Nguyễn Phương Văn's Blog, page 17

August 10, 2015

Chuyện Bố Già

BOGIA_WEBKhi Tập Cận Bình thịt nốt thượng tướng Quách Bá Hùng, các nhà phân tích bắt đầu soi mói vào điểm yếu dường như bây giờ mới lộ của Tập Béo: không có  nhân lực tiếp quản những khu vực Tập xuống đao lấy mạng đầu lĩnh.


Hơi khập khiễng, nhưng vẫn có lý, Tập kém xa nhân vật Don Michael của The Godfather. Ngay sau khi giết caporegime Tessio, Don Michael sai Lampone lập tức tiếp quản băng của Tessio. Trước đó Michael cho phép Rocco Lampone bí mật lập băng riêng của mình mà chính Tom Hagen cũng không biết. Bố Già Michael hình như còn hơn Tập ở chỗ: “không để một ai biết mình nghĩ gì”.


Bạn đọc có thể thích cuốn tiếu thuyết về thế giới ngầm The Godfather của Mario Puzo, có thể không. Nhưng rất nên đọc cuốn sách này. Đọc nó như đọc như một cuốn sách dạy về quản trị, về chiến lược, về đầu tư, thậm chí cả về đắc nhân tâm nữa.


Trước khi tiến hành cuộc chiến đẫm máu tàn sát tất cả các gia đình mafia khác để thống lĩnh giang hồ, Michael Corleone đã đa dạng hóa đầu tư của mình từ bảo kê và bảo tiêu ở miền đông qua một lĩnh vực rất mới mẻ là casino ở một vùng đất khác là Las Vegas. Khi bắt đầu cuộc chiến, Michael giết luôn đối tác ruột của mình ở Las Vegas là Moe Greene để kiểm soát toàn bộ khoản đầu tư của gia đình. Thậm chí trong phần 3 của loạt phim Godfather, Michael còn nỗ lực cải cách thể chế của gia đình để cập nhật với văn minh nước Mỹ (hợp pháp hóa hoạt động của gia đình mafia này). Không chỉ khống chế chính trị gia, Michael còn tác động được đến cả tòa thánh Vatican. Điều kỳ diệu chỉ có trong tiểu thuyết ấy tất nhiên hoàng đế đỏ Tập Cận Bình không thể làm được.


***


[Từ hệ quy chiếu của Don Michael, phân tích giai đoạn bác Ba Duẩn bem Pol Pot nát bươm: cập nhật sau vài tuần nữa]


***


Nhà Đông A Books gần đây tái bản Bố Già (Godfather) của Mario Puzo, bản dịch của Ngọc Thứ Lang.


Tiểu thuyết Godfather của Mario Puzo, bộ ba phim Godfather của Francis Coppola, và bản dịch tiếng Việt của Ngọc Thứ Lang: tất cả đều đã trở thành huyền thoại.


Bố Già, có thể đọc và hiểu, không chỉ là một tiểu thuyết hấp dẫn viết về thế giới ngầm ở New York, mà còn là một cuốn sách quản trị hay hơn bất cứ cuốn sách quản trị nào khác. Kiến thức khởi nghiệp, dựng nghiệp, chiến lược, nhân sự, cạnh tranh, giao dịch nội gián … đều có trong cuốn sách này.


Phàm là đàn ông, rất nên đọc Bố Già hehe. Đọc nó lúc mới bước vào đại học. Đọc lần nữa khi tốt nghiệp. Phải đọc lại khi quá tuổi 30. Và khi nào qua 40 lại càng nên mở Bố Già ra thưởng thức thêm lần nữa.


***


Lẽ thường là những điều mà con người ta có thể cùng nhận thức, cùng đồng ý với nhau, chỉ bằng các lý luận thông thường. Với những “lẽ thường” hình thành nên những nguyên tắc cơ bản chi phối hoạt động của con người và xã hội. Common Sense (Lẽ Thường) cũng là tên một tác của Thomas Paine. Tác phẩm này đóng góp một phần quan trọng giúp Cách Mạng Mỹ thành công, nước Mỹ giành được Độc Lập.


***


Cuốn truyện Bố Già đến tay chúng tôi lần đầu tiên vào cuối những năm 1980. Lúc đấy đầu óc chúng tôi còn non nớt, xã hội Hà Nôi lúc đó còn đơn sắc và nghèo nàn, nhưng tôi đã lờ mờ nhận ra: nhiều chuyện đời đã được viết sẵn, thậm chí còn được giải thích, trong cuốn sách về thế giới mafia của những người Ý nhập cư ở New York.


Nếu Ngũ Luân Thư là một “binh pháp” để rèn rũa con người trong cuộc đời và dạy chiến binh trong quyết đấu thì Bố Già có thể dùng để “học” cách suy nghĩ, phán đoán và ra quyết định trong hoàn cảnh khắc nghiệt bằng cách sử dụnng các nguyên tắc bảo vệ giá trị cốt lõi. Bố Già dễ học hơn Ngũ Luân Thư vì nó “dạy” bạn đọc bằng cách kể một câu chuyện li kỳ, tô điểm bằng những câu thoại bình dân với triết lý giang hồ về cuộc đời, về cách đối nhân xử thế, về hành vi của mỗi con người. Bạn đọc có thể học và áp dụng, hoặc hiểu hơn những chuyện xảy ra trong cuộc đời này, từ chuyện nhân sự trong cơ quan, chuyện cạnh tranh của các doanh nghiệp, chuyện đấu đá chính trường, và phần nào cả chuyện chính trị quốc tế.


Cuối đời, Don Vito dạy Michael, rằng sai lầm là cái phụ nữ, trẻ em được phép mắc phải, đàn ông thì không. Vụ án cảnh sát Phan Lê Sơn bị giết ở Hải Triều đã dẫn đến sự sụp đổ của đế chế tội phạm Năm Cam. Nó cũng giống như ông trùm Vito Corlenone mười năm liền sống trong “hòa bình” và thịnh vượng đã để mất bản năng thận trọng của mình, suýt nữa đưa đại gia đình mafia này vào vực thẳm.


Chính trị gia đỉnh cao cũng không được phép sai lầm, ngay cả khi ở đỉnh cao quyền lực. Ông trùm trẻ Don Michael học được điều ấy rồi ứng dụng nó trong bối cảnh mà ngôn ngữ quản trị ngày nay gọi là môi trường “coopetition” vừa hơp tác vừa cạnh tranh giữa các đại gia đình mafia bị đẩy đến giới hạn siêu cạnh tranh (super competition). Để chiến thắng, Don Michael tàn nhẫn không chỉ với đối thủ mà còn với người trong chính tổ chức của mình. Để làm được như vậy, Michael tuân thủ sắt đá nguyên tắc bảo vệ các giá trị cốt lõi của tổ chức (the family) và nguyên tắc bảo mật “không để ai biết suy nghĩ của mình”. Để bảo vệ quyền lực, trong các nhà nước phong kiến, hoặc ở các nước độc tài, người đứng đầu luôn có các cuộc thanh trừng đẫm máu mà nạn nhân có cả người trong gia tộc. Hitler, Mao, Kim Jung Un, Tập Cận Bình, Mahathir đều làm như vậy.


Có lần đi dự đám cưới, bỗng nhiên cả phòng tiệc xôn xao rồi phụ nữ ào về một bàn để chụp ảnh chung với một khách đến trễ. Đó là một ngôi sao ca nhạc được giới bình dân ưa chuộng và phong chức “ông hoàng”. Thật là thú vị khi, một việc như vậy, truyện Bố Già cũng nói đến. Bố Già gọi ngôi sao ca nhạc Johnny vào phòng để hỏi chuyện. Một trong những chuyện Bố Già quan tâm, đó là gã đàn ông nổi tiếng và đào hoa kia có dành thời gian cho gia đình không. Giá trị cốt lõi mà ông trùm xây dựng thành nguyên tắc: đàn ông phải dành thời gian lo cho gia đình. Lo cho gia đình theo nghĩa hẹp, và gia đình (tổ chức) theo nghĩa rộng.


Để lo cho tổ chức, người đàn ông ấy phải có năng lực điều hành một bộ máy, giám sát được mọi cá nhân liên quan đến tổ chức của mình. Chàng trai trẻ Enzo được Bố Già giúp đỡ tránh quân dịch, lơ ngơ đến thăm Bố Già trong viện để tỏ lòng biết ơn, rồi rơi vào tình huống hiểm nghèo: sát thủ tới bệnh viện để giết Bố Già. Enzo rất sợ nhưng ráng ở lại giúp Michael canh gác. Hành vi can đảm bé nhỏ ấy của Enzo vẫn được Tom Hagen, consigliere (mưu sĩ), của Bố Già ghi nhận thành tích.


Chỉ sau khi bị đại úy McCloskey đấm vỡ mặt, Micheal tự nguyện tham gia vào công việc của “gia đình”, một công việc mà một cựu chiến binh như anh vốn không chấp nhận. Đây cũng là một triết lý mà các nhân vật ưa lịch sử La Mã và Châu Âu hiện đại trong Bố Già luôn lấp lửng nói đến: phải đặt cá nhân mình vào mọi cuộc đối đầu, ngay cả Hitler và các đối thủ của ông ta cũng thành hay bại nhờ việc đặt cá nhân mình (personal) vào trong công việc (business). Đây là một triết lý giản đơn nhưng không phải ai cũng để ý, việc có thành hay không chỉ khi ta coi đó là việc của riêng mình, chứ không phải việc của chung, hay của người khác.


Khi đã đặt cá nhân mình vào mọi cuộc đối đầu, thì ngay cả việc rất khó nhằn như thương thuyết cũng trở nên đơn giản hơn nhờ đưa lý trí cá nhân vào trong việc nói chuyện lý lẽ (mà Ngọc Thứ Lang dịch rất hay là nói chuyện phải quấy). Tất nhiên chuyện phải quấy của Bố Già đôi khi kết thúc bằng việc hung thần Lucas Brasi chĩa súng vào đầu kẻ cứng đầu để “đưa ra một đề nghị không thể từ chối”.


Đúc kết từ kinh nghiệm đặt cá nhân mình vào mọi cuộc đối đầu, Don Michael dạy cháu ruột mình: “đừng căm ghét kẻ thù, vì điều ấy ảnh hưởng đến phán đoán của mình”. Ngay cả lúc căng thẳng nhất, cái nhau nổ trời với vợ, Michael lúc này đã là ông trùm cũng nói với vợ: mình sẽ nói mấy chuyện lẽ đời (common sense) với nhau.


***


Sống và đối xử với nhau bằng lý lẽ thông thường có lẽ là cách sống đơn giản và lành mạnh nhất.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 10, 2015 19:07

July 29, 2015

Chuyện bằng hữu

p-38Chiều ngày 2-9 năm 1945, một chiếc P-38 hai thân đầu đỏ của Mỹ bay qua bầu trời quảng trường nơi chủ tịch Hồ Chí Minh đang đọc Tuyên ngôn độc lập.


Suốt bốn năm trước đó, người dân Việt Nam đã quen với những trận đánh bom của Mỹ nhắm vào các căn cứ quân sự của quân đội Nhật trên đất Việt. Tuyến đường sắt Bắc Nam, cảng Sài Gòn, sân bay Gia Lâm … là những mục tiêu bị không quân Mỹ tấn công.


Những chiếc Lockheed P-38 Lightning hai thân hai đuôi ném bom bằng cách bổ nhào, rồi bỏ đi sau khi vẽ một đường cong tuyệt mỹ trên bầu trời đã gây ấn tượng mạnh với người Việt Nam lúc ấy.


Những chiếc máy bay hai thân đầu đỏ bay qua bầu trời: một hình ảnh đẹp đẽ,kinh điển và tượng trưng cho cái gì đó tân kỳ, xa lạ nhưng đầy quyến rũ.


Cuối tháng 8 năm 1945, phái bộ quân sự Mỹ từ Côn Minh đến Gia Lâm. Sau 2-9, Bảo Đại lúc này đã ở Hà Nội nghe tin liền lên xe ô tô chạy thẳng đến sân bay Gia Lâm. Lính Nhật gác sân bay nhận ra vị cựu hoàng trẻ tuổi và nhóm Việt Minh hộ tống nên mời các sĩ quan Mỹ ra đón. Vị cựu hoàng, giống như những người Việt trẻ tuổi đầy tò mò và khát khao tìm hiểu, đã được các sĩ quan không quân Mỹ dẫn đi xem những chiếc máy bay hiện đại bậc nhất lúc bấy giờ: C-46, C-47s và tất nhiên là chiếc P-38 thần thánh.


***


Xuất thân từ một gia đình samurai nghèo, sau khi tốt nghiệp Học Viện Hải Quân võ sĩ Yamamoto Isokoru gia nhập hải quân Nhật Bản. Năm 1905, ông tham gia đánh trận hải chiến lịch sử mà hải quân Nhật chiến thắng hải quân của đế quốc Nga, đưa Nhật bản lên một vị thế cường quốc.  Tiếp đó Yamamoto đi Mỹ làm tùy viên quân sự và học đại học Harvard. Trở về nước, ông đánh bạo đề xuất một ý tưởng cách mạng: tàu chiến chở được máy bay sẽ là loại chiến hạm quan trọng nhất của hải quân.


Khi được bổ nhiệm làm chuẩn đô đốc, rồi bộ trưởng bộ kỹ thuật hàng không hải quân, Yamamoto đánh vật với bọn bảo thủ để cải cách không quân của hải quân Nhật. Từ đó hải quân Nhật sản xuất thành công tàu sân bay đầu tiên của thế giới, chiếc Hōshō (Phụng Tường). Đồng thời phát triển thành công hàng loạt máy bay chiến đấu hiện đại trong đó có chiếc Mitsubishi A6M Zero danh tiếng. Năm 1937, các chiến đấu cơ hiện đại của Nhật đã tấn công Nam Kinh, Thượng Hải giúp Nhật đánh chiếm Trung Quốc.


Hiểu rõ nước Mỹ và phương tây, võ sĩ Yamamoto luôn muốn Nhật đánh bạn với nước Mỹ. Quan điểm cứng rắn của ông “nếu coi Mỹ là thù tức là coi cả thế giới là thù” khiến ông bị phe chủ chiến vu cáo là “chó săn của Mỹ”. Nhưng khi Nhật sa vào chiến tranh với Mỹ, Yamamoto đã đánh đổi tất cả để hết lòng phụng sự tổ quốc. Ông nghiền ngẫm một ý tưởng táo bạo, giống cá tính của ông vừa thích nghe kỹ nữ đánh đàn vừa  đánh bạc tất tay: tấn công căn cứ Trân Châu Cảng. Trận tập kích lừng danh mà hải quân Nhật gọi là chiến dịch Hawaii tháng 12 năm 1941 ấy đã thành công, nhờ vào hai tàu sân bay Zuikaku (Thụy Hạc) và Shōkaku (Tường Hạc) cùng vô số chiến đấu cơ Nhật.


Võ sĩ Yamamoto là anh hùng của nước Nhật, đánh mất người bạn Mỹ khi trở thành kẻ thù của đế quốc mới toe này.


***


Tháng 4 năm 1943 quân đội Mỹ giải mã được điện tín kế hoạch đi thị sát bằng máy bay của đô đốc Yamamoto.Mười sáu chiếc P-38 phục kích bằng cách may sát mặt biển đã chặn được chiếc Misubish G4M chở đô đốc Yamamoto cùng sáu chiếc Zero hộ tống. Do chênh lệch lực lượng, cuộc tập kích nhanh chóng kết thúc, phi cơ của đô đốc Yamamoto Isokoru bị bắn hạ, đô đốc hy sinh.


***


Đã 70 năm đi qua kể từ ngày nước Nhật thua trận.


Mới đây Hạ viện Nhật Bản đã thông qua dự luật nới lỏng các giới hạn đối với quân đội.


Thủ tướng Abe nói: “Tình hình an ninh quanh Nhật Bản đang ngày càng trở nên phức tạp hơn. Các dự luật này là điều hết sức cần thiết để bảo vệ mạng sống của người dân Nhật Bản, cũng như ngăn chặn chiến tranh.”


Phát biểu của thủ tướng Abe gợi nhớ đến phát biểu của Yamamoto nói với phương tây khi ông làm trưởng phái đoàn Nhật ở hội nghị Luân Đôn: “Nhật chỉ cần một sự phòng vệ, đó là sự công bằng và tình bằng hữu quốc tế”.


Đã 70 năm trôi qua kể từ ngày chiếc P-38 của Mỹ bay qua bầu trời Hà Nội. Chiều hôm đó, khi chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, đứng phía dưới lễ đài Tạ Quang Bửu đã dịch Việt Anh lời của bản tuyên ngôn cho chỉ huy OSS Hoa Kỳ là đại tá Archimedes Patti. Hai nhân vật lịch sử này vô tình có mặt trong nước cờ đầu tiên của một cuộc đánh cờ kỳ quặc chỉ có một bên muốn đánh thắng. Bên thua cờ sau này nhìn lại hóa ra lại là phía đánh giỏi hơn.


Phái đoàn OSS đến Hà Nội bằng những chiếc P-38 và C-47 mà Bảo Đại phải đi đến Gia Lâm để xem tận mắt.


Mới đây tổng thống Obama đã có cuộc gặp lịch sử với những người vẫn coi Mỹ là kẻ thù.


Một “tình bằng hữu” chân thành là cái mà đôi khi một người đàn ông  phải mất cả đời “đánh bạn tứ phương” mới có thể có được.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 29, 2015 05:39

July 6, 2015

Liên Mỹ Chống Hoa

Nhân dịp TBT đi Mỹ gặp Obama, viết thêm một đoạn bổ sung cho Trong Vỏ Hạt Dẻ về việc Hồ Chí Minh liên lạc với OSS Hoa Kỳ ở Côn Minh.


Vì biến cố Meigo Nhật lật Pháp mà Hoa Kỳ quan tâm đến Việt Minh nhiều hơn, tất nhiên nhiệt tình cúng bái của Việt Minh với phái bộ Mỹ ở Côn Minh đã hâm sẵn cái sự quan tâm ấy. Mối quan hệ nồng ấm OSS với Việt Minh khiến chính quyền Trùng Khánh nhìn Việt Minh với nhãn quan bọn này “Liên Mỹ Chống Hoa”. Nên khi Lư Hán dẫn Hoa Quân Nhập Việt đã mang theo chủ trương Diệt Cộng Cầm Hồ.


Biến cố Meigo cũng làm một số đảng phái chính trị con con nhao hết cả lên, cứ như chính quyền về tay mình đến nơi. Nhượng Tống và Nguyễn Triệu Luật vì thế mà chịu án oan. Nhượng Tống mấy năm sau bị công an Việt Minh ám sát (như một án tử hình).


Trích Trong Vỏ Hạt Dẻ:


Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội là một hội do Hồ Học Lãm và đồng sự, trong đó có Lê Thiết Hùng và Hoàng Văn Hoan, đứng ra viết hồ sơ để đăng ký thành lập (như một tổ chức cách mạng của Việt Nam ở hải ngoại) với chính quyền Trung ương Quốc Dân Đảng (chính quyền Trung Hoa phe Tưởng Giới Thạch) vào năm 1936. Tên viết tắt chính thức (trong hồ sơ đăng ký thành lập) là Việt Minh. Các nhóm Việt Kiều theo các đường lối chính trị khác nhau đều đứng chung dưới hội này với danh nghĩa các biện sự xứ. Ví dụ Nguyễn Hải Thần là biện sự xứ Quảng Đông, Hồ Học Lãm và Lê Thiết Hùng thì là biện sự xứ Nam Kinh, Hoàng Văn Hoan là biện sự xứ Xiêm. Cơ quan ngôn luận chính thức của Việt Minh là tờ Việt Thanh.


Năm 1940, để có vỏ bọc che cốt lõi cộng sản, Nguyễn Ái Quốc thành lập biện sự xứ hải ngoại của Việt Minh ở Quế Lâm, Hồ Học Lãm làm chủ nhiệm Phạm Văn Đồng làm phó. Đây mới thực sự là lực lượng Việt Minh về nước làm cách mạng tháng 8.


Trong thời gian này, Nguyễn Thế Nghiệp đấu đá nội bộ thua Nguyễn Thái Học nên chạy qua Côn Minh (1929), sau đó khởi nghĩa Yên Bái thất bại thì Vũ Hồng Khanh cũng qua nốt (1930). Hai nhóm này được mật thám Pháp ngầm giúp nên qua Tàu vẫn được chính quyền Côn Minh che chở (theo hiệp ước Pháp Thanh). Đến năm 1939 thì Nghiêm Kế Tổ, tốt nghiệp xong đặc vụ của Tưởng Giới Thạch cũng nhập bọn với Thế Nghiệp, Hồng Khanh để thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Tàu. (Ở bên tàu, các đảng chính trị đều dùng tên có chữ Việt Nam thay cho chữ Đại Việt dùng cho tên đảng ở trong nước ).


Thời gian 1939-1940, các nhóm chính trị Việt Nam khác nhau đều dồn về Côn Minh. Hoàng Văn Hoan, Hồ Quang cũng tới Côn Minh. Hồ Quang đi thực tế cùng Phùng Chí Kiên ở đây.  Đến tháng 5 năm 1940 Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng cũng từ Việt Nam đến Côn Minh. Vũ Hồng Khanh sau một thời gian bị trục xuất đi Quảng Tây cũng về Côn Minh.


Từ năm 1940-1942 Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch giao cho Trương Phát Khuê thành lập lực lượng phản đế của người Việt nhằm thực hiện kế hoạch Hoa Quân Nhập Việt. Lúc đầu Trương Phát Khuê định thành lập Việt Nam Phản Xâm Lược Đồng Minh, một dạng mặt trận có đủ các thành phần,  lực lượng, kể cả Việt Minh. Căn cứ địa dự kiến đặt ở Việt Bắc, chính phủ lâm thời dự kiến có ban bệ đầy đủ với chủ tịch nước là Nguyễn Hải Thần. Đến 1942 do phe Việt Minh lộ bản chất cộng sản, Trương Phát Khuê loại hết, lấy Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ làm lực lượng lõi, toan tính thành lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách). Tháng 10 năm 1942 Việt Cách được thành lập. Nhưng không hoạt động được do  phe Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần đấu đá với phe Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ.


Lúc này, Việt Minh của Hồ Chí Minh đã về Cao Bằng và tìm mọi cách gây dựng phong trào cách mạng ở đây rồi liên thông qua Lạng Sơn nhưng không thành công. Nửa cuối năm 1942 Nguyễn Ái Quốc lúc này sử dụng căn cước Hồ Chí Minh tìm cách quay trở lại Trùng Khánh để gặp Tưởng Giới Thạch và Tống Khánh Linh với ý định xin vào phe đồng minh chống phát xít. Ai ngờ đang đi thì bị bắt ở Túc Vinh (tháng 8). Đến tháng 7 năm 1943 Hồ Chí Minh bị đưa về Liễu Châu thuộc Quân Khu 4 của lãnh chúa Trương Phát Khuê. Trương Phát Khuê giao cho Hầu Chí Minh thuyết phục Hồ Chí Minh tham gia Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách). Cuối năm 1943 để cải cách Việt Cách vốn yếu ớt và nội bộ lủng củng, Trương Phát Khuê và Tiêu Văn nhảy vào nắm quyền trực tiếp. Đến cuối tháng 3 năm 1944 tổ chức đại hội ở Liễu Châu, Hồ Chí Minh và Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) được bầu làm ủy viên trung ương. Tháng9 năm 1944, Hồ Chí Minh và các đồng chí được Trương Phát Khuê cấp kinh phí, vũ khí, cho đi khỏi Liễu Châu để về Việt Nam chống phát xít.


Do có hộ chiếu dài hạn do Trương Phát Khuê cấp cuối năm 1944 Hồ Chí Minh được Phùng Thế Tài tháp tùng đã dẫn được trung úy Shaw qua Côn Minh để “trả” lại cho quân đồng minh Hoa Kỳ, qua đó  kết nối với các cơ quan tình báo Mỹ OWI, OSS và tướng Chennault.


Sau chiến dịch Meigo (Minh Nguyệt) Nhật thực hiện rất gọn gàng để đảo chính Pháp từ 9 đến 12 tháng 3 năm 1945, các lực lượng chính trị vốn bị Pháp đàn áp (trong đó đông nhất là Việt Minh) mạnh lên do bộ máy cảnh sát, mật thám và nhà tù của Pháp bị vô hiệu hóa. Quan trọng hơn, quân đồng minh ở Côn Minh, đặc biệt là phái bộ quân sự Hoa Kỳ thay đổi thái độ, quan tâm đến Việt Minh nhiều hơn.


Qua tháng 9, sau khi Nhât đầu hàng, quân Tưởng tiến vào miền bắc. Vì giúp Việt Cách nói chung và Hồ Chí Minh nói riêng nên Trương Phát Khuê mất tín nhiệm của Trùng Khánh (đầu não Trung Hoa chính quyền Tưởng). Hoa Quân Nhập Việt được giao cho Lư Hán và Tiêu Văn. Hà Ứng Khâm tổng tư lệnh lục quân Trung Hoa là người nắm toàn bộ chiến dịch này. Khi bốn tốp biệt kích gốc Việt của Tàu Tưởng được tung qua biên giới thì Hồ Chí Minh đã về Việt Bắc và đón được quân OSS ở đây. Vì việc này Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng cho là “Liên Mỹ Chống Hoa” nên Hoa quân nhập Việt của Lư Hán vào Việt Nam đã có chủ trương “Diệt cộng cầm Hồ”.


Nguyễn Hải Thần đi theo cánh quân của Tiêu Văn từ Quảng Tây tới Lạng Sơn rất sớm (tháng 9 năm 1945) nên vừa đi vừa dựng lực lượng và tuyên truyền.


Vũ Hồng Khanh không được Lư Hán (đi từ Vân Nam tới Hà Nội bằng máy bay) tin cẩn nên phải đi đường bộ qua Lào Cai, tới Hà Nội vào tháng 10. Đến tháng 12 thành lập Mặt trận quốc dân đảng Việt Nam, có Trương Tử Anh làm chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm tổng bí thư, Nguyễn Tường Tam làm tổng thư ký. Trụ sở của mặt trận này và đài phát thanh của họ đặt ở Quan Thánh. Mặt trận sử dụng cờ Việt Cách.


Tiền thân của nhóm này là Đại việt quốc gia liên minh thành lập ngày 22 tháng 2 năm 1945. Đây là một tổ chức lâm thời liên kết các đảng phái Ðại Việt Quốc Xã, Ðại Việt Dân Chính, Ðại Việt Quốc Dân Ðảng, Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Liên Minh ra mắt lúc 5pm ngày 11 tháng 3 ở Bờ Hồ (trong lúc Nhật đang đảo chính Pháp), tuyên bố cả thành phần ủy ban chính quyền lâm thời. Tám ngày sau, ngày 19 tháng 3 lại tự giải tán (có lẽ đã thấy chính phủ mới của Trần Trọng Kim). Đại Việt quốc gia liên minh có mời cho đủ mâm bát Nhượng Tống làm bí thư và Nguyễn Triệu Luật làm chính ủy. Thực chất ở thời điểm này Nhượng Tống và Nguyễn Triệu Luật vẫn bị Pháp quản thúc (ngày 19 Nhật mới đảo chính xong). Đây là lý do đến cái chết oan của Nhượng Tống (do công an Việt Minh thi hành án) năm 1949.


Một tháng trước khi Mặt trận quốc dân đảng Việt Nam được thành lập, tức tháng 11, Hồ Chí Minh để che mắt Tiêu Văn đã giải tán Đảng cộng sản Đông Dương (trá hình dưới tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương của Trường Chinh). Giải tán ngày 11 tháng 11 thì ngày 19 Tiêu Văn hòa giải Việt Minh và Việt Cách để thành lập chính phủ liên hiệp có chủ tịch là Hồ Chí Minh, phó chủ tịch là Nguyễn Hải Thần, bộ trưởng ngoại giao là Nguyễn Tường Tam (cả ba đều quen biết rõ nhau từ lúc ở Trung Quốc). Đây cũng là lí do Nguyễn Tường Tam làm trưởng đoàn đám phán của Chính phủ liên hiệp kháng chiến đi dự hội nghị Đà Lạt tháng 4 năm 1946 (Võ Nguyên Giáp làm phó đoàn).


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on July 06, 2015 04:44

June 24, 2015

Chuyện học sách

Phi lộ một câu: Lúc đầu định viết về học sách (học thuyết và sách lược) như một bổ túc ngắn cho bài Con đường của rồng, nhưng rồi chuyện nọ xọ chuyện kia, thành ra bài viết rất dài dòng và lan man này.


I. Phần 1


Sách lược (hành động) đề cập ở đây là sách lược chính trị. Sách lược chính trị không thể đứng một mình, dù ít hay nhiều cũng phải dựa  vào các học thuyết (phát triển) kinh tế, xã hội và quân sự. Nhưng ở Việt Nam thì nói chung cái gì cũng khác.


Quay trở về quá khứ, ở ta đã có lúc học thuyết và sách lược đã có lúc bị trộn lẫn và diễn đạt ra thành lời chỉ trong một vài từ, ngắn tũn và bí hiểm.


“Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung thân” tương truyền là một “học thuyết” do Trạng Trình phán ra rồi được các Chúa Nguyễn sử dụng để phát triển vương quốc, và sau này thành một đế chế rộng lớn, của riêng dòng họ mình. Từ quan điểm hiện đại, nhìn vào nội hàm của câu sấm, có thể thấy “học thuyết” này có cơ sở lý luận là “địa chính trị” / “không gian sinh tồn”. So với thời điểm ấy thì tư tưởng của Trạng Trình dạy cho chúa Nguyễn rất tiên tiến, nên nhà Nguyễn thành công cũng là dễ hiểu. Còn mục đích mà lập luận hướng tới là để “lập quốc” và “đất nước” này chỉ là để nuôi dưỡng và phát triển một dòng họ (từ đẳng cấp quan nhà Lê, lên lãnh chúa, và cuối cùng thành vua). Nó không phải là học thuyết để xây dựng một nền xã hội công bằng văn minh. Từ đó sách lược (đường lối thực hiện, hành động) của các Chúa Nguyễn cũng không vượt ra khỏi tầm vóc của “học thuyết vắn tắt” này, tuy về sau họ có phát triển học thuyết từ “khả dĩ dung thân” lên “vạn đại dung thân”.


Bây giờ nhìn lại, rõ ràng những gì chúa Nguyễn thực hiện, từ Nguyễn Hoàng tới lúc Gia Long lên ngôi đều có các đặc tính của việc một cường quốc (Đế quốc Đại Nam) hình thành thông qua mở rộng không gian sinh tồn (Friedrich Ratzel): bành trướng thông qua việc chiếm và sáp nhập các vương quốc yếu hơn, đường biên giới mềm, chỉ có giá trị tạm thời trong quá trình bành trướng. Suốt thời của các chúa Nguyễn, kể cả thời binh đao với Tây Sơn đến thời Gia Long lập quốc thì biên giới luôn mềm. Thời Minh Mạng, thậm chí đến tận thời Ngô Đình Diệm, đế quốc này còn thể hiện một đặc tính nữa theo Ratzel: Dân tộc văn minh hơn cưỡng bức các dân tộc bị thôn tính phải theo văn hóa của mình. Có thể nói nhờ tư tưởng gói gọn trong “một câu” mà Trạng Trình truyền cho mà nhà Nguyễn vượt xa nhà Trịnh về chính trị và sách lược hành động. Có thể nó cũng đi vào tiềm thức nên học thuyết Darwin xã hội sau này được ưa chuộng ở Nam Kỳ thuộc Pháp và trong nhóm các cụ Đông Du.


Tương tự như vậy  “giữ chùa thờ phật thì ăn oản” là một “học thuyết” kèm luôn “sách lược” mà Trạng Trình truyền cho cho nhà Trịnh. So với học thuyết dành cho nhà Nguyễn thì học thuyết này cũ kỹ hơn nhiều, sách lược cũng hẹp và nông hơn (chỉ để ăn). Triết lý của học thuyết này là đề cao tính chính danh (của nhà Lê) để kiếm ăn (cho họ Trịnh). Nó cũng gần gũi với triết lý dân gian “ăn cây nào rào cây đấy”. Nhà Trịnh về cuối lũng đoạn chính quyền, quân đội, tham nhũng, sống xa hoa, … đều không thoát ra khỏi triết ký của “học thuyết một câu” này.  Do sự khác biệt giữa hai học thuyết nên dù xuất phát điểm nhà Trịnh tốt hơn nhà Nguyễn nhiều lần nhưng về sau nhà Trịnh kém nhà Nguyễn cả về chính trị, kinh tế và phần nào là quân sự (bốn lần chúa Trịnh kéo quân đánh miền nam thì thua cả bốn). Nạn Kiêu Binh làm đảo lộn Bắc Hà  cũng từ cái gốc của “giữ chùa, dựng phật” này mà ra.


Mở ngoặc, “học thuyết một câu” này hiện vẫn đúng nếu coi Đảng là chùa mà Bác là Phật. Và nó cũng được dân miền bắc vận dụng nhiều hơn, triệt để hơn.


Đào Duy Từ, kiến trúc sư trưởng xây dựng thể chế cho nhà Nguyễn đã thực hiện nhiều việc lớn, trong đó có việc khuyên chúa Nguyễn trả lại sắc phong vua Lê, coi như đoạn tuyệt hẳn với việc “giữ chùa thờ phật”, từ bỏ ý thức hệ nhà Lê để xây dựng quốc gia theo triết lý riêng của mình. Đào Duy Từ đầu quân cho chúa Nguyễn Phúc Nguyên (tức chúa Sãi, chúa Bụt, tức Hiếu Văn Hoàng Đế), là vị chúa thứ hai của nhà Nguyễn. Sau khi chỉ huy quân xây xong lũy Trường Dục (Lũy Thầy), lũy Nhật Lệ, rào cửa biển Nhật Lệ  và cửa Tùng (Minh Linh), xây dựng lục quân và thủy quân vững mạnh, Đào Duy Từ khuyên Chúa Nguyễn trả lại sắc phong cho nhà Lê (để sắc văn vào giữa mâm đồng hai đáy, sai sứ thần đem trả lại triều đình nhà Lê).


Học thuyết của Trạng Trình cộng với tư duy kiến thiết hạ tầng thể chế của Đào Duy Từ đã giúp dòng họ Nguyễn lập quốc thành công. Không những thế, kế thừa di sản của Chúa Tây Sơn bất ngờ suy sụp, họ còn lập ra một quốc gia hoàn toàn mới, rộng lớn và hùng mạnh hơn các triều đại trước đó rất nhiều, khiến cho họ Nguyễn buộc phải đặt một cái tên mới toe cho cái nước ấy. Thế là tên nước Việt Nam ra đời.


Sở dĩ nhắc đến hai câu Sấm lừng danh phía trên của Trạng Trình là bởi dân ta hay coi hai câu này là những lời tiên tri, có tính dự báo, chứ không coi hai câu này là học thuyết, là sách lược, để nhà Trịnh nhà Nguyễn dựa vào đó mà bắt đầu sự nghiệp của mình. Nó không phải là ngọn. Cần phải coi nó là gốc.


II. Phần 2


Thời hiện đại (Đông Du), học thuyết Darwin xã hội (social Darwinism) và sách lược Đại Đông Á (Dai-tō-a Kyōeiken) bám lấy đế quốc Nhật làm ngọn cờ đã manh nha ăn vào các trí thức và nhà cách mạng Việt. Nhưng hỗn hống này được reo vào Đông dương thuộc Pháp hơi muộn, chưa hé nở đã vội tàn. (Đế quốc Nhật áp đặt công nghiệp hóa và cải cách giáo dục ở Triều Tiên và Đài Loan từ năm 1931 (để phục vụ Mãn Châu Quốc) và đẩy mạnh sau năm 1937 khi Nhật chiếm Trung Quốc.


Phải đến khi NAQ mang học thuyết (nhưng có lẽ là sách lược nhiều hơn) của Lenin-Stalin vào Việt Nam thì mọi sự mới khác. Việc này giải thích rất mất công, để đơn giản hóa có thể mô tả như sau: học thuyết Marx-Engels là cái vỏ, trong ruột thực chất là sách lược Lenin-Stalin. Sách lược này cũng chỉ nhắm vào một việc: giành chính quyền là mục đích chính, các việc còn lại là phụ,rất phụ thậm chí không cần quan tâm: xây dựng xã hội văn minh, kinh tế phồn thịnh, khoa học phát triển, nhà nước dân sự do dân vì dân…


Đây chính là mấu chốt vấn đề: tại sao chúng ta bế tắc toàn diện như bây giờ, đặc biệt là bế tắc về tư tưởng, lý luận, rối ren về thực tiễn, mơ hồ về học thuyết, mù tịt về sách lược.


Nhiều người đổ lỗi cho các bậc tiền bối sáng lập ra nhà nước hiện nay, rằng họ không thiết kế ra một hệ thống hoàn hảo để nó chạy tốt sau nhiều năm. Đổ lỗi như vậy về cơ bản là sai.


Có lẽ khắp toàn cầu chỉ duy nhất Hoa Kỳ là có các vị lập quốc tiền bối ngồi với nhau để thiết kế ra một mô hình nhà nước với hiến pháp, tòa án tối cao, chính phủ, nghị viện … hoàn chỉnh đến mức hàng trăm năm sau vẫn chạy tương đối tốt.


Không kể đến kiến thức, tầm nhìn và lòng yêu nước của các vị lập quốc Hoa Kỳ, phải khách quan mà nói thời điểm họ ngồi với nhau để thiết kế hệ thống không phải ngay sau khi độc lập, mà là sau đó nhiều năm. Họ ngồi với nhau không phải một ngày mà cả trăm ngày. Không phải họ đồng thuận tập thể mà cãi nhau như mổ bò.


Quan trọng hơn, ở thời điểm Hoa Kỳ lập quốc và bắt đầu kiến quốc, ở Hoa Kỳ đã thịnh hành các học thuyết và lý luận rất hiện đại và phù hợp với xã hội Hoa Kỳ: của Thomas Paine và John Locke. Năm 1776, chỉ trong vòng ba tháng, cuốn Common Sense của Paine bán được hơn 100 ngàn bản ở Hoa Kỳ, góp phần thúc đẩy thuộc địa này quyết định việc tách ra khỏi mẫu quốc, không những giành độc lập mà còn đoạn tuyệt với thể chế quân chủ. Còn Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ không chỉ là bản văn tuyên bố độc lập, mà còn là biểu hiện của các lý thuyết về quyền tự nhiên và khế ước xã hội của John Locke. Đoạn mở đầu bản tuyên ngôn danh tiếng này là một cách thể hiện ngắn gọn lý thuyết của Locke về khế ước xã hội (social contract). Hiến pháp Mỹ ra đời một thập kỷ sau ngày độc lập,  thông qua hội nghị lập hiến cãi nhau như mổ bò. Quá trình (các bang) thông qua Hiến pháp này cũng rất vất vả, mất gần 2 năm (nên mới ra đời Luận cương Liên Bang để vận động các bang thông qua Hiến Pháp). Sau khi có Hiến Pháp, do có sự bất đồng giữa các bậc tiền bối lập quốc, mà các chính đảng của Mỹ ra đời, và các đảng này tồn tại đến tận bây giờ (đối đầu giữa Alexandre Hamilton của phe Người liên bang và Thomas Jefferson của phe Cộng hòa – Dân chủ).


Như vậy là khác với nước ta, các chính đảng lớn của Mỹ (không tính kiểu Boston Tea party) ra đời sau khi nước Mỹ độc lập, sau khi Mỹ có hiến pháp. Các đảng của Mỹ đều ra đời trên đất Mỹ. Ở ta khác hẳn, ĐCS ra đời trước khi có nhà nước, và ra đời ở ngoài lãnh thổ nước ta bây giờ.


Quay lại với nước ta. Sách lược tốt nhất mà Đảng có, cho đến nay, chính là cuốn Đường Kách Mệnh.


Mặc dù về hình thức ĐKM là sách để huấn luyện cán bộ cộng sản, nhưng nếu đọc kỹ cuốn sách này ta sẽ thấy: cấu trúc khoa học, các chương ngắn gọn, diễn đạt dễ hiểu, lý luận chặt chẽ, dẫn đến (kết luận) một sách lược hành động chỉ có từ đúng trở lên, đảng viên cứ thế mà tuân theo. Toàn bộ cuốn sách này và sách lược nó đưa ra, ngầm dựa trên một kết luận mà thực ra chỉ là giả thuyết (rút ra từ chủ nghĩa Marx) và bởi vậy kết luận này mặc định là đúng còn hơn chân lý với hàng loạt những khái niệm lóa mắt như: nhà nước công nông, giai cấp công nhân lãnh đạo, đấu tranh giai cấp, … Phương pháp lý luận là lịch sử biện chứng. Trong các trước tác của NAQ/HCM, cuốn ĐKM chỉ tương đối giống các tác phẩm khác về văn phong và cách sử dụng danh từ, còn thì khác hẳn về cấu trúc, kỹ năng lập luận. ĐKM hơi hơi giống một bản luận văn tốt nghiệp trường Đảng cao cấp.


Rất có thể sự ra đời cuốn ĐKM là do NAQ lúc đó là cán bộ cốt cán của QTCS (do Stalin lãnh đạo), được cơ quan này cử đi Châu Á để xây dựng lực lượng cách mạng vô sản và phong trào cách mạng vô sản bằng lý thuyết và phương pháp tổ chức của QTCS. Sau khi tham khảo tiểu luận Cách Mạng của Nguyễn Thượng Huyền cũng như tranh luận với Huyền về “cách mạng” (xem Trong Vỏ Hạt Dẻ phần đầu), NAQ đã quyết định quốc-ngữ-hóa tài liệu huấn luyện cán bộ. Xuất phát là một cán bộ kỳ cựu của QTCS, được đào tạo huấn luyện kỹ càng, lại giàu kinh nghiệm thực tiễn, NAQ đã dịch qua tiếng tàu và chữ quốc ngữ các lý luận và phương pháp xây dựng lượng của QTCS; cuối cùng bản địa hóa thành các bài giảng và tổng hợp thành cuốn sách. Vì thế, nội dung sách nhẹ về học thuyết mà nặng về sách lược hành động, sách lược hành động cũng tập trung nhiều vào xây dựng mạng lưới đảng viên, bồi dưỡng đảng viên và thúc đẩy họ làm cách mạng. Sách lược hành động này bị ảnh hưởng mạnh từ đường lối cách mạng của Lenin và Stalin. Ngoài lề chút: may mà hồi đó ông cụ viết là “Kách”, chứ không thì cuốn sách kinh điển này được viết tắt kinh điển không kém là ĐCM. (ß Quentin Taratino rất thích chỗ này).


Với sách lược này (tiến bộ nhất xứ đông dương lúc bấy giờ), cách mạng đã thành công (cướp phát được luôn chính quyền), và từ đó đường lối hành động kiểu Lenin, Stalin là khuôn vàng thước ngọc, còn học thuyết mà nó mượn vỏ, tức là chủ nghĩa Marx trở thành kim chỉ nam, là hải đăng, là chân lý.


Thế rồi tường Berlin sụp đùng một cái còn Trung Hoa đứng dậy cái một, cả ruột và vỏ bỗng nhiên không còn đúng nữa.


Vậy nên đến bây giờ các nhà lý luận của Đảng đang mắc tóc với các kiểu thị trường này định hướng xã hội kia.


III. Phần 3


Đến đây phát sinh câu hỏi: nếu các nhà lập quốc Hoa Kỳ, 11 năm sau khi giành độc lập (1776), họ nhận ra các vấn đề lớn của đất nước, bèn rủ nhau ngồi lại để thiết kế một bản Hiến Pháp (1787) để xây dựng một loạt thể chế quan trọng để vận hành nhà nước; thì ở VN thời điểm nào tốt nhất để các nhà cách mạng thành lập nên nhà nước hiện nay ngồi bàn với nhau cũng việc ấy?


Câu trả lời là chưa có lúc nào phù hợp. Năm 1945 quá rối ren, chính quyền Việt Minh thực ra cũng chưa nắm được hết được ba miền với các thành phố lớn, quân đội Pháp quay trở lại, chính vì thế việc cất hiến pháp 1946 vào kho là nước cờ rất sáng của tác giả Đường Kách Mệnh.


Từ năm 1946-1954 chính quyền Việt Minh ở trong rừng đánh nhau với Pháp, tâm trí đâu mà ngồi nghĩ đến thiết kế một cái nhà nước đủ tốt để vận hành cả trăm năm (đến đánh nhau với Pháp còn chưa biết thắng thua thế nào, đau tim bỏ cụ).


Năm 1954-1955, đây là cơ hội rất tốt, Việt Minh thắng thế, hai vị sáng lập nhà nước VNDCCH là HCM và Trường Chinh còn sống, khỏe mạnh, và ở trên đỉnh cao của danh tiếng trong nước cũng như quốc tế. Nhưng chiến thắng vang dội địa cầu đã làm họ tin tưởng hơn nữa vào đường lối kiểu Mao và thế là bản thiết kế một thể chế lẽ ra phải văn minh hơn nhà nước ở miền nam (dựa vào bản 1946 trong ngăn kéo) đã không thể nào ra đời được.


Rẽ ngang một phát về Mao và Trung Quốc.


Giải thích đầy đủ sẽ rất dài. Tóm tắt như sau.


Mao tuy thất học nhưng lại chăm đọc sách và là một tay có tư tưởng, có tầm nhìn, thích hành động và sẵn sàng gây sóng gió. Học thuyết và sách lược hành động của ông không vay mượn nhiều từ thế giới, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm quá khứ của Trung Quốc. Sách lược của Mao về bản chất rất đơn giản: sau khi giật công đánh Nhật từ tay Tưởng và đuổi Tưởng ra biển, Mao thành lập nhà nước Trung Quốc mới. Trong nhà nước này, bằng nhiều thủ pháp chính trị cao thủ, Mao tự đặt mình ở vị trí của hoàng đế, nhưng là hoàng đế của hàng trăm triệu nông dân. Dưới hoàng đế là một triều đình của giai cấp công nông (TW Đảng). Hệ thống tuyển dụng công chức (quan lại) để cai trị đất nước hoàn toàn rập khuôn theo mô hình thư lại (bureaucracy) của triều đình phong khiến, chỉ khác là thay Tống Nho bằng lý luận Marxist-Maoist.


Trong một thời gian tương đối dài, Mao tàn phá nền kinh tế cũ của Trung Quốc (đại nhảy vọt), tàn phá Đảng (cách mạng văn hóa); rồi trên đống tro tàn rộng lớn ấy, chỉ trong khoảng hai năm cuối đời Mao đã làm những động tác hết sức ngoạn mục kiến tạo nên nước Trung Hoa Mới: xoay trục quốc tế (đối đầu Liên Xô, hòa giải với Mỹ rồi Nhật), bình định phe quân sự (đưa Lâm Bưu vào hố thẳm) chỉ giữ lại nguyên soái Diệp Kiếm Anh (chỉ huy cũ của thiếu tá Hồ Quang) và cuối cùng là đưa tài năng trị quốc Đặng Tiểu Bình trở lại Trung Nam Hải làm vừa làm tể tướng (nắm triều đình) vừa làm hồng y giáo chủ (nắm quân ủy).  Với nước cờ cuối cùng phục hồi một tiền bối cũ nhưng có vấn đề về ý thức hệ là Đặng đồng thời giữ ổn định chính trị bằng một đồng chí cũ có uy tín và trung thành với chế độ là Diệp nguyên soái , Mao từ biệt cuộc đời sôi động và đẫm máu của mình để một Trung Hoa Mới nảy mầm . Bất chấp các quan điểm mâu thuẫn của Mao về Đặng (vừa che chở Đặng bằng cách đặt ông này ở vị trí phó cho Chu Ân Lai vốn già yếu, nằm viện và sắp chết, vừa phê bình tính giai cấp của Đặng với quan điểm mèo trắng mèo đen, buộc tội Đặng tạo ra tầng lớp tư sản đầu tiên trong Đảng), bất chấp sự thù địch của bè lũ bốn tên, bất chấp bọn sủng thần như Hoa Quốc Phong, Uông Đông Hưng cản bước, cuối cùng Đặng đã vượt lên tất cả để trở thành người lãnh đạo thực sự của nước Trung Hoa Mới.


Với mô hình nhà nước này, đến thời của mình, Đặng Tiểu Bình phế bỏ ngôi hoàng đế, tiện tay đàn áp cả bọn sủng thần vừa ngu vừa ác lẫn tàn sát sinh viên cấp tiến, rồi chuyển đổi thể chế dần sang độc tài cánh hữu (cho phép tư sản đảng và tư sản dân tộc phát triển hết cỡ). Đặng cũng sử dụng lại học thuyết “sinh tồn không gian shengcun kongjian” của Tưởng Giới Thạch (đường 9 đoạn trên biển đông là ý tưởng của chính quyền Tưởng Giới Thạch – xem Trong Vỏ Dạt Dẻ phần cuối, mục số V ). Mô hình do Đặng cải tiến và nâng cấp đã rất thành công về mặt kinh tế nhưng bộc lộ vô số khiếm khuyết.


Đến thời Tập Cận Bình, ông này tái dựng lại địa vị hoàng để của Mao rồi tự mình ngồi ịch vào đấy. Thậm chí không thèm che dấu lực lượng mật vụ Đảng với chiêu thức lừng danh “song-quy” do ngôi sao bí ẩn Vương Kỳ Sơn (ủy viên BCT) điều hành đang hoạt động y như Cẩm Y Vệ/ Xưởng Vệ của triều đình nhà Minh ngày xưa. Thời phong kiến nhà Minh, cơ quan Cẩm Y Vệ cũng trực thuộc hoàng đế, được lập ra để giám sát các quan chức. Cẩm Y Vệ được đặc quyền vượt qua thủ tục pháp lý thông thường để bắt, giam, tra tấn những người không trung thành với hoàng đế hoặc làm hại thanh danh chế độ của hoàng đế.  Hiện nay TQ bỏ học thuyết Marx, ít nhất là bỏ trên mặt trận tuyên truyền, họ không sử dụng các khẩu hiệu liên quan đến xã hội chủ nghĩa, thay vào đó là các thông điệp và hành động cứ như Trung Quốc đang ở thời kỳ Đại Đường ngày xưa vậy. Mà nhà Đường thì quả thực là vĩ đại. Hô hào lập lại đường tơ lụa, nhăm nhe thôn tính biển Đông, là những việc nhà Nguyên Mông ngày xưa đã từng làm, mà vì thế gây chiến tranh với Đại Việt và Chiêm Thành.


Việc nhà nước Trung Quốc đang tha hóa về thể chế, buộc phải quay lại mô hình phong kiến thực ra lại mang đến cho chúng ta một niềm an ủi nho nhỏ rằng ít ra thì nước ta (biết đâu) sẽ có thể chế tiến bộ hơn Trung Quốc (còn Trung Quốc cuối cùng chắc cũng nhận ra thể chế phù hợp nhất, đỉnh cao nhất với họ là chuyên chế phong kiến rồi, họ không còn gì để tiến hóa tốt hơn được nữa, nhất là khi tư tưởng đậm đà bản sắc dân tộc Đại Hán aka phát xít đã quay trở lại). Xem thêm bài Khác lối .


Từ năm 1954-1968: hai miền chia cắt. Không ai ngồi ở nửa đất nước mà ngồi thiết kế thể chế cho nhà nước bao gồm cả hai miền, chưa kể bom đạn liên miên.


Năm 1969: hai miền vẫn chia cắt, chiến tranh ngày một ác liệt, một trong hai tiền bối sáng lập ra nhà nước miền bắc, tức là HCM, qua đời. (Trong thập kỷ 60 này phong trào không liên kết hình thành rồi đột ngột mất đà do chiến tranh Trung Ấn. Việc các nước không liên kết lẽ ra tạo thành khối liên kết kinh tế hòa bình bị chiến tranh làm mất đà, dẫn đến việc các quốc gia tự động quay lưng với ý tưởng khu vực kinh tế cộng sức, để quay lại xây dựng chiến lược tự cung tự cấp. Đây chính là ý tưởng Lê Duẩn dùng để xây dựng mô hình tự cung tự cấp với các “pháo đài huyện”, đóng cửa, chối bỏ ngoại thương, và phát triển nó thành học thuyết kinh tế sau khi chiến tranh kết thúc, thống nhất đất nước).


Năm 1975: kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước.


Mở ngoặc nói về nhà Trần …


Nhà Trần là đế chế đầu tiên ở Việt Nam tàn sát một cách hệ thống tất cả lực lượng chính trị (gia tộc) có mầm mống cạnh tranh chính trị với mình. Họ không chấp nhận hòa hợp dân tộc (thậm chí ép buộc thanh niên trong dòng tộc phải nội hôn, không được lập gia đình với người ngoài) với chủ ý xây dựng một dòng họ (một dạng đảng tộc) độc quyền cai trị đất nước. 


Nhà Trần được các cán bộ cách mạng rất ngưỡng mộ do đánh thắng ngoại xâm. Trong đó chiến tranh lần hai với quân Mông cổ rất tàn khốc. Nhà Nguyên Mông lúc đó muốn khôi phục lại thương mại toàn cầu (con đường tơ lụa) như thời Đường. Nhưng đường bộ từ lúc đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ nổi lên thì tịt rồi, nên buộc phải dùng đường biển. Công nghệ đi biển hồi đó theo gió mùa, ven bờ, nên việc bảo đảm an ninh hàng hải ở vùng biển Chiêm Thành và Đại Việt là rất quan trọng. Toa Đô và Thoát Hoan được giao nhiệm vụ này. Đây là nguyên nhân cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ hai của quân Nguyên Mông.


Trước và sau chiến tranh, nhà Trần có hai giai đoạn phát triển rất thú vị. Giai đoạn đầu (trước chiến tranh ) có xu hướng Aristocracy. Giai đoạn hậu chiến họ áp dụng thể chế Timocracy khá rõ nét (có thể tham khảo mô hình VN giai đoạn 198x). Sau chiến tranh, giới cầm quyền được tưởng thưởng sau chiến thắng thì hưởng lạc, vơ vét của cải , còn nhân dân, những người cống hiến, hy sinh, mất mát nhiều nhất trong cuộc chiến, lại sống lầm than hơn. Ngoài biên thùy thì Chiêm Thành và Ai Lao lợi dụng thể chế suy yếu mà quấy rối. Phạm Ngũ Lão xuất thân bình dân nổi lên như anh hùng cả trong chiến tranh vệ quốc lẫn chinh phạt láng giềng, không khác gì Lê Trọng Tấn sau này.


Xuất thân chài lưới, sau khi cướp chính quyền nhà Trần quý tộc hóa dòng tộc mình, vừa thích vừa sợ trí thức. Trí thức thành kẻ bên lề, không được trực tiếp tham dự việc triều đình, phải làm gián tiếp bằng cách làm gia-khách trong nhà các quý tộc chính trị gia, như Mạc Đĩnh Chi làm cho nhà Trần Ích Tắc, Trương Hán Siêu làm cho nhà Trần Hưng Đạo. Từ đó, quyền lực Phật giáo giảm dần nhường chỗ cho quyền lực khoa bảng nho giáo. Chu Văn An, dựa vào đám đông học trò cũ đang làm môn khách, nổi lên như trí thức “lề trái” công khai phản biện triều đình bằng cách dâng Thất Trảm Sớ.


Tương tự như thế, những người nông dân làm cách mạng lấy được chính quyền, đánh Pháp đánh Mỹ xong cũng tự lắp vòng hào quang bằng nhựa lên đầu mình, khinh thị trí thức, không cho tham gia bàn việc nước. Các vị trí thức muốn “làm tí” phần nhiều phải làm môn khách của cán bộ quý tộc đời mới như các nhóm vây quanh ông Kiệt, ông Khải. Quyền lực của y tức hệ cộng sản nhạt dần nhường chỗ cho quyền lực của tri thức. Nhiều trí thức bắt đầu nổi lên như những tay phản biện chính sách, nhưng so với Chu Văn An thì thiếu hẳn bệ đỡ là đám học trò.


Xây dựng nhà nước và bộ máy chính quyền dựa trên hào quang chiến trận, điều hành kinh tế sai lầm là những nguyên nhân làm cho  bộ máy chính quyền nhà Trần cho thối nát bên trong, xã hội lầm than loạn lạc bên ngoài, mâu thuẫn và căng thẳng xã hội không thể khắc phục nổi. Chu Văn An dâng Thất Trảm Sớ. Hưng Đạo Vương lúc chết dặn san phẳng mộ mình đề phòng quân Nguyên sang trả thù. Nông dân nổi dậy liên tục. Loạn quân của Phạm Sư Ôn còn kéo về chiếm được cả Thăng Long. Ngoại bang đe dọa bờ cõi.


Những năm 137x chúa Chiêm là Chế Bồng Nga tấn công Thăng Long, đi thuyền từ cửa biển Đại Ai vào sông Hồng, ngược vào Tô Lịch, đi vào hoàng thành (có lẽ khu Cửa Bắc bây giờ) bắn tên lửa vào cung vua, cướp bóc của cải … đánh dấu sự sụp suy yếu tệ hại của nhà nước và quân đội của dòng họ Trần (lúc này thể chế đã chuyển từ Timocracy qua một dạng kiểu Plutarchy, khá giống VNCH đoạn cuối và nước ta bây giờ). Thế rồi không mấy chốc sau đó nước mất vào tay giặc Minh.


… và nhà Hồ.


Cửa Đại An, trước là cửa Đại Ác do sóng dữ, từ thời Lý chuyên là cửa để kéo quân đi đánh Chiêm, đến lúc này lại là lối đi vào để quân Chiêm đánh Thăng Long. Hồ Quý Ly lúc cướp quyền nhà Trần, cũng tiêu diệt các lực lượng chính trị đối lập cực kỳ tàn khốc, đến mức những người quen biết nhau (có lẽ là giới quan lại và nhóm lợi ích liên quan đến đám quý tộc Trần): “Chỉ nhìn nhau bằng mắt, không dám nói chuyện với nhau bằng lời”. 


Nhà Trần suy thoái, Hồ Quý Ly cướp chính quyền, thi hành một loạt cải cách kinh tế chính trị rất mạnh mẽ. Quý tộc và bọn đại gia kiếm lời bằng cách bám đít nhà Trần bỗng dưng mất quyền lợi, trở thành các nhóm lợi ích bảo thủ tìm mọi cách chống lại Hồ Quý Ly. Thậm chí một số quý tộc nhà Trần còn cầu viện phương bắc ( ßphái đoàn Thành Đô rất khoái điều này). Hồ Quý Ly cực chẳng đã rời đô về phía vùng Trại (Thanh Nghệ) ở phía nam, biến Thăng Long thành phế đô với tên gọi Đông Kinh. Để gây dựng nhà nước mới, Hồ Quý Ly một mặt phải mở rộng không gian sống bằng cách đánh Chiêm Thành, một mặt gia tăng nguồn nhân lực bằng cách giải phóng nô lệ (khỏi đám chủ nô quý tộc nhà Trần) và sử dụng những người dân tự do này. Hồ Quý Ly cũng cải cách giáo dục bằng cách đưa toán vào thành môn bắt buộc.


Tuy nhà Hồ rất ngắn (7 năm), việc cải cách đất nước mới chỉ manh nha, nhưng tác động tích cực của cải cách còn kéo dài hàng trăm năm sau.  Việc mở rộng không gian sống của Hồ Quý Ly có lẽ là những gợi ý quan trọng cho lời Sấm của Trạng Trình như đã nói ở đầu bài viết (thời Hồ tuy ngắn nhưng mở mang bờ cõi phía nam đến tận Quảng Ngãi, sau giặc Minh qua chiếm, Chiêm Thành lại chiếm ngược lại ra đến tận Quảng Trị). Lực lượng sản xuất mới xuất thân từ dân tự do ở vùng Trại sau này tham gia khởi nghĩa cùng Lê Lợi để đánh giặc Minh. Vùng đất Trại (Thanh Nghệ) về sau sản sinh ra vô số chính trị gia có ảnh hưởng quan trọng (cả tiêu lẫn tích) đến vận mệnh đất nước. Vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, chúa Tây Sơn đều từ vùng Thanh Nghệ mà ra cả. Ngay cả cái tên Đông Kinh sau này cũng nổi tiếng với phiên âm Tonkin để chỉ cả xứ Bắc Kỳ.    


Năm 1976, đây là thời điểm tốt nhất để ngồi thiết kế thế chế cho một đất nước thống nhất mới toe. Cuốn cẩm nang ĐKM chỉ dạy làm cách mệnh, không đề cập đến sách lược xây dựng xã hội văn minh kinh tế phồn thịnh. Một trong hai vị sáng lập nhà nước đã qua đời, chỉ còn Trường Chinh. Trường Chinh lại ở thế yếu, còn trên đỉnh cao thắng lợi Lê Duẩn đang đê mê. Trong cơn đắc thắng mê sảng như thế, bịt tai nhắm mắt, miệng há to đầu óc lâng lâng tay cầm bút vẽ, bản thiết kế do họ tạo ra đương nhiên là chẳng ra gì. Bản thiết kế này về cơ bản cho đến nay vẫn đang được dùng để vận hành đất nước.


Thế là toi mất cơ hội tốt nhất để các sáng lập viên và các anh hùng mới nổi ngồi với nhau thiết kế nhà nước vĩnh cửu (Trung Quốc may mắn là dành độc lập xong hòa bình đến tận bây giờ, không có cuộc chiến lớn nào xảy ra trên đất nước. Cuba cũng đang may khi hai anh em cụ Phi giờ vẫn sống để bàn việc nước. Bắc Hàn thì còn hóm nữa, có hẳn thuyết Juche (Chủ Thể) do nhà Kim bịa ra để thay thế hẳn chủ nghĩa Marx-Lenin. Còn nước bạn Cambodia có câu chuyện lạ kỳ hơn nữa. Sau khi cướp được chính quyền, Angkar (tổ chức) của Pol Pot và Ieng Sary đã quyết tâm xây dựng trong thời gian ngắn nhất một nhà nước tiến bộ vượt bậc so với nhà nước của Lenin và Mao. Tư tưởng của Polpot và lý luận của Ieng Sary rất đơn giản: xây dựng một nhà nước hàng đầu Asean, cạnh tranh với nhà nước cùng chất với mình là Việt Nam, vượt lên các nước trong khu vực bằng “nhà nước đặc sắc đậm đà bản chất Cambodia”. Hậu quả của việc này là vô cùng nhiều người bị giết chết, rất nhiều người gốc Việt bị giết (hai vạn) hoặc bị đuổi qua biên giới).


Nhưng có một cái hay, là trước khi chết, một trong hai vị sáng lập nước là Trường Chinh đã nỗ lực làm một việc chưa có tiền lệ: sửa bớt các lỗi của hệ thống và sau đó có Đổi Mới. Sau Trường Chinh tất nhiên là không còn ai dám làm như vậy.


Nhưng mà thời thế đổi thay. Sửa chữa của Trường Chinh cũng không còn hiệu nghiệm. Những gì đang diễn ra trong 2 năm trở lại đây, trong quá khứ Việt Nam chưa từng có tiền lệ.Và như vậy có thể những gì sẽ xảy ra cũng có thể là những thứ chưa từng xảy ra ở Việt Nam.


IV. Phần 4


Như trên đã nói, thể chế Hoa Kỳ dựa vào văn minh phương tây sâu sắc từ thời Hy La, về cơ bản thể chế ấy lại do những bộ óc bản địa lớn của Hoa Kỳ, ngồi ở bên trong đất nước, kiến thiết nó từ trong lòng thời cuộc mà ra, nên nó bền vững là chuyện chẳng phải hỏi tại sao.


Trung Quốc chỉ có một mô hình, gọt rũa, biến báo, chuyển đổi bao nhiêu thế kỷ nay, kiểu mửa ra rồi nuốt lại, kết cục thế nào vẫn chỉ là thế ấy, mãi mãi không thể tiến bộ được. Xưa tể tướng Vương An Thạch của triều Tống muốn cải cách, để bắt đầu ông ta gây chiến ra bên ngoài (đánh nhà Lý của nước ta) nhằm rảnh tay “biến pháp” nền kinh tế. Các biện pháp cải cách (biến pháp) của Vương An Thạch cực kỳ xuất chúng ngay cả so với hiện đại: nhà nước financing cho nông dân (phép thanh miêu), cho phép tư nhân trả tiền để không phải làm nghĩa vụ công dân (phép miễn dịch ß GS Sandel hẳn sẽ thích điều này), mở sàn giao dịch B2B và kho bình ổn giá (phép thị dịch). Rất đen cho bọn Tống, lúc ấy nước ta có Lý Thường Kiệt và Tôn Đản cất quân qua tận nội địa Trung Quốc bụp cho nó vỡ luôn mặt. Thế là Vương An Thạch trắng tay. Đến thời tể tướng Đặng Tiểu Bình thì may mắn hơn. Đặng đi rao khắp thế giới sẽ đánh Việt Nam, thông báo cả với tổng thống Mỹ, cả thế giới đều biết, lãnh đạo Việt Nam cũng biết nhưng không tin chuyện ấy xảy ra (bản quyền câu “đến chúng tôi cũng không thể tin được” thuộc về các cụ ß anh Quảng không thích điều này). Chính sách đầu tư công của Trung Quốc hiện nay, sản xuất ra vô khối đô thị ma và những con đường cao tốc không ai đi, về bản chất không khác gì Tần Thủy Hoàng đầu tư công kích cầu bằng cách xây Vạn Lý Trường Thành to vật vã. Trung Hoa Mới sau một hồi hãnh tiến, đến nay lộ ra là thực chất bế tắc. Nên không phải vô lý mà Tập Cận Bình tái lập ngai hoàng đế. Nhân dân Trung Quốc nói chung chỉ xứng đáng có Tần có Mao mà thôi. (ßTrương Nghệ Mưu lại rất thích điều này). Và đế chế của tiểu hoàng đế đỏ rực Tập Cận Bình rất có thể sẽ sụp đổ chi trong vài năm nữa (2018, đúng nửa thế kỷ sau khi TQ bắt đầu cải cách kinh tế và ngày càng thụt lùi về thể chế).


Thế còn nước ta?


Rất may nước ta vẫn còn có cơ để thay đổi.


Như đã viết ở trên, nhìn vào cái lúc đất nước bắt đầu phân tranh, ở cái chỗ đất hẹp, lòng người hẹp, chơi “trường trận” thì khó, muốn sống tốt thì phải “đoản binh”, không phải vô cớ mà cặp trường kiếm học thuyết và sách lược của Trạng Trình  và Đào Duy Từ phải mang vào tận Đàng Trong mới múa được. (Trạng Trình bỏ các kỳ thi đời Lê Sơ, đến đời vua Mạc thứ hai là Mạc Thái Tông mới đi thi và đỗ đạt. Đây là quãng thời gian thịnh trị của nhà Mạc “đêm ngủ không cần đóng cửa, ngoài đường khônng nhặt của rơi” nhưng vẫn bị gọi là ngụy triều);  còn Đào Duy Từ bị nhà Lê bắt đi tù vì dùng lí lịch giả đi thi).


Tính rộng rãi đến tận thời nay, không có học thuyết nào, sách lược nào mà có độ “nội địa hóa” cao như sản phẩm của Trạng Trình và Đào Duy Từ. Đấy là lý do căn bản mà hai ông này dựng được cả một chế độ, một quốc gia huy hoàng. Khi Minh Mạng quay lại sử dụng học thuyết, mô hình ngoại nhập (Trung Hoa), cái quốc gia to lớn ấy lập tức suy thoái.


Sau này có một học thuyết nội địa hóa cao, nhưng sử dụng văn minh và phương pháp của phương tây (xem Luận Văn Của Ông Nhu). Học thuyết này một mặt cải cách chính trị và kinh tế kiểu “tây hóa” quá sớm so với mặt bằng xã hội và chính trị thời đấy, mặt khác lại lạm dụng các phương pháp trị quốc top-down  mà xem nhẹ grassroot, nên khi trở thành sách lược thực tế ở miền nam đã thua lấm lưng sách lược của QTCS được nhập khẩu qua đường cách mệnh vào miền bắc với các kiểu nội địa hóa bottom-up kiểu như lấy dân làm gốc, ba cùng với dân.


Thất bại của anh em Ngô tổng thống cũng khá tương đồng với thất bại của  Hồ Quý Ly: cả hai triều đại đều rất ngắn (khoảng 7 năm) và đều có cải cách chính trị rất mạnh. Anh em họ Ngô lật đổ Bảo Đại,  Hồ Quý Ly cũng cướp chính quyền từ nhà Trần; họ Ngô có học thuyết Nhân Vị, bắt đầu kiến quốc bằng cải cách thể chế và xây dựng kinh tế, họ Hồ có sách phê bình triết học Minh Đạo, canh tân quốc gia bằng cải cách thể chế (hạn điền, hạn nô) và trưng cầu “quan ý”, lấy các báo cáo tình hình từ cấp quan trấn đưa lên triều đình, dựa vào đó làm chính sách rồi ban hành xuống. Cả họ Ngô và họ Hồ cùng thất bại vì không xây dựng được sự ủng hộ của nhân dân ở tầng grassroot cũng như yếu kém nhân sự ở lớp quan chức trung gian (ßGiặc Minh đã rất thích chuyện này). Về nhân sự, xem thêm Nhân sự trong vỏ hạt dẻ.


V. Phần 5


Biển Đông đang nóng và Trạng Trình thực sự đã từng sấm:  “Biển Đông vạn dặm dang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững trị bình”. Nếu sống ở thời nay, Trạng Trình sẽ phải tính đến trường hợp đặc biệt: đế quốc Trung Quốc sụp đổ hoặc diệt vong, cái gì sẽ sảy ra với Việt Nam. Trong quá khứ, các biến động lớn ở Trung Hoa đều ảnh hưởng lớn đến Việt Nam. Từ những làn sóng di dân đến đồng bằng sông Hồng thời Âu-Lạc đến những đoàn quân phản Thanh phục Minh kéo đến đồng bằng sông Cửu Long thời chúa Nguyễn. Hay cả những hải tặc Thiên Địa Hôi của Tàu chống chính quyền trung ương Trung Quốc, chạy qua Việt Nam mà xây dựng cho chúa Tây Sơn cả một quân đội chính quy mà hải quân có sức mạnh vượt trội. Đế quốc Trung Hoa hiện đại có thể vỡ ra từng mảnh như Liên Xô, hay thành Nam Tống – Bắc Tống như chính họ ngày trước. Và dù thế nào đi nữa, sau vài chục năm suy yếu, ta có thể như Lí Thường Kiệt và Tôn Đản ngày xưa, lấy lại Hoàng Sa


Nếu Trạng Trình ở thời nay, ông sẽ Sấm những gì?  Khác với ngày xưa, kiến thức và tư duy chỉ có tính địa phương, còn ngày nay là toàn cầu hóa, Việt Nam ngày càng phải đi theo các giá trị chung của nhân loại và bỏ bớt dần cái gọi là bản sắc dân tộc vừa mơ hồ vừa là chỉ dấu của nền chính trị đi theo chủ nghĩa dân tộc (identitarianism / identitarian politics).


Các học thuyết hiện đại, tốt, có ích cho người dân, cho xã hội, cho dân tộc, cho quốc gia bây giờ có đầy cả ra rồi. Các vấn đề cốt lõi của đất nước cần giải quyết cũng lộ ra bằng hết. Nếu các vị tiền bối sáng lập ra nhà nước này và các vị lãnh đạo thời hậu chiến mà còn sống, chắc chắn các vị sẽ nhận ra cả xã hội lẫn nền kinh tế đã vượt ra khỏi năng lực quản lý của mô hình hiện nay. Hơn thế, bối cảnh hiện tại Việt Nam không chịu sức ép phải có sức cạnh tranh tương đối cao trong làn sóng toàn cầu hóa để ít nhất là thoát nghèo mà còn chịu sức ép bị đe dọa chủ quyền từ hai nước láng giềng phía bắc và tây nam. Để thoát khỏi nỗi ám ảnh mất chủ quyền, cách duy nhất là Việt Nam phải trở thành một cường quốc nho nhỏ có sức ảnh hưởng lớn đến tất cả các nước trong khu vực ĐNA.


Vậy nên nếu Trạng Trình còn sống đến ngày nay và chứng kiến tất cả những gì đã xảy ra, hẳn ông ấy sẽ Sấm về việc sẽ có ai đó, chọn lấy một hai học thuyết nào đó phù hợp nhất, tham khảo một hai sách lược khả thi nhất, rồi kết hợp lại, rồi bản địa hóa nó như NAQ đã từng bản địa hóa tài liệu QTCS mà làm ra ĐKM.


Nói chung ở nước ta chính trị là cái đáng để lạc quan nhất, vì những gì tiến bộ và văn minh nhất của chính trị vẫn chưa đến, tức là còn có cái để hy vọng hehehehehe. Nhưng trước khi những gì tốt đẹp đến với mảnh đất gian nan này, có khi phải dăm lần vỡ mặt nữa mới ngộ ra được trên thế gian này cái gì là tốt đẹp.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on June 24, 2015 21:51

May 20, 2015

Kinh nghiệm biển đảo của Việt Nam Cộng Hòa

Việc bỏ không dùng facebook có nhiều cái rất lợi, và có vài bất lợi. Cái bất lợi hôm qua là không tìm được Nhân Tuấn Trương để hỏi về kinh nghiệm Việt Nam Cộng Hòa trong việc tranh chấp biển đảo.


Bắt đầu từ việc cụ Đình Đầu cho xem bản đồ Đông Dương Thuộc Pháp, in năm 1906 ở Paris. Bản đồ hành chính xứ Nam Kỳ (Cochinchine) thuộc Đông Dương thuộc Pháp, trong đó bên cạnh đảo Phú Quốc (trên bản đồ chỉ rõ thuộc Hà Tiên) còn hai hòn đảo khá to là Hòn Năng Trong và Hòn Năng Ngoài (cũng chỉ rõ thuộc Hà Tiên).


Hai “hòn” này, và nhiều hòn khác nữa, sau thời Pháp, tới thời Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tranh chấp với Cambodia. Không hiểu kinh nghiệm của VNCH về việc này (từ 1956 đến 1975) như thế nào, liệu có học hỏi được gì không.


Tóm tắt sơ sơ như sau để các bác biết.


Hai đảo (hòn) là Hòn Năng Trong và Hòn Năng Ngoài, khá là to, còn được gọi là đảo Phú Dự. Tiếng Pháp lần lượt là Ile du Milieu và Ile à l’Eau.


Thời Nguyễn, trên hai đảo này đã có thôn Thiên Phước, xứ Năng Dự (Hòn Năng). Trưởng thôn (đầu tiên?) tên là Trần Văn Tự.


Thời Pháp, sau khi thành lập chính quyền bảo hộ ở Nam Kỳ (1867) và Cambodia (1863) thì Pháp lấy tất cả các đảo trong vùng biển này và vùng Hà Tiên (tức là cả Thổ Chu, Phú Quốc, Hải Tặc …) cho vào Nam Kỳ. Đến ngày 25-5-1874 thì thống đốc Nam Kỳ ra quyết định thành lập Quận Biển thuộc chính quyền Nam Kỳ. Quận này  bao gồm tất cả các đảo biển Hà Tiên. (Quận biển, hay phết). Sau đó một thời gian thì hạt Phú Quốc tách ra và nhập trở lại Hà Tiên.


Vấn đề chỉ phát sinh vào quãng 1931, khi các hòn đảo này sinh lời (thuế khóa, khoáng sản) dẫn đến việc khâm sứ Pháp ở Cambodia đòi hỏi. Chủ yếu là do ngư dân Khmer qua lại các đảo này có xu hướng đóng thuế cho Nam Kỳ chứ không đóng thuế cho Cambodia (giống thời Mạc Cửu ghê). Việc đôi co giữa hai chính quyền bảo hộ bắt đầu từ cấp địa phương (Hà Tiên), leo dần đến cấp toàn quyền Đông Dương. Tên ông toàn quyền là Brévie nên về sau có tên đường phân chia biển là đường Brévie.


Chính quyền Nam Kỳ, lúc đầu là Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ, sau là chính quyền Việt Nam Cộng hòa tất nhiên là không chịu các đòi hỏi của nước bạn hehe. Đặc biệt là với các đảo Phú Dự, Bắc Hải Tặc, và đảo Wai.


Nhưng từ năm 1956 thì Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu để mất đảo. Cambodia dùng quân đội chiếm hai đảo Hòn Năng vào năm 1956. Đến năm 1958 chiếm thêm Hòn Tai (Ile du Pic). Năm 1960 chiếm Hòn Kiến Vàng (Ile des Fourmis) và Hòn Keo Ngựa (Ile du Cheval). (Cũng năm 1956 Đài Loan chiếm Ba Bình nhưng VNCH lại đổ quân ra chiếm lại).


Như vậy, không tình Hoàng Sa bị Mao cướp năm 1974,  thời VNCH cũng bị mất đảo chứ không phải không. Và các vụ mất đảo cũng rơi các thời điểm rối ren, chính quyền phải lo một đống việc trong nước. Nhưng không rõ việc đi cãi nhau với nước bạn, từ lúc chính quyền là Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ cho đến khi là Việt Nam Cộng hòa, thì các vị ấy đã lập luận chứng minh cãi cọ thế nào với nước bạn. Và dù thực tế là đảo vẫn mất thì các kinh nghiệm tranh cãi ấy nay có học hỏi được gì không. Ý tưởng thành lập quận biển cũng khá hay, có khi áp dụng lại được. Quận biển có thể có những quy chế rất hải tặc, khác xa luật lệ trên đất liền, ví dụ cho phép casino với đèn đỏ thoải mái chả hạn.


Ngoài ra, có vẻ như từ khi Mỹ can thiệp mạnh vào miền nam (kể từ cuối thời Diệm), nhất là sau khi quân đội Mỹ vào miền nam (1965), thì VNCH không còn bị ai đe dọa lấy đảo nữa. Sau 73, Mỹ rút đi, mất luôn Hoàng Sa (1974) vào tay TQ. Đảo Ba Bình do Đài Loan chiếm của VNCH từ năm 1971, khả năng chiếm được cũng là do Mỹ bật đèn xanh.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 20, 2015 20:57

May 17, 2015

Chuyện hiểu nhầm

Có chuyện cười thế này:


“Các bác ạ, em đang xếp hình với em gấu nhà em, em ấy liên mồm hối “anh mạnh vào, anh mạnh vào”. Em thì đã mạnh hết sức rồi. Ngẩng mặt lên thấy thằng Mạnh đứng đầu giường. Hết hồn”.


Hôm rồi đọc báo, thấy đăng tin bắt cựu TBT, hết hồn, tưởng đâu anh Mạnh vào chốn lao lý. Hóa ra là tổng biên tập Kim Ngọc Hoa.


Cách đây gần tuần, đi dự 30under30 của Forbes, đông và chất lượng cao phết. Nghe nói có tới 1400 người check-in sự kiện và ở lại đến hết ngày.


Điều ngạc nhiên là, 2 panel đầu tiên của buổi sáng(là 2 panel mà tôi được nghe), luôn bắt đầu bằng các câu hỏi khởi nghiệp, trở về, vào đời, mục đích, thành công và rồi chả hiểu sao lại đi đến các câu hỏi khá là triết: làm sao xây dựng cho cá nhân mình các giá trị đạo đức (sống, nghề nghiệp …) của cá nhân trong bối cảnh các giá trị xã hội (cộng đồng, doanh nghiệp …) có vẻ như càng ngày càng lộn xộn.


Điều ngạc nhiên hơn nữa, là chính các bạn trẻ có ước mơ khởi nghiệp ở phía dưới, chứ không phải các doanh nhân tiền bối phía trên, lại có vẻ như không chấp nhận việc kinh doanh và đạt mục tiêu bằng con đường bá đạo (dù như thế mới là đường ngắn nhất đến thành công) bởi theo các bạn con đường ngắn hay dài không quan trọng bằng con đường tử tế và bền vững. Đấy là cái khúc mắc rất lớn tạo ra câu hỏi mà tôi rất chú ý buổi hôm đó: thang giá trị đạo đức, giá trị sống (cá nhân) của một người trẻ muốn khởi nghiệp, vào đời sẽ phải adapt thế nào với giá trị đạo đức và giá trị sống đang lộn nhào ở xã hội này.


Vì ngạc nhiên như vậy, nên tôi đã hơi thất vọng với câu trả lời của các tiền bối ngồi làm panelist.


Chính vào lúc các giá trị sống đang đảo lộn như thế này, thì cái mà ta cần  làm theo, chỉ đơn giản là tuân theo các giá trị chung của nhân loại. Vả lại, sau một thời gian dài quốc tế hóa rồi đến toàn cầu hóa, việc tuân theo các giá trị chung, các tiêu chuẩn chung của nhân loại là việc đương nhiên. Các giá trị ấy nó lù lù ra rồi, chả cần phải đi tìm hay sáng tác mới.


Nhân đây, tôi hay đọc các comment trên các báo mạng. Comment ấn tượng nhất trong 2 ngày cuối tuần vừa rồi, là về phái đoàn Mỹ qua VN về việc TPP: “Chính phủ với quốc gia kiểu gì, để Mỹ nó phải dỗ dành làm theo các thông lệ quốc tế như dỗ trẻ con.” Đại khái câu comment như thế, không nhớ chính xác. Câu comment này có phần đúng, và cũng có phần chủ quan. Vì nhà nước có thể cũng muốn theo thông lệ lắm, nhưng muốn thì muốn còn làm thì vẫn chưa đủ mạnh.


Các anh ơi, phải mạnh nữa vào!


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on May 17, 2015 21:26

April 30, 2015

Chân vung tay quăng

Tôi nghĩ việc hòa giải về cơ bản là việc của chính quyền, không phải việc của người dân.


Không thể bắt một gia đình ở Hà Nội có người thân chết vì bom B-52 phải thôi hận thù.


Không thể bắt một gia đình Việt Kiều có người thân chết trong Mậu Thân và còn bản thân họ sau năm 1975 thì vượt biên phải quay về hòa giải.


Với mỗi người dân, hòa giải là lựa chọn và cũng là tình cảm cá nhân của họ. Họ có thể hòa giải, có thể ôm mãi hận thù, ta khó mà có ý kiến.


Nhưng ở Việt Nam, chuyện cá nhân cũng phải được nhà nước cho phép. Nhiều năm trước đây, anh em ruột trong nhà lỡ ở hai chiến tuyến khác nhau, đã hòa giải trong yên lặng để nhà nước không biết. Nay nhà nước đã có chủ trương, ít nhất là ở đằng mồm.


Lễ 30/4 năm nay tôi (và có lẽ là nhiều người nữa) hơi chờ đợi một động tác có tính biểu tượng của chính quyền. Ví dụ như một phút tưởng niệm những người đã chết trong chiến tranh. Nhưng điều đó đã không xảy ra.


Hôm nay nhà nước kỷ niệm chiến thắng của họ, chứ không phải kỷ niệm ngày cuộc chiến tranh tàn khốc kết thúc trên đất nước này.


***


Một chị ở nông thôn, nghèo và thất học, không biết làm gì ngoài việc suốt ngày cạnh khóe hằn học những kẻ hơn mình ở trong làng. Thế rồi chị đi xuất khẩu lao động, qua Đài làm giúp việc, sau vài năm có chút tiền kha khá bèn trở về làng. Về nhà, có tiền, chị tự mãn, đi lại khắp làng, điệu bộ chân vung tay quăng rất hớn.


Những người ngô nghê, ấu trĩ, thô lậu chẳng may có được chiến công thế nào cũng huyênh hoang, đấm ngực tự khen mình giỏi hơn thiên hạ, coi bọn khác như cỏ rác, thái độ hung hăng với những ai khác mình.


Không phải ai sinh ra cũng là quý tộc. Cũng khó học đòi phong cách quý phái. Nhưng có những phẩm chất quý tộc có thể học được: điềm đạm và tôn trọng những người khác mình, nhất là những người thua mình trong một cuộc đấu.


Cùng là dân một nước với nhau mà vẫn sỉ nhục nhau kiểu kẻ trên ngựa người ngã ngựa, sao mà mong thế giới họ tôn trọng nước mình.


Sau bốn mươi năm, người ta vẫn huênh hoang đấm ngực với chiến thắng, vẫn vô tình hoặc cố ý hung hăng hạ nhục những người cùng dòng máu Lạc Hồng mà số phận đẩy vào bên thua thiệt.


Thế mới biết, có no cơm, có ấm cật, có tiền có bạc thì dễ, có sự điềm đạm và biết tôn trọng mình và những người khác mình thì khó khăn thế nào.


***


Bốn mươi năm là khoảng thời gian đủ dài để  chị nông dân đi bộ tới Sài Gòn.


Hôm nay trên đất Sài Gòn, chị đã chân vung tay quăng như trên đường làng mình vậy.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 30, 2015 05:55

April 25, 2015

Mùa xuân đầu tiên và 30.4 năm nay

Trong một bài viết trước tôi có thắc mắc cách đây 40 năm, ngày 30.4.1975 ở Hà Nội đài tiếng nói Việt Nam phát bản nhạc gì?


Họ đã phát bản nhạc gì cho dân nghe khi chiến tranh kết thúc?


Lý do thắc mắc là vì ngày Liên Xô chiến thắng phát xít, ở Moscow trên radio người ta phát bản Träumerei của nhạc sỹ người Đức tên là Schumann.


Ngày 30.4 năm nay, tôi nghĩ mọi người nên dậy sớm và mở Mùa Xuân Đầu Tiên của Văn Cao.


Nghe bằng đĩa CD, bằng file mp3, nghe từ youtube. Nghe bằng headphone, nghe bằng loa máy tính, nghe bằng dàn âm thanh mở to cho hàng xóm nghe.


Sao cũng được. Nhưng tốt nhất là nghe và lẩm nhẩm hát theo. Nhà nước kêu gọi hòa giải nhưng vẫn gọi ngày là 30.4 là …Đại Thắng. Mình là dân thì tự mình hòa giải với “mùa bình thường nay đã về” cho nó nhẹ lòng những người mẹ “nhìn đàn con nay đã về”.  


Văn Cao sáng tác bài hát này năm 1976, gần một năm sau ngày thống nhất đất nước. Bài hát giản dị về cấu trúc, giai điệu và lời. Nhưng rất lay động lòng người và phần nào đó có tính tiên tri. Sau gần 40 năm, bài hát vẫn làm người nghe day dứt.


“Từ đây người biết quê người

Từ đây người biết thương người

Từ đây người biết yêu người .”

“Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về

Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.

Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu

với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông

một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.”


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 25, 2015 05:47

April 21, 2015

Mùa mưa và ngày 30.4

Hôm rồi  tôi rủ bạn bè: Ngày 30 tháng 4 phải đi uống bia chứ nhỉ, xét cho cùng thì không có ngày này thì hội mình không có ngồi đây.


Thực ra trong nhà, vợ tôi đã nói như vậy từ hồi mới cưới. Không có 30/4 của mấy chục năm trước thì ta không gặp được nhau thế này. Dù rằng mỗi ngày tháng Tư, sáng đi chợ Tân Định, về nhà vợ tôi vẫn bảo: ngoài chợ người ta vẫn nhắc hôm nay họ đánh đến đâu, đánh đến đâu. Ở Sài Gòn, ngoài chợ, người bình dân vẫn nhớ những ngày tháng tư ấy, thay vì chào nhau buổi sáng người ta nhắc lại những ngày cuối cùng của mấy mươi năm trước.


Nhóm bạn thì tếu táo: Không có ngày này, chắc tôi sẽ là một thằng con ông cháu cha nho nhỏ, đi du học Bắc Hàn. Không có ngày này chắc em đang ở Hà Nội và hô khẩu hiệu Lê Chủ Tịch muôn năm.


Không có ngày này, chắc chúng ta đang dùng ngôn ngữ mao-ít. Chủ tịch Kim Chính Ân, thay vì Kim Jong Un.


Bạn Chính Ân có mái tóc huyền thoại hóa ra hiểu biết về quyền lực và trị quốc hơn chúng ta. Với tư duy hoàn toàn ngây thơ bạn hiểu rằng một đứa trẻ con không thể nào ôm đống đồ chơi khổng lồ của mình được. Sớm muộn sẽ tuột tay và đồ chơi rơi đi hết. Cách tốt nhất là chia cho bạn bè cùng giữ. Chia cho cùng giữ chứ không phải ban phát cho các đứa bé khác trong gia tộc của mình. Nhiều đế chế lớn tan giã chỉ vì hoàng đế cắt đất phong vương cho các gia tộc lớn .


Gần đây nhất, Chính Ân đã đề xuất cách thức biến Triều Tiên thành thể chế Liên Bang. Kim Chủ Tịch không ngớ ngẩn như trong các tranh biếm họa mà ở Việt Nam chúng ta hay share trên FB để chế giễu, chủ tịch Ân có cái gì đó sâu sắc hơn nhiều.


Sinh ra ở khi đất nước đang chia cắt, lớn lên nước vẫn chia cắt, làm chủ tịch rồi vẫn cắt chia, Kim Chính Ân thừa hiểu rằng, một miền bắc lạc hậu hơn có thể xâm chiếm miền nam có thể chế cộng hòa chính danh, chứ Nam Hàn văn minh không thể chiếm được một Bắc Hàn có thể chế cộng hòa, nhiều lực lượng chính trị chia sẻ quyền lực một cách cân bằng mong manh (mà gia đình chủ tịch Kim làm miếng quyền to nhất). Cơ chế Liên Bang mà chủ tịch Kim đang nhắm tới đang là nền cộng hòa như thế. Và sẽ không có 30 tháng 4 ngược ở Triều Tiên. Cậu bé Kim sinh năm 1984 du học ở Thụy Sỹ về, hóa ra không phải là đứa con nít.  Nếu phải lựa chọn lãnh đạo đất nước giữa hai: “hoặc là con ông cháu cha du học về, hoặc là một tay ở rừng ở núi ra, (chưa kể chả biết bố  nó là ai hehe)”, các bạn sẽ chọn ai? Con nhà tông không giống lông thì giống tóc. Hãy nhìn vào Tập Cận Bình.


Từ ngày bạn Tập Béo lên ngôi, từ chối bước ra khỏi bóng của Giang chủ tịch với tuyên bố không làm “hoàng đế nhí”, không làm “vua không quyền”, ở Việt Nam hay nghe tới hội nghị Bắc Đới Hà. Nếu đọc sách về Mao Trạch Đông sẽ thấy Bắc Đới Hà là nơi các lãnh đạo Trung Quốc choảng nhau (debate) tan nát thế nào. Cực kỳ quyết liệt. Thế mới khá được. Tiếng Tàu cũng như tiếng Tây, đại từ gọi nhau toàn mày tao. Cứ thử tưởng tượng, ở Việt Nam, đang quen kiểu bác bác chú chú, anh hai anh tư, giờ BCT và TW họp mà cứ mày-tao thẳng cánh trong tranh luận việc đại sự quốc gia, thì chất lượng debate sẽ tiến bộ còn hơn Bắc Đới Hà.


Nói đến Bắc Đới Hà, nhớ đến sách sử viết về xứ Bắc Hà.


Ngày xưa, tất tần tật các phái đoàn ngoại giao nước ngoài đến Việt Nam, đều do Chúa Trịnh tiếp. Riêng đoàn ngoại giao của Trung Hoa tới Thăng Long thì vua Lê tiếp.


Ngạc nhiên chưa, lịch sử nhấp nháy những tia sáng le lói nhiều khi rất hay như thế về hiện tại.


Chế Lan Viên có một câu thơ nhấp nháy lịch sử bí hiểm vãi chưởng: “Quanh Hồ Gươm không ai bàn chuyện Vua Lê”. Rất có thể, quanh Hồ Gươm, cái khu Kẻ Chợ danh tiếng ấy, nằm sát Phủ Doãn, là nơi quyền lực của Chúa bao phủ. Nơi ấy không ai bàn chuyện trên giời vốn chỉ khẽ xôn xao trong Hoàng Thành của vua Lê.


Người Kẻ Chợ từ cái thủa Vua Lê Chúa Trịnh ấy đã bắt đầu quen thói buôn chuyện chính trị vỉa hè. Mọi xì xào trong cung Vua, mọi biến động trong phủ Chúa, dân buôn chuyện vỉa hè hóng hết rồi bình luận hết. Ngày nay vỉa hè ấy thượng lên cả internet.


Rất may trên cyberspace không có chỗ thắp nhang.


Việc nghiêm chỉnh thắp nhang và thành kính cầu xin cái gì đó, bỏ qua mê tín, quả thực nó có ích. Những cái lúc thắp hương và thành kính xin gì đó, chính là lúc chúng ta tự nhiên biết mình thực sự đang mong muốn cái gì, tin tưởng cái gì sẽ đến với mình nếu mình làm hết tâm huyết. Biết mình thực sự muốn cái gì, mong mỏi nó đến với mình, chắc chắn lúc thực hiện công việc, sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. Vậy nên thắp nhang mỗi ngày, không phải là một điều gì đó quá ư là mê tín.


Ngày xưa vua quan cũng hay hương khói cúng trời cúng đất mong mỏi điều tốt lành đến với dân với nước. Không biết sau mấy chục năm thay việc thắp hương cho đất nước bằng việc tụng niệm Mác Lê Hồ Mao, kết quả có khấm khá hơn không. Câu trả lời có lẽ hơi bi quan một tí. Ai cũng biết thừa là niềm tin trong cái việc tụng niệm ấy gần như chả có gì.


Ngay cả bạn Tập, trong phát biểu đợt cầu đồng tồn dị vừa rồi, bạn ấy cũng không nói gì đến XHCN nữa. Tất nhiên bạn ấy cũng không nói về 30.4, một ngày kỉ niệm của Việt Nam mà người ngoài, kể cả nước Mỹ đồng minh của miền nam, cũng không bao giờ hiểu cho hết được.


Thực sự năm nào tôi cũng đợi ngày 30.4. Với tôi ngày ấy kết thúc mùa khô với những ngày nóng không thể chịu nổi kéo dài từ sau Tết Âm Lịch, để bước qua mùa mưa mát mẻ hơn nhiều.


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 21, 2015 01:32

April 13, 2015

Cầu đồng tồn dị và Mộng tưởng

Mới đây bác Trương Đình Tuyển, một kiện tướng (champion) thời kỳ hội nhập ngày xửa ngày xưa, nay đã ở bên kia sườn núi, viết một bài có tên “Kinh tế thị trường hiện đại theo định hướng XHCN là gì?”.


Đọc xong bài này, thấy câu hỏi này quả thực rất khó, vì câu trả lời của bác Tuyển rất mù mờ.


Nếu ta không hiểu, liệu một vĩ nhân cựu trào, ví dụ Marx, có hiểu không?


Giả sử Marx sống lại ở thời điểm này. Dẫn ông ấy tới Hoa Kỳ, chứng kiến những nỗ lực chính quyền Obama đang cố gắng, chắc chắn Marx sẽ bảo Hoa Kỳ là nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Thậm chí là một nước XHCN hơi khùng khùng, không chỉ lo cho dân nước mình mà còn đi lo cả cho dân nước khác.


Dẫn ông ấy tới một nước XHCN đích thực, ví dụ Bắc Hàn, rồi người hướng dẫn viên du lịch bảo với ông ấy đấy là một nước XHCN. Chắc chắn Marx sẽ bảo người hướng dẫn viên bị khùng, còn lãnh đạo Bắc Hàn là một thằng điên.


Giả sử Marx sống lại sớm hơn, thời Stalin và Mao đang phong độ, bảo với Marx rằng hai vị kia là kiện tướng của phong trào vô sản thế giới. Chắc chắn Marx sẽ nói: Xin lỗi vô sản toàn thế giới, tôi là thằng điên.


Chém phát cho vui từ bác Tuyển đến bác Mao, chỉ để thấy rằng Xã hội chủ nghĩa là một cái gì đó rất khó nói hehehehe. Tới khi nào khoa học giải thích được rành mạch cơ chế làm nên cực khoái ở con người, thì lúc đó chúng ta mới hiểu thế nào là xã hội chủ nghĩa.  


Ông Lý Quang Diệu qua đời, thiên hạ khen quá trời, nhưng có vẻ như không ai nói đến tư duy kiến-quốc của ông Lý. Mặc dù mù tịt về đảo quốc này, nhưng tranh thủ phán bừa: ông Lý tư duy khá đơn giản, xây dựng một nhà nước quốc dân (nation-state) để kiến thiết một không gian sống mà trong đó các kiểu lợi ích nhóm (cánh hẩu, bang hội, đồng hương, đồng ngành, cùng gia tộc, cùng sắc tộc, …tức là những nhóm lợi ích hình thành tự nhiên không thể nào tránh được) tha hồ liên kết ma quỷ với nhau nhưng cùng bị kiềm chế bởi tinh thần công dân. Tức là mọi người dân, dù ở nhóm lợi ích nào, hoặc không được vào nhóm lợi ích nào, cũng đặt tinh thần công dân, phụng sự nhà nước quốc dân lên trên lợi ích nhóm của mình. Nhà nước quốc dân này tất nhiên phải có một không gian sống (lãnh thổ) rõ ràng được xây dựng và tiếp nối đời đời nhờ các quyền sở hữu tài sản (property rights).  Cái này, nghe phảng phất kiến thức kinh tế vi mô, nhưng ác thay lại là lập luận của một nhà tư tưởng …Marxist hehehe người Pháp tên là Henri Lefebvre (thấy bảo viết trong The Production of Space).


Nói thì dễ làm mới khó, ông Lý hay hơn các ông khác, là ông ấy làm phát được luôn, và làm bằng một cách rất đúng theo châm ngôn của Tàu: “Cầu Đồng Tồn Dị”. Tức là tìm đến cái chung nhưng vẫn giữ được cái riêng. Quốc gia là cái chung, lợi ích nhóm (dù là giới meritocracy, giới elite nhập cư, hay dân lao động bản xứ cũng đa sắc tộc) là cái riêng. Và ông ấy làm bằng tinh thần đàn ông rất “chung” ở Châu Á: gia trưởng và áp đặt vãi chưởng. Mình ông ấy làm tổng thư ký đảng cầm quyền “Hành động nhân dân”, làm nghị sĩ và …làm luôn thủ tướng suốt mấy chục năm. Rất là buồn cười nếu nhìn theo kiểu dân chủ phương tây, là một thứ dân chủ rặt Hy La có sẵn trong máu người phương tây suốt cả nghìn năm.


Dù làm theo châm ngôn Tàu, hehe, chém phát nhưng chắc là đúng,  Ông Lý “cầu đồng” những giá trị của phương tây thay vì giá trị Tàu. (Ông này đến năm 32 tuổi mới học tiếng Tàu, trước đó nói tiếng Anh, học trường Anh).


Người tây họ có sẵn trong gene nhiều thứ, mà muốn “cầu đồng”với họ thì buộc phải có biện pháp sắt đá. Ví dụ như nhờ tôn giáo mà họ chăm chỉ lao động và lương thiện. Nhờ dân chủ mà trí thức của họ đề cao tự do học thuật. Khác với “cầu đồng” với Tàu, là cái Việt Nam làm rất giỏi mấy trăm năm qua, làm quan phát là lười nhác bụng phệ nằm võng có lính khiêng, rồi nhận quà biếu xén suốt ngày mà không thấy có vấn đề gì về đạo đức. Đi học rồi đi thi, viết cái gì phạm húy là vãi cứt ra quần, lấy đâu ra mà tự do học thuật.


Phần làm quan chắc Singapore nhờ ông Lý mà chuẩn như tây, còn phần tự do học thuật thì chắc vẫn còn cách xa một quãng.


Và bây giờ là Mộng Tưởng!


Hôm trước đã kể chuyện nghe nhạc trên đài truyền thanh. Hôm nay kể tiếp.


Hồi đó đài hay phát một bản nhạc rất quyến rũ, bất chấp chất lượng âm thanh dưới mức tầm thường của loa truyền thanh cấp huyện thị.


Bản nhạc này do một nghệ sĩ xen-lô chơi, không nhớ tên nghệ sĩ, nhưng nhớ tên nhạc sĩ là Su-Man, còn bản nhạc có tên là Mộng Tưởng.


Nhờ có internet, sau này biết nhạc sĩ ấy là Schumann, người Đức. Bản nhạc là Träumerei.


Người Liên Xô kỷ niệm chiến thắng Phát Xít Đức vào ngày 9 tháng 5. Phe đồng minh kỷ niệm sớm hơn một ngày, là ngày 8 tháng 5. Lý do đơn giản là múi giờ. Khi Đức đầu hàng thì ở Moscow đã là sáng ngày mùng 9. (Với người Nhật, kẻ thua cuộc, họ cũng kỷ niệm như ngày kết thúc chiến tranh, chung chiến kỷ niệm nhật Shūsen-kinenbi, vào ngày 2-9-1945).


Sáng mùng 8 tháng 5 năm 1945 thì chiến tranh coi như đã kết thúc. Radio ở Moscow phát một bản nhạc tưởng niệm những người đã chết trong chiến tranh. Chính là Mộng Tưởng. Quân đội xô viết cũng sử dụng bản nhạc này trong các lễ tưởng niệm. Thậm chí có tin đồn bản nhạc này được chơi ở đám ma Stalin.


Năm 1986, Horowitz lần đầu trở lại Liên Xô sau rất nhiều năm. Lúc này ông đã già lắm. Khán giả đến xem Horowitz hầu hết là lớn tuổi và chắc cũng phải là giới thượng lưu mới kiếm được vé đi xem buổi hòa nhạc vừa nghệ thuật vừa chính trị ở giai đoạn cuối của chiến tranh lạnh. Lên youtube xem Horowitz biểu diễn Mộng Tưởng ở Moscow, sẽ thấy khán giả mắt ai cũng ướt.


Có ai còn nhớ ngày 30.4.1975 ở Hà Nội đài tiếng nói Việt Nam phát bản nhạc gì? Một bài hát hào hùng ngợi ca chiến thắng?


 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on April 13, 2015 09:26

Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.