Hà Ô Lôi là ai…
Chắc chắn có nhiều người từng đọc Chuyện Hà Ô Lôi trong Lĩnh Nam Chích Quái và thấy nhân vật này quá ư quái dị. Hà Ô Lôi có năng lực quyến rũ phụ nữ nhà lành, nhất là các phụ nữ lá ngọc cành vàng trâm anh thế phiệt sống biệt lập trong gác tía lầu son. Quyến rũ ở đây không chỉ là đi flirting thả thính vuốt má vỗ mông mà là seduce rồi đè ra chén luôn, thậm chí chén đi chén lại từ tối đến sáng làm con người ta mê tơi rã hết cả rời.
So sánh với Trương Chi. Anh Trương Chi này không rõ xuất thân, làm nghề chài lưới, có giọng hát làm say đắm lòng người nhưng chấp nhận thân phận cửa dưới và dung nhan xấu xí, dẫn đến mối tình bi kịch: “Mối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.”
Còn Hà Ô Lôi là con trai của một vị dâm thần (thành hoàng làng Ma La), giao hợp với vợ một vị quan to bằng cách đi vào giấc mộng của bà này (như nam thần Incubus trong thần thoại châu Âu thời trung cổ chuyên đi vào giấc ngủ của phụ nữ mà làm trò dâm loạn).
Mẹ Hà Ô Lôi lúc đầu bị ông chồng là quan to kia vu là chửa hoang, bị hạ ngục, nhưng vua cứu ra: “vợ của ngươi, con là của thần”.
Hà Ô Lôi được vua sủng ái. Hà Ô Lôi có biệt tài mà như ngày nay gọi là biết làm thơ và ngâm thơ (dù mù chữ), có ngoại hình dâm dục (da đen bóng nhẫy), có năng lực tình dục vô biên, và hát thơ rất rất hay. Lại còn nhiều mưu mẹo, sẵn sàng chơi mưu hèn kế bẩn. Kết cục Hà Ô Lôi chết thảm, nhưng chấp nhận cái chết của mình, lại còn khẳng khái đọc bài thơ nôm ý tứ rất thực dụng trước khi chết (như Nguyễn Văn Trỗi ở pháp trường): “Sinh tử do trời sá quản bao. Nam nhi miễn được tiếng anh hào. Thác bề thanh sắc nên là thác. Chết đằng nào nên cơm cháo nào!”
Từ lâu rồi tôi cứ đoán Hà Ô Lôi là người gốc Chàm. Vì chuyện xảy ra thời
Trần, ở làng Ma La ngoại thành Thăng Long (tức Xuân La, Từ Liêm/Chèm) là nơi quân Trần nhốt nhiều tù binh Chàm (vốn là các chiến binh giỏi nhất mà bị bắt). Khu quanh hồ Tây này hồi đó cũng nhiều dâm từ, thờ các dâm thần, sau này bị cải biến thành chùa Phật.
Nhưng hôm qua tình cờ đọc lại một bài cũ cách đây hơn 10 năm tên là Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaisravana), Sóc Thiên Vương và Phù Đổng Thiên Vương trong Tôn Giáo Viêt Nam thời Trung Cổ của tác giả Như Hạnh thì tôi nghĩ có thể Hà Ô Lôi còn có trait từ xa và xưa hơn nữa: Ấn cổ.
Bài viết “Tỳ Sa Môn Sóc Thiên Vương” đại khái nói vị thần bảo hộ phương bắc Vaisravana (Tỳ Sa Môn) được Khuông Việt Thiền Sư đua vào thờ cúng ở triều đình nhà Đinh và sau này là nhà Lê Hoàn (dựa vào hình dáng và vai trò của vị thần này là thống lĩnh đám quỷ yakkha mà ở VN quen với tên gọi quỷ dạ xoa). Khi Lê Hoàn đánh Tống thì vị thần này trỗi dậy trợ giúp đánh Tống. Dần dần qua thời gian vị Tỳ Sa Môn Ấn Độ này bản địa hóa thành Sóc Thiên Vương và cuối cùng là thành Đổng Thiên Vương và là ông Gióng. (Xem thêm Tỳ Sa Môn đi đâu… ở cuối bài này.)
Chuyện Hà Ô Lôi xuất hiện khoảng thế kỷ 13-15 (nhà Trần) và có lẽ được hoàn thiện dần cho đến phiên bản Vũ Quỳnh, Kiều Phú thời Lê sơ. So với chuyện cổ dân gian thì nó có tình tiết lớp lang rắc rối hơn, có thắt mở nút quyến rũ hơn nhiều. Bối cảnh của câu chuyện là thời kỳ (nhà Trần) Phật giáo (Bắc Tông/Trung Hoa) và Nho giáo từ Trung Hoa tràn xuống bắt đầu chi phối chính trị xã hội thượng tầng. Ở tầng dưới, người Việt cổ vốn hồn nhiên và phóng túng trong sinh hoạt tình dục và thờ cúng, nên họ có những tư tưởng phản kháng lại Phật giáo và Nho giáo khắt khe về tình dục (và cả việc coi trọng khoa bảng) từ đó sinh ra Hà Ô Lôi.
Hà Ô Lôi gốc gác từ một vị dâm thần làng Chàm (văn hóa Ấn), vô học (không khoa bảng) nhưng rất có tài (vua yêu hơn cả mấy ông quan học giỏi). Hà Ô Lôi được một cụ già tên là Lã Động Tân (hàm ý đạo sỹ) truyền cho năng lực hát thơ bằng cách nhổ nước bọt vào miệng (hàm ý Đạo giáo nhường chỗ cho Nho giáo và Phật giáo ở bề mặt xã hội nhưng vẫn còn ngầm chảy trong dân gian.)
Do là con của vị thần, được vua đặt tên, nhưng vì vua “không biết họ của thần” nên vua lấy họ Hà đặt tên là Ô Lôi. Họ Hà, có thể là ngầm chỉ vị dâm thần Hindu là Kamadeva (có nghĩa là thần tình yêu, xác thịt), vị thần này có nhiều tên, ví dụ Kama (nghĩa là ham muốn), hoặc Krishna (nghĩa là Đen, Tối, hoặc Lôi cuốn, tương thích với hai chữ Ô Lôi). (Tổ hợp Hà Ô “Lôi” khá giống Đại “Cồ” Việt cho thấy cách sử dụng chữ Nôm đá lẫn chữ Hán ngày xưa cũng phổ biến, như tiếng Việt đá tiếng Anh/Pháp ngày nay.)
Alexander Barton Woodside viết rằng Việt Nam là vùng đất mà hai nền văn minh Ấn và Hán tranh chấp nhau, mà về lâu dài thì văn minh Hán chiến thắng vì nó có ý hệ và phương pháp cai trị vượt trội hơn. Cho nên sau mỗi lần thắng ngoại xâm hoặc nội chiến thì chính quyền trung ương của Việt Nam lại có xu hướng Hán hóa thêm một cấp độ nữa cả về chính trị, tư tưởng và đường lối cai trị. Nhưng chắc ông học giả cây đa cây đề về Việt Nam này không nghĩ đến tranh chấp Ấn – Hán lại có một phiên bản Hà Ô Lôi của dân gian ở ngay bên rìa Thăng Long như vậy. (Chưa kể nó rất hàm ý, và giàu biểu tượng, ở chỗ chồng Tàu (Sĩ Doanh), vợ Việt, mà con là con với một vị thần phương Nam, tức là người Chàm).
Nhưng cuối cùng, đứa con trai lai của hai nền văn minh Việt-Ấn/Chàm ấy vẫn bị bọn Nho gia (rất thâm độc mưu mô) cho vào cối giã đến chết. Phải cho vào cối giã mới chết, cũng thể hiện sức sống mạnh mẽ của dòng chảy Đạo giáo và Phật giáo/Ấn giáo trong văn hóa dân gian Bắc Bộ và có lẽ cũng từng có những đợt đàn áp dã man của triều đình để cải cách văn hóa và tín ngưỡng. Thời kỳ các phiên bản Vũ Quỳnh, Kiều Phú ra đời thì cũng là quãng nhà Lê (sau khi thắng quân Minh) đang Nho hóa mạnh mẽ.
Nghe nói đạo liên sàng yêu cầu thành viên mới phải đọc thuộc lòng chuyện Hà Ô Lôi rồi mới xét đơn gia nhập. Mọi người có thể search Lĩnh Nam Chích Quái, chuyện Hà Ô Lôi, sẽ ra bản đầy đủ, đọc kỹ trước khi đi thi.
Tỳ Sa Môn đi đâu…
Tiếp sau bài Tỳ Sa Môn – Sóc Thiên Vương của Như Hạnh là bài Giấc mơ Khuông Việt nhìn từ giác độ lịch sử-văn hóa của Nguyễn Thanh Tùng. Hai tác giả và hai bài viết đều có mạch suy luận rất thú vị, nhưng họ lại để ra một khoảng trống hẹp: không lý giải được tại sao Tỳ Sa Môn lại biến mất gần như hẳn khỏi tín ngưỡng chính thống lẫn dân gian của VN, còn Đổng Thiên Vương càng ngày càng nổi tiếng.
Có thể từ cuối Lý đầu Trần, Tỳ Sa Môn (vị thần bảo hộ phương Bắc/Sóc) tức Sóc Thiên Vương đã buộc phải từ bỏ vai trò hộ quốc (bảo vệ quốc gia) của mình và được thờ cúng trong đền/từ để thu hẹp vào vai trò hộ pháp (bảo vệ quốc giáo lúc này đang trỗi dậy là Phật giáo tông phái Trung Hoa) và do đó được thờ cúng trong chùa/tự. Các dâm từ đang thờ cúng các vị thần Hindu đi theo Phật giáo Ấn Độ vào nước Việt dần biến mất và bị cải hóa thành Phật tự.
Thời Lý đền thờ Sóc Thiên Vương được ở đền ở làng Minh Tảo/Cảo Hương bên Hồ Tây (nay là Xuân Đỉnh), cuối Lý thì Sóc Thiên Vương (hộ quốc) bị chuyển biến thành Xung Thiên Thần Vương (vẫn đóng vai hộ quốc) và dần dần trở thành Phù Đổng Thiên Vương (một vị thần bản địa đóng vai trò hộ quốc) và trở thành Thánh Dóng/Thánh Gióng.
Sang Trần, khi Phật giáo đẫm dần màu sắc Trung Hoa thì Sóc Thiên Vương cũng biến mất. Thời Lê Hoàn nơi thờ Sóc Thiên Vương ở Núi Vệ Linh (núi Sóc) vẫn là chùa, sau này (thời Lê Lợi) đền này được hoán cải để thờ Xung Thiên Thần Vương (đền), rồi thành thờ Phù Đổng.
Tỳ Sa Môn Thiên Vương không biến mất vào hư không. Vị thần Phật Ấn này ở thời Khuông Việt (nhà Đinh) được thờ cúng trong đền giữa núi rừng (xa kinh đô). Đến thời Lê Hoàn được tôn lên như một vị thần bảo trợ vương triều chống giặc Tống và được đưa vào chùa. Đến đầu Lý, Tỳ Sa Môn còn được di chuyển nơi thờ tự về gần kinh thành (hồ Tây). Cuối Lý bắt đầu có sự phân tách identity của vị thần Ấn độ này theo hai hướng: thượng lưu chính trị và dân gian. Sang thời Trần, Tỳ Sa Môn bắt đầu được đồng hóa vào một vị thần của Phật giáo – Quán Thế Âm Bồ Tát, lại chính là Tỳ Sa Môn trong Phật giáo Trung Hoa – và được giới thượng lưu chính trị trong triều đình phong kiến nho giáo (thông thạo Bắc Tông hơn Phật Ấn giáo) thờ cúng ở chùa vốn là nơi linh thiêng trong nội thành. Còn Tỳ Sa Môn/Sóc Thiên Vương được cải biến thành một vị thần bản địa chống ngoại xâm và là anh hùng dân gian và đưa ra xa kinh đô để thờ cúng ở đền vốn là nơi thế tục.
Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
