Trần Đình Hoành's Blog, page 10
May 27, 2020
Có không, không có
Chào các bạn,
Có hai câu kinh có lẽ mỗi bạn nên thuộc lòng để nhớ, vì hai câu đó gói ghém chân lý lớn nhất của đời sống con người. Đó là hai câu đầu của Bát Nhã Tâm Kinh:
Quán-tự-tại Bồ-tát hành thâm Bát-Nhã Ba-la-ma-mật-đa thời
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách
Nghĩa là:
Khi Bồ tát Quán Tự Tại thực hành trí tuệ Bát Nhã giải thoát thâm sâu
Thấy rõ mình là Không, ngài vượt qua mọi khổ nạn
Tiếng Anh là:
When Avalokiteshvara Bodhisattva was practicing the profound prajna paramita, he illuminated the five skandhas and saw that they are all empty, and he crossed beyond all suffering and difficulty.
Bản chữ Hán là do Đường tăng Huyền Trang (trong truyện Tây Du Ký – Tề Thiên Đại Thánh) dịch từ tiếng Phạn. Hán Việt là do người Việt chuyển âm sang. Mình không biết ai dịch bản tiếng Anh. Lời dịch tiếng Việt là của mình.
Bồ tát (Boddhisattva) là một quả vị Phật, thấp hơn Phật viên mãn một chút, vì Bồ tát nguyện là sẽ độ hết mọi sinh linh rồi thì mới nhận quả vị Phật (Buddha).
Bồ tát Quán Tự Tại. Quán Tự Tại là tên của vị Bồ tát này, đồng thời còn có nghĩa là “nhìn hiện hữu tự chính nó” (looking at existence as it is”). Tên của các Bồ tát trong Phật giáo thường có hai nghĩa: một là tên riêng, hai là ý nghĩa triết lý như thế.
Tên tiếng Phạn của vị Bồ tát này là Bodhisattva Avalokiteshvara. Đây là một Bồ tát rất là thú vị, và có ảnh hưởng trong Phật giáo VN hơn tất cả mọi Bồ tát khác. Một tên Hán Việt của Bồ tát này là Quán Thế Âm Bồ tát, tức là “Phật Bà Quán Âm” đứng trên hoa sen, một tay cầm nhành dương liễu tượng trưng cho đức nhẫn nhục, và một tay cầm bình Thanh tịnh, bên trong chứa nước Cam lồ. Cam là ngot, lồ là “lộ” tức là sương. Đây là nước sương ngọt, tượng trưng đức từ bi, dùng nước sương ngọt để cứu khổ chúng sinh đang bị thiêu đốt trong biển khổ.
Quán Thế Âm Bồ tát còn có hình dạng “ngàn tay ngàn mắt” (thiên thủ thiên nhãn), để nhìn thế gian đau khổ và để giang tay cứu độ.
Bodhisattva Avalokiteshvara nguyên thủy ở Nepal/Ấn Độ là nam. Sang Trung Hoa và Việt Nam thì được biến thành nữ.
Quán Thế Âm là tên tình yêu của Bồ tát. Quán Tự Tại là tên của triết lý và trí tuệ của Bồ tát.
Chúng ta thấy tình yêu và trí tuệ không rời nhau.
Hai câu đầu của Bát Nhã Tâm Kinh là: Khi chúng ta thấy mình là Không, chúng ta được “giải thoát” (vượt qua đến bờ bên kia – paramita, balamậtđa. Đó là giác ngộ, thành Phật.
Nhưng “Không” đây không có nghĩa là “Không có.” Không đây là nền tuyệt đối (absolute) của vũ trụ, từ đó sinh ra mọi hiện tượng của vũ trụ tương đối (relative universe). Chúng ta là hiện tượng tương đối – có đó và mất đó – nhưng cũng là một phần của Không trường cửu, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm (không sinh không diệt, không dơ không sạch, không tăng không giảm – Bát Nhã Tâm Kinh).
Đó có thể nói theo ngôn ngữ “có không” là: có mà là không, không mà là có.
Chúng ta có mà là không, không mà là có. Cứ vậy mà sống uyển chuyển, nghệ thuật, và thanh tịnh.
Chúc các bạn luôn tràn đầy trí tuệ.
Mến,
Hoành
© copyright 2020
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
April 23, 2020
Khi ta nổi giận
Chào các bạn,
Vấn đề không phải là khi ta yêu. Khi yêu, mọi chúng ta đều là thiên thần. Vấn đề là khi ta nổi giận. Khi nổi giận ta thường thành ác quỷ và đó là vấn đề. Vì thế phải “Làm thế nào để không nổi giận?” Hay, “nếu nổi giận thì làm thế nào để kiểm soát cơn giận của mình để mình vẫn bình tâm và hành xử như thiên thần?”
Nhưng tại sao phải bình tâm và hành xử như thiên thần? Thưa vì, mọi hành vi lúc nổi giận đều ngu dốt và hại chính mình. Thường là người ta ân hận ngày sau đó là “mình đã giận mất khôn”. Nếu làm điều tốt thì tại sao lại ân hận?
Nếu bạn sống ở đời mà thỉnh thoảng lại nổi giận và tự làm hại bạn như thế – mất bạn, mất bố, mất mẹ, mất anh chị em, mất việc, mất khách hàng, mất cơ hội thăng tiến, mất uy tín, mất danh tiếng, mất danh dự… thì bạn sống thế nào được? Chính vì thế mà hai người thông minh ngang nhau ở lớp 3, ba mươi năm sau một người là tướng, một người là ăn mày, đó là chuyện rất thường tình ở đời.
Bạn muốn chọn đường nào?
Lãnh đạo giỏi là người có thể quản lý và hỗ trợ mọi người của mình thành team vô địch. Nếu chỉ có “thằng giận” của bạn mà bạn chẳng quản lý xong thì bạn quản lý ai được? Nếu đưa bạn một khúc cây, rất có thể bạn chẳng quản lý được, nói chi là quản lý người. Lúc bạn nổi nóng vì bị người yêu đá, rất có thể bạn ném khúc cây vào lửa cháy cho hả giận.
Giận làm người ta thành ác quỷ và ngu muội.
Người đời sẽ dạy bạn nhiều cách kiểm soát cơn giận, như là:
– Uống một ly nước rất từ từ.
– Hít vào thật sâu và thở đều đặn như lúc ngồi Thiền.
– Đi chơi một vòng thành phố.
– Tự bảo không nên làm gì lúc giận, để từ từ rồi sẽ tính.
– Quân tử 10 năm báo thù cũng không muộn
– …
Đại khái là như thế. Nhưng các cách này thường chẳng giải quyết được gì cả, và có thể làm bạn thành tồi tệ hơn. Nếu bạn chỉ ngưng làm gì lúc này, nhưng cơn giận và cơn ghét vẫn tràn ngập trong lòng bạn và xâu xé bạn, thì bạn vẫn âm ỉ càng ngày càng giận mạnh hơn trong lòng, và vẫn tiếp tục tính toán mọi đường ác quỷ để “giải quyết vấn đề.”
Giận âm ỉ như thế còn hại hơn là giận nổ ra. Nó tạo ra stress thường trực và sẽ giết bạn bởi động tim, đột quy, đau dạ dày và hệ tiêu hóa, đau hệ thần kinh… Thà là giận nổ ra ngay cho xong thì còn lợi hơn là giận âm ỉ.
Nhưng dù gì thì vấn đề vẫn nằm yên nếu không tệ hơn từng phút, vì khi giận bạn trở thành ác quỷ, dù là giận kiểu nổ hay kiểu âm ỉ.
Đời sống tâm linh như thế là hỏng, vì như bạn leo cây, leo lên được 1 mét lại tuột xuống 1 mét rưỡi. Đến khi nào bạn đạt đỉnh?
Chúng ta chẳng thể chỉ “im lặng” không làm gì với cơn giận mà hòng thay đổi được gì trong trái tim. Quân từ báo thù 10 năm cũng chưa muộn, hay 30 năm cũng chưa muộn. Và trong 30 năm “tính toán báo thù” đó, bạn sống như ác quỷ tự dày vò làm hại thể xác và tâm hồn mình. Nói chung là tự giết mình.
Nhưng nếu bạn yêu người thì bạn sẽ không giận. Mình rất có kinh nghiệm về việc này. Thiên hạ chửi mình có lý do hay chẳng có lý do là chuyện thường như cơm bữa. Lý cho chính là mình 30 năm trước quyết định mở đường, đi giữa hai lằn đạn, khởi động các sinh hoạt đưa giới trí thức VN về quê cha đất tổ để giúp tái thiết đất nước sau chiến tranh. Và các qúy vị “chống cộng triệt để” đương nhiên là có nhiều người mắng mỏ và chụp mũ mình với đủ thứ mũ. Nếu mình quan tâm đến các vị thì có lẽ ngày nay các bạn cũng chẳng biết đến tên mình.
“Phe lờ” các vị làm phiền mình là một giải pháp tạm thời, cần đi theo một giải pháp thường trực, để trái tim mình được rỗng lặng và tĩnh lặng để còn có thể thoải mái mà làm việc. Mình thật sự yêu mọi người rất chân tình, trong trái tim mình. Con người ai cũng hời hợt và tham sân si, chạy theo lý tưởng, tư duy, truyền thống, chính trị của họ để mà tự hành hạ họ và hành hạ mọi người quanh họ. Đó chỉ là si mê như Phật nói. Si mê và đau khổ. Mình có thể thấy được điều đó – thấy được họ yêu nước cũng như mình yêu – nhưng họ yêu mà chấp bám vào cái yêu đó và cái tôi tư duy của họ, và họ trở thành tù nhân trong nhà tù tư duy của chính họ. Rất tội nghiệp và đáng thương, và nên được mình hiểu và thông cảm. Chính vì tư duy như vậy mà mình học được bài học yêu người sâu sắc – yêu người dù người làm gì bạn, xâu xé bạn, thanh trừng bạn. Yêu người vì loài người si mê trong bể khổ mà không biết.
Khi chúng ta yêu người, chúng ta chẳng thể nổi giận. Người làm gì thì ta cũng chỉ yêu người. Trái tim yêu người không chấp trước – keeping no record of wrongs (1 Corinthians 13). Không giữ sổ sách của những “điều sai” người ta làm, thì chẳng có gì trong đầu mình để giận.
Các bạn, con người si mê khắp thế giới, tràn ngập địa cầu. Con người ngụp lặn trong đau khổ. Nếu bạn thương người đủ để thấy được điều đó, thì bạn sẽ yêu người đủ để chẳng hề giận bao giờ, hay cũng lắm là chỉ giận một xíu trong vài phút.
Chúc các bạn luôn có trái tim rỗng lặng. Trái tim giác ngộ.
Mến,
Hoành
© copyright 2020
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
April 19, 2020
Âm trung hữu dương căn
Chào các bạn,
“Âm trung hữu dương căn” là “trong âm có gốc dương”. Đầy đủ thì người ta nói: “Âm trung hữu dương căn, dương trung hữu âm căn” – trong âm có gốc dương, trong dương có gốc âm. Có nghĩa là trong cái tốt có mầm cái xấu, trong cái xấu có mầm cái tốt. Đó là nguyên lý vận hành của trời đất vũ trụ và đời sống, trong triết lý vận hành của cuộc đời mà người xưa gọi là Dịch. Dịch là thay đổi, chuyển dịch… “Dịch học” được tóm tắt rõ ràng và giản dị nhất trong “Thái cực đồ”, tức là ảnh Thái cực, ảnh của “nguyên ủy vĩ đại”. Thái cực (Nguyên ủy vĩ đại) có thể được xem là khởi nguyên của vũ trụ, tương tự như Không trong Phật triết, Đạo trong Lão giáo và Thượng đế trong các tôn giáo với ý niệm Thượng đế là gốc.
(Nói theo kiểu của mình – TĐH – thì Thái cực (Không/ Đạo/Thượng đế) là ý niệm tuyệt đối, nền tảng cho mọi hiện tượng tương đối trong vũ trụ. Tuyệt đối (absolute) vô giới hạn, là nền; tương đối (relative) là vũ trụ có giới hạn được xây dựng trên nền tuyệt đối vô giới hạn đó. Tất cả mọi triết lý và đạo học của thế giới hầu như đều giống nhau ở điểm căn bản này, dù là ngôn ngữ thì rất khác nhau).
Ảnh Thái cực đồ dưới đây:
Nhìn Thái cực đồ có lẽ các bạn đã nhận ra rõ ràng. Màu đen (ngày nay đôi khi màu xanh đậm) là âm, và màu trắng (ngày nay đôi khi màu đỏ) là dương. Âm và dương ám chỉ hai điều/hai lực đối kháng nhau như ngày và đêm, tốt và xấu, trắng và đen, đực và cái… trong vũ trụ.
Đối kháng nhưng “tương hành”, tức là đi chung với nhau (như nước tương và củ hành
April 1, 2020
Hãy có trái tim Bồ tát
Chào các bạn,
Những ngày này yên ắng ở nhà và cả thế giới lo âu, là lúc thuận tiện nhất để bạn luyện tập tâm Bồ tát.
Bồ tát là gì?
Bồ tát là phiên âm của Bodhisattva – chúng sinh hữu tình đã giác ngộ. Nhiều kinh sách tiếng Việt gọi là Người tỉnh thức.
Khi người “khởi tâm Bồ đề” tức là phát nguyện tự độ mình (đưa mình qua bờ) và độ mọi chúng sinh, thì người tức thì là Bồ tát. Người ta gọi đó là Bồ tát phàm phu, khác với Bồ tát hiền thánh. Mình thì gọi là Bồ tát tập sự, khác với Bồ tát tròn đầy. (Phật là thành đạt viên mãn đã độ mình và độ mọi chúng sinh xong).
Vậy khi bạn khởi tâm Bồ đề, tự nguyện độ mình và độ mọi chúng sinh, bạn đã là Bồ tát, với tâm Bồ đề (bodhicitta).
Bồ tát đạo có 6 nhánh đường gọi là Lục độ Balamật (sáu cách qua bờ): Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Và rất có thể bạn sẽ nhận được cả trăm điều luật để “trì giới” (thực hành giới luật).
Nhưng mình tin rằng nếu bạn khởi tâm Bồ đề, thực hành Lục độ và cả trăm giới luật, như các công thức hành đạo, thì bạn sẽ chẳng bao giờ thành Bồ tát thực thụ, ngược lại rất có thể bạn sẽ được bồ tát.
Bồ tát là ở tâm – trái tim yêu thương mọi chúng sinh đến mức muốn mọi chúng sinh trở thành Bồ tát.
Yêu là một cảm xúc, không phải là một công thức. Nếu bạn yêu mọi chúng sinh, yêu mọi người, chẳng chừa ai, và yêu với một cảm xúc yêu thương mãnh liệt trong lòng, đến mức bạn muốn mọi người được an lạc hạnh phúc và bạn thực hành để giúp mọi người được an lạc hạnh phúc – tức là trở thành Bồ tát như bạn – thì đó là bạn đã có tâm Bồ tát, và theo ý mình bạn đã là Bồ tát viên mãn tròn đầy – chẳng chỉ là Bồ tát tập sự (vì Bồ tát là trái tim, chẳng chỉ là nghề thợ rèn để bạn tập sự học nghề).
Các bạn, hãy quán loài người – gia đình và thân nhân của mình, bạn bè, thầy cô, sếp, hàng xóm láng giềng, mọi người mình thấy ngoài đường, mọi người mình có thể tưởng tượng ra, cả nhân loại này… Nếu bạn nhìn người – ai đó hay cả loài người – mà trái tim bạn ngập tràn những lọn sóng yêu thương, những ước ao tịnh độ, thì đó là trái tim Bồ tát.
Và hãy nuôi dưỡng trái tim Bồ tát đó, đừng để nó đi mất theo những lo âu của thời gian và cuộc sống. Đó chính là thực hành Bồ tát đạo và Bồ tát hạnh.
Đừng chạy theo các công thức. Chúng chỉ làm bạn thành ngu dốt, chẳng thể nào tỉnh thức được. Chỉ có tình yêu mới thức tỉnh con người.
Chúc bạn luôn là Người tỉnh thức.
Mến,
Hoành
© copyright 2020
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
March 25, 2020
Tứ bất kiến
Chào các bạn,
Tứ Bất Kiến (the four invisibles) là bốn điều không thể “thấy” được – “thấy” đây là thấy cả bằng mắt hay bằng trí.
1) Cá không thể thấy nước (water is invisible to fish).
2) Người không thấy không khí hay gió (air or wind is invisible to human).
3) Kẻ mê muội mờ mịt không thể thấy được thực chất của vạn pháp (the nature of things are invisible to the deluded).
4) Người giác ngộ không thể thấy được “Không” – vì tâm của người ấy và bản chất của Không đã là một (và vượt ra ngoài ý niệm). (Void is invisible to the enlightened, for his/her heart and the nature of Void are one (and surpass the realm of conception or thought)
Các bạn, điều này rất dễ hiểu. Chúng ta sống trong môi trường, ngụp lặn trong môi trường, và hít thở môi trường – như cá trong nước – nên chúng ta không nhận biết được môi trường, và đương nhiên là cũng không nhận biết được môi trường có nhiều bụi bặm mà ta đang hít thở và rác rến mà ta đang ăn.
Đó là tại sao quá nhiều người của thế giới – kể cả các “thầy” – đầy tham sân si và rác rến trong tâm, nuốt vào từ môi trường bên ngoài, nhưng chẳng hề biết.
Nhưng bạn có thể vượt qua “khuyết tật khiếm thị” đó bằng hai cách bằng trí:
1. Khi gặp thầy trí tuệ thì hãy lắng nghe. (Nhưng, biết được thầy nào trí tuệ thì cũng là việc cực khó!!)
2. Tự vượt mình lên cao, như máy bay bay lên trời, và “nhìn xuống” cuộc đời, để may ra từ góc độ cao đó, bạn có thể nhìn rõ được cuộc đời và con người đầy tham sân si thế nào, tranh nhau chạy lòng vòng như kiến bò miệng cối thế nào. (Nhưng tự vươn mình ra ngoài môi trường sống để “nhìn xuống” cuộc đời và loài người cũng là điều cực kì khó khăn!!)
Well, chỉ còn một cách dễ hơn cho các bạn là “yêu người” Yêu tất cả mọi người, một chiều, vô điều kiện. Yêu với một cảm xúc yêu mạnh mẽ trong lòng, không chỉ yêu bằng miệng hay yêu thông qua logics.
Trái tim đưa đến trí tuệ. Hãy tràn đầy yêu thương trong lòng, và bạn sẽ “thấy”.
Chúc các bạn thấy được những huyền diệu sâu sắc của cuộc đời và con người.
Mến,
Hoành
© copyright 2020
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
January 19, 2020
Vô úy thí
Chào các bạn,
Đường tu Bồ tát, dành riêng cho các bạn muốn thành Bồ tát, có sáu đức hạnh gọi là Lục độ ba la mật – Sáu đức hạnh giải thoát. Đó là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Trong lục độ thì bố thí là đức hạnh đầu tiên. Không có bố thí thì chẳng thể có năm đức hạnh sau đó.
Bố thí có 3 cách: tài thí, pháp thí, vô úy thí – cho tiền, cho giáo pháp, cho sự không sợ. Vô úy thí – cho sự không sợ – là cách cho lớn nhất và quan trọng nhất.
Tại sao?
Tại vì mọi người cả thế giới đều sợ – sợ mất tiền, sợ mất chức, sợ mất danh tiếng, sợ bệnh, sợ tai nạn, sợ mất người yêu, sợ mất việc, sợ thất bại… Nói chung là hàng triệu thứ sợ.
Hết sợ là trở thành Bồ tát, vì Bồ tát không sợ.
Nhưng trước khi bạn có thể cho người khác sự không sợ, bạn phải là người không sợ.
Bạn chỉ không sợ nếu bạn hiểu vô ngã – con người tôi có mà coi như không, chẳng cái gì của tôi đáng giá gì, dù đó là tiền bạc, danh tiếng, sắc đẹp, nhà cửa, danh dự… Chẳng có gì về tôi là quan trọng gì cả, chỉ như cát bụi phù du. Nếu bạn “vô ngã” được như thế thì bạn thành Bồ tát và không còn sợ.
Quán-tự-tại Bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhât thiết khổ ách
Khi Bồ tát Quán-tự-tại thực hành trí tuệ bát nhã thâm sâu
Thấy rõ mình là không, ngài liền vượt qua mọi khổ nạn
Bát Nhã tâm kinh
Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại,
vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn
Chư vị Bồ tát nương tựa trí tuệ bát nhã, nên tâm không vướng mắc,
Không vướng mắc, nên không sợ hãi,
Xa rời mộng tưởng điên đảo, đạt được Niết bàn
Bát Nhã tâm kinh
Các bạn, đừng bám vào cái tôi phù du, cát bụi, vô nghĩa lý. Đừng coi trọng cái tôi của mình. Thì chúng ta sẽ an nhiên tự tại, hoàn toàn không sợ điều chi, luôn ung dung làm điều gì mình thấy cần làm, cho mọi chúng sinh, cho mọi đồng bào, cho mọi đất nước.
Đó là cái không sợ trong Bồ tát. Và Bồ tát có thể tặng cái không sợ cho mọi người, bằng cách dạy họ vô ngã.
Và đó là quà tặng lớn nhất mà một người có thể tặng.
Chúc các bạn đạt Bodhicitta.
Mến,
Hoành
© copyright 2020
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
January 16, 2020
Bản kinh cổ 2000 năm của Đức Phật được Hoa Kỳ công bố – Thanh Tâm
Thứ Tư, 15 tháng 1, 2020
[image error]
Thư viện Quốc hội Mỹ đã công bố một bản kinh Phật quý hiếm từ 2.000 năm trước của Phật giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta có thêm một cái nhìn khái quát về lịch sử Phật giáo trong những năm hình thành sớm nhất. Bản kinh cổ có nguồn gốc ở Gandhara, một khu vực Phật giáo cổ xưa ở miền bắc của Afghanistan và Pakistan. Chỉ có vài trăm bản kinh Gandharan được phổ biến cho các học giả trên thế giới và mỗi bản kinh là cần thiết để hiểu về sự phát triển ban sơ của văn học Phật giáo. Với việc sử dụng phân tích ngôn ngữ, các học giả nghiên cứu các bản kinh để lập biểu đồ về sự truyền bá của Phật giáo khắp châu Á.
Kinh cổ Gandhara được tường thuật bởi Đức Phật Thích Ca, nhà lãnh đạo tôn giáo còn biết với tên Sĩ Đạt Ta cho biết về câu chuyện của 13 vị Phật tiền thân trước Ngài, sự xuất hiện của Ngài và sự tiên đoán một vị Phật tương lai. Thông tin về mỗi vị Phật được sống bao lâu và bao lâu những tầng lớp xã hội khi các Ngài được sinh ra và thời gian mà giáo lý tồn tại.
Ông Jonathan Loar – Quản Thủ Thư viện Quốc hội Mỹ cũng là thủ thư tham khảo tại Phân khu Châu Á tại Thư viện cho biết trong một tuyên bố nói với phóng viên CNN:
“Đây là một vật phẩm độc nhất bởi vì nó rất cổ xưa so với các bản kinh tương tự và vì thế nó mang đến cho chúng ta, nói theo lịch sử, gần gũi với cuộc đời của Đức Phật.”
[image error]
Nội dung cơ bản của bản kinh cổ này có chứa thông tin về cuộc đời của mười lăm Phật: Dpaṅkara, Sarvābhibhū, Padmottara, Atyuccagāmin, Yaśottara, Śākyamuni và Maitreya (8 Vị theo Nikaya). Cuộn sách đưa ra dự đoán của chư vị cổ Phật giáo thuyết về tương lai của Śākya Muni sẽ thành Phật, bốn khóa đào tạo của đức Phật Sakya Muni dưới các vị Phật khác; tuổi thọ của họ; những đời họ sống; tầng lớp xã hội nơi họ được sinh ra; hội chúng của các môn đệ; và thời lượng giảng dạy của họ. Vương quốc cổ đại Gandhara (ngày nay là Afghanistan và Pakistan) được xem là nguồn gốc của các bản thảo Phật giáo lâu đời nhất trên thế giới, cũng như các bản thảo cổ nhất từ Nam Á tồn tại.
Được mua vào năm 2003, Gandhara của Thư Viện có niên đại khoảng giữa thế kỷ thứ nhất BCE và thế kỷ thứ nhất CE. Ngôn ngữ của nó là Gandhari, một từ phái sinh của tiếng Phạn, và chữ viết có tên là Kharoshthi. Các học giả đã gọi một cách không chính thức cuốn sách này là Bahubuddha Sutra, hay “The Many Buddhas Sutra”, vì nó giống với một văn bản có cùng tên. Trong tiếng Phạn. Cuộn sách nói về cuộc đời của mười lăm vị Phật.
Bản văn được thuật lại bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đưa ra những tiểu sử rất ngắn về mười ba vị Phật trước ngài, sau đó là sự ra đời và xuất hiện của Ngài, và kết thúc bằng sự thọ ký về tương lai của vị phật Maitreya (Phật Di Lặc). Các tiểu sử chứa thông tin khác, chẳng hạn như mỗi vị Phật sống được bao lâu, những vị Phật tiên đoán sự xuất hiện của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xã hội mà Đức Phật được sinh ra, và giáo lý của ngài tồn tại được bao lâu.
– Được cung cấp bởi nhân viên Thư viện Quốc hội.
– Xuất bản: Gandhara khoảng thế kỷ 1 trước Công nguyên – khoảng thế kỷ thứ nhất A.D.
– Tiêu đề: Chư Phật.
– Công trình sớm đến 1800.
– Bản thảo, Kharoṣṭhi – Washington D.C.
– Bản thảo, Prakrit – Washington D.C.
– Cuộn này trên vỏ cây bạch dương có nguồn gốc từ vùng Phật giáo cổ xưa của Gandhara (Pakistan và Afghanistan ngày nay) và là một trong những bản thảo Phật giáo lâu đời nhất được biết đến. Nó được viết bằng ngôn ngữ Gandhari Prakrit trong kịch bản Kharoshthi, được đọc từ trên xuống dưới và từ phải sang trái. Bởi vì cuộn chứa chữ viết ở cả hai mặt, người ghi chép sẽ lật cuộn theo chiều dọc để tiếp tục viết trên ngược lại.
– Bản thảo có sáu mảnh lớn và khoảng 130 mảnh nhỏ hơn; hầu hết hoàn thành với sự khởi đầu và kết thúc còn thiếu. Các mảnh vỡ được lưu trữ bằng phẳng trong hai hộp vỏ sò, có kích thước 73,5 x 45 x 7,8 cm. Một hộp chứa sáu mảnh lớn và hộp còn lại chứa các mảnh nhỏ hơn.
– Hình ảnh của văn bản này phản ánh số lượng, định hướng và thứ tự các mảnh vỡ và bảo quản trong vỏ thủy tinh. Trong hình ảnh của trực tiếp của sáu mảnh lớn, ba mảnh nhỏ nhất phải được xoay 180 độ để đọc cuộn.
Thanh Tâm (tổng hợp)
December 13, 2019
Biết được bản chất thật của mình
Chào các bạn,
Thế giới tồi tệ vì con người không biết được bản chất thật của họ. Họ thấy họ tồi tệ, tham sân si, rồi họ phóng (project) cái nhìn đó lên thế giới quanh họ, và họ, một cách ý thức hay vô thức, biến cái nhìn đó thành hiện thực. Kết quả là thế giới thành tồi tệ thường trực.
Các bạn đó là Luật Hấp Dẫn, hay Hiệu ứng Pygmalion. Bạn nghĩ thế giới của bạn thế nào thì nó thành thế nấy.
Nhưng bao nhiêu thánh nhân đã liên tục nói qua bao nhiêu thế hệ một điều như nhau mà hình như chẳng người nào của thế giới muốn nghe: Bản chất thật của mỗi người chúng ta là thánh thiện.
Nhân chi sơ tánh bổn thiện. Từ thuở đầu bản tánh con người vốn thiện.
Chúng ta là Phật đang thành. Chúng ta là con Thượng đế.
Bạn, hãy quên bạn là phàm phu đầy tham sân si. Đó không phải là bản chất thật của bạn. Đó có thể là bạn lúc đang say, nhưng không phải là con người thật của bạn.
Mỗi chúng ta là Phật đang thành, là con Thượng đế. Mỗi chúng ta linh thánh tại tầng sâu thẳm nhất của trái tim ta.
Nếu mọi người của trái đất đều nghĩ nghiêm chỉnh như thế, thì trái đất này thành thiên đàng tức thì, trong một sátna.
Nhưng vì người ta nghĩ rằng con người tồi tệ, cho nên cả địa cầu tồi tệ.
Đây là chân lý rất dễ hiểu, nhưng hình như chẳng ai biết.
Nhưng các bạn, mình có tin vui cho bạn. Bạn không cần cả thế giới biến trái đất thành thiên đàng. Bạn có thể biến đời bạn thành thiên đàng, chỉ trong một sátna.
Ngay khi bạn chấp nhận sâu sắc trong lòng rằng “Mình là Phật đang thành” hay “Mình là con Thượng đế”, bạn đã hoàn toàn thay đổi đời bạn. Bạn vẫn mặc bộ đồ đó, đội chiếc mũ đó, đi chiếc xe đó… chẳng ai thấy bạn thay đổi gì cả, nhưng bạn biết là cuộc đời bạn đã thay đổi hoàn toàn.
Và có lẽ một thầy nào đó có thể thấy aura của con người, gặp bạn và biết bạn đã thay đổi hoàn toàn.
Các bạn, lý lẽ rất dễ hiểu. Hai đứa cùng ăn mày, nhưng đứa ăn mày nghĩ nó là ăn mày thì hoàn toàn khác với đứa ăn mày biết nó là con vua đang trên đường tị nạn.
Và bạn cũng chẳng cần ai làm chứng. Khi bạn chấp nhận sâu sắc bản chất thật của bạn, bạn sẽ tự biết là bạn đã thay đổi hoàn toàn.
Và đó là kinh nghiệm mà người xưa hay nói “hốt nhiên đại ngộ.”
Chúc các bạn đại ngộ.
Mến,
Hoành
© copyright 2019
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
December 11, 2019
Mình chính là thầy của mình
Chào các bạn,
Mấy hôm trước mình có dịp nói chuyện với một người bạn lâu ngày không gặp. Bạn mình những năm gần đây bỏ rất nhiều thời gian lo Phật sự, luôn tìm gặp các thầy, như Đạt Lai Lạt Ma và các sư thầy nơi này nơi kia, tham dự những cuộc lễ lớn như rước tượng Phật ngọc và các ngày lễ trong Phật giáo, hỗ trợ các thầy giảng pháp… Mình cũng đã biết là bạn làm thế chỉ tốn thời giờ vì bạn sẽ chẳng học được gì cả từ thầy nào.
Và đúng như thế. Bạn vừa nói với mình: “Mình chạy theo mọi người và mọi thứ, rốt cuộc mình nhận ra chính mình là thầy của mình, và mình phải là thầy của mình. Chẳng có thầy ở đâu khác.” Mình gật đầu: “Đúng vậy!”
Và mình vui vì bạn mình đã sớm nhận ra là chẳng ai dạy được chính ta điều gì cả, mà người thầy thật của ta phải là chính ta.
Sao vậy?
Vì đời sống tâm linh chỉ có thể hiểu được bằng chính kinh nghiệm sống và suy tư của chính mình. Chẳng có cách học thứ hai. Bạn chẳng thể đọc kinh sách người khác viết, hoặc nghe ai đó thuyết giảng, mà bạn có thể hiểu được gì.
Bạn sẽ không bao giờ hiểu được “vô ngã”. Trừ khi bạn đã sống lâu năm và đã suy nghĩ từng ngày “Vô ngã là gì?” Kinh nghiệm sống mỗi ngày sẽ từ từ trả lời “Vô ngã là gì” cho bạn.
“Vô chấp” cũng vậy. Cũng như thế với “giác ngộ – si mê, Niết Bàn – địa ngục, thiện – ác, thật – giả, mộng – tỉnh”.
Những khái niệm triết lý sâu thẳm về đời sống này, bạn chỉ hiểu được qua đời sống và tư duy của chính bạn. Và khi bạn hiểu được một khái niệm, ví dụ “vô chấp”, thì bạn tức thì, cùng lúc, hiểu hết mọi khái niệm còn lại, như “vô ngã” hay “Niết Bàn” hay…
Nghĩa là, mỗi khi ngộ là luôn đại ngộ. Chẳng có tiểu ngộ. Tức là chỉ có “đại ngộ” hay “chẳng ngộ”, hay nói cách khác, chính xác hơn: chỉ có “ngộ” hay “chẳng ngộ”. Chẳng có đại ngộ tiểu ngộ gì cả. Một là ngộ, hai là không ngộ.
Nói tóm lại là nếu bạn sống nghiêm chỉnh – tức là sống và tư duy về đời sống – thì bạn sẽ ngộ ra mọi chiều sâu của mọi ý niệm triết lý về đời sống. Nếu bạn không sống, tức là sống mà chẳng hề suy nghĩ, tức là sống kiểu bèo dạt mây trôi, hoặc là kiểu xác ướp bước trên đường phố, thì bạn chẳng thể ngộ.
Sống nghiêm chỉnh và tư duy.
Chúc các bạn luôn đầy trí tuệ.
Mến,
Hoành
© copyright 2019
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
December 9, 2019
Đừng bám vào tôi
Chào các bạn,
Phật triết dạy rằng, nếu bạn “vô ngã” (không tôi) thì bạn được giác ngộ và thoát mọi khổ nạn – tức là thoát mọi tội lỗi.
Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời
Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách
Nghĩa là:
“Khi Bồ tát Quán-Tự-Tại thực hành sâu sắc Trí tuệ Bát Nhã giải thoát
Nhìn rõ tôi là không, ngài liền vượt qua mọi khổ nạn.”
Bát Nhã Tâm Kinh
Ngược lại, nếu bạn “chấp ngã” (bám vào tôi) thì bạn chìm trong tội lỗi.
Điều dạy này, nếu bạn để ý so sánh với mọi tôn giáo khác, thì rất lạ. Các tôn giáo, hoặc là các xã hội, đều nói rằng nếu bạn cướp của, giết người, lường gạt, dối trá… thì bạn tội lỗi và sa địa ngục. Nếu bạn không làm những tội lỗi đó thì bạn được lên thiên đàng.
So với những tôn giáo khác, giáo huấn về “ngã” của Phật triết khó hiểu hơn, bí ẩn hơn, kỳ lạ hơn, và thông minh hơn cả triệu lần.
Sở dĩ nhà Phật nói như thế về ngã (và vô ngã) vì “bám vào tôi” là đầu mối của tất cả mọi tội lỗi khác của loài người. Khi bạn bám vào cái tôi của bạn, bạn sa vào biển vô minh (không ánh sáng) và bạn chìm ngập trong tham sân si (tham lam, sân hận, si mê) và phạm đủ thứ tội lỗi.
Một tôn giáo khác có khái niệm cũng gần với ngã và vô ngã, đó là Công giáo. Công giáo dạy 7 mối tội đầu – tiếng Anh là seven cardinal sins, 7 tội lớn nhất. Và tội lớn số một trong 7 tội lớn này là tội kiêu ngạo.
Về triết lý thì chấp ngã (bám vào tôi) sâu sắc hơn kiêu ngạo rất nhiều. Nhưng ở mức thấp và dễ hiểu nhất, chúng ta có thể thấy kiêu ngạo chính là bám vào cái tôi. Người kiêu ngạo là người thấy cái tôi cực kỳ lớn và bám rất cứng vào cái tôi – ai nói chạm đến cái tôi là nổi điên lên ngay. Và kiêu ngạo cũng tạo ra mọi tội lỗi khác – nổi điên, thù hận, giết người, hại người – y như là chấp ngã.
Thế nghĩa là sao, các bạn?
Thế nghĩa là có một bài học về thiện ác rất sâu sắc, chính xác, và ở ngay trước mắt thế giới mấy ngàn năm nay, nhưng thế giới chẳng hiểu. Đó là:
“Khi bạn bám vào cái tôi của bạn, bạn là ác quỷ. Khi bạn không bám vào cái tôi của bạn, bạn là thiên thần.”
Giản dị thế. Ta không cần phải nói gì đến trộm cắp, cướp của, giết người, kinh kệ, lễ bái, nhang đèn, hay lảm nhảm đủ mọi thứ giáo điều, thần học hay triết học.
Và đó cũng là nguyên lý duy nhất của tư duy tích cực – hay chính xác hơn, “Tâm linh tích cực”: Nếu bạn không bám vào cái tôi của bạn, bạn thánh thiện và tích cực với chính bạn và với đời. Nếu bạn bám cứng vào cái tôi của bạn, bạn tội lỗi và tiêu cực với chính bạn và với đời.
Chú ý: Mình nói “bám vào cái tôi” và “không bám vào cái tôi”, mà không nói “bỏ cái tôi” như thiên hạ nói. Cụm từ “bỏ cái tôi” hay “xóa bỏ cái tôi” thường tạo hiểu lầm là bạn nên nhịn đói nhịn khát, nên tự đánh mình, nên tự làm cho mình gầy yếu bệnh hoạn, bạn chẳng nên có tài sản tiếng tăm quyền lực, bạn nên bỏ đời sống này, để có thể chết và tái sinh vào một kiếp sống cao hơn, như là Bồ tát hay được sống ở Thiên đàng cùng Chúa.
Các bạn, chúng ta không muốn “bỏ tôi”. Chúng ta có một cơ thể, một trí óc, và một tâm hồn, để nuôi dưỡng và phát triển càng ngày càng tốt. Chúng ta có nhiệm vụ nuôi dưỡng “tôi” thật tốt để chúng ta có thể chăm sóc đời và chăm sóc người thật tốt. Không có chuyện “bỏ tôi.”
Mình nói là không bám vào tôi. Tôi có đó nhưng tôi không bám vào tôi. Cho nên, khi thiên hạ chửi bới tôi, vì tôi không bám vào tôi nên tôi có cảm giác như tôi không có mặt ở đó, nên tôi chẳng nghe được tiếng chửi, nên tôi vẫn tĩnh lặng và hiền dịu như thường.
Hay tôi có cả một túi đầy tiền, nhưng tôi không bám vào tôi, nên tôi hành động như tôi không có mặt ở đây với một túi tiền, nên tôi không ăn nói kiêu căng với người nghèo, ngược lại tôi thấy tôi y hệt như một người nghèo khổ trên đường phố.
Không bám vào tôi là như thế. Đó là bước nhập môn của vô ngã. Bước nhập môn này đủ cho cả thế giới dùng. Thế giới không cần đến những bước sâu hơn của vô ngã trong Phật triết, là thứ chỉ cần cho các thầy Phật triết.
Cho nên các bạn, hãy giản dị hóa đời bạn. Khỏi cần học nhiều giáo điều, nhiều kinh sách, nhiều thuyết giảng. Hãy chỉ làm một điều: “Đừng bám vào cái tôi.”
Hãy nuôi dưỡng tôi, hãy phát triển tôi, nhưng đừng bám vào tôi.
Thế thì bạn sẽ có một tôi khỏe mạnh về thể xác, trong trẻo về tinh thần, và luôn cháy ngọn lửa tình yêu cho con người và cho thế giới.
Chúc bạn có được thiên đàng trong tâm.
Mến,
Hoành
© copyright 2019
Trần Đình Hoành
Permitted for non-commercial use
www.dotchuoinon.com
Trần Đình Hoành's Blog
- Trần Đình Hoành's profile
- 5 followers
