng tuần vẫn tự đi chợ, hằng ngày tự lái xe đến cty và làm việc nhà. Clinton, có lẽ là do quy chế cựu tổng thống, chứ ông này vẫn sống như một trung lưu. Vụ Monica là một cú trung lưu điển hình hehe. Bọn thượng lưu đâu có thế.


Anh diễn viên Pitt ở ngoài đời cũng vậy, cho dù hơi có chút diêm dúa của giới diễn viên đẳng quốc tế, nhưng những gì mà báo chí đưa tin về cuộc sống của vợ chồng anh ấy, thực ra vẫn là trung lưu. Họ vẫn tự làm các việc của gia đình, mà chăm sóc con là việc ưu tiên nhất mực. Trong phim này cũng vậy. Buồn cười nhất là con bé của anh Pitt trong phim, khi được bố sai đi tìm đồ trong lúc nguy cấp, nó tìm ra được 1 cây súng cho bố nó.


Nói chuyện dạy con. Bill Gates giàu và bận như vậy, vẫn kèm con học buổi

tối. Nhờ vậy mà anh ta tìm được các clip dạy học của cái anh lúc đó chưa nổi tiếng lắm là Khan. Sau đó như mọi người biết, gates, bỏ cho anh kia hình như 2 triệu dollar để làm Khan Academy, nay quá nổi tiếng trên toàn cầu. Tất nhiên Khan là một tay trung lưu ở Mỹ.


Ở VN, cũng như các nước XHCN cũ, tầng lớp trung lưu chưa có mấy, lại bị bào mòn bởi phát triển kinh tế thô bạo và bất bình đẳng thu nhập, + an sinh xã hội và hạ tầng cơ sở quá lởm. Tầng lớp này đang bị bào mòn đi nhanh chóng. Sẽ đến lúc mà sẽ bị bào mòn hết, chỉ còn dăm đứa giàu và toàn bọn nghèo.


Lúc đó, nếu có gì xảy ra, sẽ không có ai cứu thế giới đâu.


***


Hôm nay rất nhiều người vào FB để than là FB bị chặn không vào được. Hehehe.


Thấy Mikhail Thổ Quan kể chuyện đại gia Kangnam đi Vietjet vui quá. Mình cũng kể.


Lần đầu đi VJA là ngay khi bọn này mới khai trương đường bay. Hôm ấy bay HN SGN. Ghế sau là một anh, to mồm kinh, lên máy bay là anh ấy bô bô kể chuyện này, nói chuyện kia với cô ngồi cạnh. Toàn kiểu ôi đường băng to quá. Sao chạy trên đường băng xóc thế, chắc đường băng kém. Lúc sau thì bảo hay là do bánh máy bay.


Máy bay cất cánh được một tí thì anh lấy kẹo cao su ra mời xung quanh: cái này thấy bảo cất cánh mình nhai thì đỡ ù tai, mời mọi người. Mình cũng được mời một cái, rất khoái.


Bay được một tí thì anh lại oang oang cái mồm, hết chuyện này đến chuyện kia. Hóa ra cô ngồi cạnh anh cũng chả quen biết gì, mà anh nói chuyện cứ như là quen từ kiếp trước.


Máy bay gần hạ cánh thì có một cô ngồi dãy bên kia, cùng hàng với anh, bị nôn. Nôn hết túi nôn của cô rồi mà vẫn đòi nôn tiếp. Thế là anh này đi các hàng ghế khác, lấy túi nôn về cho cô này.


Máy bay hạ cánh, anh là người đầu tiên đứng phắt dậy lấy hành lý, rồi mở điện thoại gọi cho bạn (chắc ra đón ở sân bay) nói oang oang tiếp. Xuống cầu thang máy bay (không có tunnel), anh tay vẫn cầm alo buôn, tay xách đồ, xăm xăm đi ra … (chắc giống bến xe đò, xuống là đi ra cổng). Nhân viên phải chạy theo kéo lại.


Những người như anh này, làm bạn thì rất thú vị. Vì họ tốt, nhiệt tình, chu đáo và thân thiện. Các tật xấu kia đều có thể sửa được. Cũng như mình ngày xưa thô lậu, bạn bè cũng phải chỉ cho từng tí, từ cách cầm dao nĩa đến cách gọi rượu ở quầy bar. (Trong lời giới thiệu Hoàng Tử Bé bản mới, người ta cho tác giả cuốn này một thú chơi rất mấu là uống cả gin với uống cả tonic). Hoặc cũng như mình đi ăn với bạn, bạn vào quán gọi đồ hết ê cái này lai ới cái kia cứ oang oang. Cũng phải bảo bạn là xung quanh người ta nhìn mình như con khỉ, mày đang không phải ở VN đâu, mày gọi gì thì vẫy lại, nói khẽ thôi, thêm please cuối câu nếu thích (còn không thì thôi).


Mình chả sợ ai nhìn mình như con khỉ, nếu mình làm trò khỉ. Nhưng mà đứa khác làm trò mà mình bị nhìn, thì thôi, xin kiếu. Giống đi nhậu, có thằng nào không chịu uống, thì sau vài vòng phải lịch sự bảo nó biến mẹ đi. Vì cái lúc nhậu sâu sâu rồi, mấy thằng tỉnh nhìn mấy thằng say khác gì xem con khỉ hehehehe.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 02, 2013 06:47

June 21, 2013

Tự do như cánh bướm

(Bài này viết theo đặt bài của Elle VN)


Tôi vẫn nhớ hồi còn là thiếu niên các bạn gái ngồi trong lớp giữa giờ nghỉ tiết hay phàn nàn chuyện làm việc nhà. Chuyện thì khác nhau nhưng về cơ bản nội dung rất giống nhau: “Tao đang định quét nhà thì mẹ tao sai tao quét nhà, thế là tao không muốn quét nhà nữa”.


Lúc tôi lớn hơn chút, vừa lúc Việt Nam bắt đầu mở cửa, những cô gái nước ngoài mặc áo khoác, vừa hóng gió lạnh vừa uống bia chai và nói: Việt Nam thật là một xã hội tự do hậu hiện đại, tao có thể đi qua đường bất cứ chỗ nào, hút thuốc bất cứ đâu và ai cũng có thể vứt rác hay phun nước miếng mỗi khi họ thích.



QQ bạn tôi, lúc đó còn trẻ lắm, rất không thích đi chơi bị mẹ gọi về. Cô bảo tôi: Mày biết không tao sẽ: Lấy chồng để thoát khỏi mẹ tao, rồi bỏ chồng để được tự do.


Tự do là một cái gì đó thật khó nói. Ừ thì “Free as a bird” như là J.Lennon hát trong cái bản thu âm dựng lại nhòe nhoẹt như bóng ma của The Beatles. Nhưng “tự do như cánh chim” thực sự là sao.


Đôi khi không tự do chỉ đơn giản là không muốn làm cái việc mình bị bảo phải làm, dù cái việc ấy đã có lúc mình muốn làm. Nên tự do có lẽ đơn giản là làm cái mình muốn làm mà không có ai khác sai mình làm cái việc ấy.


Rất nhiều năm sau mở cửa, người ta bắt đầu bớt hành xử tự do kiểu vô tổ chức hơn. Ít ra là tham gia giao thông đúng làn đường, dừng đèn đỏ đúng vạch, qua đường đúng chỗ. Đi xem phim biết xếp hàng mua vé. Xem hết phim đèn sáng hẳn mới đứng dậy đi về. Các nhà hàng tiệc cưới đã cấm hút thuốc. Và khi đi bộ ở khu trung tâm, quả thực sẽ rất ngại nếu hút thuốc hoặc vứt dù một cọng rác xuống đường. Thế nhưng ít ai phàn nàn về cái sự bó buộc hiện đại ấy, dù rằng mới chỉ chưa đến mười năm trước, cái sự tự do hậu hiện đại quá ư tràn lan ở đất nước này.


Hay là cái hậu hiện đại, đã bị người ta “chuyển về” các vùng xa xôi trong các chuyến phượt ngày càng ít chất giang hồ mà hơi dư thừa kỹ thuật số. Vả lại ngay cả trong những chuyến phượt giang hồ nhất, cũng chưa chắc những cô gái trong nhóm phượt ấy đã thực sự tự do trong những việc mình làm.


Ở một chiều ngược lại, khi bạn đã chấp nhận và quen thuộc với lối sống có quy tắc của một đô thị hiện đại, thì dù có bất ngờ một mình bạn, một cô gái trẻ thậm chí còn bỡ ngỡ với chính cuộc đời mình, bị quăng vào một đô thị lạ hoắc từ ngôn ngữ đến kiến trúc, ví dụ Thượng Hải, thì chỉ cần mười lăm phút sau khi bị quăng vào, bạn có thể tự tin đi lại trong thành phố lạ hoặc ấy bằng tàu điện ngầm hay xe bus.


Và tất nhiên ở cái thành phố xa lạ ấy một mình, bạn sẽ được làm bất cứ cái gì bạn muốn làm mà không bực mình vì bị ai khác sai bảo.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 21, 2013 08:26

Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.