Nguyễn Phương Văn's Blog, page 19

July 15, 2014

Tiệm mì, Ngã tư, Sài Gòn, Biển Đông

(Copy một loạt từ FB về đây).


1. Dừng Đèn Đỏ: Bóng Đá, Lưu Á Châu và Biển Đông


Lưu Á Châu có một đoạn phân tích về kiềm chế cảm xúc. Phải nói là rất thú vị. Nhưng từ từ để kể xong chuyện này đã.


Nhân Tuấn Trương gần đây có một status về bóng đá. Anh này bảo các trận đá xem chán thực ra là rất … hay. Ý là khó có trận đấu nào hay cả với khán giả, cả với giới chuyên gia. Trận đấu hay với khán giả, thì thường là giàu cảm xúc, ít tính toán giằng co chiến thuật. Ngược lại, trận nào mà giới chuyên gia xem sướng điên lên thì khán giả sẽ thấy buồn ngủ, ví dụ trận Pháp – Đức.


Nếu anh Tuấn này mà để ý, sơ đồ cầu thủ trước mỗi trận đấu, họ gọi là sơ đồ chiến thuật, tiếng Việt cũng thế mà tiếng Anh cũng thế. Họp chiến thuật, kể cả họp chiến thuật giữa 2 hiệp, là rất quan trọng. Xây dựng chiến thuật cho từng trận, phần lớn do HLV và đội trưởng. Có những đội bóng yếu kém mà vào tay HLV xịn thì khác. Mà HLV xoàng, nhưng đội trưởng xịn (Pháp thời Zidane với ông HLV gì tự nhiên quên tên) thì vẫn là đội mạnh.


Việc đấu tranh biển đảo giữa ta và Tàu cũng thế. Đôi khi cuộc đấu rất lề mề buồn tẻ, nhân dân rất dỗi, ồn ào phản đối. Cuộc đấu buồn tẻ có 2 loại. Một loại là kiểu V-league, cầu thủ yếu kém, đá như đá khoán cho hết trận là về, HLV lú lẫn chả biết chiến thuật là gì, trận này phải đá ra sao. Một loại là đấu trí cao cường, kiểu “kiếm ý”, khán giả ngồi ngoài xem chả hiểu gì, rất chán.


Mà chán là khán giả chửi bới la lối, có khi còn đánh nhau. Bóng đá ở VN kiểu gì cũng đánh nhau. Đá giải khoa thì các lớp đánh nhau, hồi tôi đi học thì hôm sau có đứa cay cú còn bỏ cả lê vào cặp lên lớp kia tìm nhau để thịt (cảm giác nhảy vào can, giật lưỡi lê ra, rất là cảm giác mạnh). Đá giải trường thì các khoa đánh nhau, gạch đá ném như mưa. Đá giải Bộ thì các trường đánh nhau, đánh cả công an ở sân Hàng Đẫy. Đến futsal đá trong nhà, cũng đánh nhau. Chả hiểu đi xem thể thao, hay là đi để đánh nhau nữa.


Hagen bạn tôi bảo mấy trò kiểu hockey, rugby chắc chỉ cho bọn da trắng, chúng nó kiềm chế cảm xúc tốt, va chạm như thế mà không hành hung nhau. Mình mà chơi môn đấy là choảng nhau rồi. Kể ra thì quá đúng còn gì.


Hồi năm 97 lần đầu tới Mỹ, có anh Việt Kiều lái xe chở đi chơi. Thấy các đường nhỏ ở Mỹ (nhỏ tý) giao cắt với đường lớn hơn 1 tý, giao lộ bé tí, vắng tanh, có cái biển STOP, thế mà cứ thấy biển là xe stop lại rồi đi tiếp, rất tự giác. Hồi đó mình còn non nớt, hỏi rất ngô nghê là có ai giám sát đâu (ý là công an nấp) mà phải làm thế, không chạy vọt qua cho nhanh.


Về lại Sài Gòn, giữa đêm, đường vắng ngắt, mà vẫn có người dừng đèn đỏ, đợi xanh mới đi tiếp. Mới thấy cảm giác kìm chế mình đứng đèn đỏ ở ngã tư không bóng người giữa đêm mới là khó, còn chạy ào qua thì dễ vô cùng.


Ông tướng Tàu Lưu Á Châu cũng có nhận xét như vậy về dừng đèn đỏ ở Mỹ và vượt đèn đỏ ở Trung Quốc. Ông ấy bảo đấy là người Mỹ giỏi kiềm chế cảm xúc. Cũng là lính giữ đồn, không phải lính Mỹ không biết sợ, nhưng họ kiềm chế được nỗi sợ, vì mình mà chạy thì tất cả cùng chạy, rồi chết cả lũ. Lính TQ không được như vậy. Không phải người Mỹ không tham nhũng, có, nhưng ít hơn TQ, vì người Mỹ họ kiềm chế được khát khao đưa tay ra nhận cái phong bì rồi nhét vào túi quần.


Giàu cảm xúc cũng tốt, nhưng là trong cuộc sống bình thường, phẳng lặng, cảm xúc làm cuộc sống thêm màu sắc. Còn khi ở thế gian nan, ở lúc con tạo tăng tốc xoay vần, cảm xúc mạnh, kiềm chế yếu thì có khi là vỡ trận. Như ví dụ của Lưu Á Châu, giàu cảm xúc còn làm hỏng đạo đức.


Hôm rồi có đưa lại một cái post của MYT tathy (trích: Chả nhẽ cứ thông tin nào khác biệt, tiêu cực là các bác em tin tưởng, mới cho là đúng????).


Kém kiềm chế cảm xúc là một trong những nguyên nhân dễ tin vào các thông tin tiêu cực. Có thể mình không thích một ai đó (ví dụ chính phủ), nhưng khi nghe nhận xét xấu về người đó, thì đừng tin vội, thay vào đó là kiềm chế cảm xúc bằng cách “dừng đèn đỏ” mấy giây. Mấy giây đủ để nghĩ rất nhiều các bác ạ. Nghĩ xem cái thông tin đó, bình luận đó có “thuần lý” hay không. Critical thinking với khách quan cái mẹ gì đó, nghe thì cao siêu, khó thực hiện, nhưng thực ra cũng không quá khó, chỉ cần dừng lại mấy giây, và nghĩ sâu (hơn bình thường của chính mình) một chút. Ví dụ thế này, có tủ lạnh làm một việc sai, có ông chửi um lên bảo tủ lạnh phải chịu trách nhiệm cá nhân, rồi đến lúc tủ lạnh này làm một việc đúng, cũng cái ông kia bảo đây là thành tích chung của BCT, tủ lạnh chỉ là người được phân công làm. Hehehe, vãi cả phát biểu.


Nhưng các bác cũng đừng có cười to, bởi người Vina chúng ta, ai cũng bị cái lỗi lưỡi không xương này cả, tôi cũng thế mà quý vị cũng thế, nhắc nhở thế để chính mình nói gì thì cũng phải dừng đèn ỏ xem mình nói có vãi thế không hehehehe.


Để tập kiềm chế cảm xúc kiểu dừng đèn đỏ trong suy nghĩ, thêm ví dụ thế này. Cũng như coi đá banh, xem “chậm” lại một chút, đừng chỉ quan sát theo tình huống bóng mà cố nhìn cả xung quanh (điều này xem ở sân thì dễ hơn) sẽ thấy những trận đấu rất chán, lại có nhiều cái hay để chiêm ngưỡng. (Xem VTV thì cực khó làm việc này vì bình luận viên nó vừa làm mình sao nhãng, vừa làm át âm thanh của sân. Không hiểu sao xem VTV nó hay giảm âm thanh của sân, chứ đúng ra nghe rất rõ tiếng chạm bóng với tiếng cầu thủ gọi nhau).


Để tập dừng đèn đỏ, mời các bác mỗi khi dừng đèn đỏ mà thấy trên 20 giây thì tắt máy, đến khi còn 4 giây thì nổ máy lại. Đêm cũng như ngày, ngã tư to cũng như bé, mưa cũng như nắng, vắng cũng như đông. Các bác có 14 giây để nghĩ mình đã làm được gì có ích hehehe (báo cáo các bác, nghĩ câu trả lời này khó phết, nhưng vẫn phải nghĩ các bác ạ hehehe).


2. Lưu Á Châu


Cái ông tướng Trung Quốc này tên là Lưu Á Châu. Có nhiều bài phát biểu gây tiếng vang ở TQ cách đây mấy năm, và cũng được dịch ra tiếng Việt nhiều.

Ông tướng có tư tưởng chống VN này còn có nhiều bài nói chuyện. Mọi người có thể gúc các bài dịch của Lưu Á Châu (tướng Liu Yazhou) có rất nhiều trên mạng. Có bài thì ông này ca ngợi Đặng Tiểu Bình nhiều điểm, trong đó có ca ngợi tài năng của Đặng Tiểu Bình khi tấn công Việt Nam năm 1979.


Đại ý ông ấy cho là ĐTB quay lại nắm quyền năm 1978, tháng giêng 1979 đi Mỹ, tháng 2 tấn công biên giới Việt Nam. ĐTB phát động một cuộc chiến và đạt được 3 mục tiêu:


a) đạt quyền lực tuyệt đối trong nội bộ đảng mà ĐTB là bộ óc cải cách.

b) chính thức đoạn tuyệt với phe XHCN của Liên Xô và nhờ đó khi khối XHCN sụp đổ thì TQ không bị làm sao.

c) quyến rũ được nước Mỹ đầu tư nồng nhiệt vào TQ và quan hệ chăn gối nồng ấm kéo dài 10 năm cho đến Thiên An Môn 1989, một quãng thời gian cực quan trọng để TQ yếu ớt chuyển mình thành cường tráng


Bài viết viết về TQ nhưng có nhiều cái có thể áp dụng với Việt Nam (bài này cắt đoạn chiến tranh Mao – Tưởng) :


“Khi có kẻ xấu hành hung trên xe buýt, những người đi xe đều im thin thít. Dựa vào những con người ấy đi giải phóng Đài Loan ư?” (VN thay Đài Loan thành Hoàng Sa hehehe)


“Những người yêu nước khi gặp bọn trộm cướp mà còn lánh mặt nhưng lại dũng cảm dõng dạc nói Không với một cường quốc ở xa tít mù!” (VN thì thay cườngquốc ở xa thành TQ hehehe).


Ở một bài nói chuyện khác về tài quản trị của Mỹ so với Tàu ông ấy bảo: Người Mãn Thanh cai trị người Hán là giỏi nhất, vì người Hán nhu nhược và có tật xấu là thích làm quan.


Có lần Lưu Á Châu phát biểu tại căn cứ không quân Côn Minh. Bài nói chuyện này sau đặt tên là Niềm Tin và Đạo Đức. Trùm tuyên huấn quân độ của TQ bắt đầu bài phát biểu bắt đầu bằng câu: Lẽ ra định nói chuyện ở Đại lễ đường nhân dân.


Vốn là người được Đặng Tiểu Bình nâng đỡ, Lưu Á Châu có nhiều phân tích về các quyết định của Đặng Tiểu Bình. Về cá nhân ĐTB, Lưu Á Châu phân tích kỹ thuật chính trị của Đặng Tiểu Bình có ba nguyên tắc: không coi đấu tranh chính trị là ân oán cá nhân, lấy lịch sử và lợi của đảng và nhà nước làm tiêu chí; không xung đột với đối thủ; không đọ sức với đối thủ không cùng đẳng cấp.


Về Mao, Lưu Á Châu nhắc lại 31 điểm quan trọng của Mao theo cách phân tích của GS ở Stanford, trong đó có 2 điểm sát nhau: cách mạng văn hóa và giúp VN đánh Mỹ.


Nhắc lại cuộc chiến tranh đánh vào biên giới VN. Trước khi xuất quân, các lính TQ bị từ hôn rất nhiều. Trong các bức thư từ hôn, người vợ trẻ hay có lý do nếu anh chết thì thôi, chứ bị cụt chân cụt tay thì chúng ta sống làm sao. Có những trận đánh, xác mang về, lễ truy điệu mở thư gia đình ra đọc, toàn thư từ hôn. Cái này Việt Nam hơn hẳn TQ, ít ra là phụ nữ VN hơn hẳn phụ nữ TQ.


Lưu Á Châu nhắc lại chuyện một sỹ quan TQ, độc thân, đóng quân sát biên giới. Một cô gái dân tộc Miêu, đã có chồng con, đem lòng yêu. Anh sĩ quan bị phát hiện (kiểu tội hủ hóa ở ta), cắt chức, cử ra tuyến đầu, bị chết. Đơn vị anh này quay về, cô gái Miêu đứng đón, đồng đội đi qua ai cũng cúi đầu. Lưu Á Châu phân tích cô này là người dân tộc, yêu đương tình cảm không che dấu, khác hẳn người Hán.


“Không giống với các cô gái dân tộc Hán, không dám yêu, cũng không dám oán hận. Dân tộc Hán là dân tộc không có tình yêu nhất. Dù dân tộc Hán có dân số đông nhất thế giới, họ cũng không có tình yêu. Ở nước ngoài vì tình yêu có thể xảy ra chiến tranh. Ở TQ có thế không?”


Về trí thức, Lưu Á Châu nói khá dài. Có một ví dụ thế này. “Khi còn du học ở Anh, Nghiêm Phục học cùng Ito Hirobumi. Nghiêm Phục học còn giỏi hơn. Sau này về nước, Hirobumi trở thành thủ tướng Nhật, phát động hai cuộc chiến tranh, đưa nước Nhật hiện đại hóa. Nghiêm Phục không ai biết đến ngoài việc dịch T. Huxley cuốn Thiên Diễn Luận. Nhưng Nghiêm Phục đã nói một câu bất hủ: Cái gọi là quốc gia (nhà nước) của Trung Quốc 2000 năm nay chỉ có nhà, không có nước (có gia, không có quốc). Nước là nhà của một dòng họ, là hưng thịnh của một gia đình. Vong là sự diệt vong của một gia đình. Cho nên sau Tôn Trung Sơn làm cách mạng, đề cao Thiên hạ là của chung, hạ được nhà Mãn Thanh. Nhưng tư tưởng và ý thức phong kiến còn sâu trong nhân dân. Trong một cuộc thi của thiếu nhi trên truyền hình, câu hỏi là Có một nhân vật mà ai cũng hâm mộ và muốn trở thành. Đáp án là Anh Hùng. Thực tế thì cậu bé đã trả lời: Nhà Vua. (Đoạn ngày, có khả năng là thiếu niên VN sẽ hơn hẳn thiếu niên Tàu, ít ra câu trả lời sẽ là ca sỹ Hàn Quốc).


Về lương tâm và sự hèn kém của người TQ, Lưu Á Châu có một đoạn dài phân tích tại sao thời Nhật chiếm đóng, chỉ 3,4 lính Nhật mà đánh cho 3,4 vạn lính của Mao chạy. Hay một người Nhật có thể cai trị được cả 1 huyện người Tàu. Dùng cả phân tích của quân đội Nhật về việc lính TQ giữ thành rất kém. Rồi phân tích tại sao lắm Hán gian, phản bội, tại sao dù có lương cao đến mấy thì người TQ vẫn tham nhũng.


“Người Mãn Thanh cai trị người TQ thành công nhất. Họ hiểu sâu được đặc trưng quan trường của người TQ: dốc lòng trung thành với cá nhân, chứ không dốc lòng trung thành với đất nước.Ai có lợi cho mình thì theo người đó. Đối với người Hán họ dùng khoa cử. Người Hán có tật xấu thích làm quan. Chỉ cần cho anh làm quan, giống như cho chó cục xương là cúi đầu cụp tai bảo gì nghe nấy.”


3.


Sống là lọc bớt tà tâm

Yêu là giữ chút tà dâm trong người


Sống là đá bóng với đời

Yêu là chơi bóng hai người với nhau


4.


Sống là phải chịu đắng lòng

Yêu là phải hiểu cháo lòng của nhau


Sống là một cuộc túc cầu

Yêu là một cú cầu âu thành bàn


5. Hàng Lô


Sách (hồi ký) của các bác trước 1954 hay nói đến đồ “lô” của người Hoa Hàng Buồm. Lô chắc là Local (tiếng Pháp). Cách đây gần 20 năm ra chợ trời vẫn còn từ “mua đồ lô” này, thường là đồ xe máy, và do người Hoa Chợ Lớn làm.


Ngày xưa quận 6 với quận 11 chắc là thủ đô của công nghiệp nhẹ Việt Nam hehehe, hay còn gọi là thế giới của các nhà sản xuất nhỏ. Từ dép đến công tắc điện, từ gương xe máy đến các máy móc để sản xuất đồ gia dụng. Rất nhiều sản phẩm kiểu này được xuất khẩu đi …Liên Xô hehehe.


Từ ngày bình thường hóa quan hệ, các công ty con con của người Hoa tèo hẳn. Người Hoa chuyển qua làm các cty to đùng kiểu gốm sứ, vải, gạch hoặc làm ngân hàng hehe.


Cũng có ngành sống được, ví dụ ngành nhựa, là do bàn ghế nhựa cồng kềnh nên nhà máy địa phương lợi hơn. Có những cty làm ghế nhựa không những thắng được hàng Thái Lan, mà còn chiếm được cả thị trường cambodia thì phải. Còn cty làm nhựa mà kiểu dáng công nghiệp độc quyền (tủ tháo lắp chả hạn) họ còn xuất khẩu được.


Nhưng thú vị hơn, là người Việt cũng đã làm được. Thủ đô của sản xuất nhỏ của họ là Thủ Đức. Họ kém người Hoa ở chuỗi giá trị, đặc biệt là vốn, bù lại họ được tiếp cận công nghệ mới tốt hơn (cho đến 198x, người Hoa vẫn chưa đi học đại học nhiều, nay thì nhiều rồi).


Giờ giả sử TQ cấm vận VN, thì là tốt đấy, các khu cong nghiệp tư nhân be bé lại trỗi dậy, thậm chí sẽ không còn độc quyền của các gia đình người Hoa nữa, mà người Việt cũng làm tốt.


Nguyên vật liệu là cái đáng ngại nhất nếu đóng cửa biên giới, nhưng chắc sẽ giống như sách giáo khoa đã dạy, nó sẽ đi đường vòng thôi, để đến chỗ mà nó cần với cái giá mà các bên đều có lợi.


Riêng về du lịch, các bác lữ hành Tàu mà tẩy chay VN là tốt đấy. Ở các khu du lịch trong nước, chỗ nào mà khách Tàu và khách Nga đến, là khách Nhật và Âu Mỹ biến sạch.


Đề nghị các bác quay lại dùng đồ lô hehehehe. Tất nhiên đồ “lô” bây giờ có thương hiệu rồi, có bảo hành, có cả khuyến mại nữa hehe. Dùng đồ lô là tăng việc làm tăng GDP đấy các bác ạ.


6. Tiệm mì ngon nhì Sài Gòn


Giữa những chuyến đi, dù là đi làm tối hay đi chơi khuya, dù đi việc nước hay việc nhà, thế nào cũng có lúc đói. Đói thì phải tìm tiệm ngon nhất mà ăn, nhưng thường là không bao giờ tìm được.


Ở Phan Xích Long có một cái ngã tư. Giao với Nguyễn Công Hoan. Góc bên này là Pizza Hut, góc bên kia là Lotte, góc bên này là Nnice Karaoke, và góc còn lại là một tiệm mì nhỏ tí của một bác ba tàu. Tiệm bé tí mà tên to tướng: Tiệm Mì Á Châu. Số 249. Tiệm mì có nhiều món, hủ tiếu, hoành thánh và tất nhiên là có mì. Ông chủ trung niên ba tàu, vừa khó tính vừa hiền lành. Làm mì sạch sẽ, gọn gàng, mười lần ăn chất lượng vẫn như một lần, rất đều tay. Đúng là ngon nhì Sài Gòn thật rồi. 25 ngàn hai vắt, 35 ngàn 3 vắt. Lại có xe nước mía ngay bên cạnh.

Trước nhà ở gần ngay đấy, đi bộ ra ăn được, tuần rồi chuyển nhà, giờ hết tiện chân ra ăn được rồi. Khu Phan Xích Long Miếu Nổi đấy thật nhiều hàng ăn. Đi ngược về phía bên kia, ngay chân cầu Bông là tiệm bánh canh ghẹ, cũng rất ngon. Không ăn mì nhì sài gòn có thể ăn quán ghẹ thứ 2 thành phố.


Ở đây gần 5 năm, chuyển nhà 4 lần. Mỗi lần chuyển nhà lại thấy sách vở thừa ra nhiều quá, không cần, biết thế mua và đọc ít đi hehe. Vứt sách là dọn não luôn hehe.


Dọn về nhà mới, thấy xa xa lạ lạ. Hì hục lau nhà dọn nhà cọ toilet xong, tự nhiên thấy đúng cái nhà này của mình rồi, thân thiết từ bao giờ. Một cảm giác rất hóm của người yêu lao động hehehe.


Hôm rồi, sau vụ Bình Dương hơn 3 tuần, mới đi tận nơi để xem, đi xe …của ngành nên vào được tận từng nhà máy. Nhiều nhà máy nho nhỏ thôi, kiểu phân xưởng thì đúng hơn, những người chủ Đài Loan chắc cũng chỉ là doanh nghiệp vừa vừa nhỏ nhỏ, chắc họ xây nhà máy từ những viên gạch đầu tiên, giống như mình chăm sóc dọn dẹp cái nhà mình vậy, hẳn là họ yêu cái nhà máy nhỏ nhỏ ấy lắm. Vậy mà chỉ một đêm là rụi mất tiêu rồi. Anh quản lý nhà máy Thông Dụng là người Đài, cao lớn, nói tiếng Việt khá tốt, bảo là ở đây 14 năm rồi, cũng sợ nhưng chắc không về nước đâu. Ông chủ chạy về Đài Loan ngay hôm sau sự cố, nhưng mới quay lại rồi.


Không biết các ông chủ Đài Loan hôm sau bỏ về Đài Bắc, lúc đói lòng, có nhớ ra mà đi ăn mì hoành thánh cho đỡ đói không nữa. Hay là quên đường ở bển rồi, chỉ nhớ đường ở cái thành phố Việt Nam họ đã sống và kiếm ăn mười mấy năm.


7. Chuyện giao thông


Ở Hà Nội thì buồn cười lắm, xe ô tô đi vào làn xe đạp, xe máy chen kẽ vào giữa các làn xe hơi. Mặt đường kín bưng xe cộ, không ra hàng lối, lổm ngổm như cua bò cùng đen kịt kiến. Thế mà rất kỳ diệu, tất cả vẫn di chuyển về phía trước. Không khác gì xã hội vina. Lộn xộn vòng vèo ầm ĩ, thế rồi vẫn tiến lên, bất chấp mọi khó khăn và bàn cãi, ơn đảng và chính phủ năm sau cứ vẫn tốt hơn năm trước. Giống như đàn vina lừa, hết gặm cỏ thì kéo xe, lâu lâu mệt thì dừng xe. Chỗ nào xe đậu chỗ ấy là thiên đường xã hội chủ nghĩa. Nhân dân lúc nào cũng hạnh phúc nhất thế giới.


Ở Sài Gòn thì xe loại nào đi đúng làn xe ấy, chỉn chu, ngăn nắp. Đến đèn đỏ, lần lượt các xe dừng đúng vạch. Xe đến trước dừng trước, xe đến sau dừng sau. Nhưng mấy ông sau cùng thì lại làm vèo một phát chen chen leo lên đứng trước, đứng trên cả vạch, trên cả đèn. Đèn đỏ chuyển qua xanh đếch nhìn được vì mắt không nằm ở đít. Cứ đứng đấy. Làm cả đoàn xe nghiêm túc phía sau bấm còi bim bim rồi ì ạch chen lên. Đúng là tiến lên hàng đầu là tiến lên đâu, tiến lên hàng đầu là tiến lên trên. Rất hăng hái và tự tin phi lên trên xong rồi làm kỳ đà cản mũi đứng ịch ra ngăn cản tất cả những ai đang chăm chỉ đi lên theo đúng làn đúng lối. Cũng rất đúng với xã hội vina, các ông hăng hái xung phong tiến lên, hóa ra toàn làm vật cản cho tiến bộ xã hội. Từ giáo dục đến y tế, chỗ nào cũng thế, nhất là bọn biển xanh.


Chuyện đến đây là hết, chúc các bác ngủ ngon, và sáng mai thức giấc với bệnh sởi kinh hoàng đe dọa trẻ em và đe dọa sự bưng bít thông tin trong tuyệt vọng của bộ y đức và chính quyền.


8. Cứu Vua


Cô Anne hỏi tôi là mày sống ở đây à. Tôi bảo vâng. Nếu cô ấy là người Việt, nghe giọng tôi, cô ấy sẽ hỏi thêm là đến sống ở đây bao lâu rồi.


Bạn Tăm đi học lớp-cơm-nát ở trường Mầm Non. Sau một năm bạn ấy nói giọng khác. Có lần đến nhà người quen, có mấy con Xì-Trum, bạn ấy cầm một con lên:


- Đố bố con gì.

- Thì con này là con này là con Tí Vua

- Sai rồi, con này là con Tí Dzua.


Dồi, ở miền nam không có vua.


Thế rồi bạn Tăm nghỉ hè, chơi ở nhà, lại quên giọng mới. Bạn Subin đến chơi hơn một tuần. Về nhà, Subin nói với ba bạn ấy là nhà Tăm có xe ô tô đồ chơi, có xe “cấp kíu”. Ba bạn Subin bảo không phải “cấp kíu” mà là “cấp kứu”.


Gồi, miền bắc không có “kứu”.


Người nước ngoài có cái mẹo, để biết người Việt là ở vùng nào, họ bảo: mày nói từ áo-dài xem nào. Người Việt muốn biết người nước ngoài học tiếng Việt ở đâu hỏi lại: thế mày nói vịt-lộn xem nào. Quả này không đỡ được hehe. Từ “đỡ” hiểu kiểu này là kiểu miền bắc.


Người nam hay nói, giúp ngặt chứ không giúp nghèo. Lúc ngặt quá, bạn bè đỡ nhau: còn ít tiền, mày cầm xài đỡ.


Áo dài cấp kíu tí dzua.

Da-vô, xào đỡ con cua chiên xù


Ngày xưa có thằng cu em, mỗi lần ngồi sau xe nó và nó chạy xe điên đảo ngoài đường, nó hay bảo: Em là tay lái vua.


Tay vua phải có tí dzua

Nồi nào vung nấy, con cua hai càng


***


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 15, 2014 08:35

June 25, 2014

Trước và Sau

Tiếng Việt có cái thú vị là nó hơi lỏng lẻo.


Nói “Anh Khệnh về quê với vợ” có thể hiểu là anh ấy đi công tác xa quê, lấy vợ, nay cả hai vợ chồng cùng về quê; cũng có thể hiểu vợ sống ở quê, anh công tác xa nhà, nay về với vợ.


Hay câu đố vui mà trả lời thế nào thì cũng sai: “Con cún lúc tè, giơ chân sau hay giơ chân trước?”.


Hồi trước, câu hỏi cải cách nên thế nào, làm cái gì trước, cái gì sau, thật là khó trả lời. Người bảo phải cải cách thể chế trước. Người bảo kinh tế phải làm đầu tiên. Người bảo dân chủ phải làm ngay. Người bảo phải nâng cao dân trí, sau mới mở cho dân chủ.


Hồi sau này, ấy là sau khi giàn khoan cắm phập vào mặt chúng ta, tự nhiên trước-sau rõ ràng thành ra cái nghĩa khác.


Bây giờ trước là phía trước, là hải đảo, là chủ quyền, là phải đương đầu với giặc. Sau là phía sau lưng nhà vua ấy.


Muốn đương đầu ở phía trước với giặc rất hung bạo thì ở phía sau sức của ta phải mạnh, tinh thần của ta phải cứng cáp.


Phía sau, trước tiên là ở phía …trong các tủ lạnh. Tủ lạnh này tuyên bố cứng cỏi, xong không làm gì, chưa chắc đã phải là tủ lạnh nói suông để lấy lòng dân, mà có khi còn dăm tủ lạnh khác không nói gì cứ ì ra làm kỳ đà vì đến …cứng lòng mà có khi họ còn không dám.


Phía sau, sau rốt, là cả dân tộc: sức lực khỏe mạnh, tinh thần cứng cáp


Sức lực nằm ở kinh tế, tinh thần nằm ở xã hội.


Kinh tế phải thị trường, xã hội phải công dân.


Nhờ cái giàn khoan, tự nhiên nhận thấy rõ, để có thể đương đầu với đe dọa phía trước, phải giải quyết trước những vấn đề phía sau. Trong các vấn đề phía sau, lại có cái bên trong phải làm trước, cái bên ngoài làm sau. Trong những cái làm sau, rốt cuộc lại có cái cần ưu tiên làm trước. Cái ý ưu tiên này tính viết sau hóa ra đã viết từ mấy bài trước.


Đến đây là hết câu chuyện trước sau.


PS: Với các bạn chưa biết câu đố: con chó cún khi tè giờ chân trước hay chân sau. Nếu bạn trả lời nó giơ chân trước (khi tè) thì sẽ bị bẻ là con chó nó giơ cái chân sau của nó. Nếu bạn trả lời nó giơ cái chân sau (của nó) ,thì sẽ bị bẻ là nó phải giơ chân trước (khi nó tè).


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 25, 2014 00:31

May 13, 2014

Khác lối

Nhìn lại lịch sử chống ngoại xâm của Việt Nam và bỏ qua tất cả các yếu tố rườm rà che lấp, ta sẽ thấy có một điểm cực kỳ đặc biệt.


Tất cả các cuộc chiến chống ngoại xâm mà ta thắng, dù kẻ thù là Nam Hán, Tống, Thanh, Pháp, Mỹ, thì về cốt lõi ta đều khác đối thủ của mình: hoặc khác ý thức hệ, hoặc khác học thuyết quân sự, tư duy và công nghệ tác chiến; hoặc khác cả hai.


Lúc nó Nho giáo thì ta Phật giáo, lúc họ tự do thì ta cộng sản, lúc chúng dùng ngựa và cung tên thì ta dùng voi và hỏa hổ.


Lúc khác ý thức hệ mà kém về học thuyết quân sự thì chiến thắng phải qua trường kỳ, như Lê Lợi, như Việt Minh. Lúc vượt trội về tư duy tác chiến và công nghệ chiến đấu, như Quang Trung, thì đánh kẻ thù nào thắng cũng nhanh như rửa đít em bé.


Phải khác biệt thì mới chiến thắng.


Nhưng nay thì khó rồi. Ý thức hệ giống nhau. Bộ máy tổ chức từ đảng cầm quyền đến quân đội, chính quyền địa phương hao hao nhau. Định hướng nền kinh tế giống nhau. Phương thức quản lý xã hội cũng giống nhau. Tàu ngầm máy bay cũng giống nhau nốt. Giống cả tên tờ báo Nhân Dân. Haizz


Tàu không phải là nước có tư tưởng ở đẳng cấp đế quốc như La Mã hay Anh Quốc, mà nó chỉ có toán tính kiểu bá quyền. Hành vi của họ suốt mấy ngàn năm có thể chốt ở hai từ: To còi và Thô lỗ.


Mao lúc còn sống nói rất to và thô về chiến lược của Trung Quốc: phải chiếm đóng và khai thác Đông Nam Á, dù có phải trả giá đắt, vì đắt mấy cũng đáng. Một thứ bá quyền con buôn, đổi xác dân lấy lợi nhuận.


Thời phong kiến, và đến cả thời Mao, lối đi duy nhất của Tàu xuống phía nam là đất liền, qua ngả Việt Nam. Khống chế được miền bắc Việt Nam, là mở được cả đường bộ lẫn đường biển đưa quân đi xuống Đông Nam Á.


Đến thời Đặng, công nghệ và hải quân Trung Quốc phát triển. Nó chỉ cần khống chế đường biển là đủ làm Việt Nam nghẹt thở, bó chân bó tay, nó tha hồ lũng đoạn hàng hải. Nước cờ chiến lược đầu tiên là chiếm Hoàng Sa.


Việt Nam thời chiến và hậu chiến tuy nhà nước có lúc này lúc khác, nhưng về cơ bản là giống Tàu. Giống Tàu nhưng không phải là Tàu nên chỉ là bản sao kém cỏi của họ. Kém hơn nên luôn ở sau Tàu, không hiểu được Tàu, không nhìn xa bằng Tàu. Mỗi nước cờ nó đi ta đều bị động mà phải rất vất vả để chống đỡ. Có những nước cờ như Hoàng Sa, không biết bao giờ mới gỡ nổi. Giống về ý thức hệ còn tệ hơn nữa, nó còn kìm nén mình, không cho mình vùng lên mà gỡ lại.


Trong lịch sử chống Tàu, chưa bao giờ Việt Nam phải dựa vào ai, toàn tự mình đánh thắng. Nhưng đó là những lúc mình khác Tàu, không giống nhau đến rùng mình thế này.


Phải chọn lối khác thôi.


Họ không chịu dân sự hóa nhà nước của họ thì mình phải dân sự hóa nhà nước mình.  Đây là chỗ yếu nhất của họ. Và là chỗ gần như là duy nhất mình có thể thay đổi để vượt lên họ.


Nếu nhà nước của họ là nhà nước công an trị, nhà nước mình phải là dân trị, thì mình mới thắng được họ. Nhà nước họ là đảng phiệt, quân phiệt, mà mình thành nhà nước dân chủ, thì mình thắng họ.


Mình đang có đà và có cơ hội để rẽ qua lối khác. Nhưng chỉ tích tắc ngần ngừ thôi, là đà mất mà cơ hội tiêu tan.


Mình có thể bắt đầu từ chỗ dang dở. Đó là giết hẳn cái định hướng xã hội chủ nghĩa thị trường cho nền kinh tế thị trường. Cái thành phần khủng long quái gở là kinh tế quốc doanh, Tàu họ dùng làm vũ khí kinh tế để thuần dưỡng các nước nghèo phải phụ thuộc vào họ, như nước Cambodia, rồi chọc vào nách mình. Nay nhà nước đừng ôm kinh tế nữa, để dân làm nốt đi, làm nốt cả việc buôn bán có lợi cho Cambodia, nhà nước chỉ tập trung vào lo luyện quân cho tốt.


Rồi đến xã hội dân sự . Tàu họ ngăn cản xã hội dân sự, mình phải cho dân làm việc quản lý xã hội. Bắt đầu từ hội bóng đá liên đoàn, đến hội nhà thơ, hội nhà báo, hội nọ hội kia. Nhà nước không cần phải ôm mấy cái hội ngớ ngẩn tốn tiền ăn hại như bóng đá, nhà văn nữa. Để nhân dân làm. Để nhân dân làm việc dân sự của xã hội thật nhiều vào, nhà nước sẽ rảnh tay lo việc chống Tàu cho hiệu quả.


Đại khái phải là như thế. Người dân nhìn nhà nước như ếch ngồi đáy giếng nhìn trời, không biết gì hơn. Bầu trời nào cũng là cái vung cả. Nhưng có cái vung trong hơn và xanh hơn.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 13, 2014 09:02

April 16, 2014

Chuyện ăn thịt chó và chuyện đồng bào

(Copy lại từ status của FB)

Chuyện ăn thịt chó


Chữ “thực dân”, xưa nay ta hiểu là “thuộc địa”. Nói chế độ thực dân Pháp, ngầm hiểu là chế độ thuộc địa. Còn nếu dịch ra tiếng Mỹ thì là colony. Nghe nói chữ này bắt nguồn từ chữ latin ở thế kỷ 13, 14 là Colonia, là từ chỉ đám dân La Mã đi chiếm đóng và sống ở ngoài La Mã.


Đâm ra lâu dần làm mất hẳn cái nghĩa Thực-Dân. Tôi để ý các sách lịch sử, chỉ có sách của Hồ Tài Huệ Tâm là dịch Thực Dân ra tiếng Anh là Ăn Dân (people eating thì phải, quên rồi, nhưng đại khái thế).


Bọn Pháp đô hộ ta nó ăn dân, ăn đồng bào ta. Sau đó ta nổi dậy ăn lại nó. Nổi dậy, ăn Pháp xong, ăn Mỹ xong, thì ăn gì? Có ăn lại dân không hehe?


Hôm rồi có status nói chuyện về chữ “đồng-bào”. Nối với chuyện này, ta thấy: người ăn chó thì chó nó khó ăn lại người. Chính phủ cũng tha hồ ăn chó, không có sợ gì. Nhưng chính quyền mà ăn đồng bào của mình thì liệu đồng bào có nên thịt lại chính phủ không?


Nhân đây, các bác đừng có bàn chuyện ăn chó nữa, toàn trí thức nhớn mà cứ ăn chó hay không ăn chó, chán bỏ mẹ, bàn chuyện ăn người đi hehehehe.


 


Chuyện đồng bào


Nhân giỗ quốc tổ nói chuyện “đồng bào”. Mở ngoặc, quốc tổ là founder của nước ta, chứ không phải founder của dân tộc ta, lại không phải là duy nhất, vì quốc tổ có rất nhiều người, ở nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, đóng ngoặc.


“Đồng bào” là một cái từ chỉ những người cùng một bọc, ý là dân tộc cùng sinh ra từ 100 trứng của Âu Cơ. Đại khái thế, có thể không chính xác, nhưng không quan trọng lắm.


Năm Mậu Thân, không phải mậu thân 1968 đâu, mà Mậu Thân 1908. Lúc đó Annam còn lạc hậu lắm, sống dưới ách đô hộ Pháp, và Nam Triều thì nhu nhược. Thế mà năm đó lần đầu tiên người dân, tập hợp lại, tay không đi lên gặp chính quyền, đòi giảm sưu thuế. Thời đó chưa có các từ kiểu cách mạng, biểu tình gì gì cả, chắc cũng chưa có từ quần chúng cũng nên. Nhóm đông dân chúng đi đòi giảm sưu này bị bắn, bị đánh, bị bắt. Những kẻ nổi loạn chống lại cai trị ngày xưa đều bị gọi là giặc. Đám giặc ấy không cướp của ai, không hại ai, họ chỉ đòi quyền lợi cho nhân dân. Vậy nhân dân gọi họ là Giặc gì lúc bấy giờ?


Họ gọi là “giặc đồng bào”.


 


Chuyện giao thông


Ở Hà Nội thì buồn cười lắm, xe ô tô đi vào làn xe đạp, xe máy chen kẽ vào giữa các làn xe hơi. Mặt đường kín bưng xe cộ, không ra hàng lối, lổm ngổm như cua bò cùng đen kịt kiến. Thế mà rất kỳ diệu, tất cả vẫn di chuyển về phía trước. Không khác gì xã hội vina. Lộn xộn vòng vèo ầm ĩ, thế rồi vẫn tiến lên, bất chấp mọi khó khăn và bàn cãi, ơn đảng và chính phủ năm sau cứ vẫn tốt hơn năm trước. Giống như đàn vina lừa, hết gặm cỏ thì kéo xe, lâu lâu mệt thì dừng xe. Chỗ nào xe đậu chỗ ấy là thiên đường xã hội chủ nghĩa. Nhân dân lúc nào cũng hạnh phúc nhất thế giới.


Ở Sài Gòn thì xe loại nào đi đúng làn xe ấy, chỉn chu, ngăn nắp. Đến đèn đỏ, lần lượt các xe dừng đúng vạch. Xe đến trước dừng trước, xe đến sau dừng sau. Nhưng mấy ông sau cùng thì lại làm vèo một phát chen chen leo lên đứng trước, đứng trên cả vạch, trên cả đèn. Đèn đỏ chuyển qua xanh đếch nhìn được vì mắt không nằm ở đít. Cứ đứng đấy. Làm cả đoàn xe nghiêm túc phía sau bấm còi bim bim rồi ì ạch chen lên. Đúng là tiến lên hàng đầu là tiến lên đâu, tiến lên hàng đầu là tiến lên trên. Rất hăng hái và tự tin phi lên trên xong rồi làm kỳ đà cản mũi đứng ịch ra ngăn cản tất cả những ai đang chăm chỉ đi lên theo đúng làn đúng lối. Cũng rất đúng với xã hội vina, các ông hăng hái xung phong tiến lên, hóa ra toàn làm vật cản cho tiến bộ xã hội. Từ giáo dục đến y tế, chỗ nào cũng thế, nhất là bọn biển xanh.


Chuyện đến đây là hết, chúc các bác ngủ ngon, và sáng mai thức giấc với bệnh sởi kinh hoàng đe dọa trẻ em và đe dọa sự bưng bít thông tin trong tuyệt vọng của bộ y đức và chính quyền.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 16, 2014 20:49

March 31, 2014

Nhân sự trong vỏ hạt dẻ

Trong cuốn sách Freakonomics của nhà kinh tế Steven Levitt có một trường hợp nghiên cứu khá thú vị. Có một năm tự nhiên tỷ lệ tội phạm dùng súng ở Hoa Kỳ giảm toẹt xuống. Bất ngờ quá, người ta đi tìm nguyên nhân. Các nguyên nhân được tính đến, từ nâng chất lượng lực lượng cảnh sát đến các đạo luật kiểm soát vũ khí cá nhân, đều được xem xét. Mà hóa ra đều không phải. Tỷ lệ tội phạm giảm đột ngột, là do cách đấy mấy chục năm Mỹ cho phép phụ nữ phá thai. Nhờ phá thai mà các đứa trẻ lẽ ra phải sinh ra trong hoàn cảnh ngặt nghèo khó nuôi dạy nên người, đã không phải ra đời nữa. Từ lúc đạo luật được thực thi đến lúc nó  có tác dụng xã hội, mất mấy chục năm, và khi nó có tác dụng thì rất bất ngờ, cả ở thời điểm lẫn kết quả.


Trong những năm 1945-1953, Việt Minh tiễu trữ tảo thanh các phần tử đối lập nổi bật rất mạnh tay. Nên đến năm 1956 chính quyền Việt Nam Cộng Hòa gặp các vấn đề thiếu hụt nhân sự lãnh đạo cao cấp để lắp vào chính quyền mới. Ngô Đình Nhu buộc phải dùng những người giỏi hiếm hoi mà chính phủ tuyển dụng được vào cùng lúc nhiều chức vụ khác nhau trong nội các. Ở chính quyền địa phương, cả Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu buộc phải sử dụng lại công chức cũ thời thực dân, thậm chí có dính đến tận phong kiến. Mà hồi đó “đả thực phản phong” rất mạnh. Đến năm 1960 thì vấn đề nhân sự yếu kém của chế độ đệ nhất VNCH bộc lộ nhược điểm nặng nề. Nay nhìn lại, thấy cả tình báo miền bắc len vào (chưa kể tình báo các nước khác mà ta không biết). Chính quyền đệ nhất VNCH có những bộ óc rất tốt ở cấp cao, nhưng bộ sậu nội các, chính quyền địa phương và đặc biệt là quân sự rất yếu kém. Và nó sụp đổ rất nhanh chỉ trong vòng khoảng ba năm dưới các loại sức ép.


Chưa hết, nhân sự của phe đảo chính lại còn yếu kém hơn nữa. Chính các trí thức am hiểu thời sự miền nam, sau này còn than là các nhà lãnh đạo quốc gia (VNCH) sau 1963 toàn là chính trị gia tép riu.  Sau đảo chính, chính trường miền nam phải mất tới mấy năm để bình ổn bộ máy (1963-1966), phải sử dụng lại cả các chính trị gia đã hết thời. Nhưng rồi sau đó, sự yếu kém, tham lam của hệ thống lãnh đạo nhanh chóng gây ra các vấn đề trầm trọng và làm sụp đổ toàn bộ hệ thống chỉ trong vòng chưa đến mười năm (1975).


Bây giờ nhìn vào phía Mỹ. Ta thấy Mỹ hoặc là hứa lèo với các nước để dụ dỗ, còn không thì họ hứa thật. Và khi họ đã hứa thật thì các nước bạn của họ đều trở nên khấm khá (Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, gần đây  là Ba lan). Và họ hiếm khi bỏ rơi đồng minh. Vậy mà họ đã bỏ rơi VNCH. Có nhiều lý do, nhưng lý do sâu xa chính là chính quyền và quốc hội Hoa Kỳ không còn lòng tin vào chất lượng nhân sự của lãnh đạo chính quyền và và lãnh đạo quân đội của VNCH. Không tin nữa thì họ quốc hội Mỹ bỏ phiếu bỏ rơi luôn (1972-1973). Nhìn vào những người đứng đầu nhà nước VNCH, trước 1975 là Diệm Nhu, chưa biết tài thế nào, nhưng làm việc quần quật, chăm chỉ, phụng sự tổ quốc. Còn sau đảo chính thì toàn các vị thích lên media chém gió, ăn chơi, gái mú nhảy đầm. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, các vị , dù đang là lãnh đạo quốc gia, đều cùng gia quyến lượn ra nước ngoài cả, không một ai ở lại với người dân của mình. Chất lượng nhân sự lãnh đạo quốc gia như vậy đấy, không thể trách móc nước Mỹ được.


Nói vắn tắt, chính sách loại trừ triệt để các nhân vật có tiềm năng lãnh đạo đối lập ở miền nam (1945-1953), đã có tác dụng bất ngờ sau chưa đến hai mươi năm (1955-1973). Trồng cây là lợi ích trăm năm. Nhưng đốn cây chỉ 20 năm là hậu quả kinh hoàng, kính thưa các bác.


Bồi dưỡng con người nói chung là khó, xây dựng các thế hệ lãnh đạo tương lai còn khó hơn. Việc “dạy” cho họ học “các lý thuyết cai trị” không khó. Các trường Đảng, trường cao cấp chính trị gì đó, có thể làm được hết. Tuy rằng tôi không tin lắm là họ dạy những kiến thức lãnh đạo cập nhật, hiện đại và có nhiều lợi ích cho tương lai đất nước. Cái khó là phát hiện và trui rèn  những nhân sự tiềm năng để rồi một ngày nào đó dùng cho tương lai. Cái khó là làm sao để thế hệ lãnh đạo sau phải tài giỏi hơn các thế hệ trước.


Cách phát hiện, trui rèn ấy hiện nay là gì? Là bỏ phiếu bình chọn với nhau rồi luân chuyển cán bộ.


Bây giờ nói chuyện cổ một chút. Thời Pháp thuộc, rồi Nhật chiếm, bị đè đầu, nên dân ta cần kích thích tinh thần dân tộc, để mà tự hào. Vì quá cần nên kích động lên hơi quá. Rằng nước ta mấy ngàn năm văn hiến. Lúc đánh Tây đánh Nhật thì cái doping này là cần. Nhưng lúc kiến thiết đất nước thì nó lại phản tác dụng.


Sự thực, nước ta lập quốc rất muộn, vào thế kỷ thứ 10. Bắt đầu từ Khúc Thừa Dụ ly khai, rồi đến Ngô Quyền đánh quân Nam Hán và Đinh Bộ Lĩnh xưng Đế.


Muộn và còn bé, chỉ loanh quanh lưu vực sông Hồng sông Mã.


Phía trên là nước Tàu lúc đấy là đại đế quốc. Xung quanh một bên sát sườn là các dân tộc thiểu số tự trị, một bên là biển.


Phía dưới là Chiêm Thành, lúc bấy giờ đã có lịch sử vài trăm năm và đã là cường quốc. Lập quốc từ thế kỷ thứ II, đến thế kỷ thứ VII thì Chiêm Thành (Lâm Ấp) đã thành cường quốc. Nó đứng giữa hai nền văn hóa Ấn – Hán và giữa hai nước Việt – Phù Nam. Nó rất thiện chiến và giỏi đi biển.


Bắt đầu từ Lê Hoàn, một chính trị gia cầm gươm cưỡi ngựa, ta mới mở rộng về phía nam. Qua Lý qua Trần. Đến Lê Thánh Tông, khoảng 1471, tức là khoảng 5 thế kỷ sau khi nước Việt lập quốc, về cơ bản mới thôn tính được Chiêm Thành để có thêm vùng Trung và Nam Trung Bộ của Việt Nam ngày nay.


Nhưng đến tận giữa thế kỷ 19, đến thời Minh Mạng, vị vua thứ hai của nhà Nguyễn, nước ta lúc đó tên là Đại Việt, mới chính thức thống nhất lãnh thổ, bao gồm cả vùng đất rộng lớn thuộc vương quốc cổ Phù Nam (thế kỷ II) và sau này là Thủy Chân Lạp. Khoảng năm 1840 tức là cách ngay nay chưa đến 180 năm, lãnh thổ nước ta mới định hình gần như bây giờ, và lúc đó lần đầu tiên có một chính quyền trung ương đủ mạnh và có công cụ cai trị đủ tốt để cai quản đất nước.


Thời Minh Mạng, nay nhìn lại, thì ông vua tài năng này đã gặp vô số các vấn đề mà ngay ở thời hiện đại cũng rất đau đầu: sắc tộc, cát cứ, ly khai, đòi tự trị. Minh Mạng tất nhiên là chính quyền phong kiến tập trung không thích điều ấy. Với công cụ hành chính và quân đội trong tay, Minh Mạng bình định tất cả. Cải cách hành chính của Minh Mạng bao gồm các biện pháp chính sau đây: chia địa lý hành chính rất hợp lý theo năng lực quản lý hành chính để tiện cho việc cai trị (đến nay vẫn còn giá trị), sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt thống nhất, và cải tổ chính sách nhân sự.


Chính sách nhân sự “hồi tỵ” không phải là mới mẻ, mà nó đã có từ thời Lê Thánh Tông (1486) khi ông vua huyền thoại này gặp các vấn đề về cai trị lãnh thổ mở rộng, đối diện với các bộ tộc thượng và đặc biệt là phe phái cát cứ mà ngày nay ta vẫn quen dùng từ “thân hữu” (crony, cánh hẩu, bè cánh).


Chính sách “hồi tỵ” của Minh Mạng (1831, cách đây 183 năm) chính là chính sách luân chuyển cán bộ giống Việt Nam đang thực hiện bây giờ, nhưng quy định chặt chẽ và khắt khe hơn nhiều. Trừng phạt nếu vi phạm cũng tàn nhẫn hơn. Chính sách luân chuyển cán bộ của Minh Mạng đã chấm dứt sự cai trị lâu đời của các dòng họ người dân tộc vùng cao và các lãnh chúa địa phương nhất là các lãnh chúa phía nam hoặc thượng du vốn có quân đội riêng. Ngay lập tức loạn lạc nổi ra, các thủ lãnh bất mãn nổi dậy, mà sử Việt Nam ngày nay gọi là khởi nghĩa nông dân chống phong kiến (thực ra là nổi dậy vì quyền lợi bị chính quyền trung ương can thiệp). Ở mặt bằng xã hội lúc bấy giờ, hệ thống cai trị bằng hành chính của Minh Mạng quá ưu việt, người tài do vua cha Gia Long để lại cũng còn nhiều, nên chính quyền trung ương dẹp yên cả. Nhà Nguyễn đi vào ổn định.


Chính sách luân chuyển của Minh Mạng so với  chính sách của VN hiện nay ở thì có nhiều điểm tốt hơn. Ví dụ quan chức luân chuyển về địa phương là phải thay mặt triều đình mà vận hành công việc cai trị thực sự, làm ăn bố láo là triều đình xử lý ngay. Hoặc ở nơi chỗ các ngành cần nghề chuyên môn sâu, thì không áp dụng chính sách luân chuyển (ví dụ y tế, lịch pháp). Thế nhưng chính sách hành chính hồi tỵ của Minh Mạng chỉ có tác dụng cai trị, đã không làm được việc  bồi dưỡng và phát hiện tài năng lãnh đạo cho tương lai.


Thời nhà Nguyễn xuất hiện rất nhiều bộ óc sáng láng, rất nhiều ý tưởng cách tân xã hội, nhưng đều bị chính quyền phủi tay. Chính là do hệ thống lãnh đạo của nhà Nguyễn chỉ bồi dưỡng và thu nạp vào hệ thống những người cốt phục tùng chính quyền. Dẫn đến lãnh đạo chính quyền các cấp: thiếu năng lực trách nhiệm và thiếu chính trực và nhất mực thần phục hoàng gia. Họ không tự nguyện xông ra gánh vác bất cứ trách nhiệm nặng nề nào, lại không dám nhận trách nhiệm với những thất bại. Trường hợp tuẫn tiết như Phan Thanh Giản không nhiều. Từ phía chính quyền, họ tạo ra hệ thống nhân sự cốt bảo vệ triều đình và ổn định xã hội theo cách triều đình muốn, chứ không cần bộ máy lãnh đạo để phát triển đất nước. Nên thời nhà Nguyễn, nước lớn mà năng lực cạnh tranh và sức mạnh quân sự tụt hậu dần.


Kết quả là, chính sách luân chuyển cán bộ của Minh Mạng khiến đất nước suy yếu, quân đội bạc nhược. Và chỉ ba mươi tư năm sau khi thực hiện cải cách hành chính (thành công) và cải cách nhân sự (thất bại một nửa) thì 3 tỉnh miền đông mất vào tay Pháp (1862) và chẳng mấy sau đó mà mất cả nước. Tất nhiên đây là cái chuyện trong cái rủi luôn có cái may và ngược lại. Nhưng phải nhìn nhận rằng, nếu chính sách đốn cây làm chế độ tèo rất nhanh trong hai mươi năm, thì chính sách trồng cây lăng nhăng cũng đưa đất nước vào thảm họa chỉ trong vòng chưa đến bốn mươi năm.


Chính sách luân chuyển cán bộ, như vậy, chưa từng tạo ra đội ngũ lãnh đạo mới tốt hơn đội ngũ lãnh đạo cũ, tức là nó làm ra đội ngũ lãnh đạo kế cận yếu hơn các bậc tiền bối. Vả lại, thời toàn cầu hóa, tài chính và thông tin lưu thông trong nháy mắt, lưu chuyển cán bộ đi đâu thì thực ra họ muốn làm chuyện tham tàn, họ vẫn cứ làm được ngay thôi. Ngay cả ở Trung Quốc hiện nay, cũng áp dụng luân chuyển cán bộ, cho nên dù nền kinh tế vọt lên thứ hai thế giới và đầu tư quân sự mỗi năm hơn một trăm tỷ dollar Mỹ, thì các học giả Trung Quốc vẫn cho rằng quân đội Trung Quốc dù có vẻ rất lắm tiền và hiện đại, nhưng  so sánh tương đối (với các đối thủ) thì trình độ lãnh đạo quân sự đã lùi về trình độ nhà Thanh.


Thế làm thế nào để có các lãnh đạo kế cận không chỉ trẻ hơn, giỏi hơn, nhìn xa hơn mà còn được quyền dẫn dắt đất nước thành rồng? Ta hãy nhìn vào các lãnh đạo đã dẫn dân tộc ta đi qua hai cuộc kháng chiến, và nhìn vào các lãnh đạo xây dựng nền cộng hòa ở phía nam. Họ ở đâu ra?


Họ xuất hiện, trưởng thành, và trở thành lãnh đạo chính trị, lãnh đạo quốc gia từ các phong trào xã hội. Họ là các nhà hoạt động xã hội non và trẻ, dần dần được tôi luyện thành chính trị gia. Cũng phải mở ngoặc luôn, là hoạt động xã hội đang nói ở đây là xã hội thật sự, từ báo chí đến hội đoàn, chứ không phải hoạt động xã hội kiểu đoàn đội đánh trống múa rối xơ cứng từ hình thức đến nội dung hiện nay. Thế nhưng dù muốn hay không, thì môi trường để phát sinh ra các nhà hoạt động xã hội, vẫn phải được bật đèn xanh từ tầng lớp cai trị.


Sau thời kỳ cai trị khắc nghiệt của toàn quyền Paul Doumer (1897-1902), qua toàn quyền Paul Beau (1902-1907) bớt khắc nghiệt hơn một chút, thì đến toàn quyền Albert Sarraut nền cai trị thuộc địa mới thực sự bắt đầu cởi mở. Chính sách của Sarraut thiên về bảo vệ lợi ích dân bản xứ và bảo tồn văn hóa xã hội của họ. Trong hai nhiệm kỳ của Sarraut (1911-1914, 1917-1919) một xã hội dân sự (civil society) hiện đại kiểu phương tây tuy nhỏ bé và nhiều hạn chế, đã thực sự hiện hữu ở Đông Dương thuộc Pháp, nhất là ở Cochinchina (Nam Kỳ). Chỉ trong một thời gian rất ngắn ươm mầm, chưa đầy một thập kỷ, và thời gian để các nhà hoạt động bén rễ và trưởng thành, cũng chỉ khoảng vài năm, xã hội Việt Nam đã có Tự Lực Văn Đoàn rất hoành tráng và vô số các nhà hoạt động xã hội nổi bật, sau đó trở thành hoạt động chính trị hàng đầu, và sau này là những nhà lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo kháng chiến. Có thể tìm hiểu họ là ai và làm gì ở bài viết này.


Tức là nếu lợi ích của việc trồng cây có thể cả trăm năm như tục ngữ, thì việc tạo ra vườn ươm xã hội để từ đó các nhà hoạt động xã hội có chỗ để hoạt động, để được phát hiện và trui rèn, thì chỉ khoảng hai mươi năm là có tác dụng. Và tác dụng vô cùng lâu dài.


Một ví dụ khác. Sau đệ nhị hiến pháp năm 1967, Việt Nam Cộng Hòa có một xã hội dân sự thực sự được pháp luật bảo vệ. Chỉ trong một thời gian tương đối ngắn, các tổ chức và hoạt động xã hội của họ đã sinh ra khá nhiều tay hoạt động xã hội nổi bật. Những tay hoạt động xã hội nồng nhiệt này đã góp phần vào sự sụp đổ hoàn toàn của miền năm (1973-1975). Sau 1975, không tính những người vượt biên, thì nhiều người trong số họ ở lại và thành nòng cốt lãnh đạo báo chí, thanh niên, kinh tế, doanh nghiệp sau 1975 và trong thời kỳ mở cửa. Tức là quá trình phát hiện, bồi dưỡng, trui rèn cho thế hệ lãnh đạo này, thậm chí chỉ mất chưa đến mười năm.


Tất nhiên, nhà nước biết, nhìn thấy và hiểu tất cả những việc này. Họ đã từng thủ lợi cực nhiều từ hai ví dụ về xã hội dân sự ở trên với vô vàn lãnh đạo có năng lực gia nhập hệ thống của họ. Ví dụ như bác sỹ Phạm Ngọc Thạch là thủ lãnh Thanh Niên Tiền Phong (xem thêm ở đây) trưởng thành từ các hội đoàn do nhà cầm quyền bảo trợ, sau thành thủ lĩnh kháng chiến khét tiếng. Thử tưởng tượng ngày nay có một tay bác sĩ như vậy mà ngược lại xem sao. Vậy thật là dễ hiểu khi nhà nước chỉ nhìn và hiểu cái sự tiêu cực và nguy hại (cho họ trong ngắn hạn) thay vì nhìn thấy cái lợi trong dài hạn cho đất nước. Tất nhiên, cái thế lưỡng nan ở đây, là các biện pháp ngăn chặn các rủi ro ngắn hạn, tránh vết xe đổ như đã xảy ra với chính quyền Nhật (1945), chính VNCH (1975), thì cũng sẽ là nguyên nhân dẫn đến các rủi ro trung hạn như đã xảy ra với nhà Nguyễn (1858 -1884: mất nước vào tay Pháp).


Nước ta tuy già trên nhận thức tuyên truyền với tận 4000 năm lịch sử. Nhưng sự thực, tuổi sinh học của Việt Nam trẻ hơn nhiều, chưa đến 1000 năm. Thậm trí tuổi nhận thức, tuổi trí thức của một “dân tộc – quốc gia” thậm chí còn trẻ hơn nữa, đến mức “trẻ con”. Còn trẻ tức là còn phát triển. Thế nhưng nước Việt Nam có đi vào con đường của rồng hay không, hihi, không tùy thuộc vào dân tộc nhiều, mà tùy thuộc nhiều hơn vào cách mà các lãnh đạo trẻ của đất nước được bồi dưỡng và nâng cấp.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on March 31, 2014 06:15

February 25, 2014

Chuyện hai cầu

Trong ảnh này có hai cái cầu đi vào đền Ngọc Sơn, người đi trên cầu ăn mặc có Hai Cau The Hucvẻ trang trọng.


Năm 1945, Nhật dựng chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ “Đế quốc Việt nam” này tồn tại rất ngắn ở Huế nhưng đã kịp bổ nhiệm cho Hà Nội thị trưởng đầu tiên của mình: ông Đốc Lý Trần Văn Lai. Ông bác sỹ này là người đã quốc ngữ hóa toàn bộ văn bản hành chính của thành phố Hà Nội. Trước đó ngôn ngữ chính thức của công quyền là tiếng Pháp.  Ông cũng đặt lại tên danh nhân Việt (rất nhiều danh tướng) cho các con đường mang tên Pháp, bỏ tên Pháp lấy lại tên cũ cho khu phố cổ. Nhân tiện, ông cũng cho giật nốt mấy cái tượng, trong đó có tượng Bà Đầm Xòe (Lady Liberty) ở Cửa Nam và tượng Paul Bert (nay là chỗ tượng Lý Thái Tổ). Lúc này Hà Nội chưa có tượng Lenin.


Đến khi Pháp chọn giải pháp Bảo Đại và dựng Quốc gia Việt Nam (1949), thì chính phủ mới này bổ nhiệm ông thị trưởng thứ hai của Hà Nội (1950): một ông nhà giàu ăn mặc rất đẹp, gốc Hoa, tên là Thẩm Hoàng Tín. 9390913726_84eda41ebb_o


Tết năm 1952 cầu Thê Húc bị gãy. Thị trưởng Thẩm Hoàng Tín xóa sổ cầu cũ, tổ chức thi thiết kế cầu mới. Thiết kế của kỹ sư Nguyễn Ngọc Diệm được chọn. Trong quá trình xây lại cầu, họ dựng cầu tạm bên cạnh. Ảnh chụp có hai cây cầu phía trên, có lẽ là ảnh hôm khai trương cầu Thê Húc mới: vẫn còn cầu tạm, và khách đi trên cầu ăn mặc rất đẹp. Năm 1952 đang là chiến tranh Pháp Việt, nên sự kiện này hẳn là rất được gây chú ý của cư dân Hà Nội.


Sau 1954 cả hai ông thị trưởng Trần Văn Lai và Thẩm Hoàng Tín đều không di cư vào Nam mà ở lại Hà Nội. Trần Văn Lai sau làm thứ trưởng, làm phó chủ tịch thành phố. Con của ông Thẩm Hoàng Tín có người ở Pháp, nên sau này ông đi Pháp chữa bệnh (1979), ở lại Pháp với con, mất tại Pháp. Con gái ông Thẩm Hoàng Tín là vợ của giáo sư sử học Lê Thành Khôi, và là mẹ của ngôi sao nhạc jazz Nguyên Lê. Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Diệm cũng ở lại và có thêm một số công trình như cổng công viên Thống Nhất (cổng đường Nam Bộ, nay là Lê Duẩn), cầu trong công viên, khu tập thể (xưa là tiểu khu) Nguyễn Công Trứ.


***


Hà nội duyên khởi


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 25, 2014 01:20

February 13, 2014

Trong vỏ hạt dẻ (tiếp và hết)

Là con một gia đình dòng dõi ở Chicago, Albert Peter Dewey vào học đại học Yale, tốt nghiệp, đi làm phóng viên thường trú ở Paris cho Chicago Daily News và thực hiện các nhiệm vụ ngầm cho Rockefeller. Thế chiến 2 nổ ra, Dewey đăng lính và cuối cùng ra nhập OSS (cơ quan tiền thân của CIA). Vào tháng 9 năm 1945, Dewey được cử đến Sài Gòn, đứng đầu một toán OSS có 7 thành viên, để đại diện cho quyền lợi Hoa Kỳ. Lúc đó Hoa Kỳ chưa có cơ quan ngoại giao ở Đông Dương thuộc Pháp.


Khoảng một tháng trước khi OSS đến Sài Gòn, quân Nhật bất ngờ đảo chính Pháp ở Đông Dương, bắt giữ tù binh (POW), trong đó hơn 200 người Mỹ. Việt Minh lúc này là lực lượng chống Nhật và được quân đồng Minh (Anh và Mỹ) yểm trợ. Một nhóm OSS khác, toán Con Nai, đi vào vùng rừng núi phía bắc đã huấn luyện nhóm của Võ Nguyên Giáp và cứu Hồ Chí Minh khỏi cơn sốt rét ác tính.


Nhóm của Dewey làm việc với Việt Minh để bảo vệ quyền lợi Hoa Kỳ, cụ thể là khoảng hơn 200 tù nhân POW bị Nhật giam giữ gần Sài Gòn. Chỉ mấy tháng sau tình hình thay đổi, quân đội Anh (20th Indian Division của Douglas David Gracey) vào giải giáp Nhật. Người Anh công nhận lãnh thổ của Pháp ở Indochina và thả tù binh Pháp ra, tái vũ trang để chống lại Việt Minh lúc này đã hiện rõ là cộng sản. Dewey phải đi ra khỏi Sài Gòn. Từ Continental, Dewey lái xe ra sân bay, đón hụt máy bay, lái xe trở về khách sạn. Trên đường về bị lực lượng Thanh Niên Tiền Phong  của Phạm Ngọc Thạch chặn, tưởng nhầm là người Pháp, bắn chết.  Dewey là lính Mỹ đầu tiên chết ở Đông Dương. Lúc đó là tháng 12 năm 1945.


Ở thời điểm này không ai ngờ được rằng sẽ có hai cuộc chiến lớn sẽ xảy ra ở mảnh đất Đông Dương: chiến tranh Pháp- Việt và chiến tranh Mỹ – Việt. Hai cuộc chiến được gọi lần lượt là Chiến tranh Đông Dương lần 1, và Chiến tranh Đông Dương lần 2.


Năm 1950, gần 5 năm sau cái chết của Dewey, Hoa Kỳ mới mở cơ quan ngoại giao của mình ở Sài Gòn. Đó là lúc Anh và Mỹ công nhận Quốc Gia Việt Nam (State of Vietnam) của Quốc trưởng Bảo Đại, như một đối trọng với việc Liên Xô và Trung Quốc công nhận chính phủ Hồ Chí Minh ở vùng rừng núi phía bắc. Cùng một lúc, ở Đông Dương, tự nhiên có hai chính phủ cùng đòi hỏi sư hiện diện hợp pháp của mình trên toàn cõi Việt Nam. một cõi mà phải đến tận năm 1975 mới liền một dải.


Tính chính danh không phải là trò chơi quyền lực xa lạ gì với mảnh đất này. Tây Sơn khởi nghĩa lúc đầu chỉ là hùa theo tính chính danh của hoàng tôn nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Dương để chống lại bọn tham nhũng lộng hành làm khổ dân là Trương Phúc Loan. Rồi Tây Sơn đánh nhau thua quân Trịnh, đầu hàng, rồi hùa theo quân Trịnh để lấy chính danh nhà Lê để đánh nhà Nguyễn tan tác khỏi đất miền nam. Đánh nhà Nguyễn xong, để Nguyễn Nhạc lên làm vua miền trong để lấy chính danh, Nguyễn Huệ bị ép ra mảnh đất hẹp miền trung, một lần nữa phải dương tính chính danh phù Lê để ra bắc làm thịt nhà Trịnh. Nhà Trịnh lúc này tiếm quyền vua Lê đã quá lâu, mà bóc lột nhân dân cũng quá đà. Diệt xong nhà Trịnh, Nguyễn Huệ cướp bóc Bắc Hà, rút về miền trung để lại khoảng trống mênh mông quyền lực và xơ xác vật chất. Lê Chiêu Thống dại dột qua Tàu rước quân ngoại xâm về, để lại khoảng trống chính danh. Nguyễn Huệ nhanh chóng lấp mình vào chỗ chính danh ấy, lên ngôi Hoàng Đế, sử dụng địa phương quân đánh chặn quân Thanh từ biên giới về đến đất Kinh Kỳ. Theo Nguyễn Duy Chính,  từ miền trung Hoàng Đế Quang Trung (đã bí mât lên ngôi) cử một cánh quân đi vòng qua Ai Lao (quân bộ) và  một cánh quân đi đường biển đánh ra bắc. Hai con đường này, quân Chiêm Thành đã từng dùng để đánh Thăng Long. Nguyễn Huệ cầm một đạo quân đi nhanh ra Nghệ An, huy động quân đội và dân công tại chỗ, một know-how quân sự mà chỉ có Việt Minh đánh Điện Biên sau này mới làm nổi, rồi tiến phăng phăng ra bắc. Chiến thắng Kỷ Dậu đưa Quang Trung lên hàng siêu sao về quân sự, thống nhất Trung – Bắc, đồng thời để lại bài học cho quân đội Việt Nam sử dụng địa phương quân đánh 60 vạn quân Đặng Tiểu Bình năm 1979. Chỉ có một điểm khác. Quân Quang Trung truy sát tàn nhẫn quân Thanh khi bọn này rút chạy, khiến cho nhiều năm sau chúng còn khiếp sợ không dám khiêu khích. Quân Việt Nam năm 1979 tuyên bố cho Trung Quốc rút quân (từ 7 đến 18 tháng 3 năm 1979) khiến chúng khinh nhờn mà kéo dài xung đột biên giới đến 1988.


Thế nhưng mải mê chinh chiến mà Quang Trung để lơ là phía nam khiến Nguyễn Ánh có cơ mà nổi lên như bão. Nguyễn Ánh khi trở lại, lại mượn tạm tính chính danh của nhà Lê để bày trò Phục Quốc, bằng cách sử dụng niên hiệu Cảnh Hưng đồng thời sử dụng tâm lý chiến để thu phục lòng dân Bắc Hà (“lạy trời cho cả gió nồm, cho thuyền chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra”).


Việt Minh đã học hết các bài học ấy. Bài học nhảy vào chỗ trống quyền lực ở miền bắc xác xơ vì đói phá kho thóc Nhật và cướp chính quyền, họ đã làm hoàn hảo.


Theo Thomas Bass thì Cao Giao, một người bạn của Phạm Xuân Ẩn, là người đã báo tin cho Mười Hương về việc Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) để họ chuẩn bị lực lượng. Chỉ 3 ngày sau, ngày 12, TW Đảng đã ra chỉ thị quan trọng “Nhật Pháp đánh nhau và hành động của chúng ta”.


Khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, rất nhanh về mặt thời cơ, Trương Tử Anh của đảng Đại Việt, vốn rất mạnh trong giới đại học và trí thức hồi đó, lại có thành tích yểm trợ Trần Trọng Kim, đã toan cướp chính quyền ở Tonkin (lúc này Đông Dương vẫn chia làm ba vùng tách biệt) ngày 17 tháng 8, khi chính phủ trần Trọng Kim nhân dịp Nhật bật đèn xanh mà mở rộng phạm vi hành pháp ra đất Bắc Bộ. Do chuẩn bị tốt hơn, đội tuyên truyền có vũ trang của Võ Nguyên Giáp từ Tân Trào đã có mặt ở Hà Nội, nhanh chóng dẹp vụ cướp chính quyền này, để hai ngày sau họ có cuộc cướp chính quyền khác hiệu quả hơn, nay được biết với tên gọi Cách Mạng Tháng Tám (ngày 19 tháng 8). Sau khi cướp chính quyền, chỉ trong vài ngày,  Việt Minh dẹp sạch các phần tử có tiềm năng cạnh tranh ở khu vực Hà Nội, rồi Võ Nguyên Giáp lên chiến khu rước Hồ Chí Minh về làm lễ mùng 2-9 trong thanh bình. Đây là lần đầu tiên trong đời Hồ Chí Minh, lúc này khoảng 56 tuổi, đặt chân đến Hà Nội. Ở thời điểm bước ngoặt này, Hồ Chí Minh nổi danh nhiều hơn với tên gọi ông già Tân Trào, sau được biết chính là Nguyễn Ái Quốc.


Theo hồi ký Bùi Diễm (đảng viên Đại Việt dưới quyền Trương Tử Anh, sau là đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa ở Hoa Kỳ) và hồi ký Lê Giản (Giám đốc nha công an Việt Minh, nằm trong bộ nội vụ của bộ trưởng nội vụ Võ Nguyên Giáp) cho biết Trương Tử Anh bị bắt và xử chết sau đó nhiều tháng. Theo sách của Hoàng Văn Đào, có một nhân vật cộm cán của VNQDĐ qua làm cho công an Việt Minh nên bắt đảng viên nào của Quốc Dân Đảng là dính bóc đảng viên ấy. Cũng theo hồi ký Bùi Diễm, các cơ sở chính quyền Việt Minh được tổ chức đồng loạt khắp các vùng thôn quê vùng sâu vùng xa, và được tổ chức rất tốt và đặc biệt là rất tàn nhẫn. Theo hồi ký của Thụy Nga (người vợ miền nam của Lê Duẩn), đội Thanh Niên Tiền Phong do bác sỹ Phạm Ngọc Thạch làm thủ lĩnh đã tổ chức các hoạt động tảo thanh (tiễu trừ các đối lập chính trị) rất mạnh, dư âm còn lại rất lâu sau này trong tâm lý người dân. Bản thân Thụy Nga bị đội này bắt nhầm và suýt giết, may mà chỉ huy lúc đó là Phạm Hùng biết tin nên tha chết (Phạm Hùng kể lại với Thụy Nga: không thì chị đi mò tôm rồi).


Nhưng Việt Minh không thực hiện được bài học thứ hai, dù đã nỗ lực hết mình. Sau cách mạng tháng tám chỉ hai năm, người Pháp đã dựng được Quốc gia Đàng Trong (State of Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm president (thủ tướng, quốc trưởng?). Và ngay cả khi đã thắng trận Điện Biên Phủ và ký hiệp định Geneva, thì họ đã để cho gần như một tay Edward Lansdale đã tổ chức cả chiến tranh tâm lý lẫn logistic cho cuộc Exodus vĩ đại đưa gần một triệu người “đi ngược gió nồm vào Nam”, trong đó khoảng 1/3 đi bằng tàu của Hải Quân Hoa Kỳ. Theo Thomas Bass, sau hiệp định Geneve, Landsdale huấn luyện biệt kích và thả từ biển (người nhái) đột nhập vào duyên hải Bắc Bộ, mang theo vũ khí và rất nhiều vàng. Người nhái vào đều bị phản gián Bắc Việt bắt sạch, nhưng Landsdale không biết mà vẫn tiếp tục gửi thêm các nhóm khác. Số phận các người nhái này vẫn là bí ẩn, chỉ biết họ còn sống đến sau 1975. Sau này người ta cho rằng Phạm Xuân Ẩn là người làm kế hoạch của Lansdale thất bại.


Rất nhanh sau ngày Độc Lập, sắc lệnh số 8 do Võ Nguyên Giáp ký ngày 5 tháng 9 năm 1945 đã đặt các đảng phái chống Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật (Khoản thứ nhất : Nay giải tán “Đại Việt Quốc gia xã hội Đảng” và “Đại Việt Quốc dân Đảng”. Khoản thứ hai : Nếu hai Đảng ấy còn tụ họp và hoạt động thì những người can phạm sẽ phải đem ra Toà án chiểu luật nghiêm trị).


Trong lúc mải mê săn đuổi và triệt hạ các đảng phái này, Việt Minh quên béng Bảo Đại, lúc này đang làm cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh với cái tên Vĩnh Thụy, khiến ông này đi thoát qua Trung Quốc và rồi tới Hongkong (tháng 3 năm 1946), bắt hụt Ngô Đình Nhu và thả Ngô Đình Diệm ra khỏi nhà ngục. Ngô Đình Diệm lúc đó bị Việt Minh bắt giam trên rừng, được đưa về Hà Nội giam chỗ bây giờ là công an Hoàn Kiếm. Theo hồi ký Lê Giản, chính Lê Giản đưa Hồ Chí Minh vào nhà lao để gặp Ngô Đình Diệm, Lê Giản đứng gác ở ngoài, sau đó Ngô Đình Diệm được thả. Trong thời gian ở Trung Quốc, dù rất nghèo, Bảo Đại vẫn tìm cách bảo trợ cho triển lãm tranh của Nguyễn Tường Lân. Họa sỹ tài năng này chỉ một thời gian ngắn sau đó bị Việt Minh bắt và chết trong tù.


Năm năm sau khi được thả, Ngô Đình Diệm qua Nhật gặp Cường Để và tìm kiếm hỗ trợ từ nước Nhật nhưng thất bại. Rồi qua Bỉ, qua Pháp, cũng thất bại. Rồi qua Mỹ, cũng chưa ăn thua. Cho đến lúc Nhu tìm cách để Bảo Đại bổ nhiệm Diệm làm thủ tướng (thực chất là đứng đầu chính quyền miền nam) và Diệm về Sài Gòn nhận chức chỉ hai tuần trước khi Geneve được ký, và đất nước bị chia làm hai nửa không bằng nhau. Chuyện này lát kể tiếp. Còn bây giờ lần một chút về quá khứ.


Các thế hệ thanh niên tân học, sinh ra và lớn lên ở một nước Pháp viễn đông (Cochinchina) hay một vùng được nước mẹ Đại Pháp bảo hộ (Annam, Tonkin) đã học được từ phương tây tinh thần tự do, và mong muốn một dân tộc độc lập. Tinh thần ấy đi sâu vào các hoạt động xã hội, chính trị, vào báo chí, văn nghệ, vào các chính trị gia, các đảng phái. Độc lập với họ không cần là self-government hay autonomy về mặt hình thức, mà phải ở nội dung: thống nhất Trung Nam Bắc, tự chủ về kinh tế, tiền tệ, ngoại giao và quân sự. Khởi nghĩa Yên Bái và hoạt động của Nguyễn An Ninh là tiêu biểu của thanh niên thời kỳ này.


Chính quyền thuộc địa của Pasquier nhanh chóng phản ứng với xu thế này. Họ lập tức cổ võ truyền thống dân tộc, giá trị cổ điển của nước Annam, và tái lập hình ảnh và vị thế của triều đình Huế. Nhưng ngai vàng lại bất ngờ trống vắng khi vị vua thân Pháp là Khải Định lăn ra chết. Chính quyền thực của Huế, không nằm trong tay vua, mà nằm trong tay các quan lại. Họ chống Pháp theo kiểu của họ, bằng cách đòi hỏi sử dụng hiệp ước 1884. Để làm điều này, quan đại thần Nguyễn Hữu Bài yêu cầu Pháp mang hoàng tử trẻ lúc này đang học ở Pháp trở về. Một vị quan – trí thức khác là Phạm Quỳnh lại đòi xây dựng quân chủ lập hiến. Trí thức tây học thậm chí còn cực đoan hơn, đòi dẹp luôn triều đình mà lập ra cái gì đó mới mẻ hơn hẳn. Kết quả là Bảo Đại quay về Huế năm 1932 khi 20 tuổi. Một năm sau, năm 1933, Nguyễn Hữu Bài, 70 tuổi, bị Pháp lật đổ và thay người thân Pháp là Phạm Quỳnh vào. Cũng trong năm này, Phạm Quỳnh cạnh tranh quan điểm khá mạnh với một quan khác và khiến viên quan này phải từ chức, rồi từ đó mang tư tưởng chống Pháp và có hào quang của một vị quan treo ấn từ quan. Đó là Ngô Đình Diệm.  Năm này Ngô Đình Diệm 32 tuổi và là thượng thư trẻ nhất của triều đình. Sauk hi từ quan, Ngô Đình Diệm tham gia các hoạt động ngầm chống Pháp của hoàng thân Cường Để, do đó bị mật thám Pháp theo dõi rất chặt chẽ .


Đầu những năm 1940, Nhật tiến vào Indochina với thỏa thuận ngoại giao mềm mại với chính quyền Vichy. Kiểm soát của chính quyền Pháp trở nên lỏng lẻo, mật thám Pháp sao nhãng việc giám sát. Hiến binh Nhật bắt đầu các hoạt động ngầm ủng hộ các tổ chức kháng Pháp. Ở phía nam họ hỗ trợ Cao Đài, Hòa Hảo. Năm 1942, lãnh đạo Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị mật thám Pháp vây bắt.  Hiến binh Nhật đã giải thoát rất ngoạn vị lãnh đạo tôn giáo 22 tuổi khỏi tay mật thám Pháp. Nhưng đến năm 1947, ở tuổi 27, Huỳnh Phú Sổ không thoát nổi tay Việt Minh. Cũng năm 1942, giáo chủ Phạm Công Tắc, lúc này 52 tuổi, bị Pháp bắt và đày qua Madagascar. Ở đó Phạm Công Tắc bị giam chung với tù cộng sản, trong đó có Lê Giản. Hồi ký Lê Giản có kể lại chuyện này.


Ở miền trung người Nhật ủng hộ các nhóm Đại Việt thân Nhật và chịu ảnh hưởng của Cường Để, trong đó có nhóm Ngô Đình Diệm. Năm 1944 khi mật thám Pháp vây bắt Ngô Đình Diệm, hiến binh Nhật đã giải cứu rồi mang Ngô Đình Diệm vào Sài Gòn để bảo vệ. Ở miền bắc họ tuyên truyền và lấy tình cảm của trí thức trẻ và học sinh sinh viên trong Đông Dương Học Xá, đặc biệt là với nhóm Đại Việt của Trương Tử Anh và học giả Trần Trọng Kim. Tháng 7 năm 1944 thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh bắt Trương Tử Anh, hiến binh Nhật can thiệp không cho bắt. Hồi ký của Bùi Diễm mô tả khá sống động hoạt động ngầm và nổi của người Nhật ở Hà Nội quãng thời gian này. Rất tinh tế, tinh xảo và hiệu quả.


Cùng lúc này, các hội kháng Pháp ở bên kia biên giới, dưới sự bảo kê của cả quân đội Trung Hoa (quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch) và quân đội Trung Quốc (đảng cộng sản của Chu Ân Lai), xuất hiện chi chít: Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Hồ Học Lãm, du học sinh Đông Du và sau này tham gia hội củaPhan Bội Châu, và là sĩ quan của quốc dân đảng), Việt Nam Giải Phóng Đồng Minh Hội (thỏa hiệp hợp tác giữa VNQDĐ và ĐCS Đông Dương), và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội do chính tướng của Quốc dân đảng là Trương Phát Khuê tổ chức cho người Việt hải ngoại. Trong nhóm của Trương Phát Khuê có Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần.


Còn ở ngay Hà Nội thì Trường Chinh tổ chức Hội Văn Hóa Cứu Quốc và thành lập hai đảng Việt Nam Xã Hội Đảng và Việt Nam Dân Chủ Đảng. Đảng Dân chủ chỉ vài năm sau được Việt Minh sử dụng làm công cụ chính danh khi cướp chính quyền ở Hà Nội và thành lập chính phủ. Với sáng kiến này, Trường Chinh đã tỏa sáng rất rực rỡ trong hàng ngũ lý luậns nhìn xa trông rộng của mình. Và phải rất lâu sau mới tỏa sáng thêm lần nữa, cũng ở vai trò Tổng Bí Thư, ở đêm trước Đổi Mới.


Nhật đảo chính Pháp, rất bất ngờ và gọn ghẽ, nhưng không chọn Cường Để, một nhân vật thân Nhật mà vẫn sử dụng Bảo Đại. Người ký tuyên ngôn độc lập cho nước Việt, dưới sự che chở của Nhật, là Vua Bảo Đại cùng sáu vị thượng thư, trong đó có Phạm Quỳnh, vào ngày 11 tháng 3 năm 1945. Tuyên ngôn độc lập này có đoạn: “Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi  Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập. Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung. Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.”


Bất ngờ hơn nữa, người Nhật không chọn Ngô Đình Diệm, vốn đang được quân đội Nhật che chở ở Sài Gòn làm thủ tướng. Thay vào đó họ chọn Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim ra mắt với tên gọi Đế Quốc Việt Nam (Vua Bảo Đại ký chấp thuận nội các này ngày 7 tháng 4 năm 1945).


Chỉ vài tháng sau,ngày 23 tháng 8, tức 4  ngày sau Cách Mạng Tháng 8, Bảo Đại nhận được yêu cầu của Chính phủ nhân dân cách mạng, do Hồ Chí Minh yêu cầu thoái vị. Tìm hiểu một hồi, Bảo Đại biết Hồ Chí Minh là ai, bèn thoái vị và trở thành công dân nước độc lập, ra Hà Nội làm cố vấn Vĩnh Thụy. Trong hồi ký Một cơn gió bụi của Trần Trọng Kim xuất bản năm 1949 trên báo có nhắc câu nói lừng danh của Bảo Đại về việc này.


Ở Bắc Bộ, Việt Minh làm chủ tình hình nhờ tảo thanh triệt để các phe đối lập. Quân Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch, lúc này Hồng Quân của Mao chưa thắng thế, và cũng không phải ở phe Đồng Minh), yểm trợ cho Quốc Dân Đảng và nhùng nhằng với cả Việt Minh lẫn Pháp. Cho đến khi Pháp ký với Tưởng hiệp ước Trùng Khánh, và hải quân Pháp bắn vào quân Tưởng ở Hải Phòng, thì Tưởng mới rút quân. Quốc Dân Đảng và Đại Việt gặp tai nạn nặng khi khi mất hậu thuẫn Trung Hoa, nên bị Pháp và Việt Minh, lúc này chưa chiến tranh, phối hợp tiễu trừ. Các chiến khu của Đại Việt và Quốc Dân Đảng ở dọc sông Hồng bị Việt Minh tấn công và xóa sổ.  Các lãnh đạo Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Vũ Hồng Khanh nhanh chân đi thoát qua biên giới.


Ở Nam Bộ tình hình rắc rối hơn nhiều. Ngay sau khi Nhật đầu hàng, Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất bao gồm tất cả các lực lượng khác nhau, bao gồm cả Việt Minh vẫn Cao Đài, Hòa Hảo …nổi lên. Một trong các lãnh đạo của mặt trận này là Ngô Đình Diệm. Lãnh đạo Việt Minh ở Sài Gòn lúc đó là Trần Văn Giàu chỉ tảo thanh được các nhóm đối lập giàu trí thức mà kém vũ trang là nhóm Troskist (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm) và nhóm Lập Hiến (Bùi Quang Chiêu). Ngô Đình Diệm bị công an Việt Minh bắt và chuyển ra Hà Nội. Các nhóm như Hòa Hảo, Cao Đài súng ống đầy mình do Nhật yểm trợ nên Việt Minh không thể cưỡng được, đành thôi. Tuy nhiên lãnh tụ Hòa Hảo là Huỳnh Phú Sổ bị phục kích chết sau đó hơn một năm. Thanh Niên Tiền Phong rời Sài Gòn đi về nông thôn. Trần Văn Giàu coi như mất giá, phải ra Hà Nội làm nhà nghiên cứu, mở đường cho hai siêu sao là Nguyễn Bình (lãnh đạo các hoạt động quân sự) và Lê Duẩn (lãnh đạo chính trị). Hồi ký Trần Văn Giàu, xuất bản không chính thức từ bản thảo ở Long An, hé lộ một nửa chuyện này.


Ở Nam Bộ, quân Đồng Minh (Anh) rút đi, để lại Đông Dương cho Pháp. Quân Tưởng rút đi khỏi đất liền miền bắc nhưng vẫn chiếm các hải đảo (giải giáp từ quân Nhật) vốn trước do Pháp công nhận thuộc Annam do Pháp bảo hộ (1932), sau Pháp sáp nhập vào  Đông Dương Thuộc Pháp (cũng trong năm 1932). Hải quân Pháp không chịu mất chủ quyền của quốc gia, đánh nhau với quân Tưởng, đến năm 1950 mới xong. Đánh xong bàn giao Trường Sa cho Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam) của Bảo Đại. Năm 1951 thủ tướng của Bảo Đại là Trần Văn Hữu tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam ở hội nghị San Francisco là hội nghị giải quyết tài sản của Nhật. Liên Xô to mồm tuyên bố hai quần đảo này là của Trung Quốc (Mao). Thế là bỏ phiếu. 46/51 nước  bỏ phiếu cho Việt Nam. Điều này một lần nữa được hiệp ước Geneva (sau Điện Biên Phủ 1954) công nhận cho chính phủ Bảo Đại ở phía nam vĩ tuyến 17. Công lao của Bảo Đại với Nam Bộ, sau là cả Việt Nam, ở chỗ này không thể không công nhận. Đến năm 1974, thay vì quân Tưởng ở Đảo, lần này quân Mao ở Lục Địa, đánh Hoàng Sa. Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ, dù biết hải quân mình yếu và kém cỏi hơn hẳn, vẫn ra lệnh đánh trả. Đây là quyết định sáng suốt nhất và có tính chiến lược nhất của Nguyễn Văn Thiệu. Đánh trả chính là tuyên bố chủ quyền mạnh mẽ nhất. Nó cũng chuyển tải thông điệp cho đời sau: để lấy lại Hoàng Sa, không cách nào khác là phải dùng biện pháp quân sự.


Pháp quay lại Đông Dương với người đứng đầu cực kỳ quyền lực (Cao Ủy) là đô đốc hải quâncó cái tên dài lòng thòng là George Louis Marie Thierry D’Argenlieu. Ông này chống lại yêu cầu đòi thống nhất Nam Bộ của chính phủ Hồ Chí Minh. Đàm phán giữa hai phe diễn ra ở Đà Lạt nhưng thất bại. Đọc hồi ký Ký vãng Đà Lạt của Hoàng Xuân Hãn sẽ thấy không khí giai đoạn này. D’Argenlieu dựng Cộng Hòa Đàng Trong (Republic of Cochinchina) với Nguyễn Văn Thinh làm president. Nguyễn Văn Thinh có quốc tịch Pháp và thuộc nhóm Lập Hiến của Bùi Quang Chiêu. Chính phủ bù nhìn của Pháp này bị các nhóm chống Pháp có vũ trang, từ Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên đến Việt Minh xúm lại đánh đập. Lực lượng của Việt Minh lúc này do siêu sao Nguyễn Bình, vốn là đảng viên Quốc Dân Đảng cũ, lãnh đạo. Các hoạt động vũ trang trong nội thành của Nguyễn Bình chính là mẫu hình cho các vụ đánh bom của Biệt động Sài Gòn sau này. Ý tưởng về một Liên bang Đông Dương gồm 5 bang (state) bao gồm Lào, Cambodia, Cochinchina, Annam, Tonkin nằm trong Liên hiệp Pháp (French Union) hình thành ở giai đoạn này.


Uy tín và tài năng cá nhân của Nguyễn Bình đã thống lĩnh được các lực lượng vũ trang chống Pháp vốn rất lộn xộn và hiềm khích nhau ở Nam Bộ, xây dựng Vệ quốc đoàn, đánh đập Pháp và chính phủ Cộng Hòa Đàng Trong rất tàn nhẫn. Nhờ đó khi Hồ Chí Minh đi Pháp và có những thỏa thuận (với Marius Moutet, bộ trưởng bộ hải ngoại) có lợi cho chính phủ Việt Minh và hai bên ngừng bắn. Việc này kết liễu luôn nhà nước Cộng Hòa Đàng Trong. Nguyễn Văn Thinh tự sát.


Thương thuyết Pháp Việt dùng dằng mãi rồi thất bại, chiến tranh Pháp Việt (Đông Dương lần thứ nhất) nổ ra.


Sau cái chết của Nguyễn Văn Thinh, chỉ trong thời gian ngắn, để thay thế Pháp lần lượt lắp Lê Văn Hoạch (Cao Đài) rồi Nguyễn Văn Xuân (sĩ quan quốc tịch Pháp) vào chỗ trống. Tất cả các nhân vật miền nam thân Pháp này, lại hùa với nhóm chống Việt Minh đang lưu vong ở Tàu, cùng nhau ủng hộ Bảo Đại. Bảo Đại lúc này ở Hong Kong (1947) và bắt đầu có tín hiệu muốn đàm phán với Pháp. Trong quá trình này, Pháp đổi Republic of Cochinchina thành Provisional  Central Government of Vietnam (Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ) với tướng Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng. Một vở kịch của Thế Lữ thời kỳ này chế diễu tướng Xuân rất buồn cười với việc “kéo mũi ra cho lõ như Tây”.


Đàm phán Pháp – Việt (Việt của Bảo Đại) đi đến hiệp ước Elysée. Pháp trao trả độc lập (pháp lý) và toàn vẹn lãnh thổ (tương đối) cho Việt Nam. Pháp vẫn nắm ngoại giao, quân đội, kinh tế và tiền tệ. Đồng thời tạo ra khu tự trị cao nguyên. Hiệp ước được quốc hội Pháp thông qua và ký tháng 3 năm 1949. Ba tháng sau Bảo Đại về Sài Gòn nhận chức quốc trưởng của một nhà nước mới toe: Quốc gia Việt Nam (State of Vietnam). Tất nhiên trên thực tế, chính quyền mới này không can thiệp vào được các vùng do chính phủ Việt Minh đang kiểm soát.


Lúc này chính trị thế giới, do ảnh hưởng của Liên Xô và học thuyết của họ lúc đó là học thuyết (chủ nghĩa) Zhdanov (rất thô và đơn giản) đã chia thế giới đơn giản thành hai phe. Phe Đế Quốc do Anh Mỹ đứng đầu, và phe Dân Chủ do Liên Xô đứng đầu. Để phát triển xã hội, học thuyết Zhdanov khuyến khích đấu tranh giai cấp không khoan nhượng. Tiếp đó cách mạng bạo lực của Mao thành công ở Trung Quốc, đuổi được Tưởng Giới Thạch ra Đảo. Trung Quốc và Liên Xô công nhận chính phủ Việt Minh (1949). Mỹ và Anh công nhận chính phủ của Bảo Đại (1950). Đó là lúc thế giới bước vào Chiến tranh lạnh.


Các học thuyết của Mỹ ở thời điểm này bắt đầu cho Đông Dương vào vòng ngắm. Các phái đoàn cố vấn quân sự, kinh tế của Mỹ bắt đầu đến Sài Gòn. Quốc hội Hoa Kỳ và tổng thống Truman bắt đầu chi tiền cho Đông Dương: xây dựng quân đội cho  Quốc gia Viêt Nam, tài trợ cho quân đội Pháp đánh nhau với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc. Các hoạt động của Edward Lansdale tốn kém lên tới hàng triệu dollar vẫn được tài trợ.


Từ năm 1950 đến năm 1954, khi tướng Giáp vẫn đánh Pháp ở Bắc Bộ, ở Nam Bộ, Bảo Đại một mặt xây dựng chính quyền của mình, vốn nhiều phe phái không đồng nhất, một mặt tiếp tục đàm phán với Pháp để gia tăng độc lập thực sự của Việt Nam.


Bảo Đại là một ông vua, do đó như Dumas nói, vua là quý tộc của các quý tộc. Bảo Đại có các phẩm chất cao nhất của con người: thông minh, tinh tế, hiểu người, hiểu đời. Bên cạnh đó, Bảo Đại được đào tạo đầy đủ về khoa học chính trị ở Sciences Po bên Pháp. Điểm yếu của Bảo Đại, cũng là tính quý tộc: mê đánh bài, mê gái, mê săn bắn, mê ngao du. Bảo Đại hiểu chính trị và biết dùng chính trị gia. Nhưng bản thân lười lao động, ham chơi, không muốn làm lãnh đạo đất nước. Làm quốc trưởng, Bảo Đại cũng ở Đà Lạt đi săn, mọi việc thả cho Thủ Tướng làm.


Đây là thời kỳ thú vị của Sài Gòn. Không khí chính trị mới mẻ, các lực lượng quân sự hùa về với Bảo Đại, kinh tế ngầm liên quan đến buôn thuốc phiện do mafia đảo Corse nắm. Nhóm này lại thông với lực lượng bảo vệ an ninh đô thành, là nhóm Bình Xuyên. Bình Xuyên lại làm cả bảo kê gái và song bài. Bảo Đại sống bằng tài trợ của Pháp và Bình Xuyên. Sài Gòn như một thành phố quốc tế, đầy buôn lậu và điệp viên. Graham Green qua Sài Gòn vừa làm báo, vừa làm điệp viên, vừa hút thuốc phiện. Phạm Xuân Ẩn làm cho phòng nhì, kiểm soát thư từ của chính Green. Ở ngoại ô, quân Việt Minh do Nguyễn Bình vẫn đánh Pháp. Lê Duẩn nắm Xứ Ủy, và theo KW Taylor, Lê Duẩn còn phải kiềm chế Nguyễn Bình. Một góc của Sài Gòn hồi đấy có thể thấy ở Sound of Silence.


Thủ tướng đầu tiên của Bảo Đại là Nguyễn Phan Long, một người thuộc nhóm Lập Hiến. Nguyễn Phan Long đòi Pháp trả độc lập hoàn toàn và tỏ ra thắm thiết với Mỹ. Ngay lập tức Pháp ép Phan Long nghỉ và thay bằng Trần Văn Hữu nhà giàu quốc tịch Pháp (1950). Không ngờ Trần Văn Hữu ngày càng tỏ ra ái quốc, bỏ ra nhiều tháng đi Pháp (Pau) để tiếp tục tranh luận các điều khoản chưa rõ trong hiệp ước Elyée, đòi các quyền lợi kinh tế, quân sự, ngoại giao. Trần Văn Hữu chính là thủ tướng tuyên bố Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam như đã nói ở trên. Cuối cùng, tới năm 1952, Trần Văn Hữu làm việc thẳng với Anh Mỹ, khiến Pháp cay quá phải thay bằng Nguyễn Văn Tâm, một công dân Pháp và theo phe ly khai Nam Kỳ ngày trước.


Nguyễn Văn Tâm đến cuối năm 1953 từ chức, và đầu năm 1954 Bảo Đại bổ nhiệm Bửu Lộc, một người họ hàng của mình vào chức thủ tướng. Lúc này Bảo Đại đang ở Pháp để trực tiếp đàm phán về độc lập hoàn toàn cho Việt Nam. Chiến tranh Pháp Việt đang đi đến hồi kết. Quân của Võ Nguyên Giáp bao vây Điện Biên Phủ. Ở vùng mà Việt Minh gọi là vùng tạm chiếm thì Đại Việt rất mạnh, đồng thời xuất hiện và trỗi dậy lực lượng của các linh mục Bùi Chu Phát Diệm.


Cũng trong thời gian này anh em nhà họ Ngô phân công nhau mỗi người một việc. Sau khi được công an Việt Minh phóng thích, Ngô Đình Diệm ở nhà thờ Hàng Bột thêm một thời gian khá dài. Edward Miller lấy tin của mật thám Pháp cho biết: nhằm lôi kéo các nhân vật quan trọng trong chính phủ Việt  Minh, đặc biệt là lôi kéo Nguyễn Bình.  Năm 1950 nhận thấy chính trị nghiêng hẳn về Bảo Đại, Ngô Đình Diệm thoát ly khỏi quê hương cùng anh trai là Ngô Đình Thục. Điểm đầu tiên đến là Nhật và gặp hoàng thân Cường Để. Chuyến đi này thất bại, khi Diệm không tìm kiếm được gì từ nhóm Nhật thân Cường Để. Vả lại Cường Để qua đời sau đó vài tháng. Nhưng rất may cho Diệm, đi Nhật lại gặp nhà khoa học chính trị kiêm tình báo quân sự khu vực viễn đông của Hoa Kỳ tên là Wesley Fishel. Rời Nhật, Diệm Thục đi Mỹ, thất bại trong tìm kiếm hỗ trợ từ chính phủ Hoa Kỳ, lại bay tiếp qua Roma và Paris. Ở Paris chính Bảo Đại từ chối gặp Ngô Đình Diệm. Sau thất bại này, Diệm quay về Hoa Kỳ và ở đây khá lâu. Edward Miller dành một chương để nói về quãng tời gian Ngô Đình Diệm ở Mỹ. Trong thời gian này, Ngô Đình Diệm thông qua các kênh công giáo La Mã và tư vấn của Fisher đã quen thân được thẩm phán Tối cao Pháp viện là William O. Douglas. Douglas tổ chức diner để Ngô Đình Diệm gặp gỡ các nhân vật chính trị trẻ, trong đó có thượng nghị sỹ Mike Mansfield và thượng nghị sỹ John F Kennedy (sau trở thành tổng thống Hoa Kỳ).


Cùng lúc đó ở trong nước, Ngô Đình Nhu, một người lạnh lẽo và đặc biệt thông minh, đã bí mật thành lập Cần Lao Cách Mạng Đảng với chủ thuyết Nhân Vị ở Đà Lạt, thông qua các seminar nhỏ với lượng khách tham dự rất chọn lọc (1949). Edward Miller phàn nàn có quá ít thông tin về Cần Lao, do hoạt động của họ quá kín đáo. Ngay cả các tài liệu của  mật thám Pháp và CIA giải mật gần đây cũng không tiết lộ được nhiều. Chỉ biết rằng Cần Lao bén rễ được vào chính phủ của Bảo Đại, vào quân đội của Quốc gia Việt Nam đang manh nha thành lập, vào các lực lượng công giáo.  Mặt khác, Ngô Đình Nhu xây dựng tờ báo Tinh Thần và đứng sau ngầm chỉ huy để tuyên truyền cho đường lối “cách mạng chính trị kinh tế”. Nhu cũng xây dựng các quan hệ vững chắc và dài lâu với giới lao động thông qua lãnh đạo nghiệp đoàn (Trần Quốc Bửu) và báo của họ (tờ Xã Hội), nắm được giới trí thức elite Bắc Kỳ chạy vào Nam Kỳ (Trần Chánh Thành). Và với quân đội thậm chí ngay khi Trường Võ bị Đà Lạt (Học viện quân sự Đà Lạt) mới được  thành lập, Nhu đã đến phát biểu, qua đó gây ảnh hưởng đến các sỹ quan trẻ sau này. Theo Edward Miller, đến cuối năm 1953, mặc dù hoạt động ngầm nhưng mạng lưới chính trị của Ngô Đình Nhu đã trải khắp Indochina. Từ đó Ngô Đình Nhu lôi kéo được các thủ lĩnh các phe vũ trang chống cộng, ủng hộ Ngô Đình Nhu và rời xa Bảo Đại, lúc này đang ở Pháp.


Chính sự lớn mạnh về lực lượng chính trị của anh em họ Ngô ở trong nước, đã làm Bảo Đại phải cân nhắc về nhân vật vốn chống mình rất dữ dội là Ngô Đình Diệm.


Vào phút cuối cùng, Việt Minh thắng Điện Biên, còn ở Pháp Bảo Đại đạt được thỏa ước tối đa với Pháp Ngày 4 tháng 6 năm 1954, người Pháp, vốn cứng đầu, lèm bèm và ti tiện, đến lúc này mới trả độc lập toàn bộ cho Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại. Bảo Đại, với quyết định vừa lười nhác vừa dũng cảm, vừa sáng suốt, bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Bảo Đại biết trước một người tham vọng như Ngô Đình Diệm sẽ làm lãnh đạo quốc gia tốt hơn một ông vua ham chơi, và tất nhiên việc Diệm sẽ phế quốc trưởng Bảo Đại là một điều chắc chắn. Từ đó không bao giờ Bảo Đại quay về trong nước.


Sau khi được bổ nhiệm, Ngô Đình Diệm bay về Sài Gòn và lập chính phủ, ra mắt quốc dân ngày 7 tháng 7 năm 1954.


Hai tuần sau hiệp định Geneva được ký kết (ngày 21 tháng 7), chia đất nước thành hai nửa.


***


Trong vỏ hạt dẻ phần đầu.


Con đường của Rồng


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on February 13, 2014 22:50

January 19, 2014

Trong vỏ hạt dẻ

Năm 1940.


Vào năm này chính quyền Vichy ở Pháp thân phe trục (phát xít), các nhân viên ngoại giao của Pháp ở Tokyo đạt được thỏa thuận với chính quyền quân phiệt Nhật, qua đó chính quyền Đông Dương thuộc Pháp “tề” Nhật. Người Nhật, sau khi thoát khỏi cái bóng khổng lồ của ý thức hệ Trung Hoa, đã tự mình phương tây hóa, tự chủ, lớn mạnh và thắng luôn cái bóng đen khổng lồ Trung Hoa (chiến tranh Trung Nhật Giáp Ngọ 1894-1895), thắng quân đội Nga (1904-1905), chiếm toàn bộ Triều Tiên, rồi chiếm toàn bộ Trung Hoa (1937-1945) và ở thời điểm Pháp ở Đông Dương (Indochina) tề Nhật (1940) thì Nhật đã chiếm Đông Nam Á.


Indochina rất quan trọng. Người Nhật dùng phía bắc (Đàng Ngoài, Đông Kinh = Tonkin) để làm hậu cần cho quân đội Nhật ở Quảng Tây và Vân Nam thông qua cảng Hải Phòng và đường bộ đi tới Lạng Sơn. Họ dùng phía nam (Đàng Trong = Cochinchina) để làm căn cứ hải quân và không quân . Lúc này quân đồng minh (Hoa Kỳ) đã có các hoạt động quân sự ở quanh Hà Nội và Hải Phòng, quân Nhật đã bị máy bay Mỹ ném bom.


Trong một quãng thời gian rất ngắn ở thời điểm Pháp Nhật đang thỏa thuận, ngày 22.9.1940 quân đội Nhật cùng một nhóm quân vũ trang người Việt và người Hoa (Kiến quốc quân, thuộc Việt Nam Phục Quốc Quân của Hoàng Thân Cường Để) tiến từ Trung Quốc vào Việt Nam qua Đồng Đăng, đánh thành Lạng Sơn. Quân Pháp rút chạy, rồi sau đó quân Nhật cũng rút trở lại qua biên giới. Kiến quốc quân và chỉ huy Trần Trung Lập ở lại chiến đấu, sau bị Pháp bắt và xử bắn ở Lạng Sơn. Cũng nhân biến cố này, các tù nhân của Đảng cộng sản Đông dương được Nhật thả ra từ nhà tù Lạng Sơn khởi nghĩa. Ngay sau đó Chu Văn Tấn được Hoàng Văn Thụ điều xuống nắm quyền. Cuộc khởi nghĩa này, chính là khởi nghĩa Bắc Sơn, bị Pháp quay lại dẹp rất nhanh.


Trong quãng thời gian ngắn ngủi ấy ủy ban khởi nghĩa đã thử nghiệm được mô hình chính quyền khởi nghĩa sau này được Việt Minh áp dụng khắp nơi trước khi chiến tranh Pháp Việt nổ ra. Trong các thử nghiệm ấy có cả đánh du kích, phá hoại và tảo thanh (giết những người mà họ khép vào tội Việt gian). Chu Văn Tấn sau trở thành Bộ trưởng quốc phòng đầu tiên của chính phủ Hồ Chí Minh sau Cách mạng Tháng Tám.


Năm 1787.


Trước cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn rất lâu, vào năm 1787, ông Thomas Jefferson lúc này đang làm ngoại giao cho Hoa Kỳ ở Pháp, viết thư cho bạn mình là William Drayton, trong đó có nhắc đến việc mình đang đi tìm kiếm một loại giống lương thực phù hợp với thổ nhưỡng Hoa Kỳ, và ông đã tìm ra giống lúa cạn của Xứ Đàng Trong (Cochinchina) có lẽ là phù hợp, thậm chí ông còn gặp Hoàng tử của Xứ Đàng Trong.


Thomas Jefferson là người viết Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, và sau này thành tổng thống Mỹ. Hoàng tử nhỏ bé là Hoàng tử Cảnh, con trai trưởng của vua Xứ Đàng Trong là Nguyễn Ánh, lúc này khoảng 8 tuổi, đang ở cùng hoàng hậu Marie Antoinette và được bà hoàng này sủng ái. Hoàng hậu sau này bị giết trong cách mạng Pháp. Hoàng tử Cảnh chết một năm trước khi vua cha lên ngôi vua toàn cõi Việt Nam với tên gọi Gia Long (1802).  Em Hoàng tử Cảnh là Hoàng tử Đảm sau này nối ngôi Gia Long, trở thành vua Minh Mạng. Con cháu Hoàng tử Cảnh bị phế để tránh hậu họa.


Hoàng thân Cường Để là cháu trực hệ đời thứ tư của Hoàng Tử Cảnh và xét theo kiểu dòng đích tôn thì Cường Để mới là đích tôn của vua Gia Long.


Thomas Jefferson của Mỹ gặp ông hoàng nhỏ của Xứ Đàng Trong ở Paris là tín hiệu nhỏ bé nhưng là sự khởi đầu của nước Việt Nam trong vòng xoáy đầy biến động của thế giới. Cho đến nhà Lê, nước Việt giam mình ở mảnh đất bé nhỏ sau bị người Pháp gọi là Tonkin và chưa từng biết đến thế giới bên ngoài. Với họ, thế giới chỉ có một nền văn minh là Trung Hoa, một ý thức hệ Nho giáo, một mô hình thể chế cần bắt chước là triều đình Trung Hoa, về ngoại giao chỉ có một hình thức vương quốc vệ tinh, quan hệ với Trung Hoa theo kiểu chư hầu, và một kẻ thù “man di” là nước Chàm ở phương Nam. Các biến động tiếp theo, xuất hiện thêm phú Chúa của nhà Trịnh, rồi hình thành thêm thế lực đối nghịch là chúa Nguyễn ở đàng trong, nhưng cũng không làm thay đổi bối cảnh được bao nhiêu. Ngay cả dòng họ chúa Nguyễn mở cõi vào phương Nam vẫn không thoát khỏi cái bóng của của triều đình nhà Lê, cho dù lúc này bị nhà Trịnh chi phối. Mãi cho đến chúa  thứ 6 là Nguyễn Phúc Chu mới sang Tàu xin phong vương nhưng bị từ chối vì Tàu vẫn coi đất đàng trong là thuộc nhà Lê.


Thời trước không có cách mạng, chỉ có làm loạn. Được làm vua thua làm giặc. Làm loạn chỉ có hai kiểu. Loạn trong triều đình, quan lại làm loạn chống vua này dựng vua kia, phục vụ lợi ích nhóm. Và loạn ngoài triều đình, nhân dân hoặc cán bộ địa phương bất mãn nổi lên chống lại triều đình. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhạc – Nguyễn Huệ bắt đầu là là các cán bộ thuế địa phương kiêm buôn lậu nổi chống lại quan lại triều đình, là Trương Phúc Loan, vốn là kẻ lạm quyền rồi giết vua (cha ruột Gia Long) toan lên làm vua. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn lớn mạnh dần, dẹp cả nhà Nguyễn đàng trong, dẹp luôn Lê Trịnh ở đàng ngoài, chống ngoại xâm từ phương bắc, đánh cả ngoại xâm ở phương nam. Đánh xong, thống nhất gần trọn vẹn đất nước,  Nguyễn Huệ lên làm vua, rồi chết. Nguyễn Ánh vùng dậy giệt nhà Tây Sơn, lên làm vua hưởng cả cơ đồ. Nhà Nguyễn tồn tại đến đời thứ tư là vua Tự Đức thì Pháp – Tây Ban Nha nổ súng vào Việt Nam năm 1858.


Thời nhà Nguyễn  xã hội phức tạp, nhất là thời Minh Mạng cải cách hành chính. Nổi loạn khắp nơi. Nhưng dẹp được cả. Nhưng hoàng tộc yếu dần, quan lại lạm quyền, tham nhũng phe phái, thườn xuyên qua mặt vua, bản thân quan lại chia phe tranh đấu với nhau vì lợi ích nhóm và quan điểm đối ngoại. Quân đội yếu, kinh tế kém, mất mùa. Chính sách chống Pháp rất ngô nghê và tàn nhẫn: đóng cửa ngoại thương và giết người theo đạo vô tội vạ. Các quan đại thần thay mặt vua, ký các hiệp định với Pháp. Mất Nam Kỳ (tên Minh Mạng đặt cho Xứ Đàng Trong) vào tay Pháp, rồi mất cả nước với hai hòa ước 1883, 1884.  Sau hòa ước Giáp Thân, còn gọi là Hòa ước Patenôtre Người Pháp dùng tên người phương tây gọi Xứ Đàng Trong để đặt cho thuộc địa mới này: Cochinchina. Miền bắc họ gọi là Tonkin (Đông Kinh) và miền trung là vương quốc Annam (nơi triều đình Huế vẫn tồn tại hình thức).


Ba miền có thể chế riêng, đi lại giữa ba miền phải có visa. Sau này người Pháp tách nốt cao nguyên và người dân tộc, bắt người Kinh đi lên vùng này phải có giấy phép. Mãi đến khi chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim do Nhật dựng lên, mới đổi lại tên ba miền là Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ.


Đến lúc này, người Việt bắt đầu, một cách quá đột ngột, sống trong những thể chế chính trị hoàn toàn mới. Quan lại trong triều chia phe, phe chống Pháp bắt đầu khởi nghĩa. Tôn Thất Thuyết dùng danh vua Hàm Nghi khởi nghĩa Cần Vương. Các cuộc khởi nghĩa chống Pháp và phe triều đình thân Pháp diễn ra liên tiếp và cuối cùng thất bại cả. Cuộc khởi nghĩa cuối cùng là của Phan Đình Phùng (chết 1895). Các cuộc khởi nghĩa chống Pháp và triều đình thân Pháp không mang lại gì mới, Bình Tây Sát Tả không Bình được Tây mà chỉ Sát được Tả (người Việt theo Công Giáo). Khởi nghĩa Tây Sơn dẫn đến một cuộc nội chiến 30 năm mà người Việt đăng lính để giết người Việt, thì Sát Tả là lần đầu tiên người dân thường giết nhau vì khác biệt tôn giáo và phe phái. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam tinh thần “yêu nước truyền thống”, tinh thần “chống ngoại xâm truyền thống” bắt đầu chuyển thành yêu nước kiểu độc quyền. Những người yêu nước khác tín ngưỡng, khác phe phái sẽ bị tiêu diệt bởi những người cũng yêu nước như mình mà khác tín ngưỡng khác phe phái.


Thất bại dẫn đến tìm tòi. Như thường lệ họ tìm đến Tàu. Và người Tàu lúc này cũng đang tìm kiếm những lý tư tưởng mới, mô hình mới, thể chế mới. Người Tàu sau thất bại của nhà triều đình nhà Thanh trước quân đội Pháp ở vùng đất do họ bảo hộ là Tonkin dẫn đến hiệp ước Pháp Thanh, rồi thất bại trước đế quốc Nhật ở Nhật Bản cũng ở một đất nước chư hầu khác là Triều Tiên, rồi mất cả Đài Loan và miền bắc vào tay Nhật, họ cũng đi tìm những ý tưởng mới, và họ đi tìm ở …nước Nhật của thời đại hậu Minh Trị (Meiji).


Phan Bội Châu xuất hiện trong hoàn cảnh ấy. Ông đến Nhật và có gặp trí thức cải cách Lương Khải Siêu của Trung Hoa đang lưu vong ở Nhật. Các tư tưởng quân chủ lập hiến, làm báo để thức tỉnh người dân, mở trường để truyền bá tri thức mới, …là do Phan Bội Châu học và bị ảnh hưởng của các nhà cải cách người Tàu này và ảnh hưởng của nền giáo dục Thoát Á của Nhật.


Những ý thức hệ mới mẻ, thổi vào đầu Phan Bội Châu, phải nói đến thuyết Social Darwinism (thuyết tiến hóa xã hội Darwin) vốn rất thịnh hành lúc bấy giờ. Thuyết này nói về đấu tranh sinh tồn của các chủng tộc, sau này cùng với tư tưởng của Nietzsche đã hình thành ý thức hệ của chủ nghĩa Phát Xít. Phan Bội Châu nhận ra rằng, chủng tộc Việt (ông gọi là giống nòi) không thấp kém hơn người da trắng, ít nhất là cũng phải bằng người Nhật vừa mới chiến thắng người da trắng Nga, và chiến thắng người Hoa, giống như người Việt đã từng thắng Tống bình Chiêm. Tuy nhiên ông da vàng Phan Bội Châu đặt giống vàng giống trắng bằng nhau, và cao hơn các màu da khác: “Giống vàng, giống trắng tinh anh. Giống đen, giống đỏ, giống xanh ngu hèn”.


Từ ý thức hệ này, Phan Bội Châu tìm đồng minh là các giống đồng chủng với mình (nước Nhật) và tìm một ông hoàng thuộc dòng chính thống và có ý thức chống Pháp (Hoàng thân Cường Để) để mang qua Nhật và lập Hội nhằm tìm cơ hội xây dựng một nhà nước của giống nòi Việt, một nhà nước mà tiếng Nhật gọi là “Kokumin kokka” vay mượn từ khái niệm nation state (nhà nước dân tộc, nhà nước quốc dân) tức là một nhà nước của nhân dân (cộng hòa dân quốc). Ý thức hệ này, được Phan Bội Châu hiện thực hóa thành một chính phủ lưu vong ở hải ngoại, dù tên của nó là Hội Phục Hồi Quá Khứ Vinh Quang của Việt Nam (Việt Nam Quang Phục Hội, 1912), có quân đội (quang phục quân) và quân kỳ – quốc kỳ (trên đó thể hiện người da vàng đấu tranh chống người da trắng), và tiền (quân dụng phiếu).  Ở hải ngoại, Phan Bội Châu là người đầu tiên sử dụng và khuếch trương tên Việt Nam (do Gia Long đặt năm 1802) thay cho Annam. Trong nước thì Nguyễn Thái Học là người đầu tiên nhắc lại tên này với đại chúng khi ông hô Việt Nam vạn tuế trước pháp trường (1930). Như vậy từ ý thức hệ Social Darwinism, Phan Bội Châu xây dựng được sách lược hành động: xây dựng nhân lực bằng du học (Đông Du), chống Pháp bằng bạo lực, xây dựng nhà nước dân tộc, độc lập, dựa vào Nhật, Trung để thực hiện, từ hải ngoại đánh vào trong nước.


Năm 1906. 


Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh qua Quảng Đông, rồi lần lượt qua Nhật. Lúc gặp Lương Khải Siêu ở Nhật, Lương khuyên, có lẽ cả hai ông Phan, một lời khuyên đến giờ vẫn còn đúng: “Quý quốc chớ lo không có ngày độc lập, mà chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập. Thực lực của quý quốc là dân trí, dân khí và nhân tài”.


Từ đây Phan Bội Châu xây phong trào Đông Du (1905-1909) đưa du học sinh qua Nhật, còn Phan Chu Trinh xây dựng Duy Tan, trong đó có Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội, theo mô hình của Fukuzawa Yukichi (1907-1908).  Hai phong trào này đều bị Pháp tìm cách dập tắt rất nhanh.  Ở thời điểm này Phan Bội Châu ở độ tuổi 40, còn Phan Chu Trinh trẻ hơn một chút.


Các gia đình địa chủ ở Cochinchina là những người sớm nhận ra sự thiệt thòi của “nòi giống” Việt trong lĩnh vực kinh tế, khi mà người Pháp dành độc quyền làm kinh tế cho các tập đoàn Hoa Kiều. Họ gửi con cái của mình cho Phan Bội Châu và Cường Để, chu cấp tiền bạc cho các hoạt động của Phan Bội Châu và Cường Để. Người Nam Kì không quên công ơn dựng cõi phía nam của Gia Long và công ơn ông hoàng tử Cảnh cai trị Sài Gòn ngày xưa. Cường Để là ngọn cờ của giống nòi để người miền nam đặt lòng tin vào. Thế nhưng Nhật lúc này tuy thắng Tàu mà vẫn ở thế yếu hơn Pháp, đã nghe Pháp mà trục xuất Phan Bội Châu cùng Cường Để (1909). Cường Để lưu vong mấy năm qua nhiều nước, trong đó đáng kể nhất là bí mật quay về Cochinchina gặp người yêu và chuyến đi qua Anh Quốc cùng các thanh niên tinh hoa của nhóm Đông Du.


Chính thời gian ở nước Anh, nhóm Cường Để có thể đã gặp Nguyễn Tất Thành, lúc này chỉ hơn 20 tuổi, đã từ Mỹ trở về và đang loay hoay với cuộc sống mới ở Châu Âu. Rất có thể các ý tưởng về dân chủ, quyền con người đã được nhóm thanh niên quý tộc và thượng lưu miền nam reo mầm tư tưởng vào Nguyễn Tất Thành. Trước đó, khi ở Mỹ,  Nguyễn Tất Thành đã học được kỹ thuật diễn thuyết  cho đám đông từ các nhà hoạt động xã hội ngườ Mỹ da đen. Tư tưởng ấy, cách diễn đạt ấy đã đi theo Nguyễn Tất Thành tới Paris (1919), được củng cố qua các cuộc tranh luận thâu đêm suốt sáng trong nhóm Ngũ Long của Phan Chu Trinh. Lúc này Phan Chu Trinh bị chính quyền Pháp ở Indochina “cất” qua “mẫu quốc” cho lành. Chất “dân chủ Mỹ” đã đi theo cuộc đời chiến đấu của Nguyễn Tất Thành, cho dù có mai một ít nhiều, cho đến khi nó được thể hiện thành lời, cả về ý nghĩa lẫn hình thức diễn thuyết trên bản Tuyên ngôn Độc lập. Tất nhiên, mọi người đều biết, lời trích dẫn trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam, có đoạn trích từ Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ do Jefferson, người đã gặp Hoàng tử Cảnh ở Paris như đã nói ở trên. Hậu duệ của Hoàng Tử Cảnh, ông hoàng Cường Để, đã trực tiếp tác động đến suy nghĩ của Nguyễn Tất Thành (ở London) và gián tiếp giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc (ở vụ ném bom Sa Diện và khởi nghĩa Bắc Sơn).


Lịch sử không một chút vô tình khi đưa người đàn ông trẻ Nguyễn Tất Thành, người ở độ tuổi  20 không đủ tiền để Đông Du, phải tây du bằng nghề bồi tàu, cuối cùng lại gặp tất tần tật những ngọn cờ đầu của Duy Tân ở Paris (1919-1923: gặp Phan Chu Trinh), của Đông Du ở London (1913: gặp Cường Để) và ở Quảng Châu (1925: gặp Phan Bội Châu).


Chưa hết, lịch sử còn tòi ra một chi tiết khác ấn tượng hơn nhiều. Lực lượng ủng hộ Cường Để ở miền trung (Annam) và miền nam (Cochinchina) tuyển mộ và xây dựng được nhiều nhân vật chống Pháp và thân Nhật. Một trong những nhân vật ấy chính là Ngô Đình Diệm, lãnh đạo quốc gia đầu tiên ở miền nam chống lại lãnh đạo cộng sản miền bắc là Hồ Chí Minh, tức là Nguyễn Ái Quốc, tức là Nguyễn Tất Thành ngày trước.


Lối đi của Phan Bội Châu, và cả Phan Chu Trinh, không sai về lối, mà sai về nguồn lực và phương thức. Cũng lối đi ấy, người Triều Tiên thành công với việc đánh đổ ách đô hộ của Nhật và họ gọi ngày này là ngày …Quang Phục (Kwangbok). Còn người Hoa thành công rực rỡ hơn nhiều với cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 của Tôn Dật Tiên: lật đổ thể chế phong kiến ngàn đời và thành lập nhà nước tư bản. Có một điều kì quặc thú vị, là chủ nghĩa Tam Dân và mô hình tổ chức kiểu Đồng Minh Hội của Tôn Dật Tiên được các đảng chính trị của người Việt ở Indochina thuộc Pháp và các tổ chức chống Pháp ở hải ngoại (Quảng Châu) bắt chước, còn chính ông Tôn Dật Tiên này để làm cách mạng thì lại lưu vong ở …Hàng Buồm (Hà nội, Tonkin) năm 1904.  Có một điều cũng kì quặc không kém, đó là nhà nước của Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng, tức Đài Loan, được chính phủ Ngô Đình Diệm gọi là Trung Hoa (để phân biệt với Trung Cộng), rất thân với Ngô Đình Nhu. Thế nhưng  một lãnh đạo của Việt Nam Quốc Dân Đảng là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, khi bị mật vụ của Ngô Đình Nhu đuổi bắt lại chạy trốn vào sứ quán Đài Loan ở Sài Gòn vì …thấy nước này cùng ý thức hệ với đảng của mình.


Ngoại trừ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và Nhất Linh, tất cả các nhân vật được nhắc tên ở trên đều có gốc Thanh Nghệ. Sử gia KW Taylor nhận xét và giải thích: vùng đất Thanh Nghệ ở phía Nam vương quốc của Lê Trịnh, rồi sau đó nằm dưới sự ảnh hưởng của nhà Nguyễn. Vùng đất này không có tâm thức trung thành với hoàng gia họ Nguyễn. Là vùng đất chống công giáo dữ dội nhất. Dưới thời Pháp thuộc, nó ít bị chính quyền thuộc địa kiểm soát hơn như Tonkin và Cochinchina, lại không bị chính quyền phong kiến Annam được Pháp bảo hộ lúc đó để mắt tới. Những người đầu tiên trốn qua Trung Quốc để tham gia tổ chức kháng Pháp là người vùng này. Rất nhiều tiền bối cộng sản gốc ở vùng này. Một trong ba đảng cộng sản đầu tiên xuất phát từ đây. Chính quyền vô sản đầu tiên chính là Soviet Nghệ Tĩnh (1929-1930).  Nhiều người dân vùng này tham gia cách mạng tháng 8 và tham gia cuộc chiến tranh Pháp Việt. Chính phủ miền bắc sau 1954 sử dụng rất nhiều người gốc Thanh Nghệ. Sử gia Ho Tai Hue Tam sử dụng từ Kinship để tả những tay hoạt động cách mạng đầu tiên, đặc biệt là các tay cộng sản  tiền bối. Kinship nghĩa là đồng chất đồng màu, là đồng hương, là đồng thổ ngữ, là tin cậy lẫn nhau.


Trong 9 đảng viên đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc tuyển mộ từ Tâm Tâm Xã ở Quảng Châu chỉ có một người gốc bắc là Lâm Đức Thụ. Người này sau bị phát hiện ra là tay trong của mật thám Pháp. Chuyện này lát nữa nói tiếp.


Năm 1908.


Sau vụ Hà Thành Đầu Độc do Hoàng Hoa Thám tổ chức trong năm này, người Pháp xuống tay dẹp tất tật các phong trào yêu nước, từ Đông Du đến Duy Tân. Đóng cửa cả Đai học Hà Nội. Đồng thời lúc đó toàn quyền mới tên là Albert Sarraut xuất thân con nhà giàu có nghề gia truyền là làm báo. Ông này cố gắng thay đổi quan hệ Pháp Việt từ mối quan hệ cai trị bị trị thô bạo qua mối quan hệ bình đẳng và hữu hảo hơn. Trường học, bệnh viện, báo chí được sử dụng cho công cuộc cải cách xã hội từ bên trên này. Một số tờ báo và hội hè trí thức được chính phủ tài trợ ra đời, trong đó có Nam Phong của Phạm Quỳnh, được Louis Marty yểm trợ chính thức. Louis Marty, có thời lên đến chức Giám đốc sở mật thám Đông Dương, là một người Pháp có tài tổ chức, giỏi cả tiếng Việt lẫn Hoa, hiểu biết sâu sắc về xã hội Việt Nam, đỡ đầu cho khá nhiều trí thức tân học, sau này bị Việt Minh coi là kẻ thù đáng sợ nhất. Vai trò nổi bật của ông này là mật thám (tình báo) chính trị . Một vai trò mà sau này Ngô Đình Nhu sao chép y hệt cho Trần Kim Tuyến.


Năm 1913.


Pháp suy yếu vì nằm trong vòng xoáy của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhân cơ hội này, từ Quảng Châu bên kia biên giới, Phan Bội Châu và Cường Để vẫn tiếp tục tiến hành đấu tranh bằng bạo động vào trong nước. Phan Bội Châu tổ chức ném bom ở khách sạn Hanoi Hotel ở Tràng Tiền năm  1913. Cường Để hậu thuẫn cho Phan Xích Long tổ chức đánh mìn ở cơ quan công quyền cũng vào năm ấy. Tất cả những người tham gia đều bị tử hình hoặc tử hình vắng mặt. Vua Duy Tân bị quản thúc năm 1916 do dính líu đến lực lượng nổi dậy. Ông bị đưa đi đầy ở đảo Reunion một năm sau đó. Khải Định, giống vua cha là Đồng Khánh, thuộc phe thân Pháp được người Pháp đưa lên ngôi.


Thế chiến thứ nhất kết thúc. Chủ nghĩa quốc gia phát triển mạnh ở Đức. Cách mạng vô sản thành công ở Nga năm 1917.


Người Pháp bắt đầu xây dựng các tuyến đường sắt ở phía bắc, miền trung và miền nam. Họ cũng mở xưởng đóng tàu. Xây cảng. Sau Thế chiến thứ nhất, các nhà đầu tư Pháp mang tiền qua Indochine để kiếm lời. Bắt đầu xuất hiện tầng lớp “thợ thuyền” và “công nhân đồn điền”. Rất nhiều lính thợ và công nhân, lúc trước tình nguyện đi qua mẫu quốc để phục vụ trong chiến tranh, bắt đầu quay về làm việc cho một nền kinh tế hậu chiến bắt đầu bùng nổ ở thuộc địa.  Một tầng lớp lao động mới ra đời dù lúc đó chưa ai biết gọi cái tầng lớp ấy là gì.


Trong A history of the Vietnamese, sử gia Taylor cho biết việc xây dựng đường sắt thành công ở Indochina vừa là niềm tự hào của người Pháp, vừa mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư, vừa là đòn bẩy làm bùng nổ kinh tế ở Indochina, lại vừa là phương tiện giao thông thuận tiện mở rộng chân trời của người Việt Nam.


Theo số liệu của sử gia KW Taylor , chỉ trong vòng 10 năm sau Thế chiến            thứ nhất, tổng đầu tư ở Indochina nhiều gấp 15 lần đầu tư của 30 năm trước đó. Nền công nghiệp xe hơi thế giới cũng bùng nổ vào quãng thời gian này, khiến sản lượng cao su của Indochina tăng gấp 30 lần trong những năm 1920. Công nhân làm việc trong đồn điền cao su, từ dưới 3 ngàn nhân công, tăng lên trên 80 ngàn người. Sản lượng than tăng 300 phần trăm. Sản xuất phục vụ tiêu thụ nội địa phát triển. Xuất khẩu gạo tăng gấp đôi.


Chính trị ở Pháp cũng có nhiều thay đổi. Ngày nay ta nhìn vào chính phủ Hoa Kỳ, các tổng thống và đảng cầm quyền thì chính sách cũng thay đổi theo. Ngày xưa chính sách của Pháp ở thuộc địa cũng thay đổi như thế. Thậm chí còn hơn, bởi nó còn phụ thuộc vào cá nhân vị toàn quyền được bổ nhiệm. Albert Sarraut và Maurice Long được coi là những vị toàn quyền ở phe cởi mở, sử dụng các biện pháp dân sự, đặc biệt là báo chí và giáo dục, để xây dựng quan hệ Pháp Việt tốt đẹp dần lên. Sau năm 1919 số trường học ở Indochina tăng lên tuy vẫn tập trung ở các thành phố lớn. Theo số liệu nhà sử học Ho Tai Hue Tam tìm được, đã có 144,300 học sinh đi học tiểu học vào năm 1921. Đến niên khóa 1924-1925 có 187,000 học sinh đi học, trong đó có 17,000 học sinh học cấp 3. Đến năm 1930 có 323,759 học sinh đi học trường công lập và khoảng 60,000 học sinh học trường tư và 3,000 học sinh học trường Pháp lycée (Albert Sarraut ở Hà Nội, Chasseloup Laubat ở Saigon và Dalat Lycee). Dân số Indochina lúc đó khoảng trên 17 triệu người.


Người Pháp ở Indochina cũng chia rẽ, có những người vẫn nặng đầu óc thực dân bóc lột, có những người có thiện cảm và tôn trọng dân bản xứ.


Một số ít thanh niên Cochinchina thuộc tầng lớp trên du học ở Pháp bắt đầu trở về. kinh tế ở phía nam, do trở thành thành phố thuộc Pháp từ sớm đến thời điểm này đã có khoảng 60 năm thuộc Pháp. Đã có những người Việt sinh ra và lớn lên trong bối cảnh kinh tế chính trị hoàn toàn Pháp thuộc. Gia đình họ giàu có, họ nhập quốc tịch Pháp và đi Pháp du học.


Đặc tính của mỗi dân tộc được quyết định bởi số đông trung bình (giới bình dân) của dân tộc ấy. Giới bình dân của Hoa Kỳ là những người trung lưu chăm chỉ và có tinh thần tựu lập. Giới bình dân của nước ta cho đến những năm 1920 là những người nghèo khổ ở tầng đáy xã hội. Những người ở tầng lớp dưới về cơ bản là giống nhau, ít khác biệt. Tâm thức của họ không được sâu sắc lắm, nhận thức về xã hội không được mấy sáng sủa, mù mờ về chính trị, tình cảm nghèo nàn. Họ không bao giờ hiểu được những người tầng lớp trên, và khó chịu đựng được sự khác biệt. Những người ở tầng lớp trên, ngược lại, không hiểu được tình cảm, nhận thức và cả sức mạnh của tầng lớp dưới. Những người ở tầng lớp trên cũng đa dạng cá nhân, mỗi người mỗi kiếu và vì thế họ dễ chấp nhận sự khác biệt.


Năm 1917.   


Bùi Quang Chiêu sinh ra (1873) trong một gia đình bề thế, có quốc tịch Pháp .Về tuổi tác, Bùi Quang Chiêu trẻ hơn Phan Chu Trinh vài tuổi (còn Phan Chu Trinh trẻ hơn Phan Bội Châu vài tuổi). Lần đầu đi du học của Bùi Quang Chiêu rất sớm, ở Algerie, khoảng 1894. Lần thứ hai đi du học (ở trường Thuộc Địa ở Pháp?). Người ta cho rằng trong chuyến đi này, vào năm 1911, tay nhà giàu lớn tuổi đã gặp anh nhà nghèo trẻ tuổi Paul Thành trên cùng một chuyến tàu, ở hai địa vị khác nhau. Bùi Quang Chiêu đã tư vấn cho Paul Thành nộp đơn vào trường Thuộc Địa. Việc này sau đó đã xảy ra, nhưng đơn xin học của anh Thành đã bị từ chối. Sau đó Nguyễn Tất Thành đi Mỹ, đi Anh rồi đến Paris như đã nói ở trên.


Từ Pháp trở về với tấm bằng danh giá lúc bấy giờ là kỹ sư canh nông và mang trong đầu tư tưởng đấu tranh bất bạo động của Gandhi , Bùi Quang Chiêu làm việc cho chính quyền thuộc địa trong lĩnh vực nông nghiệp, từ đó xây dựng được các quan hệ với người Việt có tiềm năng làm doanh nhân và chính trị gia, là hai thứ rất mới mẻ và lạ lẫm với xã hội Việt lúc bấy giờ. Cùng thời với các phong trào đề cao giống nòi, chấn hưng dân tộc của hai ông Phan, Bùi Quang Chiêu đề ra phong trào đỏi hỏi các quyền lợi rất lạ lẫm với người Việt: quyền làm kinh tế, chống độc quyền kinh tế của người Hoa, quyền bỏ phiếu, quyền chính trị, vốn là độc quyền của người Pháp da trắng. Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phú Khai sử dụng tờ báo được chính quyền Sarraut tài trợ, tờ La Tribune Indigène (1917) để phát biểu ý kiến của mình, nhưng luôn giữ cho tờ này ở vai trò phản biện, không vượt qua lằn ranh chống đối. Bùi Quang Chiêu tổ chức các hoạt động tẩy chay hàng hóa của người Hoa, thành lập nhà máy xay gạo đầu tiên của người Việt ở Mỹ Tho để phá vỡ thế độc quyền ngành của người Hoa, mở ngân hàng đầu tiên của người Việt ở Sài Gòn. Mặt khác, do có quốc tịch Pháp, Bùi Quang Chiêu hoạt động chính trị ở “mẫu quốc” để đòi hỏi những quyền lợi cho Indochina, những quyền này cho đến tận ngày nay vẫn là các quyền dù quen tai về hình thức nhưng rất xa lạ về nội dung với xã hội: tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do báo chí.


Nhóm Lập Hiến (Constitutionalist) là một nhóm nhỏ (được cho là khoảng 30 thành viên) tập hợp quanh Bùi Quang Chiêu để đấu tranh chính trị. Đây là nhóm chính trị đầu tiên đấu tranh bất bạo động và công khai thông qua cải cách hiến pháp  để đòi hỏi quyền lợi chính trị và kinh tế cho người bản xứ. Một nhân vật bí ẩn tên là Diệp Văn Cương, được cho là thân cận với Bùi Quang Chiêu, đã soạn thảo đề xuất cải cách thể chế rất tiến bộ, từ cấp làng xã đến chính quyền trung ương, trong đó có việc tăng số ghế cho người bản xứ trong Hội đồng Thuộc địa và cải cách tư pháp bằng cách đặt ra chức thẩm phán hòa giải. Trong khoảng chục năm đấu tranh chính trị, bao gồm cả việc sử dụng hai cơ quan ngôn luận và của họ là La Tribune Indigène (Nguyễn Phú Khai) và L’Écho Annamite  (Nguyễn Phan Long) nhóm này đã làm được kỳ tích khi chính phủ bảo hộ cho số người bản xứ được quyền bầu cử (cử chi đoàn) tăng từ 2 ngàn lên 20 ngàn (số liệu của Taylor), số thành viên người bản xứ ngồi trong Hội đồng Thuộc địa tăng lên 10 ghế, trong đó Nguyễn Phan Long giữ vị trí Phó Hội Đồng.


Trong thời gian 1917-1923 nhóm của Bùi Quang Chiêu đã phá băng môi trường chính trị ở thuộc địa, mở lối cho các phong trào chính trị của những du học sinh thế hệ sau trẻ hơn, biến Hội đồng Thuộc địa từ một định chế cai trị thành một định chế dân chủ hơn rất nhiều và biến các cơ quan báo chí được chính quyền thuộc địa tài trợ ngầm thành cơ quan phát ngôn cho chính kiến của mình. Nhóm Lập Hiến đi theo chủ nghĩa tinh hoa, không quan tâm đến giới bình dân và quyền lợi của họ, đồng thời va chạm quyền lợi với nhóm Pháp thực dân quen thói bóc lột, và không làm hài lòng các vị toàn quyền người Pháp vốn chủ trương cải cách giáo dục và văn hóa hơn là cải cách chính trị. Các xung đột này đều được “tranh đấu” bằng các phương thức văn minh hợp pháp, không sử dụng bạo lực. Ngay sau Cách Mạng Tháng Tám, Bùi Quang Chiêu lúc này đã hơn 70 tuổi đã bị Việt Minh bắt và giết cùng năm người con của mình, trong đó người con út chưa đầy 20 tuổi.


Năm 1922-1923.


Cải cách thể chế thành công năm (1922) cũng đúng vào lúc Nguyễn An Ninh, một thanh niên con nhà giàu lúc này 23 tuổi, tốt nghiệp Trường Luật ở Pháp quay về Sài Gòn và là thành viên cứng cựa của phong trào Jeune Annam (Thanh niên Annam) cùng với nhà hoạt động cánh tả người Pháp sau này rất nổi tiếng là Andre Malraul.


Cũng thời gian này, một thanh niên khác, già hơn Nguyễn An Ninh đúng 10 tuổi, và cùng là thành viên nhóm Ngũ Long với Phan Bội Châu và Nguyễn An Ninh ở Paris, gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp rồi qua Nga (1922-1923). Tất nhiên đấy chính là Nguyễn Ái Quốc.


Năm 1920-1929 ( ở Tonkin)


Ở Tonkin, một thanh niên khác , trẻ hơn Nguyễn An Ninh 2 tuổi, và không phải là du học sinh, tên là Nguyễn Thái Học, đã thành lập Đảng bí mật tên là Việt Nam Quốc Dân Đảng (1927) trên nền tảng của Nam Đồng Thư Xã. Theo nội dung trong sách của Hoàng Văn Đào, cuốn Việt Nam Quốc Dân Đảng,  thì có vẻ như ngoài đảng này có ý thức hệ rất mơ hồ, vừa theo Tam Dân của Tôn Dật Tiên, vừa có mùi vị Tự Do, Bình Đẳng, Bác Ai của Pháp; vừa học tập QDĐ của Tàu vừa chịu ảnh hưởng của Phan Bội Châu (có thời kỳ đảng này mời Phan Bội Châu làm chủ tịch danh dự). Về tổ chức Đảng này tự mày mò xây dựng theo chiều dọc: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, chi bộ. Tôn chỉ là sử dụng bạo lực lật đổ phong kiến và thực dân. Tổng bộ có nhiều ban, trong đó có ban ám sát. Ban ám sát năm đã giết một tay mộ phu đồn điền tên là Bazin (1929), dẫn đến việc Đảng bị mật thám Pháp khủng bố tan nát khiến Nguyễn Thái Học phải quyết định khởi nghĩa non và sau đó là thất bại. Ban ám sát còn nhận nhiệm vụ giết những người trong Đảng mà bất đồng chính kiến với tổ chức, nhất là khi nhóm lãnh đạo Đảng bị phân hóa và phe ủng hộ đấu tranh bạo lực thắng phe ôn hòa. Nhân vật nổi bật của ban này là Ký Con. Kế hoạch hành động của Đảng cũng khá mạch lạc tuy còn ngây thơ do lãnh đạo đảng chủ yếu là các tay làm chính trị tự học tự làm. Họ chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là tuyển mộ, đào tạo đảng viên, sau đó đấu tranh bạo động để lấy chính quyền. Giai đoạn sau là nắm chính quyền và thiết lập chính quyền quân sự, rồi chuyển qua huấn luyện chính trị (“huấn chính”) cho xã hội theo nguyên tắc “Dĩ Đảng Trị Quốc, và cuối cùng mới là  “hiến chính”  để xây dựng thể chế pháp quyền, xây dựng hiến pháp và tổ chức bầu cử theo phổ thông đầu phiếu.


VNQDĐ phát triển mạng lưới đảng viên khá nhanh ở cả ba kỳ. Nhưng có lẽ chất lượng Đảng viên không được tốt, kỷ luật Đảng hơi kiểu hội kín Tàu, cách hành xử khá thô bạo.  Trong sách của Hoàng Văn Đào kể khá nhiều chuyện ban ám sát đi giết những đảng viên bị coi là phản đảng. Cũng có kể chuyện bí thư trưởng của đảng là Vũ Hồng Khanh vì hiểu nhầm Đội Sửu vi phạm nguyên tắc đảng đã rút súng bắn chết Đội Sửu tại chỗ bất chấp Đội Sửu là tay gộc của đảng. Ở đây có một chi tiết thú vị nữa của lịch sử. Khi Quốc dân quân, quân đội của VNQDĐ bị Pháp và Việt Minh đánh, họ chạy qua Trung Quốc. Còn quân đội cộng sản của Đặng Tiểu Bình bị Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch đánh, họ chạy qua Cao Bằng. Nhưng đó là những năm sau này.


Sau vụ ám sát Bazin chưa đầy một năm, Nguyễn Thái Học khởi nghĩa Yên Bái (1930) và thất bại. Nguyễn Thái Học và các đồng chí bị xử bắn. Cô Bắc, Cô Giang thoát chết. Nhưng Cô Giang (Nguyễn Thị Giang) là người yêu của Nguyễn Thái Học đi về Nguyễn Thái Học, tháo đồng hồ tặng người em chồng tương lai, rồi ra đầu làng dùng khẩu súng người yêu tặng bắn vào đầu tự sát. Quốc Dân Đảng sau này sống lại chủ yếu nhờ các lãnh đạo đảng ở hải ngoại (chủ yếu là Tàu Tưởng) trở về hoạt động. Đồng thời kết hợp với Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh và dựa vào quân đội Tàu Tưởng của Lư Hán Tiêu Văn.


Năm 1925-1928 (ở Cochinchina)


Trong lúc đó ở Sài Gòn, ngay sau khi về nước, Nguyễn An Ninh lập tức có các hoạt động xã hội. Theo Ho Tai Hue Tam, Nguyễn An Ninh chịu ảnh hưởng tư tưởng của Nietzche, Bergson, và Gide. Năm 1923 trên tờ báo Cloche Fêlée do chính mình xuất bản, Nguyễn An Ninh đã bộc lộ tư tưởng vô chính phủ nổi loạn của mình với bài viết “Order and Anarchy”. Cùng với các hoạt động diễn thuyết theo kiểu vô chính phủ nihilist từ nước Nga, Nguyễn An Ninh trở thành thần tượng của giới trẻ cấp tiến Sài Gòn, đặc biệt là các thành viên của trào lưu thanh cấp tiến Jeune Annam.


Khác với các tờ báo cùng chính kiến nhưng khác phe của Bùi Quang Chiêu, Andre Malraux (Indochine), Paul Monin (Vérité) thường đấu tranh với chính quyền thông qua đối thoại và phản biện, tờ báo của Nguyễn An Ninh kêu gọi thanh niên hành động chống chính quyền. Nguyễn An Ninh viết trên báo của mình: “Liberty is not to be begged for”. Khác với Bùi Quang Chiêu luôn gói gọn tất cả trong nhóm nhỏ theo chủ nghĩa tinh hoa (elitism) và coi thường quần chúng lao động, Nguyễn An Ninh tuy xuất thân ở tầng lớp trên nhưng lại đi vào giới bình dân của Indochina, tức là đi với nông dân, tiểu thương, giáo viên và đặc biệt là thanh niên.  Thậm chí ông còn sử dụng cả lãnh đạo của thế giới ngầm cho các hoạt động của mình. Hình ảnh anh thanh niên nhà giàu du học ở Pháp về đi guốc mộc bán báo trên đường phố Sài Gòn, hay đi xe đạp đền từng ngôi chùa ở ngoại thành để tuyên truyền đã cuốn hút người lao động.


Hơn thế, Nguyễn An Ninh có lẽ khá hào hứng với phong trào dân túy và thích thú với các mô hình hội kín kiểu Thiên Địa Hội của thế giới ngầm và các tôn giáo bình dân, nên đã có những quan hệ đặc biệt với Cao Đài và âm thầm tuyển mộ người cho đảng kín: Thanh Niên Cao Vọng Đảng, hay còn được gọi là Đảng kín Nguyễn An Ninh.


Nguyễn An Ninh bị bắt đi tù bốn lần. Lần thứ tư thì chết trong tù. Mặc dù về thực chất, Nguyễn An Ninh giống một tay hoạt động xã hội độc lập, không có ý thức hệ, không có sách lược cụ thể, không có phương pháp tổ chức đảng chính trị dù được quần chúng ủng hộ và sẵn sang đi theo. Có vẻ sau mỗi lần đi tù tư tưởng của Nguyễn An Ninh lại chuyển dần qua phía cộng sản.  Các thành viên của Thanh niên cao vọng đảng dần dần cũng chuyển hóa thành cộng sản đệ tam Stalinist: Võ Văn Ngân, Võ Văn Tần, Tô Ký. Một người khác không xuất thân từ giới bình dân là Phan Văn Hùm chuyển qua cộng sản đệ tứ Trotskist. Những người cộng sản đệ tứ ở Cochinchina, sau cách mạng tháng 8 bị Việt Minh giết. Nguyễn An Ninh chết ở Côn Đảo (1943), rất lâu sau này tự nhiên được phong liệt sỹ (1980).


Thời kỳ này ở Cochinchina không chỉ khai mở bầu không khí chính trị đa dạng mà còn đón nhận các ý tưởng tôn giáo mới. Đây có lẽ là thời kỳ rực rỡ nhất của một xã hội dân sự đúng nghĩa. Cao Đài hình thành (1926) ở vùng sống chung giữa người Việt và Khmer. Ngay sau khi ra đời, Cao Đài phát triển mạnh mẽ. Hoàng thân Cường Để ngầm ủng hộ Cao Đài và về sau này người Nhật dựa vào Cao Đài để kháng Pháp. Chính quyền thuộc địa sớm nhận ra mối đe dọa từ giáo phái này, bắt ngay giáo chủ Phạm Công Tắc cho đi đầy ở Madagascar và chiếm đóng  Tòa thánh Tây ninh.  Nhưng khi chiến tranh Pháp Việt nổ ra,Cao Đài tổ chức quân đội riêng và do khác biệt đường lối yêu nước và tín ngưỡng, Việt Minh đàn áp Cao Đài tàn nhẫn cho dù đạo này lúc này đã được quân đội Pháp yểm trợ. Sang thời Việt Nam Cộng Hòa, chế độ Diệm ra tay thịt thêm lần nữa, giáo chủ Phạm Công Tắc chết ở đất Cambodia.


Năm 1924-1927 (ở Quảng Châu)


Như vậy đến thời điểm này chưa có một tổ chức chính trị nào đủ mạnh và đủ ảnh hưởng trên cả ba miền cũng như trên toàn cõi Đông Dương, mặc dù tất cả các đảng và hội đoàn dù ở hải ngoại hay trong nước đều đóng góp vào thay đổi rất mạnh mẽ bầu khí quyển chính trị ở thuộc địa và thay đổi nhận thức chính trị cho xã hội và người dân. Lý do chính: không đảng phái nào có đầy đủ hành trang: ý thức hệ để dựa trên đấy các lý luận hình thành ra sách lược hành động, và phương pháp tổ chức lực lượng.


Năm 1924 ngay sau Đại hội 5 của Quốc tế cộng sản (Comitern), Mikhail Brodin mang Nguyễn Ai Quốc qua Canton với vai trò thông dịch và tận dụng quan hệ của Nguyễn Ái Quốc để phát triển mạng lưới đảng ở Indochina và Siam (Thái Lan bây giờ).


Trong thời gian ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thiện dần các kỹ năng tranh luận, tuyên truyền và làm báo. Rất khác với Bùi Quang Chiêu và hơi giống với Nguyễn An Ninh, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng Paria (người cùng khổ) để tuyên truyền vào lính thợ và công nhân Annam đang phục vụ mẫu quốc. Và như ở trên ta thấy, họ dần dần quay về quê hương trong những năm 1920. Năm 1922-1924, được đào tạo ở Đại học Phương Đông, Nguyễn Ái Quốc nắm vững lý luận dựa trên ý thức hệ Leninist và phương pháp đấu tranh của Stalin, và đặc biệt nhất là hiểu được tính quốc tế của phong trào cộng sản. Hơn thế, Nguyễn Ái Quốc nắm vững các kỹ năng huấn luyện và tuyển dụng, xây dựng Đảng từ cấp cơ sở. Nhưng bắt đầu từ đâu?


Ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc gặp Nguyễn Thượng Huyền, thư ký và đang dần thay Phan Bội Châu lãnh đạo Hội. Nguyễn Thượng Huyền tặng Nguyễn Ái Quốc trước tác “On Revolution” của mình. Chi tiết này và nội dung sau đây lấy từ Radicalism and Origins of the Vietnamese Revolution nên sẽ dịch từ bản tiếng Anh thay vì nội dung gốc có thể bằng tiếng Hán hoặc chữ quốc ngữ. “On Revolution” có lẽ tên Việt là “Cách mạng luận”. Từ đây nảy sinh ra tranh luận giữa học giả kiểu cũ là Nguyễn Thượng Huyền và tay cách mạng với tư tưởng mới mẻ từ nước Nga: thế nào là Cách Mạng.


Hoàn toàn khác với Nguyễn Thượng Huyền cho rằng cách mạng bắt nguồn từ tận Lão Tử, hàm ý thay đổi mệnh trời (phế thiên tử), Nguyễn Ái Quốc bắt đầu các lập luận của mình từ sự khác biệt giữa cải cách, tiến hóa và cách mạng. Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng phải là thay đổi hoàn toàn thể chế cũ (phong kiến) bằng một thể chế mới tiến bộ hơn. Nguyễn Ái Quốc đưa ra cho Nguyễn Thượng Huyền những câu hỏi khó: “Tại sao người Pháp đàn áp được người Việt? Tại sao nhân dân ta lại tăm tối? Tại sao chúng ta không phát động được cách mạng? Chúng ta phải làm gì?”.


Và đây là những câu hỏi cốt tử nhất mà Nguyễn Ái Quốc đưa ra: “Ông đã viết 20 trang để thảo luận về cách mạng nhưng ông không nói ra được: cái gì phải làm trước khi cách mạng, cái gì phải làm trong cách mạng, và cái gì phải làm sau cách mạng”.


Từ đây với tên giả là Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông  cùng với do Liêu Trọng Khải đệ tử của Tôn Trung Sơn.  Quan trọng hơn, Lý Thụy gặp Phan Bội Châu và nhận thấy Tâm Tâm Xã (hội những trái tim cùng nhịp đập), một tổ chức hậu sinh từ Việt Nam Quang Phục Hội. nhà cách mạng lão thành này có những thành viên yêu nước tuyệt vời và rất …Kinship. Lý Thụy đã tuyển dụng, huấn luyện và sử dụng những thành viên cốt cán đầu tiên này để thành lập Thanh niên cộng sản luên đoàn gồm 9 thành viên bao gồm cả các tên tuổi lớn sau này như Lê Hồng Phong. Trong 9 người này có Lâm Đức Thụ không phải dân Thanh Nghệ, và đây là người tham gia bán Phan Bội Châu cho mật thám Pháp, và Phan bị bắt cóc và đưa về Hà Nội và bị Hội đồng đề hình kết án.


Sử dụng Thanh Niên Cộng Sản Liên Đoàn làm hạt nhân, Lý Thụy mở rộng tổ chức qua các nhóm đối tượng rất cụ thể nhưng thống nhất về ý thức hệ cách mạng. Hội nhóm có tên “Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” được thành lập năm 1925 để làm cơ quan tuyển dụng thanh niên từ trong nước đi ra nước ngoài học tập rèn luyện làm cách mạng. Các lớp huấn luyện do Lý Thụy tổ chức, soạn giáo án, đứng lớp được tổ chức liên tục. Các khóa ngắn nhưng thực dụng. Học viên học xong được phân loại để cử qua Nga học tiếp ở đại học Phương Đông, hoặc gửi qua võ bị Hoàng Phố của Tưởng, hoặc gửi về hoạt động trong nước.  Báo Thanh Niên cũng được sinh ra để phục vụ tuyên truyền trong thời kỳ này. Các tên tuổi lớn  của ĐCS VN sau này đều xuất phát từ đây: Trần Phú, Phùng Chí Kiên, Nguyễn Sơn.


Các tài liệu giảng dạy được Nguyễn Ái Quốc tập hợp lại thành cuốn sách nổi tiếng Đường Kách Mệnh (Road to Revolution).  Theo Ho Tai Hue Tam, trong cuốn sách này, NAQ đã giải quyết được vấn đề mà Phan Bội Châu bó tay là vấn đề phân loại giai cấp và đoàn kết giai cấp để chống Pháp. Các thuật ngữ quan trọng chủ nghĩa Marx Lenin đều bị dịch qua chữ Hán và làm sai lệch nghĩa gốc. Ngay cả từ “cộng sản” cũng sai. Nguyễn Ái Quốc đã khéo léo sử dụng Công-Nông (giới công nhân và giới nông dân) để thay cho từ vô sản (wu chan) vốn dịch không sát nghĩa từ chữ proletariat của tiếng Nga. Từ đây quốc tế cộng sản bắt đầu nhìn nhận chính thức tiềm năng cách mạng của giới nông dân ở các nước thuộc địa.


Từ những năm 1927 các hạt nhân của Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội trở về trong nước gặp khó khăn trong khâu tuyển dụng do bị cạnh tranh khốc liệt giữa các hệ phái khác nhau, và Đảng cạnh tranh mạnh nhất với họ chính là Việt nam Quốc dân Đảng.


Bản thân các hệ phái của ĐCS cũng tranh đấu với nhau về ý thức hệ và đường lối xem ai đúng hơn ai, ai chính thống hơn ai, ai đạo đức hơn ai. Vụ án phố Barbier năm 1928 xuất phát từ việc các cán bộ đảng là nam giới chăm chỉ hoạt động mà quên tình cảm cá nhân bỗng một hôm tranh nhau nữ cảm tình viên quyến rũ mà dẫn đến đấu tố nội bộ dẫn đến phán quyết cuối cùng là một người sẽ phải chết. Cái chết ấy dẫn đến án hình sự và cảnh sát Pháp phát hiện ra đây là một nhánh của cộng sản hoạt động ở Sài Gòn và bắt nhốt hết vào tù.


Tới đây lịch sử lại có chút nghịch ngợm. Vụ án phố Barbier năm 1928 làm suy yếu chi nhánh của Thanh niên cách mạng đồng chí hội ở Cochinchina, mở đường cho nhóm trí thức đi theo hướng “tả đối lập” như  họ tự gọi từ Pháp trở về năm 1931. Nhóm Troskist này đã thành công nhờ đấu tranh công khai và trở thành nhóm chính trị chủ đạo ở miền nam và trúng cử một loạt vào Hội đồng thuộc địa năm 1935. Cái giá phải trả của nhóm này là Tạ Thu Thâu và Phan Văn Hùm đều bị làm thịt ngay sau Cách Mạng Tháng 8. Thế nhưng nguyên nhân tổ chức phải tan nát vì gái của vụ Barbier hằn sâu vào tiềm thức của những người hoạt động. Đây có lẽ là nguyên nhân dẫn đến tội “hủ hóa” của cán bộ là một trong những tội ngang với phản bội đảng. Các cán bộ nữ khô khan và kiên định tự nhiên được ưu ái hơn hẳn các cán bộ nữ ướt át chân dài.


Năm 1930.


Tiếp sau vụ Nguyễn Thái Học, mật thám Pháp đàn áp dữ dội các đảng phái yêu nước ở phía bắc, khiến cho chi nhánh của đảng ở bắc Annam (bắc trung bộ và hàng loạt đảng phái thân Nhật tự nhiên mạnh hẳn lên. Nhưng các đảng viên tốt nhất của Tân Việt


Việt Nam Cộng Sản Đảng chính thức ra đời ở phố Quan Công, Hồng Công. Một thời gian ngắn sau đảng đổi tên thành Đông Dương Cộng Sản Đảng.


Ở phía bắc, Hoàng Văn Thụ rất vất vả bảo vệ và tái dựng các cơ sở đảng bị Pháp phá vỡ. Năm 1940, Hoàng văn Thụ lúc này là ngôi sao sáng, cử Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng qua Trung Quốc. Ở đây hai người bạn học này gặp Nguyễn Ái Quốc, lúc này đã dùng tên Hồ Chí Minh, ở Côn Minh.


Thử thách lớn nhất với những người cộng sản thời gian 1930-1940 này chính là nhà tù của Pháp mà ngay cả ở trong đó họ vẫn phát triển tổ chức lớn mạnh và tiếp tục đương đầu với chính quyền thực dân. Sự kiên cường của các đảng viên cộng sản và sức mạnh đoàn kết của đảng này đã làm nhiều đảng viên cốt cán của đảng khác ngưỡng mộ và đào ngũ để ra nhập tổ chức cộng sản.


Trong những năm này Nhật lặng lẽ yểm trợ cả Cao Đài và Hòa Hảo. Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ phật giáo Hòa Hảo, sau chuyển mình thành tổ chức có vũ trang được hiến binh Nhật cứu khỏi tay mật thám Pháp nhưng sau này không thoát khỏi tay Việt Minh.  Cùng với thế chiến thứ hai và sức mạnh của đế quốc Nhật, chủ nghĩa quốc gia cánh hữu bắt đầu hình thành ở Indochina với các ý tưởng kết hợp cả duy vật biện chứng lẫn dân chủ nghị viện. Họ sử dụng các ý thức hệ tương đối hấp dẫn trí thức nhưng mơ hồ có tên gọi “hỗ tương” và “duy tâm trung vật”.


Hàng loạt đảng phái thân Nhật xuất hiện với tên đầu là Đại Việt. Đại Việt Quốc Xã Đảng ở Hải phòng, Hà Nội. Đại Việt Quốc Dân Đảng của Trương Tử Anh rất mạnh trong sinh viên của Đại học Hà Nội (Đông Dương Học Xá) và xây dựng được chiến khu ở Bắc Giang. Đại Việt Duy Dân Đảng của các thành viên xuất thân từ Tự Lực Văn Đoàn. Đại Việt Dân Chính của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Ngô Đình Diệm có Đại Việt Phục Hưng trong đó có Ngô Đình Khôi làm lãnh đạo ở Huế. Các đảng này, sau có nhóm kết hợp với quốc dân đảng (Trương Tử Anh, Nguyễn Tường Tam), có các nhóm kết hợp với nhau thành Đại Việt Quốc Gia Liên Minh. Nhóm của Trương Tử Anh hỗ trợ Trần Trọng Kim, sau thành thủ tướng chính phủ do Nhật dựng lên sau khi họ đảo chính Pháp. Sau Cách mạng tháng 8, Trương Tử Anh và Ngô Đình Khôi đều bị tảo thanh. Đảng Đại Việt sau rất nổi ở Việt Nam Cộng Hòa nhưng bị chính quyền Ngô Đình Diệm dùng quân đội đàn áp ở chiến khu của họ (chiến khu Ba Lòng).


Năm 1939-1940 nhiều người thuộc phe Đại Việt theo Cường Để qua Tàu tham gia Kiến Quốc Quân.


Năm 1940.


Kiến Quốc Quân theo Nhật đi qua ngả Đồng Đăng đánh thành Lạng Sơn và là phần bắt đầu của bài viết dài phát mệt này.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on January 19, 2014 07:06

December 14, 2013

Bản dịch mới cuốn Quân Vương của Machiavelli

Dạo này nhiều bạn viết review sách quá, mình cũng tập tọng viết thử xem sao. Bài này viết xong, gửi cho Tuổi Trẻ Cuối Tuần, may quá đã được đăng số tuần vừa rồi.


Cai trị là dựa vào số đông


Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc bằng quân sự, thừa tướng Lý Tư đã tận sức giúp vua tạo dựng đế chế bằng sự thống nhất về chính trị và tư tưởng. Học thuyết mà Lý Tư ứng dụng trong trị quốc phần lớn dựa vào tư tưởng và trước tác của một người bạn, sau trở thành kẻ đối nghịch là công tử nước Hàn: Hàn Phi.


Hàn Phi và Lý Tư cùng là học trò của Tuân Tử. Hàn Phi bị Lý Tư, người tự nhận là kém tài hơn, gièm pha đến mức bị vua Tần bỏ tù và sau đó chết trong ngục. Trước tác mang tên ông, sau này được nhà Tần áp dụng triệt để trong trị quốc và trở thành kinh điển của pháp gia.


Trong lịch sử Trung Quốc, người mở đường cho Pháp gia là Quản Trọng. Trước Hàn Phi, pháp gia cũng đã có nhiều phái khác biệt về chủ trương và đường lối trị quốc. Phái Thận Đáo đề cao Thế (势) gọi là phái trọng thế. Phái này cho rằng người lãnh đạo chỉ cần dựa vào uy thế (quyền lực) để áp đặt thể chế. Phái Thân Bất Hại đề cao Thuật (術) gọi là phái trọng thuật. Thuật ở đây là phương pháp. Với phương pháp tốt và áp dụng khéo léo, kẻ làm vua sẽ giỏi “thuật cai trị”. Phái cuối cùng là Thương Ưởng, đề cao Pháp (法), gọi là phái trọng pháp. Pháp là phép tắc, pháp luật. Trị nước bằng pháp luật, giống như “rule by law” của phương tây.


Hàn Phi, sống ở thế kỷ III trước Công nguyên. Một mặt ông vẫn đồng ý với quan điểm cai trị dùng đức: “nội thánh ngoại vương – bên ngoài là vua, ở trong là thánh nhân” của nho giáo, tương đồng với quan điểm quân vương – triết gia (philosophy-king) của Plato, Aristotle. Một mặt khác, ông tiến xa hơn khi cho rằng cai trị không thể dùng đức.  Ông cho rằng cai trị phải nhắm vào số đông, không nhắm vào số ít. Ông nói: “Trông cậy dân làm điều tốt thì trong nước không quá mười người, nhưng khiến dân đừng làm bậy thì cả một nước được ổn định. Bậc cai trị dùng số đông, không dùng số ít, cho nên không trọng đức mà trọng pháp”.[1]


Từ đây ông cũng cho rằng vua không cần phải tài cao đức trọng, không cần làm gương cho cả nước soi vào. Để cai trị thì vua cần có thế (uy quyền để áp đặt) và có pháp (để chỉ cho dân điều nên làm và không nên làm, để thưởng phạt công minh) Từ đây, ông tiến xa hơn một bước về thuật. Ông cho rằng vua cũng chẳng cần phải làm, thay vào đó ông vua cần nắm vững thuật trị nước để thông qua nó xây dựng và vận hành bộ máy chính quyền. Vô vi nhi vô bất vi (無為而無不為): vua không làm gì nhưng chẳng cái gì không được làm. “Vô vi” là cái cách để vua dùng (cai trị thiên hạ) còn hữu vi là để bầy tôi được vua dùng vào mục đích đó, giống như Trang Tử viết trong Thiên Đạo vậy.


Dùng và được dùng.


Triết gia Bertrand Russell cho rằng thời kỳ Phục hưng không sản sinh ra một triết gia lý thuyết quan trọng nào, nhưng lại sinh ra một nhân vật đặc sắc trong triết học chính trị. Đó là Niccolò Machiavelli.


Năm 1513, ở xứ Florence nước Ý, Machiavelli viết quyển “Quân vương (Il Principe)” với mục đích ban đầu là “để tự tiến cử mình cho đấng quân vương Lorenzo de Medici”. Trong Quân vương, Machiavelli đề ra hàng loạt sách lược chính trị để bình định nước Ý lúc bấy giờ đang ngập trong nội chiến. Đấng quân vương đã không đoái hoài đến Machiavelli, nhưng điều kì diệu đã đến với tác phẩm: Quân vương đã trở nên bất hủ và trở thành một tác phẩm kinh điển về triết học chính trị, về thuật trị nước.


Triết học chính trị của Machiavelli có cả tính khoa học lẫn chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ yếu dựa trên kiến thức và phân tích thực tiễn của ông: với mỗi một mục tiêu cần tìm ra một phương thức thực hiện, bất chấp mục tiêu đó là thiện hay ác. Triết học chính trị của Machiavelli chính là “thuật trị quốc” mà Hàn Phi đề cập.


Tên tuổi của Machiavelli gắn liền câu châm ngôn thực dụng nổi tiếng “cứu cánh biện minh cho phương tiện” và còn gắn liền với thủ đạon và sự xấu xa, đến mức tên ông trở thành tính từ trong nhiều ngôn ngữ phương tây, chỉ sự nham hiểm, quỷ quyệt. Từ tâm thế của một trí thức cố gắng xây dựng một học thuyết thực dụng để giúp các đấng quân vương trị quốc, Machiavelli đã đặt mình vào vị thế trung thực của một trí thức dấn thân khi nói về sự không trung thực trong chính trị[2]


Thuật chính trị ở trong Quân vương đã được các nhà quản trị của thế kỷ XX, đưa vào ứng dụng trong các công ty đa quốc gia. Từ đó đã sinh ra một dị bản của Quân vương, về nội dung không khác một chi tiết, ngoại trừ thay các lãnh địa bằng tên các công ty, thay tên vua chúa bằng tên các vị giám đốc. Đó là cuốn “Giám Đốc (The Executive)” của John Paul Harmon. Trong dị bản này, các vấn đề của quản trị công ty được đặt trong tương quan đối xứng gương với các vấn đề trị quốc trong bản gốc Quân vương.


Về bản dịch lần này.


Dịch giả Vũ Thái Hà đã dịch lại đồng thời cả hai cuốn sách Quân vương – Thuật chính trị và Giám Đốc – Thuật quản trị để thể hiện tính đồng nhất và đối xứng gương của nội dung hai tác phẩm. Alpha Books đã in theo cung cách đối xứng gương hai cuốn sách danh tiếng này vào một tập sách để cho phiên bản tiếng Việt của Machiavelli ra đời đúng vào năm thế giới xuất bản kỷ niệm 500 năm ngày ra đời của Quân vương sẽ là một bản sách quý xứng đáng với tầm vóc của nó. Bản dịch hai tác phẩm đối xứng này dày 392 trang, do Alpha Books và NXB Thế giới hợp tác xuất bản và đã phát hành trên toàn quốc từ tháng 12 năm 2013, giá bán 109.000 đồng.


Trân trọng giới thiệu.





[1] Lược sử triết học Trung Quốc – Phùng Hữu Lan (bản dịch của Lê Anh Minh).




[2] A history of western philosophy – Bertrand Russell




 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on December 14, 2013 05:01

November 20, 2013

Luận văn của ông Nhu

Dưới đây là bản tóm tắt luận văn tốt nghiệp trường École Nationale de Chartes năm 1938 của Ngô Đình Nhu (1910-1963). Luận văn này có tên “Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au xviie siècle”. Quốc Anh bạn tôi đang dạy học ở Sciences Po đã bớt thời gian gõ đầu trí thức Pháp mà vào thư viện lục lọi và gửi về. Bạn Khiếu Anh cũng đã bớt thời gian đi học để dịch bản luận văn này qua tiếng Việt với tên “Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đằng Ngoài thế kỷ XVII”.


Nhưng trước hết là một chút thông tin về tác giả bản luận văn.


Năm 1970, tức là 7 năm sau khi chế độ Diệm-Nhu sụp đổ, ông Trần Kim Tuyến, một người bạn và sau này là cộng sự thân thiết của ông Nhu, cho biết ông Nhu có bằng cử nhân văn học ở Sorbonne rồi học tiếp École de Chartes. Trong một tài liệu khác thì nói rõ ông Nhu học ngành cổ tự học lưu trữ (archiviste palégraphe). Ông Tuyến cho biết trường này rất kén chọn, sinh viên phải qua hai năm dự bị ở một trường rất danh tiếng là Henry  Đệ Tứ rồi mới được nhập học, mỗi lớp chỉ có 20 học viên, sử dụng tiếng Latin rất nhiều, và chỉ có hơn một nửa số học viên này tốt nghiệp. Do đó có từ  “Chartistes” để chỉ các sinh viên tinh hoa  của trường này. Năm 1961, khi ở đỉnh cao quyền lực, ông Nhu có đi qua Paris và gặp gỡ cá nhân với ngoại trưởng Pháp là Couve de Murrville, đại sứ Pháp ở VN và Étienne Manach phụ trách Châu Á của bộ ngoại giao Pháp. Cũng theo ông Tuyến thì nhờ hào quang của trường Chartes nên các cuộc gặp chỉ là cá nhân mà ông Nhu đã phá băng quan hệ Pháp Việt. Sau khi có ủng hộ của Pháp, ông Nhu bắt đầu chống Mỹ mạnh hơn, dẫn đến việc Mỹ quyết thay thế Diệm Nhu. Và theo như Phạm Xuân Ẩn trong “Perfect Spy” thì một trong những lực lượng gây ra cái chết của ông Nhu chính là CIA, đã can thiệp sâu vào đảo chính, thông qua một người bạn CIA của ông Ẩn tên là Lou Conein. Tuy nhiên, ông Ẩn tránh không nói đến ai trực tiếp ra lệnh giết ông Nhu, có thể bởi người ra lệnh (Minh Cồ) lại là bạn của ông Ẩn. Có vẻ như giữa ông Ẩn và ông Nhu chỉ có một người bạn chung nổi tiếng: đại tá Edward Lansdale, được cho nguyên mẫu của The Quiet American.


Trở về Hà Nội năm 1938 ngay sau khi tốt nghiệp (28 tuổi), ông Nhu làm việc như một học giả trẻ cho đến khi bị lùng bắt và phải bỏ trốn qua Lào rồi về Đà Lạt. Cụ thể từ năm 38 đến 43 ông làm nhân viên Nha văn khố trung ương Hà Nội. Sau đó kiêm thêm Chủ sự văn khố tòa khâm sứ Huế. Triều đình Huế cũng bổ nhiệm ông làm Chủ tịch hội đồng chỉnh đốn Châu bản của Văn khố nhà Nguyễn. Sau đó Nhật đảo chính Pháp, ông Nhu (có thể vì có anh ruột là ông Diệm thân Nhật chống Pháp) nên được bổ nhiệm làm Giám đốc văn khố trung ương tại Hà Nội.  Năm 1945  ông Nhu đã kịp xuất bản cuốn khảo cứu ” “La Fête de l’ouverture du Printemps a Hanoi – Hội Khai xuân ở Hà Nội”.


Trong thời gian này, ông Nhu cũng lấy vợ, đám cưới được làm lễ ở Nhà thờ lớn Hà Nội. Vợ ông là Trần Lệ Xuân, kém ông 14 tuổi, sau này nổi tiếng với tên gọi “đệ nhất phu nhân” ở Việt Nam,  và với tên do tổng thống Kennedy đặt là Dragon Lady (bà chằn) ở Mỹ. Trần Kim Tuyến mô tả bà Trần Lệ Xuân, một thiếu nữ trẻ đẹp, sống trong nhung lụa, phải học tiếng Việt qua gia sư, và là “một phụ nữ thuộc một giai cấp ở Việt Nam không có”. Bà Xuân đã “nuôi chồng” suốt thời gian  ông Nhu “thất nghiệp, chưa có sự nghiệp”, ở Đà Lạt và sau đó là Sài Gòn. Thời kỳ đó ông Nhu không có cả tiền để mua thuốc lá và ăn sáng, phải có bạn bè cộng sự “bao”. Cuộc sống giản dị kiểu một trí thức khắc kỷ này đã đi cùng ông Nhu đến hết cuộc đời.


Các tài liệu nói rất rõ sau Cách mạng tháng 19/8/1945 ông Diệm bị bắt và được thả, nhưng về ông Nhu thì chỗ nói bị bắt, chỗ nói không bị bắt. Tuy nhiên theo như tôi hiểu qua câu chuyện tôi mới được nghe kể gần đây thì ngay sau 19/8 ông Hà đã đến gặp ông Nhu (lúc đó làm việc dưới quyền bộ trưởng Võ Nguyên Giáp) rồi sử dụng xe của chính phủ (đi mua gạo) để đưa ông Nhu trốn ra ngoại thành, rồi đi Phát Diệm. Chi tiết này có lý vì ông Hà lấy bằng Tiến sỹ Chính trị học ở ngôi trường danh tiếng Sciences Po năm 1937 rồi về nước hoạt động xã hội rất mạnh, trở nên nổi tiếng và có rất nhiều quan hệ với các phe phái lực lượng. Chắc ông Hà có quen ông Nhu từ lúc ở Paris, và ở thời điểm sau 19/8  ông Hà có thể biết ông Nhu đang gặp nguy hiểm (hai người anh của Nhu một bị bắt, một bị giết cùng thời kỳ này) đã báo cho ông Nhu và giúp ông Nhu bỏ trốn. Cuộc gặp giữa ông Hà và ông Nhu, tôi nghe kể: “nói bằng tiếng Pháp, tôi chỉ nghe được câu mốt câu hai, nhưng chắc chắn là về chính trị”, có lẽ “chuyện chính trị” mà hai ông nói liên quan đến việc tính mạng ông Nhu đang nguy cấp.


Trong quá trình chạy trốn, ông Nhu quen Trần Kim Tuyến, lúc này là một thành niên trẻ mới học xong tú tài. Trần Kim Tuyến sau trở thành trùm mật vụ của chế độ Diệm-Nhu trước khi bị ông Nhu nghi ngờ và cách chức. Sau khi bị Nhu phế, ông Tuyến sợ quá trốn ra nước ngoài. Sau sự kiện 1963  ông Tuyến mới dám trở về Sài Gòn những cũng vẫn bị bắt. Người cứu ông là Phạm Ngọc Thảo, một điệp viên của miền bắc, và là đại tá quân đội VNCH lúc bấy giờ. Đến 30/4, một lần nữa ông Tuyến lại được Phạm Xuân Ẩn, cũng là một tay tình báo của miền bắc, cứu vào phút chót. Chưa hết, trợ lý thân tín của ông Tuyến là Ba Quốc, cũng là tình báo của miền bắc (thiếu tướng Đặng Trần Đức). Điều này thật kỳ lạ. Nó cũng kỳ lạ như Phạm Ngọc Thảo sau chính biến đã đem một toán quân xuống Chợ Lớn để cứu Diệm và đưa Nhu ra nước ngoài nhưng bất thành. Chuyện đại tá Thảo và ông Ẩn hai lần cứu cựu trùm mật vụ Trần Kim Tuyến, đều do ông Ẩn và chính bác sỹ Tuyến kể lại. Sau này, năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị mật vụ truy sát, bắn ở bờ suối, nhưng không chết mà vẫn xin được giấy của học trò để viết tin nhắn. Bức thư viết tay đẫm máu của ông Thảo hiện vẫn ở Sài Gòn. Cách đây mấy hôm tôi đã ngồi cách nó chỉ độ hai mét nhưng mà không được xem tận mắt.


Ông Nhu, vốn là con trai của một gia đình quan lại phong kiến nhưng theo tây học, trở thành học giả trẻ uyên bác, điều này lý giải cho việc sau nhiều năm ở ẩn ông bất ngờ trở thành một chính trị gia mưu lược và bí hiểm. Các phát biểu của ông Nhu cộng với nội dung cuốn sách, được coi là của Ngô Đình Nhu, xuất bản sau khi ông bị giết (Chính đề Việt Nam) hé lộ rất nhiều chi tiết cho thấy một học giả cổ sử, am hiểu lịch sử Việt Nam và Châu Âu, đã nghiền ngẫm tri thức trị quốc của nhà Nguyễn, của Châu Âu rồi biến nó thành tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình.


Cách ông Nhu sáp nhập Hoàng Triều Cương Thổ, dẹp yên các tổ chức có vũ trang ở miền nam, xây dựng ấp chiến lược … (theo thứ tự) cực kỳ giống những gì nhà Nguyễn  đã  làm (theo thứ tự) với vương quốc cuối cùng của Chân Lạp (1832), dẹp loạn Lê Văn Khôi (1832-1835), dẹp Mọi Đá Vách ở Quảng Ngãi (1863). Trong Chính Đề Việt Nam (sử dụng bút danh Tùng Phong) ông cũng không che dấu các  bí quyết trị quốc phải được truyền từ đời (vua) này qua đời khác, một cách nói khéo rằng các ông đã học các bí quyết trị nước từ quá khứ.


Ở một khía cạnh khác, ông Nhu học hỏi rất nhiều từ lịch sử chính trị Châu Âu, và trở thành hình mẫu lãnh đạo chính trị kiểu Machiavelli đầu tiên ở Việt Nam. Siêu điệp viên Phạm Xuân Ẩn cho rằng ông Nhu là người tổ chức ám sát Trình Minh Thế. Đại tá an ninh quân đội Đỗ Mậu và trùm mật vụ Trần Kim Tuyến thì kể chi tiết cách ông Nhu xử lý các vấn đề biên giới và xung đột sắc tộc với Khmer bằng cách tổ chức ám sát Sihanouk và đảo chính ở Cambodia. Với những kẻ có quyền lực yếu hơn, đôi khi ông Nhu cũng vẫn Machiavelli nhưng theo kiểu ngược lại. Bác sỹ Tuyến kể việc ông Nhu giải quyết các hộ kinh doanh bình dân sống bằng kinh doanh vỉa hè rất lộn xộn bằng cách mời đại diện nghiệp đoàn của họ vào Dinh để nói chuyện. Đó là ông Vượng, người đã phát minh ra “bia cốc bờ Hồ” được ưa chuộng cực kỳ ở Hà Nội trước 1954. Món “bia cốc” này, tôi nghĩ,  chính là tiền thân của bia hơi Hà Nội mà ngày nay chúng ta vẫn nốc cùng thịt chó.


Cách hành xử thực dụng và máu lạnh kiểu Machiavelli đã khiến ông Nhu trở thành chính trị gia bị sợ hãi và căm ghét; từ đó người ta quên đi rằng ông này có lẽ là người đầu tiên (và cũng có lẽ là duy nhất) biết cách và có chủ ý xây dựng một quốc gia dân tộc (quốc gia = nhà nước) đúng nghĩa. Một nation builder, nói theo kiểu tây, có kiến thức lịch sử chính trị và địa lý vững chắc, nắm vững tình thế, hiểu đại cục từ trong nước đến quốc tế, có tầm nhìn xa và dự báo chiến lược khá chính xác. Ngày nay nhìn lại, có nhiều cái ông Nhu tiên đoán, nhận định, chuẩn vãi chưởng.


Tôi đoán rằng, việc ông Diệm phế ông Bảo Đại và biến Việt Nam thuộc Pháp từ thể chế quân chủ sang thể chế cộng hòa hoàn là đường lối của ông Nhu. Hiến pháp của thể chế này không thấy ở đâu nói là ai viết, nhưng chắc cũng có bàn tay của ông Nhu. Ngày mà bản Hiến pháp 1956 này được thông qua cũng được lấy làm ngày quốc khánh của Việt nam Cộng hòa (sau được gọi là nền cộng hòa đệ nhất).


Cách cai trị độc tài của chế độ Diệm-Nhu, định hình bởi bộ óc của ông Nhu và phong cách quan lại của ông Diệm vốn là quan lớn của nhà Nguyễn. Phương pháp cai trị của ông Nhu có thể đến từ việc ông đã nghiên cứu rất kỹ Hitler, Gandi, Lenin, Mao cũng như am hiểu sâu sắc bản chất con người Việt Nam. Trần Kim Tuyến cho biết ông Nhu mỗi năm đóng cửa 10 ngày chỉ để đọc sách. Đọc sách gì ông cũng có kế hoạch sẵn, đọc cuốn nào cũng có ghi chú đầy đủ. Các nhân vật mà ông Nhu thích đọc là Lenin, Mao. Phòng làm việc rất ngăn nắp và tài liệu sắp đặt rất khoa học. Công cụ và lực lượng dùng để cai trị của ông Nhu, rất giống nhà nước cảnh sát của Hitler.


Sách ông Nhu đọc theo lời kể của bác sỹ Tuyến là các sách ông đọc sau này, khi đã thành chính trị gia ở Sài Gòn. Còn trước đó, khi ở ẩn trồng hoa lan trên Đà Lạt, hay thủa đi học ở Paris ông đọc gì? Tôi đoán ông Nhu đã đọc các sách cổ sử như kiểu Herodotus, hay các sách địa lý, tôn giáo thế giới.


Dấu vết của việc đọc này có thể tìm thấy trong Chính đề Việt nam, khi tác giả của cuốn sách phân tích lịch sử văn minh nhân loại, cùng với sự hình thành và suy yếu của các đại đế quốc, từ La Mã đến Quốc Xã, từ Nga đến Liên Xô, so sánh các thể chế trong lịch sử, giữa Anh và Pháp. Tôi cũng đoán ông Nhu có đọc cả Gustave Le Bon khi ông phân tích đặc tính tâm lý của dân tộc Việt Nam, mà ông dùng từ tính khí, đó là yếu ớt và nhược tiểu, dẫn đến ứng xử ngoại giao yếu kém do tính khí yếu ớt lại đặt dưới áp lực đe dọa bởi ngoại xâm. Tất nhiên ông Nhu thuộc cổ sử Việt Nam, và trong 2 trang của Chính Đề ông đã diễn giải chính xác công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt trong 1000 năm trở lại đây cũng như mổ xẻ chi tiết lý do/nguyên nhân Trung Quốc luôn có khát khao xâm lược Việt Nam. Với cuốn sách hoàn thành năm 1962 này, ông Nhu có lẽ là người đầu tiên đặt ra nhiều câu hỏi sâu sắc cho dân tộc, ví dụ như tại sao người Việt có bờ biển dài hàng ngàn cây số mà chưa bao giờ họ khao khát đi ra biển, thậm chí cũng chưa một lần tiến lên cao nguyên trong suốt quá trình Nam tiến ấy; cũng như là người đầu tiên phát biểu và chứng minh được mở cửa và hội nhập sâu (mà ông gọi là phương tây hóa, ngày nay gọi là toàn cầu hóa) không làm mất đi cái gọi là bản sắc dân tộc. Một số “sách lược, chiến lược” ông Nhu chỉ ra trong sách, sau này không hiểu vô tình hay học lóm mà các chế độ sau đều áp dụng.


Là một nhà nghiên cứu cổ tự, ông Nhu sớm nhận ra giới hạn nghèo nàn của tiếng Việt và danh từ tiếng Việt, cũng như lợi thế của chữ quốc ngữ so với chữ nôm. Trong CĐVN, ông dành hẳn một phần rất dài đưa ra các giải pháp làm mạnh tiếng Việt.


Về tư tưởng, trong A history of the Vietnamese, nhà sử học K.W. Taylor cho rằng ông Nhu từ chối cả hai ý thức hệ (tư bản và cộng sản, quần chúng và cá nhân). Chính đảng do ông Nhu xây dựng có tên là Đảng Cần Lao, nếu dịch ra tiếng Anh (Labor Party) thì rất giống tên chính đảng cầm quyền ở miền bắc lúc bấy giờ là Đảng Lao Động. Nhưng trong tiếng Việt thì ông Nhu lý giải rằng chữ “động” trong “lao động” có màu sắc cưỡng bức đám đông của Mao còn chữ “cần” trong “cần lao” của ông Nhu thì có màu sắc tự nguyện. Sử gia Taylor giải thích triết lý (ý thức hệ) Nhân Vị của ông Nhu là do chịu ảnh hưởng triết lý “personalism” của triết gia công giáo Emmanual Mounier (khi ông còn ở khu Latin, Paris), nhưng ông Nhu đã nhấn mạnh chân giá trị của cá nhân trong  bối cảnh “hợp tác tập thể để tự cá nhân” rồi phát triển nó thành học thuyết riêng của mình mang tên Nhân Vị. Taylor khuyến nghị cách dịch Nhân Vị ra tiếng Anh là “personism”.  Lập luận này của Taylor có lẽ đúng bởi chính ông Nhu phủ nhận thuyết Nhân Vị của mình giống với Nhân Vị của Công giáo. Với học thuyết Nhân Vị, nảy mầm vào khoảng thời gian ông trốn khỏi Hà Nội, ông Nhu đã có tư tưởng chống Mỹ (tư bản) nhiều hơn chống Pháp (theo lời Cao Văn Viên), hòa hợp được nhiều tôn giáo (theo giải thích của ông Nhu), và là cơ sở đề cao sự tự quyết của dân tộc (không cho Mỹ đưa quân vào, không cho tăng cường cố vấn quân sự, không cho đặt cố vấn Mỹ bên cạnh các tỉnh trưởng, …là những cái được chính quyền Sài Gòn chấp thuận sau khi Diệm Nhu bị giết).


Hòa hợp tôn giáo cuối cùng thất bại, nỗ lực chống lại can thiệp quân sự của người Mỹ vào Việt Nam cũng thất bại. Cả hai đều dẫn đến sự sụp đổ của gia đình họ Ngô. Can thiệp của người Mỹ vào đảo chính thì như trên đã dẫn lời Phạm Xuân Ẩn. Còn xung đột với Phật Giáo, sách của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến nói ngược nhau, nhất là về việc thượng tọa Trí Quang trốn vào sứ quán Mỹ cho đến khi xong đảo chính. Còn Phạm Xuân Ẩn, từ thời đó đã biết đại tá Thảo là tình báo của Hà Nội, nhưng sau này có vẻ như lờ đi, không nói về thượng tọa Trí Quang mà chính bạn của ông Ẩn là bác sỹ Tuyến luôn cho là một ông sư marxist.


Sách của Trần Kim Tuyến và Đỗ Mậu cũng nói ngược nhau về nguyên nhân của sự liên lạc của ông Nhu với Hà Nội. Dù rằng việc liên lạc ấy là có vẻ như là thực và giống nhau trong sách của cả ông Mậu lẫn ông Tuyến: thông qua ngoại giao, bên ông Nhu bí mật vào rừng, hoặc bên miền bắc từ rừng bí mật vào dinh tổng thống (chắc sử liệu ở Hà Nội có ghi chi tiết). Người cán bộ cộng sản thư sinh bí mật vào dinh gặp ông Nhu nhiều lần, được cho là Trần Độ (?).  Sách của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến chỉ ngược nhau về cách giải thích. Nhưng dù giải thích thế nào, thì việc ông Nhu bí mật nói chuyện với Hà Nội cũng là một cái cớ nữa để người Mỹ xuống tay. Việc ông Nhu đi Pháp như nói ở trên, cũng là một nước cờ quan trọng nhằm kéo thêm ủng hộ (viện trợ) của Pháp bù vào phần hụt mà Mỹ sẽ cắt đi, trong lúc tiếp tục đàm phán bí mật để dẫn đến thỏa hiệp với Hà Nội (mà nhiều người cho rằng nếu thành công thì sẽ thống nhất đất nước bằng hòa bình, giữ được nền cộng hòa, và ông Nhu có thể một ngày nào đó trở thành thủ lĩnh). Điều này có vẻ cũng có lý, khi trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, ông Nhu đã từng thực hiện thành công một việc tương tự, khi ông gặp bí mật Bảo Đại trước khi ông vua trẻ này rời Việt Nam qua Pháp đúng 10 năm trước (1953).


Trong một nghiên cứu ngắn cách đây chưa đến chục năm, Nguyễn Gia Kiểng đã tiếp xúc và có tài liệu từ một chính trị gia lão thành thuộc phe cánh tả của Pháp, ông Jaques Bénet. Ông Bénet là bạn học cùng trường Chartes với ông Nhu, tham gia kháng chiến, tham gia thành lập đệ tứ cộng hòa của Pháp, và có quan hệ chính trị rộng rãi. Sau này ông Bénet là người của Đảng Xã Hội Pháp. Ông Nhu có tiếp xúc bí mật với Bénet trước khi Bảo Đại qua Pháp; và chính ông Bénet đã làm đầu mối bí mật để vận động Pháp lặng lẽ chọn Ngô Đình Diệm làm giải pháp thay thế Bảo Đại. Nhận định này là do ông Kiểng đã gặp trực tiếp Bénet và đọc từ  bức thư riêng mà ông Nhu và Bénet trao đổi với nhau. Ông Kiểng cũng phân tích rằng ông Nhu hoàn toàn không có quan hệ với bất cứ ai ở Mỹ, cho đến khi ông Nhu có quyền lực ông mới quen Lansdales ở Sài Gòn. Ông Diệm thì có một chút quan hệ với Mỹ từ năm 1950, nhưng phải sau khi ông lên tổng thống, qua thăm chính thức nước Mỹ, và sau khi chính phủ Pháp thời De Gaule quay lưng lại với ông Nhu, thì người Mỹ mới chính thức đứng sau ông Diệm. Ông Kiểng cũng cho rằng sau khi Diệm Nhu bị lật đổ, nước Pháp đã quay về phía Hà Nội. Điều này khá logic với việc ông Nhu không sử dụng nhóm ông Hà (học giỏi, có uy tín, đã từng làm bộ trưởng ở Hà Nội), ông Hãn (học giả lớn), ông Luyện (em ruột ông Nhu và là bạn học của Bảo Đại) dù rằng chính nhóm này đã thuyết phục Bảo Đại ký giấy bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng. Ông Diệm phần nào giải thích việc không sử dụng các trí thức lớn thiên tả Hà, Hãn, Tường trong thư riêng gửi ký giả Joseph Buttinger năm 1956. Cả Đỗ Mậu vẫn Trần Kim Tuyến đều nói các bài diễn văn quan trọng của ông Diệm đều do ông Nhu viết bằng tiếng Pháp rồi cho người dịch ra. Lá thư gửi Buttinger có thể cũng do ông Nhu viết.


Các lập luận của ông Kiểng cũng logic với việc một người chống Pháp như ông Diệm mà chỉ trong năm 1955 đã dẹp sạch những gì chịu ảnh hưởng của Pháp, kể cả quân đội Bình Xuyên. Năm 1955 chính quyền ông Diệm sáp nhập vùng đất Hoàng Triều Cương Thổ của Bảo Đại vào miền nam, cũng như dẹp nguồn tài chính của Bảo Đại ở Chợ Lớn (sòng bài Đại Thế Giới, xóm ăn chơi Bình Khang) do Bình Xuyên của Bảy Viễn điều hành (Bảy Viễn được Bảo Đại phong tướng năm 1952, một năm trước khi Bảo Đại qua Pháp). Chỉ dựa vào ủng hộ của Mỹ mà không có đèn xanh từ Pháp thì sẽ không có giải pháp thay thế ngoạn mục: nhanh và ít đổ máu như vậy. Thậm chí chiến dịch Hoàng Diệu của Dương Văn Minh đánh vào rừng Sác, cũng được cho là chiến dịch do ông Nhu dàn xếp sẵn với Pháp chứ không hẳn là bắn nhau thật. Sau đó Pháp đã đưa Bảy Viễn qua Paris.  Trong các sách tôi đọc, thấy cũng ông Nhu luôn chế diễu các phe phái chống cộng là “không có giải pháp thay thế (thì chống để làm gì)” có lẽ là vì lý do bí mật về “giải pháp thay thế Bảo Đại” mà ông Kiểng phát hiện ra.


Sau khi chế độ Diệm Nhu bị hạ đổ, Sài Gòn rơi vào hỗn loạn chính trị, đảo chính hạ bệ nhau liên tục, cho đến khi Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống tình hình chính trị mới bớt hỗn loạn. Nguyễn Văn Thiệu được cho là người ra lệnh giết Phạm Ngọc Thảo. Ông Ẩn không có nhận xét gì nhiều về Diệm Nhu, nhưng với Thiệu ông mô tả ông tổng thống này như một con khỉ nghiện thuốc phiện của người Hoa, ý nói ông Thiệu là con khỉ nghiện viện trợ của Mỹ. Ông Ẩn, có vẻ như hơi cay đắng khi trách người Mỹ đã lật đổ ông Diệm mà không có “giải pháp thay thế”.


Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946-1955 rất bí hiểm và rối rắm. Mà lịch sử Việt Nam thời kỳ nào cũng thế. Nếu tất cả những thông tin nói trên mà đúng, và chắc là đúng thôi, ít ra ở sự logic các sự kiện và nhân vật, thì ông Nhu là một trường hợp vô tiền khoáng hậu.


Từ một trí thức trẻ uyên bác, nghèo xác xơ, nói và viết tiếng Việt rất kém, trong một bối cảnh xã hội phức tạp vừa thoát khỏi thực dân phong kiến, dân trí thấp, thậm từ vựng chính trị của tiếng Việt cũng vẫn còn nghèo nàn, ông Nhu đã xây dựng được lực lượng chính trị của riêng mình, với tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình (tuy tổ chức còn lỏng lẻo, nghiệp dư và có nhiều bê bối). Rồi từ đó ông Nhu đã trở thành một chính trị gia mưu lược, rất giỏi ẩn mình. Ông dựng lên một tổng thống đầu tiên, một thể chế chính trị cộng hòa mới mẻ, một nhà nước với guồng máy cai trị thực dụng đến tàn nhẫn nhưng rất hiệu quả.Cuối cùng ông Nhu chết cùng với vị tổng thống và chế độ do chính mình dựng nên, để lại thể chế cộng hòa còn non nớt. Ngày Diệm-Nhu bị lật đổ được lấy làm ngày quốc khánh thứ hai cùng nền cộng hòa thứ hai (đệ nhị) và bản hiến pháp thứ hai ở miền nam. Người lật đổ Diệm (tổng thống đầu tiên của miền nam)  sau này trở thành tổng thống cuối cùng của miền nam và hàng tướng nổi tiếng nhất thế kỷ 20.


Trước khi chuyển qua bản luận văn, xin trích vài đoạn trả lời của ông Nhu, theo ghi chép của bác sỹ Tuyến:


Câu hỏi: Hình nh ư Đức Hồng Y Spellman có khuyến cáo Tổng Thống nên mở rộng chính phủ và chấp nhận đối lập?


Ông Nhu trả lời: Điều đó có, Tổng Thống cũng đang cứu xét nh ư ng với một n ư ớc chậm tiến nh ư Việt Nam không thể áp dụng chế độ tự do dân chủ nh ư Tây ph ươ ng.


Đất n ư ớc chúng tôi truyền thống dân chủ từ cả ngàn năm trư ớc, dân chủ từ hạ tầng, từ xã ấp. Ở th ư ợng tầng phải làm thế nào giữ đ ư ợc uy quyền tối th ư ợng của quốc gia.


Mỹ có thói quen bắt buộc các đồng minh phải dập khuôn nh ư họ…nh ư ng ở Mỹ khác, ở Á Châu này khác…trong một quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia đang có chiến tranh.


Tổng Thống Kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ c ơ chế dân chủ có nghĩa là (mô) phỏng c ơ chế dân chủ của Mỹ. Nh ưng () , ông cha chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm về nạn chia rẽ, nạn kỳ thị phe phái…nếu ở Việt Nam áp dụng dân chủ nh ư ở Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hỗn loạn. Mà Việt Nam thì không thể chấp nhận đ ư ợc tình trạng hỗn loạn.


Câu hỏi: Hình nh ư Tổng Thống Kennedy muốn Miền Nam có sự canh tân Hiến Pháp?


Ông Nhu trả lời:  Không chính thức khuyến cáo nh ư vậy nh ư ng Hoa Thịnh Đốn gián tiếp muốn chúng tôi làm nh ư vậy.


Câu hỏi: Hầu hết ng ư ời Mỹ đứng đắn đều không muốn Việt Nam bị xáo trộn nh ư ng họ muốn một chế độ cởi mở?


Ông Nhu trả lời: Vâng họ đang lên án chúng tôi là đ ộc tài cũng nh ư tr ư ớc đây họ đã lên án T ư ởng Giới Thạch và Lý Thừa Vãn… Ng ư ời Mỹ đã lầm giữa chế độ độc tài với sự bảo vệ uy quyền quốc gia tối th ư ợng. Chẳng hạn họ bả o chúng tôi là đ ộc tài vì cho rằng không có Tối Cao Pháp Việ n nên Hành Pháp đi ều khiển T ư Pháp. Họ cũng kế t án chúng tôi là đ ộc tài vì cho rằng Quốc Hội chỉ có một viện và do Quốc Hội không kiểm soát đ ư ợc Hành Pháp.


Trích từ “Chính đề Việt nam”:


ớc Việt Nam là mộ t nư ớc nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về kinh tế kém phát triển, và nhỏ về sự góp phần củ a chúng ta vào văn minh nhân lo ại.


Trong suốt phần lịch sử nhân loạ i mà chúng ta đư ợc biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ xưa v ẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi phối bởi những trận phong ba bão táp vô trách nhiệ m do các nư ớc lớn gây ra. Và lúc nào cũng số ng dư ới sự đe dọa liên tục của một cuộc ngoại xâm.”


“Từ ngày lập quố c, hơn m t ngàn năm l ịch sử đã chứng minh rằng Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài vận mạ ng thông thư ờng đó. Hết phải chống Bắc, rồi phải chống Tây, rồi lại phải chống Bắc. Liên tụ c, và lúc này hơn lúc nào h ết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa Dân Tộc Việt Nam.”


‘’Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hòa thuận với Trung Quốc và tự đặt mình vào chế độ thuộc quố c. Nhưng đi ều mà Trung Quốc muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống Trung Hoa, suốt thời gian gần mộ t ngàn năm l ịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đấ t mà Trung Hoa coi như t ạm mất’’


Như v ậy, thuyết cộng sản đối với Nga chỉ là mộ t phương ti ện và ngày nào mục đích đã đạ t đư c, phương ti ện sẽ không còn giá trị nữa.


Các biến cố hiện tại ở Âu Mỹ chứng tỏ rằng Nga sắp đến lúc bỏ phương ti ện cộng sản và trở về với xã hộ i Tây phương.


“Sức mạnh củ a nư c Anh hay nư ớc Mỹ mà chúng ta mục kích ngày nay bắt nguồn t ớc hết từ chỗ hai quố c gia này đ ã thực hiệ n đư ợc việc liên tục lãnh đạo quốc gia trong gần 200 năm.


Một nhà lãnh đạ o Anh, ngày nay bư ớc lên nắm chính quyền, là tức khắ c sau lưng m ình có 400 năm kinh nghiệ m và vă n khố làm hậu thuẫ n. Đó là m ột di sản quí báu không có gì thay thế đư ợc và tạo cho họ một sức mạ nh phi thư ờng.”


Như trên đ ã trình bày, sự lãnh đạo quố c gia đư ợc liên tụ c khi nào các đi ều kiệ n dư i đây đư ợc thỏa mãn:


1. Sự chuyển quyề n đư ợc bình th ư ờng từ lớ p ngư i trư ớc cho tới lớ p ngư ời sau.


2. Các bí mật quố c gia đư ợc truyền lại.


3. Thuật lãnh đạ o đư ợc truyền lạ i và đư ợc cải thiện càng ngày càng tinh vi.


4. Các kinh nghiệm của dĩ vãng đư ợc xế p vào văn kh ố, đư ợc truyền lạ i và có ngư ời biết sử dụng văn khố.”


“Trình độ gián đoạn trầm trọng nhất xảy ra khi sự chuyển quyền không thực hiệ n đư ợc giữa lớ p ngư i trư ớc và lớ p ngư ời sau. Bí mật lãnh đạo và bí mật quốc gia đều mất.


Thuật lãnh đạo không truyền lạ i đư ợc. Di sản dĩ vãng không ng ư ời thừa nhận, văn khố thất lạc và bị p bóc. Đó là trư ờng hợp củ a các nư ớc bị chinh phục, mất chủ quyề n. Và đó là trư ờng hợp của Việt Nam chúng ta trong thời kỳ Pháp thuộc.”


Tác giả của bản luận văn tốt nghiệp trường Chartes năm 1938 đã chết cách đây đúng nửa thế kỷ. Và lời giới thiệu về tác giả như thế này là quá dài và hơi liên thiên. Dưới đây là bản dịch tóm lược bản luận văn…


Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đằng Ngoài thế kỷ XVII


Ngô Đình Nhu


——————-


Tài liệu tham khảo


——————


Phần mở đầu


Không có bất cứ tài liệu nguồn gốc châu Á nào, do đó các tài liệu châu Âu có vai trò  đặc biệt quan trọng.


Các thầy tu dòng Tên (Jésuites): Baldinotti, Alexandre de Rhodes, Marini, Tissanier. Các thầy dòng của Hội thừa sai: Deydier, Jacques de Bourges, Belot, Guisain. Các nhà buôn: Baron, Dampier.


Văn khố của Hội thừa sai ; tổng hợp và miêu tả.


—————


Phần Một


Xã hội


Chương Một


Các nhóm dân cư


1. Làng xã. – bao gồm hai mươi đến bốn mươi ngôi nhà lợp mái rơm rạ, dựng nên từ tre và đất sét. Không có công trình kiến trúc lớn. Nước lấy từ ao.


Trưởng làng có nhiệm vụ thu thuế và chủ trì việc phân chia phần đất chung theo kì hạn.


2. Chợ giữa các làng. – Chợ họp hàng tuần và thường là giữa bốn đến năm làng, các làng thay phiên nhau làm chủ chợ. Việc họp chợ giữa các làng là tế bào kinh tế của cả vùng. Các đô thị quan trọng nhất là Domea (200 nóc nhà) và Hien (2000 nóc nhà) thường xuyên có sự hiện diên của các nhà buôn nước ngoài và Kien-lao (7000 giáo dân) trở thành lợi thế của vùng để được hưởng các ưu tiên của triều đình


3. Ke-cho (Hanoi) – Kinh đô, nơi có các công ty xuất nhập khẩu châu Âu. Sự phồn thịnh, 36 phố phường, bảy mươi hai khu chợ, mỗi phố chỉ chuyên một ngành hàng, 20 000 nóc nhà.


Chương Hai


Nông nghiệp


1. Lúa gạo


a) Vị trí bậc nhất của cây lúa. Lí do.


b) Chế độ sở hữu: hợp đồng cầm cố (vente à réméré) chỉ được chấp nhận đối với người ngoại quốc, ruộng đất manh mún. Chiếm dụng đất theo dòng họ (groups de famille), sự nhũng lạm của giới quý tộc.


c) Nông cụ: sử dụng cày. Tự điển của linh mục de Rhodes cần được sử dụng cẩn trọng, có liên hệ tới cả Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài.


d) Canh tác: hai vụ lúa mỗi năm và tô (prix de revient) tăng cao.


e) Nạn đói: mười hai nạn đói từ năm 1681 đến 1721: tính chất.


2.  Trồng trọt thứ yếu. – Trồng cau, dâu tằm.


Chương Ba


Chăn nuôi, Đánh cá, Công nghiệp


1. Chăn nuôi. – Gia cầm và lợn thịt. Ít bò và trâu. Thiếu đồng cỏ.


2. Đánh cá. – Tầm quan trọng đối với người Đàng Ngoài


a) Nước ngọt: Vợt và vó.


b) Trên biển: kém phát triển do giá tàu biển cao.


3. Làng nghề. – Có rất ít tài liệu liên quan đến chủ đề này: văn khố của Hội thừa sai cung cấp một văn bản quý giá cho phép định vị nghề dệt chiếu ở tỉnh Nam-dinh. Nghề sơn và gốm sứ.


Kéo sợi và dệt lụa là nguồn cung xuất khẩu duy nhất: các nhà buôn nước ngoài đến vào tháng bảy, đặt mối với các thợ thủ công – luôn phải qua khâu trung gian -  và chờ đợi ít nhất sáu tháng để đơn hàng được hoàn thiện.


Chương Bốn


Tiền tệ


1. Các loại tiền tệ. – Duy nhất một loại tiền được lưu hành: tiền đúc từ đồng. Tiền 10 đồng và 6 đồng được nhập từ Trung Quốc và Nhật Bản, chỉ được dùng ở Ke-cho và bốn tỉnh xung quanh.


2. Tỷ giá quy đổi. – Sự ổn định của đồng so với vàng, sự bất ổn của tiền đồng trong đó có yếu tố trượt giá: 1 quan đổi ra 600 đồng năm 1666 và 1200 đồng năm 1715.


3. Cho vay nặng lãi. – Lãi suất hợp pháp từ 25% đến 30% thường xuyên bị vượt qua, người ta cho vay lấy lãi 100% đến 240% rồi 3600%. Tình trạng khốn cùng cuối thế kỷ XVII và đời sống đắt đỏ.


Chương Năm


Thương nghiệp


1. Nội thương


a) Các con đường giao thương: sông và kênh


b) Các phương tiện giao thông: không có máy móc vận tải, chuyển chở trên ván thăng bằng, thuyền ba ván.


2. Ngoại thương. – Những con đường đến Đàng Ngoài: mọi hoạt động ngoại thương đều qua đường biển. Thương nhân Trung Quốc ngược lên Cua Luc-bô (Rokbo theo Dampier) chính là sông Đáy; người châu Âu qua Cua Lâ (Thai-Binh) dẫn đến Domea; ngôi làng này chắc chắn không phải là Dôn-Minh, mà là Dông-xuyên-ngoai : những tàu buôn châu Âu không đi xa thêm trong khi thuyền mành (jonque) Trung Quốc ngược lên đến Hien.


Người ta không bao giờ chỉ ra rằng, bên ngoài Đàng Ngoài, không có bóng dáng một con thuyền cũng như không có một nhà buôn Đàng Ngoài nào, và những người châu Á khác cùng với người châu Âu đã độc chiếm hoàn toàn ngoại thương của vùng.


Thường xuyên thiếu lương thực, bị bỏ đói định kỳ, người Đàng Ngoài nhận lấy một sự tồn tại khốn khó, bất bênh và không thể nghĩ đến điều gì ngoài miếng cơm hàng ngày.


————


Phần Hai


Cuộc sống gia đình


————


Chương Một


Tổ chức gia đình


1. Nền tảng của quan hệ họ hàng. – Quan hệ huyết thống, địa vị vượt trội của họ hàng bên nội thể hiện qua những cách gọi tên đặc biệt.


2. Cấu trúc gia đình. – Không có thị tộc (clan); bố mẹ và con cái.


3. Tổ chức gia đình. – Người mẹ phụ thuộc vào quyền quyết định của người cha, con cái bình đẳng.


Chương Hai


Hôn nhân


Nguồn bằng chứng châu Âu dồi dào trở nên đặc biệt quý giá khi không có bất cứ tài liệu nào có xuất xứ An Nam.


1. Vai trò của đôi vợ chồng tương lai. – Không có quyền được chọn người hôn phối; bố mẹ cưới gả con từ khi còn nhỏ tuổi.


2. Ăn hỏi. – Người mối lái, sính lễ, thách cưới chàng rể tương lai.


3. Đám cưới. – Trình của hồi môn, luôn là ruộng vườn và được tặng bởi chú rể; nộp khoản phí bắt buộc cho các chức sắc trong cộng đồng; cỗ cưới do chú rể chi trả; cô dâu trình diện trước các ông thần bếp (ông Táo) và tổ tiên của chồng


Chương Ba


Chấm dứt hôn nhân


1. Ly hôn. – Người phụ nữ hiếm khi có thể ly hôn và trong trường hợp có thể thì phải bồi thường cho người chồng.


2. Bỏ vợ. – Người chồng luôn có rất nhiều cơ hội để ruồng rẫy vợ.


3. Cách thức ly hôn và bỏ vợ. – Sự phá bỏ quan hệ hôn phối được thể hiện công khai: “đồng tiền hay chiếc đũa bẻ đôi”


4.  Bât-dông hay dô-dông. – Các quý tộc có quyền lấy làm lẽ những người phụ nữa góa chồng, bị chồng bỏ, ly hôn hay những cô gái chửa hoang trong làng; những người này chỉ có thể khước từ bằng cách nộp 1 quan tiền cho quý tộc và từ đó không được phép lấy bất cứ ai. Tục lệ này chỉ còn được lưu giữ trong văn khố của Hội thừa sai.


Chương Bốn


Sinh và Tử


1. Sinh


a) Ngày sinh: đặc biệt quan trọng


b) Tên riêng: không được là tên một đứa trẻ khác đã chết; đặt tên xấu cho con để tránh bị  ma quỷ quấy nhiễu. Khi đứa con đầu tiên ra đời, cách gọi tên ông bà nội và ông cậu họ nội sẽ được thay đổi, cách gọi tên người con cả thay đổi khi người con thứ ra đời. Khi thôi nôi, đa phần tên gọi cũ sẽ được thay thế bằng một cái tên đẹp.


Sự tôn kính một bậc bề trên thể hiện qua việc không bao giờ gọi tên của người này cũng như tên của cha mẹ ông ta, và người ta phải nói chệch đi bằng các từ đồng âm với tên gọi; cũng từ đó mà một số gia đình có vốn từ đặc biệt.


c) Tuổi trưởng thành : mười tám tuổi. Thông thường, trẻ em được tính một năm tuổi khi vừa chào đời và được hai tuổi vào Têt (đầu năm) sau.


d) Con nuôi : phổ biến, nhưng không được chứng thực bằng giấy tờ và không công khai. Baron được một hoàng tử ở Đàng Ngoài nhận nuôi để không phải chịu phiền toái và những Thừa sai người Pháp nhận làm con trai danh dự của một ái phi của Trinh Can để tự bảo vệ trong một phiên xử khó. Nhận nuôi thường không chỉ là một sự tiến cử đơn thuần, chỉ ra rằng ở Đàng Ngoài vào thế kỉ XVII không có tổ chức xã hội nào khác ngoài gia đình và rằng người ta không thể có người bảo hộ nào khác ngoài cha và mẹ.


2. Tử. – Người Đàng Ngoài sợ cái chết, nhưng có thái độ chấp thuận, và sợ nhất là không có được một cỗ áo quan đẹp. Thi hài được quàn trong mười đến mười lăm ngày trước khi được an tang ở bản quán. Thời gian chịu tang : ba năm cho con, hai năm, ba tháng và mười ngày cho góa phụ ; phải sống khắc khổ trong thời gian chịu tang. Thờ cúng tổ tiên, trong đó gia đình là đơn vị, tạo nên sự gắn kết và sức mạnh.


Phần Ba


Đời sống cá nhân


——–


Chương Một


Trang phục


Tóc thả dài, biểu tượng của tự do ; việc cắt tóc là một nhục hình hoặc là dấu hiệu của tang gia. Trán rộng được cạo nhẵn, răng được nhuộm lúc mười sáu hay mười bảy tuổi. Mũ, quần áo. Dân cư chủ yếu ở trần.


Chương Hai


Thức ăn


Gạo là thức ăn chính ; thịt, nhất là thịt chó ; các loại cá và nuoc-mam. Chỗ ở và đất đai. Một chế độ ăn thiếu thốn giải thích cho việc các tín đồ Cơ Đốc ở Đàng Ngoài đều không ăn chay.


Chương Ba


Tính cách


Có sự tương thích giữa các lời chứng. Người Đàng Ngoài cởi mở, nhạy cảm với tình bạn, ý tứ, ít gây gổ, ngăn nắp nhưng cũng tham ăn (có lẽ đơn giản là do bị bỏ đói), lười nhác và trộm cắp. Mại dâm thế kỷ XVII.


——–


Kết luận


Nhìn chung, các tập quán ở Đàng Ngoài không có nhiều thay đổi từ thế kỷ XVII và không có gián đoạn nào trong sự tiếp nối tâm lý. Tuy nhiên, ta nhận thấy ở người Đàng Ngoài một sự thích nghi đáng lưu ý: những phong tục khắc nghiệt biến mất không để lại dấu vết và nhận định này khiến chúng ta cần thật sự cẩn trọng trong những giả thuyết về các nguồn gốc của văn minh Đàng Ngoài.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on November 20, 2013 07:53

Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.