Nguyễn Phương Văn's Blog, page 21

May 26, 2013

Qui Củ

Phan Văn Hùm, một lãnh tụ đệ tứ ở miền nam, trong trước tác có tên “Vương Dương Minh – Thân thế và Học Thuyết”, có giải thích Qui Củ như sau. Qui: đồ vẽ hình tròn (compas). Củ: đồ để vẽ góc vuông (équerre).


Com-pa, thước kẻ, ê-ke, thì quá là quen thuộc.


Cái chú thích “quy củ” này là chú thích do đoạn văn sau của Vương Dương Minh (viết năm 152x gì đó):


“Lương tri như quy củ. Hình tròn hình vuông số nó vô cùng, không thể biết trước hết. Duy lấy qui củ mà đều vẽ ra được tất cả, chẳng hạn ở một cái nào. Những tiết mục thời biến cũng vô cùng số, không thể biết trước hết. Duy nhờ lương tri mà ứng biến, cũng như qui củ ứng biến những hình tròn vuông”.


Phan Văn Hùm xuất thân nông dân miền nam, nhưng chắc là học giỏi, học đến cao đẳng ở HN. Sau chống Pháp bị Pháp bắt, giam ở Khám Lớn. Rồi đi Pháp du học, lấy cử nhân và thạc sĩ triết ở Sorbonne.


Cuốn “Vương Dương Minh – Thân thế và Sự nghiệp” của Phan Văn Hùm do Tân Việt xuất bản ở Hà Nội năm 1944. Hai năm sau thì ông chết. Bị giết rất bí ẩn (có thuyết nói ông bị Việt Minh ám sát). Nhà Tân Việt này có số sát học giả. Cùng năm 1944 này, họ xuất bản cuốn “Sử ký Tư Mã Thiên” của Nhượng Tống, một trí thức thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học. Năm 1949 thì Nhượng Tống bị giết (cũng được cho là công an mật của Việt Minh giết).


Phan Văn Hùm dùng kiến thức triết phương tây của mình để nhìn vào học thuyết của Vương Dương Minh, đâm rất thú vị.


Ví dụ Vương Dương Minh nói đến tâm và vật, lấy tâm làm gốc: “chủ thể của thân là tâm, phát động của tâm là ý, bản thể của ý là tri, sở tại của tri là vật”, thì Phan Văn Hùm quy đổi qua triết phương Tây, bảo cái Tâm mà Vương tiên sinh nói “là cái mà ngày nay ta gọi là “ý thức” và người pháp gọi là conscience psychologique”.


Tâm và Vật, thì Hùm quy đổi thành quan hệ chủ thể khách thể theo kiểu triết tây: “rapport du sujet et de l’objet”.


Hoặc Hùm viết về lương-tri của Vương tiên sinh: “Nghĩa là, ngoài cái năng lực tri giác sự vật, lương tri còn có cái năng lực tự tri pouvoir d’aperception”.


Rồi có một số chỗ so sánh với Aristotle về cách dạy học, so với Plato về duy ý. Thú vị nhất là hình như Phan Văn Hùm còn định dùng cả giải tích (Descartes) và vi phân (Leibniz, Newton) để giải thích Vương Dương Minh. Trong sách có nói thoáng qua mà không đi vào chi tiết, không hiểu lí do gì. Chắc là tính để viết tập hai, không ngờ chưa viết thì đã bị giết trên đường đi công cán.


Chỗ so sánh thú vị nhất, khi phân tích học thuyết của Vương bị coi là “ngụy học” và bị cấm vì nó trái với học thuyết chủ đạo lúc bấy giờ là Chu Hy, thì Phan Văn Hùm, một người được đào tạo viề triết phương tây, lại theo đệ tứ cộng sản, nói về Khổng giáo của Chu Hy như sau:


“Châu Hy phát xiển đạo Khổng, đã đưa nó về đường duy vật tiến hóa luận (évolutionnisme matérialiste) tìm lý nơi sự vật”.


Tự nhiên lại càng hiểu hơn tại sao chủ nghĩa Mác Lê lại có thể bén rễ và phát triển dữ dội ở miền đất đậm Nho. Và thấy may cho Nhật bản vì đã sớm Thoát Á. Thấy may cho Singapore vì chạy ngược lại về với Chính trị Đầu Sỏ (Quả đầu chế, Oligarchy của Plato).


Vương Dương Minh chắc được nhiều trí thức Việt hâm mộ, lúc nào cũng viết rằng ông tuy là nhà quân sự tài năng, nhưng toàn từ chối cầm quân đi đánh Giao Chỉ (cộng điểm cho Vương tiên sinh). Phan Văn Hùm thì bảo ngược lại, tuy vẫn ca ngợi Vương tiên sinh, nhưng lại cho rằng Vương không cầm quân đánh Giao Chỉ vì thấy chưa được thời cơ. Khi đã dẹp xong đạn loạn Thần Hào, Vương Dương Minh vẫn tuyển quân.


“Có người hỏi: “Loạn Thần Hào nay đã dẹp xong, còn tìm vũ sĩ làm chi?”, tiên sinh đáp: “Ta nghe xứ Giao Chỉ có việc khó khăn trong nước, xuất kỳ bất ý đánh úp lấy, cũng là cơ hội nên làm”. Mười bảy năm sau đó (1537) Mặc Đăng-Dong soán vị nhà Lê. Người ta truyền rằng tiên sinh có dự mưu sự, mà giờ đây đã tính kế rồi”.


Đọc đoạn này, ngẫm việc xưa mà nghĩ đến ngày nay.


Quay lại với Qui-Củ. Từ thời nhà Minh, như Vương Dương Minh viết, thì có vẻ như người Hoa đã biết dùng compas và ê ke để dựng hình từ trước đó rất lâu. Trong sử sách thì nhà Minh rất giỏi dùng pháo binh để đánh nhau.


Thế nhưng sử cũng nói, các khẩu pháo gọi là thần cơ ấy, là do nhà Minh đánh Hồ Quý Ly mà cướp được, rồi mang về TQ mà sao chép. Sau đó mới làm được súng bằng đồng. Rồi sau đó  nữa mới mua súng của người Bồ Đào Nha mà sao chép. Tức là về công nghệ quân sự, lúc đó khả năng là ta tiến bộ hơn tàu một vài bước.


Về triết học Trung Hoa, Phan Văn Hùm có viết như sau:


Lão Trang, tuy có nhuốm màu tư biện (une teinte de spéculation) mà về vấn đề vũ trụ, về vấn đề nhân sinh, về vấn đề tư duy, chỉ còn ở trình độ trẻ con bập-bẹ chưa nên lời của triết học. Sánh với Ấn Độ hãy còn kém xa, nữa chi là nói đến Âu Châu, La Mã, Hy Lạp.


Đạo Khổng, về phương diện tư biện, còn sụt xuống dưới học thuyết Lão Trang mấy từng. Nó chỉ là một mớ tư- tưởng thật-tiễn, một nền văn cách-ngôn (Littérature gnomique) về xã hội, nhân tâm, chưa thành hệ thống khít khao vững vàng, tới Vương Dương Minh nó co-rút lại mà tự thủ, thật là “trinh liệt”.


PS:

+ Nhà Tân Việt là một nhà xuất bản rất quái ở Hà Nội. Số phận của nó rất mơ hồ, chỉ biết rằng ông chủ nhà này là một quái nhân ở miền tây nam bộ mò ra tận HN để mở nhà xuất bản. Số phận ông này cũng rất mờ ảo, không ai rõ ông ở đâu ra và kết cục thế nào. Chỉ biết ông có một nhà sách ở quê (để bán sách) và một nhà xuất bản ở HN để in sách. Tên ông là Lê Văng Văng


+ Trí Vương, một dịch giả nho nhỏ, vừa tra hộ baidu và nói là không tìm ra thông tin Tướng Vương Dương Minh từ chối cầm quân đánh VN. Nhưng có làm thơ về Giao chỉ.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 26, 2013 21:43

May 22, 2013

Cách vật trí tri

Có nhiều bản dịch nếu chịu khó ngồi đối chiếu với bản gốc sẽ thấy sai sót tùm lum. Nhưng chả ai ngồi soi cả. Lý do thì nhiều, nhưng một trong những lý do quan trọng là do bản dịch dùng tiếng Việt rất nuột. Đọc quá trôi, đầy cảm xúc, đâm ra chả ai còn muốn ngồi soi lỗi dịch.


Tiếng Việt biến đối không ngừng, cùng lúc báo chí sách vở sử dụng tiếng Việt ngày càng tệ, cho nên để viết tiếng Việt thật nhuyễn thực là khó. Ngoài việc có năng khiếu thì phải luyện công suốt ngày.


Với sách dịch. Trong các công đoạn biên tập sách dịch, người biên tập đầu (so với bản gốc) thì chưa chắc đã quan trọng bằng người biên tập tiếng Việt cuối cùng (chỉ biên tập tiếng Việt). Bởi xét cho cùng, bạn đọc “mua” và “dùng” cái bản tiếng Việt ấy chứ không phải mua và thưởng thức bản gốc. (Tất nhiên dịch sai vẫn là một câu chuyện khác).


Với các sách quốc văn. Ví dụ cuốn “Ai và Ky”, nếu bạn đọc để ý, thì tiếng Việt rất nuột nà, và là cuốn sách hiếm hoi gần như không có lỗi. Đó là nhờ tài biên tập chứ không phải công tác giả. Biên tập cho Ai và Ky là nhà thơ Phan Đan, một người không chỉ giỏi tiếng Việt mà còn giàu kiến thức. Mọi người có thể tìm đọc thơ của Phan Đan trên Tiền Vệ. Hoặc nghe hai bài hát một thời là hit của Hà Nội. Hai bài này đều thơ Phan Đan, nhạc Đặng Hữu Phúc. Đó là Trăng Chiều và Lời Ru Mùa Đông.


Do không quen nhiều người giỏi tiếng Việt, nên mỗi khi phải viết cái gì đó quan trọng, tôi thường phải gửi cho Phan Đan sửa giúp. Gần đây tôi viết lời giới thiệu và chú giải cho Ngũ Luân Thư của Miyamoto Musashi (giữa tháng 6 xuất bản). Nhà thơ  Phan Đan đã biên tập lời giới thiệu và chú giải này và đã  biến vịt thành thiên nga.


Sau mỗi lần được biên tập, đọc lại, thấy mình lại học thêm được khối điều.


Trong lời dẫn nhập, Kiếm Thánh Musashi có nhắc đến “cách vật trí tri”. Tôi có làm chú thích cho cái này và gửi nhờ nhà thơ Phan Đan biên tập.


Dưới đây tôi đặt hai đoạn chú thích ngắn về “cách vật trí tri”. Trước là đoạn đã qua tay biên tập của Phan Đan. Sau là đoạn gốc ngô nghê của tôi. Coi như chuyện hậu trường biên tập, kể ra để mọi người đọc cho vui.


I. Cách vật trí tri (đã biên tập).


Khi thực hiện cuốn Ngũ Luân Thư, chúng tôi có tìm hiểu các dòng tư tưởng Á Đông cùng thời cũng như trước thời Musashi sống, và có thể thấy Musashi phần nào chịu ảnh hưởng của triết gia Vương Dương Minh (1472-1529).


Vương Dương Minh (王陽明), tên huý là Thủ Nhân (守仁), tự là Bá An (伯安), là nhà chính trị, nhà triết học, nhà tư tưởng xuất sắc thời Minh (1386-1643) ở Trung Quốc. Ông là người văn võ song toàn, thâm cứu Nho học và Đạo học, luyện tập phép dưỡng sinh của Đạo giáo và nghiên cứu cả Phật giáo. Đồng thời, ông còn dành thời gian chuyên tâm học binh pháp và tập luyện võ đạo.


Vương Dương Minh theo tâm học của Lục Cửu Uyên, coi tâm, đạo và trời là một, nếu hiểu rõ tâm, thì cũng hiểu được đạo và trời  (Tâm tức đạo, đạo tức thiên, tri tâm tất tri đạo tri thiên). Ứng dụng tâm học về mặt đạo đức, ông chủ trương “trí lương tri” và “tri hành hợp nhất”. “Trí lương tri” là sự hiểu biết tự nhiên của tâm, mà cũng là lẽ trời (thiên lí): “Tâm chi bản thể tức thiên lí dã, thiên lí chi chiêu minh linh giác sở vị lương tri dã” (Bản thể của tâm là lẽ trời, sự nhận hiểu lẽ trời một cách sáng láng linh diệu là lương tri). Thuyết “trí lương tri” của Vương Dương Minh kế tục ý niệm “lương tri lương năng” của Mạnh Tử , nhấn mạnh “trí”. Hệ quả của “trí lương tri” là “tri hành hợp nhất”. Ông giải thích: “Biết là tri của tâm, cảm xúc là hành của tâm, việc làm là thành tựu từ tri và hành của tâm.”  Với Vương Dương Minh, tu dưỡng là nhằm tìm lại cái tâm, để đạt cảnh giới “vạn vật nhất thể”, do đó, chữ “lương tri” của ông bao hàm ý nghĩa “tri hành hợp nhất”.


Năm 1504, ông làm quan ở Bộ Binh. Ông chú trọng dùng quân giỏi chứ không cốt đông. Tài năng của ông thể hiện rõ trong nhiều chiến dịch quân sự và phương pháp tổ chức quân đội.


Vương Dương Minh tiếp xúc với tư tưởng “cách vật trí tri” của Khổng học từ sớm. “Cách vật trí tri” được trích từ sách Đại Học của Tăng Tử, một trong Tứ thư của Nho giáo. Cách vật là tiếp cận và nhận thức sự vật, trí tri là đạt đến tri thức về sự vật. “Cách vật trí tri” đã được một số triết gia trước Vương Dương Minh chú giải. Trịnh Huyền đời Đông Hán giải thích: “Cách là đến cùng, vật là sự vật”. Từ đời Tống về sau, có nhiều cách giải thích khác. Phái Trình – Chu đời Tống nhấn mạnh rằng tri thức vốn có ở con người, nhưng ảnh hưởng của vật dụng làm cho mất đi, cần phải “tức vật cùng lí” để lấy lại. Trình Di giải thích: “Cách là xét đến cùng, vật là lí. Nghĩa là xét đến cùng lí vậy” (“Nhị Trình di thư” – cuốn 18). Chu Hy giải thích: “Muốn đạt đến cái biết của ta thì căn cứ vào vật và xét đến cùng cái lí của nó” (“Tứ Thư” – chương cuối tập chú). Vương Dương Minh nghiền ngẫm “cách vật trí tri’ để rồi ngộ ra những tầng nghĩa khác, từ đó xây dựng tư tưởng riêng của mình. Ông cho rằng chánh đạo nằm trong tâm con người chứ không nằm ở sự vật: “Chủ thể của thân là tâm, phát động của tâm là ý, bản thể của ý là tri, sở tại của tri là vật.” Tâm đã biết phân biệt, ắt phải biết thiện ác, để hành xử theo cái thiện.


Vương Dương Minh viết:


Vô thiện vô ác thị tâm chi thể
Hữu thiện hữu ác thị ý chi động
Tri thiện tri ác thị lương tri
Vi thiện khử ác thị cách vật


(Không thiện không ác là thể của tâm
Có thiện có ác là sự động của ý
Biết thiện biết ác là lương tri
Làm thiện bỏ ác là cách vật)


Các học thuyết của Vương Dương Minh truyền bá trong triều đại nhà Minh ở Trung Quốc, sau đó qua Nhật Bản, có ảnh hưởng sâu rộng ở cả Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Dương Minh học (阳明学) còn tác động trực tiếp đến phong trào Duy Tân của Nhật Bản.


Chúng tôi cho rằng Musashi đã nghiên cứu và chịu ảnh hưởng những tư tưởng đặc sắc của Dương Minh học.


***


II. Cách vật trí tri (trước khi biên tập).


Khi làm thực hiện cuốn Ngũ Luân Thư, chúng tôi có tìm hiểu các dòng tư tưởng cùng và trước thời mà Musashi sống. Chúng tôi có cảm giác Musashi chịu một phần ảnh hưởng của triết gia Vương Dương Minh (1472-1529).


Vương Dương Minh ((王陽明, tên huý là Thủ Nhân) là một chính trị gia, một nhà triết học và là một vị tướng bách chiến bách thắng. Ông là một nhân vật có ảnh hưởng với triều Minh (1386-1643) và là vị tướng từ chối đem quân đánh Việt Nam. Vương Dương Minh nghiên cứu và tập luyện võ đạo, cũng như nghiên cứu Nho, Lão và tu Tiên.


Vương Dương Minh theo Tâm Học, coi tâm-đạo-trời là một, hiểu tâm thì cũng hiểu được đạo và trời (tâm tức đạo, đạo tức thiên, tri tâm tất tri đạo tri thiên). Ông là cha đẻ thuyết “Trí lương tri” (Biết lương tri). Các học thuyết của Vương Dương Minh có ảnh hưởng lớn trong triều Minh, sau được truyền bá qua Nhật Bản và có ảnh hưởng đến phong trào Duy Tân của nước này.


Vương Dương Minh tiếp xúc với “cách vật trí tri” trong sách Đại học của Khổng Tử từ sớm, theo đuổi cách hiểu của “cách vật” theo nghĩa đến với sự vật để có hiểu biết, để rồi sau này ngộ ra ý nghĩa khác của “cách vật trí tri”, từ đó xây dựng tư tưởng riêng của mình. Ông cho rằng “cách vật” là thấy sự tồn tại chính đáng theo chân đạo của vật. Chánh đạo nằm trong tâm con người chứ không nằm ở ngay sự vật.  Ông nói “Chủ thể của thân là tâm, phát động của tâm là ý, bản thể của ý là tri, sở tại của tri là vật.”


Đầu thế kỷ XVI ông đưa ra lý thuyết  “Tri Hành Hợp Nhất” (知行合一) vận dụng các trải nghiệm và phát huy kiến thức nghiên cứu từ Lão Tử ( “Vạn Vật Nhất Thể“ (万物一体)). Ông giải thích ““Biết là Tri của Tâm, cảm xúc là Hành của Tâm, việc làm là thành tựu của Tri và Hành của Tâm.”


Tâm đã biết phân biệt, ắt phải phân biệt thiện ác, để hành xử theo cái thiện. Ông viết thơ:


Vô thiện vô ác thị tâm chi thể
Hữu thiện hữu ác thị ý chi động
Tri thiện tri ác thị lương tri
Vi thiện khử ác thị cách vật


Có người dịch:


Không Thiện không Ác là thể của Tâm
Có Thiện có Ác là sự động của Ý
Biết Thiện biết Ác là LƯƠNG TRI
Làm Thiện bỏ Ác là cách vật


Tư tưởng Dương Minh Học (阳明学) sau này có ảnh hưởng ở Nhật. Tư tưởng ấy có nói: “Tâm chi bản thể tức thiên lí dã, thiên lí chi chiêu minh linh giác sở vị lương tri dã”. Có người dịch là “”Bản thể của tâm là lẽ trời, sự nhận hiểu lẽ trời một cách sáng láng linh diệu là lương tri”.


Chúng tôi phỏng đoán Musashi có nghiên cứu và chịu ảnh hưởng trực tiếp tư tưởng Dương Minh Học này.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 22, 2013 07:55

May 17, 2013

Tôi nghĩ là tôi có cách tiếp cận vấn đề khác chị

Trên mạng đang lan truyền thư được cho là của Nguyễn Thị Từ Huy gửi Đàm Thanh Sơn yêu cầu Cùng Viết Hiến Pháp (hienphap.net) rút bài của Từ Huy xuống.


Có một câu, được cho là của Đàm Thanh Sơn, viết cho Nguyễn Thị Từ Huy: “Tôi nghĩ là tôi có cách tiếp cận vấn đề khác chị”. 


Thực tình, từ ngày hienphap.net đưa ra kiến nghị chính thức, tôi đã không vào xem hienphap.net nữa. Lý do thì cũng như những người khác thôi: “Đề xuất thế thì còn gì là hiến pháp, thà không đề xuất còn hơn”.


Nhưng đó là vì tôi, một vina điển hình, vốn lạc quan tếu, lúc nào cũng mơ mộng về đất nước, thoắt cái thành kinh tế tri thức, thoắt cái làm vi mạch bán cho cả thế giới cứ như thung lũng silicon, thoắt cái dân chủ, dân quyền như Mỹ, thoắt cái là thể chế vững bền như Anh. Của đáng tội, với cái đất nước mọi từ quan đến dân này, lấy đâu ra. Thôi cứ từ từ làm nông cho tốt, thủy sản cho ngon, sống tốt với nhau, chăm học chăm làm…rồi văn minh nó sẽ đến.


Cho nên dù biết cái đề xuất của hienphap.net, về lý trí thuần túy mà nói, nó thực sự là một đề xuất khả thi, sát thực tiễn, là một cái có thể thực sự thúc đẩy từng cái nhỏ nhỏ khác của thế chế dịch chuyển theo hướng tích cực lên, nhưng mà tình cảm vẫn cứ bảo mình quay lưng. Lạc quan tếu nó làm người ta phi lý trí và hão huyền thế đấy.


Nhưng nếu mà tôi có bài viết trên hienphap.net, liệu tôi có đòi rút bài mình xuống không? Tôi nghĩ là không.


Lý do thì đơn giản thôi. Có hai lý do.


Một là biết gan mình bé, phận kém tài hèn, ra đường thấy dân phòng còn run bỏ mẹ, cả đời đâu dám làm cái gì, đâu dám hành động cái gì. Nên thấy có ai dám hành động, dám tổ chức cái gì đấy mà đúng cái mình chỉ mơ mới dám làm, thì sẽ cố gắng ủng hộ. Ủng hộ có nhiều cách, cách dễ nhất là góp với những người hành động một tiếng nói. Tổ chức trang hienphap.net cũng là một hành động mà mình nên góp một tiếng nói vào.


Hai là, ai cũng biết rằng đa nguyên là cội nguồn của phát triển tự nhiên, từ sinh học đến chính trị học. Ai cũng hô hào đòi đa nguyên dân chủ. Nhưng hô thế thôi, chứ hễ có ai nói khác mình, nói ngược mình là phản ứng liền, là tẩy chay, là đòi đi chỗ khác hoặc đuổi người ta ra chỗ khác.  Lúc nào cũng bảo phải tôn trọng sự khác biệt, nhưng là bảo người ta tôn trọng khác biệt của mình thôi, còn đến lúc người ta khác mình, tư nhiên mình chả thấy cần phải tôn trọng họ hehehe. Thế nên Vina mới có câu: lời nói đọi máu. Đến lời nói mà dân Vina còn chả đa nguyên được với nhau. Làm sao mà đa nguyên được cái khác.


Mình đã không dám hành động, mà có người dám hành động, vì cái chung, cái lớn lao, cái xa xôi, thì dù họ có khác quan điểm của mình, thì mình vẫn nên góp với họ một tiếng nói. Nếu tiếng nói cũng không góp được, thì cũng chẳng nên ném đọi máu vào mặt nhau làm gì. Đời còn dài, lưỡi còn nhiều việc phải làm, không nên lãng phí.


Xưa nay tôi vẫn dát chết, chẳng dám làm gì. Ai có hỏi ý tưởng là gì, tôi bao giờ cũng chỉ nói: “Thôi mình cứ One Voice”. Góp một tiếng nói. Góp một chữ viết. Đại khái thế thôi. Không cho góp cũng cứ góp, góp từ ngay FB và blog của mình.


Thư Đàm Thanh Sơn trả lời Từ Huy.


Chuyện Hiến Pháp.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 17, 2013 04:19

May 12, 2013

Âm lịch Việt Nam và chuyện Mồng –Rằm

Tại sao có ngày Sóc – Vọng, lại có ngày Mồng một – Mồng rằm? Mà không có ngày mồng mười một, mồng mười hai?


Lát sẽ nói.


Tết rồi tôi về nhà, chui vào thư viện tìm cuốn Lịch và Lịch Việt Nam của Hoàng Xuân Hãn, bản in ở Pháp, rất lâu rồi (Tập san xã hội số đặc biệt). Mà tìm mãi không ra. Hồi bé đọc cuốn này chả hiểu gì, đến lúc muốn tìm hiểu lại thì không có sách. Cay thật. Nhân tiện, âm lịch là món cực kỳ phức tạp, bỏ hết mấy cái “phù thủy tính” của âm lịch đi thì nó vẫn rất là khoai, vì nó không phải lịch mặt trăng thuần túy (dựa theo chu kỳ tự nhiên và khách quan của tự nhiên) mà có lai tạp cả với lịch mặt trời (khí hậu và mùa, quỹ đạo elip của quả đất, góc nghiêng mặt phẳng quỹ đạo này nọ, do con người tính toán).


Hồi học cấp 2, tự nhiên có năm mà gia đình các bạn cùng lớp ăn hai cái Tết âm lịch. Các bạn ấy bảo là (chắc do bố mẹ các bạn ấy giải thích thế): nước mình ghét Tàu nên đổi lịch âm, cho khác Tàu, nên cái tết đúng là cái tết theo tàu, cách sau tết ta 1 tháng.


Rồi sau này nghe chuyện Mậu Thân đánh nhau phối hợp sai vì Tết Bắc lệch Tết Nam.


Hôm nay lò dò đi chợ Book Sale (bán sách cũ), lần này làm ở Ty Audio Lý Tự Trọng. Mua được cuốn “Tìm hiểu âm lịch nước ta” của Nguyễn Xiển, Nguyễn Mậu Tùng, Lê Minh Triết, Lê Thành Lân. In năm 1985. Tính mua tặng Quốc Anh. Về nhà đọc xong quyết định sẽ giữ, không tặng nữa.


Cuốn sách này có lẽ là một cuốn khoa học thường thức, nhằm giải thích cho nhân dân cả nước về lịch pháp của nước ta, cũng như giải thích cho nhân dân về việc tại sao có tới 2 cái Tết vào năm 1985.


Ngoài các lý do khoa học (kinh độ, múi giờ, lịch tây lịch ta), lý do lịch sử (lịch của người Việt cổ, người Mường, người Chăm và lịch Tàu do bị đô hộ quá lâu, rồi thời Nam Bắc triều, thời Trịnh Nguyễn phân tranh) thì còn tính pháp lý nữa.


Năm 1967 nhà nước ban hành quyết định 121-CP ngày 8-8-1967 để cải cách lịch. Cải cách ở đây không phải là đổi phương pháp tính (lịch pháp) mà là vị trí địa lý của ta không có giống tàu, nên không thể theo Tàu mãi được.


Từ năm 1968 Việt Nam dùng lịch cải cách. Nôm na là bỏ âm lịch cũ (theo tàu) và dùng âm lịch mới. Theo cách tính mới thì có hai năm Việt Nam có Tết sớm hơn lịch cũ một ngày là hai năm 1968 (Tết Mậu Thân) và 1969 (Tết Kỷ Dậu), một năm có Tết sớm hơn hẳn một tháng là năm 1985 (Tết Ất Sửu). (Trong lịch sử, từ năm 1644 đến 1813 có 9 lần Tết của mình khác tết Tàu.


Trong bài của Nguyễn Xiển, có nhấn mạnh: gọi lịch ta thay vì gọi lịch Tàu, cũng như là gọi dương lịch là lịch Tây, không có gì là bài ngoại. Ông cũng có nhắc đến việc Trầm Quát (thế kỷ 11) cải cách lịch Trung Quốc theo dương lịch, loại bỏ âm lịch hoàn toàn, gọi tên là Thập Nhị Khí Lịch nhưng không những không được dùng mà còn bị tội khi quân.


Không chỉ đăng bài giải thích về phương pháp tính lịch, cuốn sách bé xíu này còn đăng mấy bài ngắn ngủn, trích lại từ các tạp chí dân tộc và khảo cổ học. Có bài đăng từ năm 1974.


Có một bài lần theo lịch của người Việt cổ, giải thích chữ Rằm đến từ lịch cổ và tiếng nói cổ phương nam, cụ thể là của người Chàm: ranam có nghĩa là bắt đầu 15 ngày tối, tức là hạ tuần. Ranam trong tiếng Chàm, Klam trong tiếng Banar, Kalam tiếng dân đảo Calimantan Indonesia, Kelam tiếng Malay: đều cùng nghĩa. Ranam, Klam đã thành Rằm trong tiếng Việt.


Để giải thích chữ Mồng, thì họ còn lần về thời vua Hùng. Họ làm nghiên cứu kinh lắm, lấy trống đồng Hoàng Hạ ra làm đồng hồ măt trời, đo đạc ròng rã 2 năm. Đại khái thời vua Hùng thì hệ giờ là 10. Đêm năm canh, ngày năm khoảng gọi là năm giờ ngày.  Mỗi giờ ngày lại chia 10 ra, gọi là chắc mòng hoặc chục mòng. Đếm là 1 mòng, 2 mòng, …10 mòng. Sau này để đếm ngày thì người Việt cũng chỉ đếm từ mồng 1 đến mùng 10.


Cuốn sách này của NXB Khoa học và Kỹ thuật, in 20 ngàn bản, khổ 12×19, giá bán 12 đồng. Hôm nay do may mắn mà có được.


PS:


+ Trước 1975 có lẽ miền nam dùng lịch cũ nên Tết Mậu Thân giao thừa trễ hơn ngoài bắc một ngày).


+ Tháng Một, Chạp, Giêng, Hai …đến Mười là cách gọi tháng Âm lịch (theo âm lịch của Tàu). Tháng 11 âm lịch là tháng Tý (bắt đầu 12 con giáp, địa chi, nên gọ là tháng Một. Tháng Chạp là chạp mả. Giêng là gọi trại từ chữ Chính.


(Nên nếu dịch văn tây mà có lịch, mà dịch là tháng Giêng, là không đúng lắm, tất nhiên dịch thơ có tý việt hóa Tháng Giêng ở Paris thì chắc cũng được).



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 12, 2013 06:01

May 10, 2013

Linh tinh sách

Dưới đây là ba bài ngắn đều là về sách. Bài đầu là từ một status ngắn (từ FB) về cuốn sách đang ở hạng nhì danh mục sách bán chạy Tiki. Hai bài tiếp theo là một bài trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần và một bài thì ngược lại: phỏng vấn dịch giả Phạm Nguyên Trường cho báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần.


1). Sách của Jun Phạm: Nếu như không thể nói nếu như


Làm sách, xét đơn thuần về kinh doanh, thì cuốn sách của Jun Phạm  hiện đang đứng thứ 2 trên bảng xếp hạng của Tiki là một cuốn sách tốt. Từ hôm được phát hành đến giờ là 6 tuần, mỗi tuần bán được khoảng gần 1000 cuốn.


Trong khi sách dịch thì khá là vất vả: đàm phán mua bản quyền, dịch, in. Bán chậm (cả năm bán được vài ngàn, cuốn nào suất sắc thì cả năm bán được tầm tám ngàn). Lại suốt ngày bị chửi là dịch ngu, dịch sai, dịch giả là con bò, biên tập viên dốt như con lừa. Thì làm sách quốc văn như vậy, có lẽ là một nỗi niềm khoan khoái của đơn vị xuất bản.


Hôm Jun Phạm ra mắt cuốn sách này, bắt đầu lúc 2 giờ trưa ở một quán cà phê, trời nắng chang chang, bạn 5xu vì nỗi tò mò ghê gớm đã đến dự. Trời, fan của bạn Jun Phạm này xếp hàng rồng rắn lên mây cả tiếng đồng hồ dưới nắng để vào xin chữ ký. Mà có được vào đâu. Xong lễ ra mắt (kéo dài cả tiếng), mình chen mãi mới ra được thì vẫn thấy xếp hàng dài dưới nắng. Đến dự mới biết Jun Pham này là người mẫu, ca sĩ của nhóm nhạc gì đó, do Ngô Thanh Vân đỡ đầu, bạn này thích viết văn, nên sáng tác cái truyện này. (Quên mất, khách mời dự lễ ra mắt, toàn các ngôi sao teen teen, vừa xinh vừa ăn mặc rất hay các bác nhé, mình đứng ở cuối phòng, nuốt nước bọt nhiều quá về nhà cổ họng sưng vù).


Những cuốn sách như vậy có một số cái hay.

+Thứ nhất nó kích thích chuỗi cung cấp, từ in ấn đến phát hành, thu tiền.

+Thứ hai là nó đã “bắt” một số kha khá các bạn trẻ có lẽ chưa bao giờ đọc sách, lần đầu mua một cuốn sách và đọc. (Các bạn này có một phần khá lớn là học sinh cấp II, đi xe bus đến dự lễ ra mắt sách. Các bạn ấy còn tự vẽ sơ đồ địa điểm ra mắt sách, giờ giấc, chỉ dẫn đi đường nào, đi xe bus số mấy, rồi đưa lên FB).

+ Thứ ba: nó cho thấy rằng văn hóa đọc có lẽ khác các bác nói trên báo nhiều lắm. Văn hóa đọc ở ta, nó đơn giản, bình dân và …trẻ hơn nhiều.


 


2). Trả lời phỏng vấn trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần: Cứ nghĩ sách là một sản phẩm tiêu dùng bình thường


* Vậy sau “hơn mười năm, lúc nhập sách, lúc bán sách, lúc in sách, lúc làm tác giả”, anh thấy văn hóa đọc thời nay ra sao?


- Tôi nghĩ nên hạn chế sử dụng cụm từ “văn hóa đọc” vì nó có thể làm người ta có suy nghĩ thiên lệch về việc đọc sách, nhất là có cảm giác đọc sách là một việc sang, còn cuốn sách ắt phải có hàm lượng tri thức – thẩm mỹ cao, người đọc cũng phải là người “cao” hơn bình thường. Nên đơn giản gọi việc đọc sách là đọc sách, cũng nên coi sách như một sản phẩm tiêu dùng bình thường. Còn cứ nâng mãi cái việc đọc lên thành “văn hóa đọc” thì cũng sẽ còn mãi những phàn nàn rằng “văn hóa đọc” đi xuống nhiều lắm.


Và khi coi sách là một sản phẩm tiêu dùng bình thường với các chủng loại hoặc hạng mục sản phẩm khác nhau, từ sách văn học, lịch sử hay triết đến vô vàn các loại sách giải trí, bồi dưỡng tâm hồn, dạy kỹ năng cho thanh niên… thì ta sẽ thấy một thực trạng khá thú vị. Nếu như ai đó cho rằng “việc đọc” đang đi xuống thì sẽ lý giải làm sao khi thị trường hàng giả (sách giả) vẫn tồn tại mạnh mẽ, sách bản mềm miễn phí có thể tìm và sao chép đầy rẫy trên mạng? Nếu “việc đọc” không có sức sống tự thân mạnh mẽ, chắc hẳn sẽ không tồn tại thị trường sách lậu và sách sao chụp miễn phí trên mạng.


Và đặc biệt hơn nữa, sản phẩm sách dường như chỉ có thị trường và kênh phân phối ở các đô thị, còn vắng bóng ở tỉnh nhỏ và nông thôn. Phải chăng không có “người tiêu dùng sách” trong số hàng chục triệu người dân sống ở nông thôn? Hay không có kênh phân phối hữu hiệu nào để mang sách đến cho người tiêu dùng ở nông thôn? Hay giá sách quá cao so với thu nhập của họ?





Các nhà xuất bản lớn của VN trước đây rất lâu đều có những “con mắt xanh”, tìm kiếm tài năng viết, nuôi nấng hỗ trợ tài năng ấy phát triển, nên mới có những cây bút riêng, dòng sách riêng. Những nhà văn hàng đầu của VN một thời đều có thể nương tựa vào một nhà xuất bản để yên tâm viết, vì có nhà xuất bản đằng sau. Các nhà xuất bản hiện nay rất ít nơi có cây viết riêng của mình, thứ nhất vì hiếm “mắt xanh”, thứ hai cũng hiếm ai can đảm “nuôi” người viết, can đảm làm bàn đạp cho họ.



* Hoặc tệ hơn nữa: không có sản phẩm sách phù hợp với những người tiêu dùng ấy?


- Cũng với câu hỏi này, chúng ta có thể tiếp tục tò mò: ngay ở những đô thị lớn, phát hành sách có thể hiện diện đến tận địa bàn quận, sao vẫn thiếu vắng những người tiêu dùng sách trong giới tiểu thương, công nhân…? Họ không sẵn lòng chi tiền để mua mỗi năm một, hai cuốn sách mỏng cho mình hoặc con mình? Hay không có sản phẩm đọc phù hợp với họ?


Tại những kỳ hội sách đầu tiên hoàn toàn thiếu vắng các công ty tư nhân làm sách, truyền thông. Những kỳ sau thì xuất hiện rất nhiều công ty làm sách và họ đều theo đuổi những dòng sản phẩm riêng rất thú vị. Hội sách năm nay lại khác, các công ty làm sách bắt đầu chuyển sang làm thêm các dòng sản phẩm của nhau. Công ty trước đây chuyên sách văn học nay làm thêm sách quản trị kinh doanh, công ty làm sách quản trị kinh doanh giờ lại làm cả sách kỹ năng…


Về lý thì một nhà sản xuất được quyền và rất nên đa dạng hóa sản phẩm của mình để khách hàng của họ có thêm lựa chọn. Nhưng đó phải là một thị trường đủ lớn, và sự đa dạng hóa không có nghĩa là “cắn” vào thị phần của nhau. Nhưng thị trường sách vẫn quẩn quanh ở đô thị lớn, lượng khách hàng mua sách thường xuyên tăng trưởng rất chậm so với tăng trưởng dân số trong suốt mấy chục năm qua.


Có vẻ như các công ty xuất bản nhảy qua làm các dòng sách của nhau chẳng qua vì lười và sợ mạo hiểm, không dám khai phá thị trường mới, khách hàng tiềm năng mới. Không lo tìm sản phẩm mới cho người ta mà cứ thấy mảng nào sẵn ngon ăn là nhảy vào làm. Thanh niên ở nông thôn, tiểu thương ở thành thị hiện nay muốn đọc gì và hiện phải đọc cái gì, những người làm xuất bản có biết không?


* Ðiều gì khiến anh nghĩ thị trường sách đang quẩn quanh?


- Lượng sách xuất bản và phát hành đang tăng lên về số lượng. Các số liệu từ Cục Xuất bản, Fahasa và các nhà sách cho thấy có sự tăng trưởng về số tựa sách và tổng số lượng bản sách được tiêu thụ. Nhưng các nhà phát hành hình như đang thu nhỏ thị trường về mặt địa lý, họ dồn sức vào khu vực đô thị. Các nhà xuất bản không phát triển được thêm đối tượng khách hàng mới. Thậm chí như tôi quan sát ở hội sách và các cửa hàng sách, người đi mua sách hầu hết là người trẻ và là học sinh, sinh viên. Những người mua sách ở độ tuổi trên 35 có vẻ ít dần đi. Những người lao động, công nhân viên chức, thậm chí cả giảng viên, cũng mua ít sách đi so với trước đây. Ít đi, ở đây tôi muốn nói là số lượng người mua sách, chứ không phải số sách một người mua hằng năm.


* Anh có nghĩ vấn đề nằm ở giá của sách?


- Tất nhiên với bất kỳ sản phẩm nào thì giá bán cũng là vấn đề. Nhưng với sản phẩm sách thì giá bán không phải là yếu tố ảnh hưởng lớn đến quyết định của người mua. Nếu người tiêu dùng thấy cuốn sách tốt, có ích, người ta sẽ mua, lúc đó giá bán chỉ là một phần. Có nhiều lý do quyết định việc mua một cuốn sách, ví dụ nhà sách gần, tiếp cận thuận tiện. Hoặc đơn giản là vì thói quen, người ta từng một lần mua được một cuốn mà về nhà đọc thấy có ích hoặc thích, họ sẽ tìm cuốn thứ hai.


* Theo anh, thị trường sách của VN đang thiếu gì?


- Quay lại việc coi sách như sản phẩm tiêu dùng bình thường, bạn đọc là những khách hàng tiêu dùng bình thường, thay vì phát triển các dòng sản phẩm cao cấp như triết, lịch sử, văn học quốc tế đoạt giải… thì có thể làm sách dạy người ta kiếm sống, dạy người ta cách tồn tại thích nghi khi thay đổi từ nông thôn ra thành thị. Cuốn sách mà làm một người thợ cắt tóc đọc xong thấy vui, cô công nhân may đọc xong thấy cuộc đời này đáng sống, cuốn sách ấy là một sản phẩm tốt. Khi người ta còn thấy vui, thấy buồn là người ta vẫn còn lương thiện.


Tìm ra sản phẩm phù hợp cho những khách hàng có khả năng tham gia thị trường luôn là một việc khó. Để có những thể loại sách mới, dành cho đối tượng mới là việc rất quan trọng và rất khó khăn, đòi hỏi người làm sách phải tìm tòi suy nghĩ. Một sản phẩm nước ngọt khi vào Việt Nam gặp khó khăn như thế nào để trụ lại và có thị phần thì sách cũng sẽ gặp những khó khăn như thế khi đi về nông thôn, hay đi vào các đối tượng khách hàng không truyền thống ở đô thị. Nhưng tôi tin rằng nếu các nhà xuất bản chịu khó tìm tòi, đầu tư và kiên nhẫn thì thời gian sẽ trả lại cho họ kết quả ngọt ngào.


Có lẽ phải nghĩ nhiều hơn đến các dòng sách bình dân, đừng nghĩ sách phải dày cộp, in đẹp, bìa cứng mới là sách hay. Sách in giản dị, giá tương đương một, hai chai nước ngọt ai cũng mua được. Sản phẩm phù hợp, có ích, tự khắc người ta mua, tự khắc người ta mượn nhau và phát sinh nhu cầu muốn tìm kiếm để đọc thêm. Từ đấy dần dần thị trường sách sẽ lớn lên.


* Vậy theo anh, các nhà làm sách cần cải thiện điều gì trước hết?


- Làm một cuốn sách đủ thân thiện với người mua là rất quan trọng, có khi họ cũng chưa biết nó nói về cái gì, nhưng trước hết họ bị thuyết phục bởi sự thân thiện của cuốn sách. Cuốn sách cầm lên dày cộp, ghi lằng nhằng đây là cuốn sách bán chạy ở Mỹ, đây là cuốn sách đỉnh cao trí tuệ, tác giả là nhà văn hàng đầu, chứa đầy tư tưởng nhân sinh quan, thế giới quan kỳ bí thì bạn đọc nhìn vào chắc phát hãi.


Tôi thấy mấy người làm xuất bản hay có những niềm tự hào như: tôi chỉ làm các cuốn kinh điển, các cuốn đỉnh cao, các cuốn làm thay đổi thế giới. Tôi thì nghĩ làm một cuốn sách mà tác giả đoạt giải Nobel hay một cuốn sách “sến bình dân” thì cũng phải trân trọng như nhau, làm cẩn trọng như nhau. Và quan trọng hơn là phải trân trọng người mua các cuốn sách ấy như nhau. Tâm lý làm sách “sang” và đọc sách “sang” đang rất phổ biến trong khi thật ra cuốn sách nào cũng có độc giả của nó. Một cuốn sách bình dân, đi vào cuộc đời bình thường của người đọc rất có thể sẽ để lại những điều đẹp đẽ mà họ mang theo suốt cuộc đời.


* Cảm ơn anh.






“Tôi đã có hai cuốn sách, cuốn đầu là cuốn sách của tình bạn: tôi viết blog cho bạn bè đọc, người chọn các bài viết đấy để in thành sách là bạn tôi, rồi người in cuốn sách ấy cũng là bạn tôi. Nhiều người mua sách về đọc rồi tìm đến tôi và dần dần thành bạn. Cuốn Ai và Ky… thì một người bạn lớn, giáo sư Ngô Bảo Châu, rủ viết. Cuốn sách này hai anh em bọn tôi chỉ dám coi là “á văn học”, nên mới gọi cuốn sách đấy là “toán hiệp”.Viết trên blog và viết một cuốn như Ai và Ky… khác nhau nhiều lắm. Viết sách để in ra giấy rõ ràng cần chỉn chu hơn. Có thể vẫn là người đọc ấy, nhưng mình phải tôn trọng người mua ở công đi mua, bỏ tiền ra mua sách. Chưa kể sách in ra được là do bao nhiêu cây trên rừng phải chặt xuống để làm giấy, in ấn cũng tốn hóa chất gây ô nhiễm môi trường. Sách viết để in ra mà không cẩn trọng thì khác gì gián tiếp phá rừng và gây ô nhiễm môi trường”.




CẦN PHAN thực hiện


3.  Bài phỏng vấn dịch giả Phạm Nguyên Trường: Dịch bởi sự bức bối ngay trên da thịt mình


Ở đây: http://tuoitre.vn/Tuoi-tre-cuoi-tuan/Van-hoa-nghe-thuat/539284/dich-boi-su-buc-boi-ngay-tren-da-thit-minh.html



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 10, 2013 18:56

May 7, 2013

Bản dịch Lolita mới

Nếu bản dịch Lolita của Nhã Nam gây thất vọng chỗ nào thì bản dịch trên mạng của một dịch giả “ẩn danh” (hay còn gọi là hải đăng) này lại khoan khoái đủ để bù đúng vào chỗ ấy.


http://vietnamlolita.blogspot.com/


Bất chấp tính bất tiện của cấu trúc trang web Lolita này và sự thiếu cảm xúc do phải đọc trên web (việc xuất bản bản dịch này là không thể, do các rào cản pháp lý), thì khoái cảm đọc bản dịch này vẫn có thể lên đỉnh nếu bạn thư thả đọc từng chương một.


Dù bản dịch này không qua biên tập(*), nhưng do tình yêu với các thần sông mới nhú Lolita, dịch giả ẩn danh này làm kỹ từng câu dịch, so bản tiếng Anh với bản tiếng Nga (do Nabokov tự dịch) và liên tục tham chiếu sách Annonated Lolita cũng như các sách về Nabokov nữa.


Việc “dịch vì cộng đồng” không phải là mới, đã có từ hồi dịch Harry Potter trên mạng, nhưng sau một thời gian bị các nhóm lợi ích trù úm, rất lâu rồi mới có một bản dịch cộng đồng (cho dù ở đây chỉ có nhõn một dịch giả) tốt đến như vậy. Mong các bác già yêu các em nhỏ, và các em nhỏ mê lạc thú trong từng trang sách đón nhận bản dịch này như một món quà của xã hội dân sự dành cho dịch dọt.


(*) Biên tập mà sai thêm, phỏng có ích gì.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 07, 2013 21:04

May 3, 2013

Chuyện thờ cúng

Gần đây mới đọc một bài của một bác đi tây cũng lâu, ở Châu Âu, dè bỉu việc thờ ông địa ở các cửa hàng của người Á Châu. Bỏ qua chuyện bỉ bai tín ngưỡng (rất là không tốt) thì việc ở nước ta người ta có thời phá đền chùa miếu mạo, phá cả đàn Nam Giao, cũng xuất phát từ những não trạng vô thần, phủi cả tín ngưỡng dân gian như thờ cúng tổ tiên, thờ thổ công thổ địa (dù ngô nghê nhưng lương thiện, không mê tín, không dị đoan). Vô thần và triệt tiêu tín ngưỡng (của người khác) là mặt bên kia của thái độ độc tôn tư tưởng, ý thức hệ (của mình). Cho nên phái rất tránh các bác bài bác tín ngưỡng.


Nhân tiện tóm tắt mấy cái dưới đây để mọi người đỡ nhầm lẫn. Đây cũng chỉ là sơ lược, thực tế thì thờ cúng sẽ phức tạp hơn:


a)      Chùa thờ Phật


b)      Quán thờ Phật (Bụt), Nho (Khổng tử), Lão (Lão Tử)


c)      Hoàng Thành: Vua và gia đình ở (phong kiến châu Á hơi giống Đế chế La Mã Thần Thánh ở chỗ Vua là thần thánh luôn, làm thiên tử. Vua có thể phong thần, thần là do vua phong).


d)      Đàn Nam Giao: Thờ cúng Trời


e)      Miếu:


+ Điện Miếu: Vua thờ vua cha vua cụ vua ông. Trong kinh thành có Thái             Miếu, tương đương bậc với Đàn Xã tắc (bậc thần)


+ Đình Miếu: Thờ Thành Hoàng (cấp làng xã)


+ Đền Miếu: Thờ anh hùng được phong thần, kiểu đền thờ đức thánh Trần


f)       Đàn (để cúng hơn là để thờ phụng):


+ Đàn Nam Giao: Cúng Trời .


+ Đàn Xã Tắc: Cúng thần Đất (Thái Xã) và cúng thần Nông/Ngũ Cốc (Thái Tắc).


+ Đàn Âm Hồn: Thờ hồn oan


+ Đàn Sơn Xuyên: Thờ thần Núi, thần Sông


+ Đàn Lệ thờ các thần Lệ.


Chỉ có Đàn Nam Giao (cúng trời) là vua đích thân làm lễ.


Còn Đàn Xã Tắc thì cúng thần nên quan đại thần làm lễ, lâu lâu có dịp quan trọng kiểu cầu mưa thì vua mới ra. Chúa Trịnh cũng có lần tham gia.


Đàn Xã Tắc ở Hà Nội đang ầm lên cùng vụ làm đường là Xã Tắc Đàn ở bên ngoài kinh thành. Trong kinh thì đại khai sẽ có: Hoàng Thành cho Vua (nhà nước) , ngoài hoàng thành mà vẫn trong kinh thành là khu vực cho Triều Đình (chính phủ). Đàn xã tắc thực nằm ngoài thành (ngoài cửa ô), tức là nằm ở phía dân nhiều hơn. Sau này có chúa Trịnh nên triều đình mở rộng đến Phủ Doãn. Chắc để cung vua, phủ chúa và triều đình đỡ dẫm chân nhau. Phủ chúa sau bị Tây Sơn đốt nên giờ không còn mấy.


Đàn xã tắc của Thăng Long có lần còn dùng để tế trời trước khi mang quân đi đánh nhau (Lê hay Trần gì đó, đi đánh Chiêm, tự nhiên quên). Cúng kiểu hiến sinh, giết trâu với gà để cúng.


Đàn Xã Tắc ở Hà Nội là do Tây Sơn đánh ra, Lê Chiêu Thống bỏ chạy, rồi Tây Sơn về Huế, từ đó mất đàn Xã Tắc của Thăng Long. Đến 2006 mới tìm lại được. Dù địa danh của cái làng chỗ này rất là chỉ dấu: làng Xã Đàn. Nhưng vì cái đàn xã tắc nó rất nhỏ (hình chữ nhật, mỗi chiều mấy chục mét, lại không sâu không cao, độ 3 tầng) nên đánh nhau xây dựng liên miên làm nó mất tích. Đến lúc làm đường mới lộ ra.


Tây Sơn cũng là nhà đổi quy tắc (ngày) cúng Nam Giao, không theo lệ của Tàu. Người đổi là vua Quang Toản.


Đàn xã tắc đầu tiên là ở Hoa Lư. Đàn xã tắc cuối cùng là ở Huế. Nay may quá vẫn còn.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 03, 2013 03:08

April 25, 2013

Những thứ mà họ phang

Nói chuyện với các dịch giả chín chắn, thường khi nhắc đến cuốn này dịch sai cuốn kia dịch sai, họ thường bảo: sai thì có gì, chuyện bình thường.


Nói thế cũng đúng. Vì có làm (dịch) thì phải có sai. Bác sĩ, làm việc trên tính mạng con người, nhiều ông giỏi vãi chầy ra còn khám sai, mổ sai . Thế nên mới có lời khuyên là bị bệnh nặng thì phải khám mấy chỗ khác nhau. Còn mổ xẻ thì có cả một ca mổ hỗ trợ cái ông cầm dao. Tất cả chỉ là để giảm thiểu (tối đa) sai sót.


Thế nên dịch dọt mới có biên tập. Biên tập giỏi và cứng tay, dịch lại bản dịch của dịch giả đến cả nửa cuốn là bình thường hehehe.


Thế nhưng, ở VN, dịch giả không biết vì nguyên cớ gì thì nổi cứ như pop star, cứ như học giả, còn biên tập viên thì cứ lọ mọ, cứ …hèn hèn. Dịch giả ngồi lên đầu biên tập là bình thường. Dịch giả dịch một cuốn, còn biên tập viên thì cùng lúc ôm mấy cuốn. Thấy sai mà sửa cho đúng đã ong cả não lên, lại gặp phải dịch giả ngôi sao suốt ngày cự nự: không được sửa chỗ này, không được sửa chỗ kia. Cãi nhau mất thời gian, cho nên thôi kệ mẹ. Sai cũng kệ mẹ.


Đâm ra biên tập viên cứ yếu dần, rồi lương biên tập viên cũng bèo, việc thì ngày càng nhiều. Dần dà, đâm ra cứ làm quấy quá cho xong.



Rồi thì biên tập viên và dịch giả lại cùng một ổ, do một nhà trả lương, làm cùng nhau cùng một office. Có khi biên tập viên lại là nhân viên cấp dưới, hoặc là bạn của dịch giả. Nên lại càng dễ bỏ qua chỗ sai. Hoặc là tặc lưỡi, sếp là dịch giả nổi thế, chắc chả sai mấy đâu.


Lẽ ra, nếu dịch giả là người nhà của nhà xuất bản, thì bản dịch ấy phải thuê biên tập ngoài. Và ngược lại, nếu dịch giả ở ngoài thì dùng biên tập viên ruột của mình. Làm thế thì hai bên mới thẳng tưng ra mà mổ nhau, mới mong có ít sai sót. Ấy là nói biên tập viên có trình. Chứ biên tập viên yếu cả về trình độ, yếu cả bản lĩnh, cũng khó mà mổ được dịch giả. Mổ nó được một phát, nó đạp lai cho mấy phát vỡ mẹ sủ. Cứ lâu dần, càng ngày biên tập càng lép vế. Đúng ra, lẽ ra, thì ngày qua ngày, năm qua năm, càng ngày biên tập viên càng phải có vai trò lớn hơn, oách hơn.


Cho nên dịch sai lúc đầu là do dịch giả. Bản thảo vẫn sai là do biên tập viên: không đủ bản lĩnh và trình để vặc dịch giả, dưới cơ dịch giả nên bị đè. Xuất bản phẩm vẫn sai là do nhà xuất bản: không rạch ròi biên tập và dịch giả, cả hai cùng là quân nhà.


Có những dịch giả già, trước 75 vừa làm giáo sư ngôn ngữ trong đại học, vừa dịch sách. Sau 75 mỗi người một nơi, danh tiếng mờ nhạt, thua danh các dịch giả trong nước cả trăm lần, mà đẳng cấp trình độ thì có khi ngược lại. Nhưng nói chuyện với họ về chất lượng các bản dịch gần đây, các dịch giả già đều tránh phê bình chất lượng (dù lúc trà dư tửu hậu, họ vạch ra toàn cái sai chết người). Họ bảo mình làm nghề dịch, tránh phê bình đồng nghiệp. Việc đấy dành cho các vị phê bình dịch thuật.


Những dịch giả sau này quên mất dịch giả cũng là một nghề như bác sỹ, kỹ sư, cái quan trọng là làm tốt nghề của mình và sống bằng nghề đấy. Cái danh của mình cũng nên khoanh trong cái cộng đồng trong nghề biết, không phải là cái danh chìa ra đám đông mà ưỡn ngực. Đâm ra hay chê bản dịch người khác. Suốt ngày chê cuốn này cuốn kia dịch kém, dịch tồi, dịch hỏng, dịch thảm họa. Quên mất rằng mình cũng làm nghề dịch, và cái sai, cái thảm họa, nó không tránh một ai. Rồi sẽ có ngày, cũng như một bác sĩ giỏi, bên gan bệnh không cắt mà cắt bên gan tốt. Cắt xong rồi chỉ biết cười chứ biết làm sao. Chả ai có thể bênh được mình lúc ấy, ngoài đồng nghiệp. Mà đồng nghiệp mình lỡ chửi họ ngu rồi, giờ biết tính sao. Người đúng ra cùng gánh trách nhiệm với mình trước độc giả, là biên tập viên, mình cũng lỡ ngồi lên đầu họ rồi, làm sao họ cùng đứng ra lãnh đạn với mình được nữa.


Dịch giả cũng không nên …khen. Dịch giả bây giờ ngoài dịch sách, còn đi giới thiệu tác phẩm ở event hoặc viết bài. Dịch giả có thể giới thiệu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, chứ đừng nên giới thiệu dịch phẩm. Bởi giới thiệu dịch phẩm bản chất đã là khen chê sản phẩm của dịch giả khác. Chê hậu quả thế nào, đã nói ở trên. Còn khen cũng hãi lắm. Khen một cuốn dịch giỏi dịch hay, xong về sau hóa ra là một dịch phẩm tồi, thì còn biết ăn biết nói làm sao. Có anh vừa dính một vụ khen nhầm thế này, nghe nói bây giờ sáng nào cũng phải ăn một quả trứng vịt lộn.


Thực ra còn một bệnh của dịch giả nữa, là bệnh cứ bô bô là dịch phải sáng tạo, hoặc có ông còn bệnh hoạn đến mức đòi dịch giả phải là đồng tác giả nữa. Việc này thôi không bàn, vì dịch mà sáng tạo thì giải nhất sẽ thuộc về quả dịch Cây Gạo Giáp Thân vừa rồi om xòm trên Facebook.


Rồi nhà xuất bản, là cái nơi xét cho cùng, tưởng đâu là phải chịu trách nhiệm cuối cùng về một bản dịch tồi, nhưng nếu nhìn từ quan điểm kinh doanh, thì lại là nạn nhân. Mỗi cuốn sách là một dự án, nhà xuất bản trả tiền để làm dự án ấy: mua bản quyền, dịch, biên tập, in, quảng cáo. Tốn một mớ tiền mà bị ăn chửi.


Tất nhiên tiên trách kỷ. Nxb sai từ cái gốc là tham: trong quy trình dịch biên tập (không rạch ròi biên tập là người trong nhà thì dịch giả phải là người ngoài và ngược lại), không bảo vệ, nâng đỡ biên tập viên để họ đủ sức chiến đấu với dịch giả để có bản dịch tốt hơn, ép biên tập viên làm khối lượng bản thảo quá sức họ khiến cho họ làm quấy quá để kịp tiến độ, và tệ nhất là không biết đánh giá trình độ thực của dịch giả và biên tập để giao cho họ làm những bản thảo đúng sức của mình.


Rồi hậu trách nhân. Nếu thị trường sách lớn hơn, một cuốn sách bán được nhiều bản hơn, thì các nhà xuất bản đâu còn phải chạy theo đầu sách mới để có doanh thu. Nếu một đầu sách bán được nhiều bản hơn, thì số đầu sách làm trong tháng, trong năm giảm đi, chất lượng sẽ tăng lên.


Hậu nữa là công chúng. Đã bỏ tiền ra mua sách, thấy cái sai là phải ném đá. Ném kịch liệt, ném tan nát. Nhưng chỉ ném vào cái chỗ sai thôi, để nhà xuất bản họ cải thiện chất lượng sản phẩm. Chứ không phải ném để đóng cửa nhà xuất bản. Cái sai của một cuốn sách dịch, so với cái sai của Vinashin chả hạn, chỉ bằng cái lỗ đít con vi trùng. Làm đéo gì mà suốt ngày thảm họa với chả thảm họa. Sốt cả ruột. Sai thì bảo các ông sai rồi, xin lỗi độc giả đi, dịch lại cho đàng hoàng đi, không thì bố mày không mua sách nữa.


Mà có khi tốt nhất là đừng mua sách, đừng đọc sách nữa. Đọc sách chỉ mà để lên mạng chửi nhau (như tôi đang làm đây) thì thà mù sách còn hơn. Sáng giờ lẽ ra đi xe ôm hay quay nước mía kiếm được ít tiền, thì ngồi nhà viết bài như vầy. Cứ bảo sao nước mình mãi nghèo.


Ký tên: Một biên tập viên nghèo hèn kiêm một dịch giả chuyên dịch những thứ vô danh, không có cả tên tác giả.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 25, 2013 00:49

April 18, 2013

Chuyện tên nước

Trước khi nói chuyện tên nước tôi nói chuyện ngày lễ giỗ tổ Hùng Vương.


Lễ giỗ tổ Hùng Vương đầu tiên được tổ chức lớn, lớn là ở quy mô cấp nhà nước và được truyền thông nhà nước tuyên truyền, là năm 1959 do chính phủ miền nam Việt Nam, lúc đó đang ở nền đệ nhất cộng hòa của Ngô Đình Diệm chủ trương. Sáng kiến đẩy lễ giỗ tổ Hùng Vương lên thành quốc lễ là sáng kiến của một số sĩ quan  cao cấp của quân đội Việt Nam Cộng Hòa.


Chuyện này ai cần khảo sát lại kỹ và có nhiều chứng cứ hơn thì có thể đọc lại các báo trong thư viện của cả hai miền.


Sau khi Ngô Đình Diệm bị giết, lễ giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức lớn dần lên. Lễ lớn nhất theo tôi nhớ là lễ năm 1973.


Đây cũng là lý do có cái tên giỗ tổ Hùng Vương, trong khi ngoài bắc gọi là Vua Hùng. Cũng vì lý do này mà ở Thảo Cầm Viên có đền thờ Hùng Vương, là do chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xây dựng.


Sau năm 1975: không có lễ này.


Cho đến gần đây. Rồi thì cứ to dần. Thành quốc lễ. Cũng ok, cả nước được nghỉ. Chỉ có người Khmer, Ê Đê, Gia Rai, Mường, Thái, sẽ hơi khó hiểu khi ông tổ của họ tự nhiên lại là vua Hùng.


Giáo sư Châu trên blog cá nhân của mình có một bài về việc một dân tộc phải học bài học lịch sử của dân tộc mình sao cho thuộc. Chừng nào còn chưa học thuộc, lịch sử sẽ dạy đi dạy lại mãi. Và học phí đôi khi phải trả bằng máu, hoặc rất nhiều máu.


Người Hán coi mình là trung tâm của thế giới, nước của họ phải là ở trung tâm. Vậy nên có cái tên Trung Quốc. Văn hóa, ở đây nên hiểu là ý thức hệ Nho giáo của họ, là đạo lý của trời đất. Nho giáo cứ thế mà oai, cho đến khi bị nhà Thanh nó leo lên đầu.


Cũng vào thời gian ấy ở nước mình có một cơ hội lớn vãi để nước ta vật mình thành rồng. Đó là thời Gia Long lập quốc, mở cửa tứ tung đón nhận văn hóa tây phương. Nhưng ông con, là ông Minh Mạng, lên ngôi, lại chê cái nhà Thanh, mà tự coi mình và nước mình còn Nho giáo hơn cả bên ấy. Ý thức hệ Nho giáo của Minh Mạng và nhà Nguyễn còn Nho hơn cả bản gốc. Nho ta xịn hơn cả Nho tàu. Bảo hoàng hơn vua, hơn cả bố vua, hơn cả cụ vua nữa. Từ quần áo trong triều, nghi lễ này nọ, nhà Nguyễn còn Tàu hơn cả bọn Tàu kinh điển.


Đâm ra tên nước, cũng vậy, nó là trung tâm thế giới, là Trung Quốc, thì mình ở phía nam của cái trung tâm ấy mà còn Nho hơn cả nó, tức phải là Đại Nam.


Và thế là tèo, là đóng cửa, là bế tinh hại não. Là thủ dâm rồi dẫn đến mất nước, là dân tộc nô lệ, là chiến tranh liên miên.


Ngày nay, ý thức hệ Mác Lê ở ngay chỗ nó sinh ra là lớn lên cũng đã tàn. Như cái hồi nhà Thanh nó đè nhà Minh mà làm tàn Nho giáo. Vậy mà bài học cũ không chịu học. Cứ phải Mác hơn cả Lê, cả Xít Ta, cả Mao ít. Cứ phải rậm râu hơn ông rậm râu, hói trán hơn cả mấy bố hói trán.


Học phí nào sẽ phải trả đây?


Và rồi là chuyện tên nước. Đi một vòng kiểu gì cũng về chỗ cũ. Biết thế, có người gợi ý theo Tây. Có chữ đất vào tên thành Vietland. Giống England, Deutschland, Switzeraland và cả Thailand nữa. Có người gợi ý là phải bỏ chữ Nam, tức là có tý học bài học có chữ Nam của Minh Mạng, để mà thành Đại Việt.


Nhưng mà nước mình không thích dùng chữ đất. Mà phải là Nước cơ. Hoặc cùng lắm là Đất Nước.


Cho nên cuối cùng, để văn vẻ ngắn gọn mà nói, Nước Việt là gọn nhất. Nhưng nếu muốn thể hiện cái thể chế chính trị, thì vẫn phải có ít nhất là chữ Cộng Hòa vào. Là Nước Cộng Hòa Việt vậy.


Hay có bạn gợi ý, để có tí xí xớn, tự mình bớt tự ti của mình đi, thì là Nước Cộng Hòa Đại Việt.


Cách gọi tên Cộng hòa Đại Việt này, trông thế cũng không có gì mới, ví như đã có Đại Hàn Dân Quốc. Dân Quốc là một cách phiên nghĩa khác của chữ Cộng Hòa. Chuyển qua tiếng ta là Cộng Hòa Đại Hàn vậy. Việc phiên nghĩa của những từ có gốc gác từ văn minh Lưỡng Hà, như Cộng Hòa, cũng nên nhìn nhận lại. Như chữ Dialectic, ta vẫn hay gọi là biện chứng, thực chất như Nông Duy Trường giải thích, nghĩa đúng là Hỏi-Đáp mà thôi. Đấy cũng là một bài học nhỏ, chỉ có điều chưa hoặc không phải trả bằng máu mà thôi.


Còn lại, bài học lớn nào, ở ta, cũng đều đẫm máu cả.


Cho nên từ chuyện học cái lễ giỗ tổ, cũng nên học lại cái cách đặt tên nước cho đúng và ít học phí nhất.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 18, 2013 07:12

April 17, 2013

Cùng viết về Học Thế Nào

Mời các cháu, các anh chị em và các cụ bô lão vào đọc và viết bài.


Cụ nào lười thì dịch cũng được ạ.


Học Thế Nào (How We Learn): http://hocthenao.vn/gioi-thieu/


Giải quyết những vấn nạn của giáo dục Việt Nam không hề dễ dàng và nhẹ nhàng. Nó đòi hỏi nhiều kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng, để tìm hiểu, phân tích tới tận gốc rễ của những sai lầm, nhất là sai lầm về triết lý và chính sách giáo dục, để từ đó có thể đưa ra cách giải quyết vấn đề. Nó cũng cần sự chia sẻ những phương pháp giáo dục tiến bộ, phù hợp với xã hội và con người Việt Nam; cần sự chia sẻ những kinh nghiệm làm giáo dục hiệu quả từ những cá nhân, các tổ chức giáo dục ở khu vực công và khu vực tư nhân.



 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 17, 2013 19:25

Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.