Nguyễn Phương Văn's Blog, page 5
September 26, 2021
Cậu bé mười tuổi đọc Lê Nin
Có cậu bé mười tuổi quyết tâm đọc Lê Nin toàn tập. Có thể cậu sẽ đọc và đọc được hết, dù bộ này khá là đồ sộ, năm mươi tư cuốn, mỗi cuốn mấy trăm trang.
Hy vọng cậu vượt qua được những trước tác của Lê Nin viết trước khi cách mạng thành công. Lê Nin không dễ đọc lắm. Ví dụ như cuốn dưới đây, tuy rất mỏng nhưng nó được coi là trụ cột của triết học Mác Lê Nin. Ở Liên Xô ngày xưa, nó được dạy ở bậc đại học.
September 10, 2021
Mới bổ sung thêm
Tôi mới bổ sung thêm hai phần nữa vào Bài viết trước “Phục hồi kinh tế và complexity“. Một phần là “Thuyết không làm gì” của Lão Tử, một phần là “Văn minh Islam”. Mọi người có thể quay lại đọc cho vui. Tóm tắt nội dung hai phần mới như sau:
Thuyết “Không làm gì” của Lão tử
Từ đầu thế kỷ 20, triết gia Trung Hoa Phùng Hữu Lan và các đồng nghiệp đã cổ xúy việc đưa tuyệt chiêu của triết học phương Tây là môn “logic học” vào triết Trung Hoa. Dưới đây là cách Phùng Hữu Lan dùng logic (có lẽ là logic phân tích của Bertrand Russell) để phân tích triết học của Lão tử. Nhân việc hết HCMC sai lầm chi chít, lại đến HN mắc đúng ác sai lầm đó, chép lại cách phân tích này của Phùng Hữu Lan (và một vài diễn giải riêng), để mọi người đọc tham khảo cho vui.
Nền văn minh Islam/Muslim
Trong chống dịch ở Việt Nam, nảy sinh rất nhiều vấn đề mà nếu ở phương Tây sẽ gây tranh cãi về đạo đức, luân lý. Bài này nói sơ qua về đạo đức và luân lý và logic. Ở cuối bài là một bài test xem trình độ logic của mọi người đến đâu .
September 3, 2021
Phục hồi kinh tế và complexity
Đọc các ý kiến, giải pháp, đề xuất về “phục hồi kinh tế”, thấy nặng về hành chính, quy trình, bước nọ bước kia, sở này làm cái này, sở kia làm cái kia… trong khi lại không ai nói gì đến complexity và complex system.
Một thành phố lớn, đa dạng, và năng động như thành phố HCM, là một hệ phức hợp (complex system). Xét riêng kinh tế của thành phố, nó cũng là một complex system.
Mặc dù complexity mới trở thành một nhánh nghiên cứu mới vài chục năm qua, nhưng nó rất được quan tâm, vì nó rất thiết thực. Chỉ cần search một chút qua internet, ta sẽ thấy có complexity science, complexity economics, complexity theory…
Complex system có nhiều đặc điểm, trong đó có self-organization. Tức là, để hồi phục một complex system như thành phố HCM, bao gồm cả kinh tế, xã hội, thì thay vì chăm chăm vào các biện pháp hành chính, chỉ thị, ra lệnh, kiểm soát, áp đặt,… thì nên tìm vài cái van tổng nào đó rồi vặn ra, sau đó cứ để complex system tự hồi phục, tự vận hành. Đó có thể là cái van tổng của chuỗi nguyên liệu-sản xuất-hoàn thiện-xuất khẩu; có thể là van tổng của chuỗi cung cấp dẫn đến hệ thống siêu thị, hoặc làchuỗi chợ đầu mối dẫn vào các chợ truyền thống.
Cứ mỗi tuần, mười ngày lại mở thêm một cái van, điều chỉnh tốc độ xả của nó tăng dần, còn thì complex system sẽ tự làm nốt phần còn lại.
*
Complexity theory có nguồn gốc từ Chaos theory, nhưng nó bắt đầu định hình từ công trình của nhà hóa lý gốc Nga tên là Ilya Prigogine. Lý thuyết, mà sau này mang đến cho Prigogine giải Nobel Hóa học, là về nhiệt động học không có điểm cân bằng, về sau nó rẽ sang các nhánh bất ngờ, như nghiên cứu giao thông, thời tiết,… Lý thuyết này góp phần xây dựng các lý thuyết về hệ tự tổ chức (self-organization) và đặt nền móng cho complexity theory.
Một đóng góp nữa, là của Edward Norton Lorenz, nhà toán học và khí tượng học. Các mô hình dự báo thời tiết và khí hậu của ông cho thấy kết quả của hệ động và phức hợp rất nhạy cảm với điều kiện ban đầu (initilal condition); thay đổi điều kiện đầu vào một chút, kết quả sẽ rất khác. Một hành động nhỏ ban đầu có thể trở thành snowball và tạo ra cascade (nhưng điều này có cả tích cực và tiêu cực, chứ không chỉ là tiêu cực.)
Một đóng góp khác nữa là mô hình phân tách (model of segregation) của Thomas Schelling, một nhà kinh tế đoạt giải Nobel về lý thuyết trò chơi. Mô hình này được sử dụng trong social dynamics. (Dynamics là động học, tức là nghiên cứu các hệ có biến động theo thời gian, ngược với tĩnh học. Tĩnh học là các định luật kiểu như định luật Archimedes, động học là như phương trình chuyển động của Newton. Thành phố HCMC là một hệ động – dynamical system, để nghiên cứu nó phải dùng động học, chứ không phải dùng các thuật toán đa biến giải bằng phương trình vi phân đơn giản theo kịch bản này kịch bản kia.)
Complexity có ứng dụng rất lớn trong vật lý, hóa học, sinh học, não học, trí tuệ nhân tạo, thời tiết,… nói chung là vô vàn. Stephen Hawking nói: “Thế kỷ này là thế kỷ của Complexity”.
Một trong những lý do gần đây Complexity phát triển mạnh là vì dù chưa có lý thuyết toán đủ tốt để chống đỡ, bù lại có thể dùng máy tính để chạy giả lập, mà năng lực tính toán của máy tính thì mấy chục năm gần đây phát triển như vũ bão.
*
Complex system là một hệ, đại khái như sau: nó là một hệ động (dynamic system) có vô vàn các cá thể, các các thể tương tác qua lại và kết nối với nhau, các cá thể không độc lập mà phụ thuộc lẫn nhau, hệ có tính kết nối (connectivity) rất cao.
Các ví dụ về complex system hay được liệt kê ra, luôn có ví dụ về thị trường chứng khoán và dịch bệnh. Trước khi có Covid, ví dụ hay được đưa ra là bệnh SARS ở Hồng Công. Bệnh xuất hiện ở Hồng Công mà người bị lây xuất hiện ở tận Canada (như là hiệu ứng cánh bướm, vì thế giới có tính kết nối cao.)
Complex system là hệ có có ba đặc điểm chính: có kết nối qua lại giữa các cá thể và các phần khác nhau trong hệ (interconnectedness), không điểu kiển hay kiểm soát được (uncontrollable), cũng không dự báo được (unpredictable); nhưng có thể nhận biết cái gì sẽ xảy ra và tạo điều kiện cho nó xảy ra theo hướng tích cực. Vì:
Complex system là một hệ self-organization over time, nó tự vận hành, tự thử sai, tự sắp xếp, tự tối ưu hóa, tự tiến hóa, dù rất dễ đổ gãy (do tính kết nối chặt chẽ cao) nhưng lại có thể tự phục hồi. Nó có khả năng tạo ra nhiều điểm cân bằng (multiple equilibria), các điểm cân bằng này tự shifting theo thời gian.
Nó cũng là hệ emergence over scale, tức là từ nội tại của hệ sẽ đột ngột xuất hiện (đột sinh) các cấu trúc mới khi quy mô đủ lớn (Amazon, Grab,… và cả cách mạng Mùa xuân Ả rập cũng là cái đột sinh này).
*
Đại khái như vậy, nên việc phục hồi kinh tế ở HCMC sẽ không ai, dù là cá nhân nào, lãnh đạo nào, nhóm nào…, có thể chỉ đạo, ra lệnh,… cho nó phục hồi được. Cũng chẳng tính toán hay dự báo gì được, vì năng lực nghiên cứu và máy tính ở VN quá yếu, dữ liệu quá kém, giả định mà sai một tí, kết quả sai vô cùng, xem Lorenz ở trên.
Cách tốt nhất là từng bước thả ra cho nó tự vận hành, tự phục hồi, tự sắp xếp, tự tái tổ chức, tự tiến hóa. Từ phía chính quyền, lựa chọn không làm gì (chỉ buông tay) cũng là một lựa chọn. Chọn không hành động gì, cũng là một hành động. Và như thế có thể tốt hơn, thậm chí là tốt nhất. Bởi thành phố HCM, xét như một đại đô thị có kinh tế xã hội đa dạng, phức tạp và năng động, đã là Complex System từ lâu rồi, không ai giúp được nó, cứ thả nó ra để nó tự giúp mình, mới là lựa chọn tốt.
July 24, 2021
Steven Weinberg (1933-2021)
Trải qua khoảng 2600 năm lịch sử, kể từ thời của Thales, Anaximander, Leucipus và Democritus (khoảng thế kỷ 6 hoặc 5 gì đó trước công nguyên) cho đến nửa đầu thế kỷ 20, các nhà vật lý hiểu ra rằng: trên cõi đời này chỉ có bốn lực, gọi là “bốn lực cơ bản”.
Đầu tiên là lực hấp dẫn (ai cũng biết rồi, nhờ đó mà chúng ta có thể đứng trên mặt đất, và cũng vì nó mà bị ngã, kể cả ngã vào tình yêu), rồi đến lực điện từ (là lực khởi tạo ra thế giới văn minh: máy phát điện, đèn điện, và nay là internet; lực này cũng gây ra cú sét ái tình giữa chàng và nàng, khi hai người âm và dương bắt được sóng của nhau).
Tiếp đó là lực hạt nhân yếu, là lực chịu trách nhiệm cho phân rã phóng xạ (ứng dụng của nó là các máy chữa bệnh bằng phóng xạ, và bởi nó nên mối tình nào rồi cũng phân-rã-tàn-phai). Cuối cùng lực hạt nhân mạnh, là lực giữ các hạt cơ bản với nhau để có có proton, neutron và từ đó mới có hạt nhân của nguyên tử (không có lực này thì vũ trụ không có các nguyên tố, bao gồm cả nguyên tố tình yêu, nó hút mạnh, và rất mạnh, nên yêu nhau là phải quấn chặt lấy nhau.)
Bốn lực cơ bản này rất khác nhau và chả liên quan gì đến nhau. Einstein là người đầu tiên muốn tìm ra một thuyết thống nhất cả bốn lực. Ông chưa làm được thì chết (vì già).
Sau đó, đến những năm 1950/60 gì đó thì các nhà vật lý thống nhất được lực điện từ và lực tương tác yếu (unification of the electromagnetic field with weak nuclear interaction field). Trong đó công đầu là Steven Weinberg (vật lý lý thuyết). Hệ quả của lý thuyết này là các hạt boson W và boson Z. Chữ W là weak force, do chính Weinberg đặt. Còn chữ Z là điện tích zero.

Lúc đầu, khi đi trình bày các nghiên cứu của mình, ở góc bảng ông viết chữ W (tên ông hoặc chữ weak). Richard Feymann ngồi dưới hỏi chữ gì đấy. Rồi vì có bản chất mồm miệng cay độc và diễu cợt, Feymann bảo đó là Wrong. Audience cười ồ lên. Nhưng cuối cùng Weinberg mới là người được cười.
Lý thuyết của Weinberg (và Salam, một nhà vật lý khác) hoàn thành năm 1968, đến năm 1973 thì lần đầu tiên phát hiện được tương tác giữa trường điện từ và trường hạt nhân yếu ở máy gia tốc hạt Large Hadron Collider (LHC) ở CERN, năm 1979 thì Weinberg và hai nhà vật lý khác được giải Nobel. Năm 1983 thì CERN tìm ra boson W và Z. Mô hình của Weinberg, sau có tên là Glashow-Weinberg–Salam model, trở thành trụ cột của Standard Model.
Những năm 1970, Weinberg, đến lượt mình cũng có sai lầm, ông phủ nhận sự tồn tại của lỗ đen và trường hấp dẫn. Nhưng không sao, đời ai chả có lúc sai lầm.
Thế còn ông Democritus ở đầu bài.
Democritus là một trong những bộ óc lừng danh xứ Miletus, quãng 450 năm trước công nguyên. Ông là cha đẻ của khái nhiệm nguyên tử (atom, tiếng Hy Lạp là không thể chia nhỏ được hơn nữa). Đáng tiếc là siêu nhân Plato sau này rất phản đối tư tưởng của Democritus, thậm chí đòi đốt hết trước tác của ông. Nên phải rất rất rất lâu sau tư tưởng về nguyên tử của Democritus mới quay trở lại, lần này qua nhà thơ La Mã tên là Lucretius (trước công nguyên tầm vài chục năm).
Nhưng trước tác của Lucretius cũng bị cấm đoán và thất lạc. Mãi đến thế kỷ 15 nó được tìm ra. Bản gốc tìm ra cũng lại bị mất. May mà có người kịp chép tay. Bản gốc này chính là “bài thơ” “De rerum natura” (nghĩa là bàn về bản chất vạn vật). Nó có ảnh hưởng đến vô số các bộ óc ở thời điểm nó được tái phát hiện và các bộ óc thời sau đó nữa: Galileo, Kepler, Machiavelli, Bacon… Newton, Spinoza, Darwin. Và cả Shakepeare cũng nhắc đến Atom trong kịch của mình. Ngày nay, tác phẩm này của Lucretius vẫn tiếp tục là cảm hứng cho các nhà vật lý trường phái Quantum Gravity.
Cuối cùng thì atom hóa ra có thật. Đến năm 1905 nó được chứng minh trong một paper, của một thanh niên 25 tuổi, là Einstein.
Hôm nay đúng ngày HN áp dụng CT16, Steven Weinberg qua đời. RIP Steven Weinberg.
July 7, 2021
Linh tinh lúc xem EURO
Penrose nói về học tiểu học
Sau khi nhận giải Nobel vật lý, Penrose lên kênh youtube của Brian Greene nói chuyện (kênh World Science Festival).
Penrose kể về hồi bé đi học cấp một, lúc đó gia đình ông sống ở Canada. Ông học toán rất kém. Nhưng thầy dạy toán phát hiện ra cậu bé Penrose không phải là dốt nát đầu óc ngu tối, mà là cậu làm bài rất rất chậm. Sau đó thầy cho Penrose thêm thời gian làm bài.
Sau này Penrose trở thành giáo sư toán, và là giáo sư toán đoạt giải Nobel vật lý.
Sau khi Penrose kể, thì Greene cũng bảo là tôi cho sinh viên làm bài không bao giờ tôi giới hạn thời gian làm bài, làm xong thì thôi. (Ở một chương trình khác, Greene nói có lần ra đề hơi thiếu cân nhắc, đề hơi khó, nên sinh viên làm đến đêm mới xong bài thi.)
Einstein cũng có nói đại ý là không phải tôi thông minh hơn người, mà là tôi kiên trì với bài toán lâu hơn người khác (stay with the problems).
*
Mỹ nó có cái từ là one-liner, từ điển giải thích là “a short joke or witty remark”. Ông Reagan là tổng thống Cộng Hòa có biệt tài này. Có lần ông ấy bị ám sát, đưa vào phòng mổ, trước khi mổ ông ấy hỏi các bác sĩ: Này, các anh toàn là dân Cộng Hòa đấy chứ?”. Tỉnh dậy sau phẫu thuật, nhìn thấy vợ, ông bảo: “Em yêu, chẳng qua là anh quên chúi người né viên đạn ấy mà”.
Khi đắc cử tổng thống ông nói một câu lưu danh sử sách: “Chính phủ không phải là giải pháp cho các vấn đề. Chính phủ chính là vấn đề”.
Tổng thống tiền nhiệm (người thua cử) của ông là Jimmy Carter. Reagan nói như sau về nền kinh tế: “Kinh tế đình trệ là khi người hàng xóm của bạn mất việc. Kinh tế suy thoái là khi chính bạn mất việc. Kinh tế phục hồi là khi Jimmy Carter mất việc.”
Khi cải cách thuế, ông nói về rắc rối của tờ form khai thuế: Báo cáo nói rằng ngay cả Einstein cũng chịu chết không tự khai được thuế.”
Nói về cân bằng ngân sách chính phủ, ông giễu cợt như nói về một cô gái đoan trang: Cân bằng ngân sách hơi giống việc bảo vệ đức hạnh: chỉ cần học cách “say No”.
Nói về quan điểm điều hành kinh tế của chính phủ: “Quan điểm của chính phủ về nền kinh tế có thể tóm gọn trong dăm câu sau: Nếu nền kinh tế rục rịch chuyển động, đánh thuế nó. Nếu nó tiếp tục chuyển động, điều tiết nó. Và nếu nó ngừng chuyển động, hãy trợ cấp cho nó.”
*
Hệ phương trình Maxwell
Vừa rồi là kỷ niệm 190 năm ngày sinh James Clark Maxwell. Ông này là tác giả của hệ phương trình Maxwell, một hệ phương trình được coi là quan trọng nhất trong vật lý kể từ thời Newton. Nhờ có hệ phương trình Maxwell mà thế giới mới có thuyết tương đối hẹp của Einstein và vật lý lượng tử.
Lúc đầu hệ phương trình này rối rắm và khó, nên nó không được giảng dạy ở các trường đại học. Einstein đã phải tự học. Ở chiều ngược lại, dù là thiên tài nhưng Tesla hoàn toàn mù tịt về hệ phương trình này, vì thế đã không thể hiểu nổi thuyết của Einstein. Tesla là người kiên cường và kiên trì chống Eisntein nhất, một phần vì tư tưởng bài Do Thái, một phần là vì hổng kiến thức.
Ngày nay, sau nhiều thập kỷ được nghiên cứu và mài rũa, cũng như do ngôn ngữ toán đã tiến hóa hơn. Hệ phương trình này ngắn gọn như sau:
1) ∇.D = ρ
2) ∇.B = 0
3) ∇xE = -∂B / ∂t
4) ∇xH = J + ∂D / ∂t


Trong hình là cách dùng hệ phương trình Maxwell để chứng chứng minh tốc độ ánh sáng là hằng số. (Nguyên thủy thì phải gọi là dùng hệ phương trình này tính toán và dự báo tốc độ ánh sáng là hằng số, sau đó thực nghiệm kiểm chứng là đúng, vì lúc đó chưa ai biết tốc độ ánh sáng là hằng số). Phép chứng minh vỏn vẹn có vài dòng. Phép chứng minh này thường được lấy ra làm ví dụ cho sức mạnh của toán học (nhưng thực ra là sức mạnh của insight vật lý).
*
Thêu hoa dệt gấm
“Thêu hoa dệt gấm” xuất hiện trên bình luận bóng đá VTV là từ thời Real Madrid của Del Bosque thắng hai cúp C1. Mà thực ra cũng là thuổng của bình luận trên báo tây, họ dùng từ Fabrication.
Lúc đó Real với tiền vệ phòng ngự là Redondo lên bóng bằng các đường đan lát bóng qua lại rất nhanh, chính xác và sệt. Nhìn cực kỳ đẹp mắt.
Có thể xem lại trận chung kết C1 mà Real thắng Valencia. Hoặc trận Real thắng MU sân khách, trong trận này Redondo có quả qua người dùng gót chân nhìn cực kỳ ma mị, không thể hiểu nổi trên đời có thứ bóng đá như đánh bi-a kết hợp hình học Euclid đẹp đẽ như vậy. Quả qua người rồi chuyền để ghi bàn này là mẫu mực của đan lát bóng xuyên qua hàng phòng ngự, mà ở Việt Nnam nay gọi là thêu hoa dệt gấm.
(Tuyển VN còn rất lâu mới đến trình này, vì đan bóng là phải xuyên qua rừng chân cầu thủ đối phương với tốc độ cao, chứ chuyền cho nhau lề mà lề mề không ai gọi là đan lát.)
*
Thu hồi bóng
Khả năng thu hồi bóng (ball recovery). Nếu search từ này, sẽ thấy có cả các bài báo khoa học (paper) nghiên cứu về kỹ năng này. Lý do đơn giản là tất cả các pha tấn công đều bắt đầu từ cầu thủ và vị trí thu hồi bóng, nghiên cứu ball recovery của các cầu thủ (như Pogba, hoặc Tuấn Anh) sẽ biết được pattern tấn công của cả đội.
Bóng đá hiện đại có các cầu thủ: cao lớn hơn, chạy nhanh hơn, bền sức hơn. Công nghệ hiện đại cũng giúp các cầu thủ giỏi hơn cả về kỹ thuật lẫn chiến thuật. Trong lúc đó kích thước sân vẫn như thế. Không gian giao đấu vẫn như xưa, số lượng đấu sĩ hai bên như cũ, nhưng các đấu sĩ di chuyển nhanh hơn, thông minh hơn, bài bản hơn, chiến thuật hơn. Việc này khiến cho không gian sân tuy vẫn thế, nhưng về bản chất là bị thu hẹp lại rất nhiều.
Khả năng cơ động của các cầu thủ cho từng tình huống bóng là nhanh hơn, chiến thuật hơn, khiến cho cả hai bên (nếu ngang tài ngang sức) rất khó tìm khoảng trống để tấn công. Mọi thứ vì vậy, phải bắt đầu từ khả năng thu hồi bóng, và phát động tấn công.
Với những ngôi sao như Pogba thì thậm chí không chỉ là ball recovery mà họ dùng từ possesion recoveries. (Tức là thêm cả những pha đoạt bóng, chặn đường chuyền của đối phương,…).
Xem bóng đá trên sân rất dễ nắm chiến thuật. Xem qua TV khó hơn nhiều. Ví dụ cực đoan nhất là xem Barca thời Iniesta và Xavi. Bọn này luôn dùng bốn đến sáu cầu thủ ban bật ngắn với nhau, liên tục chạy chỗ, cho tới khi bóng đến cấm địa. Việc theo dõi cùng lúc vài đứa chạy chỗ (chưa kể có đứa nằm ngoài khuôn hình) là rất mệt, có khi chỉ tập trung xem được chục phút là mất tập trung. Ví dụ thứ hai là góc quay. Pha Pháp ghi bàn (nhờ Đức phản lưới nhà): Góc quay đầu tiên thấy Pogba cầm bóng giữa bốn cầu thủ Đức, bên cánh phải, rồi rót một quả cầu vồng nhìn rất ngáo vào vòng cấm địa, rồi bỗng nhiên một chú Pháp hiện ra nhận bóng. Nhờ công nghệ nên sau đó xem tình huống đó ở góc máy khác, chú Pháp kia là hậu vệ biên lao lên từ trước rồi. Nếu xem trên sân sẽ nhận ra các tình huống chuyền bóng ngang luôn có ai đó xuất hiện đón bóng, là vì họ đã tập tình huống đó cả ngàn lần. Thằng chuyền cứ thế chuyền, kiểu gì cũng có đồng đội hiện ra. Chưa kể chúng nó gọi nhau trên sân rất nhiều.
Nhưng dù sao, để nắm chiến thuật, vẫn có một cách như vậy, quan sát cách tiền vệ phòng ngự di chuyển, đánh chặn, và phát động tấn công. Từ đó thấy đội hình vận hành thế nào. [Trận Tây Ban Nha – Ý, bọn Tây Ban Nha gần như đá với 7 tiền vệ, toàn những cao thủ cầm bóng, ban bật, bóp nghẹt Ý mấy chục phút.]
Trong lúc xem EURO thấy khán giả đầy khán đài, mới thấy VN vẫn ngạo nghễ, từ cột điện đến gốc tre, đều cố thủ trong nhà xem bóng đá qua TV.
*
Anh Brian Greene tweet về “điểm kỳ dị” của “lỗ đen”: “Calling something a “singularity” is a physicist’s way of saying “we don’t know what the heck we’re talking about.”
Anh cũng nhắc lại lời của Wright và bình luận thêm: “”Black holes are where God divided by zero.”. Rồi anh bình luận thêm: “Quantum gravity is where such mathematical singularities, whether of human or divine origin, will be resolved.”
Nhân sinh nhật George Orwell (1903), anh Brian Greene cũng quote một câu của ông này trên twitter: “A man really dies when he loses the power to take in a new idea.”
*
Năm nay các đội đáng xem nhất về chiến thuật là Pháp, Ý và Bỉ. Riêng Pháp thì Deschamp nắm tuyển quá lâu, nên có thể cũng đã hết bài. Dàn cầu thủ thực ra vẫn thế.
Mancini thực sự là thú vị, đưa nhiều nét mới (mới vừa vừa), đó là xu hướng tấn công tốc độ cao vào lối chơi cù nhầy đầy toan tính truyền thống của Ý (bóng đá Ý xem rất chán, hai clb Ý đá với nhau, 80 phút đầu hòa 0-0, đến phút 89 thì tỷ số là 2-1).
*
Liệu cơm gắp mắm
Hồi trước mình có viết một bài về quản trị dân gian, đại khái là các kiến thức dân gian được diễn đạt lại trong môi trường quản trị hiện đại. Buôn tài không bằng dài vốn chẳng hạn. Sau đang viết lạc mẹ đề, nên bỏ dở.
Trận Hà Lan thua Séc hôm qua là một bài học về quản trị. Nó cho thấy tại sao ở các doanh nghiệp tầm trung, hoặc đang phát triển thì CEO là quan trọng; còn doanh nghiệp đã mature rồi, thì COO quan trọng hơn nhiều. Ngày nay các vị CEO phải làm việc như COO (và người hỗ trợ đắc lực cho việc này lại là CTO). Anh CEO hàng đầu thế giới bây giờ, Tim Cook, từng là ngôi sao COO rất lớn. Anh Elon Musk thì biệt tài về Operation, nhìn anh ấy cải tiến công suất nhà máy thì hiểu. Với vụ nhà máy Tesla, chính là liệu cơm gắp mắm.
Sơ đồ vận hành một đội bóng trên sân nằm ở chỗ: ít có HLV nào mà có tay đội hình tối ưu, sẽ thừa chỗ này, thiếu chỗ kia, và thường là thiếu chứ không thừa. Việc quyết định sơ đồ vận hành nào, và đặt niềm tin vào cá nhân nào để lắp vào sơ đồ để đội bóng vận hành trơn tru (ít nhất là an toàn) qua từng trận (và ở cấp clb, do đá nhiều giải nhiều trận, việc này khó hơn nhiều). HLV Hà Lan đã đặt niềm tin nhầm cầu thủ, sắp đội hình sai, mà thay người cũng sai. Liệu cơm gắp mắm rất khó, liệu sai gắp sai là toang.
*
Cấp đạn
Việc Pháp sử dụng súng ba nòng (Mbappe, Benzema, Griezmann) nhìn thì kinh đấy, tưởng như nã đạn như điên và đối thủ chết như ngả rạ.
Nhưng đạn ở đâu ra. Bóng đá hiện đại, đối thủ nào cũng đủ đẳng cấp kỹ chiến thuật và sức mạnh để bịt tất cả các tuyến đường tải đạn. Pogba là siêu cấp đạn thì cùng lắm cũng chỉ cấp đạn được cho hai nòng. Mà thực tế cũng chỉ cấp được một nóng rưỡi, nửa nòng còn lại cũng vẫn phải lùi về mà kiếm đạn, hoặc nhờ vả hai cánh đưa lên. Chưa kể cứ cố sức tìm cách tải đạn lên trên, thì hậu phương toang hoác. Hoặc đơn giản là khung thành có thế, các nòng có khi dẫm chân nhau.
Trong kinh doanh cũng vậy, có nhiều sale giỏi quá là vô nghĩa. Nhiều cty chỉ vì nôn nóng tăng doanh số mà tuyển thêm sale giỏi về (như Pháp gọi lại Benzema) dẫn đến giảm doanh số, tăng chi phí, và…lỗ.
*
Hypercompetition : Ý, TBN, Anh, Đan Mạch vs Bỉ, Pháp…
Ba đội Ý, TBN, Anh giống nhau là đội hình và huấn luyện viên (cựu cầu thủ) đều là các ngôi sao cỡ vừa vừa , thua xa Pháp Bỉ Bồ đội hình có ngôi sao lớn, huấn luyện viên cũng là ngôi sao lớn.
Chất lượng đồng đều, không bệnh ngôi sao là bí quyết của đá giải kiểu tournament, đặc biệt là lần này khi các đội được đăng ký tới 26 cầu thủ và mỗi trận được thay tới 5 người.
Khi bóng đá, trong thể thức tournament, của thời hiện đại, kỹ chiến thuật đội nào cũng ngang nhau, thì cạnh tranh chính là hypercompetition mà sách quản trị vẫn nói. Lúc này, quản trị nhân sự có vai trò rất lớn. Từ đó mới có thể tận dụng được những gì cơ hội (sai sót, không lường trước) hiếm hoi trong mỗi 45 phút thi đấu. Bàn 1-0 của Ý với TBN, bàn gỡ hoà Thuỵ Sỹ với Pháp là như vậy.
Đến nay thì thấy Anh và Ý vào chung kết. Tây Ban Nha bị loại cũng hơi đáng tiếc, nhưng cũng là do họ bỏ phí quá nhiều cơ hội ghi bàn. Có một cái tiếc nữa là không được xem Pedri đá chung kết.
July 5, 2021
Không ổn
Dịch diễn thì biến liên tục, cách chống dịch, nói đúng hơn là cách tiếp cận cứng nhắc và không theo kịp dịch.
Lúc đầu dịch, bùng phát lốm đốm, phát hiện F0, truy vết F1, F2, cách ly tập trung, thì còn ổn.
Nhưng dịch kéo dài, nguồn lực chống dịch có hạn, nhân lực chống dịch có hạn, hệ thống chỗ yếu chỗ kém. Mỗi ngày cả ngàn ca F0, mà vận dụng nguồn lực đang kiệt sức dần, để làm một công việc có khối lượng tăng dần. Và cũng bất khả thi. Vài ca F0 mỗi ngày thì truy vết được, chứ hàng ngàn ca thì truy vết làm sao. Vài trăm F1 thì cách ly tập trung được, chứ hàng vạn F1 thì phải cách ly phân tán chứ. Chưa kể các định nghĩa về F1 quá mơ hồ, hai người lạ vô tình đi qua nhau, người kia F0 người này trở thành F1.
Tiêm chủng cần ưu tiên, làm nhanh nhất trong khả năng, chứ không cần thần tốc. Xét nghiệm diện rộng, tự nó đã bao hàm phải có rất nhiều điểm xét nghiệm trên địa bàn rộng. Chứ không phải xét nghiệm diện rộng là kéo “diện rộng” đến vài điểm xét nghiệm tập trung. Cái gì hệ thống (hạ tầng, nhân sự, logistics) không làm tốt được, thì đừng làm còn hơn. Xét nghiệm để ai biết mình vẫn còn âm tính thì phải tiếp tục giữ gìn, và đi kiếm ăn nếu có thể. Ai dương tính mà chưa có triệu chứng (vì có triệu chứng thì cần quái gì xét nghiệm diện rộng) thì tìm cách ly, ít nhất là không để lây cho người thân, bạn bè, đồng nghiệp, đối tác. Cho đến khi có triệu chứng thì đi “cấp cứu”. Bệnh viện là tuyến cuối, không phải tuyến đầu, cho nên cần bảo vệ tối đa, nhưng không được vì vài ca F0 là phong tỏa. Tuyến cuối mà lại phong tỏa thì bệnh nhân đi đâu?
Hô hào 4.0 bao lâu, mà mobile payment chả thấy đâu, vẫn dùng tiền mặt, quá kinh. Truyền thông 4.0 vẫn là nhắn tin, và xin tiền đóng góp. Lưu thông hàng hóa và lao động là máu của nền kinh tế, mà nay phải có giấy thông hành như thời chiến, thậm chí có tỉnh cấm ra cấm vào. Khoảng 70-80 triệu người hàng ngày phải đi làm (từ công nhân đến bán rau), không đi làm là chết. Mà đi làm của người lao động, là phải đi nhiều cây số từ nhà đến chỗ làm (chỗ bán rau). Càng cản trở việc này, càng rối ren, tiêu cực,… càng không hiệu quả chống dịch (chưa kể còn mục tiêu kép nữa mới mệt).
(Chưa kể chống dịch như chống giặc, biến F0 thành việt gian, kẻ thù, F1 là tiếp tay cho địch, phải bắt, phải hốt, phải cách ly khỏi cộng đồng,… bất chấp họ cũng là người dân lao động, hiền lành như bao người dân khác.)
June 7, 2021
VN-Indo (4:0) – Khớp Các Đăng (Đỗ Hùng Dũng)
Xuân Trường đá hay… như xưa. Hay còn gọi là phong độ đã trở lại. Anh sút xa một quả tuy hiền lành dễ đoán với thủ môn, nhưng quả bóng vẫn làm ra một đường cong uy lực vãi chưởng khiến thủ môn quân địch phải vươn tay hết cỡ. Cú phất bóng của Xuân Trường lên trên để Văn Thanh ghi bàn thật là có tư duy (cộng với đội bạn lúc này đi bộ và để lộ khoảng trống quá khổng lồ).
Cả 4 bàn thắng đều không phải là phối hợp/tổ chức tấn công (hai bàn do chuyền vượt tuyến, một bàn sút xa, một bàn do đá phạt góc dẫn đến). Thực ra VN cũng có các pha phối hợp có ý đồ và tương đối đẹp mắt (một phần là do đội bạn chiến thuật dốt) nhưng đều kết thúc bằng sút hỏng). Cho nên 4-0 chưa nói lên gì nhiều.
Dũng Chip chấn thương khiến cho tuyến giữa thiếu hẳn một “trục các đăng”.
Làm sao mà xe máy, hay ô tô, chuyển được từ số cao về số thấp (từ tấn công quay về phòng ngự) và số thấp lên số cao (chuyển qua phản công) nếu không có trục các đăng (đặt theo tên ông Cardano). Trục các đăng giúp cái xe chạy được mà hầu hết người lái xe không biết nó tồn tại. Thiếu Dũng Chip tức là cỗ máy đội tuyển thiếu một cái trục/khớp/bánh xe có tác dụng như thế.
Hồng Duy hiệp một có pha phối hợp, cầm bóng xuống sát biên ngang rồi chuyền sệt lại cho Tiến Linh, nhưng Tiến Linh đá lên giời. Hiệp hai, cú chuyền chéo của Hồng Duy quá đẳng cấp (chuyền vào giữa hai cầu thủ đội bạn đang chạy cùng Tiến Linh), Tiến Linh dùng tay rồi dùng chân ghi bàn. Dùng tay ok, coi như bù cho thẻ đỏ đội bạn hiệp 1 thoát mấy phát.
Cuối cùng là Tuấn Anh, đầu hiệp một anh có một cú sút sống ngoài 16m50 quá đẳng cấp tuy không thành bàn. Tuy nhiên Tuấn Anh là mẫu thoát pressing và mở hướng tấn công, còn Indo không pressing gì mà chỉ dẫm đạp, nên rất may là Tuấn Anh đau và bị thay người sớm, chứ không ở lại thì què luôn rồi. May mắn nữa là Xuân Trường vào thay lại đá quá tốt.
Nhìn vào hình vẽ (hình động) của khớp các đăng dưới đây (cardan gear) ta sẽ thấy điểm D chạy lên chạy xuống. Ta cứ nghĩ đấy là trục dọc của sân bóng, D chạy lên là tấn công, chạy về là lui về phòng ngự. Điểm A có thể là Tuấn Anh, Xuân Trường (ví dụ đúng nhất phải là Pirlo).Bài bình luận bóng đá và cơ khí hôm nay đến đây là hết.
Link xem cardan gear ở đây (ko hiểu sao không insert được vào bài): https://www.geogebra.org/m/uaguEEM8
May 12, 2021
Linh tinh lang tang
Một ngày, trừ các thời gian ăn ngủ tắm ị đái, thực ra chỉ còn khoảng tối đa là mười bốn tiếng (trong đó có tám tiếng làm việc). Nếu tính thêm cả việc nhà (nấu ăn, dọn dẹp,…) chỉ còn mười hai tiếng. Nên thời gian đi lại (đi làm, đưa con đi học…) mà mất tầm 10% (độ tiếng rưỡi mỗi ngày), thì ok. Mất hơn, là lãng phí (thời gian, năng lượng đi đường, từ xăng xe, sức khỏe đến hệ thần kinh). Suốt mười lăm năm nay mình ra sức tuyên truyền điều này với bạn bè. Có những người bán biệt thự ở quận 7, thuê/mua chung cư quận nhất hoặc gần đó, ai cũng thấy happy: vợ chồng đi làm nhàn, con cái đi học nhanh; bạn bè hú nhau đi nhậu dễ (thời gian đi làm giảm từ một tiếng rưỡi cho một chiều đi hoặc về xuống chỉ còn tầm 35-45 phút, mà đấy là nhà khá giả, có lái xe riêng, chỉ phải ngồi không phải lái, mà còn thấy sướng như vậy).
Trẻ con đi học, nhiều nhà xin cho con học trường tốt, hoặc quốc tế, nhưng xa nhà. Thời gian đứa trẻ đi học mỗi ngày (kể cả là đi xe hơi xịn) là khoảng ba bốn tiếng. Rất là khổ. Ngoài việc dậy sớm, thì tuổi ấu thơ của lũ trẻ nếu đi học xa, thì phần thời gian nhiều nhất là ngồi xe ô tô. (Nếu đi xe máy thì còn khổ nữa, nhất là trời mưa gió.)
Hơn chục năm nay, ai hỏi là xin cho con học trường nào, lời khuyên của mình là: trường công, gần nhà nhất. Kể cả đó là trường làng cũng không sao. Đi học mà dưới 1km là cực kỳ sướng, nhất là những ngày thời tiết xấu. Đi xe máy độ 3 phút. Đi bộ chừng 15 phút, kể cả chờ đèn đỏ. Nếu nhà có điều kiện chăm sóc, thậm chí không cần bán trú, trưa về nhà ăn ngủ được.
*
Tuổi thơ cực kỳ ngắn, độ hơn chục năm, và không bao giờ quay lại. Mà chẳng ai biết tương lai thế nào, chỉ biết là lúc còn bé, sướng được thì cứ cho chúng nó sướng cái đã. Nên nếu trẻ con thích cái gì, cho chơi hết, từ game trên ipad đến ps4. Miễn là đừng chơi quá nhiều.
Xét rộng hơn, nền kinh tế mà mất quá nhiều thời gian cho việc đi đường, nhất là đi công tác ngoại tỉnh hoặc vận chuyển hàng hóa (hơn 100km đi mất 1.5 tiếng) thì tất nhiên là chẳng thể nào tăng trưởng có chất lượng được.
*
Ngoài việc học trường công, gần nhà nhất có thể, giờ chia sẻ thêm vài suy nghĩ về việc nuôi dạy trẻ.
Đầu tiên là có nên ép, gò, thúc, hoặc mĩ miều gọi là “khuyến khích con chăm học”, từ bé không. Câu trả lời là Không. Ít nhất là ở cấp tiểu học. Lý do là con người ta làm cái gì đó một thời gian thì cũng chán, học cũng vậy. Phần nhiều là đến cấp ba là chán học. Một số ít hơn đến năm hai, năm ba đại học. Một số ít nữa thì bỏ học master hoặc PhD. (Khi đã chán học, thì chỉ cần một cái gì đó hấp dẫn là sẽ bỏ, ví dụ đang học năm ba thì bạn rủ đi làm, có tiền). Cho nên đừng ép trẻ chăm chỉ học hành quá sớm, vì nó sẽ chán học sớm. Mỗi khi định ép trẻ tiểu học phải chăm học, hãy nghĩ rằng học nhiều quá đến lớp 10 nó sẽ chán học mất. Để đến lớp 7 hẵng ép. Học tiểu học chỉ cần học kha khá là được.
*
Học mẫu giáo là quãng thời gian rất phù hợp để học bơi và patin. Bơi không chỉ là kỹ năng sinh tồn, nó còn nhiều giá trị khác. Lớn mà không biết bơi, đi chơi với bạn, các bạn bơi thì mình ngồi trên bờ trông quần áo. Bơi còn là cảm nhận không gian 3D đúng nghĩa, ngoi lên ngụp xuống, đi chéo đi ngang. Còn Patin là tập thăng bằng, tập tốc độ. Và quan trọng nhất là ngã rất nhiều; ngã thì tự mà đứng dậy. Ngã đau và tự đứng dậy là một trải nghiệm rất quan trọng với trẻ con.
Tiếp đó là câu hỏi có nên học chữ sớm không? Nhiều người cho rằng không nên học chữ sớm. Cái này có lẽ không đúng. Vì cái gì ai cũng phải biết, thì biết sớm sẽ tốt hơn. Dạy chữ cho trẻ chỉ cần dạy biết ghép chữ, rồi biết đọc (không cần biết viết). Đứa trẻ “không biết đọc” và “đứa trẻ biết đọc” là hai đứa khác hẳn nhau. Sau khi biết đọc, đứa trẻ nó thấy một thế giới khác, và nó làm được nhiều việc khác hẳn. Nó có thể nhắn tin cho bố mẹ (rất nên mua smartphone cho trẻ, cài cả viber, đừng hạn chế). Và lúc nó biết đọc, thì đã có thể bắt nó đọc vài cuốn sách trẻ con (dù nó có thích hay không). Sau khi nó đã đọc vài cuốn truyện tranh (biết thế nào là một câu chuyện được kể ra bằng chữ, có thêm từ vựng,…) thì có thể cho học tiếng Anh và học nhạc được. (Tiếng Anh học quá sớm, khi từ vựng tiếng mẹ đẻ còn ít, cách diễn đạt tiếng mẹ đẻ còn vụng về, chưa biết mặt chữ, không đọc được chữ Apple, thì học tiếng Anh sẽ khá là vất vả, ý kiến này đối với trẻ em nói chung, còn bé nào có khiếu ngoại ngữ thì không bàn.)
*
Cuối cùng là đừng ghét các môn học thuộc lòng, và văn mẫu. Học thuộc lòng, nhất là các môn ngu ngu nhồi toàn sự kiện số liệu bắt học, là môn tập thể dục rất tốt cho não. Trí nhớ tốt là phải do luyện tập từ bé, chẳng ai tự nhiên nhớ được cái gì khô khan dài dòng (nhớ từ vựng, ngữ pháp khi học ngoại ngữ cũng vậy).
Văn mẫu cũng chẳng có gì xấu. Hầu hết trong cuộc đời chúng ta là dùng VĂN MẪU: đơn xin học bổng, đơn xin việc, đơn xin nghỉ ốm cho con…. tất cả đều là một dạng văn mẫu. Phát biểu tổng kết, phát biểu chào mừng, viết báo cáo, viết kiểm điểm… cũng là một dạng văn mẫu. Làm văn mẫu cho chuẩn là tốt rồi, tốt cho mình và cho cuộc đời. Nhiều người giờ viết cái đơn xin việc còn chẳng ra hồn. Đó là do chê không học văn mẫu một cách nghiêm túc. Vả lại, trước khi làm cái gì sáng tạo, thì phải làm tốt cái mẫu đã. Nên bố mẹ rất nên động viên con học tốt các môn này (và học cùng con nếu có thể). Dù học nó rất chán. Nhưng về cơ bản, học là một việc rất chán, chán hơn chơi rất nhiều.
Cuối cùng, thì bố mẹ nên tham gia nhiều hoạt động xã hội, cộng đồng, và cho con đi cùng, dù khổ đến mấy. Trẻ con thật ra lại rất thích đi như vậy.
***
Mấy ông bạn già ở Cali đã tiêm xong hai phát Moderna. Khoe vaccine card trong group chat viber. Mọi người nhao lên hỏi có tác dụng phụ gì không. Mình bèn chỉ các anh cách trả lời.
“Em chỉ cho anh một câu trả lời kinh điển nhé. Tác dụng phụ sợ lắm, làm mình yếu đi, trước đây sáng dậy anh chỉ cần dùng một tay là đè nó cụp xuống được, giờ phải dùng cả hai tay.”
Cái kiểu nói đùa sử dụng logic thế này khá hiếm trong tiếng Việt và thường là khuyết danh. Câu có tác giả rất ít. Ví dụ Trần Tiến (nhạc sĩ) có câu: “Lá diêu bông là cái lá có thật, do ông Hoàng Cầm bịa ra.”
***
Hôm nay đi xe grab lên quận 12, hỏi Tăm là hôm qua nghe ai hát nhỉ. Tăm bảo Eric Clapton. Rồi nói thêm rằng ông ấy có nick là slowhand. Rồi kể chuyện ông ấy nghiện, đeo thìa vàng ở cổ, rồi tháo ra tặng bác sĩ. Tăm bảo bố kể chuyện này rồi. Mới kể chuyện con ông ấy ngã lầu chết, ông ấy sáng tác bài hát cả thế giới biết. Hỏi con nghe không, Tăm bảo không, con không nghe. Kể cho Tăm là ông ấy nhỏ con, chân dài, rất đẹp giai, nhưng hồi trẻ rất hay xấu hổ, e dè ngượng ngập, gái theo rất nhiều, toàn cô xinh, mà xinh tầm thế giới. Tăm hỏi… thế ông ấy ở band nào.
Nghe đến khúc gian tấu, Tăm bảo: giai điệu hay quá.
Clapton hát hay đàn giỏi. Nhưng ở bài này ông ấy hát hiền hành, giản dị. Nghe sẽ thấy ông ấy tôn trọng bài hát, tôn trọng thính giả và tôn trọng chính người nghệ sĩ super tài năng trong mình. Ngón đàn và tư duy âm nhạc của ông ấy cực kỳ tài hoa mà không cần vượt qua bài hát. Đoạn gian tấu và solo cuối bài hát cho thấy không cần phải tỏ ra mình siêu hơn bài hát mà mình thích hát, mà phẩm chất cùa mình vẫn hiện rõ, rất hiền và rất tự nhiên.
Có rất nhiều vẻ đẹp tuyệt vời trên trái đất này. Có những vẻ đẹp do con người cố ý tạo ra, có những vẻ đẹp do con người vô tình tạo ra. Vẻ đẹp âm nhạc của Clapton là vẻ đẹp vô tình. Ông ấy làm ra vẻ đẹp mà không cần cố gắng, tự nhiên nó hiện luôn ra đấy. Vẻ đẹp tạo ra, hồn nhiên như hơi thở, như trăng rằm đến tháng lại tròn, như chiều nào tà dương cũng hiện, như cầu vồng sau cơn mưa,… như là vô tình mà có. Vẻ đẹp ấy không làm ta sững sờ, mà làm ta cảm luôn, như đang khát mà uống ly nước.
Tôi cũng thích những vẻ đẹp do con người cố ý tạo ra. Như Angkor Wat. Nó làm ta sững sờ. Nó làm ta ngạt thở. Nhưng tôi thích hơn những vẻ đẹp do con người vô ý tạo ra. Họ tạo ra tự nhiên như hơi thở, như chẳng cần cố gắng. Những vẻ đẹp vô tình.
***
“Hình như em cũng đem lòng yêu ông.” – Nàng cố nở nụ cười rồi tắt thở.
Sáng đưa Tăm đi nhà sách, mở ra thấy lời tỏ tình của Éponine với Marius, liền mua luôn.
Ngày nay người ta không nói tiếng Việt giản dị như thế này nữa: Hình như, đã đem lòng mình, yêu nhau.
Lần đầu đọc lời tỏ tình này, chắc chỉ mười ba mười bốn tuổi, không nhận ra Eponine là nhân vật mà tác giả dường như gửi gắm nhiều tình cảm nhất. Lúc Eponine bé tí, tác giả tả cô ấy xinh xắn, ăn mặc đẹp, được nuông chiều và hư. Thế rồi gia đình bố mẹ cô phá sản, bị bần cùng hoá và lưu manh hoá. Éponine, chị và em trai mình trở thành những thiếu niên dưới đáy xã hội, cuộc sống hàng ngày bám lấy đường phố Paris.
Éponine ở tuổi teen, đói nghèo, tàn tạ, khôn ngoan và quỷ quyệt. Nhưng vẻ đẹp của thiếu nữ và sức quyến rũ của tâm hồn trẻ đang yêu vật lộn trong thân thể gày gò và tàn tạ ấy để toả sáng. Cô ấy soi gương và hát trong căn hộ tồi tàn của Marius. Kể cho anh những tối cô đi dạo và hát một mình trên đường phố Paris.
On my own, là bài hát mà Éponine hát trước khi chết, trong vở kịch hát Les Miserables. Bài hát rất lay động lòng người. Cô chết khi gối đầu vào lòng Marius, trên chiến luỹ Paris, vì trước đó cô mang ngực mình che cho Marius một viên đạn.
“Nàng cố nở nụ cười rồi tắt thở”. Nhân vật duy nhất trong cả cuốn tiểu thuyết dài thực sự biết yêu và chết vì người mình yêu.
***
Con trai của hoàng tử Harry và cô diễn viên Meghan là một hoàng tử lai.
Trong lịch sử VN, theo Tạ Chí Đại Trường, có một hoàng tử lai là Lê Long Đĩnh.
Ông này có mẹ là “Di nữ”. Tài năng của ông vô đối, đặc biệt là tài quân sự và tài ăn chơi. Công lao cũng nhiều, như việc mang tứ thư ngũ kinh về VN. Chẳng may chết sớm. Lý Công Uẩn soán mất triều Tiền Lê, sau đó ra sức bêu xấu Lê Long Đĩnh. Nên ông hoàng tử lai này mang tiếng xấu đến tận ngày nay, trong khi tài năng không mấy ai còn nhớ.
***
Bình thường thì để giải thích sự sống thì là các nhà sinh học, hóa học… Thế nhưng có một nhà vật lý lại dùng định luật hai nhiệt động học để giải thích sự sống.
Ông này là Erwin Schrödinger, một trong những người sáng lập ra vật lý lượng tử. Quãng 1943-1944,
Schrödinger viết một cuốn chuyên khảo nhỏ tên là What is Life. Trong đó Schrödinger đề cập đến các phân tử làm nhiệm vụ mã hóa và truyền thông tin từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ở thời điểm Schrödinger viết cuốn sách này khoa học chưa thực sự biết đến nhiễm sắc thể, DNA và di truyền. (Hơn 10 năm sau, mấy món này mới được confirm). Hai nhà khoa học đoạt giải Nobel vì khám phá ra cấu trúc DNA là James Watson và Francis Crick đều nói họ chịu ảnh hưởng của cuốn sách What is Life. (Ai muốn đọc cuốn sách này có thể tìm pdf trên internet).
Ý tưởng (gốc) của Schrödinger, nay có tên là “Order from Order”, khó hiểu. Ông ấy bảo các sinh thể (các tế bào hoặc nhóm tế bào chẳng hạn) ăn các trật tự, và thải ra sự bất trật tự. Đó là nguồn gốc sự sống. Đối với Schrödinger, thì sự trao đổi chất chính là ăn entropy vào rồi thải entropy ra môi trường. Ăn vào những gì có độ trật tự cao (low-entropy), xả ra môi trường xung quanh những gì có độ trật tự thấp (high entropy/sự hỗn loạn).
Sau này các nhà vật lý khác diễn đạt lại dễ hiểu hẳn ra. Trong đó có Roger Penrose. Penrose giải thích như sau:
Ví dụ như con người, tổng năng lượng trong một cơ thể con người trưởng thành là không đổi (giả sử người đó không béo lên). Cho nên việc nạp năng lượng là không cần thiết. Năng lượng chỉ cần nạp để con người lớn lên (từ em bé trở thành người lớn). Nhưng nói chung, ngoại trừ một số nhà vật lý, hầu hết mọi người luôn cho rằng sống là phải tiêu hao năng lượng, nên cứ phải nạp vào.
Thế tại sao con người phải ăn. Không phải để nạp năng lượng, mà là để để giữ cho entropy (độ mất trật tự) trong cơ thể mình không đổi (không tăng lên). Việc đó xảy ra thế nào?
Con người ăn con bò, có entropy thấp, và xả ra môi trường entropy cao (nhiệt/heat). Con bò đến lượt nó lại ăn entropy thấp hơn là cỏ (thực vật). Thực vật đến lượt nó lại ăn entropy thấp hơn nữa là ánh sáng mặt trời (quang hợp). Về tổng thể, ban ngày trái đất nhận entropy thấp là ánh sáng (photon từ mặt trời), ban đêm lại xả ra entropy cao (bức xạ nhiệt vào không gian). Ban ngày trái đất thu nhận một số ít ánh sáng nhìn thấy được (nắng mặt trời). Ban đêm xả ra một núi các bức xạ hỗn loạn không nhìn thấy được (bức xạ nhiệt).
Thế entropy thấp của ánh sáng đến từ đâu. Nó đến từ các phản ứng nhiệt hạch trong lòng mặt trời. Các phản ứng này, đến lượt nó ăn entropy rất thấp từ hấp dẫn (gravity/gravitation) và xả ra entropy cao hơn (ánh sáng/photon).
Có thể suy rộng ra, để duy trị sự sống của mình, một hệ (sinh vật, cộng đồng, xã hội, đảng phái, nhà nước) luôn phải ăn sự ổn định (low-entropy, sự trật tự…) và xả ra bên ngoài sự hỗn loạn (high-entropy, rất mất trật tự). Mỹ chẳng hạn, là cường quốc, vì nó ăn rất nhiều low entropy (tài nguyên, bao gồm chất xám) và xả high entropy ra khắp thế giới (bao gồm cả đô la, iphone, phim hollywood). Đại khái vậy, ta có thể áp dụng tư duy của Schrödinger vào cơ quan, chi bộ, khu phố, các tập đoàn, chính quyền abcd của mình nếu thích. (Về sức khỏe, ung thư là một dạng cơ thể bị tăng entropy, nên việc ăn nhiều rau ít thịt, ko rượu không thuốc không niềm vui để entropy đầu vào thấp nhất có tác dụng chống ung thư có khi là hợp lý. Việc tăng entropy xả ra thông qua tập thể dục, lao động… cũng hợp lý tương tự. Chưa kể hoạt động cường độ cao sẽ giúp làm giảm gốc tự do (free radical) vốn là cái gây ra lão hóa và bệnh tật.)
***
Thánh Thomas Aquinas có năm phép chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế. Phép thứ năm có tên gọi là Grand Design. Phép này sau này bị bác bỏ, vì chính sự tiến hóa, chứ không phải thượng đế, đã “design” tất cả mọi thứ sao cho chúng tinh xảo và tối ưu. (Tuy nhiên, vẫn còn đó thắc mắc, ai design cái Big Bang). Cái gì không tối ưu, cồng kềnh, nhất là cồng kềnh về mặt sinh thái và năng lượng sẽ không tồn tại. Blockchain rất cồng kềnh và rất tốn năng lượng. Tuy về philosophy thì con người thích một mô hình phi tập trung hơn là tập trung, mà phi tập trung tức là không tối ưu, phi tập trung chỉ tốt khi nó đa nguyên/đa dạng sinh học, như là thế giới tự nhiên, hay nền dân chủ. Blockchain không có đa dạng sinh học, không đa nguyên. Blockchain chắc sẽ thành công với các thứ như smartcontract, còn với cryptocurrency thì khả năng cao sẽ là không.
Nhân nói đến Thượng Đế/Chúa. Trong 5 phép chứng minh của Aquinas, có 3 phép đã bị bác bỏ. Phép đầu tiên (God, the Prime Mover) vẫn còn bỏ ngỏ, là do ngay cả vật lý hiện đại cũng chưa biết tường tận cái gì tạo ra Big Bang (nếu như không phải là Prime Mover).
Nhà vũ trụ học đầu tiên đề xuất thuyết Big Bang (và cho rằng trong Big Bang có hiện tượng quantum), tên là GeorgesLemaître. Tên của ông có trong mô hình thuyết Big Bang, FLRW, trong đó L là Lemaître. (FLRW=Friedmann–Lemaître–Robertson–Walker)
Lemaître là một linh mục Dòng Tên. Còn Dirac, cha đẻ của thuyết trường lượng tử và tiên đoán được phản vật chất, hoàn toàn vô thần. Dirac gặp Lemaître và hỏi: Có phải thuyết Big Bang rất gần với tôn giáo của ông không. Lemaître trả lời: “Hoàn toàn không.” Dirac lại hỏi tiếp, thế ngành khoa học nào gần với tôn giáo của ông nhất. Lemaître trả lời: Tâm lý học.
February 19, 2021
Hạ cánh lên hành tinh Hỏa

Liên Xô là nước đầu tiên hạ cánh xe tự hành (rover) lên bề mặt hành tinh Hỏa (Mars) đúng 50 năm trước.
Năm 1971, Mỹ và Liên Xô chạy đua gửi tàu vũ trụ từ trái đất lên hành tinh Hỏa. Tàu vệ tinh (Orbiter) của Mỹ đến trước một chút, đó là tàu Mariner 9. Hai tàu vệ tinh của Liên Xô là Mars 2 và Mars 3 của Liên Xô đến sau.
Thế nhưng Liên Xô mới là nước hạ cánh được tàu đổ bộ (Lander) lên bề mặt hành tinh Hỏa, và từ hai tàu đổ bộ này hai xe tự hành Mars 2 và Mars của Liên Xô mới là hai robot đầu tiên chạm vào hành tinh Hỏa. Con tự hành Mars va chạm mạnh và tèo. Con Mars 3 mất tín hiệu sau vài chục giây.
Tùy vào vị trí tương đối của Hỏa so với Trái Đất mà tín hiệu vô tuyến đi từ Hỏa về Đất mất từ 4 đến 20 phút, nên thiết kế của xe tự hành gần như là một dạng AI thô sơ. Con Mars của Liên Xô rất bé, không dùng bánh xe mà có hai thanh trượt hai bên như xe trượt tuyết, có các sensor để phát hiện chướng ngại vật, và có hai thiết bị đo là thẩm kế ((penetrometer) và mật độ kế (densitometer). Xe tự hành Mars của Liên Xô chỉ có tầm hoạt động 15 mét cách thiết bị đổ bộ.
Trước đó một năm, năm 1970, Liên Xô đã thành công với xe tự hành Lunokhod thả lên mặt trăng.
Liên Xô phóng hai con tàu của mình lên hành tinh Hỏa vào ngày 19 và 28 tháng Năm năm 1971. Vài ngày sau Mỹ phóng tàu của mình, là ngày 30 tháng Năm. Cả hai nước đều chọn cửa sổ phóng (thời gian phóng) thuận lợi nhất để rút ngắn tối đa thời gian đi đến hành tinh Hỏa. Mỹ phóng sau nhưng tàu lại đến quỹ đạo hành tinh Hỏa trước, đó là ngày 14 tháng Mười một. Hai tàu của Liên Xô lần lượt đến quỹ đạo hành tinh Hỏa vào ngày 27 tháng Mười một và ngày 2 tháng Mười hai năm 1971
Mặc dù vụ hạ cánh của xe tự hành thất bại, nhưng tàu vệ tinh của Liên Xô ở trên quỹ đạo vẫn chụp và gửi rất nhiều ảnh hành tinh Hỏa về trái đất.
Ngày 18 tháng Hai vừa rồi, xe tự hành Perseverance của NASA đã hạ cánh lên hành tinh Hỏa. Nó được phóng ngày 30 tháng Bảy năm ngoái, đúng lúc trái đất trong cao trào đại dịch Covid.
Perseverance nặng 1 tấn không phải xe tự hành có bánh xe đầu tiên hạ cánh lên hành tinh hỏa. Trước đó NASA đã có các xe Oppotunity và Curiosity hoạt động trên bề mặt hành tinh Hỏa năm 2004 và 2011; Nasa cũng có tàu đổ bộ Viking 1 hạ cánh xuống hành tinh Hỏa lần đầu tiên năm 1976. Còn xe tự hành có bánh đầu tiên lên hỏa tinh là xe Sojourner nặng 11.5 kg, hạ cánh năm 1997.
Bù lại, Perseverance lần đầu tiên mang lên hành tinh Hỏa một chiếc máy bay trực thăng. Máy bay này, có tên là Ingenuity, nặng 1.8 kg, có tầm bay cách Perseverance khoảng 1 km và .
Việc NASA hạ cánh thành công Perseverance đánh dấu đúng nửa thế kỷ Nga và Mỹ lần đầu tiên cùng nhau nhìn thấy hành tinh Hỏa từ trên quỹ đạo.

December 21, 2020
Cái tên Kiki
Nếu bạn nghe thấy cái tên Kiki hẳn bạn sẽ nghĩ ngay đến một con chó, thậm chí là một con chó rất khôn nữa.
Nhưng mấy hôm nay cái tên Kiki được nhắc đến trên Zing News là tên của một sản phẩm trí khôn nhân tạo (AI: Artificial Intelligence) của Zalo. Nó là một trợ lý ngôn ngữ ảo, giống như Alexa của Amazon, hay Siri của Apple. Chỉ có điều con bot có tên gọi Kiki này được phát triển cho ngôn ngữ tự nhiên là tiếng Việt.
*
Đã có một thời gian rất dài, đối với công chúng thì Trí Khôn Nhân Tạo (AI) thường là một thứ gì đó có năng lực tính toán siêu việt, có thể tính toán những bài toán rắc rối kiểu như bài toán phóng tên lửa; hoặc nếu cần phải làm những việc giống như con người thì nó sẽ tham gia các trò chơi trí óc như thi đấu cờ vua. Và quả thật, mới chỉ vài năm trước đây, các “bộ óc nhân tạo” nổi tiếng nhất thế giới cũng chính là các máy tính đánh cờ vua hoặc cờ vây, ở trình độ còn giỏi còn hơn các nhà vô địch là người thực.
Mãi cho đến gần đây, trí khôn nhân tạo mới trở nên gần gũi với cuộc sống đời thường. Một ứng dụng mà ngày nay ai cũng quen thuộc đó là các AI làm nhiệm vụ phiên dịch, như google translate, đang làm việc rất tốt và ngày càng tốt hơn.
*
Người ta thường khen một đứa bé là có trí khôn, là sáng dạ, khi nó có khả năng học hỏi nhanh nhạy.
Trí khôn như thế không chỉ có ở con người, mà còn có ở loài vật nuôi khác như chó và ngựa. Con người có thể dạy con chó làm rất nhiều thứ, từ nhận ra đâu là người quen đâu là người lạ đến biết trông nhà, chăn cừu, đi săn. Thậm chí có những con chó khôn đến mức còn biết đi mua báo cho chủ, biết trông em bé, thậm chí còn cứu chủ khi chủ bị đột quỵ hay cháy nhà.
Cái mà chúng ta gọi là “trí khôn” ấy, chính là khả năng tiếp thu của con chó. Nhờ khả năng tiếp thu mà con người dạy con chó hiểu những câu khẩu lệnh, sai chúng làm được một số việc, thậm chí còn dạy chúng làm những trò xiếc rất khó.
Hay nói cách khác, “trí khôn” là khả năng biết học tập của một con chó, con ngựa, hay của “một cỗ máy”.
*
Nhưng khôn đến cỡ nào mới được gọi là “có trí khôn”. Kiểm tra trí khôn một con chó đã qua huấn luyện thì dễ rồi. Nhưng nếu đó là một cỗ máy tính và ta cần phải kiểm tra trí khôn của nó, thì ta phải làm sao.
Năm 1950, Alan Turing đề xuất phương pháp để kiểm tra trí khôn của một cỗ máy biết tính toán. Bài test ấy không quá rắc rối, bởi khi Alan Turing đề xuất bài test này thì máy tính chưa ra đời. (Ông Turing này chính là cha đẻ của ngành Khoa học máy tính và Trí khôn nhân tạo.) Bài kiểm tra ấy tương đối đơn giản, nhưng bản chất nó rất sâu sắc, nó kiểm tra xem: liệu một cỗ máy tính có biết suy nghĩ hay không?
Phiên bản gốc của bài test do Turing đề xuất được sắp đặt như sau. Có một người A, được gọi là người thẩm vấn, và hai người khác ngồi trong hai buồng kín. Trong đó người B là một người phụ nữ, còn người C là một người đàn ông. Người C có nhiệm vụ đóng giả và thể hiện mình là một phụ nữ. Người A không nhìn thấy hai người B và C, và không thể biết giới tính của họ, nhưng người A được quyền thẩm vấn B và C trong một quãng thời gian nhất định, và phải xác định được giới tính B và C. Nếu C đánh lừa được A, khiến A tưởng C là nữ, thì C sẽ thắng cuộc.
Nhưng thay vì C là một con người, ta thay C bằng một chiếc máy tính, và nếu chiếc máy tính này lừa được A, thì chiếc máy tính ấy được coi là “biết suy nghĩ”. Tức là, chiếc máy này được giao nhiệm vụ bắt chước một người đàn ông bắt chước phụ nữ. Turing gọi phép thử này là “imitation game – trò chơi bắt chước”. Ngày nay nó được cập nhật thành các phiên bản hiện đại hơn và được gọi là Turing test.
Điểm mấu chốt, và cũng là bản chất sâu sắc của phép thử Turing, đó là không phải là đem test khả năng tính toán của cỗ máy, mà là test khả năng ứng xử, hành xử và cách thể hiện của cỗ máy khi bị tra vấn. Một cỗ máy có trí khôn là một cỗ máy có khả năng học (learning) và nếu được dạy dỗ tốt (train) sẽ có hành xử giống như một con người.
*
Ngày nay, Trí khôn nhân tạo không chỉ có khả năng học, mà nó còn biết tự học (machine learning, deep learning). Đó là nhờ tiến bộ của công nghệ chế tạo vi xử lý và nhờ có vô vàn dữ liệu khổng lồ tốc độ cao (big data) giúp nó học tập. Hơn thế nữa, trí khôn ấy còn được gắn vào những máy móc cơ khí có thể chuyển động được như robot.
Một trong những con robot có AI ấy chính là xe hơi Tesla. Xe hơi của hãng Tesla không chỉ khôn như chó, mà còn khôn như… ngựa. Xe hơi Tesla chở chủ đến công sở, đưa đến tận sảnh tòa nhà, rồi tự chạy ra bãi đỗ xe, y như ngựa tự đi ra tàu ngựa. Thậm chí trong tương lai, nếu cạn pin, nó còn biết chạy ra cây sạc điện tự động, y như ngựa đói thì biết tìm bãi cỏ. Người chủ hết giờ làm việc, huýt sáo (bám nút điều khiển), con ngựa (xe hơi) Tesla lại chạy ra sảnh đón chủ. Nó còn nhớ đường để đưa chủ về, kể cả khi chủ đi đâu đó mệt quá ngủ gật quên đường. Hay chở thẳng đến bệnh viện nếu chủ gặp sự cố sức khỏe. Chẳng khác gì ngựa khôn của hiệp sĩ ngày xưa, đưa chủ bị thương ngất lịm ở chiến trường đi về ngôi làng gần nhất.
*
Nếu AI được gắn vào robot để thay thế con người làm những việc nặng nhọc vất vả, hoặc làm việc ở môi trường khắc nghiệt, hoặc cần độ chính xác cao, thì tiềm năng có ích của AI là vô cùng lớn. Nhưng cũng như các công nghệ cao khác, như công nghệ hạt nhân hay sinh học, AI cũng có thể bị sử dụng cho mục đích xấu.
Trong cuộc chiến mới đây ở Nagorno-Karabakh, quân đội Arzerbaijan sử dụng máy bay không người lái (UAV/Drone) tấn công các đơn vị mặt đất của Armenia. Từ trên không trung, các máy bay không người lái bắn phá chính xác xe tăng, pháo binh và hệ thống phòng không của đối thủ. Được con người điều khiển từ xa, chúng còn tìm và diệt bộ binh ẩn nấp trong công sự. Trong vòng hai tháng, đội quân drone của Arzerbaijan đã thắng thế hoàn toàn trên chiến trường.
Nếu như AI được tích hợp vào các robot chiến tranh như drone của quân đội Arzerbijan, đội quân người máy cả trên không trung lẫn dưới mặt đất sẽ có sức mạnh kinh hoàng. Nhất là khi AI được “dạy” cách nhận diện và tiêu diệt con người, hoặc tàn phá các cơ sở dân sự.
Các robot chiến tranh được gắn AI chắc chắn có khả năng chiến đấu cao cường hơn con người, chúng ra quyết định nhanh hơn, hành động nhanh hơn và bắn chính xác hơn. Nhưng trong tương lai gần, có lẽ chỉ có các cuộc chiến giữa drone gắn AI bắn nhau với drone gắn AI là hiện thực.
Nỗi lo về AI làm việc xấu là nỗi lo có thật. AI có thể làm việc xấu, bởi chúng hoàn toàn không có ý thức, nhận thức. Chúng không nhận thức được nhiệm vụ mà chúng đang thực thi, lại càng không nhận thức được hệ quả mà nhiệm vụ ấy mang lại.
Ngay cả khi làm việc tốt, AI cũng không ý thức được hệ quả của việc mà nó vừa làm được. Giáo sư Châu có một ví dụ và diễn giải dễ hiểu về khía cạnh này của AI: [so với trí tuệ con người thì] AI chưa tạo ra tri thức; ví dụ như AlphaGo đã đạt đẳng cấp thượng thừa khi đánh bại cao thủ cờ vây hạng nhất là Lee Sedol. Nhưng con AlphaGo ấy không ý thức được tại sao nó đánh những nước cờ chung cuộc ấy, hoặc nếu có thì nó cũng không giải thích được cho loài người hiểu là tại sao nó đánh những nước cờ ấy. Tri thức do nó tạo ra, lại phải qua một cầu nữa, đó là các chuyên gia cờ vây ngồi thảo luận với nhau và phỏng đoán xem tại sao AlphaGo lại ra các quyết định (nước cờ) như vậy.
*
Nhưng nỗi băn khoăn liệu AI có tiến hóa đến mức thông minh hơn con người và chiếm quyền cai quản thế giới này, chống lại con người là nỗi băn khoăn hơi xa vời. Tuy AI có thể siêu việt về mặt tính toán, nhưng về nhận thức nó còn kém con chó con mèo. Nó không nhận thức được về sự đau đớn, về cái đói, về cái khát. Nhận thức của nó còn thua đứa bé ba tuổi. Đứa bé ba tuổi đã có ý thức về sự tồn tại của chính mình, còn AI thì không.
Nhiều người cho rằng năng lực của máy tính lượng tử (quantum computer) sẽ giúp AI có được ý thức. Điều ấy hiện nay vẫn còn là viễn tưởng. Khả năng tạo ra được một Qubit (quantum bit) đích thực, ví dụ như bằng cách cô lập hoàn toàn một electron, hiện vẫn nằm rất xa tầm tay của khoa học. Bên cạnh đó, các bit nhị phân như của máy tính hiện nay chỉ có hai trạng thái 1 và 0 (câu trả lời hoặc là yes hoặc no). Đây là một loại logic khác với logic Qubit vốn có trạng thái nằm đâu đó giữa 1 và 0 (câu trả lời có thể là 1 và có thể là 0). Với mỗi một loại logic ta sẽ cần những giải thuật (algorithm) khác nhau để giải những bài toán khác nhau. Hiện nay chưa ai biết giải thuật dùng cho hệ máy tính Qubit là gì, và sẽ giải được những bài toán gì. Cho nên việc AI sẽ có ý thức nhờ điện toán lượng tử cũng là việc có thể có mà cũng có thể không. Và dù có hay không, thì còn lâu điện toán lượng tử mới thành hiện thực.[1]
*
Alan Turing có tư tưởng rất cởi mở về máy móc có trí khôn, ông muốn chào mời chúng đến với xã hội con người. Ông cho rằng các cỗ máy có trí khôn cần được tạo cơ hội để tìm hiểu và hòa nhập vào bối cảnh xã hội loài người, rồi từ từ thay đổi để thích nghi với con người. [2]
Công nghệ ngày nay, với kết nối băng thông rộng có tốc độ cao và độ trễ thấp, với điện toán dám mây, dữ liệu lớn, và với các kiến trúc vi xử lý phù hợp với nhận dạng hình ảnh (GPU/TPU) đang dần biến tư tưởng của Turing thành hiện thực.
Mỗi xã hội có ngôn ngữ tự nhiên riêng, hành vi và tâm lý riêng, văn hóa riêng, nên việc có những AI sử dụng nền tảng công nghệ chung của nhân loại, nhưng được phát triển riêng và “dạy dỗ” riêng cho từng xã hội là rất quan trọng. Nó sẽ là tri thức để một dân tộc, một quốc gia nắm vững công nghệ AI cho tương lai, bao gồm cả AI dùng trong quốc phòng. Một con AI được phát triển bản địa, có ngôn ngữ tự nhiên là tiếng Việt, như Kiki, tuy vẫn còn thua kém rất nhiều con AI của thế giới nhưng vẫn là một sản phẩm có tầm quan trọng. Kiki có thể vẫn đang chập chững những bước đầu đời của nó, và cũng khó có ai dự đoán được tương lại của nó ra sao. Nhưng ở trên đời này, việc lớn nào mà chẳng phải đi qua những bước đầu tiên. Có thể Kiki cũng như vậy.
[1]. Để có được nhận thức, một hệ thống AI cần phải có khả năng mô hình hóa chính mình (system này phải có khả năng mô hình hóa chính system này ở bên trong bản thân chính system). Từ đó mới tiến hóa đến việc nó tự nhận thức, tự tham chiếu (self-aware, self-reference) về chính nó. Bước tiếp theo mới đến việc nó có thể có suy nghĩ có ý thức (concious thinking), thức là nó judge được các hành vi, nhiệm vụ mà nó thực hiện. Cái concious thingking này, theo Roger Penrose, là phi giải thuật (non-algorithmic) và không lập trình được.
[2] Trợ lý cá nhân Siri, hay AI của xe hơi tự lái Tesla hiện chỉ được xếp vào hạng Weak AI. Ngoài ra, rất nhiều AI trên thị trường hiện nay chỉ là Fake AI. Tương lai, khi AI thực sự có vai trò lớn lao trong xã hội loài người, thì AI ấy sẽ phải là Strong AI. Năm 1980, John Searler sử dụng lập luận Chinese Room Argument để chỉ ra những lỗ hổng trong lập luận của Turing Test. Do Strong AI sẽ có những năng lực mới, gần gũi với năng lực của bộ não con người hơn, ví dụ như khả năng tìm ra các vấn đề mới và tự học để tìm ra cách giải quyết vấn đề mới này, nên Turing Test sẽ phải được sửa đổi (Extended Turing Test) để kiểm tra trí khôn của Strong AI.
Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
