Nguyễn Phương Văn's Blog, page 4
June 22, 2022
Phan Đan: Về nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc của Trịnh Công Sơn


Về nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc của Trịnh Công Sơn
– Phan Đan –
1.
Để nói về Trịnh Công Sơn (TCS) hay về nghệ thuật ca khúc nói chung, ngay cả những người được cho là chuyên nghiệp cũng không hiểu rõ bản chất vấn đề. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Ca khúc có thực sự là âm nhạc không?
Ca khúc là một loại hình hybrid, lai ghép giữa nghệ thuật âm nhạc và nghệ thuật ngôn từ, ngoài ra còn có phần đóng góp không nhỏ của nghệ thuật sân khấu nếu ca khúc được trình diễn như một tác phẩm nghe-nhìn. Tuỳ từng ca khúc, mỗi thành phần chiếm một tỷ lệ khác nhau trên quang phổ, từ UV tới ER. Ví dụ, các ca khúc của Schubert phổ thơ Schiller hay Goethe, phần nhạc chiếm vị trí chủ đạo, gọi là các ca khúc nghệ thuật (tiếng Đức là Kunstlied). Hoặc một bài hát của Phạm Duy như bài “Ngậm ngùi”, phổ thơ Huy Cận, đóng góp của phần thơ phải là 70%. Những ca khúc xuất sắc của Phạm Duy như “Tình ca”, “Quê nghèo”, “Về miền Trung”… thường có sự cân đối về phần nhạc và phần lời. Có một số bài Phạm Duy phổ thơ, được ca ngợi và hay được trình diễn, giữa nhạc và lời vẫn cân đối 50/50 nhưng giá trị tuyệt đối lại chẳng bao nhiêu…
Phần lớn các ca khúc của TCS, “vốn góp” về mặt âm nhạc hết sức khiêm tốn, thường tiến hành giai điệu theo gam rải, hoà thanh hay dùng trưởng thứ song song, cấu trúc chủ yếu chỉ một đoạn đơn… Nhiều bài gần như không có chút giá trị học thuật âm nhạc nào nhưng lại là những bài rất đặc sắc về ca từ. Nếu phân tích một cách nghiêm túc các ca từ của TCS sẽ thấy nhiều thủ pháp ngôn ngữ tinh xảo: hình ảnh, liên tưởng, đối vị, ẩn dụ… với bút pháp khoáng đạt có thể so sánh với hội hoạ ấn tượng (cùng một chút tượng trưng và siêu thực). Điều này hoàn toàn vắng bóng trong thơ của rất nhiều nhà thơ. Dường như thơ khá “chậm tiến” so với ca khúc trên cùng một mặt bằng sáng tạo ngôn ngữ!
Do đó, phải coi TCS là một nhà thơ sử dụng loại hình nghệ thuật ca khúc chứ không phải là một nhạc sĩ. Những người như thế, tiếng Anh là “songwriter”, còn các nhạc sĩ đích thực tiếng Anh là “composer”. Danh từ “musician” là để chỉ tuốt luốt những ai có liên quan đến âm nhạc: nhà phê bình, nhà lý luận, nhạc sĩ, ca sĩ, nhạc công, kỹ sư âm thanh… Có ý kiến đề nghị gọi songwriter là “khúc tác gia”, kiểu như người viết kịch là “kịch tác gia” – nghe có vẻ “Hán-Việt đề huề” nên ta cứ đơn giản gọi songwriter là người viết ca khúc.
Đây cũng là lý do người ta trao giải Nobel Văn chương cho Bob Dylan – một giải Nobel gây tranh cãi vì nhiều người không tiêu hoá nổi ý tưởng đúng đắn là phải coi Bob Dylan hay các songwriter nói chung là các nhà thơ (poets) chứ không phải là các nhạc sĩ. Bob Dylan hay John Lennon là hàng xóm “tắt lửa tối đèn có nhau” với các nhà thơ trong khi “nghìn trùng xa cách” với các nhạc sĩ như Stravinsky hay Rachmaninoff… Một số ý kiến còn cho rằng TCS là Bob Dylan của Việt Nam.
Như vậy, việc nhìn nhận đúng về ca khúc và coi nó như một dạng nghệ thuật ngôn từ sẽ làm đảo lộn nhiều bảng giá trị, đặc biệt là diện mạo nền thi ca và nền âm nhạc Việt Nam. Ví dụ, nhiều người sẽ shock khi nghe nói rằng gương mặt sáng giá nhất nền thi ca Nam Việt Nam trước 1975 là TCS…
2.
Bản chất của vấn đề là “thơ” luôn gắn liền với “ca”. Khởi thuỷ của thơ hay nghệ thuật ngôn từ nói chung là truyền khẩu, nghĩa là thuộc phạm trù nghệ thuật thính giác. Chỉ đến khi chữ viết ra đời, người ta mới “đọc” thơ, còn trước đó người ta “nghe” thơ. “Performance was the primary distribution method for poetics since tribal times and ancient Greece… Writing poetry for print made poetry a completely different artform since the invention of the book.” (Trình diễn là phương thức truyền bá chính yếu cho thơ kể từ thời bộ lạc và Hy Lạp cổ đại. Việc viết thơ để in đã làm cho thơ trở thành một hình thức nghệ thuật hoàn toàn khác kể từ khi phát minh ra sách. – Wikipedia on Performance poetry). Thơ truyền thống sử dụng vần và thanh điệu để hỗ trợ trí nhớ, tương tự như giai điệu và hoà thanh của âm nhạc, còn thơ hiện đại loại bỏ các yếu tố âm nhạc ngoại tại này mà chỉ trông cậy vào thứ âm nhạc nội tại của ngôn ngữ, chủ yếu là tiết tấu (rhythm), kể cả tiết tấu của im lặng. Ở phía khác, ca khúc lại tô đậm các yếu tố âm nhạc ngoại tại đến mức nhiều người quên mất cái gốc của nó là nghệ thuật ngôn từ.
Sau đây là ý kiến của nhà thơ Mỹ nổi tiếng Allen Ginsberg (1926-1997), một thủ lĩnh của trào lưu văn học Beat Generation: “First of all, there is more poetry than ever. There are more people listening to poetry since poetry affected the entire rock and roll, new wave, world music, punk… Everybody listens to it without calling it poetry. It’s lyrics. So everyone is very much in touch with oral poetry, which is the basic medium for poetry.” (Trước hết, chưa bao giờ có nhiều thơ như hiện nay. Ngày càng có nhiều người nghe thơ hơn trước, bởi vì thơ ảnh hưởng bao trùm rock and roll, new wave, world music, punk… Mọi người lắng nghe chúng, có điều họ không gọi đó là thơ. Đó là các ca từ. Và như vậy, họ trở nên hào hứng với thơ truyền khẩu, một hình thức căn bản của thơ). Allen Ginsberg trả lời phỏng vấn củaLawrence Grobel năm 1997: What is the state of poetry today? (Về hiện trạng của thơ?) – Lawrence Grobel, Endangered Species, p.162, Da Capo Press, 2001.
Thơ kết hợp với nghệ thuật tạo hình sẽ cho ra trường phái “thơ cụ thể” (concrete poetry). Thơ kết hợp với nghệ thuật âm nhạc và nghệ thuật sân khấu sẽ cho ra thứ “thơ trình diễn” (performance poetry). Đây chính là anh chị em ruột của loại hình ca khúc phổ thông. “That is the key to performance poetry: the marriage of poetry to music written specifically to fit poems written for vocal performance.” (Vấn đề then chốt của thơ trình diễn: cuộc hôn phối của thơ với âm nhạc là những bài thơ được viết để thích hợp với giọng hát – Wikipedia on Performance poetry). Những bài thơ này chính là các ca từ (lyrics).
Có một số người thắc mắc là tại sao các songwriter không chuyển sang viết concerto, sonate hay giao hưởng? Tất nhiên là có vấn đề về kiến thức nhưng chủ yếu là một songwriter không thể “chuyển nghề” sang làm composer dễ dàng như thế vì đó thực sự là hai loại hình nghệ thuật khác nhau. Ngay cả một nhạc sĩ như Schubert khi viết các ca khúc nghệ thuật, hay Beethoven khi viết chương “Ode to Joy” trong giao hưởng số 9, cũng phải mượn thơ của các nhà thơ lớn. Thậm chí các nhạc sĩ viết opera như Rossini, Verdi… cũng có người khác viết phần lời ca, gọi là các libretto. Hay như ballet, một loại hình nghệ thuật hybrid bao gồm âm nhạc, vũ đạo, văn chương và sân khấu…, người ta chỉ tách phần âm nhạc trong một tác phẩm ballet ra để nghe riêng nếu nó xuất sắc. Ví dụ thường thấy là phần nhạc của Tchaikovsky trong vở ballet “Hồ thiên nga”…
Để biết ca khúc nghệ thuật (Kunstlied) khác với ca khúc phổ thông như thế nào, có thể xem tổng phổ một lied của Schubert (bài “Die Liebe” dùng một đoạn thơ trong tác phẩm “Egmont” của Goethe) và bài hát nổi tiếng “Hạ trắng” của TCS dưới đây. Trong lied của Schubert, với phần đệm piano hoàn chỉnh, giọng hát cũng được tác giả xử lý như một nhạc cụ (gồm cả ngữ âm và ngữ nghĩa đoạn thơ của Goethe).
3.
Một điều nữa là âm nhạc chỉ thực sự hiện hữu như một thực thể nghệ thuật khi nó vang lên trong tai, trong tâm trí người nghe. Các trang tổng phổ chỉ là bán thành phẩm. Chúng ta nghe Concerto piano No.1 của Chopin qua bàn tay Kissin hay Argerich…, nghe Symphonie fantastique của Berlioz qua đũa chỉ huy của Karazan hay Abbado… chứ không phải là đọc trên các sheet music. Cũng thế, thường chúng ta nghe “Nắng thuỷ tinh” của TCS qua giọng ca Khánh Ly… nên phải xem lại vai trò của các nghệ sĩ trình diễn trong một tương quan khác với thói quen xưa nay. Liệu TCS tạo nên Khánh Ly hay chính Khánh Ly tạo nên TCS? Đây là một mệnh đề triết học. Không phải chỉ là trật tự tuyến tính như câu chuyện quả trứng và con gà mà là vấn đề bản thể. Bông hoa tạo nên mùi hương hay chính vì để có mùi hương ấy mà bông hoa phải được cấu trúc như thế, với cánh hoa, nhuỵ hoa và màu sắc như thế…
19/6/2022
Phụ lục:
“Die Liebe” của Franz Schubert và “Hạ trắng” của Trịnh Công Sơn:
*
Franz Schubert
Die Liebe
Gedicht aus Goethe’s “Egmont”



*

May 25, 2022
Decentralized Society (DeSoc): Xã hội phi tập trung
Anh Vitalik, người tạo ra đồng crypto Ethereum mà nay trở thành một trong hai nền tảng tiền mã hóa quan trọng nhất, mới tung ra một paper viết chung với hai cộng sự khác. Tên paper là ” Decentralized Society: Finding Web3’s Soul”, có thể download ở đây.
Bài nghiên cứu bắt đầu bằng lời đề tựa của… Lão Tử hehe: Đạo là chỗ ẩn náu của vạn vật, là vật quí của người tốt, chỗ nhờ cậy của người không tốt. (Đạo giả vạn vật chi áo, thiện nhân chi bảo, bất thiện nhân chi sở bảo.) Lý do một phần là trong tiếng Anh các tác giả thay vì dùng chữ “Tao” tức là phiên âm của “đạo” thì họ dùng chữ DAO vốn là khái niệm rất quan trọng của blockchain: Decentralized Autonomous Organization – Tổ chức tự trị phi tập trung.
Tổ chức phi tập trung là chỗ ẩn náu của vạn vật, là vật quí của người tốt, chỗ nhờ cậy của người không tốt.
Bài nghiên cứu này gợi ý về một thứ tương tự như Defi (Decentralized Finance, tài chính phi tập trung), đó là DeSoc (Decentralized Society). Để làm được như vậy, các tác giả đề xuất một đồng token có tên là soulbound (SBT).
Một tác giả của nghiên cứu, cô Puja Ohlhaver, viết trên twitter:
“Nghiên cứu này thảo luận về cách thức có thể sử dụng “Soulbound Token” để đưa cộng đồng Web3 tiến nhanh tới xã hội phi tập trung (Decentralized society: DeSoc).
[việc sử dụng soulbound token STB] không có khả năng giao dịch [tức đồng tiền mà ta chỉ có thể tích lũy, không đem ra tiêu xài] sẽ giải quyết sự thiếu vắng “social trust and check” trong cộng đồng Web3 hiện nay.”
Nói dễ hiểu hơn, đây là hệ thống chấm điểm tín dụng (credit score), nhưng bên chấm điểm không phải là các định chế (ví dụ ngân hàng, hoặc nhà nước như ở TQ), cũng không phải là các công ty third party (như Trusting Social mà Masan mới đầu tư vào) mà là cả một cộng đồng phi-tập-trung. (Phi tập trung ở đây, theo tiếng Việt hiện nay, có nghĩa là phi trung ương, không có quyền lực trung ương nào quyết định bất cứ cái gì, mà tất cả xã hội cùng quyết; thống qua nền blockchain.)
Hệ thống chấm điểm tín dụng kiểu cũ có thể gọi là chấm điểm web 2.0, còn hệ thống mới này sẽ là web 3.0.
Nghiên cứu của Vitalik và hai vị cộng sự kia còn viết về mặt kỹ thuật thì hệ thống này sẽ vận hành thế nào. Trong đó SBT là một NFT chỉ nhận được, nhưng không đem trao đổi được (non-transferable NFT). Người nhận SBT xong thì token này sẽ nằm ở Soul wallet mãi mãi.
Nghiên cứu cũng đưa ra các ví dụ. Trường đại học trao bằng cho ai, thì drop cho người này một SBT. SBT này không thể transfer qua ai khác được nữa. (Trường đại học ở đây có vai trò là SBT allocator). Một cá nhân nỗ lực làm một việc gì đó, ví dụ tham gia một hội thảo khoa học hoặc hăng say làm các việc về môi trường,… đều nhận được SBT. Giá trị của nó là ở phần credit, cho cả trình độ văn hóa, bằng cấp, thâm niên, kỹ năng và cả các hoạt động xã hội.
May 16, 2022
Pháo 2S7M Malka, Cối 2S4 Tyulpan, Trực thăng Ka-52, phần mềm GIS -Arta, Tên lửa AGM-183A

Bài Tên lửa Javelin, đạn đạo, siêu thanh, drone cảm tử, pháo, xe tăng, radar… mới được cập nhật thêm các phần sau.
30. Pháo hỏa tiễn M270 MLRS bắn trại chỉ huy ở Zabavne
31. Lựu đạn chống tăng thả từ drone: RGK-1600
32. Pháo 2S7M Malka, Cối 2S4 Tyulpan, Trực thăng Ka-52 (của Nga)
33. Phương diện quân, Tập đoàn quân/Lộ quân, Quân khu
34. Phần mềm gọi pháo GIS -Arta của Ukraine
35. Chiến tranh tuyên truyền
36. Tên lửa siêu bội âm AGM-183A
*
(Mục lục các bài từ đầu:
1. Tên lửa Javelin và nguyên lý
2. Tại sao không quân Nga không làm chủ được bầu trời Ukraine
3. Tên lửa vs Hỏa tiễn (Rocket vs Missile)
4. Trinh sát đường không: Aerorozvidka
5. Tên lửa siêu bội âm (hypersonic) Kinzhal
6. Drone tự sát: Switchblade
7. Thượng phụ Kirill và KGB; tên lửa Tochka -U
8. Foundations of Geopolitics xuất bản năm 1997 của Alexander Dugin; Cảm thức Solzhenitsyn
9. Deep strike: Ukraine tấn công bằng tên lửa một kho xăng ở Belgorod
10. Drone trinh sát: Puma
11. Axie Infinity bị hack
12. Axie Infinity và Metaverse
13. Mô hình chỉ huy của quân đội Nga: Stavka (Ставка)
14. Tên lửa phòng không vác vai: Starstreak
15. Thanh trừng hàng loạt ở FSB (Tổng cục an ninh Liên Bang Nga)
16. Tuần dương hạm Moskva bị bắn
17. Termit bắn Raduga
18. Moskva bị bắn thế nào
19. Moskva cháy do sao
20. Tham nhũng ở binh chủng thiết giáp Nga
21. Các vũ khí Mỹ viện trợ cho Ukrain, tại sao
22. Ukraine đánh về Izyum, tại sao
23. Pháo M777 và đạn M982 Excalibur
24. Đuôi “pol” ở các địa danh Mariupol, Sevastopol
25. Trận địa pháo M777
26. Pháo tự hành AS-90
27. Tổng cục 5 thuộc FSB
28. Kỷ lục bắn Javelin
29. Đảo rắn
30. Pháo hỏa tiễn M270 MLRS bắn trại chỉ huy ở Zabavne
31. Lựu đạn chống tăng thả từ drone: RGK-1600
32. Pháo 2S7M Malka, Cối 2S4 Tyulpan, Trực thăng Ka-52 (của Nga)
33. Phương diện quân, Tập đoàn quân/Lộ quân, Quân khu
34. Phần mềm gọi pháo GIS -Arta của Ukraine
35. Chiến tranh tuyên truyền
36. Tên lửa siêu bội âm AGM-183A)
May 15, 2022
Sách “Mặt Trời Trong Suối Lạnh”

Bản thảo Mặt trời trong suối lạnh tôi viết xong đã khá lâu, quãng chín năm trước, nay mới được in thành sách giấy. Sách mỏng, vỏn vẹn 160 trang, khổ nhỏ, giá bìa 83 ngàn đồng. Hiện đã có bán ở các cửa hàng online và các hiệu sách truyền thống.
Mặt trời trong suối lạnh có những câu chuyện nhỏ, mini và tiny, kể về cuộc sống của những người trẻ thời nay và thời xưa.
Tôi hy vọng những bạn còn đang trẻ, hoặc còn nhớ mình đã từng trẻ, sẽ yêu thích một vài câu chuyện trong sách. Các chuyện ấy phần nhiều là những chuyện tình yêu yêu đương đương. Nếu bạn không mặn mà lắm với việc đọc những chuyện diễm tình, bạn có thể sẽ thích các nhân vật và sự kiện mang hơi hướm lịch sử trong sách.
Rất mong mọi người ủng hộ cuốn sách mỏng này bằng cách mua nó để đọc, và để tặng nhau.
Link mua sách online:
+ Shopee:https://bit.ly/SpMTTSL
+ Tiki: https://bit.ly/TikitradingMTTSL
+ Netabook: https://bit.ly/NetaMTTSL
Dưới đây là vài trích đoạn giới thiệu sách và các trích dẫn mà Skybooks, công ty xuất bản và phát hành Mặt trời trong suối lạnh, đã đăng trên fanpage và instagram để quảng bá sách.
“Hố rất rộng, anh đi đâu, cái hố đi theo đấy. Nó bao quanh anh nhưng không ngăn cách anh với thế giới bên ngoài. Nó chỉ ngăn lại sự tươi tắn, ấm áp của niềm vui và hạnh phúc. Những tiếng cười vui, những tia nắng ấm nếu có lọt qua thành giếng mà tới được chỗ anh, cái hố cũng thô bạo hút sạch trong giây lát.
“Sự cô độc” – mạch chảy xuyên suốt trong “Mặt trời trong suối lạnh”.
Sự cô độc của nhân vật này nối liền nhân vật khác, tựa như trò chơi domino không có điểm kết thúc. Ta dễ dàng cảm nhận được sự hoang tàn, lạc lối, lại thấu suốt được bối cảnh đầy biến động của thời đại qua từng trang viết.
Cái hố ấy là một không gian lạnh lẽo và hoàn toàn trống vắng niềm vui”MẶT TRỜI TRONG SUỐI LẠNH
Trầm lắng - Sâu sắc - Suy ngẫm
Cho tuổi trẻ cô độc và điên cuồng
Khát khao được chạm vào và được thấu hiểu
Một cánh cửa để bước vào thế giới những người trẻ trong thời đại nhiều biến động
“Mặt trời trong suối lạnh”
/ 𝑹𝒆𝒗𝒊𝒆𝒘 /
“Mặt trời trong suối lạnh” – lạc lõng, cô độc và khát khao thấu hiểu!
Tác giả phô diễn nỗi sợ ngàn đời vẫn âm ỉ cháy trong trái tim của mỗi người trẻ – sợ không được “chạm vào”, được giãi bày và sẻ chia. Nó là một phần của tuổi trẻ, ở bất kỳ thời kỳ nào.
Những người trẻ trong “Mặt trời trong suối lạnh” không thể chống lại hiện thực khốc liệt, không thay đổi được hướng đi của thời đại, họ chỉ đành thả mình trôi vô định trong nỗi buồn và mông lung về hiện thực. Có lẽ điều duy nhất khiến họ cảm nhận được sự hiện hữu của mình là trong những lần gần gũi với người tình, đắm mình trong khoái lạc của thể xác.
Sự cô độc của nhân vật này nối liền nhân vật khác, tựa như trò chơi domino không có điểm kết thúc. Ta cảm nhận được sự hoang tàn, lạc lối, lại thấu suốt được bối cảnh đầy biến động của thời đại lúc bấy giờ.
Cho tuổi trẻ cô độc và điên cuồng.
Lạc lõng, cô độc và khát khao thấu hiểu.
Tình yêu là một phần của tuổi trẻ, dù ở bất kỳ thời kỳ nào
Một cánh cửa để bước vào thế giới những người trẻ trong thời đại nhiều biến độngNhững tâm hồn người trẻ tĩnh lặng, chắc chắn bị xáo động liên miên bởi xã hội có nhiều biến động trong thế kỷ XX. Khi ánh nắng tràn vào khung cửa sổ nhỏ, có người bất giác nhận ra đã đi qua một thời chông chênh khi im lặng soi mình trong đôi mắt trong veo của một cô gái trẻ, như một thế kỷ lặng lẽ trôi qua không để lại dấu vết. Những ký ức tình yêu tồn tại ở “Mặt trời trong suối lạnh” tách ra khỏi hiện thực, để cuộc đời tiếp tục trôi theo thời gian, bỏ tình yêu ở lại quá khứ.
“Mặt trời trong suối lạnh” khiến chúng ta bao dung hơn với “vũng bùn” cảm xúc của người trẻ, thấu hiểu cho những nỗi đau, những hành động không hoàn hảo, vô tình gây tổn thương lẫn nhau. Cuốn sách dẫn lối ta đến những dở dang trong tuổi trẻ, khi chúng ta có thể dễ dàng sống mòn trong cơn say tình ái để không gục xuống nơi ngã rẽ nào đó trong đời. Những đứt gãy tuổi trẻ cuốn theo dòng chảy vô định của sự phi lý va đập vào hiện thực, nhưng thật may, ở một góc bình yên nào đó, cuối cùng họ cũng có thể đón chút tia hạnh phúc dưới ánh hoàng hôn nhuộm vàng rực màu kỷ niệm và lòng nhiệt huyết.




















April 24, 2022
Đạn pháo Excalibur, pháo M777 155mm, các địa danh Mariupol, Sevastopol và Kherson

Các cập nhật về pháo 155mm, đạn dẫn đường, vụ bắn trại chỉ huy tiền phương của Nga ở Kherson, nguồn gốc Hy Lạp của các địa danh Mariupol, Sevastopol… được cập nhật từ mục 21 đến 25 ở bài này: Tên lửa Javelin, đạn đạo, siêu thanh và drone cảm tử.
April 14, 2022
Soái hạm Moskva, tên lửa Neptune, tên lửa Tochka, drone Puma, tên lửa Starstreak, chỉ huy Stavka, Alexander Dugin


Các thông tin về tên lửa (Neptune, Tochka…) và vụ bắn tàu Moskva đã cập nhật thêm ở cuối bài này: Tên lửa Javelin, đạn đạo, siêu thanh và drone cảm tử.
March 21, 2022
Tên lửa Javelin, đạn đạo, siêu thanh và drone cảm tử





Javelin nghĩa là “ngọn lao” như là môn thể thao phóng lao ở Olympic mà ta vẫn thấy trong các tác phẩm nghệ thuật Hy Lạp La Mã cổ đại, và ngày nay olympic hiện đại vẫn có môn này. Nó cũng là vũ khí của các binh đoàn La Mã.
Tên lửa Javelin về nguyên lý phóng và động cơ của đầu đạn không khác gì khẩu súng B41 kinh điển mà VN quen sử dụng (B40 thì hơi khác, chưa tiến hóa). B41 là tên riêng ở VN, tên đúng của nó là RPG-số (số càng cao đời càng mới). B41 hình như là RPG-7 (1961); nay hình như đã đến RPG-32.
Nguyên lý đơn giản thế này: Đạn được phóng ra từ ống phóng. Đầu tiên nó có một liều phóng để đẩy đạn ra khỏi nòng. Đạn bay một quãng ngắn rồi thì liều phóng thứ hai (động cơ phản lực) mới kích hoạt để đẩy viên đạn đi về hướng mục tiêu. Như vậy là giữ an toàn cho xạ thủ, chứ nó phóng ầm phát thì chết mẹ thằng bắn trước khi trúng xe tăng địch.
RPG các phiên bản sau này, và cả Javelin, thì đạn sẽ có hai liều nổ. Lý do là xe tăng ngoài việc ngày càng nâng cấp giáp (vật liệu, độ dày, thiết kế) thì nó còn đeo thêm giáp phản ứng nổ (có thể search xem ảnh xe tăng Nga ở Ukraine). Giáp phản ứng nổ là có thuốc nổ, khi đạn của súng chống tăng đâm vào thì nó nổ để phá viên đạn. Nên đạn RGG hiện đại và Javelin nó phải nổ hai phát, phát một phá cái giáp nổ, phát hai là đâm xuyên.
Xe tăng Nga có thêm hệ thống bắn chặn đạn và tên lửa chống tăng. Nguyên lý của nó là dùng radar để phát hiện, khi đạn hoặc tên lửa chống tăng bay gần đến thì nó có khẩu súng bắn nhanh bắn như vãi đạn ra tạo thành lưới đạn ngăn và hủy quả tên lửa đang lao tới. Với B40 thì đạn còn đơn giản nên dùng lưới được, ta có cái tên lưới B40 là vì vậy. Súng này chạy bằng computer. Hệ thống hiện nay của Nga là Arena, nó phát triển từ hệ thống Drozd (nghĩa là con chim hét) ngày xưa ở chiến trường Chechen. (Súng kiểu này Mỹ cũng có, thường gắn trên các tàu chiến để bắn các tên lửa chống hạm, hoặc gắn lên các cơ sở mặt đất cần bảo vệ. Nếu dùng trên mặt đất thì họ thay đạn tự hủy vào, tức là đạn bay một quãng nào đó sẽ tự hủy để khỏi rơi xuống khu dân cư; dùng để bảo vệ tàu chiến ngoài biển thì không cần.)
Về nguyên lý là vậy, nhưng Javelin khác RPG ở công nghệ. Nó nhắm bắn bằng hệ thống quang học và ảnh nhiệt. Chọn mục tiêu xong ấn lock, để quả đạn nó lock-on vào mục tiêu. Sau đó chọn một trong hai chế độ bắn rồi bắn.
Tên lửa Javelin có chế độ tự dẫn đường rất tinh xảo bằng công nghệ cao, nên đã lock-on là bắn trúng. Chế độ bắn có bắn thẳng và bắn vòng cầu (phi lao). Vì thế tên nó là Javelin. Bắn vòng cầu thì Javelin bay lên cao tầm 160 mét rồi lao vào mục tiêu, nên xe tăng Nga chịu chết dù có Arena và giáp phản ứng nổ. Javelin còn có thể bắn trực thăng bay thấp. (Xe tăng Nga gắn thêm cái chuồng gà ở trên để chống Javelin mà có vẻ như không ăn thua.)
Khác với RPG không có dẫn đường, chỉ bắn thẳng, tầm 1,5km trở lại (B41 bắn độ 200 mét), Javelin có thể bắn tới 4,5 km. Khi bắn tên lửa thoát ra rất êm, xạ thủ kịp nấp, trốn, di chuyển, hoặc thay viên đạn khác trong lúc mặc kệ tên lửa bay đến mục tiêu. Nên nó có tên gọi là fire and forget. Sử dụng Javelin được mô tả là như chơi game.
Giá nguyên bộ Javelin (cả súng phóng lẫn tên lửa) khoảng 200 ngàn đô la. Mỗi quả đạn khoảng gần 80 ngàn đô la.
Javelin ở chiến trường Ukraine nổi tiếng đến nỗi người ta vẽ tranh Thánh Javelin (Saint Javelin) với hình ảnh vị thánh nữ tay cầm súng Javelin. Hình ảnh này in lên huy hiệu, miếng dán,… rồi đem bán, tiền thu về đem tài trợ cho Ukraine, hình như đã được mấy triệu đô la (tuần rồi hình như được 1,6 triệu).
*
Clip này khá thú vị, nó giải thích tại sao không quân Nga hùng mạnh hơn về số lượng máy bay chiến đấu (toàn loại xịn) mà lại không làm chủ được bầu trời Ukraine.
Clip có vài ý chính:
Để làm chủ bầu trời thì không quân Nga phải thực hiện SEAD (Suppression of Enemy Air Defenses), tức là áp chế hệ thống phòng không của địch. Sau đó là thực hiện DEAD (Destruction of Enemy Air Defenses) tức là phá hủy hệ thống phòng không của địch.
Không quân Mỹ rất giỏi việc này, do họ đã trải qua giai đoạn hệ thống phòng không của Hà Nội cực kỳ hiệu quả. Họ đành phải chế ra Wild Weasel là các đội bay dũng cảm, dùng máy bay chim mồi (mang tên lửa hạng nhẹ và các thiết bị điện tử) bay vào để dò tìm radar và bắn tên lửa tiêu diệt; hậu quả là chim mồi cũng sẽ bị bắn tên lửa lên, và nó buộc phải dùng thiết bị điện tử và pháo lửa để đánh lừa tên lửa của đối phương, và tất nhiên là kỹ năng bay của phi công phải tuyệt đỉnh; sau đó các máy bay của phi đội sẽ nhờ đó mà phát hiện các trạm tên lửa và bắn tên lửa xuống để tiêu diệt.
Phía Nga lúc đầu cuộc chiến bắn tên lửa đất đối đất để phá hạ tầng bên Ukraine, trong đó có các trạm radar. Nhưng NATO lập tức dùng các hệ thống radar của mình cấp data cho phòng không Ukraine.
Còn để tiêu diệt các trạm tên lửa của Ukraine thì bắt buộc phải bay SEAD và DEAD như Mỹ. Nhưng phi công Nga thiếu cả đào tạo lẫn kinh nghiệm thực chiến để làm việc này. Riêng về đào tạo, bay SEAD DEAD cực kỳ khó, Mỹ bay tập phải 200+ giờ/năm; trong khi Nga chỉ bay 60-100 giờ/năm.
Do đó Nga đành phải xuất kích tương đối ít, ban đêm, và bay thấp để tránh hệ thống phòng không của Ukraine (các hệ thống phòng không cao cấp thì lại không hiệu quả để đánh máy bay bay thấp). Một phần nữa là Nga ít vũ khí thông minh (bom và tên lửa dẫn đường) nên phải bay thấp mới ném bom và bắn trúng mục tiêu. Mặt trái là bay thấp thì dễ ăn tên lửa Stinger là tên lửa phòng không xách tay.
NATO cũng không cấm bay được ở Ukraine. Nếu thiết lập vùng cấm bay, thì chính NATO phải đưa máy bay vào đi tuần, và sẽ ăn tên lửa của Nga bắn từ đất Nga hoặc Belarus qua. Để không bị bắn, NATO lại phải dùng SEAD/DEAD và thế là thành ra đánh nhau với Nga trực tiếp. Do đó NATO không thiết lập vùng cấm bay ở Ukraine.
*

Trong tiếng Việt thì tên lửa/hỏa tiễn hơi giống nhau. Tiếng Anh thì khác. Rocket để chỉ các động cơ phóng bằng cách phụt lửa ra đằng đít, hoặc chỉ quả pháo tên lửa bắn vọt lên trời. Còn missile là các tên lửa/hỏa tiễn có điều khiển, hoặc bán điều khiển, và bay bằng động cơ phụt lửa ra đít (tức là động cơ rocket).
Các loại súng bắn đạn xịt lửa ra đít như súng chống tăng B41 hoặc pháo Kachiusa vì vậy đều có tên là pháo/đạn hỏa tiễn.
1.
Missile thì có loại khủng nhất mà báo VN hay dùng từ cũ của Liên Xô là Tên lửa vượt đại châu. Giờ gọi là tên lửa xuyên lục địa hoặc tên lửa đạn đạo. Phân loại của nó là ballistic missile, dịch ra là tên lửa đạn đạo, nghe hơi khó hiểu. Đạn đạo (ballistic), là vì quả missile đi theo kiểu đường đạn: nó dùng động cơ rocket bắn vọt lên rất cao trên trời rồi từ trên trời lao cắm xuống đất. Động cơ tên lửa rất mạnh nhưng chỉ xịt lửa vài giây hoặc vài chục giây để đẩy quả tên lửa lên cao rồi tắt. Tên lửa đi ra khỏi tầng khí quyển, bay tự do, rồi quay trở lại tầng khí quyển, lao cắm vào mục tiêu. Cái missile này do cơ chế bắn như vậy nên tốc độ nó rất nhanh (có thể đến 20 lần tốc độ âm thanh; Mach 20), đi rất xa, và mang đầu đạn nặng. Sau này người ta chế ra các tên lửa kiểu này nhưng bay thấp hơn, không đi ra khỏi khí quyển trái đất, gọi là đạn đạo tầm trung/medium range ballistic missile; rồi các tên lửa đi gần hơn nữa, gọi là tactical ballistic missile. Các hỏa tiễn tactical thì về kỹ thuật còn gọi là quasi ballistic (nghĩa là gần như là đạn đạo). Nó bay rất nhanh (vài lần tốc độ âm thanh), trần bay thấp, và cự ly bắn chỉ vài trăm km. Nó có dẫn đường nhưng là định trước mục tiêu. Nó khỏe nên mang đầu đạn mạnh. Chủ yếu là để bắn lô cốt, công sự và các cơ sở kiên cố của địch. Nó cũng có thể bay lắt léo một chút để tránh tên lửa chống tên lửa đạn đạo.
Hai hỏa tiễn quasi/tactical nổi tiếng nhất của Nga là Tochka (nghĩa là Điểm) và Iskander.
2.
Missile có điều khiển, ở VN hay gọi là tên lửa có cánh, hay tên lửa dẫn đường, tiếng Anh là cruise missile. Nổi tiếng nhất là tên lửa Tomahawk của Mỹ. Tên lửa này có thể bay sát mặt đất, hoặc mặt biển (tránh radar), nó có thể bay vòng tránh các vật cản địa hình, khi gần đến mục tiêu nó mới vọt lên cao và bổ nhào xuống. Hệ thống dẫn đường của nó rất tinh xảo, dùng kết hợp cả bản đồ số, vệ tinh, laser, thậm chí có thể dùng camera nhận dạng mục tiêu ở những giây cuối cùng. Khác với đạn đạo, cái cruise missile này có động cơ xịt ra đằng đít hoạt động liên tục từ lúc xuất phát cho đến lúc đâm vào mục tiêu. Để tiết kiệm năng lượng và không để lộ nó bay khá chậm, ở tốc độ cận âm. Thường là đến gần mục tiêu nó mới tăng tốc lên tốc độ siêu âm (supersonic), hoặc siêu vượt âm (hypersonic) (ở chế độ bay quá tốc độ âm thanh, tức là từ tốc độ siêu âm trở lên, tiếng ồn do tên lửa/máy bay gây ra rất lớn, và rất tốn năng lượng để bay).
Các tên lửa có cánh này có thể bay cả ngàn ki lô mét, bắn tàu ngầm, bắn tàu chiến, bắn mục tiêu mặt đất đều được. Bắn từ máy bay xuống, bắn từ tàu ngầm lên đều được. Nga đánh Ukraina thì bắn tên lửa loại này là Kalibr. VN thì rất thích mua con BrahMos-II của Nga, mà chắc chưa được mua. Về lý thuyết thì do Trường Sa chỉ cách bờ biển vài trăm km, nên VN mua thật nhiều tên lửa này thì tốt hơn là mua nhiều tàu chiến/tàu ngầm. Vì cứ đứng trên bờ mà nã tên lửa ra thì an toàn và chắc ăn hơn là bơi ra đánh nhau.
Tên lửa có cánh và tên lửa đạn đạo đều dễ đánh chặn. Tên lửa đạn đạo tuy tốc độ có thể rất cao, Mach 20, nhưng do quỹ đạo của nó đơn giản nên dễ đánh chặn. Còn tên lửa siêu thanh (hypersonic missile) bắn từ máy bay xuống rất khó đánh chặn. Hiện NATO chưa đánh chặn được tên lửa siêu thanh của Nga. Còn về sản xuất mới có Nga và Trung Quốc có tên lửa này. Sau đó, tương lai gần, có thể Pháp và Mỹ cũng sẽ làm được. Bắc Hàn nói là làm được, nhưng chắc là bốc phét.
*
Thực tế chiến trường thì Nga đã bắn tên lửa siêu thanh (hypersonic).
Trong tiếng Việt mà đọc báo sẽ thấy từ “vũ khí răn đe”. Nó không chỉ là vũ khí có tên gọi là “răn đe”, mà nó là vũ khí đi theo “học thuyết răn đe”; theo đó các vũ khí răn đe là vũ khí có trong tay nhưng chỉ để đe dọa (tức là vũ khí hạt nhân). Thậm chí còn không đe dọa bằng mồm, mà cứ để đấy thôi. Tên lửa siêu thanh là ở bên kia của lằn ranh giữa “vũ khí quy ước” và “vũ khí răn đe”.
Có nhiều lý giải về việc Putin cho bắn tên lửa siêu thanh tên là Kinzhal.
Lý giải hài hước thì bảo là Nga bị chê là toàn dùng vũ khí ngu (bom ngu, tên lửa ngu) nên Putin cay quá đem vũ khí hiện đại là tên lửa siêu thanh ra dùng.
Lý giải khác cũng buồn cười nhưng có lý hơn, đó là Nga đã bắn sắp hết tên lửa hành trình đất đối đất (cruise missile) rồi, mà chưa áp chế được phòng không Ukraine, nên phải dùng Kinzhal. Vì Kinzhal là tên lửa không đối đất, bắn từ máy bay Mig, bắn xa cả ngàn km, tốc độ thì vượt quá Mach 5, tức là nó có thể bay cả chục ngàn km/giờ. Nó bay trần thấp, tốc độ cao, lắt léo nên cực kỳ khó đánh chặn. Hiện nay vũ khí của NATO chưa đánh chặn được Kinzhal.
Có một phân tích khác nói là Putin bắn dọa thế chứ tên lửa Kinzhal không biết Nga đã có bao nhiêu cái? Vì hợp đồng sản xuất mới ký năm 2019. Tham nhũng như Nga thì may ra mới làm được độ 10 quả. (Nhưng có ý kiến nói là khả năng Nga đã làm được tầm 100-200 quả rồi).
Giới phân tích thì cho là cuộc chiến đã đến ngưỡng cực điểm (Nga không thể tấn công và giành thêm thắng lợi; cũng không đủ sức bao vây phong tỏa Kyiv) nên chiến trường sẽ tạm ngưng (tấn công lấn chiếm) thay vào đó là giữ cục diện. Cuộc chiến sẽ trở thành cuộc chiến tiêu hao cực kỳ đẫm máu, Nga thì bắn pháo bắn tên lửa ném bom. Ukraine thì tập kích.
*
Ukraine có vẻ như đã tính trước đến việc này nên họ nằng nặc đòi NATO cấm bay, điều mà họ biết chắc là không thể, để đổi lại buộc NATO/ISRAEL cung cấp tên lửa phòng không tầm cao và tầm xa để chống không quân Nga từ xa (không cho bắn tên lửa không đối đất, đặc biệt là siêu thanh). Đồng thời họ cũng xin viện trợ rất nhiều máy bay drone tên là Switchblade. Đây là drone cảm tử. Nó chỉ nặng tầm gần 3kg, lính bộ binh cho vào ba lô được. Và nó rất rẻ so với vũ khí hiện đại (tầm 6000 USD) và sản xuất rất nhanh. Con này dùng máy phóng đơn giản phóng lên, nó bay khá nhanh (100km/h) và bay khá xa (trên 10km). Nó có thể lập trình để nhận biết vài dạng mục tiêu. Rồi nó cứ lơ lửng trên đầu kẻ thù cả chục phúc đến ba chục phút để quan sát và đợi mục tiêu xuất hiện rồi lao xuống nổ tung. (Nga bắt đầu đào công sự để cố thủ phía ngoài Kyiv, chắc Ukraine cần rất nhiều Switchblade để cảm tử vào quân Nga).
Nó cảm tử như vậy nên gọi là kamikaze drone (kamikaze là thần phong, chỉ các phi công cảm tử Nhật lao máy bay vào tàu chiến Mỹ). Switchblade thì là dao bấm. Kinzhal thì là cây đao, có gốc từ tiếng Trung Á là khanjali ხანჯალი. Còn Iskander là Alexander trong tiếng Nga. Do ảnh hưởng của tiếng Ba Tư đi vào Nga qua ngả Trung Á. Alexander viết tiếng Ba Tư sẽ là اسکندر Eskandar hoặc سکندر Skandar. Tên thành phố Alexander ở Ai Cập viết bằng tiếng Ả Rập sẽ là الإِسْكَنْدَر, phiên ra là al-Iskandarīyah.
Nga cũng có kamikaze drone. Drone này do nhà máy Kalashnikov sản xuất, được cho là đã dùng trên chiến trường Ukraine. Tên nó là ZALA Aero KUB-BLA. Từng thử nghiệm ở chiến trường Syria nhưng đến đầu năm nay mới sản xuất hàng loạt.
*
Về cuộc chiến. Có thể có một lý do thế này, đó là Putin đã không kiểm soát được chế độ Oligarchy (là chế độ hiện hữu khi Putin lên nắm quyền) để nó “tự chuyển hóa” thành Kleptocracy ở mọi cấp, sâu rộng. Còn ở cấp cao, cách chọn người và sử dụng người xung quanh inner circle của mình, biến họ thành henchmen, thì Putin sử dụng Timocracy (Shoigu, Patrushev, Naryshkin). Cái sau làm nảy sinh ra cái trước, Timocracy làm Oligarchy ở cấp cao thoái hóa thành Kleptocracy ở các cấp thấp hơn.
Nếu Putin sụp đổ, thế giới sẽ thấy chuỗi chuyển biến chính trị như sau: Oligarchy->Plutocarcy->Timocracy->Kleptocracy->Democracy.
Việt Nam hiện đại, tính từ 1802, có thể đã chứng kiến ít nhất hai cái là: Meritocracy và Timocracy. Kleptocracy tưởng bị ngoắc ngoải vì chiến dịch đốt lò, ai ngờ đâu còn khỏe hơn với Việt Á và Cục Lãnh Sự.
*
Xem phim gì khi Nga đánh Ukraine.
Do Putin xuất thân là sĩ quan KGB nên ta xem Red Sparrow, trong đó có Jennifer Lawrence đóng điệp viên Nga. Từ đào tạo đến chiến đấu đều cực kỳ tàn bạo. Nhân vật sĩ quan KGB cực kỳ giống Putin.
Đánh đấm ác liệt đẹp mắt mà cũng có KGB là phim Atomic Blonde, có Charlize Theron đóng điệp viên nhị trùng KGB.
Phim Mosul. Phim này nói về trận chiến Mosul, một thành phố cổ ở Iraq. Phim này nói về sự kiện có thật, chiến tranh đô thị cực khắc nghiệt, là cái người ta dự đoán sẽ xảy ra ở Kharkiv và Kyiv.
October 15, 2021
Nobel vật lý 2021: Biến đổi khí hậu
Giải Nobel Vật Lý năm nay khá bất ngờ. Với các nhà khoa học, họ bất ngờ nhưng là sự bất ngờ thích thú. Với công chúng, họ bất ngờ và khó hiểu. Bài viết dưới đây là viết cho TTCT số tuần này, bản đăng báo có thể ngắn hơn một chút.
Göran Hansson, tổng thư ký của Viện hàn lâm Hoàng gia Thụy Điển phát nói: “Nhiều người trong số các bạn vẫn nghĩ rằng vật lý chỉ là những hiện tượng đơn giản và có trật tự (order). Vật lý rộng hơn thế rất nhiều. Vật lý sử dụng các lý thuyết cơ bản để giải thích những hiện tượng phức hợp khổng lồ (vast complexity) của thế giới tự nhiên. Công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý năm nay đòi hỏi phải có trực giác sâu sắc về những cấu trúc và tiến trình thiết yếu… Những nhà khoa học đoạt giải năm nay thực sự là những bậc thầy.”
Giải Nobel Vật Lý 2021
Trong suốt lịch sử 120 năm của mình, các giải Nobel dành cho khoa học dần trở nên thủ cựu khi chỉ khuôn vào ba ngành khoa học lâu đời là Y học, Hóa học và Vật lý; trong khi đó khoa học của loài người đã phát triển mạnh mẽ và đa dạng trong suốt thế kỷ 20 rồi vắt qua hai mươi năm đầu thế kỷ 21. Cách trao giải Nobel Vật lý cho các công trình và các nhà khoa học “rất vật lý” như Ủy ban Nobel vẫn trao suốt cả trăm năm qua có lẽ không còn phù hợp với thời đại mới. Các giải Nobel trao cho Einstein, Heisenberg, Dirac, Schrödinger, Pauli… cách nay hơn nửa thế kỷ vẫn tiếp tục là những lần trao giải vĩ đại, giải Nobel trao cho Penrose mới năm ngoái cũng rất vật lý và thời thượng, nhưng việc mở rộng giải vật lý, dung hợp thêm những ngành khoa học khác, vẫn là việc nên làm và đáng được hoan nghênh.
Vài năm gần đây, giải Nobel Vật lý bắt đầu “dung hợp” hơn, giải được trao cho những nhà khoa học ở những ngành vật lý mới mẻ, hoặc “cận vật lý”. Năm 2018 giải được trao cho các nhà khoa học làm về vật lý laser, một lĩnh vực giống công nghệ nhiều hơn là khoa học cơ bản. Cũng xin mở ngoặc là năm nay các nhà khoa học làm ra vaccine mRNA không được trao giải Y sinh, các ý kiến “ngoài luồng” cho rằng nghiên cứu về vaccine mRNA nặng về công nghệ mà ít hàm lượng khoa học cơ bản. Năm 2019 giải được trao cho ngành khoa học trái đất và năm 2020 (Penrose) danh chính ngôn thuận là trao cho vật lý thiên văn, một ngành rất non trẻ (tuy chữ thiên văn làm chúng ta nhầm tưởng đó là ngành lâu đời).
Năm nay, giải Nobel vật lý trao cho các nhà khoa học có đóng góp về khoa học khí hậu. Mặc dù một nửa giải về tay nhà vật lý thực tụ là Giorgio Parisi, nhưng tựu chung tất cả đều bất ngờ khi ngành khoa học khí hậu mới là ngành đoạt giải thưởng danh giá này. Một trong ba nhà khoa học được giải, Syukuro Manabe, còn ngạc nhiên khi mình được giải. Ông nói: “Chẳng ai đi trao giải thưởng vật lý cho lĩnh vực nghiên cứu của tôi, [mà giải Nobel thì lại trao] và tôi thực sự đánh giá cao Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển [đã chọn] lĩnh vực này, một lĩnh vực chứa đựng các chủ đề về khí hậu và biến đổi khí hậu.”
Quả thật, nhìn vào “ngành nghề” hoặc công trình của các nhà khoa học đoạt giải Nobel Vật lý năm nay, ta hẳn phải có chút ngạc nhiên.
Ba nhà khoa học nhận giải Nobel Vật Lý 2021
Một nửa giải Nobel Vật lý 2021 được trao cho hai nhà khoa học khá xa lạ với những gì ta vẫn quen gọi là vật lý. Một người là nhà khí hậu học (người Mỹ gốc Nhật) và một người là nhà hải dương học (người Đức). Họ được trao giải vì đã có công xây dựng mô hình vật lý của khí hậu trái đất, định lượng các biến động và dự đoán được sự ấm lên toàn cầu.
Nhà khí hậu học tên là Syukuro Manabe. Từ những năm 1960, Manabe đã tiên phong dùng mô phỏng máy tính vào nghiên cứu khí hậu, qua đó đưa ra dự đoán đáng tin cậy về việc nhiệt độ trung bình của hành tinh tăng lên để đáp ứng lại sự tăng lượng CO2 bị phát thải vào khí quyền. Mô phỏng khí hậu trái đất của Manabe tiếp tục phát triển suốt ba chục năm tiếp theo, ngày càng phức tạp hơn, có thêm vào các biến số phức tạp của lưu chuyển các dòng không khí và hải lưu, từ đó đặt nền tảng cho mô hình dự báo được sự nóng lên toàn cầu.
Nhà hải dương học tên là Klaus Hasselmann. Từ những năm 1970, Hasselmann phát hiện ra và xác định được các mối liên hệ mang tính hệ thống và thống kê giữa các hiện tượng thời tiết hỗn loạn (chaotic) xảy ra mỗi ngày với sự biến động diễn ra chậm chạp hơn của khí hậu hành tinh, từ đó có đóng góp vào các mô phỏng khí hậu mà trong đó các biến động ngắn hạn như thời tiết hay hoạt động của con người (ô nhiễm) có ảnh hưởng đến biến đổi dài hạn của khí hậu.
Nửa giải Nobel Vật lý còn lại về tay một nhà vật lý lý thuyết thực sự, đó là Parisi. Ông là người Ý thứ sáu được giải Nobel Vật lý. Ông được trao giải vì, như Ủy ban Nobel công bố, “đã khám phá ra tác động qua lại của sự mất trật tự (disorder) và biến động thăng giáng (fluctuation) trong các hệ thống vật lý có quy mô từ cỡ nguyên tử đến cỡ hành tinh.”Công trình mà Parisi được trao giải thuộc về lĩnh vực khoa học cơ bản, “spin glass”, đã được công nhận từ những năm 1970 và 1980.
Spin glass là đề tài công trình nghiên cứu của Parisi. Đây là một loại hợp kim đặc biệt, ví dụ một chút nguyên tử sắt được hòa tan ngẫu nhiên vào mạng lưới các nguyên tử đồng. Dù chỉ số lượng nguyên tử sắt rất ít, chúng vẫn làm biến đổi rất mạnh từ tính của hợp kim. Đây là hiện tượng rất khó hiểu. Theo Parisi, hợp kim bỗng thể hiện các đặc tính từ tính kỳ lạ do sự mất trật tự trong cấu trúc nguyên tử của chúng. Khi nghiên cứu các mô thức (pattern) bí ẩn xuất hiện trong spin glass, Parisi thu nhận được các hiểu biết khoa học mang tính đột phá về mất trật tự (disorder) và hỗn loạn (chaos) trong các hệ vật lý ở mọi quy mô, từ cỡ nguyên tử đến cỡ các hành tinh. Các cấu trúc phức hợp (complex structure) trong spin grass mà Parisi mô tả sau này được áp dụng để tìm hiểu các hệ thống mất trật tự tự nhiên, chẳng hạn như não người, hệ thần kinh, hệ sinh học, học máy; hoặc các hiện tượng có sẵn trong thiên nhiên như chuyển động của các đàn chim và khoa học khí hậu.

Tại sao spin glass lại quan trọng?
Đó là do ta có thể sử dụng nó như một cẩm nang hướng dẫn du lịch đi qua sự hỗn loạn (chaos) để đến với tính phức hợp (complexity).
Trong Vật lý nói riêng và các ngành khoa học cơ bản nói chung, thường thì đối tượng nghiên cứu luôn là một thứ gì đó đồng nhất (homogenous), có thể giản lược bớt, quy giản nó về cốt lõi. Những “thứ gì đó” thường là một hệ (system) chứa đựng những thứ hợp lý, cân đối, bình dị, chuẩn chỉ. Các hệ này luôn có tính đối xứng (symmetry) về không gian và thời gian. Ví dụ như hệ mặt trời, có thể quy giản nó về một hệ mà mặt trời, trái đất và các hành tinh là các hạt điểm. Hoặc các “hệ” vật chất, như tinh thể, nam châm, chất siêu dẫn,… đều có cấu trúc trật tự và đối xứng, dễ dàng giản ước để phân tích và nghiên cứu.
Trong một số loại chất rắn, ví dụ như sắt từ, mỗi nguyên tử sẽ có một spin từ tính (magnetic spin). Spin là tên gọi của các vector từ tí hon của mỗi nguyên tử, nó được biểu diễn bằng một mũi tên bé tí hướng từ cực Nam đến cực Bắc của các viên nam châm tí hon này. Ở nhiệt độ cao, các nguyên tử hỗn loạn, mất trật tự, nhưng khi nguội dần, các nguyên tử ổn định dần, và các spin xắp xếp rất ngay hàng thẳng lối, các mũi tên hướng về cùng một hướng, một hệ rất trật tự.
Thế nhưng cấu trúc của thủy tinh, một loại chất rắn vô định hình, lại không trật tự như vậy. Nó rất mất trật tự. Ngay cả khi hạ nhiệt độ xuống thấp, thủy tinh định hình rồi, mà các phân tử vẫn rất lung tung, không theo một mô thức (pattern) thông thường nào cả. Với “hệ” thủy tinh, những tính chấn cân đối, chuẩn chỉ, bình dị,… một cách có trật tự bỗng dưng biến mất. Ta không thể đơn giản hóa hệ thống để dễ dàng phân tích và nghiên cứu được nữa.
Khi nghiên cứu tính mất trật tự, ví dụ như tính mất trật tự của từ tính trong hợp kim, người ta dùng phép so sánh tương tự, họ ghép hình ảnh spin từ trường với cấu trúc mất trật tự thủy tinh, từ đó có cái tên spin glass.
Điểm khác biệt mấu chốt ở đây là: trong khi tính mất trật tự của hợp kim do nhiệt đã được nghiên cứu và có được những hiểu biết khá là trọn vẹn; thì tính mất trật tự do giảm nhiệt độ (luyện nguội), các spin (phân tử) bị mắc kẹt ở tư thế hỗn loạn trong vật chất ngưng tụ (condensed matter) lại là cái mà con người chưa có mấy hiểu biết.
Câu hỏi sao chất rắn nó lại rắn, là câu hỏi không dễ trả lời, xét về mặt vật lý nói chung và khoa học vật liệu nói riêng. Câu hỏi này, về mặt triết học đã được xới lên từ lâu, có thể kể đến người biện luận nổi tiếng của phái phi vật chất luận là giám mục Berkely chống lại việc vật chất (chất rắn) có thể động chạm vào được, tác động qua lại được, nhưng không có thật, mà chỉ là các ý niệm. Đến thế kỷ 19, các nhà vật lý như Ludwig Boltzmann, Josiah Gibbs bắt đầu đặt nền móng cho cơ học thống kê và hệ nhiệ động học, đây là trụ cột của vật lý hiện đại và sau đó có ảnh hưởng đến nhiều ngành khoa học khác, trong đó có khoa học khí hậu. Sang thế kỷ 20, các nhà vật lý bắt đầu tìm hiểu sâu hơn về các định luật bảo toàn (năng lượng, động lượng, điện tích…) nhưng người tìm ra bản chất của bảo toàn lại là một nhà toán học nữ là Emmy Noether. Bản chất tự nhiên của bảo toàn năng lượng, động lượng hay điện tích là do tính đối xứng (symmetry) có trong tự nhiên. Và nếu tính đối xứng bị phá vỡ, nó sẽ sinh ra một cái gì đó đặc biệt. Ví dụ như sự phá vỡ đối xứng mang đến cho vật chất khối lượng (nếu không, vật chất sẽ không có khối lượng, massless), đây là công trình mang đến cho Higgs giải Nobel vật lý, và cái hạt truyền khối lượng ấy gọi là Higg Boson.
Câu hỏi về một hệ rắn (vật chất rắn) tại sao có khối lượng, tại sao nó trật tự,… đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và đem lại cho loài người hiểu biết đầy đủ để giải thích đủ các loại hiện tượng, từ việc tại sao miếng dán nam châm lại dính được lên tủ lạnh, đến tại sao màn hình tinh thể lỏng lại…phát được hình. Còn hệ mất trật tự vẫn là một thế giới bí ẩn. Lúc này đây spin glass bắt đầu thể hiện vai trò của mình. Spin glass có sự tương đồng với các hệ có cấu trúc nội tại phức hợp.
Các đặc trưng của Spin glass tương tự với đặc trưng của một hệ phức hợp. Khi nhiệt độ của môt hệ trật tự (ví dụ như sắt từ) giảm xuống tới nhiệt độ định hình, cấu trúc nội tại của nó ổn định và trật tự dần, cho tới khi đạt tới trạng thái tối ưu và bền vững duy nhất. Còn một hệ phức hợp (như spin glass), ở nhiệt độ định hình, nó rơi (các spin bị mắc kẹt) vào một trong nhiều trạng thái cực tiểu khác nhau. Tức là ở khi xuống đến nhiệt độ định hình, sự định hình của nó rơi vào một trong nhiều trạng thái tạm bền vững khác nhau (metastable). Mỗi trạng thái mà nó rơi vào ấy là cả một sự giằng co: một số cặp spin muốn chỉ theo cùng một hướng và những cặp khác theo hướng ngược lại – vậy làm thế nào để chúng tìm ra một hướng tối ưu. Đó chính là lý do khi đã định hình rồi mà spin glass vẫn có cấu trúc mất trật tự. Ví von về sự giằng co từ cục bộ lan ra toàn thế này, Parisi viết: “… nghiên cứu về spin glass cũng giống như xem bi kịch con người trong các vở kịch Shakespeare. Bạn muốn kết bạn với hai người cùng một lúc nhưng hai người ấy lại ghét nhau, điều đó có thể khiến bạn thấy bất ổn (frustration, một thuật ngữ của vật lý). Điều này càng đúng hơn nữa nếu đây là một vở bi kịch cổ điển, nơi bạn và thù có tình cảm mạnh mẽ gặp nhau trên sân khấu. Làm thế nào để có thể tối thiểu hóa sự căng thẳng trong phòng (tối ưu hóa cấu trúc của toàn hệ)? Parisi phát hiện ra một cấu trúc ẩn của spin glass và tìm ra cách để mô tả nó bằng toán học. Sau khi phương pháp của Parisi được chứng minh là đúng, nó đã được áp dụng vào nhiều hệ thống phức hợp và trở thành nền tảng của lý thuyết về hệ thống phức hợp.

Cụ thể hơn, công trình của Parisi giúp các nhà khoa học tính được số trạng thái có thể ở một tình huống cụ thể. Đây là một công cụ quan trọng để nghiên cứu một hệ phức hợp ngoài tự nhiên. Các hệ như vậy, ví dụ một đàn chim đang cuồn cuộn di chuyển, hay hệ khí hậu… sẽ có một tổ hợp vô số các cấu hình, trạng thái, kết quả khác nhau.
Spin glass giúp ta hiểu được các đặc trưng trải khắp các hệ phức hợp đa dạng. Đó có thể là một hệ không phụ thuộc kích cỡ (free-scale, tức là nó đúng với mọi kích cỡ, từ nguyên tử đến các hành tinh), ví dụ như hệ thần kinh tự nhiên hoặc nhân tạo (neutral network); hoặc là một hệ thích ứng (adaptive system) vốn là hệ có nhiều vòng lặp phản hồi, ví dụ như hệ sinh thái, xã hội loài người, các sinh thể (organism), các hệ tạo ra hoặc sử dụng quá nhiều dữ liệu (bigdata). Tóm lại, đó là các hệ tồn tại dường như rất ổn định (metastable) trong tự nhiên, nó nằm ở gianh rới giữa rất trật tự và rất hỗn loạn.
Giải Nobel dành cho nghiên cứu về khí hậu
Khí hậu là một hệ thống phức hợp điển hình. Đầu tiên nó là một hệ động, tức là nó liên tục biến đổi theo thời gian. Tiếp đó nó không phải là một hệ tuyến tính. Và nó là hệ đa biến số, với các biến lại phụ thuộc lẫn nhau. Một hệ thống phức hợp như khí hậu có hàng triệu biến số có ảnh hưởng đến nhau và gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống. Tác động phức hợp giữa các biến số gây khó khăn trong việc dự đoán biến động của toàn bộ hệ thống. Ví dụ, mặt nước đóng băng có màu trắng sẽ làm giảm độ hấp thụ ánh nắng. Băng tan làm mặt đất giảm độ sáng trắng và thêm độ tối của mặt nước. Mặt nước tối hấp thụ nắng nhiều hơn, làm băng tan nhiều thêm. Kiểu tác động giữa các biến này được gọi là vòng lặp phản hồi (feedback loop). Tác động của nó được gọi là tác động kiểu quả tuyết lăn (tác động ban đầu rất nhỏ, đơn lẻ, mà kết quả do nó tạo ra rất lớn và toàn cục). Đây cũng là một đặc trưng của hệ phức hợp.
Công trình về spin grass của Parisi mang đến cho các nhà khoa học hiểu biết về cách một cá thể có tính cục bộ mỗi khi xoay chuyển (một spin đổi chiều) lại có thể tạo ra các ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống.
Đóng góp của Suki Manabe và Klaus Hasselmann vào nghiên cứu khí hậu trái đất khá rõ nét. Manabe phát minh ra mô hình biến đổi khí hậu hiện đại trong đó sử dụng máy tính (thời đó còn khá thô sơ) để khảo sát khí hậu ở quy mô khắp bề mặt trái đất là lên tới tầng bình lưu của khí quyển. Klaus Hasselmann phát triển các kỹ thuật so sánh để định lượng tác động của các yếu tố đầu vào lên kết quả đầu ra, trong đó có kỹ thuật “lấy dấu vân tay tối ưu”. Kỹ thuật này sử dụng một bộ công cụ toán thống kê để lập chiến lược tối ưu trong việc truy tìm các dấu vết còn sót lại (rất nhỏ) của con người trong vô vàn các tác nhân có thể gây ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu. Bằng việc sử dụng kỹ thuật “vân tay tối ưu”, các nhà khoa học khẳng định một cách chắc chắn rằng biến đổi khí hậu gần đây là do con người.

Thế còn đóng góp của Parisi vào nghiên cứu khí hậu cụ thể là gì. Chính Parisi thuật lại rằng, các nghiên cứu của ông về sự mất trật tự trong các hệ thống phức hợp đã được sử dụng để mô hình hóa các chu kỳ băng hà (dài khoảng 100.000 năm) đã tạo ra kỷ băng hà của Trái đất. Ông cũng nói, chúng ta không còn nhiều thời gian để giải quyết vấn đề trái đất của chúng ta đang nóng lên nhanh một cách đáng ngại. “Rõ ràng là vì các thế hệ tương lai, chúng ta phải hành động ngay lập tức, và hành động thật nhanh chóng.”
Các nghiên cứu vật lý lý thuyết của Parisi nằm “rải rác” ở vài lĩnh vực khác nhau. Trong Lý thuyết trường lượng tử, Parisi có phương trình Altarelli-Parisi, đây là một công cụ toán học được sử dụng rất nhiều trong vật lý hạt và vật lý năng lượng cao. Trong Cơ học thống kê, Parisi có mô hình siêu đối xứng Parisi-Sourlas supersymmetry , được ứng dụng trong nghiên cứu vật liệu có cấu trúc mất trật tự, để suy luận các thăng giáng lượng tử hoặc biến động thống kê của các spin từ trong các trường ngẫu nhiên. Bên cạnh đó, ông dùng máy tính để mô phỏng các hệ phức hợp trong cơ học thống kê và lý thuyết trường lượng tử. Khi nghiên cứu nhiệt động học của spin glass, ông tìm ra chuỗi các nghiệm, mỗi nghiệm lại phá vỡ đối xứng (symmetry breaking) của nghiệm trước đó theo một phương thức có hệ thống. Kết quả cuối cùng là hệ quả của chuỗi các cấp phá vỡ đối xứng trước đó. Chuỗi nghiệm này của Parisis giúp các nhà khoa học hiểu sâu hơn về các bài toán tổng quát của các hệ phức hợp (nhưng có thể dùng mô phỏng để tính toán được) như thời tiết, khí hậu, học máy,…
Một ví dụ về đối xứng bị phá vỡ. Sau Big Bang, nhiệt độ rất cao, rồi vũ trụ nguội dần, trường Higgs ngưng tụ (một sự chuyển pha kiểu như khi nhiệt độ giảm dần thì hơi nước chuyển thành thể lỏng, rồi thể rắn). Trước khi trường Higgs ngưng tụ, các hạt photon, W, Z không có khối lượng và giống nhau. Sự đối xứng (symmetry) giữa chúng cũng là symmetry giữa các lực mà chúng mang. Khi Higgs ngưng tụ, đối xứng bị phá vỡ (broken), hạt photon vẫn không có khối lượng, hạt W và Z có khối lượng. Các lực mà chúng mang trở nên khác nhau. Lực điện từ (photon) khác lực hạt nhân yếu (W và Z)trở thành hai lực khác nhau ở thế giới hiện tại (và nhiệt độ hiện tại); nhưng về cơ bản chúng là cùng một lực mà thành ra hai chỉ vì có sự chuyển pha của trường Higgs làm vỡ đối xứng. Các nhà vật lý thống nhất được lực điện từ và lực hạt nhân yếu (như Maxwell đã thống nhất lực điện và từ trước đó một thế kỷ) đã đoạt giải Nobel Vật Lý năm 1979. Họ là Glashow, Weinberg va Salam. Lực hợp nhất của điện từ (electromagnetic force) và lực hạt nhân yếu (weak nuclear force) trở thành electroweak force.
Về hệ phức hợp (complex system) và tính phức hợp (complexity). Một ví dụ là sự nhận thức (consciousness) của chúng ta. Nó là sự đột hiện (đột ngột xuất hiện – emergence) ra bề mặt bên ngoài của một hệ vĩ mô nhưng lại bắt nguồn từ những cấu trúc vật lý vi mô (hàng chục tỷ tế bào não, neuron thần kinh, vân vân) ở tầng đáy bên trong. Sự đột hiện (emergence) đấy rất khó hiểu, nó giống như một phép thần. Làm sao mà một hệ vật lý rất phức tạp ở tầng cấp vi mô (microscoptic) bao gồm toàn những là neutron, proton, electron,… lại tạo hiện ra một thứ rất kỳ lạ là sự nhận thức ở cấp độ vĩ mô (macroscoptic), ở đây là kích cỡ một con người? Để tìm hiểu nó, người ta vận dụng thuyết động học để tìm hiểu hệ phức hợp động (dynamic complex system). (Ta có thể thay sự nhận thức/consciousness trong ví dụ trên bằng những thứ khác nhau: khí hậu, nền kinh tế xã hội của một đô thị lớn, hay một đàn chim đặc kít đang cuồn cuộn bay.
Như vậy, giải thưởng Nobel Vật lý năm nay có trao cho nhà vật lý có công trình thực sự là vật lý cơ bản, công trình này có đóng góp vào ngành khoa học khí hậu; và các nhà khoa học khí hậu, nhờ vào các mô hình vật lý họ sử dụng để nghiên cứu biến đổi khí hậu của họ cũng được trao giải Nobel vật lý. Hay nói cách khác, biến đổi khí hậu, một vấn đề đã đi ra khỏi địa hạt hẹp của mình, đến với các diễn đàn chính trị, các phong trào xã hội, và nay còn đến với Giải Nobel.

October 2, 2021
Đạo đức và Kiểm soát quyền lực
Những gì xảy ra suốt hơn một năm rưỡi chống dịch, có nhiều cái quá ư lạm quyền từ phía nhà nước, có nhiều cái vượt qua cả đạo đức lẫn luân lý.
Sự thiếu vắng đạo đức, và hoàn toàn thiếu khoa học, có liên quan đến nhau. Mọi người có thể đọc Cách chúng ta mưu sự hành động và lối sống.
Sự lạm quyền là do thiếu checks and balances, trong đó thiếu dân biểu (đại biểu của dân) và địa phương biểu (đại điện của địa phương, cụ thể là của tình, của thành phố, có thể gọi là tỉnh biểu hay thành biểu). Mọi người có thể đọc Viện Dân Biểu.
September 29, 2021
Hết giãn cách và mệt Lê Nin
Nếu đọc Lê Nin mệt quá, và quá chán, mọi người có thể giải trí một tí.
Bựa một tí: Sự tích Vàng Anh
Bay bổng một tý: “Miệt mài trong cuộc truy hoan. Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình.“
Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
