Nguyễn Phương Văn's Blog, page 16
February 11, 2016
Mùa xa xứ (Ba Mùa Yêu)
Mùa xa xứ hay Ai cũng có một chốn để quay về
(Chương Áp Mái, trích từ tiểu thuyết tí hon Ba Mùa Yêu)
Gửi cậu Sanh,
Đã ba tháng nay tôi đợi cậu về để nói chuyện. Mà cậu vẫn biệt tăm. Có người quen nói vẫn thấy cậu thi thoảng ghé vào Sở, nhưng tôi cũng không dò hỏi tiếp, sợ cậu bị liên lụy về sau.
Tôi đợi cậu về chỉ để gặp rồi nói mấy lời. Nói mấy lời thôi, bởi ánh mắt cậu nhìn tôi từ ngày anh Học bị bắt, làm tôi day dứt.
Nay anh Học chết rồi. Anh Ký cũng đã chết. Anh Trân đi đày Côn Đảo không biết khi nào trở về.
Cả ông Trường nữa, tôi nghe tin đã về Sài Gòn cũng đã chết ở Sài Gòn.
Còn tôi biết chỉ vài ngày nữa mật thám sẽ bắt tôi. Họ đã dò ra được cái bản vẽ sơ đồ làm bom mà tôi chỉ cho Ký.
Điều an ủi duy nhất với tôi lúc này, là họ sẽ không đánh tôi như đánh những người tình tình nghi khác trong Sở Cẩm Hàng Trống. Các anh đã chết cả rồi, anh Trân bị đi đày, họ không còn phải tìm thêm ai nữa.
Tôi quyết định viết cho cậu sau khi nghe tin ông Trường chết. Từ từ tôi sẽ viết để cậu hiểu rõ hơn. Nhưng tôi phải phân trần ngay với cậu vì sao tôi nhắc đến ông Trường. Ở Pháp, ông Trường là người mở mắt cho tôi về nỗi mất tự do của người dân thuộc địa. Ở Hà Nội, anh Học là người khuyến khích tôi hành động.
Tôi gặp ông Trường ở Công binh Xưởng Toulouse. Đó là năm 1916. Năm đó ông Trường vừa được Pháp cho ra tù, ông nhập ngũ và làm thông ngôn cho lính Đông Dương ở công binh xưởng. Tôi lúc này mới ra khỏi quân y viện lính Annam đặt ở trung tâm huấn luyện lính Saint Rafael gần Marseille. Khác các anh em lính thợ, tôi biết một chút tiếng Pháp, thậm chí mấy người Tây ở Hà Nội còn khen tôi nói tiếng Pháp đúng mẹo. Khi gặp ông Trường, ông ấy hỏi tôi có biết Cuốc Ngữ không, có biết Le Nôm không, Le Chinois không. Tôi bảo ông Trường là tôi đọc được cả. Ông Trường bảo, ”Anh lên giúp việc cho tôi.“ Ông Trường làm thông ngôn, nhưng hay viết đơn giúp lính Annam. Tôi hầu ông Trường việc ghi tên họ, quê quán người ta bằng chữ Cuốc Ngữ. Tên tôi cũng là do ông Trường cũng khuyên đổi. Ông bảo, ”Tên Trúc, người Tây khó gọi.“ Sau đó tôi lấy tên Trúc Tâm. Gọi là Tâm cho dễ.
Ông Trường dạy thêm tôi tiếng Pháp. Dần dần ông nói chuyện nhiều với tôi,lúc đó tôi vỡ lẽ chuyện ông mới được ra tù rồi đăng lính và chuyển đến Toulouse. Ông bị người Pháp bắt đi tù vì ông có quốc tịch Pháp, sống ở Pháp mà lo chuyện ở tận Đông Dương. Ông Trường bị bắt vì lập ra hội ái hữu La Fraternité des compatriotes10, có liên lạc mật thiết với ông hoàng Cường Để và Phan Châu Trinh. Ông Cường Để chống Pháp ở Bắc Kỳ ít người biết, nhưng trong Nam Kỳ, lúc tôi đi qua có nghe người ta nhắc tới. Sau này, quãng năm 1919, lúc tôi chuẩn bị rời Thessaloniki bên xứ Macédonie thì tôi có nghe ông Trường tham gia nhóm ký tên trong Revendications du peuple annamite11.
Hình như tôi hơi lan man. Để tôi viết lại cho có đầu đuôi, cậu theo cho dễ.
Tôi vẫn nhớ cái đêm mùa thu gió đã bắt đầu mang theo lạnh giá, tôi bắt gặp một người trẻ đang ngồi đợi cậu Sanh ở cầu thang. Cái cầu thang gỗ đẹp đẽ có tay vịn bằng đồng sáng bóng mà cậu Sanh hay nói, “Phải là thợ Tây Ban Nha qua đây mới làm được cái tay vịn thanh lịch và chắc chắn đến dường này.“ Hôm ấy tâm thần tôi hơi bấn loạn, tôi vừa làm thông ngôn cho một vụ tra khảo tình nghi làm chính trị ở Sở Liêm Phóng. Lúc tôi bước lên thang thì nhìn thấy người trẻ tuổi. Tôi giật mình còn anh ta nhìn tôi điềm tĩnh, mắt sáng quắc, ria mép hơi rung rung khi hỏi, ”Ông là hàng xóm của ông Sanh?”
Không biết ai xui khiến, tôi buột miệng nói với con người trẻ tuổi ấy, ”Ông đợi cậu Sanh có khi lâu. Tôi có ít dồi và rượu vang, mời ông ghé.”
Chắc cậu Sanh nhận ra người đó là anh Học. Anh Học không biết uống rượu, chỉ ăn dồi. Chai vang ngon tuyệt ấy, mình tôi uống hết. Anh Học không để ý đến bản sao bức tượng Nụ hôn Vĩnh cửu của Rodin mà tôi để trên bệ sưởi. Anh ấy khác cậu, cậu thứ lỗi nếu nhận xét có gì sai quấy. Anh Học chú ý đến tấm ảnh tôi chụp cùng đám lính Đông Dương và một cô gái Âu. Ảnh chụp trước cửa một căng tin có tên là Quán Giọt Cà phê của các phu nhân Ăng-lê. Trên tấm ảnh ấy cậu nhìn kỹ vẫn đọc được dòng chữ: Cantine de Dames Anglaises: La Goutte de Café.
Ngày ấy chúng tôi còn trẻ lắm, trẻ như cậu Sanh, anh Học. Tôi đang chán gia đình, thi vào đại học Đông Dương thì e không đủ sức. Lúc đó nghe Hoàng đế Duy Tân kêu gọi người Annam đi lính cho Đại Pháp: “’Vào ngày Đại Pháp ca khúc khải hoàn, những người lính tình nguyện các người sẽ được triều đình trọng thưởng.“ Rồi Phan Chu Trinh ở Pháp cũng nói: ’Tôi muốn thấy người Việt Nam đổ máu cùng những người Pháp và xả thân bên những người dân chính quốc để sau này họ sẽ nhiệt tâm giúp đỡ người dân Đông Dương.’ Ngoài đường người ta treo các affiche in màu vàng rất đẹp, mộ lính đi đánh nhau với quân Đức ở châu Âu. Vào lính, nhà nước bảo hộ trả cho gia đình ba đồng một tháng, người lính nhận lương theo tuần, mỗi ngày được khoảng ba hào. Nhà tôi không thiếu tiền, nhưng châu Âu là chỗ tôi muốn đến để mở mang tầm mắt. Tôi đến Tòa Đốc lý Hà Nội đăng lính.
Tôi nhớ cái ngày tôi khám lính xong, người ta đưa tôi “cai ao“. Tôi mặc ngay cái áo, không cài khuy, khoe ra dấu hiệu được đăng lính vẽ bằng mực nhũ trên ngực, rồi cứ thế đi bộ về quán La Baionnette quen thuộc của tôi và cậu. Lúc bấy giờ quán mới khai trương được một quãng thời gian. Lão Céleste quen thân tôi từ ngày tôi làm cho báo Indochinoise. Những năm ấy Céleste chưa mập nhưng ham tán chuyện không kém bây giờ là mấy. Céleste làm lính pháo thủ đóng trong thành từ rất lâu rồi. Mỗi Chúa nhật anh lính pháo thủ Céleste cùng bạn bè được xả trại. Thời đó nhà nước chưa làm xong đường xe trạm nối từ Thành vào khu Nhượng Địa, các chàng pháo thủ cưỡi mấy con la gầy trơ xương lọc cọc đi từ cổng Thành trên đường Carnot, qua khu phố ta, để đến Paul Bert. Nơi góc phố Paul Bert và Henri Riviere có quán giải khát Coq d’Or rất được dân Tây ưa thích. Céleste ngồi đấy suốt các cuối tuần để tìm cách làm quen các cô đầm trẻ. Suzanne là một cô đầm hay ghé quán mỗi chiều chủ nhật, Céleste xiêu lòng và ở lại Bắc Kỳ vì cô. Mẹ Suzanne là chủ một ổ gái Pháp được đám sĩ quan trẻ rất ưa chuộng ở Chanceaulme phía gần ngã tư với đường Wiellé, nên Suzanne tiêu tiền như nước. Céleste bắt đầu tìm cách kiếm thêm. Anh lấy lũ la kéo pháo ra khỏi thành mỗi cuối tuần để vận tải thuê cho tờ Revue Indochinoise. Ba bốn con la chở các túi báo lặc lè trên lưng đi từ xưởng in của Francois Schneider trên Hồ Tây, về tòa soạn ở đối diện Hanoi Hôtel trên Paul Bert. Suzanne cũng bỏ rơi Céleste chỉ sau một mùa hè để chạy theo một tay sĩ quan già. Còn Céleste thất tình gái lai mà phải lòng Hà Nội. Céleste ở lại và mở quán Lưỡi Lê.
Bọn tôi lên tàu từ Sáu Kho ở Hải Phòng, vào Sài Gòn nhận thêm người rồi đi tiếp. Lính đông hơn cả là dân Trung Kỳ, bọn Nam Kỳ ít nhất. Nhà nước bảo hộ tuyển người rất kỹ, chúng tôi ai cũng cao bằng nhau, vai rộng như nhau. Sau ba tháng ở trại huấn luyện Thủ Đức, đám lính Annam do cảnh binh kèm cặp nhìn đã ra dáng lắm. Ngày lên tàu, nhìn từng tốp lính đầu đội nón lá, tay cầm quạt, đeo tay nải leo cầu thang gỗ chênh vênh lên tàu cứ đều tăm tắp, sướng mắt lắm cậu Sanh ạ.
Tàu trên biển rất lâu. Ròng rã mấy tháng. Tôi nghe nói đi vòng qua Djibouti đón lính Phi rồi mới đến Marseille. Lính Annam chết nhiều vì lị và thương hàn. Lúc qua Biển Đỏ, trời nắng mấy ngày, nhiều người chết hơn mấy tuần trước. Chúng tôi được dặn giữ nề nếp. Có ai chết ngay trước mắt thì mình vẫn phải cứng lòng. Tôi nhớ có đám lính từ Nga Sơn, khoảng hơn chục anh chàng, cứ nghêu ngao hát La Marseillaise mà họ tự đặt lời local: “Hỡi đám trai tráng Annam dũng cảm, đây là cơ hội lập công, hãy nắm lấy bằng cách tuốt gươm giết bầy lang sói.”
Đến Marseille, bọn tôi được chỉ huy Pháp cho đổi quân phục. Nón lá họ phủ thêm lớp vải họ gọi là khaki. Họ phát cho chúng tôi đôi ghệt cao cổ. Tướng Claudel hạ lệnh phát cho chúng tôi “cai quan“ nữa. Cái quần là quần như lính Pháp nhưng không có cúc, lại có dây giải rút. Tướng Claudel còn chỉ dẫn đầu bếp nấu cơm kiểu Annam, quân đội mở cả xưởng nước mắm để phục vụ lính Đông Dương. Họ làm như thế chắc để an lòng đám lính thuộc địa châu Á.
Tôi ở Marseille chẳng bao lâu, nên mỗi cuối tuần được ra phố tôi đều cố đi thăm thú. Cửa hiệu của họ rất to, to hơn của hàng Godard ở nhà mình. Người Pháp lịch sự, họ không sợ mấy thầy Cẩm như ở ta. Tôi cứ ngạc nhiên mãi.
Tôi đi biển cả chuyến đi dài không mệt mỏi gì, mà đến trại tập lính Saint Raphael thì tôi ngã bệnh. Đó là những ngày nhớ lại vẫn thấy còn êm ái. Các quý cô người Anh làm khán hộ trong quân y viện lính Annam dịu dàng nhân ái lắm. Có cô Brett rất tử tế với tôi. Người phụ nữ đầu tiên tôi nắm tay trong đời là cô Brett. Tôi nhớ mãi buổi sáng thứ Bảy hôm ấy. Lúc đó trời cuối đông nhưng ấm áp, tôi bỏ lại trong quân y viện cái áo khữ lanh chống rét mà quân đội cấp, mặc cái áo trần bông không cổ mang đi từ quê nhà, mặc cùng với ’cai quan‘. Cô Brett khen tôi gọn gàng hiền lành. Cô bảo tôi đừng rụt rè như phụ nữ. Rồi cô dắt tôi ra căng tin của các quý cô Ăng-lê. Cô phục vụ rời bàn sau khi đặt lên bàn cho chúng tôi hai cốc cà phê và lọ sữa. Rồi cô Brett cứ cầm cái vỏ bao diêm mà xé. Thế rồi tôi với tay qua bàn cầm lấy tay cô ấy.
Rời Saint Raphael, tôi được chuyển đến công binh xưởng Toulouse. Tôi vốn khéo tay nên được phân vào nhóm thợ mộc. Các lều trại cho công binh là do nhóm tôi dựng. Nhưng làm mãi cũng hết việc, mà tôi cũng muốn đi nơi khác để thăm thú. Thế là tôi xin đi công xưởng làm đạn pháo ở Le Havre. Lính thợ Annam xếp hàng ở ga rồi lên tàu hỏa. Tàu hỏa bên đó sang lắm. Mỗi voiture có mấy cửa ăn thẳng vào các buồng riêng. Ngồi chưa ấm chỗ thì viên đội người Pháp gọi tôi xuống. Đơn xin đi Havre của tôi bị bác vào phút chót. Do biết tiếng Pháp, tôi phải điều chuyển qua tiểu đoàn Annam làm việc cho Hồng Thập Tự ở Macédonie.
Thế là từ tháng Năm năm 1916, tôi có mặt ở Thesaloniki vùng Macédonie, cũng là lúc tôi chính thức bước chân vào đại chiến thế giới. Các tiểu đoàn lính Đông Dương được biên chế vào L’Armée française của tướng Louis Franchet d’Espere. Lính Annam sát vai chiến đấu cùng lính Anh, lính Nga, lính Ý và Hy Lạp. Kẻ thù của chúng tôi ở mặt trận Macédonie là lính Bulgarie, đồng minh của quân Đức.
Tháng Năm năm 1916, gần một ngàn thanh niên Annam đội nón phủ vải khaki hành quân bộ vào Thesaloniki. Chúng tôi đi hàng hai, chân đi giày cao cổ, nhịp bước đều trên những con phố nhỏ lát đá, nhà hai bên san sát, mái lợp ngói đá xanh rất thanh bình. Đó là mùa hè xa xứ đầu tiên của tôi, một gã trẻ tràn đầy hạnh phúc với tình yêu của cô gái Anh Quốc và ham muốn tìm hiểu thế giới mới mẻ xung quanh. Đó cũng là lần hành quân cuối cùng chúng tôi đội nón. Ở Macédonie người ta thu hết nón và quạt giấy, rồi họ phát cho chúng tôi mũ beret.
Những người lính Annam nhờ tôi viết thư về nhà thường kể: “Ở đây chúng con chơi trò chiến tranh với những quả bóng biết bay to đùng ở trên đầu.“ Tôi thường phải giải thích cho họ đấy là những quả bóng thám không có người điều khiển. Ngay cả tôi cũng tò mò về những chiếc máy bay. Tháng Bảy năm ấy, ở ngoại ô Thesaloniki, người ta làm lễ rửa tội cho những chuyến bay quân sự đầu tiên của tướng Sarrail, tôi được chọn làm người phụ lễ. Đấy là lần đầu tiên tôi đến gần một chiếc tàu bay.
Cũng năm đó, tập đoàn quân Phương Đông của tướng d’Espere không tham chiến nhiều. Hồng Thập Tự chúng tôi nhàn hạ với việc chăm sóc người tị nạn Serbie nên họ gọi chúng tôi đến sân bay để làm lính thợ.
Ở sân bay ngoại ô, tôi bắt đầu học thêm nghề điện và cơ khí, một nghề giúp tôi rất nhiều vì mấy tháng sau tôi được giao vào đơn vị chế tạo mìn và gài mìn xung quanh cứ điểm Topsin ở phía bắc Thessaloniki. Khi chúng tôi nhận nhiệm vụ Topsin thì đã vào tháng Giêng năm 1917. Tiết trời ban đêm rất lạnh, tôi vẫn nhớ mình phải bò thử trên nền đất cứng để thăm dò khả năng kẻ thù chạm vào kíp mìn.
Đến đây chắc cậu Sanh cũng đoán ra phần nào câu chuyện anh Học nói với tôi.
Từ tháng Bảy năm 1917 đến tháng Mười năm 1918, để thay thế một tiểu đoàn Hy Lạp, một tiểu đoàn Pháp, trong đó có trung đoàn Bắc Kỳ số 2, bắt đầu tham chiến ở hồ Malik, rồi Okrida và cuối cùng là tiến quân vào vùng Selce. Ở đây lính Annam đánh nhau với quân Áo. Thương binh rất nhiều nên tôi được điều trở về Hồng Thập Tự. Quân Ý đến hỗ trợ chúng tôi nhưng cuối cùng tất cả vẫn phải rút lui về Mecan và cố thủ ở đó. Tôi được chuyển đến đơn vị vẽ sơ đồ gài mìn và kiểm tra trận địa mìn trước khi rút quân.
Tôi vẫn nhớ như in đêm cuối cùng trước khi rời Selce về Mecan. Nằm trong lều bạt trên nền đất lạnh tôi không ngủ được. Đơn vị pháo đang rút quân, tiếng các con la kéo xe pháo phì phò thở lẫn trong tiếng bánh xe lọc cọc trên đường đá. Tiếng pháo đêm nổ phía bên kia sườn đồi, quân Áo bắn vào các hào lũy không còn lính Pháp. Trong tiếng ầm ì của đêm chiến tranh ấy, tôi nằm thao thức trên đất lạnh, nghĩ đến Brett và cơ thể của cô. Trong cái đêm tuyệt diệu ấy, Brett khoe cơ thể đẹp đẽ trần trụi của mình, nằm sấp trên giường trải ga màu trắng. Hơi ngước mắt nhìn tôi mơ màng nhắc đến hồi cô được làm người mẫu cho một họa sỹ tên là Schiele lúc Hồng Thập Tự gửi cô sang chăm sóc cho tù binh Nga ở Muhling. Ký ức ấy khiến tôi, lần đầu tiên, sợ hãi cái chết. Cái chết chậm chạp nhưng ồn ào đang bò sát đến chỗ tôi nằm. Càng sợ chết tôi càng nhớ Brett. Quấn mình trong áo khữ lanh bằng dạ, tôi như nghe thấy hơi thở dồn dập của cô ở bên tai. Cô Brett nhỏ nhắn và xinh đẹp, đến viên bác sỹ chỉ huy quân y viện gặp cô còn ấp úng không nói lên lời. Cô gái Ăng-lê thanh nhã mà người ta xì xầm vốn là một phu nhân bỏ Luân Đôn tình nguyện làm y tác và bước vào cuộc chiến tranh như đi dự một phiên chợ phù hoa.
Đến tháng Hai năm 1919, tôi bị thương và được đưa trở về Quân y viện Annam ở Saint Raphael. Brett đã rời đi trước đó hai tháng, cùng một sĩ quan bảnh trai có họ là Foucault. Tháng Sáu năm đó, lúc nằm viện, tôi được đọc Revendications du peuple annamite của Nguyễn Ái Quốc. Sau này tôi mới biết ông Trường có tham gia ký thỉnh nguyện thư.
Nằm trong quân y viện tôi chỉ nghĩ đến Brett. Mới chỉ hai năm mà như đã xa xôi lắm. Ngay lúc này đây, khi viết lá thư này, kỷ niệm vẫn gợi nên nỗi bồi hồi trong lòng tôi. Brett dẫn tôi đi xem phim, rồi lần đầu tiên tôi biết cảm xúc của việc trai gái đặt lên môi nụ hôn. Khoảnh khắc ấy với tôi là vĩnh cửu. Tôi vẫn nhớ gương mặt cô trong cái đêm trước khi tôi chuyển đi Toulouse. Gối đầu lên đùi tôi, gương mặt cô nhẹ nhõm hiện lên trong ánh diêm cô châm thuốc lá. Thổi nhẹ cho diêm tắt, bóng tối mát lạnh khẽ trùm lên hai cơ thể ấm áp đang rã rời một cách dịu dàng vì yêu đương, cô nói, “Hai chúng ta đang có những mùa lưu lạc xa quê hương, nhưng vì thế mà hai chúng ta ai cũng có một chốn để quay về.”
Tôi đã quay về, với Brett trong tim. Tôi cứ sống đơn độc ở Hà Nội với bức ảnh chụp cùng Brett và bản sao bức tượng của Rodin.
Về Hà Nội một thời gian tôi nghe tin ông Trường bỏ Pháp về Sài Gòn, mở báo La Cloche Fêlée12 cùng với ông Ninh. Ở Hà Nội mua báo ấy khó lắm. Tôi nhớ quãng tháng Hai năm 1928 thì báo bị đình bản, ông Ninh đi Côn Lôn còn ông Trường bị đưa về Pháp rồi bỏ vào nhà lao bên đấy. Trước đó mấy tháng tôi gặp ông Học ở cầu thang.
Thế rồi buổi chiều hôm ấy, rượu vang và những gì anh Học nói đã hun đúc thêm trong lòng tôi những lời dạy của ông Trường. Rồi những giản đồ làm mìn và trái phá cứ hiện dần lên trong óc tôi. Có cái gì đó thôi thúc tôi vẽ chúng ra giấy: sơ đồ chế tạo mìn và bản đồ các trạm hiến binh ở Hà Nội.
Người ta đã tìm thấy những bản vẽ ấy ở chỗ anh Ký. Cách đây mấy hôm tôi đã thấy nó trên bàn ông chánh Sở Mật thám Bắc Kỳ. Họ sẽ sớm tìm ra người vẽ những bản đồ này.
Cậu Sanh ạ, tôi tin cậu vẫn còn sống. Ánh mắt nghi ngờ của cậu nhìn tôi từ ban công mỗi rạng sáng, khi tôi trở về nhà, vẫn ám ảnh tôi. Anh Học chết rồi, Ký cũng chết, ông Trường cũng đã chết. Anh Học, Ký đều chết dưới lưỡi dao máy chém mà nước Đại Pháp sáng chế ra. Điều đó làm lòng tôi đau xót. Rồi sắp tới đây thôi, Hội đồng Đề hình cũng sẽ kết tội tôi án chém.
Tôi viết cho cậu chỉ để cầu mong rằng: Trước khi giã từ thế gian đẹp đẽ này, tôi không còn bị ám ảnh bởi ánh mắt nghi ngờ của cậu nữa. Với riêng tôi, cuộc đời tươi đẹp này là một lý do tốt để sống, cũng là một lý do tốt để chết.
Tôi tin là cậu Sanh chưa chết. Lúc này đây, chắc cậu Sanh đang có mùa lưu lạc của riêng mình. Lưu lạc rồi mới thấu hiểu tự do. Lưu lạc rồi mới thấy ai cũng có một chốn để quay về.
—-
10 Hội đồng bào thân ái
11 Thỉnh nguyện thư của dân tộc Annam.
12 Tờ Chuông Rè.


February 2, 2016
Unconditional love (Esperanza Spalding)
January 25, 2016
Tập trung dân chủ, xác suất, và phạm vi điều chỉnh
Tập trung dân chủ là một phương pháp để áp dụng ý chí (và mong muốn) của thiểu số lên đa số. Xin nhắc lại, mặc dù có chữ “dân chủ” nhưng “tập trung dân chủ” là một phương pháp, một công cụ chính trị, do Lê-Nin nghĩ ra, hoàn toàn không liên quan gì đến thể chế dân chủ như một vài người nhầm tưởng.
Dân chủ trong cụm từ này khác hẳn dân chủ như chúng ta thường hiểu, ví dụ nền dân chủ Hoa Kỳ.
Nói cách khác, “tập trung dân chủ” là cách diễn đạt mỹ miều của việc áp đặt ý chí thiểu số lên số đông: thiểu số phục tùng đa số, cấp ủy cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng cấp ủy cấp trên. Cấp ủy cấp cao nhất được toàn bộ Đảng viên (giữa hai kỳ Đại hội) phục tùng tuyệt đối.
Ai học xác suất đều hiểu công cụ này. Dưới đây là một minh họa.
Chi bộ đảng có 11 người, muốn làm gì (ra quyết định) cũng phải qua biểu quyết. Phương án nào được vote nhiều hơn sẽ được lựa chọn. Giả sử có 2 phương án A và B. Nếu A được người 6 vote, thì 5 người kia dù có muốn chọn B cũng sẽ buộc phải chọn A.
Sau đó chi bộ thấy 11 người thì lắm ý kiến quá, lập ra Đảng ủy. Đảng ủy chỉ có 3 đảng viên đại diện luôn cho 11 người. Quyết định của Đảng ủy 3 người này sẽ được cả chi bộ 11 người tuân theo. Với mỗi quyết định của Đảng ủy, lúc này chỉ cần 2 người vote, sẽ được thực hiện.
Ai học toán xác suất căn bản sẽ hiểu ngay ý nghĩa của việc này.
Còn nếu không biết xác suất, có thể nhẩm tính như sau: với vai trò của Đảng ủy, một quyết định dù chỉ được 2 cá nhân đồng ý biểu quyết và 9 người còn lại không đồng ý, vẫn sẽ được thông qua, sau đó tất cả sẽ phải nghiêm túc chấp hành. (Nhấn mạnh, nếu không có Đảng ủy, thì phải cần tới 6 người vote, và chỉ có 5 người miễn cưỡng tuân thủ).
Đây chính là cốt lõi của của phương pháp tập trung dân chủ. Tuyên giáo hay loa phường (verb) một cách bóp méo là phát huy tinh thần tập trung dân chủ. Một công cụ chính trị dùng để áp đặt, được nâng cấp lên thành “tinh thần” và đảng viên phải biết phát huy nó (đeo tròng vào cổ). Phát-huy cũng là do Mao mà ra. Phát huy là hiện tượng vật lý, một vật (chất) phát sáng khi bị sóng kích thích.
Công cụ tập trung dân chủ trong Đại hội lần này được khoác một cái áo mới: Dân chủ Xã hội chủ nghĩa; suốt mấy hôm nay được các cán bộ tuyên giáo cao cấp của Đảng spam trên media chính thống.
Đảng ủy trong ví dụ trên chính là “cấp ủy” đã được giải thích trong bài trước.
*
Quay lại với sức nóng của Đại hội.
Điều lệ Đảng là Luật tối cao trong Đảng (Hiến Pháp), tất cả các đảng viên phải tuân thủ. Trong đó Đại hội toàn quốc của Đảng (National Congress) có quyền lực tối cao.
Điều lệ quy định giữa hai kỳ Đại hội, cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng là Ban chấp hành trung ương. Đây cũng là cấp ủy cao nhất của Đảng giữa hai kỳ Đại hội. Nhấn mạnh là giữa hai kỳ Đại hội.
Các luật dưới Hiến pháp của Đảng, ví dụ Quy chế bầu cử (Quyết định 244), dùng để điều chỉnh hành vi của các tập con nhỏ hơn trong Đảng. Với 244, nó điều chỉnh hành vi của tất cả các cấp ủy từ bé nhất lên cao nhất. Cấp cao nhất trong trường hợp mà dư luận đang quan tâm, chính là Cấp ủy triệu tập đại hội, và cũng là cấp ủy cao nhất giữa hai kỳ đại hội, tức là Ban chấp hành TW hiện hành (Ban chấp hành TW11).
Nhưng ngày mai, ngày 26, quy định 244 vẫn còn hiệu lực, nhưng đối tượng mà nó điều chỉnh hành vi, tức các cấp ủy viên (ở đây là các trung ương ủy viên) đột nhiên biến mất để chuẩn bị đón chào sự ra đời của một cấp ủy mới, tức ban chấp hành trung ương khóa mới.
Trong lúc đó, hiến pháp của Đảng, tức Điều lệ Đảng vẫn tồn tại và mọi đảng viên đang có mặt trong Đại hội Đảng vẫn phải tuân theo.
Điều này cực kỳ thú vị.
Giống như một khe hở thời gian mà ở đó tất cả các cấp ủy viên (trung ương ủy viên) và các đại biểu dự đại hội có đột nhiên có quyền như nhau trong tiểu khí quyển tự do dân chủ (trong nội bộ Đảng) gần như tuyệt đối.
Goodbye Lenin!


January 14, 2016
Tiếng Việt của Đảng: Điều lệ và Quy chế
Ngôn ngữ của Đảng khác với ngôn ngữ ngoài đời khá nhiều. Đảng và đời bản chất khác nhau, nên điều này không có gì lạ. Nhiều thuật ngữ Đảng dùng có gốc gác từ Đảng của bác Mao. Cách dùng từ: tuyên-giáo (tuyên truyền giáo dục), lập trường, đả thông, quán triệt đều có gốc rễ từ Đảng bác Mao, và do đó nó xa lạ với tiếng Việt hiện đại cũng là điều dễ hiểu.
Có hiểu biết một chút về thuật ngữ của Đảng là cần thiết. Bởi dù ta có thờ ơ thế nào, thì chính trị nó cũng ít nhiều dính vào cuộc sống của ta. Vả lại, quan tâm đến chính trị cũng thú vị (như xem cúp C1 vậy). Bác Phạm Xuân Ẩn bảo: “Tôi thích chính trị, nhưng không thích các chính trị gia”.Bác Aristotle cũng bảo: “Con người là con vật chính trị”.
Bài này viết tạm, đưa lên blog cho vui đã, có thể nhiều chỗ sai vì người viết ở ngoài Đảng, cuối tuần sẽ hoàn thiện.
Bắt đầu từ từ “văn kiện”. Nghĩa của nó đại khái là một bộ tài liệu, nhưng với ngôn ngữ của Đảng nó trở nên quan trọng và bí hiểm. Soạn thảo hay chuẩn bị văn kiện Đại hội nghe rất oai, nhưng dịch ra tiếng Anh ta sẽ thấy bình dị đáng yêu: documentation.
Trong các văn kiện, quan trọng nhất là Điều lệ và Quy chế. Văn kiện Đảng có tác động lớn nhất (sau 1975) là văn kiện do Trường Chinh soạn, dẫn đến Đổi Mới Lần Một ( gọi là Đổi Mới chứ thực ra là undo những cái sai lòi, thôi hẳn trò sáng tạo ra cái bánh xe, quay về dùng bánh xe mà cả thế giới vẫn dùng). Hiện đang có kỳ vọng Đổi Mới Lần Hai. Nếu có cái Lần Hai, người tạo ra Lần Hai sẽ đi luôn vào lịch sử.
Hồi Đại Hội 10, trước Đại hội, ông Kiệt viết thư cho Bộ chính trị đề nghị trả lại quyền lực cho Đại hội và Ban chấp hành trung ương .
Nghĩa của từ “Đại hội” thì dễ rồi, đại khái giống như Đại (nhạc) hội, nơi nhiều ngôi sao lớn và khán giả quy tụ với nhau. Chỉ khác ở đây tất cả những người đi dự đều là đai biểu của Đảng. Đại trong Đại hôi nghĩa là to lớn. Còn đại trong đại biểu có nghĩa là đại diện (rất tiếc, không phải là đại diện cho nhân dân).Chữ Đại trong Đại-số (toán) cũng có nghĩa là đại diện.
Ban chấp hành, chữ chấp hành ở đây có nghĩa là thực hiện , tiếng Anh là executive (executive body: cơ quan hành pháp). Tuy nhiên, so với chữ executive/thực hiện, thì sắc thái của chữ chấp hành hơi đậm màu thụ động.
Quyền lực ở đây chính là quyền thực hiện (executive power), bao gồm cả quyền ra quyết định: đề xuất và bỏ phiếu. Đề xuất nếu liên quan đến nhân sự, gọi là giới thiệu, đề cử.
Ý ông Kiệt (nếu đúng là ông ấy có ý như trên) có thể tạm hiểu: đây chính là dân chủ trong Đảng (không phải dân chủ cho toàn xã hội, aka ngoài Đảng).
Ví dụ về nhân sự.
Đảng luôn cho rằng bồi dưỡng, đào tạo, quy hoạch cán bộ là phải xuất phát từ dưới đi lên. Vừa là rèn luyện cán bộ, vừa là theo dõi quá trình phấn đấu của họ, vừa là đảm bảo dân chủ công bằng (trong nội bộ Đảng, không phải dân chủ công bằng cho nhân dân cần lao).
Dân chủ từ cấp cơ-sở đổ lên trên (bottom-up) là rất quan trọng. Thứ nhất nó phù hợp với tập quán của xã hội VN (dân chủ ở cấp thôn xã, có thể tham khảo sách của Đào Duy Anh, Ngô Đình Nhu, đều phân tích chuyện này). Đảng CS cực mạnh ở VN trong thời chống Pháp và trong chiến tranh sau này, là do mạng lưới cơ-sở rất mạnh. Cơ-sở là từ vay mượn của Tàu, tiếng Anh là grassroot. Cơ-quan (hành chính, đảng, nhà nước) cũng vay của bác Mao, tiếng Anh là organ (bộ phận của cơ thể). Các lãnh đạo tốt nhất của ĐCS đều đi lên từ cơ quan Đảng ở cấp cơ sở (ví dụ như huyện ủy): Hoàng Văn Thụ, Võ Văn Kiệt…
Trong Đảng tất nhiên có “Hệ Thống Luật” của Đảng. Luật cao nhất (có thể gọi là Hiến pháp/By-laws của Đảng) gọi là Điều Lệ Đảng. Phiên bản mới nhất (2011) do Đại hội khóa trước (Khóa 11) thông qua. Xem ở đây: http://www.xaydungdang.org.vn/Home/vankientulieu/Van-kien-Dang-Nha-nuoc/2011/3346/DIEU-LE-DANG-CONG-SAN-VIET-NAM-khoa-XI.aspx
Dưới Điều lệ Đảng (tức là dưới hiến pháp của Đảng) là Quy chế (của Ban chấp hành TW đương nhiệm) và tiếp đó là Nghị quyết (của Hội nghị TW của Ban chấp hành TW đương nhiệm). Hội nghị ban chấp hành tw, tiếng Anh là Plenum, nghĩa là phiên họp toàn thể. Quy chế ở đây có thể là Rule (luật chơi), còn Nghị quyết thì đơn giản là Resolution.
Về Đại hội Đảng: xem Điều 11, 12,13 của Điều Lệ Đảng trong đường link phía trên.
Về Quy chế Bầu cử: So sánh hai quy chế gần đây nhất:
Môt là Quy chế bầu cử trong Đảng theo Quyết định số 220-QD/TW bàn hành ngày 14 tháng 4 năm 2009 (http://nguyenthaibinh.phuyen.edu.vn/index.php/component/k2/item/539-quy-che-bau-cu)
Hai là Quy chế bầu cử: Quyết định số 244-QĐ/TW ngày 9/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng: http://moj.gov.vn/daihoidaibieu/Pages/van-ban-cua-dang-uy-khoi.aspx?ItemID=8.
Từ khóa: Cấp ủy (tiếng Anh: Executive committee), có nhiều cấp, từ huyện lên đến trung ương. Cấp ủy cao nhất trong Đảng chính là Ban chấp hành TW. Trong câu chuyện chính trường mà xã hội đang quan tâm hiện nay, chính là Ban Chấp hành TW hiện tại.
Nội dung được nhân dân cần lao ngoài Đảng, bao gồm cả nhân dân cần lao quốc tế có gốc Việt aka Việt Kiều, đang quan tâm: Điều 13, của Quyết Định 244.
Về Đai hội, ở khía cạnh nhân sự, Đại hội (nghe nói có tới 1500 đại biểu đến dự) sẽ bầu ra các ủy viên tw khóa mới (Ban chấp hành mới). Ban chấp hành mới sẽ bầu ra ban bí thư, bct và các chức vụ quan trọng (quy trình này thuận với quan điểm dân chủ bottom-up của Đảng như đã nói ở trên). Tuy nhiên hiện dư luận quan tâm không phải là quy trình bầu bán ở Đại hội, mà là danh sách đề cử để đại hội bầu. Đề cử cho các vị trí quan trọng thì ngôn ngữ của Đảng gọi là giới thiệu các chức danh.
Từ vựng trong Danh sách giới thiệu. Theo điều 13 quy chế 244 thì “cấp ủy viên” (nghĩa là ủy viên trung ương) đi dự đại hội (Đảng dùng từ “cấp triệu tập đại hội” rất bí hiểm) không được tự ứng cử và đề cử người khác nếu người này không có trong danh sách đề cử của cấp ủy (không có trong danh sách ban chấp hành trung ương đương nhiệm giới thiệu ra đại hội để 1500 người bỏ phiếu).
Tuy nhiên, theo điều lệ Đảng, đại biểu đi dự đại hội vẫn có quyền đề cử.
Lý do, ngoài việc phải tuân thủ quan điểm của Đảng về dân chủ trong Đảng, thì Đại hội bầu ra BCH mới không có lí gì (không logic) khi lại đi bầu theo đề cử của khóa cũ. Như ở công ty, khi đã thay HĐQT, HĐQT mới không có lý gì đi bổ nhiệm Board mới mà toàn người do HĐQT cũ đề xuất.
Ví dụ sau đây hơi khập khiễng, nhưng phần nào làm rõ ý trên: HĐQT cũ được biết với tên BCH TW11. HĐQT mới được biết với tên BCH TW12.
TW11 có 175 chính thức là 25 dự khuyết (dự khuyết không có quyền vote). TW12 dự kiến đông hơn (290?) bao gồm cả dự khuyết.
Đọc đến đây, nếu ai quan tâm tiếp, có thể hỏi giáo sư Gúc về lá thư của đại tướng về hưu.


January 8, 2016
Sách: Các thế giới song song
Bài điểm sách này viết cho TTCT và cũng để hâm nóng lại link Ba Mùa Yêu.
Interstellar của đạo diễn Christopher Nolan là một bộ phim rất thành công năm 2014. Phim kể về một người cha chia tay đứa con gái bé nhỏ của mình rồi dùng tàu vũ trụ đi xuyên qua lỗ sâu đục (hay còn gọi là lỗ giun) để đi vào tương lai và tìm cách cứu nhân loại. Bị mắc kẹt ở tương lai, ông tìm mọi cách để gửi thông điệp về cho con gái của mình. Cuối cùng, ông đã thành công nhờ sử dụng sóng hấp dẫn. Một bộ phim khoa học giả tưởng nói về tình cha con nhưng lại rất lý thú với các ý tưởng vật lý cao siêu và kỳ lạ vốn khá khó hiểu với đại chúng.
Sau khi xem phim, giáo sư vật lý Đàm Thanh Sơn có viết trên blog của mình, rằng cố vấn khoa học của bộ phim là giáo sư vật lý Kip Thorne của Caltech, đồng thời đưa ra bốn bài báo khoa học và khuyến khích mọi người đọc để hiểu thêm các ý tưởng vật lý vũ trụ trong Interstellar.
Với hầu hết bạn đọc bình thường, việc đọc các bài báo khoa học kiểu này sẽ hơi mệt, mất thời gian, và có thể còn rất chán. Thay vào đó, các bạn có thể tìm đọc một cuốn sách hấp dẫn hơn đã được dịch sang tiếng Việt: Các thế giới song song (Parallel Worlds) của nhà vật lý Michio Kaku.
Trong Các thế giới song song, các tên tuổi vật lý mà giáo sư Sơn nhắc đến trong bài viết của mình như Thorne, Misner, Wheeler sẽ xuất hiện cùng với hầu hết các nhà vật lý vĩ đại khác từ Newton đến Einstein. Cùng với các tên tuổi ấy là các ý tưởng khoa học của họ, được diễn giải một cách ngắn gọn, mạch lạc và tương đối dễ hiểu.
Bởi Các thế giới song song là một cuốn sách rất đặc biệt: một cuốn sách dành cho bạn đọc đại chúng, viết về lịch sử ngành vũ trụ học cùng hai trụ cột của nó là thuyết tương đối và vật lý lượng tử.
Trong những trang đầu tiên của cuốn sách, tác giả và cũng là nhà vật lý vũ trụ Michio Kaku đã dẫn dắt độc giả tiếp cận ngành vật lý vũ trụ bằng hai quan niệm tôn giáo đối nghịch nhau về bản chất của vũ trụ. Một vũ trụ của Ki-tô giáo, có điểm bắt đầu (Sáng Thế). Một vũ trụ Niết-Bàn của Phật Giáo, không có bắt đầu và không có kết thúc. Rồi cũng rất ngắn gọn, ngay trong chương đầu tiên của cuốn sách, tác giả đưa cho bạn đọc một giải pháp bớt bối rối hơn: ngày càng có nhiều chứng cứ để củng cố cho lý thuyết về sự tồn tại của đa vũ trụ: liên tục có những vụ trụ mới “nảy mầm” ra từ những vũ trụ khác, giống như liên tục có Sáng thế trong một Niết bàn vô tận. Một ý tưởng vật lý rất khác với trực quan của một người bình thường, nó bí ẩn và …hấp dẫn. Như nội dung của bộ phim Interstellar vậy.
Trong mười một chương tiếp theo, nhà vật lý Michio Kaku nhẩn nha kể cho bạn đọc gần như tất cả các nhà vật lý và các phát minh liên quan đến sự hình thành ngành vũ trụ học (là ngành nghiên cứu vũ trụ như một tổng thể, về sự ra đời, trưởng thành và có thể cả ngày qua đời của nó). Có những tên tuổi chỉ xuất hiện một lần, có những tên tuổi, như Einstein, được nhắc đến nhiều lần. Không chỉ nhắc đến những ý tưởng vật lý về sau này được kiểm nghiệm là đúng, tác giả còn nhắc đến những ý tưởng sai lầm. Qua đây, bạn đọc sẽ thấy, một ý tưởng sai lầm trong khoa học, nhất là sai lầm của thiên tài Einstein, vẫn có ích cho sự phát triển của khoa học như thế nào.
Với giọng văn thư thái, đôi lúc dí dỏm, Michio Kaku diễn đạt một cách ngắn gọn và trong sáng các ý tưởng vật lý, kể cả điên rồ hoặc phức tạp nhất. Điều này khiến bạn đọc, đôi lúc bắt đầu cảm thấy khó hiểu và muốn “để rơi” nhịp đọc, hay thậm chí bỏ cuộc, lại tiếp tục cầm sách lên rồi đọc tiếp. Có lẽ lường trước được việc độc giả dù bị vũ trụ mê hoặc vẫn có thể bỏ dở một cuốn sách hay chỉ vì vật lý không phải lúc nào cũng dễ hiểu, Michio Kaku lâu lâu lại kể một câu chuyện thú vị về các nhà vật lý. Xin phép được kể lại một hai chuyện như thế.
Sau khi thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton ra đời ở thế kỷ 17 đã xuất hiện các nghịch lý như nghịch lý Bentley và nghịch lý Olbers. Các nghịch lý này không phải là dễ giải đáp nếu như không sử dụng vài kiến thức của vũ trụ học hiện đại. Đến thế kỷ 20, vào năm 1987, theo Michio Kaku, vẫn có tới 70% sách giáo khoa thiên văn đưa ra giải thích không chính xác về nghịch lý Olbers. Vậy mà từ thế kỷ 19, nhà thơ và nhà viết truyện trinh thám, Edgar Alan Poe (rất nổi tiếng ở Việt Nam), đã giải thích được nghịch lý Olbers trong bài thơ có tên: Eureka: A Prose Poem (Bài thơ không vần Eureka).
Thuyết Big Bang (Vụ Nổ Lớn) ngày nay khá quen tai với bạn đọc. Rất thú vị, cái tên này lại do một nhà khoa học chống lại thuyết Big Bang đưa ra với ý chế diễu. Năm 1949, đài BBC tổ chức các buổi phát thanh khoa học thường thức phục vụ thính giả. Nhà vật lý Gamow (phe ủng hộ thuyết Big Bang, lúc đó chưa có tên này) được mời đến tranh luận với nhà vật lý Hoyle của phe chống. Hoyle là người đã nói ra từ “vụ nổ lớn”. Trong tiếng Anh thời đó (và cả thời nay nữa), “big bang” vẫn hàm ý một cú chơi bời thật là oách của cánh đàn ông.
Quay lại với nội dung cuốn sách. Trong ba phần (mười hai chương của cuốn sách được chia làm ba phần), thì phần đầu và chương đầu tiên phần hai (chương 5) tương đối dễ đọc. Chương 5 là chương liên quan đến bộ phim Interstellar. Ở cuối chương này bạn sẽ được biết về không gian Misner rất thú vị. Các chương về sau, đặc biệt là các chương đầu phần 3, rất khó đọc. Bởi lúc đó tác giả đã đi qua phần lý thuyết dây và Thuyết M. Nhưng bạn đọc đừng sợ, dù bạn có “ăn gian” một tý và bỏ qua các chương này, thì tới chương cuối bạn sẽ thấy hấp dẫn trở lại với nội dung rất gần với “tương lai học”. Ở đó bạn sẽ hiểu máy tính lượng tử, là cái mà hợp tác Google và NASA mới đây công bố những tiến triển rất khả quan.
Đọc sách về vũ trụ học, về các nhà vật lý và các ý tưởng của họ, bạn sẽ cảm nhận được, dù là rất khẽ khàng: tại sao các nhà vật lý hiện đại lại được coi như các triết gia. Hay nói cách khác, những triết gia của ngày xưa, ngày nay họ là những nhà vật lý lượng tử hoặc vũ trụ. Trong sách có đoạn viết: Einstein nói “nếu một thuyết không đưa ra được một bức tranh vật lý mà ngay cả một đứa trẻ cũng có thể hiểu, thì có lẽ là thuyết vô dụng”. Nhưng tác giả Michio Kaku ở một chỗ khác cũng lại viết: “Nhiều nhà vật lý tin rằng có một thuyết đơn giản, tao nhã và hấp dẫn ở phía sau vạn vật, nhưng nó cũng phải đủ điên rồ và phi lý để trở nên đúng”.
Năm nay là năm kỷ niệm 100 năm ra đời Thuyết Tương Đối của Einstein. Thuyết tương đối của Einstein vẫn còn khó hiểu với hầu hết chúng ta, nhưng sự hiện diện của nó trong cuộc sống hằng ngày lại khá phổ biến (ví dụ trong các thiết bị GPS). Michio Kaku nhắc lại lời của nhà vật lý Clifford Will sau khi ông đến gặp môt vị tướng củaKhông lực Hoa kỳ để giải thích về thuyết tương đối ảnh hưởng đến GPS: “khi các sĩ quan của Lầu Năm Góc cũng cần chỉ dẫn về thuyết tương đối, thì thuyết này đã trưởng thành”.
Việc đọc “Các thế giới song song” với rất nhiều bóng hình của Einstein trong đó, sẽ là một cách tốt để bạn đọc tự mình kỷ niệm một lý thuyết khai sinh cho vũ trụ học hiện đại.
Các thế giới song song, Michio Kaku, Vương Ngân Hà dịch, Nhã Nam và NXB Thế Giới, tháng 6 năm 2015. Giá bán: 118.000 VNĐ.
*
Nhân tiện, các bạn có thể đọc lại vài bài trong Phong Tục Của Tình Yêu.


December 7, 2015
Chuyện khẩu vị
Bài này tôi viết cho Phiếm Đàm của TTCT. Viết tào lao chém gió để mua vui cho mọi người, và nhân tiện câu khách cho tiểu thuyết tí hon Ba Mùa Yêu mà tôi vừa tự xuất bản trên internet. Phía dưới bài này, tôi cũng trích đoạn của Ba Mùa Yêu để mọi người đọc thử cho biết.
*
Có lẽ từ khi bắt đầu biết chọn thức ăn con người cũng bắt đầu nhận biết về mùi vị.
Vị của thức ăn trên đầu lưỡi tác động không những sớm, mà còn mạnh, vào nhận thức của con người cho nên nó còn ảnh hưởng đến cách con người nhìn nhận xã hội và cuộc đời.
“Đồng cam cộng khổ” hay “Khổ tận cam lai” là những câu thành ngữ hán việt, tức là của người Tàu, nhưng rất đỗi quen thuộc với người nước ta. Quen đến nỗi dù không hiểu chính xác nghĩa của từng từ, người ta vẫn hiểu được hàm ý của câu.
Cam (甘) có nghĩa là ngọt. Khổ((苦) là vị đắng. Có ngọt thì cùng chia, có đắng thì cùng chịu.
Vị ngọt rất đặc biệt. Khi nếm vị ngọt rồi, ta vẫn có thể nếm qua vị khác: chua, cay, mặn. Nhưng đã nếm vị khác rồi, nhất là vị cay như cháy lưỡi, ta không thể nếm thêm gì khác.
Vậy nên, người Tàu ngày xưa đặt ra năm vị (ngũ vị) cơ bản, tương ứng với ngũ hành, đã cho rằng vị cam (ngọt) là vị cơ bản nhất. “Cam giả, ngũ vị chi bản dã” nghĩa là vị ngọt là gốc của ngũ vị.
Vị ngọt vì thế là biểu tượng cho những gì tốt đẹp. Chữ “Điềm – 甜”, là ghép của chữ cam và chữ lưỡi (thiệt – 舌) chỉ vị ngọt của đường mật, liên tưởng đến lời nói ngọt ngào, của nụ hôn sâu, và tất nhiên là liên tưởng đến niềm vui, hạnh phúc. Đặng Lệ Quân có một bài hát rất hay tên là Điềm Mật Mật (Mật Ngọt). Trần Khả Tân có một bộ phim rất hay cũng tên là Điềm Mật Mật. Bộ phim này nói về tình yêu sau bao nhiêu cay đắng đã có kết cục ngọt ngào, hạnh phúc.
Tất nhiên, trái nghĩa với ngọt, là đắng. Những gì đau đớn, buồn bã nhất đều có liên tưởng đến “khổ”, tức là vị đắng. Vị đắng bao giờ cũng khó nuốt.
Vị cam (ngọt) là gốc của ngũ vị, nhưng vị hàm (咸) nghĩa là mặn, lại được coi là “bách vị chi chủ” nghĩa là chủ của trăm vị. Người ta có thể ăn thiếu ngọt, thiếu chua, thiếu cay, nhưng rất khó ăn những gì thiếu mặn. Hơn nữa, mặn có thể bổ sung vào những vị khác. Canh chua vẫn có mặn. Đồ cay cũng có thể cho mặn vào. Và đặc biệt nhất, các vị khác có thể có từ nhiều loại thực phẩm khác nhau, riêng mặn chỉ có từ muối.
Vì thế nên cùng với ngọt, vị mặn thường được chỉ những gì con người ta ưa thích: giọng nói ngọt ngào, nhan sắc mặn mà. Ai mà nói chuyện khó ưa thì hoặc là ăn nói cay độc, chanh chua, hoặc là nói chuyện nhạt như nước ốc.
Ngũ vị ảnh hưởng đến ngôn ngữ, tư duy như thế, hẳn nhiên cũng ảnh hưởng đến tâm lý, thẩm mỹ, đến các sắc thái ứng xử khác nhau trong cuộc sống.
Để nói về khả năng thưởng thức nghệ thuật, người ta cũng dùng từ khẩu vị, chẳng khác gì thưởng thức món ăn.
Các tác phẩm nghệ thuật được số đông quần chúng ưa thích, nếu không “ngọt ngào” thì cũng phải lấy “mặn mà” làm vị chính.
Các chương trình truyền hình nhắm đến số đông cũng vậy.
Chỉ tiếc rằng, vị ngọt của các chương trình ngày càng ngọt quá như đường hóa học, chưa nếm đã thấy là giả quá rồi. Sự mặn mà còn thiếu hơn, vì vị mặn như đã nói, là chủ của trăm vị mà muối ngon ngày càng khó kiếm. Trong lúc mọi thứ đều nhạt thật và ngọt giả vờ, một chương trình thật là mặn mà và chua cay, tưởng sẽ có chỗ đứng riêng và rồi dễ dàng chiếm được lòng khán giả.
Thế nhưng vị mặn mà không đúng liều sẽ trở thành mặn đắng. Chua và cay vốn chỉ là gia vị thêm vào, muốn nó trở thành vị chủ đạo của món ăn từ ngày này qua ngày khác, thì liều lượng phải cực kỳ vừa phải, pha trộn phải cực kỳ khéo léo. Dư một chút chua, thừa một chút cay, lại còn mặn chát, món ăn sẽ phải đổ ngay xuống cống.
Trà có vị chát, nhưng uống xong có hậu vị ngọt ngào trên đầu lưỡi.
Một chương trình mà người ta xem xong, hậu vị chỉ toàn là mặn đắng, chua cay, chắc chắn khó lòng hợp với khẩu vị của đa số người xem dù họ đã quá chán vị ngọt giả vờ của đường hóa học nhưng vẫn chưa thể quên hạnh phúc và niềm vui của sự ngọt ngào lâng lâng hay mặn mà da diết.
*
Vài trích đoạn từ Ba Mùa Yêu:
“Vậy con người có tự do trong lựa chọn tình yêu? Yêu, như là một hành động. Liệu con người có cần phải ý thức khi yêu? Con người cấu trúc chính bản thân mình bằng trải nghiệm mà họ đã sống. Vậy thì trải nghiệm tình dục sẽ ở đâu trong quá trình hình thành nên cấu trúc của bản chất con người? Khi khát khao nhục cảm chế ngự cả tâm hồn lẫn cơ thể, mọi hành động do nó thúc đẩy lại có thể tạo ra khoái cảm có thể giải phóng tinh thần và ý thức ra khỏi thể xác và mọi trách nhiệm đời thường.”
*
“Em đã nhìn anh và nhìn chính em như thế. Một cái nhìn đăm đắm em mượn của Lacan và sẽ không bao giờ trả lại. Nhưng em không rõ, trong khoảnh khắc ý thức được giải phóng khỏi thể xác, liệu đó có phải là tự do. Một tự do tuyệt đối và vô cùng ngắn ngủi?!”
*
“Tặng Phạm Cao.
“Cảm ơn tham gia huấn luyện khóa trinh sát Ký Con, Sở Công an Bắc Bộ.
“Thư này bí mật tịch thu từ tư gia của một tên công khai tuyên truyền chống ta sau khi Nhật đảo chính Pháp. Tặng Cao làm tư liệu viết báo.
“Thân!
“Hè 1946 – Nguyễn Phủ – Giám đốc Phòng Chính trị.”
*
“Tôi vẫn nhớ như in đêm cuối cùng trước khi rời Selce về Mecan. Nằm trong lều bạt trên nền đất lạnh tôi không ngủ được. Đơn vị pháo đang rút quân, tiếng các con la kéo xe pháo phì phò thở lẫn trong tiếng bánh xe lọc cọc trên đường đá. Tiếng pháo đêm nổ phía bên kia sườn đồi, quân Áo bắn vào các hào lũy không còn lính Pháp. Trong tiếng ầm ì của đêm chiến tranh ấy, tôi nằm thao thức trên đất lạnh, nghĩ đến Brett và cơ thể của cô. Trong cái đêm tuyệt diệu ấy, Brett khoe cơ thể đẹp đẽ trần trụi của mình, nằm sấp trên giường trải ga màu trắng…”
*
Uyển da trắng, mắt nâu thẫm, răng đen láy. Cổ tay Uyển tròn. Bàn chân trắng, gót sen hồng, dưới cái váy đen vá đụp vội vàng cho ra vẻ người nghèo. Uyển gánh hoa cúc vàng bông nhỏ, đám cúc chen nhau trong gánh như đám sẻ ngô ngơ ngác. Sanh nghĩ, đã cuối thu, rồi ngần ngừ, “Cô gánh hoa đi theo tôi qua phía bên kia được không? Bên đó có những người Tây đầm, họ sẽ mua cả cho cô.” Sanh muốn đi cùng Uyển qua nửa vòng hồ. Anh chỉ muốn có ai đó sánh đôi bên hồ, trong một ngày se lạnh và bầu trời tràn ngập ánh nắng vàng trong vắt.
Đám lính trẻ xả trại ngày Chủ nhật bắt đầu đón xe từ trong Thành, xuôi phố Borgnis Desbordes vào khu mua sắm trên Rue Paul Bert gần Nhà Hát. Cứ nửa tiếng lại có một chuyến xe điện chạy qua con phố ngắn sát hồ mà Sanh quen gọi bằng tên ta: phố Thợ Khảm. Phố chỉ có vài cửa hàng nhỏ phục vụ người nước ngoài: một hiệu ảnh, một cửa hàng sữa, một cửa hàng thịt bò và quán cà phê La Baionnette của lão mập Céleste. Sanh đặt tên ta cho lão mập là Thiên. Lão mập thích cái tên ta, mỗi khi gặp khách mới lão xưng “ông Thiên, chủ quán Lưỡi Lê Bờ Hồ,” một nơi Sanh ưa thích. Quán ngăn nắp và sáng sủa cả khi những người trẻ ồn ào xô đẩy nhau, nhảy từ xe trạm rồi nhào vào quán.
Bỏ ghế dài, Sanh mơ màng ngả mình lên đệm cỏ, nhập mình vào điệu múa trong gương và lời thì thầm của Uyển.
Chẳng cần gió đông
Đài Đ ồ ng T ướ c kh ô ng kh ó a đ ượ c Nh ị Ki ề u
S ươ ng kh ó i Nh ị H à
Thu tàn hoa cúc n ở gi ữ Ti ể u Ki ề u b ê n b ế n t ì nh lang.
Sanh thức giấc khi tiếng chuông sớm từ nhà thờ vọng tới. Uyển đã đi từ lúc nào.
*
Tàu trên biển rất lâu. Ròng rã mấy tháng. Tôi nghe nói đi vòng qua Djibouti đón lính Phi rồi mới đến Marseille. Lính Annam chết nhiều vì lị và thương hàn. Lúc qua Biển Đỏ, trời nắng mấy ngày, nhiều người chết hơn mấy tuần trước. Chúng tôi được dặn giữ nề nếp. Có ai chết ngay trước mắt thì mình vẫn phải cứng lòng. Tôi nhớ có đám lính từ Nga Sơn, khoảng hơn chục anh chàng, cứ nghêu ngao hát La Marseillaise mà họ tự đặt lời local: “Hỡi đám trai tráng Annam dũng cảm, đây là cơ hội lập công, hãy nắm lấy bằng cách tuốt gươm giết bầy lang sói.”
*
Tháng Năm năm 1916, gần một ngàn thanh niên Annam đội nón phủ vải khaki hành quân bộ vào Thesaloniki. Chúng tôi đi hàng hai, chân đi giày cao cổ, nhịp bước đều trên những con phố nhỏ lát đá, nhà hai bên san sát, mái lợp ngói đá xanh rất thanh bình. Đó là mùa hè xa xứ đầu tiên của tôi, một gã trẻ tràn đầy hạnh phúc với tình yêu của cô gái Anh Quốc và ham muốn tìm hiểu thế giới mới mẻ xung quanh. Đó cũng là lần hành quân cuối cùng chúng tôi đội nón. Ở Macédonie người ta thu hết nón và quạt giấy, rồi họ phát cho chúng tôi mũ beret.
*
“Tôi viết cho cậu chỉ để cầu mong rằng: Trước khi giã từ thế gian đẹp đẽ này, tôi không còn bị ám ảnh bởi ánh mắt nghi ngờ của cậu nữa. Với riêng tôi, cuộc đời tươi đẹp này là một lý do tốt để sống, cũng là một lý do tốt để chết.”
**
liên hệ: nguyenphuongchausa @ gmail. com


December 1, 2015
Chuyện tình: Ba Mùa Yêu
Tôi vừa tự xuất bản một cuốn sách dưới định dạng ebook để phát hành trên internet. Tên cuốn sách là Ba Mùa Yêu, ISBN: 9781311202130. Tôi sử dụng Smashwords để xuất bản cuốn sách này. Các bạn có thể bấm vào link Smashwords này để mua sách ở các định dạng khác nhau: epub, pdf… Trước khi quyết định mua sách, bạn cũng có thể download phần sample về đọc thử.
Sách cũng được bán trên các nhà sách online khác. Nếu bạn dùng các thiết bị của Apple thì bấm vào link Apple này để mua.
Các nhà sách khác như Barnes and Noble, Oyster Book, Blio cũng có bán Ba Mùa Yêu. Bạn có thể vào các trang này và search bằng tên sách (Ba Mùa Yêu) hoặc số ISBN (9781311202130)
*
Dưới đây là lời giới thiệu tôi tự viết cho cuốn sách, và mục lục các chương.
Tựa viết lấy
Ba Mùa Yêu là một “tiểu thuyết tí hon” tôi viết trong mùa đông năm 2014. Gọi là “tiểu thuyết tí hon” bởi vì:
+ Một là nó rất ngắn. Ngồi cà phê sáng thứ Bảy lâu một chút là đọc hết cuốn sách, hoặc ăn tối xong đọc một lèo là đến giờ đi ngủ.
+ Hai là tuy rất ngắn nhưng có tới sáu chương. Và dù rất ngắn nhưng Ba Mùa Yêu vừa viết tình yêu vừa về tình báo. Có nhiều mối tình, có cả xếp hình, nhiều sự kiện lịch sử, nhiều phân mảnh, cấu trúc rời rạc.
Trong Ba Mùa Yêu, có những người trẻ thế kỷ XXI. Họ dùng Facebook, đọc sách Tây, nghe nhạc Mỹ, và yêu nhau. Có những người trẻ của những năm 1920. Họ lẩn trốn mật thám Pháp, hoạt động chống nhà nước thực dân, và… yêu nhau. Có cả những người trẻ từ Annam đi lính cho Pháp ở châu Âu trong Thế chiến thứ Nhất. Họ tò mò học hỏi cuộc sống xa lạ, và… cũng yêu nhau.
Với những bạn không thích diễm tình, trong cuốn sách có các nhân vật mang hơi hướm lịch sử. Khi đọc xong có thể các bạn sẽ có hứng google.
Cám ơn sự ủng hộ của các bạn. Hy vọng đọc xong cuốn tiểu thuyết diễm tình tí hon này các bạn ít có cảm giác tiếc tiền mua sách.
*
Các chương của Ba Mùa Yêu
Chương Một: Phòng sáng
Chương Hai: Mặt trời trong suối lạnh
Chương Xép: Trích lục Hồ sơ Leo Trần
Chương Ba: Cái nhìn đăm đắm
Chương Tum: Một lý do tuyệt vời để sống
Chương Áp mái: Mùa xa xứ hay Ai cũng có một chốn để quay về
*
liên hệ: nguyenphuongchausa @ gmail. com


November 9, 2015
Trung tá phiên dịch
Nhân có trung tá quân đội bà trùm vào dinh tổng thống Mỹ làm phiên dịch, bèn đưa lên đây hai tấm hình siêu điệp viên Phạm Ngọc Thảo trong vai trò phiên dịch.
Lúc này đang ở giai đoạn thực thi hiệp định Geneva, có phần đình chiến Việt Nam – Cambodia. Bên Việt Nam có cử đại diện Bộ tổng tư lệnh tham gia Ủy ban liên hiệp đình chiến (bản chất là đại diện quân đội liên hiệp kháng chiến Việt Miên). Bộ quốc phòng cử Phạm Ngọc Thảo tham gia với vai trò phiên dịch. (Phe bên kia do Lon Nol làm trưởng đoàn).
Trưởng đoàn quân sự của Bộ tổng tư lệnh là một cán bộ cộng sản cốt cán, đeo hàm đại tá. Tên là Sơn. Trước đó Sơn tham gia đoàn quân sự Việt – Lào – Miên đi đàm phán Geneva (do Sơn là tư lệnh kiêm chính ủy tình nguyện quân ở Miên).
Có một điều thú vị. Cuối năm 1945, Phạm Ngọc Thảo là trưởng trạm giao liên đặt ở Nha Trang, của ủy ban kháng chiến Nam Bộ (đặt ở Quảng Ngãi). Lê Duẩn lúc này đi từ Bắc vào Nam Bộ. Từ Nha Trang vào Nam Bộ người đưa Lê Duẩn đi đường chính là Phạm Ngọc Thảo. Lúc này Lê Duẩn rất yếu, đi đường có lúc Phạm Ngọc Thảo phải cõng.
Đưa Lê Duẩn đến nơi, Phạm Ngọc Thảo ở lại. Sau khi Lê Duẩn thống nhất Ủy ban kháng chiến và Ủy ban hành chánh làm một, thành lập Ban quân sự, thì Thanh Sơn làm Trưởng ban, còn Phạm Ngọc Thảo làm Trưởng phòng Mật Vụ.
(Giai đoạn 1945-1953 ở Nam Bộ rất lằng ngoằng, tham khảo thêm ở phần Nam Bộ sau 1945 ở đây. Bài này dài nên nếu lười có thể sử dụng phím Ctrl+F thần thánh cùng các từ khóa: Nguyễn Thống, hoặc Phạm Ngọc Thạch, hoặc Phạm Ngọc Thảo).


September 28, 2015
Chuyện thừa thiếu
Hồi trước còn túc tắc đi làm, buổi sáng việc nhàn, hay kéo một ông anh ra Lê Quý Đôn uống cà phê.
Có lần ông anh bảo, chắc nước mình phải đợi đến khi các tay đại tá trẻ cầm quyền mới khá được.
Có lần khác nói chuyện quan chức mê tín cúng bái ngày càng nặng, ông anh lại tặc lưỡi bảo: thế là quay lại thần quyền.
**
Người ta vẫn nói: nhân dân nào thì chính quyền như thế.
Xã hội Việt Nam có bao nhiêu cái xấu thì ở chính quyền có bấy nhiêu cái xấu. Chỉ khác ở chỗ ở trong chính quyền thì cái xấu ấy có điều kiện để phóng đại lên ngàn lần. Xã hội Việt Nam khiếm khuyết bao nhiêu cái tốt, thì chính quyền cũng khiếm khuyết ngần ấy cái tốt, mà còn thiếu hơn ngàn lần.
Xã hội này thừa: tăm tối, tham lam, bạo lực.
Xã hội này thiếu: khoan dung, điềm tĩnh, can đảm.
Những gì tệ nhất của đất nước này đều có thể dùng những cái thừa cái thiếu trên đây để giải thích.
Tâm tư của ông tá mong có hàm tướng là biểu hiện lòng tham của người dân quen thói nóng vội, đặt vào môi trường nhà nước bị phóng đại lên nhiều lần. Cũng thế nhưng thêm chất bạo tàn coi khinh thiên hạ, ông quan đầu tỉnh vội vàng bổ nhiệm con mình vào chức vụ ngon ăn. Đến cái trường đại học nhà nước bé tí ti cũng thiếu điềm tĩnh, thừa háo danh, toan tính gắn huy chương tứ tung trong nội bộ cốt để phong thần lẫn nhau mà lòe thiên hạ.
Thời chiến tranh đã đành, đến thời hòa bình lãnh đạo cũng vẫn thừa tối tăm và thiếu điềm tĩnh. Tầm nhìn cứ tưởng xa hóa ra ngắn tũn. Vội vội vàng vàng đâm quàng bụi rậm. Doanh nhân, trí giả cũng chẳng hơn gì. Tất cả đồng lòng với nhau mà đánh quả. Quốc gia, tổ quốc chẳng qua là đất và nước. Bán hết mặt đất vàng nhanh tay đút túi, rồi sẽ có ngày rao bán mặt nước vàng .
Chủ nghĩa tư bản man rợ đã đến nước Việt ngay sau những năm đổi mới. Rồi sau 30 năm mặc sức vùng vẫy đớp hít no no say, nay nó đã chính thức lột vỏ để trở về đúng bản chất: chủ nghĩa cộng sản vơ vét.
Đúng lúc ấy giàn khoan và đường băng ở Biển Đông đâm thẳng vào mặt.
**
Sớm hay muộn nước Việt cũng phải chọn con đường để trở thành “phú quốc cường binh”. Mọi lựa chọn khác đều có nguy cơ rơi vào nô dịch.
Nhưng trước đó xã hội phải chấp nhận để chính quyền “qua đò” thêm một lần nữa: quay trở lại với chủ nghĩa cộng sản liêm chính, thanh lọc từ chính quyền đến người dân, trước khi qua bờ bên kia để lột xác trở thành một nền cộng hòa dân quốc. Việc thanh tẩy thể xác và tinh thần, phải chính tay mình làm, người bên ngoài không bao giờ làm nổi.
**
Năm 1967 đại sứ Mỹ ở Sài Gòn gọi đám sĩ quan trẻ tuổi Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu đang khuấy đảo nền chính trị Việt Nam Cộng Hòa lúc bấy giờ là “Young Turks”. Tiếng Việt nôm na là: “Đám đại tá trẻ”.
Những sĩ quan trẻ của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đấy đã xóa bỏ đệ nhất cộng hòa của Việt Nam mà dựng nên đệ nhị cộng hòa.
Tổ chức Những Người Trẻ Ottoman (tiếng Thổ: Yeni Osmanlılar) là một tổ chức do các trí thức Thổ thành lập, lúc đầu hoạt động bí mật. Đây là nhóm trí thức bất mãn với kết quả cải cách (tanzimat) của chính quyền lãnh đạo đế quốc Ottoman vốn kéo dài 30 năm mà vẫn không đưa đất nước thoát khỏi lạc hậu, nợ nước ngoài chồng chất và bị ngoại bang đe dọa. Mục tiêu của nhóm Young Ottoman là hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là cải cách chính quyền theo hướng lập hiến để thoát khỏi chế độ tăng lữ (sultanate). Năm 1867, một hoàng tử Thổ tên là Mustafa Fazil Pasha chạy qua Pháp và bảo trợ cho tổ chức này. Từ đó nhóm có tên bằng tiếng Pháp.
Ba thập kỷ sau, những thành viên trẻ hơn trong nhóm, có đầu óc cải cách mạnh mẽ hơn nữa, được biết đến với tên tiếng Pháp là Les Jeunes Turcs (tiếng Thổ: Jön Türkler) đã tiến hành một cuộc cải cách thể chế mạnh mẽ hơn nữa (Young Turk Revolution năm 1908) nỗ lực xóa bỏ hoàn toàn thể chế tăng lữ để đưa đế chế Ottoman trở thành nhà nước cộng hòa.
Những người Thổ trẻ tuổi ấy đã dựng nên nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại từ đống đổ nát tối tăm của đế quốc Ottoman đang bị phương tây xâu xé.
Nổi lên từ cuộc cách mạng Young Turck Revoution và cuộc chiến tranh vệ quốc chống lại liên quân Châu Âu, sĩ quan Mustafa Kemal dần dần trở thành người lãnh đạo tối cao và là người sáng lập nhà nước cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, trở thành tổng thống đầu tiên của nền cộng hòa và được quốc hội Thổ chính thức “phong danh hiệu” cha già dân tộc (Atatürk).
**
Cuối thế kỷ 18, các đế quốc phương đông như Ottoman, Nhật Bản, và cả đế quốc con con ở giữa Ấn Độ và Trung Hoa, tức xứ Cochinchina (Indochina) tức Việt Nam ngày nay, đều bị các cường quốc phương tây gây sức ép.
Cả ba nước đều có những cải cách mạnh mẽ từ trong nội tại. Với Thổ là phong trào Young Ottoman, ra công khai từ năm 1867. Ở Nhật là cách mạng công nghiệp, chính thức hóa sau khi Nhật Hoàng Minh Trị lên ngôi năm 1868. Còn ở Việt Nam chỉ lóe lên một chút khi Minh Mạng cử trí thức qua Châu Âu học hỏi từ năm 1839 nhưng kết quả không được thu nhận do Minh Mạng qua đời 2 năm sau đó (1841).
Nhưng tới đầu thế kỷ 20 chuyển biến chính trị xã hội ở ba nước này rất khác nhau. Đến năm 1905 Nhật đã thành cường quốc sau chiến thắng hải quân Nga Hoàng. Năm 1908 cuộc cách mạng thay đổi thể chế của Young Turks thành công. Cũng lúc đó, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu mới loay hoay bắt đầu công cuộc cách mạng cứu nước của mình (1906-1908). Phần lớn tài sản của Đông Du học tập Nhật Bản tạo ra, từ Nguyễn Háo Vĩnh đến Tâm Tâm Xã đều có tác động lâu dài đến lịch sử Việt Nam hiện đại. Nhưng nói chung, mặc dù cực kỳ xuất sắc, cả hai đại cao thủ Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đều không có thành tựu cuối cùng.
**
Ở đế chế Ottoman, nền chính trị sultanate (tăng lữ) dù đã nỗ lực cải cách tới 30 năm (giống đổi mới 30 năm ở ta hiện nay) nhưng (cũng giống ta) không thoát khỏi lạc hậu, tối tăm và bất công xã hội. Nhà nước yếu đuối cả về tài chính lẫn quân sự. Bị cường quốc bên ngoài (từ Habsburg của Áo đến Catherine của Nga) chèn ép đe dọa. Thế nước xuống đáy, cách mạng nổ ra.
Sau Thế chiến thứ nhất, các đại tá trẻ người Thổ dẫn dắt nhân dân tiến hành cuộc chiến giành độc lập, chiến thắng liên quân của các cường quốc Châu Âu, đã tự mình nắm lấy chính quyền rồi bắt đầu một công cuộc cải cách triệt để.
Họ viết một hiến pháp hoàn toàn mới, họ tách giáo quyền khỏi chính quyền (tương tự đưa Đảng ra khỏi nhà nước).
Họ thế tục hóa quốc gia bằng cách đóng cửa các trường Hồi giáo (giống đóng cửa trường đảng), họ bỏ tất cả các biểu tượng Hồi giáo khỏi nơi công cộng (giống bỏ việc treo cờ búa liềm ở nơi công cộng).
Họ bổ nhiệm người không phải giới tăng lữ vào bộ máy chính quyền (giống bổ nhiệm người ngoài đảng vào bộ máy nhà nước).
Họ chuyển thủ đô từ Istanbul tới Ankara, cải cách lịch bằng cách bỏ lịch “âm” của người Thổ và sử dụng lịch phương tây. Họ cải cách chữ “quốc ngữ” để chuyển qua dùng ký tự latin để dễ dàng xóa mù chữ và nâng cao dân trí.
Chủ nghĩa thế tục (secularism) pha trộn với các chủ nghĩa cộng hòa, dân túy, quốc gia …đã hình thành hệ tư tưởng của sĩ quan Mustafa Kemal (Atatürk) và dần dần trở thành nền tảng giá trị của thể chế nhà nướcThổ Nhĩ Kỳ hiện đại.
**
Nếu có một thế lực siêu nhiên nào đó muốn cải tổ đất nước Việt Nam cho tốt lên, liệu họ sẽ khai minh cái xã hội này trước hay cải tổ chế độ trước. Có lẽ họ sẽ chọn cách thứ hai cho đỡ vất vả. Dạy dỗ một dúm đầu sỏ có tư chất có lẽ nhanh và hiệu quả hơn 90 triệu dân đen vốn lười lao động, sợ học hành và có thú vui rất mọi rợ là ngáng chân và tụt quần nhau.
Cách đây một thế kỷ, có một bọn gọi là Thực Dân Pháp đã ảo tưởng mình là một thế lực siêu nhiên nên đã cố gắng làm việc ấy. Và tất nhiên những gì chúng nhận được chỉ là một Điện Biên Phủ.
Chúng cải cách bộ máy hành chính cai trị. Kế thừa mô hình quản lý nhà nước của triều đình Huế, bọn Pháp dần dần đưa lối cai trị dân sự quan liêu vào để xây dựng chính quyền thuộc địa ở xứ Annam. Đến giờ nhìn lại có thể nói thể chế ấy, đặc biệt ở Nam Kì thuộc Pháp, khá tiên tiến và hiệu quả trong cai trị lẫn bóc lột.
Bọn Pháp cũng không chỉ cải cách bộ máy cai trị và tạo ra hàng loạt ngôi sao chính trị rất đắc lực và hiệu quả trong cai trị, chúng còn góp phần cải tạo xã hội Việt Nam cực kỳ trì trệ, tối tăm và bảo thủ bằng các chính sách văn hóa giáo dục thời Albert Sarraut. Việc cải cách xã hội này, mà bọn Pháp gọi rất đúng từ là “khai hóa”, đã tạo ra hàng loạt ngôi sao có tư tưởng cách mạng.
Nguyễn Gia Kiểng tóm tắt việc này trong mấy câu: thực dân Pháp còng tay người Việt và dẫn vào thế giới tiến bộ.
Thế có nghĩa là thất bại.
Nếu anh bắt một thằng mọi vốn chỉ biết cởi truồng rằng đẹp và lịch sự thì phải mặc quần tây, kết quả là thằng mọi sẽ đánh cho anh vỡ mặt rồi mặc quần đùi rách rồi cứ tưởng thế là văn minh nhất quả đất.
Đấy là lý do ngày hôm nay chúng ta phải sống với một thứ giáo quyền có tên gọi “chủ nghĩa cộng sản vơ vét”.
**
Khác với triều đình Huế với các ông vua tự thân yếu kém lại nồng nhiệt nắm quyền trực tiếp điều hành đất nước, khi các tàu chiến phương tây kéo đến yêu cầu nước Nhật phải mở cửa, thì triều đình của Nhật Hoàng chỉ là bù nhìn. Quyền lực thực sự nằm trong tay các tướng quân Shōgun.
Các Shōgun cũng không tập quyền mà quyền lực phân tán vào các lãnh chúa địa phương Daimyō (đại danh). Vì quyền lực phân tán, chế độ shogunate vừa yếu về kinh tế, vừa kém về quân sự đã không dám chống cự với phương tây, ngày càng bảo thủ, suy đồi.
Một số Daimyō nổi dậy dẹp bỏ hệ thống quyền lực của các Shōgun và dồn quyền lực vào Nhật Hoàng vốn đang chỉ là bù nhìn.
Các nhà lãnh đạo trẻ nổi lên qua đảo chính quân sự, chính là các “Young Turcks” của Nhật Bản, đã quy tụ lại sau lưng Nhật Hoàng. Trước tiên họ “chế tạo” ra một ông vua mới mẻ và cực kỳ hiện đại. Họ cải hóa ông vua Mutsuhito trẻ tuổi, thiếu cá tính bên trong và nhợt nhạt hình ảnh bên ngoài trở thành một đấng trượng phu ngạo nghễ, minh triết, phong cách rất phương tây và có tầm nhìn xa vượt thế kỷ.
Khi ông hoàng trẻ ấy lên ngôi , chính là Nhật Hoàng Minh Trị (Meiji).
Minh Trị, nghĩa là cai trị một cách sáng suốt, bọn tây dịch ra là “enlightened rule”.
Sự nghiệp cai trị sáng suốt ấy về thực chất nằm trong tay những nhà cai trị (ruler) mới toe đứng sau Nhật Hoàng. Họ có tài năng xuất chúng và có tầm nhìn xa hàng thế kỷ. Họ được gọi với tên “nhóm đầu sỏ Minh Trị” (Meiji Orligarchs, Phiên Phiệt).
Nhóm đầu sỏ này dốc hết tâm trí để cải cách cả thể chế lẫn xã hội Nhật Bản.
Dưới khẩu hiệu Phú Quốc Cường Binh (fukoku kyōhei), Nhật Hoàng quyết tâm đưa nước Nhật đến với văn minh phương tây, bởi vậy nước Nhật tự thân hăm hở lao vào văn minh khai hóa (bunmei kaika).
Khác với Tổng thống Mustafa Atarktuk phải đọc một bài diễn văn dài 36 tiếng trước quốc hội để diễn giải và thuyết phục đất nước đi theo con đường hội nhập với các giá trị văn minh bền vững của nhân loại, vì Nhật Hoàng là Thiên tử (giống Tổng Bí Thư nói với đảng viên của mình) nên chỉ cần vắn tắt có năm ý (ngũ cá điều) trong lời tuyên thệ nhậm chức của mình. Trong đó có “truy tầm kiến thức khắp thế giới để củng cố quốc gia vững mạnh”.
Những việc mà Nhật Hoàng và nhóm Minh Trị Đầu Sỏ chủ động thực hiện với xã hội Nhật hồi đó, thì ở Annam bọn Pháp cũng cưỡng bức thực hiện: dùng quốc ngữ, tăng tỷ lệ biết đọc biết viết, mở ngân hàng, xây đường sắt, xây hải cảng, thiết lập các hệ thống thông tin liên lạc.
Vậy nên khác với người Nhật biết tự may âu phục cho mình và tôn trọng bộ âu phục ấy. Người Việt ta bỏ khố chuyển sang quần đùi rồi vẫn khinh miệt quần tây. Thế nên Phan Chu Trinh có gào khản cả cổ mà khai minh vẫn chỉ đến minh khai là chấm hết. Cải cách xã hội ở Nhật vì thế mà thành công sâu rộng, còn cải cách xã hội ở Việt Nam chỉ thành công ở nhóm nhỏ thượng lưu, và tiếc thay phần lớn nhóm này sau đều bị coi là phản động (xem Trong Vỏ Hạt Dẻ phần 1).
Nhưng có những thứ nhóm đầu sỏ Minh Trị làm với thể chế Nhật mà bọn Pháp cũng làm với xứ Annam nhưng chưa hiệu quả. Đó là Nhật Hoàng cử những cá nhân xuất sắc của Nhật qua Châu Âu tìm hiểu các mô hình nhà nước có thể phù hợp tốt nhất với nước Nhật. Những trí thức ấy đã chọn mô hình của tể tướng Bismarck. Họ copy cả hiến pháp của nước Phổ và mô hình đế chế Phổ do Otto Von Bismarck dựng nên. Một trong những lý do mà nhà nước Nhật có ảnh hưởng đến Châu Á, là do mô hình của Bismarck xây dựng một nước Phổ có ảnh hưởng đến Châu Âu. (Nhật can thiệp vào Đông Dương rất nhiều, xem Vỏ hạt dẻ phần 2).
Câu chuyện ở xứ Annam ta giống mà cũng khác. Mô hình cai trị do Pháp bản địa hóa từ hệ thống chính trị mẫu quốc và áp vào nền chính trị bảo hộ. Cũng tốt, nhưng chưa phải là phù hợp nhất.
Cải cách thể chế ở Annam thất bại là vì bị ép buộc, còn ở Nhật thành công vì tự nguyện, tự nguyện cải cách từ phía Nhật Hoàng và nhóm lãnh đạo đầu sỏ, và cả tự nguyện lắng nghe công luận.
Điều đầu tiên trong trong năm lời tuyên thệ lên ngôi, Nhật Hoàng hứa với dân của mình (như tân TBT hứa với đảng viên): “Mở ra hội nghị rộng rãi, trăm công ngàn việc đều lấy theo công luận mà quyết định”.
**
“Phú quốc cường binh” là câu chuyện của nước Nhật ngày xưa, nhưng cũng là câu chuyện của nước Việt ngày nay.
Tách giáo quyền khỏi chính quyền là câu chuyện mà đế chế thần quyền Ottoman lạc hậu phải triệt để cải cách trước khi trở thành thể chế cộng hòa cũng là câu chuyện mà Việt Nam bên lề đế quốc Trung Hoa phải suy nghĩ nếu muốn mình cũng văn minh ít ra bằng nước Thổ nghèo nàn bên lề các cường quốc Âu Châu.
Cải cách xã hội là câu chuyện của Nhật Hoàng ngày xưa, của Phan Chu Trinh ngày trước và vẫn tiếp tục là của Việt Nam ngày nay. Cải cách thể chế cũng vậy, nhưng không phải là một cuộc cách mạng tất tật chính quyền về tay mình, mà phải là một sự tiến hóa mà bước đầu tiên phải làm là đưa chính quyền trở lại với giá trị vĩnh cửu: sự liêm chính.
**
Nhưng mà, các đại tá trẻ, giờ này các anh ở đâu hehehehe.


September 3, 2015
Người truyền cảm hứng cho Ông Cụ
Giành độc lập được mấy hôm, Trần Dân Tiên (có lẽ là một nhóm, trong đó có hai vị họ Trần thực sự là Trần Huy Liệu và Trần Ngọc Danh) viết ngay một cuốn sách về cuộc đời ông cụ.
Chương I của cuốn sách nói về cậu thiếu niên tên Thành. Ở tuổi mười mấy, anh Thành đã có ý định đi tìm đường cứu nước.
Con người ta lúc thành công thường nói rất hay về khúc khởi đầu của họ.
Việc xuất dương của anh Thành có thể do hoàn cảnh gia đình (các biến cố trong gia đình, cuối cùng là người cha mất việc) cộng với cảm hứng từ phong trào Đông Du.
Thế nhưng khi anh tới Sài Gòn thì Nhật đã cấu kết với Pháp, dập tắt Đông Du.
Không còn sự lựa chọn nào khác, anh bèn đi phượt tàu thủy. Sau khi học một khóa ngắn hạn tại trường dạy nghề nay mang tên Tôn Đức Thắng, anh Paul Thành (sau này lừng danh qua ngòi bút Trần Dân Tiên với tên gọi anh Ba) đến hãng tàu Chargeurs Reunis đóng trên lầu nhà Grand Hôtel de la Rotonde để xin lên con tàu Amiral Latouche Treville làm rửa bát. (Xem thêm phần Một Góc Phố Đầu Tiên trong Sound of Silence).
Đó là năm 1911.
Trần Dân Tiên cho biết anh Ba đi phượt khá nhiều nơi: Pháp, Bồ Đào Nha và các nước Châu Phi thuộc địa.
Các sách khác của học giả tây còn cho biết anh rất tiết kiệm, dành dụm được cả tiền gửi về cho cha đang lưu lạc Nam Kì.
Quãng 1913-1915 anh sống ở nước Anh. Ở nước Anh, Paul Ba tiếp tục làm nghề lao động phổ thông.
Trong thời gian ở Anh, chàng thanh niên thuộc địa, suốt ngày lao động chân tay, đột nhiên biết tiếng Anh và am hiểu tình hình chính trị thế giới cùng với những nhận định sắc xảo (xem thư Nguyễn Tất Thành từ London gửi cho Phan Chu Trinh ở Paris).
Tôi tin rằng khi ở nước Anh, đã có ai đó vỡ lòng cho anh Ba không chỉ môn tiếng Anh mà còn về Cách mạng Mỹ (thuộc địa Anh giành độc lập, đồng thời xóa bỏ chế độ quân chủ), về quyền con người. Người này có lẽ còn hướng anh Ba đi theo con đường hoạt động chính trị chuyên nghiệp.
Giai đoạn ở nước Anh rất quan trọng trong chuyển biến tư tưởng của anh Ba. Trước khi rời Anh đến Pháp và gia nhập nhóm Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, anh Ba đi Mỹ (1916).
Ở Mỹ, anh Ba đã tham dự các hoạt động chính trị của người da màu. Vốn tiếng Anh của anh Ba đã đủ tốt để anh học hỏi các phương pháp đấu tranh và vận động quần chúng từ Marcus Mosiah Garvey.
Garvey, một nhà hoạt động nhân quyền cho người da đen đi từ Jamaica đến New York vào tháng 3 năm 1916, thường thực hiện các buổi diễn thuyết trên đường phố New York vào buổi tối. Anh Ba chắc chắn đã đến nghe. Những kỹ năng diễn đạt với công chúng bình dân thu thập từ New York về sau giúp anh Ba rất nhiều trong hoạt động chính trị và làm cách mạng.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi đến Pháp (1919) và gia nhập nhóm Phan Văn Trường, anh Ba đã nỗ lực trở thành một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp và nổi bật.
Mấy chục năm sau nữa, dấu ấn của Cách mạng Mỹ và quyền con người đã xuất hiện ngắn ngủi nhưng rõ nét trong Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tình cảm với Cách Mạng Mỹ trong lòng anh Ba còn ẩn dấu trong những nỗ lực tiếp cận quân đội Hoa Kỳ ở Côn Minh thời tiền khởi nghĩa (xem thêm Trong Vỏ Hạt Dẻ Phần 2).
Mặc dù tài liệu trong tay chưa đủ lắm, tôi vẫn cho rằng, người vỡ lòng cho anh Thành tiếng Anh, Cách Mạng Mỹ, Quyền Con Người … là một thanh niên miền nam, trạc tuổi anh Ba, giỏi giang và yêu nước. Người thanh niên ấy theo hồ sơ mật thám có tên (giả) là Joseph hoặc Thành, còn tên thật (tôi đoán chắc) là Nguyễn Háo Vĩnh. Không chỉ là một người anh em, một mentor cho anh Ba, chàng trai trẻ Nguyễn Háo Vĩnh còn tìm cách ghi danh cho cả hai (như hai anh em ruột Paul Thành và Joseph Thành ) vào học tại London Polytechnic trên phố Regent (nay là University of Westminster).
Phong trào Duy Tân có hai cơ sở quan trọng ở miền nam là Hội khuyến học Cần Thơ và công ty Minh Tân (Nam Kì Minh Tân Công Nghệ Xã) của Gilbert Trần Chánh Chiếu (cũng là chủ bút Nông Cổ Mín Đàm và Lục Tỉnh Tân Văn).
Công ty Minh Tân tuyển người đưa sang Nhật học nghề, bản chất là đào tạo cán bộ cho Đông Du. Nguyễn Háo Vĩnh sinh năm 1893 (kém anh Ba vài tuổi) có mặt trong nhóm đi Nhật đầu tiên (1905), và là người giỏi nhất. Ở Nam Kì, hoạt động của Trần Chánh Chiếu bị mật thám Pháp phát hiện. Pháp thỏa thuận với Nhật để Nhật trục xuất du học sinh của Đông Du về lại Đông Dương. Bố của Nguyễn Háo Vĩnh cũng là lãnh đạo Đông Du miền nam, nhanh tay rút Nguyễn Háo Vĩnh về Hongkong để tránh bị bắt, đồng thời cho học tiếp tại Saint Joseph Hongkong.
Lúc này hoàng thân Cường Để cũng phải rời Nhật (trục xuất năm 1909). Đi vòng vèo qua Trung Quốc, Hongkong, đến năm 1913 Cường Để bí mật về Nam Kì. Giữa năm 1913 Cường Để trốn qua Hongkong. Chỉ một thời gian ngắn sau đó (tháng 6 năm 1913), cơ sở của Đông Du ở Hongkong bị cảnh sát Anh bố ráp do xưởng sản xuất vũ khí để nổ tạc đạn. Cường Để bị bắt giam vài ngày, sau đó thoát ra được và đi London.
Sau khi tốt nghiệp, Nguyễn Háo Vĩnh dùng tên giả trốn sang London tìm Cường Để. Trong thời gian ở đây anh đã gặp và kết bạn với anh Paul Thành. Năm 1916 khi Thành đi Mỹ, Háo Vĩnh trở lại Hongkong rồi bị bắt ở đây và đưa về Nam Kì. Tòa án Sài Gòn kết Háo Vĩnh án tử hình, sau được tổng thống Pháp ân xá. Về quê ở với bố là Nguyễn Háo Văn một thời gian, đến năm 1923 Nguyễn Háo Vĩnh lại ra Sài Gòn làm báo và xưởng in. Năm 1928 còn anh còn bị bắt một lần nữa vì tội in truyền đơn.
Cũng thời gian này, Gilbert Trần Chánh Chiếu bị Pháp bắt hai lần, năm 1908 (do có quan hệ với Đông Du) và năm 1917 (do tài trợ cho Phan Xích Long). Trần Chánh Chiếu cũng tham gia dịch văn học (dịch Dumas) và sáng tác (truyện Lâm Kim Liên).
Từ khi lên Sài Gòn làm báo cho đến cuối đời, Nguyễn Háo Vĩnh làm chủ báo Nam Kì Kinh Tế Báo và Hoàn Cầu Tân Văn; làm chủ xưởng in Xưa Nay. Vốn thạo tiếng Anh, ông đã dịch sang chữ quốc ngữ kịch của Shakespeare (Hamlet, Romeo Juliet …), viết sách khoa học thường thức (Cách vật trí tri, Càn khôn lý học sơ giải …), viết sách lịch sử thế giới (Chuyện vạn quốc).
Thi thoảng máu cách mạng dâng cao, ông còn bút chiến. Hà Hương Phong Nguyệt (sách hoa tình khiêu dâm đầu tiên bằng chữ quốc ngữ) bị ông đánh dữ quá nên chính quyền Pháp phải tịch thu mà đốt đi.
Là người yêu nước và yêu Cách Mạng Mỹ, và có lẽ nhớ người bạn tên Thành từ lúc chia tay nhau qua Mỹ,đến lúc này không biết ở đâu, ông Vĩnh đặt tên con gái là Nguyễn Triệu Ẩu và Nguyễn Háo Thạnh Đốn.
Nguyễn Háo Vĩnh, nhân vật Đông Du kiệt xuất trong không gian hẹp, chết năm 1941 ở Thủ Đức. Ông cũng không biết anh Thành ngày xưa đã dựng nên ĐCS từ tro tàn của Tâm Tâm Xã, một tổ chức phái sinh của Đông Du bên Trung Quốc. Ông không có cơ hội nhìn thấy ngày Độc Lập và người anh em thời Đông Du xa xưa của mình lên làm chủ tịch nước.
Tất nhiên Nguyễn Háo Vĩnh không bao giờ có cơ hội đọc trước tác của Trần Dân Tiên.
Một trăm năm sau khi em Vĩnh và anh Thành chia tay nhau ở London (1915-2015), hiện tượng Đông Du Miền Nam gần như đi vào quên lãng.


Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
